Kinh Di Giáo là bộ kinh đúc kết sau cùng của Đức Phật trước lúc tại thế với những ý từ tinh tế và tốt đẹp, sau đây Blog Kinh Phật sẽ gửi đến bạn đọc trọn bộ kinh điển này:
KINH DI GIÁO
HẬU TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP PHỤNG CHIẾU DỊCH
ĐOÀN TRUNG CÒN - NGUYỄN MINH TIẾN Việt dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính
Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao
chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép bằng văn bản của chúng tôi.
GPXB số 888-2010/CXB/46-139/TG
QĐXB số 766/QĐ-TG
In ấn và phát hành tại Nhà sách Quang Minh
416 Nguyễn Thị Minh Khai, P5, Q3, TP HCM Việt Nam
Published by arrangement between Huong Trang Cultural Company Ltd. and the
author.
All rights reserved. No part of this book may be reproduced by any means without
prior written permission from the publisher.
KINH
LỜI DẠY CUỐI CÙNG
[PHẬT THÙY BÁT NIẾT-BÀN
LƯỢC THUYẾT GIÁO GIỚI KINH]
[DIỆC DANH: PHẬT DI GIÁO KINH]
[ÂM - NGHĨA]
(HẬU TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP PHỤNG CHIẾU DỊCH)
ĐOÀN TRUNG CÒN - NGUYỄN MINH TIẾN Việt dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
5
NGHI THỨC KHAI KINH
(Phần nghi thức này không thuộc Kinh văn nhưng
cần tụng niệm trước để tâm thức được an tịnh
trước khi đi vào tụng đọc Kinh văan)
NIỆM HƯƠNG
(Thắp đèn đốt hương trầm, đứng ngay ngắn chắp
tay ngang ngực thầm niệm theo nghi thức dưới
đây.)
Tịnh pháp giới chân ngôn:
Án lam tóa ha.
(3 lần)
Tịnh tam nghiệp chân ngôn:
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt
ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám.
(3 lần)
(Chủ lễ thắp 3 cây hương, quỳ ngay ngắn nâng hương
lên ngang trán niệm bài Cúng hương sau đây.)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ Tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết thánh hiền.
Duyên khởi quang minh đài,
6
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
Xứng tánh tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ-đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.
(Chủ lễ xá 3 xá rồi đọc bài Kỳ nguyện dưới đây.)
KỲ NGUYỆN
Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng
kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công
đức, nguyện thập phương thường trú Tam
bảo, Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Tiếp Dẫn
Đạo Sư A-di-đà Phật... từ bi gia hộ đệ tử... ....
Pháp danh... .... phiền não đoạn diệt, nghiệp
chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường,
vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện âm siêu dương
thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh
tề thành Phật đạo.
(Cắm hương ngay ngắn vào lư hương rồi đứng
thẳng chắp tay niệm bài Tán Phật sau đây.)
TÁN PHẬT
Pháp vương vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất.
7
NGHI THỨC KHAI KINH
Thiên nhân chi Đạo sư,
Tứ sanh chi từ phụ.
Ư nhất niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp.
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.
QUÁN TƯỞNG
Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô tận hư
không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền thánh
tăng thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo
chủ Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương
lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, Đại trí Vănthù-sư-lợi
Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ
8
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn
Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương
Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật,
Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
(Từ đây bắt đầu khai chuông mõ, đại chúng
đồng tụng.)
TÁN HƯƠNG
Lư hương xạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam-mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma-hatát.
(3 lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi
tâm đà-la-ni.
9
NGHI THỨC KHAI KINH
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam
mô a rị da, bà lô yết đế, thơcs bát ra da, bồ
đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma
ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số
đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da
bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn
đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ
dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế,
ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát
bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà
dựng cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt
xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra,
địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ
mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất
na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa
phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra,
hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô
rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà
dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na,
ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha.
10
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ,
thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà
ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục
khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta
bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba
đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì
bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết
ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam
mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta
bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta
bà ha. (3 lần)
Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
(3 lần)
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
Nam-mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
(3 lần)
11
PHẬT DI GIÁO KINH
[PHẬT THÙY BÁT NIẾT-BÀN
LƯỢC THUYẾT GIÁO GIỚI KINH]
(Hậu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập phụng chiếu dịch)
ĐƯỜNG THÁI TÔNG PHẬT DI GIÁO
KINH THI HÀNH SẮC
Vãng giả, Như Lai diệt hậu, dĩ mạt đại
kiêu phù phó chúc quốc vương, đại thần
hộ trì Phật pháp. Nhiên, tăng ni xuất gia
giới hạnh tu bị. Nhược túng tình dâm dật,
xúc đồ phiền não, quan thiệp nhân gian,
động vi kinh luật, ký thất Như Lai huyền
diệu chi chỉ, hựu khuy quốc vương thọ phó
chi nghĩa.
Di giáo kinh giả, thị Phật lâm Niết-bàn
sở thuyết, giới khuyến đệ tử, thậm vi tường
yếu. Mạt tục tri tố tịnh bất sùng phụng. Đại
đạo tương ẩn, vi ngôn thả tuyệt.
Vĩnh hoài Thánh giáo, dụng tư hoằng
triển, nghi linh sở tư, sai thơ thủ thập nhân,
12
PHẬT DI GIÁO KINH
đa tả Kinh bổn, vụ tại thi hành. Sở tu chỉ,
bút, mặc đẳng, hữu tư chuẩn cấp. Kỳ quan
hoạn ngũ phẫm dĩ thượng cập chư châu thứ
sử, các phó nhất quyển. Nhược kiến Tăng
Ni hạnh nghiệp dữ Kinh văn bất đồng, nghi
công tư khuyến miễn, tất sử tuân hành.
[CHÁNH VĂN]
NHẤT – KINH TỰ
Thích-ca Mâu-ni Phật , sơ chuyển pháp
luân độ A-nhã Kiều-trần-như, tối hậu thuyết
pháp độ Tu-bạt-đà-la. Sở ưng độ giả, giai dĩ
độ ngật. Ư Sa-la song thọ gian, tương nhập
Niết bàn. Thị thời, trung dạ tịch nhiên vô
thanh. Vị chư đệ tử, lược thuyết pháp yếu.
NHỊ – TRÌ GIỚI
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Ư ngã diệt hậu, đương
tôn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa. Như
ám ngộ minh, bần nhân đắc bảo, đương tri
thử tắc thị nhữ đẳng đại sư. Nhược ngã trụ
thế, vô dị thử dã. Trì tịnh giới giả, bất đắc
13
PHẦN DỊCH ÂM
phán mại mậu dịch, an trí điền trạch, súc
dưỡng nhân dân, nô tỳ, súc sanh. Nhất thiết
chủng thực cập chư tài bảo, giai đương viễn
ly, như tỵ hỏa khanh. Bất đắc trảm phạt thảo
mộc, khẩn thổ, quật địa, hiệp hòa thang
dược, chiêm tướng kiết hung, ngưỡng quan
tinh tú, suy bộ doanh hư. Lịch số, toán kế,
giai sở bất ưng. Tiết thân, thời thực, thanh
tịnh tự hoạt. Bất đắc tham dự thế sự, thông
trí sứ mạng. Chú thuật, tiên dược, kết hảo
quý nhân, thân hậu tiết mạn, giai bất ưng
tác. Đương tự đoan tâm chánh niệm cầu độ.
Bất đắc bao tàng hà tỳ, hiển dị hoặc chúng.
Ư tứ cúng dường, tri lượng, tri túc. Thú đắc
cúng sự, bất ưng súc tích.
Thử tắc lược thuyết trì giới chi tướng.
Giới thị chánh thuận giải thoát chi bổn,
cố danh Ba-la-đề-mộc-xoa. Nhân y thử giới
đắc sanh chư thiền định cập diệt khổ trí
huệ. Thị cố tỳ-kheo đương trì tịnh giới, vật
linh hủy khuyết. Nhược nhân năng trì tịnh
giới, thị tắc năng hữu thiện pháp. Nhược vô
14
PHẬT DI GIÁO KINH
tịnh giới, chư thiện công đức giai bất đắc
sanh. Thị dĩ đương tri giới vi đệ nhất an ổn
công đức chi sở trụ xứ.
TAM – CHẾ TÂM
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Dĩ năng trụ giới,
đương chế ngũ căn, vật linh phóng dật,
nhập ư ngũ dục. Thí như mục ngưu chi
nhân, chấp trượng thị chi, bất linh túng
dật, phạm nhân miêu giá. Nhược túng ngũ
căn, phi duy ngũ dục tương vô nhai bạn,
bất khả chế dã, diệc như ác mã bất dĩ bí
chế, tương đương khiên nhân trụy ư khanh
hãm. Như bị kiếp hại, khổ chỉ nhất thế. Ngũ
căn tặc họa, ương cập lũy thế, vi hại thậm
trọng, bất khả bất thận. Thị cố trí giả chế
nhi bất tùy, trì chi như tặc, bất linh túng
dật. Giả linh túng chi, giai diệc bất cửu
kiến kỳ ma diệt
Thử ngũ căn giả, tâm vi kỳ chủ. Thị cố
nhữ đẳng đương hảo chế tâm. Tâm chi khả
úy, thậm ư độc xà, ác thú, oán tặc. Đại hỏa
việt dật, vị túc dụ dã.
15
PHẦN DỊCH ÂM
Thí như hữu nhân, thủ chấp mật khí,
động chuyển khinh táo, đản quan ư mật,
bất kiến thâm khanh. Thí như cuồng tượng
vô câu, viên hầu đắc thọ, đằng dược tráo
trịch, nan khả cấm chế. Đương cấp tỏa chi,
vô linh phóng dật. Túng thử tâm giả, táng
nhân thiện sự, chế chi nhất xứ, vô sự bất
biện.
Thị cố tỳ-kheo đương cần tinh tấn,
chiết phục nhữ tâm.
TỨ – TIẾT THỰC
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Thọ chư ẩm thực,
đương như phục dược. Ư hảo, ư ố, vật sanh
tăng giảm. Thú đắc chi thân, dĩ trừ cơ
khát. Như phong thái hoa, đản thủ kỳ vị,
bất tổn hương sắc. Tỳ-kheo diệc nhĩ, thọ
nhân cúng dường, thú tự trừ não, vô đắc đa
cầu, hoại kỳ thiện tâm. Thí như trí giả, trù
lượng ngưu lực sở kham đa thiểu, bất linh
quá phận, dĩ kiệt kỳ lực.
NGŨ – GIỚI THỤY MIÊN
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Trú tắc cần tâm tu
tập thiện pháp, vô linh thất thời. Sơ dạ, hậu
16
PHẬT DI GIÁO KINH
dạ, diệc vật hữu phế; trung dạ tụng kinh,
dĩ tự tiêu tức. Vô dĩ thụy miên nhân duyên
linh nhất sanh không quá, vô sở đắc dã.
Đương niệm vô thường chi hỏa thiêu chư
thế gian. Tảo cầu tự độ, vật thụy miên dã.
Chư phiền não tặc thường tứ sát nhân,
thậm ư oán gia. An khả thụy miên, bất tự
cảnh ngộ? Phiền não độc xà thụy tại nhữ
tâm, thí như hắc nguyên tại nhữ thất thụy.
Đương dĩ trì giới chi câu, tảo bính trừ chi.
Thụy xà ký xuất, nãi khả an miên. Bất xuất
nhi miên, thị vô tàm nhân.
Tàm sỉ chi phục, ư chi trang nghiêm,
tối vi đệ nhất. Tàm như thiết câu, năng
chế nhân phi pháp. Thị cố tỳ-kheo thường
đương tàm sỉ, vô đắc tạm thế. Nhược ly tàm
sỉ, tắc thất chư công đức.
Hữu quý chi nhân, tắc hữu thiện pháp.
Nhược vô quý giả, dữ chư cầm thú, vô tương
dị dã.
17
PHẦN DỊCH ÂM
LỤC – GIỚI SÂN NHUẾ
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Nhược hữu nhân
lai tiết tiết chi giải, đương tự nhiếp tâm,
vô linh sân hận; diệc đương hộ khẩu, vật
xuất ác ngôn. Nhược túng nhuế tâm, tắc tự
phương đạo, thất công đức lợi.
Nhẫn chi vi đức, trì giới, khổ hạnh sở
bất năng cập. Năng hành nhẫn giả, nãi khả
danh vi hữu lực đại nhân. Nhược kỳ bất
năng hoan hỷ nhẫn thọ ác mạ chi độc như
ẩm cam lộ giả, bất danh nhập đạo trí huệ
nhân dã.
Sở dĩ giả hà? Sân nhuế chi hại tắc phá
chư thiện pháp, hoại hảo danh văn; kim
thế, hậu thế nhân bất hỷ kiến.
Đương tri sân tâm thậm ư mảnh hỏa,
thường đương phòng hộ, vô linh đắc nhập.
Kiếp công đức tặc, vô quá sân nhuế. Bạch
y thọ dục, phi hành đạo nhân vô pháp tự
chế, sân du khả thứ. Xuất gia hành đạo vô
dục chi nhân, nhi hoài sân nhuế, thậm bất
khả dã! Thí như thanh lãnh vân trung, tịch
lịch khởi hỏa, phi sở ưng dã.
18
PHẬT DI GIÁO KINH
THẤT – GIỚI KIÊU MẠN
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Đương tự ma đầu,
dĩ xả sức hảo, trước hoại sắc y, chấp trì ứng
khí, dĩ khất tự hoạt. Tự kiến như thị, nhược
khởi kiêu mạn, đương tật diệt chi. Tăng
trưởng kiêu mạn, thượng phi thế tục bạch
y sở nghi, hà huống xuất gia nhập đạo chi
nhân, vị giải thoát cố, tự giáng kỳ thân nhi
hành khất da?
BÁT – GIỚI SIỂM KHÚC
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Siểm khúc chi tâm
dữ đạo tương vi. Thị cố nghi ưng chất trực
kỳ tâm. Đương tri siểm khúc đản vi khi
cuống, nhập đạo chi nhân tắc vô thị xứ. Thị
cố nhữ đẳng nghi đương đoan tâm, dĩ chất
trực vi bổn.
CỬU – THIỂU DỤC
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Đương tri đa dục chi
nhân, đa cầu lợi cố, khổ não diệc đa. Thiểu
dục chi nhân, vô cầu vô dục, tắc vô thử hoạn.
Trực nhĩ thiểu dục, thượng nghi tu tập, hà
19
PHẦN DỊCH ÂM
huống thiểu dục năng sanh chư công đức?
Thiểu dục chi nhân tắc vô siểm khúc dĩ cầu
nhân ý, diệc phục bất vi chư căn sở khiên.
Hành thiểu dục giả, tâm tắc thản nhiên, vô
sở ưu úy. Xúc sự hữu dư, thường vô bất túc.
Hữu thiểu dục giả, tắc hữu Niết-bàn. Thị
danh thiểu dục.
THẬP – TRI TÚC
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Nhược dục thoát
chư khổ não, đương quán tri túc. Tri túc
chi pháp, tức thị phú lạc, an ổn chi xứ. Tri
túc chi nhân tuy ngọa địa thượng, du vi an
lạc. Bất tri túc giả, tuy xử thiên đường, diệc
bất xứng ý! Bất tri túc giả, tuy phú nhi bần.
Tri túc chi nhân, tuy bần nhi phú. Bất tri
túc giả, thường vi ngũ dục sở khiên, vi tri
túc giả chi sở lân mẫn. Thị danh tri túc.
THẬP NHẤT – VIỄN LY
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Dục cầu tịch tĩnh,
vô vi, an lạc, đương ly hội náo, độc xử nhàn
cư.
20
PHẬT DI GIÁO KINH
Tĩnh xử chi nhân, Đế-thích, chư thiên
sở cộng kính trọng. Thị cố đương xả kỷ
chúng, tha chúng, không nhàn độc xử, tư
diệt khổ bổn. Nhược nhạo chúng giả, tắc
thọ chúng não. Thí như đại thọ, chúng điểu
tập chi, tắc hữu khô chiết chi hoạn. Thế
gian phược trước, một ư chúng khổ. Thí
như lão tượng nịch nê, bất năng tự xuất.
Thị danh viễn ly.
THẬP NHỊ – TINH TẤN
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Nhược cần tinh tấn,
tắc sự vô nan giả. Thị cố nhữ đẳng đương
cần tinh tấn. Thí như tiểu thủy trường lưu,
tắc năng xuyên thạch. Nhược hành giả chi
tâm sác sác giải phế, thí như toàn hỏa, vị
nhiệt nhi tức. Tuy dục đắc hỏa, hỏa nan
khả đắc. Thị danh tinh tấn.
THẬP TAM – BẤT VONG NIỆM
Nhữ đẵng tỳ-kheo! Cầu thiện tri thức,
cầu thiện hộ trợ, vô như bất vong niệm.
Nhược hữu bất vong niệm giả, chư phiền
21
PHẦN DỊCH ÂM
não tặc tắc bất năng nhập. Thị cố nhữ đẳng
thường đương nhiếp niệm tại tâm. Nhược
thất niệm giả, tắc thất chư công đức. Nhược
niệm lực kiên cường, tuy nhập ngũ dục tặc
trung, bất vi sở hại. Thí như trước khải
nhập trận, tắc vô sở úy. Thị danh bất vong
niệm.
THẬP TỨ – THIỀN ĐỊNH
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Nhược nhiếp tâm
giả, tâm tắc tại định. Tâm tại định cố, năng
tri thế gian sanh diệt pháp tướng. Thị cố
nhữ đẳng thường đương tinh tấn tu tập
chư định. Nhược đắc định giả, tâm tắc bất
tán. Thí như tích thủy chi gia, thiện trì đê
đường. Hành giả diệc nhĩ, vị trí huệ thủy
cố, thiện tu thiền định, linh bất lậu thất.
Thị danh vi định.
THẬP NGŨ – TRÍ HUỆ
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Nhược hữu trí huệ,
tắc vô tham trước, thường tự tỉnh sát, bất
linh hữu thất. Thị tắc ư ngã pháp trung,
22
PHẬT DI GIÁO KINH
năng đắc giải thoát. Nhược bất nhĩ giả, ký
phi đạo nhân, hựu phi bạch y, vô sở danh
dã. Thật trí huệ giả tắc thị độ lão bệnh tử
hải kiên lao thuyền dã, diệc thị vô minh
hắc ám đại minh đăng dã; nhất thiết bệnh
giả chi lương dược dã; phạt phiền não thọ
chi lợi phủ dã. Thị cố nhữ đẳng đương dĩ
văn tư tu huệ nhi tự tăng ích. Nhược nhân
hữu trí huệ chi chiếu, tuy thị nhục nhãn,
nhi thị minh kiến nhân dã. Thị danh trí
huệ.
THẬP LỤC – BẤT HÝ LUẬN
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Nhược chủng chủng
hý luận, kỳ tâm tắc loạn. Tuy phục xuất gia,
du vị đắc thoát. Thị cố tỳ-kheo đương cấp
xả ly loạn tâm hý luận. Nhược nhữ đẳng
dục đắc tịch diệt lạc giả, duy đương thiện
diệt hý luận chi hoạn. Thị danh bất hý luận.
THẬP THẤT – TỰ MIỄN
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Ư chư công đức,
thường đương nhất tâm. Xả chư phóng dật,
23
PHẦN DỊCH ÂM
như ly oán tặc. Đại bi Thế Tôn sở thuyết lợi
ích, giai dĩ cứu cánh. Nhữ đẳng đản đương
cần nhi hành chi. Nhược ư sơn gian, nhược
không trạch trung, nhược tại thọ hạ, nhàn
xử tĩnh thất, niệm sở thọ pháp, vật linh
vong thất. Thường đương tự miễn, tinh tấn
tu chi. Vô vi không tử, hậu trí hữu hối.
Ngã như lương y, tri bệnh thuyết dược.
Phục dữ bất phục, phi y cữu giã. Hựu như
thiện đạo, đạo nhân thiện đạo. Văn chi bất
hành, phi đạo quá dã.
THẬP BÁT – QUYẾT NGHI
Nhữ đẳng nhược ư khổ đẳng Tứ đế, hữu
sở nghi giả, khả tật vấn chi. Vô đắc hoài
nghi, bất cầu quyết dã.
Nhĩ thời, Thế Tôn như thị tam xướng,
nhân vô vấn giả. Sở dĩ giả hà? Chúng vô
nghi cố.
Thời, A-nậu-lâu-đà quán sát chúng
tâm, nhi bạch Phật ngôn:
24
PHẬT DI GIÁO KINH
Thế-Tôn! Nguyệt khả linh nhiệt, nhật
khả linh lãnh, Phật thuyết Tứ đế bất khả
linh dị. Phật thuyết Khổ đế thật khổ, bất
khả linh lạc. Tập chân thị nhân, cánh vô
dị nhân. Khổ nhược diệt giả, tức thị nhân
diệt. Nhân diệt, cố quả diệt. Diệt khổ chi
đạo, thật thị chân đạo, cánh vô dư đạo.
Thế Tôn! Thị chư tỳ-kheo, ư Tứ đế
trung, quyết định vô nghi.
THẬP CỬU – CHÚNG SANH ĐẮC ĐỘ
Ư thử chúng trung, sở tác vị biện giả,
kiến Phật diệt độ, đương hữu bi cảm. Nhược
hữu sơ nhập pháp giả, văn Phật sở thuyết,
tức giai đắc độ. Thí như dạ kiến điện quang,
tức đắc kiến đạo. Nhược sở tác dĩ biện, dĩ
độ khổ hải giả, đản tác thị niệm: Thế Tôn
diệt độ, nhất hà tật tai?
A-nậu-lâu-đà tuy thuyết thị ngữ, chúng
trung giai tất liễu đạt Tứ thánh đế nghĩa.
25
PHẦN DỊCH ÂM
Thế-Tôn dục linh thử chư đại chúng
giai đắc kiên cố, dĩ đại bi tâm, phục vị
chúng thuyết:
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Vật hoài bi não.
Nhược ngã trụ thế nhất kiếp, hội diệc
đương diệt. Hội nhi bất ly, chung bất khả
đắc. Tự lợi, lợi tha, pháp giai cụ túc. Nhược
ngã cửu trụ, cánh vô sở ích. Ưng khả độ
giả, nhược thiên thượng, nhân gian, giai
tất dĩ độ. Kỳ vị độ giả, giai diệc dĩ tác đắc
độ nhân duyên.
NHỊ THẬP – PHÁP THÂN THƯỜNG TẠI
Tự kim dĩ hậu, ngã chư đệ tử triển
chuyển hành chi, tắc thị Như Lai Pháp thân
thường tại nhi bất diệt dã. Thị cố đương tri
thế giai vô thường, hội tất hữu ly. Vật hoài
ưu não.
Thế tướng như thị. Đương cần tinh tấn,
tảo cầu giải thoát, dĩ trí huệ minh, diệt chư
si ám. Thế thật nguy tụy, vô kiên lao giả.
26
PHẬT DI GIÁO KINH
Ngã kim đắc diệt, như trừ ác bệnh. Thử thị
ưng xả tội ác chi vật, giả danh vi thân, một
tại lão, bệnh, sanh, tử đại hải. Hà hữu trí
giả đắc trừ diệt chi, như sát oán tặc, nhi
bất hoan hỷ?
NHỊ THẬP NHẤT – KẾT LUẬN
Nhữ đẳng tỳ-kheo! Thường đương nhất
tâm, cần cầu xuất đạo. Nhất thiết thế gian
động bất động pháp, giai thị bại hoại bất an
chi tướng. Nhữ đẳng thả chỉ, vật đắc phục
ngữ. Thời tương dục quá, ngã dục diệt độ.
Thị ngã tối hậu chi sở giáo hối.
PHẬT DI GIÁO KINH
CHUNG
27
PHẦN DỊCH NGHĨA
KINH
LỜI DẠY CUỐI CÙNG
(Đời Hậu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập vâng chiếu dịch)
SẮC CHỈ CỦA VUA ĐƯỜNG THÁI TÔNG
VỀ VIỆC THỰC HÀNH
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
Đức Như Lai xưa trước khi diệt độ,
biết rằng về đời mạt pháp con người rồi sẽ
khinh bạc quá độ, nên phó chúc cho hàng
quốc vương, đại thần hộ trì Phật pháp. Dù
vậy, hàng tăng ni xuất gia tự phải nên đầy
đủ giới hạnh. Nếu lại buông thả tình ý vào
đường dâm dật, vướng vít phiền não, qua
lại chốn thế gian, làm trái với kinh luật,
tức là đánh mất ý chỉ huyền diệu của Như
Lai, lại phụ nghĩa hàng quốc vương nhận
lời phó chúc.
28
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
Kinh Di giáo này do Phật thuyết giảng
lúc sắp nhập Niết-bàn, khuyên nhủ hàng
đệ tử, lời lẽ rất rõ ràng, thiết yếu. Thế mà
những kẻ xuất gia và tại gia đời mạt pháp
đều chẳng tôn trọng làm theo. Đại đạo vì
thế sắp phải ẩn khuất, lời vi diệu ắt phải
tuyệt dứt đi!
Trẫm hằng nhớ tưởng Thánh giáo,1
muốn rộng truyền ra, nên sắc cho quan
thuộc sai mười người hay chữ, sao chép
kinh này ra nhiều bản, là nhắm đến việc
phải làm theo kinh. Những thứ cần dùng
như giấy, bút, mực... quan hữu tư phải lo
cung cấp.
Hết thảy quan viên từ ngũ phẩm trở
lên, cùng thứ sử các châu, mỗi người được
trao cho một quyển. Nếu ai thấy đức hạnh,
việc làm của hàng tăng ni mà không phù
hợp theo kinh này, thì nên lấy cả phép công
lẫn tình riêng mà khuyên nhủ, khiến cho
phải làm theo.
1
Thánh giáo: Chỉ kinh điển của Phật thuyết. Vì lời dạy của Phật được xem như lời
bậc Thánh, nên gọi là Thánh giáo.
29
PHẦN DỊCH NGHĨA
1. TỰA KINH
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni,1 lúc mới
Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trầnnhư,
đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ
ông Tu-bạt-đà-la.2 Khi những người đáng
độ đã độ hết rồi, ở giữa hai cây Sa-la3 ngài
sắp nhập Niết-bàn. Bấy giờ là nửa đêm,
khắp nơi yên lặng không một âm thanh gì,
Phật vì hàng đệ tử mà lược thuyết những
chỗ cốt yếu trong giáo pháp.4
1
Phật Thích-ca Mâu-ni (Śākyamuni Buddha): Phật, hay Phật-đà (Buddha), Hán dịch
là Giác giả, vì ngài có đủ ba đức của tánh giác: 1. Tự giác (Tự mình giác ngộ), 2.
Giác tha (Giác ngộ cho kẻ khác), 3. Giác hạnh viên mãn (Chỗ giác ngộ và chỗ
thực hành đều trọn vẹn). Thích-ca Mâu-ni (Śākyamuni), Hán dịch là Năng Nhân,
nghĩa là có đủ năng lực và lòng nhân từ. Ngài đản sanh năm 564 trước Dương
lịch, nhập Niết-bàn năm 479 trước Dương lịch.
2
Tu-bạt-đà-la, Hán dịch là Thiện Hiền. Trong hàng đệ tử xuất gia của Phật, Ông
Kiều-trần-như là người đầu tiên đắc quả A-la-hán, Ông Tu-bạt-đà-la là người sau
cùng đắc quả A-la-hán. Khi Phật sắp vào Niết-bàn, vị tu sĩ ngoại đạo Tu-bạt-đà-la
được 120 tuổi đến cầu nghe Pháp. Nghe xong, thọ giới xuất gia làm tỳ-kheo và
liền đó đắc quả A-la-hán.
3
Sa-la (Sāla), tên một loại cây lớn mọc thành rừng, hoa rất thơm, đẹp, Hán dịch là
Kiên cố. Trong rừng sa-la gần thành Câu-thi-na, có hai cây mọc song song (Sa-la
song thọ). Phật chọn nơi ấy làm chỗ nhập Niết bàn.
4
Tuy Phật đã thuyết rất nhiều bộ kinh trong suốt thời gian trụ thế, nhưng trước lúc
nhập Niết-bàn, ngài vì lòng từ mẫn nên lược nói những chỗ cốt yếu nhất để dặn
dò hàng đệ tử. Người đệ tử Phật ít nhất cũng phải ghi nhớ và làm theo những chỗ
cốt yếu này vậy.
30
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
2. GIỮ GIỚI LUẬT
(Phần Chánh tông)
“Tỳ-kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt,
nên tôn trọng, cung kính đối với giới luật,1
như ở chỗ tối tăm được thấy ánh sáng; như
người nghèo được của báu. Nên biết rằng
giới luật là thầy của các ông, cũng như ta
đây còn trụ thế, không hề khác biệt.
“Người giữ giới trong sạch không được
làm việc buôn bán đổi chác; mua giữ ruộng
đất, nhà cửa; nuôi dưỡng nô tỳ, súc vật để
cầu lợi. Tất cả những loại giống cây trồng
cùng mọi thứ của cải quý báu đều phải nên
xa lánh, như tránh xa hầm lửa vậy. Không
được đốn chặt cây cỏ, cày ruộng, đào đất;
bào chế thuốc thang; xem tướng lành dữ;
nhìn sao trên trời để suy lường vận mệnh
nên hư. Những việc xem ngày giờ tốt xấu
đều chẳng nên làm.
1
Giới luật, hay Ba-la-đề-mộc-xoa, cũng gọi là Giới bổn, Giới hạnh, Biệt giải thoát,
Tùy thuận giải thoát, đều chỉ chung cho tất cả những giới luật mà người xuất gia
phải tuân theo, gìn giữ. Ba-la-đề-mộc-xoa của tỳ-kheo gồm có 250 giới. Ba-la-đề-
mộc-xoa của tỳ-kheo ni gồm có 348 giới.
31
PHẦN DỊCH NGHĨA
“Hãy dè dặt giữ mình có tiết độ, ăn uống
đúng giờ,1 nuôi sống bằng cách trong sạch.
Không được tham dự những công việc của
người đời, làm người đưa tin, làm sứ giả.
Những việc như luyện chú thuật, thuốc
tiên; giao hảo với người sang trọng, khinh
thường kẻ thân cận gần gũi, đều không nên
làm.
“Phải tự mình luôn giữ chánh niệm,
tâm ngay thẳng cầu thoát sanh tử. Không
được che giấu lỗi lầm, hay làm những việc
dị thường để mê hoặc người khác. Đối với
bốn món được cúng dường2 nên có chừng
mực, biết vừa đủ. Khi được cúng dường,
chẳng nên chứa trữ lại.
“Đó là nói sơ qua hình tướng của việc
giữ giới.3 Giới luật chính là thuận theo gốc
1
Người xuất gia chỉ ăn mỗi ngày một bữa, vào giờ ngọ. Quá giờ thì thà nhịn đói chứ
không ăn.
2
Bốn món cúng dường: (Tứ cúng dường hay Tứ sự cúng dường) là bốn món thiết yếu
nhất, người tu cần có đủ để duy trì cuộc sống. Đó là: đồ ăn uống, y phục, giường
ghế, thuốc thang.
3
Hình tướng của việc giữ giới (Trì giới chi tướng), nghĩa là mới nói những điều nhìn
thấy bên ngoài mà thôi. Người giữ giới, ngoài việc giữ theo hình tướng, còn phải
luôn giữ tâm thanh tịnh, giới luật tại tâm mình. Nếu trong tâm nghĩ điều trái với
giới luật, cũng là phạm giới, dù chưa có tướng phá giới hiện ra bên ngoài.
32
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
của giải thoát, cho nên gọi là Tùy thuận
giải thoát. Nhờ nương theo giới luật mà
sanh ra các môn thiền định và trí huệ diệt
khổ.1 Vì vậy mà tỳ-kheo phải giữ giới trong
sạch, không để có sự hủy phạm, thiếu sót.
Nếu ai giữ giới trong sạch, ắt được các
pháp lành. Nếu không giữ giới trong sạch,
thì các công đức lành đều chẳng thể sanh
ra. Nên phải biết rằng, giới luật là chỗ trụ
an ổn bậc nhất sanh các công đức.”
3. CHẾ TÂM
“Tỳ-kheo các ông! Đã có thể trụ yên
nơi giới rồi, nên chế ngự năm căn,2 chớ
để phóng dật, chạy theo năm dục.3 Ví như
1
Nhân giới sanh định, nhân định phát huệ. Theo ý này thì giới luật là căn bản, là
chỗ xuất phát trước nhất của người cầu đạo giải thoát, cũng là chiếc phao nổi phải
luôn luôn giữ gìn nếu muốn vượt qua biển khổ sanh tử.
2
Năm căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Năm căn ở trong, đối với năm trần ở ngoài, có
sức phát sanh sự nhận biết, sự ham muốn, nên gọi là căn (gốc). Nếu nói sáu căn
thì thêm ý căn.
3
Năm dục: Năm loại cảm xúc, ham muốn. Đối với hình sắc đẹp, mắt ham muốn
nhìn; đối với âm thanh êm dịu, tai ham muốn được nghe; đối với mùi thơm, mũi
ham muốn ngửi; đối với mùi vị ngon ngọt, miệng lưỡi ham muốn nếm qua; đối với
sự mềm mại, thân thể ham muốn sự đụng cọ.
33
PHẦN DỊCH NGHĨA
người chăn bò, cầm gậy canh giữ, chẳng để
cho tự do chạy bậy, xâm phạm ruộng người.
“Nếu buông thả năm căn, chẳng những
là chúng chạy theo năm dục không có giới
hạn, không thể chế ngự được, lại như ngựa
dữ không dây cương kiềm chế, sẽ lôi người
xuống hầm hố. Như bị giặc cướp làm hại,
chỉ khổ một đời này thôi, nhưng bị giặc
năm căn gây hại, khổ nạn kéo dài nhiều
kiếp, lại rất nặng nề, không thể không thận
trọng.
“Vậy nên người có trí chế ngự các căn,
chẳng hề tùy theo; phòng giữ như giặc
cướp, không để buông thả. Nếu buông thả
ra, chẳng bao lâu ắt phải diệt mất vì xúc
chạm.
“Tâm là chủ của năm căn. Vậy nên các
ông phải khéo chế ngự tâm. Tâm rất đáng
sợ, hơn cả rắn độc, thú dữ, kẻ giặc thù, nạn
lửa lớn tràn lan... Những thí dụ như thế
cũng còn chưa đủ. Sự nguy cấp giống như
34
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
người tay cầm bát mật, đi lại nhanh nhẹn,
mắt chỉ nhìn vào mật nên chẳng thấy cái hố
rất sâu dưới chân; như con voi điên không
có móc sắt để kiềm giữ; lại như con vượn
được lên cây, mặc tình nhảy nhót, khó bề
ngăn cấm, chế ngự. Phải mau mau kiềm
chế, chớ để phóng dật. Nếu buông thả tâm,
tất cả việc lành sẽ bị hủy hoại mất; chế ngự
được tâm rồi, không việc gì không xong.
“Vậy nên chư tỳ-kheo phải siêng năng
tinh tấn, chế ngự1 cho được tâm.”
4. ĂN UỐNG CÓ TIẾT ĐỘ
“Tỳ-kheo các ông! Khi ăn uống nên
xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon
dù dở cũng chỉ dùng đúng mức,2 đưa vào
thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.
1
Chế ngự cho được tâm (chiết phục nhữ tâm): Hiểu sát nghĩa là bẻ gãy được sức
mạnh của tâm, khuất phục được tâm. Ở đây nói đến tâm bất thiện, nên chúng tôi
dịch là chế ngự được.
2
Dù ngon, dù dở, cũng chỉ dùng đúng mức (ư hảo, ư ố, vật sanh tăng giảm): Không
vì món ngon mà ăn nhiều hơn, không vì món dở mà ăn ít lại, nên dịch là “dùng
đúng mức”.
35
PHẦN DỊCH NGHĨA
“Như con ong hút mật, chỉ lấy nhụy hoa
mà chẳng làm tổn hại hương sắc. Tỳ-kheo
cũng vậy, nhận sự cúng dường của người
ta đủ trừ đói khát, chẳng được tham cầu
nhiều, tổn hại đến lòng lành của người; như
kẻ khôn ngoan biết lượng sức con bò kéo,
chẳng ép quá nặng khiến phải kiệt sức.”
5. ĐỪNG THAM NGỦ NHIỀU
“Tỳ-kheo các ông! Trọn ngày nên siêng
năng tu tập thiện pháp, chẳng phí thời
gian. Ban đêm, cũng chẳng nên bỏ mất lúc
đầu hôm và lúc gần sáng. Còn lúc nửa đêm,
lấy việc tụng kinh để tự biết mình. Đừng để
việc ngủ mê làm cho một đời phải uổng phí
không được gì cả. Thường nhớ đến ngọn
lửa vô thường luôn thiêu đốt cõi thế, sớm
lo cầu độ thoát lấy mình, chẳng ham mê
ngủ. Giặc phiền não thường luôn rình rập
giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao
còn ham ngủ mà chẳng tự thức tỉnh? Con
36
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
rắn độc phiền não đang ngủ trong tâm, như
con trăn dữ đang ngủ trong nhà. Hãy dùng
cái móc sắt trì giới mà sớm trừ bỏ đi. Con
rắn mê ngủ ấy trừ được rồi, mới có thể ngủ
yên được.1 Chưa trừ được rắn ấy mà vẫn
ngủ là không biết tự hổ thẹn.
“Lấy sự tự hổ thẹn làm trang phục, đó
là bậc nhất trong các món trang sức làm
đẹp. Hổ thẹn giống như cái móc sắc, có thể
giúp chế ngự được việc làm sai trái. Nên
tỳ-kheo thường luôn phải biết tự hổ thẹn,
không lúc nào lơ đễnh. Nếu mình lìa khỏi
sự hổ thẹn, ắt phải mất hết các công đức.
“Người biết xấu hổ thì mới làm được
điều lành. Kẻ không biết xấu hổ, chẳng
khác chi loài cầm thú.”2
1
Cũng như việc ăn uống, tỳ-kheo ngủ nghỉ chỉ vừa đủ dưỡng thân không tật bệnh.
Nên phải trừ được tánh ham ngủ rồi mới ngủ. Khi ấy, tuy ngủ nhưng không ham
mê quá độ. Chưa trừ được tánh ham ngủ tức là còn bị tham đắm.
2
Trong đoạn này phải phân biệt hai ý. Trước nói đến tự hổ thẹn (tàm), đó là tự mình
biết việc xấu đã làm mà thấy hổ thẹn, ăn năn, không muốn tái phạm. Sau nói đến
xấu hổ (quý), đó là khi người khác biết việc xấu mình làm, thì lòng thấy xấu hổ,
cũng do đó mà lần sau không dám tái phạm. Hai loại cảm xúc này có vẻ giống
như nhau nhưng chỉ khác ở chỗ: “tàm” là tự mình hổ thẹn với lương tâm mình,
cho dù không ai biết việc sai trái của mình, còn “quý” là xấu hổ khi có người khác
biết đến. Trong kinh Phật rất thường nhắc đến hai từ này đi đôi với nhau, vì người
có đủ 2 đức ấy mới thật sự lìa được các việc không tốt.
37
PHẦN DỊCH NGHĨA
6. KHÔNG NÓNG GIẬN
“Tỳ-kheo các ông! Nếu có người đến cắt
xẻo thân thể ra từng mảnh, hãy tự nhiếp
tâm không nên nóng giận; cũng phòng hộ
nơi miệng, chớ nói lời ác độc. Nếu buông
thả tâm nóng giận là tự mình làm hại đạo,
mất hết lợi ích công đức.
“Nhẫn nhục là đức tính mà trì giới với
khổ hạnh cũng chẳng bì kịp. Người có thể
nhẫn nhục mới đáng gọi là bậc đại nhân có
sức mạnh. Như người chẳng thể vui lòng
nhận lời mắng chửi độc ác như uống nước
cam lộ, thì chẳng thể gọi là bậc trí huệ đã
nhập đạo. Tại sao vậy? Cái hại của sự nóng
giận là phá hoại các pháp lành, làm mất
danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời
sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.
“Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn
cả lửa dữ, phải thường phòng hộ, không để
cho nhập vào. Giặc cướp công đức, không
gì hơn tâm nóng giận. Người thế tục thọ
hưởng dục lạc, chẳng phải người hành đạo
38
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
nên không có cách tự chế, nóng giận còn có
thể tha thứ được; như người xuất gia hành
đạo, không tham dục, mà còn ôm giữ sự
nóng giận, thật không thể được. Như giữa
trời xanh trong mát mà có sấm sét nảy lửa,
thật không phải việc đáng có.”
7. ĐỪNG KIÊU MẠN
“Tỳ-kheo các ông! Khi tự xoa đầu1 nhớ
rằng đã xả bỏ những món trang sức đẹp,
mặc áo hoại sắc,2 ôm giữ ứng khí3 lấy việc
xin ăn mà nuôi sống. Tự thấy như vậy, nếu
khởi tâm kiêu mạn4 thì hãy mau trừ bỏ đi.
Người thế tục còn chẳng nên để lòng kiêu
mạn tăng trưởng, huống chi là những kẻ
1
Tự xoa đầu (tự ma đầu): lấy tay xoa đầu để tự nhắc nhở, mình đã là người cạo tóc
xuất gia, tức nhiên không còn muốn đeo mang những món trang điểm như người
thế gian. Trong quyển Tỳ-kheo mẫu luận có chép: “Sở dĩ cạo tóc là để trừ bỏ lòng
kiêu mạn.”
2
Áo hoại sắc, tức là áo cà-sa: Người xuất gia mặc y phục đều phải nhuộm cho mất
màu vải đi, cho mất giá trị theo thế gian của y phục ấy. Vì vậy nên gọi là áo hoại
sắc (hoại sắc y), nghĩa là làm mất màu đi rồi. Thường thì nhuộm màu vàng, hoặc
màu nâu.
3
Ứng khí, tức là bình bát của người xuất gia, cũng gọi là ứng lượng khí, nghĩa là
món đồ đựng vật thực cúng dường vừa đủ một bữa ăn.
4
Kiêu mạn: Tự xem mình là tài giỏi, tốt đẹp hơn kẻ khác (cho dù không đúng vậy),
nên khinh thường chẳng tôn trọng ai.
39
PHẦN DỊCH NGHĨA
xuất gia nhập đạo đã vì muốn được giải
thoát mà tự hạ mình đi xin ăn?”
8. TRỪ TÂM SIỂM KHÚC
“Tỳ-kheo các ông! Tâm siểm khúc1 là
trái với đạo. Vì vậy nên cần phải giữ lòng
chơn chất, ngay thẳng.2 Nên biết rằng tâm
siểm khúc chỉ là để lừa dối. Người nhập
đạo ắt không như vậy. Các ông nên giữ lòng
đoan chánh, lấy sự chơn chất ngay thẳng
làm gốc.”
9. ÍT HAM MUỐN
“Tỳ-kheo các ông! Nên biết rằng người
nhiều ham muốn luôn cầu được nhiều món
lợi, nên khổ não cũng nhiều.3
Người ít ham
muốn không bị sự mong cầu, ham muốn gây
1
Siểm khúc: Siểm là nịnh hót, bợ đỡ kẻ quyền thế; khúc là cong vạy, chẳng ngay
thẳng, tức là lòng dối trá chẳng theo đúng sự thật. Nói siểm khúc, vì hai nết xấu
này đi đôi với nhau. Đã muốn nịnh hót, bợ đỡ, tất chẳng thể nói lời ngay thật
được.
2
Chơn chất ngay thẳng (chất trực) Lòng ngay thẳng, có sao nói vậy, không vì bất cứ
tác động nào mà gian dối, bóp méo sự thật. Vì sự đối nghịch giữa hai tính chất,
nên người chất trực thì không thể mắc lỗi siểm khúc.
0
Khởi tâm tham cầu nhiều, dù được hay không được cũng đều vướng vào khổ não.
Ví như cầu được, sự ham muốn cũng chẳng thể thỏa mãn, vì nó thật không có giới
hạn. Như cầu không được thì tất nhiên là phải sanh khổ não.
40
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
ra cái hại ấy. Chỉ một việc ít ham muốn đó,
rất nên tu tập; huống chi ít ham muốn lại có
thể sanh ra các công đức nữa?
“Người ít ham muốn thì không có tâm
siểm khúc để cầu cho được vừa lòng người,
lại cũng không bị các căn dắt dẫn.1 Người
thực hành ít ham muốn thì lòng được thản
nhiên, không lo sợ chi cả; cho dù gặp việc
thế nào cũng tự thấy đầy đủ. Giữ tâm ít
ham muốn, ắt được Niết-bàn.2
“Như vậy gọi là ít ham muốn.”
10. BIẾT ĐỦ
“Tỳ-kheo các ông! Nếu muốn thoát
khỏi mọi khổ não, nên quán xét việc biết
đủ.3 Phép biết đủ chính là chỗ giàu có, vui
vẻ, an ổn. Người biết đủ dù nằm trên mặt
đất, vẫn thấy yên vui. Người không biết đủ,
dù ở trên cảnh trời cũng chưa thỏa ý.
1
Do ham muốn nên năm căn chạy theo năm trần, dắt dẫn, thúc giục người ta tạo
các ác nghiệp. Trừ được ham muốn thì chế phục được năm căn, chẳng bị chúng
dắt dẫn nữa.
2
Nếu hiểu Niết-bàn là an vui tự tại, thì người ít ham muốn ắt có thể được hưởng
cảnh an vui tự tại đó ngay tức khắc, chẳng đợi đến kiếp sau.
3
Tâm tham muốn không có giới hạn. Biết đủ tức là nhận biết nhu cầu thực sự của
mình, chỉ cần đáp ứng vừa đủ, không vì lòng tham mà cầu nhiều hơn.
41
PHẦN DỊCH NGHĨA
“Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo.
Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kẻ không
biết đủ thường bị năm dục dắt dẫn, nên
người biết đủ lấy làm thương xót lắm.
“Như vậy gọi là sự biết đủ.”
11. XA LÌA
“Tỳ-kheo các ông! Muốn cầu tịch tĩnh,
vô vi, an lạc, nên lìa chỗ tụ họp huyên náo,
một mình ở nơi thanh vắng. Người ở nơi
yên tĩnh, Đế-thích và chư thiên đều kính
trọng. Vì vậy, chúng hội của mình, của
người khác1 đều nên xả bỏ, đến ở một mình
nơi chỗ thanh vắng, suy nghĩ mà diệt tận
gốc khổ.
“Nếu ưa thích nơi chúng hội, tất phải chịu
mọi khổ não. Ví như cây lớn, có nhiều chim
chóc tụ họp, tất không khỏi mối họa cành
nhánh khô gãy. Bị vướng buộc vào cảnh thế
1
Chúng hội: nhóm người tụ tập lại, cùng sống với nhau vì một mục đích chung.
Chúng hội của mình, là chúng hội do mình đứng đầu, cai quản. Chúng hội của
người khác là chúng hội mà mình nương nhờ theo, do người khác chủ quản.
42
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
tục, tất phải chìm đắm trong bể khổ, như con
voi già sa lầy, chẳng thể tự ra khỏi được.
“Như vậy gọi là sự xa lìa.”
12. TINH TẤN
“Tỳ-kheo các ông! Nếu chuyên cần tinh
tấn thì không có việc chi là khó. Bởi vậy,
các ông nên chuyên cần tinh tấn. Ví như
dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm
mòn thủng được hòn đá. Nếu trong tâm
người tu giải đãi, biếng nhác, cũng giống
như người xát cây lấy lửa, chưa nóng đã
vội ngưng nghỉ.1 Dù người ấy muốn được
lửa cũng khó mà được.
“Như vậy gọi là sự tinh tấn.”
13. KHÔNG MẤT CHÁNH NIỆM
“Tỳ-kheo các ông! Cầu được bậc thiện
tri thức, cầu được người khéo phù trợ, cũng
không bằng chẳng để mất chánh niệm. Nếu
1
Thời xưa chưa có những phương tiện như diêm quẹt, máy lửa, nên muốn lấy lửa thì
dùng hai thanh cây khô có độ ma sát cao để chà xát vào nhau thật lâu, bên cạnh
để một nắm bùi nhùi dễ bắt lửa. Nhờ chà xát lâu, nóng lên mà có lửa.
43
PHẦN DỊCH NGHĨA
người không mất chánh niệm, giặc phiền
não chẳng xâm nhập được. Vậy nên các ông
phải thường thâu nhiếp chánh niệm trong
tâm. Nếu để mất chánh niệm thì mất hết
công đức. Như niệm lực được mạnh mẽ, bền
bỉ, thì dù vào giữa đám giặc năm dục cũng
chẳng bị hại; cũng như mặc áo giáp ra trận
thì không sợ chi cả.
“Như vậy gọi là không mất chánh
niệm.”
14. THIỀN ĐỊNH
“Tỳ-kheo các ông! Nếu người nhiếp tâm
thì tâm được định. Nhờ tâm được định, có
thể biết được các tướng của pháp sanh diệt
ở thế gian. Vậy nên các ông thường phải
tinh tấn tu tập các phép định. Nếu người
được định thì tâm chẳng tán loạn. Ví như
người muốn giữ nước, phải khéo đắp sửa
bờ đê. Người tu cũng thế, vì giữ nước trí
huệ, nên khéo tu thiền định, chẳng để cho
rỉ chảy mất.
“Như vậy gọi là định.”
44
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
15. TRÍ HUỆ
“Tỳ-kheo các ông! Nếu có trí huệ thì
không tham đắm, vướng mắc. Thường tự
xét mình, chẳng để có sai sót. Như vậy thì
ở trong pháp ta có thể được giải thoát. Nếu
chẳng được vậy, thì chẳng phải người tu
đạo, cũng chẳng phải người thế tục, chẳng
có tên để gọi.
“Trí huệ thật là chiếc thuyền bền chắc
đưa người vượt qua biển già, bệnh, chết;
lại như ngọn đèn lớn sáng soi trong chỗ vô
minh đen tối; như món thuốc hay trị được
hết thảy bệnh tật; như cái rìu sắc bén đốn
ngã cây phiền não. Vậy nên các ông phải
lấy các môn trí huệ là nghe biết, suy xét,
tu tập1 mà tự làm tăng thêm phần ích lợi.
Nếu người được sự chiếu sáng của trí huệ,
thì dù chỉ có mắt thịt,2 nhưng chính thật
1
Đó là ba môn trí huệ (Tam huệ), gọi là Văn huệ, Tư huệ, Tu huệ. Văn huệ là trí huệ
do sự nghe biết. Nhờ nghe giảng kinh điển mà sanh trí huệ. Tư huệ là trí huệ do
sự suy xét. Nhờ suy xét nghĩa lý của kinh điển mà sanh trí huệ. Tu huệ là trí huệ
do sự tu tập. Nhờ tu tập thiền định mà sanh trí huệ.
2
Mắt thịt (nhục nhãn): mắt của người thế tục, trong thân xác người thường.
45
PHẦN DỊCH NGHĨA
là người thấy rõ tất cả.1 Như vậy gọi là trí
huệ.”
16. KHÔNG NÓI ĐÙA
“Tỳ-kheo các ông! Nếu nói đủ thứ
chuyện chỉ cốt để đùa chơi2 thì tâm phải
tán loạn. Như vậy cho dù xuất gia nhưng
chưa được giải thoát. Vì thế mà tỳ-kheo
phải mau mau lìa bỏ việc loạn tâm nói đùa.
Nếu các ông muốn được niềm vui tịch diệt,
chỉ nên khéo dứt trừ mối hại của việc nói
đùa.
“Như vậy gọi là không nói đùa.”
17. TỰ GẮNG SỨC
“Tỳ-kheo các ông! Đối với các công đức
thường nên hết lòng. Từ bỏ sự phóng dật3
như tránh xa giặc thù. Những chỗ lợi ích
mà đức Đại bi Thế Tôn đã thuyết đều có thể
1
Người thấy rõ tất cả (minh kiến nhân): người có cái nhìn sáng suốt.
2
Nói đủ mọi thứ chuyện chỉ để đùa chơi (chủng chủng hý luận): những điều nói
ra nhằm mục đích chỉ để đùa chơi, cho dù điều ấy là đúng hay sai, có thật hay
không thât, đều gọi là hý luận.
3
Phóng dật: Phóng túng, buông lung, chẳng biết tự chế, cũng không cố gắng trong
việc tu tập, chạy theo năm dục, chẳng chuyên tu thiện pháp.
46
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
lấy làm cứu cánh, các ông phải nên siêng
năng thực hành. Như khi ở chốn núi cao
hoặc chỗ đầm lầy vắng vẻ, hoặc dưới gốc
cây, hoặc buông bỏ mọi việc vào ở trong nhà
vắng, đều phải luôn nghĩ nhớ đến các pháp
đã thọ học, đừng để quên mất, thường tự
gắng sức tinh tấn tu tập. Chớ để uổng phí
cả một đời mà sau nầy phải hối tiếc.
“Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho
thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay
không, chẳng phải do lỗi nơi thầy thuốc.
Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ
cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà
chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi nơi người
chỉ đường.”
18. DỨT LÒNG NGHI
“Nếu các ông có chỗ nghi ngờ nơi pháp
Tứ đế, thì mau hỏi đi. Đừng ôm lòng nghi
mà chẳng cầu được làm rõ.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn nói đến ba lần
như vậy, nhưng không ai hỏi chi cả. Vì sao
47
PHẦN DỊCH NGHĨA
vậy? Vì trong chúng hội thật không ai còn
có lòng nghi.
Bấy giờ, A-nậu-lâu-đà1 quán biết tâm ý
của cả chúng hội, liền bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Mặt trăng có thể làm
cho nóng lên, mặt trời lạnh đi,2 nhưng Phật
thuyết pháp Tứ đế, không thể nào làm cho
sai khác. Phật thuyết Khổ đế, quả thật là
khổ, không thể nói thành vui. Nói Tập đế
là nhân, thật là không còn có nhân nào
khác nữa. Nếu diệt được khổ, tức là nhân
đã diệt. Chính vì nhân đã diệt nên quả phải
diệt. Đạo diệt khổ thật là đạo chân chánh,
không còn đạo nào khác nữa.
“Bạch Thế Tôn! Chư tỳ-kheo nay đối
với pháp Tứ đế đã tin chắc không có lòng
nghi.”
1
A-nậu-lâu-đà (Aniruddha), cũng đọc là A-na-luật, Hán dịch là Như ý Vô tham. Ông
là một người trong hoàng tộc (họ Thích-ca), xuất gia chứng đắc Thánh quả, được
dự hàng Thập đại đệ tử, được Phật khen là Thiên nhãn đệ nhất.
2
Ví dụ này muốn nói lên chuyện rất khó làm.
48
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
19. CHÚNG SANH ĐƯỢC ĐỘ THOÁT
“Trong chúng hội này, những người
chưa đắc quả A-la-hán thấy Phật nhập diệt,
ắt sanh lòng bi cảm. Những người vừa mới
vào cửa Pháp, nghe lời Phật thuyết ắt sẽ
được độ thoát ngay. Như trong đêm tối vừa
có tia chớp sáng liền thấy đường đi. Còn
những người đã đắc quả A-la-hán, vượt qua
biển khổ, thì chỉ nghĩ rằng: Đức Thế Tôn
diệt độ sớm thế sao!”
Tuy A-nậu-lâu-đà nói ra lời ấy, nhưng
trong chúng hội ai nấy đều đã hiểu rõ nghĩa
của Bốn Thánh đế.1
Đức Thế Tôn muốn cho đại chúng đều
được lòng kiên cố, nên lấy tâm đại bi, lại vì
cả chúng hội mà nói lời này:
“Tỳ-kheo các ông! Đừng ôm lòng bi
thương áo não. Như ta có trụ thế trọn một
kiếp, cuối cùng cũng phải diệt độ. Hợp mà
không tan, thật không thể được. Chỗ lợi
1
Bốn Thánh đế: tức là Tứ đế hay Tứ Thánh đế.
49
PHẦN DỊCH NGHĨA
mình, lợi người,1 trong pháp ta đều đã dạy
đủ. Nếu ta ở đời lâu nữa cũng không có ích
gì. Những ai có thể cứu độ, ở cõi trời, người,
đều đã được cứu độ. Còn những ai chưa thể
cứu độ, ta cũng đã tạo nhân duyên cứu độ
về sau rồi.”2
20. PHÁP THÂN CÒN MÃI
(Phần Lưu thông)
“Từ nay về sau, đệ tử của ta cứ tuần
tự y theo nơi pháp mà thực hành. Như vậy
là Pháp thân của Như Lai vẫn thường còn
chẳng mất. Nên phải biết rằng mọi việc
trong đời đều vô thường, có tụ hội ắt có
chia lìa. Đừng ôm lòng sầu khổ nữa, hình
tướng ở đời là như thế. Hãy siêng năng tinh
tấn, sớm cầu giải thoát, đem ánh sáng trí
1
Lợi mình, lợi người (tự lợi, lợi tha): Người tu tập vừa được lợi lạc cho chính mình
(tự lợi), vừa mang lại lợi lạc cho kẻ khác (lợi tha). Nhưng chính nhờ giúp lợi lạc
cho kẻ khác mà người tu mới hoàn thiện được chính mình, gieo trồng thiện căn
cầu quả giải thoát. Cho nên, nhìn một cách toàn diện thì tự lợi và lợi tha chỉ là
hai mặt của một vấn đề. Với tâm ích kỷ chỉ nghĩ đến riêng mình thì không thể tu
đạo chứng quả được.
2
Những ai chưa đủ căn lành để được cứu độ ngay trong thời Phật tại thế, sau này
có thể y theo kinh điển mà tu tập, nghiêm trì giới luật, thì cũng được giải thoát.
Vì vậy nên nói là đã tạo ra nhân duyên cứu độ về sau.
50
KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG
huệ mà trừ diệt ngu si u ám. Cuộc đời thật
là mong manh, nguy hiểm, không gì bền
chắc. Nay ta sắp nhập diệt, như trừ xong
bệnh dữ. Cái hình tướng tội lỗi ác độc đáng
xả bỏ này, giả tạm mà gọi là cái thân, chìm
đắm trong chốn biển lớn sanh tử, bệnh lão.
Có bậc trí nào đã dứt trừ được nó, như giết
được kẻ giặc thù mà lại không vui?”
21. KẾT LUẬN
“Tỳ-kheo các ông! Thường nên hết
lòng chuyên cần cầu học đạo giải thoát.
Hết thảy các pháp động và bất động ở thế
gian đều là tướng bại hoại, chẳng an ổn.
Các ông thôi đừng nói gì nữa. Thời giờ sắp
qua, ta sắp diệt độ. Đây là những lời dạy dỗ
cuối cùng của ta vậy.”
51
NGHI THỨC KHAI KINH
NỘI DUNG
Nghi thức khai kinh..................................................5
PHẦN DỊCH ÂM .......................................................12
PHẦN DỊCH NGHĨA
Sắc chỉ của vua Đường Thái Tông..................27
Phần Chánh tông ...............................................30
Phần Lưu thông..................................................49
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét