Để hiểu trọn vẹn về bộ Kinh Pháp Hoa, sau đây là phần cuối của bộ kinh mà blog Kinh Phật muốn gửi đến đọc giả ngày hôm nay.
2. CHÁNH VĂN :
* Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thọ
trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, được một nghìn
hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến
địa ngục Vô Gián, trên đến trời Hữu Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng.
Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than,
tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng
gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui,
tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhơn, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trời,
tiếng rồng, tiếng dạ-xoa, tiếng càn-thát-bà, tiếng a-tu-la, tiếng ca-lâu-la, tiếng
khẩn-na-la, tiếng ma-hầu-la-dà, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục,
tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo ni, tiếng Thanh văn,
tiếng Bích-chi Phật, tiếng Bồ-tát, tiếng Phật.
Nói tóm đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cả trong ngoài có các thứ tiếng,
dầu chưa được thiên nhĩ dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh, thảy đều
nghe biết, phân biệt các thứ tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Tai cha mẹ sanh ra
Trong sạch không đục nhơ
Dùng tai thường này nghe
Cả tiếng cõi tam thiên
Tiếng voi, ngựa, trâu, xe
Tiếng chung, linh, loa cổ
Tiếng cầm, sắc, không hầu
Tiếng ống tiêu, ống địch
Tiếng ca hay thanh tịnh
Nghe đó mà chẳng ham.
Tiếng vô số giống người
Nghe đều hiểu rõ được
Lại nghe tiếng các trời
Tiếng ca rất nhiệm mầu
Và nghe tiếng trai, gái,
Tiếng đồng tử, đồng nữ
Trong núi sông hang hiểm
Tiếng ca-lăng-tần-dà
Cọng mạng các chim thảy
Đều nghe tiếng của nó.
Địa ngục các đau đớn
Các thứ tiếng độc khổ
Ngạ quỉ đói khát bức
Tiếng tìm cầu uống ăn
Các hàng a-tu-la
Ở nơi bên biển lớn
Lúc cùng nhau nói năng
Vang ra tiếng tăm lớn
Như thế người nói pháp
An trụ ở trong đây
Xa nghe các tiếng đó
Mà chẳng hư nhĩ căn.
Trong cõi nước mười phương
Cầm thú kêu hô nhau
Người nói kinh Pháp Hoa
Ở đây đều nghe đó.
Trên các trời Phạm thiên
Quang Âm cùng Biến Tịnh
Nhẫn đến trời Hữu Đảnh
Tiếng tăm của kia nói
Pháp sư ở nơi đây
Thảy đều được nghe đó.
Tất cả chúng Tỳ-kheo
Và các Tỳ-kheo ni
Hoặc đọc tụng kinh điển,
Hoặc vì người khác nói
Pháp sư ở nơi đây
Thảy đều được nghe đó.
Lại có các Bồ-tát
Đọc tụng nơi kinh pháp
Hoặc vì người khác nói
Soạn tập giải nghĩa kinh
Các tiếng tăm như thế
Thảy đều được nghe đó.
Các Phật đấng Đại thánh
Giáo hóa hàng chúng sanh
Ở trong các đại hội
Diễn nói pháp nhiệm mầu
Người trì Pháp Hoa này
Thảy đều được nghe đó.
Cõi tam thiên đại thiên
Các tiếng tăm trong ngoài
Dưới đến ngục A-tỳ
Trên đến trời Hữu Đảnh
Đều nghe tiếng tăm kia
Mà chẳng hư nhĩ căn.
Vì tai kia sáng lẹ
Đều hay phân biệt biết
Người trì kinh Pháp Hoa
Dầu chưa được thiên nhĩ
Chỉ dùng tai sanh ra
Công đức đã như thế.
GIẢNG :
Tới đây, Phật nói công đức nhĩ căn thanh tịnh. Người mà biết sống với Tri
kiến Phật thì được nhĩ căn thanh tịnh. Do nhĩ căn thanh tịnh nên nghe được tất cả
tiếng. Song, nhĩ căn thanh tịnh đây không phải do tu chứng thiên nhĩ thông, mà là
do hằng sống với Tri kiến Phật nên cái nghe ở nơi tai cũng thanh tịnh, và cái nghe
thanh tịnh đó không giới hạn, nên nghe tất cả tiếng ở khắp mọi nơi.
3. CHÁNH VĂN :
* Lại nữa Thường Tinh Tấn ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì
kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỹ
công đức, dùng tỹ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi tam thiên đại thiên, trên dưới
trong ngoài các thứ mùi: mùi bông tu-mạn-na, mùi bông xà-đề, mùi bông mạt-lợi,
mùi bông chiêm-bặc, mùi bông ba-la-la, mùi bông sen đỏ, mùi bông sen xanh, mùi
bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi chiên-đàn, mùi trầm thủy,
mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-dà-la, đến nghìn muôn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là
viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.
Và lại rõ biết mùi chúng sanh: Mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v... mùi
trai, mùi gái, mùi đồng tử, mùi đồng nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc
xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều được nghe rõ biết chẳng lầm.
Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây
ba-lợi-chất-đa-la, cây câu-bệ-đà-la, cùng mùi bông mạn-đà-la, bông đại mạn-đà-la,
bông mạn-thù-sa, bông đại mạn-thù-sa, mùi gỗ chiên-đàn, trầm thủy, các thứ
hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hiệp thoảng ra mùi
thơm đều nghe biết.
Lại nghe mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích đề-hoàn-nhơn, lúc ở
trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì
các vị trời Đao-lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân
của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa nghe biết. Xoay vần như thế nhẫn đến
trời Phạm Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu Đảnh cũng đều nghe biết.
Và nghe mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh văn, mùi Bích-chi
Phật, mùi Bồ-tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó.
Dầu nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nếu muốn phân
biệt vì người khác nói, ghi nhớ không lầm.
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Người đó mũi thanh tịnh
Ở trong thế giới này
Hoặc vật thơm hoặc hôi
Các thứ đều nghe biết.
Tu-mạn-na, xà-đề
Đa-ma-la, chiên-đàn
Trầm thủy và mùi quế
Mùi các thứ bông trái
Và mùi các chúng sanh:
Mùi nam tử, nữ nhơn
Người nói pháp ở xa
Nghe mùi biết chỗ nào.
Đại thế Chuyển Luân vương
Tiểu Chuyển Luân và con
Bầy tôi, các cung nhơn
Nghe mùi biết chỗ nào.
Trân bửu đeo nơi thân
Cùng tạng báu trong đất
Bửu nữ của Luân vương
Nghe hương biết chỗ nào.
Mọi người đồ nghiêm thân
Y phục và chuỗi ngọc
Các thứ hương xoa thân
Nghe mùi biết thân kia.
Các trời hoặc đi, ngồi
Dạo chơi và thần biến
Người trì Pháp Hoa này
Nghe mùi đều biết được.
Các cây bông trái hột
Và mùi thơm dầu tô
Người trì kinh ở đây
Đều biết ở chỗ nào.
Các núi, chỗ sâu hiểm
Cây chiên-đàn nở hoa
Chúng sanh ở trong đó
Nghe mùi đều biết được.
Núi Thiết Vi, biển lớn
Các chúng sanh trong đất
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết đó ở đâu.
Trai gái a-tu-la
Và quyến thuộc của chúng
Lúc đánh cãi, dạo chơi
Nghe hương đều biết được.
Đồng trống, chỗ hiểm trở
Sư tử, voi, hùm, sói
Bò rừng, trâu nước thảy
Nghe hương biết chỗ ở.
Nếu có người nghén chửa
Chưa rõ trai hay gái
Không căn và phi nhơn
Nghe mùi đều biết được.
Do vì sức nghe mùi
Biết người mới nghén chửa
Thành tựu hay chẳng thành
An vui đẻ con phước.
Do vì sức nghe mùi
Biết tâm niệm trai, gái
Lòng nhiễm dục, ngu, hờn
Cũng biết người tu lành
Các phục tàng trong đất
Vàng, bạc, các trân bửu
Đồ đồng chỗ đựng chứa
Nghe mùi đều biết được
Các thứ chuỗi ngọc báu
Không ai biết giá mấy
Nghe mùi biết mắc rẻ
Chỗ sản xuất ở đâu.
Các thứ hoa trên trời
Mạn-đà, mạn-thù-sa
Cây ba-lợi-chất-đa
Nghe mùi đều biết được.
Các cung điện trên trời
Thượng, trung, hạ sai khác
Các hoa báu trang nghiêm
Nghe hương đều biết được.
Thắng điện, vườn, rừng trời
Các nhà diệu pháp đường
Ở trong đó vui chơi
Nghe mùi đều biết được.
Các trời hoặc nghe pháp
Hoặc lúc hưởng ngũ dục
Lại, qua, đi, ngồi, nằm
Nghe mùi đều biết được.
Thiên nữ mặc y phục
Hoa hương tốt trang nghiêm
Lúc quanh khắp dạo chơi
Nghe mùi đều biết được.
Lần lựa lên như thế
Nhẫn đến trời Phạm Thế
Nhập thiền cùng xuất thiền
Nghe mùi đều biết được.
Trời Quang Âm, Biến Tịnh
Nhẫn đến nơi Hữu Đảnh
Mới sanh và lui chết
Nghe hương đều biết được.
Các hàng Tỳ-kheo chúng
Nơi pháp thường tinh tấn
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Và đọc tụng kinh điển
Hoặc ở dưới rừng cây
Chuyên ròng mà ngồi thiền
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết ở tại đâu.
Bồ-tát chí bền chắc
Ngồi thiền hoặc đọc tụng
Hoặc vì người nói pháp
Nghe mùi đều biết được.
Nơi nơi chỗ Thế Tôn
Được mọi người cung kính
Thương chúng mà nói pháp
Nghe mùi đều biết được.
Chúng sanh ở trước Phật
Nghe kinh đều vui mừng
Đúng pháp mà tu hành
Nghe mùi đều biết được.
Dù chưa đặng vô lậu
Pháp sanh tỹ Bồ-tát
Mà người trì kinh đây
Trước được tướng mũi này.
GIẢNG :
Đây là công đức của tỹ căn thanh tịnh. Người mà hằng sống với tâm thể
thanh tịnh thì từ tâm thể thanh tịnh phát ra nơi mũi cũng được thanh tịnh từ mũi
thanh tịnh mà biết được tất cả mùi gần xa, mũi biết khắp giáp không giới hạn.
4. CHÁNH VĂN :
* Lại nữa Thường Tinh Tấn ! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ
trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép được một nghìn
hai trăm thiệt công đức.
Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát ở
trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món
nào là chẳng ngon.
Nếu dùng thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu
mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích.
Lại các vị thiên tử, thiên nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm
diệu này diễn nói ngôn luận thứ đệ, thảy đều đến nghe, và các hàng long, long nữ,
dạ-xoa, dạ-xoa nữ, càn-thát-bà, càn-thát-bà nữ, a-tu-la, a-tu-la nữ, ca-lầu-la, calầu-la
nữ, khẩn-na-la, khẩn-na-la nữ, ma-hầu-la-dà, ma-hầu-la-dà nữ, vì để nghe
pháp mà đều đến gần gũi cung kính cúng dường.
Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, quần
thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển Luân vương, đại Chuyển Luân vương, bảy báu,
nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe
pháp.
Vì vị Bồ-tát này khéo nói pháp, nên hàng Bà-la-môn, cư sĩ, nhơn dân trong
nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh văn, Bích-chi Phật, Bồ-tát, các
đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về
phía đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra tiếng
pháp sâu mầu.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Người đó lưỡi thanh tịnh
Trọn không thọ vị xấu
Người đó ăn uống chi
Đều biến thành cam lộ.
Dùng tiếng hay thâm tịnh
Ở trong chúng nói pháp
Đem các nhơn duyên dụ
Dẫn dắt lòng chúng sanh
Người nghe đều vui mừng
Bày đồ cúng dường tốt.
Các trời, rồng, dạ-xoa
Cùng a-tu-la thảy
Đều dùng lòng cung kính
Mà đồng đến nghe pháp
Người nói kinh pháp đó
Nếu muốn dùng tiếng mầu
Khắp cùng cõi tam thiên
Tùy ý liền được đến.
Đại, tiểu Chuyển Luân vương
Và nghìn con quyến thuộc
Chắp tay lòng cung kính
Thường đến nghe thọ pháp,
Các trời, rồng, dạ-xoa
La-sát, tỳ-xá-xà
Cũng dùng lòng vui mừng
Thường ưa đến cúng dường,
Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự Tại, Đại Tự Tại
Các chúng trời như thế
Thường đến chỗ người đó.
Các Phật cùng đệ tử
Nghe người nói tiếng pháp
Thương nhớ giữ gìn cho
Hoặc lúc vì hiện thân.
GIẢNG :
Người thọ trì đọc tụng giải nói kinh Pháp Hoa, hay nói cách khác là hằng
sống với Tri kiến Phật thì được thiệt căn thanh tịnh; khi để những vị chua, đắng,
chát... lên lưỡi, thì những vị chua đắng chát biến thành cam lộ. Thông thường lưỡi
chúng ta, khi để vị đắng lên, thì biết đắng liền nhả ra, nếu để vị ngọt thì nuốt vào.
Như vậy là có niệm phân biệt, thích ngọt ghét đắng; thiệt căn chưa thanh tịnh. Nếu
lưỡi nếm vị ngọt biết là ngọt, nếm vị mặn biết là mặn, nếm vị đắng biết là đắng,
ngang chừng đó không khởi niệm ưa thích thì vị mặn, vị đắng biến thành cam lộ.
Và khi dùng thiệt căn thanh tịnh để nói pháp, thì tất cả quỉ thần, nhân dân
cho tới Thanh văn, Bích-chi Phật, Bồ-tát v.v... đồng tới nghe và hướng về vị đó.
Nói cho dễ hiểu, người mà hằng sống với Tri kiến Phật thì thiệt căn hằng thanh
tịnh. Khi nói ra, lời nào cũng là lời Phật pháp, không nói sai, không nói dối, nên
người nghe dễ chấp nhận. Sở dĩ chúng ta mở miệng ra nói sai nói bậy, là vì thiệt
căn chúng ta chưa thanh tịnh, còn lệch bên này thiên bên kia, không bình đẳng,
nên có người nghe, có người không thích nghe. Ví dụ như trong chúng có hai vị
tăng mích lòng nhau, thầy trụ trì đứng ra phân xử. Nếu thầy trụ trì xử hơi lệch bên
tăng A, thì tăng B không bằng lòng, có phản ứng. Nếu thầy trụ trì xử lệch bên tăng
B, thì tăng A không bằng lòng, có phản ứng. Và nếu thầy trụ trì phân xử công
minh, không thiên lệch bên nào, thì cả hai đều vâng lời nghe dạy. Cũng vậy, người
hằng sống với Tri kiến Phật tâm thường thanh tịnh bình đẳng. Do tâm thanh tịnh
bình đẳng, nên nói ra lời nào cũng trong sáng bình đẳng, khiến mọi người thích
nghe.
5. CHÁNH VĂN :
* Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ
trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép được tám trăm thân công
đức, được thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó trong
sạch nên chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt
xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v... đều hiện rõ trong đó.
Và núi Thiết-vi, núi đại Thiết-vi, núi Di-lâu, núi đại Di-lâu v.v... các núi
cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên
đến trời Hữu Đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là
Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong
thân.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Nếu người trì Pháp Hoa
Thân thể rất thanh tịnh
Như lưu ly sạch kia
Chúng sanh đều ưa thấy.
Lại như gương sáng sạch
Đều thấy các sắc tượng
Bồ-tát nơi tịnh thân
Thấy cả vật trong đời
Chỉ riêng mình thấy rõ
Người khác không thấy được
Trong cõi nước tam thiên
Tất cả các chúng sanh
Trời, người, a-tu-la,
Địa ngục, quỉ, súc sanh
Các sắc tượng như thế
Đều hiện rõ trong thân.
Cung điện của các trời
Nhẫn đến trời Hữu Đảnh
Núi Thiết-vi, Di-lâu
Núi Ma-ha Di-lâu
Các biển nước lớn thảy
Đều hiện ở trong thân.
Các Phật cùng Thanh văn
Phật tử, Bồ-tát thảy
Hoặc riêng, hoặc tại chúng
Nói pháp thảy đều hiện.
Dầu chưa được diệu thân
Pháp tánh sạch các lậu
Dùng thân thanh tịnh thường
Tất cả hiện trong đó.
GIẢNG :
Đến đây nói về công đức của thân căn thanh tịnh. Người hằng sống với Tri
kiến Phật thì tâm thanh tịnh sáng suốt. Tâm mà thanh tịnh sáng suốt thì hiển lộ ra
nơi thân cũng thanh tịnh tươi sáng. Ví dụ như ngọn đèn điện đang sáng được phủ
lên miếng vải mầu đen. Tuy vải mầu đen, nhưng nhờ ánh sáng chiếu rọi nên miếng
vải cũng hơi sáng. Ngược lại, nếu đèn tắt mà phủ vải đen thì tối đen. Cũng vậy,
tâm thanh tịnh thì thân cũng theo đó mà thanh tịnh, tâm mờ mịt buồn rầu... thì thân
cũng u tối dã dượi; tâm thế nào thì hiện ra thân thế ấy. Cho nên đây Phật dạy,
người trì kinh Pháp Hoa, và vì người giảng nói, tức là tự mình nhận và sống với
Tri kiến Phật thanh tịnh, thì thân cũng theo đó mà được thanh tịnh. Đó là thân ảnh
hưởng từ tâm.
6. CHÁNH VĂN :
* Lại nữa Thường Tinh Tấn ! Sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người
thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải
nói, hoặc biên chép thời được một nghìn hai trăm ý công đức.
Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu suốt thấu vô
lượng vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một
tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều cùng
thiệt tướng chẳng trái nhau.
Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v... đều
thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên, lòng nghĩ
tưởng, lòng động tác, lòng hí luận, thảy đều biết đó.
Dầu chưa được trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế người đó có suy
nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là
chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Ý người đó thanh tịnh
Sáng lanh không đục nhơ
Dùng ý căn tốt đó
Biết pháp: thượng, trung, hạ
Nhẫn đến nghe một kệ
Thông đạt vô lượng nghĩa
Thứ đệ nói đúng pháp
Tháng, bốn tháng, đến năm.
Trong ngoài của cõi này
Tất cả các chúng sanh
Hoặc trời rồng và người
Dạ-xoa, quỉ thần thảy
Kia ở trong sáu đường
Nghĩ tưởng bao nhiêu điều
Phước báo trì Pháp Hoa
Đồng thời thảy đều biết.
Vô số Phật mười phương
Trăm phước tướng trang nghiêm
Vì chúng sanh nói pháp
Đều nghe hay thọ trì.
Suy gẫm vô lượng nghĩa
Nói pháp cũng vô lượng
Sau trước chẳng quên lộn
Bởi thọ trì Pháp Hoa
Trọn biết các pháp tướng
Theo nghĩa rõ thứ đệ
Suốt danh tự ngữ ngôn
Như chỗ biết diễn nói.
Người đó có nói ra
Là pháp của Phật trước
Vì diễn nói pháp này
Ở trong chúng không sợ.
Người trì kinh Pháp Hoa
Ý căn tịnh như thế
Dầu chưa được vô lậu
Trước có tướng dường ấy.
Người đó trì kinh này
An trụ bậc hi hữu
Được tất cả chúng sanh
Vui mừng mà mến kính.
Hay dùng nghìn muôn thứ
Lời lẽ rất hay khéo
Phân biệt mà nói pháp
Bởi trì kinh Pháp Hoa.
GIẢNG :
Đây nói người thọ trì đọc tụng hoặc vì người giải nói kinh Pháp Hoa thì
được ý căn thanh tịnh, mà ý căn thanh tịnh thì nhớ và nói suốt hết kinh kệ đã học.
Tuy kinh kệ ngắn ít, mà có thể nói trong thời gian rất dài cũng không hết, và mở
miệng nói, dù chuyện thế gian cũng phù hợp với Phật pháp. Tại sao vậy ? Vì tâm
thanh tịnh thì ý nghĩa lời nói lúc nào cũng ở trong sự tỉnh giác, hễ tỉnh giác thì
ngay nơi pháp tà cũng chuyển được thành chánh. Ở đây Phật nói người thọ trì kinh
Pháp Hoa, ý căn được công đức như thế, nhưng thực tế có đúng như vậy không ?
Chúng ta chớ mắc kẹt trên chữ nghĩa, mà phải hiểu qua lý kinh thì thấy rõ lẽ thật.
Trong sáu căn, ý căn là chủ chốt tác động với năm căn trước, mới có phân biệt hay
dở tốt xấu... sanh ra buồn thương giận ghét... rồi tạo nghiệp ! Công thì lớn mà tội
cũng dẫn đầu. Ý căn chủ động và giảo hoạt như vậy, nên khi tu là phải ngay nơi ý
mà tu. Thiền nguyên thủy, Thiền tông hay những pháp môn khác đều nhắm thẳng
ý để điều phục, không lệ thuộc nó, không để nó sai sử dẫn dắt tạo nghiệp. Không
còn tạo nghiệp thì không còn đi trong luân hồi sanh tử, được giải thoát. Ngang đây
chúng ta thấy rõ chủ trương của Thiền viện dạy cho thiền sinh tri vọng, là nhắm
ngay ý mà tu, để trở về tánh biết của ý. Như vậy, ý căn thanh tịnh thì năm căn còn
lại cũng thanh tịnh theo.
Phẩm Công Đức Pháp Sư nói rằng người biết xoay lại sống với Tri kiến
Phật, và nhắc cho chúng sanh biết mình có Tri kiến Phật thì sáu căn được thanh
tịnh, có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Diệu dụng đó không phải tu chứng A-lahán
được lục thông, biết mọi chuyện gần xa. Mà ngay nơi thân cha mẹ sanh, thấy,
nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, biết được tất cả, không còn hạn cuộc riêng từng căn.
Sở dĩ như thế là do sáu căn có cùng một thể, ngoài dụng thì khu biệt khả năng từng
căn một thấy có sai khác, còn thể thì không khác. Giống như cái nhà có sáu cửa,
đêm tối trong nhà có thắp một bóng đèn, ánh sáng chiếu rọi ra, tùy theo hình dáng
của sáu cửa vuông, tròn, lớn, nhỏ mà thấy hình dáng của ánh sáng khác nhau,
nhưng ánh sáng thì không khác. Cũng vậy, mắt thấy sắc cũng biết, tai nghe tiếng
cũng biết, mũi ngửi mùi cũng biết, lưỡi nếm vị cũng biết... sáu căn đều có cái biết.
Cái biết này chưa khởi phân biệt tốt xấu, hay dở, ưa ghét... Biết nghe, biết thấy,
biết ngửi, biết nếm... cái biết đó bình đẳng không hai. Nhưng qua tai chỉ nghe
được tiếng, qua mắt chỉ thấy được sắc, qua mũi chỉ ngửi được mùi, qua lưỡi thì
nếm được vị. Nghĩa là qua căn nào thì biết theo khả năng của căn nấy, còn thể biết
chung thì không khác. Thế nên chúng ta tu là tu ở sáu căn, bất luận tu ở căn nào
cũng đều quay về cái thể biết chung là Tri kiến Phật. Tri kiến Phật hiển lộ rỡ ràng
nơi sáu căn, cái biết của sáu căn phát ra từ tánh giác, nên khi nào tâm chúng ta yên
tịnh, vọng niệm không dấy động, thì lúc đó chúng ta cảm thấy sáu căn như có một
thôi, chớ không còn sáu nữa. Như vậy, Phật chỉ cho thấy tánh giác hiển hiện ở sáu
căn, nếu từ một căn mà nhận ra tánh giác là trở về sống với Tri kiến Phật. Gọi đó
là ngộ Tri kiến Phật.
D
PHẨM 20: THƯỜNG BẤT KHINH BỒ-TÁT
Thường Bất Khinh Bồ-tát là vị Bồ-tát tên Thường Bất Khinh. Ngài có tâm
hạnh kính trọng tất cả mọi người, không có một niệm xem thường ai cả, vì Ngài
thấy ai ai cũng có Phật tánh, và sẽ thành Phật.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Đắc Đại Thế đại Bồ-tát rằng: “Ông nay nên
biết ! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp Hoa
này được công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý thanh tịnh,
như có người nói lời thô ác mắng nhiếc, chê bai, mắc tội báo lớn cũng như trước
đã nói.
GIẢNG :
Đoạn này Phật lặp lại ý trước với Bồ-tát Đắc Đại Thế rằng người thọ trì
kinh Pháp Hoa thì được công đức sáu căn thanh tịnh. Ngược lại, người nào chê bai
kinh Pháp Hoa thì chịu quả báo không tốt. Như vậy, chúng ta thấy ai tùy thuận
kinh Pháp Hoa thì sẽ được thanh tịnh, ai chống ngược lại thì chịu khổ họa. Tại sao
như thế ? Vì người không chịu trở về với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt, thì
người đó đang mê mờ loạn động, sáu căn chạy theo sáu trần tạo nghiệp đi trong
luân hồi sanh tử nên khổ đau. Còn nếu trở về sống với Tri kiến Phật, thì người đó
luôn tỉnh giác, nên sáu căn cũng thanh tịnh, ngang đó dứt nghiệp, không tạo nhân
đi trong luân hồi sanh tử được giải thoát.
2. CHÁNH VĂN :
* Đắc Đại Thế ! Về thuở xưa quá vô lượng vô biên bất khả tư nghì vô số
kiếp, có Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Đại Thành. Đức Oai Âm Vương Phật
trong đời đó vì hàng trời, người, a-tu-la mà nói pháp, vì người cầu Thanh văn mà
nói pháp Tứ đế, thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn; vì người cầu
Bích-chi Phật mà nói pháp mười hai nhơn duyên; vì các Bồ-tát nhơn Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác mà nói sáu pháp Ba-la-mật rốt ráo trí huệ của Phật.
Đắc Đại Thế ! Đức Oai Âm Vương Phật đó sống lâu bốn mươi vạn ức nado-tha
Hằng hà sa kiếp, chánh pháp trụ ở đời kiếp số như vi trần trong một Diêmphù-đề;
tượng pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong một Diêm-phù-đề; tượng
pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong bốn châu thiên hạ. Đức Phật đó lợi ích
chúng sanh, vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp, tượng pháp diệt hết, trong
cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn
ức đức Phật đều đồng một hiệu.
GIẢNG :
Phật dẫn lại chuyện xưa, vô số kiếp về trước, có đức Phật đầu tiên ra đời
tên là Oai Âm Vương. Sau khi Phật Oai Âm Vương đầu tiên diệt độ, thì tuần tự
như thế có hai muôn ức đức Phật ra đời, cùng một hiệu là Oai Âm Vương, Phật
Oai Âm Vương ra đời trước tất cả chư Phật, nên có câu là: “Oai Âm Vương dĩ tiền
vô Phật chúng sanh danh, tư thời chánh thị đạo”, nghĩa là trước Phật Oai Âm
Vương không có tên Phật tên chúng sanh, chính khi đó mới là đạo. Tại sao vậy ?
Vì có tên Phật tên chúng sanh, là có thấy phân biệt đối đãi, mà thấy phân biệt là vô
minh. Trước khi khởi niệm phân biệt đối đãi, lúc ấy tâm vô niệm là đang sống với
Tri kiến Phật. Phật Oai Âm Vương là chỉ cho tánh giác có sẵn nơi mỗi người
chúng ta từ thuở nào.
3. CHÁNH VĂN :
* Đức Oai Âm Vương Như Lai dầu hết diệt độ rồi, sau lúc chánh pháp đã
diệt trong đời tượng pháp những Tỳ-kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn.
Bấy giờ, có vị Bồ-tát Tỳ-kheo tên Thường Bất Khinh. Đắc Đại Thế ! Vì cớ
gì tên là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ-kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thảy đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng:
“Tôi rất kính quí Ngài chẳng dám khinh mạn. Vì sao ? Vì quí Ngài đều tu hạnh
đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật.”
Mà vị Tỳ-kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến
xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy, ngợi khen mà nói rằng: “Tôi chẳng dám
khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ làm Phật.” Trong hàng tứ chúng có người lòng bất
tịnh sanh giận hờn buông lời ác mắng nhiếc rằng: “Ông vô trí Tỳ-kheo này từ đâu
đến đây tự nói ta chẳng khinh Ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ được làm Phật
chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế.”
Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc chẳng sanh lòng giận
hờn, thường nói: “Ngài sẽ làm Phật.” Lúc nói lời đó, chúng nhơn hoặc lấy gậy cây,
ngói đá để đánh ném. Ông liền chạy tránh đứng xa mà vẫn to tiếng xướng rằng:
“Ta chẳng dám khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ thành Phật.” Bởi ông thường nói
lời đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di gọi
ông là Thường Bất Khinh.
GIẢNG :
Đây giải thích công hạnh của một vị Bồ-tát, và nhân Bồ-tát thực hành công
hạnh ấy nên đặt thành tên. Vậy Ngài tu hạnh gì ? Bồ-tát Thường Bất Khinh không
siêng trì tụng, lễ bái, giảng nói kinh Pháp Hoa... mà chỉ đi lễ lạy người và nói rằng:
“Tôi không dám khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ thành Phật.” Như vậy Bồ-tát
Thường Bất Khinh có trì kinh Pháp Hoa không ? Như chúng ta đã biết, chư Phật ra
đời chỉ có mục đích duy nhất là chỉ cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật có sẵn
nơi mình. Chúng sanh biết mình có Tri kiến Phật, tức là đã có Phật nhân, nếu khéo
tu sẽ thành Phật quả. Ngài không lễ lạy, trì tụng giảng nói bộ kinh Pháp Hoa văn
tự in bằng giấy mực gồm bảy quyển. Mà chỉ đi gieo rắc niềm tin ở mọi người,
khiến cho mọi người tin rằng mình sẵn có Tri kiến Phật, nếu tu sẽ được thành Phật.
Như vậy, Ngài có dạy người trì kinh Pháp Hoa chưa ? Việc làm của Ngài có đúng
với bản hoài của chư Phật không ? Rõ ràng Ngài thực hành không sai yếu chỉ mà
Phật đã dạy. Sở dĩ Ngài nói như vậy, là vì mọi chúng sanh ai ai cũng có sẵn tánh
giác, nhưng vì vô minh che phủ nên quên không chịu nhận. Vì vậy Ngài phải khơi
dậy, phải đánh thức cho mọi người biết và nhận ra cái sẵn có nơi mình, để tu hành
thành Phật. Câu nói của Ngài tuy đơn giản ngắn gọn nhưng nêu rõ bản hoài của
mười phương chư Phật. Ngài nói tuy ngắn gọn nhưng thực hành không phải dễ,
người ưa thì im lặng vâng làm, người không ưa thì mắng nhiếc đánh đập Ngài.
Mặc dù vậy, với lòng từ bi rộng lớn, Ngài không nản lòng thối chí, chấp nhận mọi
sự khó khăn, vui vẻ đi khắp nơi, khơi dậy niềm tin ở mọi người, để cùng tu tập
tiến đến quả Phật.
4. CHÁNH VĂN :
* Vị Tỳ-kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi nghìn
muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Oai Âm Vương Phật đã nói thuở trước,
nghe xong đều có thể thọ trì, liền được nhãn căn thanh tịnh, nhĩ, tỹ, thiệt, thân
cùng ý căn thanh tịnh như trên. Được sáu căn thanh tịnh đó rồi lại sống thêm hai
trăm muôn ức na-do-tha tuổi, rộng vì người nói kinh Pháp Hoa đó.
Lúc đó hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo, Tỳ- kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
khinh tiện vị đó đặt cho tên “Bất Khinh”, nay thấy vị đó được sức thần thông lớn,
sức đại thiện tịch, nghe vị đó nói pháp đều tin phục tùy tùng.
Vị Bồ-tát đó giáo hóa nghìn muôn chúng khiến trụ trong Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Sau khi mạng chung được gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhựt
Nguyệt Đăng Minh, ở trong pháp hội đó nói kinh Pháp Hoa này. Do nhơn duyên
đó lại gặp hai nghìn ức Phật đồng hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp
hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng, và hàng tứ chúng nói kinh điển này, cho
nên được mắt thanh tịnh thường trên đó, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý các căn thanh
tịnh, ở trong bốn chúng nói pháp lòng không sợ sệt.
Đắc Đại Thế ! Vị Thường Bất Khinh đại Bồ-tát đó cúng dường bao nhiêu
đức Phật như thế, cung kính tôn trọng ngợi khen, trồng các cội lành. Lúc sau lại
gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở trong pháp hội các đức Phật nói kinh điển này,
công đức thành tựu sẽ được làm Phật.
GIẢNG :
Bồ-tát Thường Bất Khinh do gieo rắc lòng tin nơi mỗi người, nên khi Ngài
sắp tịch được nghe kinh Pháp Hoa do Phật Oai Âm Vương nói, sáu căn Ngài liền
thanh tịnh và sống thêm hai trăm muôn ức na-do-tha kiếp, vì người nói kinh Pháp
Hoa. Tại sao lúc Ngài còn khỏe mạnh không được nghe và thọ trì kinh Pháp Hoa,
mãi đến lúc sắp tịch mới được nghe kinh Pháp Hoa và sống thêm… Như vậy là ý
nghĩa gì ? Như đã nói, thọ trì kinh Pháp Hoa là xoay lại sống với cái bất tử là Tri
kiến Phật. Bất tử thì không chết. Vì vậy mà Ngài được tất cả công đức như sáu căn
thanh tịnh v.v... Rồi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trước khinh
chê Ngài, nay tin phục theo Ngài tu hành.
Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo hóa vô số chúng trụ trong Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Sau khi mạng chung, được gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhựt
Nguyệt Đăng Minh và lại gặp hai nghìn ức Phật đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng
Vương. Bồ-tát Thường Bất Khinh nhờ tu hạnh ấy, sau công đức viên mãn thành
tựu trí tuệ Phật.
5. CHÁNH VĂN :
Đắc Đại Thế ! Ý ông nghĩ sao ? Thường Bất Khinh Bồ-tát thuở đó đâu phải
người nào lạ, chính là thân ta. Nếu ta ở đời trước chẳng thọ trì, đọc tụng kinh này,
vì người khác giải nói đó, thời chẳng có thể mau được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Vì ta ở chỗ các đức Phật thuở trước thọ trì, đọc tụng kinh này vì
người khác nói, nên mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG :
Bồ-tát Thường Bất Khinh là tiền thân của Phật Thích-ca. Phật nói sở dĩ
Ngài được thành Phật là do thời quá khứ, Ngài thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa.
Chúng ta thấy lúc tu nhân Ngài không đọc tụng văn tự kinh, mà Ngài nhận ra nơi
Ngài có sẵn Phật tánh, rồi đi lễ bái mọi người, nhắc cho mọi người nhớ biết nơi
mình cũng có Phật tánh, nếu khéo tu thì sẽ thành Phật, do huân tu hạnh này dần
dần công đức viên mãn nên thành Phật.
6. CHÁNH VĂN :
* Đắc Đại Thế ! Thuở đó bốn chúng: Tỳ- kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di,
do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp
Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A-tỳ chịu khổ não
lớn. Hết tội đó rồi lại gặp Thường Bất Khinh Bồ-tát giáo hóa đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Đắc Đại Thế ! Ý ông nghĩ sao ? Bốn chúng thường khinh vị Bồ-tát thuở đó
đâu phải người nào lạ, chính là nay trong hội này bọn ông Bạt-đà-bà-la năm trăm
vị Bồ-tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt năm trăm vị Tỳ-kheo, bọn ông Ni-tư Phật năm
trăm Ưu- bà-tắc, đều bất thoái chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
Đắc Đại Thế ! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các vị đại Bồ-tát,
có thể làm cho đến nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên các vị
đại Bồ-tát sau khi Phật diệt độ phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép
kinh này.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Thuở quá khứ có Phật
Hiệu là Oai Âm Vương
Sức trí thần vô lượng
Dìu dắt tất cả chúng
Hàng trời, người, long, thần
Đều chung nhau cúng dường.
Sau khi Phật diệt độ
Lúc pháp muốn dứt hết
Có một vị Bồ-tát
Tên là Thường Bất Khinh.
Bấy giờ hàng tứ chúng
Chấp mê nơi các pháp
Thường Bất Khinh Bồ-tát
Qua đến chỗ của họ
Mà nói với đó rằng:
Ta chẳng dám khinh Ngài
Quí Ngài tu đạo nghiệp
Đều sẽ đặng làm Phật.
Những người đó nghe rồi
Khinh chê thêm mắng nhiếc
Thường Bất Khinh Bồ-tát
Đều hay nhẫn thọ đó.
Tội Bồ-tát hết rồi
Đến lúc gần mạng chung
Đặng nghe kinh pháp này
Sáu căn đều thanh tịnh
Vì sức thần thông vậy
Sống lâu thêm nhiều tuổi
Lại vì các hạng người
Rộng nói kinh pháp này.
Các chúng chấp nơi pháp
Đều nhờ Bồ-tát đó
Giáo hóa đặng thành tựu
Khiến trụ nơi Phật đạo
Thường Bất Khinh mạng chung
Gặp vô số đức Phật
Vì nói kinh này vậy
Đặng vô lượng phước đức
Lần lần đủ công đức
Mau chứng thành Phật đạo.
Thuở đó Thường Bất Khinh
Thời chính là thân ta
Bốn bộ chúng khi ấy
Những người chấp nơi pháp
Nghe Thường Bất Khinh nói:
Ngài sẽ đặng làm Phật
Do nhờ nhơn duyên đó
Mà gặp vô số Phật,
Chính trong pháp hội này
Năm trăm chúng Bồ-tát
Và cùng bốn bộ chúng
Thanh tín nam nữ thảy
Nay ở nơi trước ta
Nghe kinh Pháp Hoa đó,
Ta ở trong đời trước
Khuyên những hạng người đó
Nghe thọ kinh Pháp Hoa
Là pháp bậc thứ nhứt
Mở bày dạy cho người
Khiến trụ nơi Niết-bàn
Đời đời thọ trì luôn
Những kinh điển như thế.
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Lâu lắm mới nghe đặng
Kinh Diệu Pháp Hoa này,
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Các đức Phật Thế Tôn
Lâu mới nói kinh này
Cho nên người tu hành
Sau khi Phật diệt độ
Nghe kinh pháp như thế
Chớ sanh lòng nghi hoặc.
Nên phải chuyên một lòng
Rộng nói kinh điển này
Đời đời đặng gặp Phật
Mau chứng thành Phật đạo.
GIẢNG :
Bồ-tát Thường Bất Khinh khi đi gieo rắc lòng tin ở mọi người. Người hoan
hỷ tin theo được gặp Phật, người không tin mắng chửi lại, sau cũng được gặp Phật.
Người hoan hỉ tin theo nên được Phật trực tiếp giáo hóa, tiến tu thành Phật. Còn
người không tin mắng chửi lại, tuy họ mắc tội bị đọa một thời gian để trả quả,
nhưng rồi cũng trở lại gặp Phật giáo hóa nương theo mà tiến tu, sau cũng thành
Phật. Chúng ta thấy ý nghĩa này rất thâm trọng. Khi vị Bồ-tát đi giáo hóa luôn đem
điều lành điều tốt đến với mọi người, người kính mến tin và làm theo, đó là đã kết
duyên thuận với Bồ-tát để tu. Còn người không ưa mắng chửi đánh đập Bồ-tát, bị
đọa trả quả cũng kết duyên mà duyên nghịch. Nên sau khi thọ quả báo rồi, cũng
gặp Bồ-tát, nhận sự giáo hóa của Ngài để tiến tu. Duyên thuận hay duyên nghịch,
trước sau gì cũng gặp nhau, vì đã kết duyên rồi. Thông thường chúng ta thấy
người mà mình thương thì tìm đến để gặp nhau, người mà mình ghét cũng có
chuyện tìm gặp để phân bua cãi vã. Vì sao ? Vì người thương nhiều thì luôn nghĩ
tới, mà người ghét nhiều cũng không quên được. Bởi nhớ nhau nên gặp nhau. Thế
nên, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, mắng chửi đánh đập Bồ-tát
Thường Bất Khinh, mắc quả báo đọa địa ngục, trả quả xong, trở lại gặp Bồ-tát
nhận sự giáo hóa của Ngài, vì còn nhớ Ngài. Như vậy, ngày nay chúng ta đi giáo
hóa nếu người nghe thực hành theo, thì biết người này sẽ gặp lại mình, tiếp tục
giáo hóa nữa. Nếu gặp người mắng chửi mình, thì cũng biết rằng người này sẽ gặp
lại để mình giáo hóa, tuy có cách thời gian thọ quả báo nhưng rồi cũng gặp nhau.
Thế nên, đừng giận họ vì họ sẽ làm đệ tử dưới sự giáo hóa của mình. Nếu mình
buồn giận họ, thì chẳng lẽ họ tạo nghiệp xuống địa ngục, mình cũng đi theo họ
xuống địa ngục sao ?
Thế nên, kẻ chống đối, người mến thương, Bồ-tát đều có tâm bình đẳng
giáo hóa, không chối bỏ người nào. Như vậy, chúng ta đã thấy, Bồ-tát Thường Bất
Khinh trì và truyền bá kinh Pháp Hoa như thế nào rồi. Việc làm của Ngài quá đơn
giản, nhưng hợp với lý kinh, nên lợi ích không thể nghĩ lường. Còn chúng ta một
ngày tụng hết một bộ Pháp Hoa hai mươi tám phẩm, mà không biết Phật dạy cái gì,
tu hành ra sao, tham sân si phiền não vẫn còn nguyên vẹn, không giảm chút nào,
như vậy là chưa trì kinh Pháp Hoa !
D
PHẨM 21: NHƯ LAI THẦN LỰC
Như Lai Thần Lực là sức thần của Như Lai. Đây có hai ý. Ý thứ nhứt là khi
Phật thành đạo có đủ thần thông diệu dụng, nên việc làm của Ngài vượt hẳn sức
của người thường, vì vậy người đời không thể biết hết được, nên gọi là thần lực
của Như Lai. Ý thứ hai, Như Lai là chỉ Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sanh.
Nếu ai biết quay lại sống với Tri kiến Phật nơi mình, thì sẽ được diệu dụng không
thể nghĩ bàn, nên gọi đó là Như Lai Thần Lực.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát đông như số vi trần trong nghìn thế giới từ
dưới đất vọt lên đó, đều ở trước đức Phật một lòng chấp tay, chiêm ngưỡng dung
nhan của Phật mà bạch cùng Phật rằng: “Thế Tôn ! Sau khi Phật diệt độ, ở nơi cõi
nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì sao ?
Chúng con cũng tự muốn được pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải
nói, biên chép mà cúng dường đó.”
GIẢNG :
Đến đây, chư Bồ-tát từ dưới đất vọt lên vô số, đều chấp tay bạch Phật rằng
sau khi Phật diệt độ, thì ở các cõi nước của Phật phân thân giáo hóa, lúc đó các
Ngài sẽ tới giáo hóa bằng kinh Pháp Hoa. Chư Bồ-tát từ dưới đất vọt lên, biểu
trưng ý nghĩa Tri kiến Phật hiển hiện, khi vô minh phiền não đã sạch. Tri kiến Phật
là Pháp thân trùm khắp không giới hạn. Nên nói sau khi các Phật phân thân diệt độ,
các Bồ-tát sẽ đi khắp nơi nói kinh Pháp Hoa để giáo hóa. Như vậy Báo thân hay
Hóa thân của chư Phật ở đâu thì Pháp thân trùm khắp ở đó, không thiếu không
vắng.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, Thế Tôn ở trước ngài Văn-thù-sư- lợi v.v... vô lượng trăm nghìn
muôn ức vị đại Bồ-tát cựu trụ ở nơi cõi Ta-bà và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-
tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát- bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, mahầu-la-dà,
nhân cùng phi nhân v.v..., trước tất cả chúng, hiện sức thần thông lớn
bày tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm Thế, tất cả lỗ chân lông phóng ra vô
lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười
phương. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày tướng
lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng.
Lúc đức Thích-ca Mâu-ni Phật và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần
thông mãn trăm nghìn năm vậy sau mới huờn nhiếp tướng lưỡi, đồng thời tằng
hắng cùng chung khảy móng tay, hai tiếng vang đó khắp đến cõi nước của các đức
Phật trong mười phương, đất đều sáu điệu vang động, chúng sanh trong đó: trời,
rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng
phi nhân v.v... nhờ sức thần của Phật đều thấy trong cõi Ta-bà này vô lượng vô
biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới những cây báu và
thấy đức Thích-ca Mâu-ni Phật cùng đức Đa Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử
trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vị Bồ-tát và hàng
tứ chúng cung kính vây quanh đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đã thấy thế rồi đều rất
vui mừng được chưa từng có.
Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: “Khỏi đây
vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số thế giới có nước tên Ta-bà, trong đó
có Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni hiện nay vì các đại Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên
“Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, các ông phải thâm tâm
tùy hỉ, cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích-ca Mâu-ni Phật.”
Các chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồi, chấp tay xoay về cõi
Ta-bà nói thế này: “Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Thích-ca Mâu-ni
Phật.” Dùng các món hoa hương, chuỗi ngọc, phan lọng và các đồ trang nghiêm
nơi thân, những vật tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta-bà.
Các vật rải đó từ mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu
trùm khắp trên các đức Phật ở trong đây. Bấy giờ mười phương cõi nước thông đạt
không ngại như một cõi Phật.
GIẢNG :
Đoạn này Phật hiện thần thông. Ngài hiện thần thông sao không biến hóa
bay đi, hay biến thân nhỏ thành thân lớn... mà lại hiện thần thông bằng cách le lưỡi
dài rộng cho đến cõi trời Phạm thiên, rồi trong mỗi lỗ chân lông phóng hào quang
sáng đủ màu sắc ? Hiện tướng ấy biểu trưng ý nghĩa gì ?
Nghĩa thứ nhứt theo kinh A-hàm, người mà ba đời không nói dối, thì tướng
lưỡi dài, le ra tới mí tóc. Tướng lưỡi Phật dài đến cõi trời Phạm thiên, chứng tỏ
Phật vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát cho tới khi thành Phật chưa từng nói dối. Lời Phật
nói là lời nói chân thực, trải qua ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai không thay đổi. Ví
dụ Phật nói: Các pháp hữu vi đều là vô thường, không cố định.
Nghĩa thứ hai tiêu biểu lời nói của Phật là lời khéo léo mầu nhiệm không
thể nghĩ bàn, do diệu dụng của thiệt căn thanh tịnh mà có.
Trong sáu căn, ba căn có công đức viên mãn là nhĩ căn, thiệt căn và ý căn.
Vì vậy mà chư Bồ-tát và tất cả người tu, đều chọn ý căn, nhĩ căn để tu và khi giáo
hóa thì dùng thiệt căn để tuyên dương chánh pháp. Mà “chánh pháp” được tuyên
dương trong kinh Pháp Hoa là Tri kiến Phật, trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế
giới, không bị giới hạn ở một nơi nào. Nên tuyên dương pháp đó, cái lưỡi cũng
rộng dài không thể nghĩ bàn, nếu lưỡi nhỏ có giới hạn thì đâu nói được pháp lớn.
Tướng tất cả lỗ chân lông Phật phóng ra vô lượng vô số tia sáng, soi khắp
cả mười phương, biểu trưng ý nghĩa gì ? Như trước đã nói, người thọ trì kinh Pháp
Hoa, là trở về sống với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt có sẵn nơi mình. Bởi
hằng sống với Tri kiến Phật nơi mình, tức nhiên toàn thân đều thanh tịnh sáng suốt,
nên có khả năng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng này thanh tịnh, nên chiếu diệu khắp
cả mười phương, không có giới hạn ở một khu vực nào, không riêng ở một người
nào, và ai ai cũng có. Nếu khéo tu, thì ánh sáng ấy chiếu soi cùng khắp, như chư
Phật không thua không kém.
Lại một hiện tượng lạ nữa là, sau khi thâu nhiếp thần thông trở lại bình
thường, Phật tằng hắng và khảy móng tay. Hai tiếng ấy vang khắp mười phương
quốc độ, chúng sanh trong ấy nương sức thần của Phật, thấy ở cõi Ta-bà Phật đang
nói pháp và có Phật Đa Bảo ngồi trên tòa sư tử chứng minh. Hình ảnh ấy biểu
trưng ý nghĩa gì ? Nếu không tu học theo Thiền tông thì điều này chúng ta khó mà
hiểu được. Trong thiền sử Trung Hoa, mỗi khi có thiền tăng đến hỏi đạo, thì tổ
Lâm Tế không đáp bằng lời, mà chỉ đánh hoặc hét. Vậy cái đánh hoặc hét có tác
dụng gì đối với thiền tăng ? Tiếng hét chỉ là tiếng hét, cái đánh chỉ là cái đánh.
Thiền tăng nhân nghe tiếng hét, hoặc bị đánh, tỉnh ngộ, nhận ra tánh giác nơi mình.
Thiền tông gọi là kiến tánh hay ngộ đạo. Ngài Hương Nghiêm nghe tiếng viên
gạch chạm vào cây tre, liền ngộ đạo, trường hợp này khác nào tiếng khảy móng
tay ở đây ! Thông thường ngôn ngữ đều phát xuất từ ý niệm phân biệt đối đãi,
phàm ý niệm đối đãi không diễn đạt được chỗ cứu kính cùng tột. Vì vậy, khi muốn
chỉ cái cứu kính tột cùng thì các thiền sư hoặc hét, hoặc đánh, hoặc hư hư... Cũng
vậy, ở đây Phật tằng hắng, hay khảy móng tay, cốt để cho chúng sanh thâm nhập
cái cứu kính cùng tột đó, chớ không phải gây tiếng động để cho suy nghĩ. Vì cái
cứu kính cùng tột không hình tướng, không giới hạn, nên nói trùm khắp mười
phương, ở đây động thì tất cả nơi đều động, khiến cho mọi chúng sanh nhận tiếng
động đó, mà hướng về để nhận ra cái cứu kính chân thật.
Khi Phật hiện các tướng trên, thì chư thiên báo cho Bồ-tát và chúng Tỳ-
kheo biết là hiện tướng của Phật Thích-ca đang nói pháp ở cõi Ta-bà. Nên các vị
hướng về Ngài tùy hỷ và niệm “Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật”, đồng thời vói
tay rải hoa hương, trân bảo cúng dường Phật. Lúc bấy giờ mười phương cõi nước
thông đạt không ngại như một cõi Phật. Tới đây chúng ta thấy lý kinh quá rõ ràng,
là khi thể nhập được Tri kiến Phật thì mười phương đều thông đồng, không có
trong không có ngoài, không trên không dưới. Vì không trong không ngoài, không
trên không dưới, trùm khắp tất cả, nơi này thanh tịnh thì nơi khác cũng thanh tịnh,
ở đây không chướng ngại thì nơi khác cũng không chướng ngại. Nên nói mười
phương tức một, một tức mười phương, thông đồng, không riêng không khác.
3. CHÁNH VĂN :
* Khi đó, Phật bảo đại chúng bậc thượng hạnh Bồ-tát thảy: “Thần lực của
các đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng thần lực đó
trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp, vì để chúc lụy mà nói
công đức của kinh này vẫn chẳng hết được.
Nói tóm đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự tại của Như Lai,
tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của Như Lai đều tuyên bày rõ nói
trong kinh này, cho nên các ông sau khi Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc
tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời nói mà tu hành.
Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng
như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng,
hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi
hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.
Vì sao ? Phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức Phật ở đây mà được
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân, các
đức Phật ở đây mà nhập Niết-bàn.”
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Các Phật, đấng cứu thế
Trụ trong thần thông lớn
Vì vui đẹp chúng sanh
Hiện vô lượng thần lực:
Tướng lưỡi đến Phạm thiên
Thân phóng vô số quang
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này.
Tiếng tằng hắng của Phật
Cùng tiếng khảy móng tay
Khắp vang mười phương cõi
Đất đều sáu món động.
Sau khi Phật diệt độ
Người trì được kinh này
Các Phật đều vui mừng
Hiện vô lượng thần lực.
Vì chúc lụy kinh này
Khen ngợi người thọ trì
Ở trong vô lượng kiếp
Vẫn còn chẳng hết được
Công đức của người đó
Vô biên vô cùng tận
Như mười phương hư không
Chẳng thể được ngằn mé.
Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và các Phật phân thân.
Lại thấy ta ngày nay
Giáo hóa các Bồ-tát.
Người trì được kinh này
Khiến ta và phân thân
Phật Đa Bảo diệt độ
Tất cả đều vui mừng.
Mười phương Phật hiện tại
Cùng quá khứ vị lai
Cũng thấy cũng cúng dường
Cũng khiến được vui mừng.
Các Phật ngồi đạo tràng
Pháp bí yếu đã được
Người trì đọc kinh này
Chẳng lâu cũng sẽ được.
Người trì được kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh tự và lời lẽ
Ưa nói không cùng tận
Như gió trong hư không
Tất cả không chướng ngại.
Sau khi Như Lai diệt
Biết kinh của Phật nói
Nhân duyên và thứ đệ
Theo nghĩa nói như thật.
Như ánh sáng nhựt nguyệt
Hay trừ các tối tăm
Người đó đi trong đời
Hay dứt tối chúng sanh
Dạy vô lượng Bồ-tát
Rốt ráo trụ Nhứt thừa.
Cho nên người có trí
Nghe công đức lợi này
Sau khi ta diệt độ
Nên thọ trì kinh này
Người đó ở Phật đạo
Quyết định không có nghi.
GIẢNG :
Tới đây Phật qui kết, mọi thần lực mà Phật hiện, tuy nói là bất khả tư nghì,
song nếu đem vô số thần lực đó mà phó chúc và nói về công đức của kinh Pháp
Hoa, vẫn không nói hết được. Vì kinh Pháp Hoa là cái thể bao hàm tất cả thần
thông diệu dụng. Cho nên tu đừng có ham luyện thần thông, mà phải biết mình có
Tri kiến Phật, quay về sống với Tri kiến Phật, đừng chạy theo ngoại cảnh, thì được
thanh tịnh sáng suốt, phát ra vô số diệu dụng. Đừng kiếm tìm thần thông, vì thần
thông là tướng hư dối không thiệt, nếu nhập được thể thì mọi diệu dụng theo đó
mà có, không nhập được Thể mà tập cái Dụng thì đó chỉ là ngọn ngành tạm thời,
không phải cứu kính. Thế nên, người tu phải biết cái nào là gốc cái nào là ngọn.
Nếu cứ lo luyện thần thông mà bỏ quên cái thể, đó là tu theo ngọn mất gốc. Người
tu Phật chân chánh là thể nhập bản thể, lấy bản thể làm chính, rồi mọi thần thông
diệu dụng từ bản thể mà phát ra. Thế nên cái dụng không thể diễn đạt bản thể.
Sau nữa, Phật nói kinh Pháp Hoa ở đâu, thì ở đó nên dựng tháp cúng dường.
Gần đây chúng ta thấy quí vị in một lần đến năm bảy ngàn bộ, như vậy làm sao
dựng đủ tháp để thờ ? Đó là chúng ta chỉ biết kinh Pháp Hoa bằng văn tự chứ
không phải kinh Pháp Hoa vô tự chỉ cho Tri kiến Phật. Ở đâu mà có người ngộ
được Tri kiến Phật thì chỗ đó có Phật hiện, chỗ đó đáng cho chúng sinh dựng tháp
cúng dường. Vì vậy nên Phật nói kinh Pháp Hoa ở chỗ nào, thì chỗ đó là đạo tràng,
là chỗ chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và chuyển pháp
luân, nhập Niết-bàn cũng ở chỗ đó.
D
PHẨM 22: CHÚC LỤY
Chúc là phó chúc, giao phó, Lụy là dặn dò nhiều lần để duy trì mãi mãi.
Chúc lụy là phó chúc dặn dò sau chót, mà dặn dò nhiều lần. Thông thường
ở các kinh thì lời dặn dò sau rốt nằm ở cuối kinh, nhưng tại sao phẩm Chúc Lụy
nằm ở khoảng hai phần ba của bộ kinh Pháp Hoa ? Như vậy có ẩn chứa ý nghĩa gì ?
Có phải ngài La-thập khi phiên dịch đặt lộn chăng ? Đứng về mặt văn nghĩa chúng
ta thấy có phần mâu thuẫn, nhưng đứng trên lãnh vực tu hành thì ngài La-thập
không lầm lẫn. Vì ngang phẩm Hiện Bảo Tháp tới phẩm Chúc Lụy, là phần Thị và
Ngộ Phật Tri kiến. Khi Phật chỉ cho đệ tử ngộ Phật Tri kiến rồi, nên Phật có lời
dặn dò đệ tử nhớ bảo nhậm gìn giữ đừng để cho phiền não che khuất. Như vậy,
Phật kết thúc là kết thúc phần Thị và Ngộ Tri kiến Phật, để đi tới thực hành ở sau,
chớ không phải kết thúc toàn bộ kinh. Vì vậy mà phẩm Chúc Lụy nằm ngang đây.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật từ nơi pháp tòa đứng dậy, hiện
sức thần thông lớn, dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng đại Bồ-tát mà nói rằng:
“Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác khó được này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông
nên phải một lòng lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng.”
Phật ba phen xoa đảnh các đại Bồ-tát như thế mà nói rằng: “Ta ở trong vô
lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác khó được này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông phải thọ trì, đọc tụng
rộng tuyên nói pháp này cho tất cả chúng sanh đều được nghe biết.”
Vì sao ? Đức Như Lai có lòng từ bi lớn, không có tánh bỏn xẻn, cũng
không sợ sệt, có thể cho chúng sanh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai , trí huệ
tự nhiên. Như Lai là vị đại thí chủ tất cả chúng sanh các ông cũng nên thọ học
pháp của Như Lai, chớ sanh lòng bỏn xẻn. Ở đời vị lai nếu có người thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào tin trí huệ của Như Lai, thời các ông phải vì đó diễn nói kinh
Diệu Pháp Liên Hoa này khiến đều được nghe biết, vì muốn cho người đó được trí
huệ của Phật vậy.
Nếu có chúng sanh nào chẳng tin nhận thời phải ở trong pháp sâu khác của
Như Lai chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, các ông nếu được như thế thời là đã
báo được ơn của các đức Phật .
GIẢNG :
Sau khi Phật chỉ cho đệ tử Ngộ Tri kiến Phật rồi, tới đây Ngài xoa đảnh các
vị Bồ-tát ba lần mà căn dặn: Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp, tu tập
pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó được này, nay đem phó chúc cho các
ông, các ông phải thọ trì đọc tụng rộng tuyên nói pháp này, cho tất cả chúng sanh
đều được nghe biết. Phật đã tu tập pháp này đã thành Phật. Ngài bảo hàng đệ tử
cũng phải một lòng tu tập và truyền bá pháp này. Chúng ta nhớ Phật dạy tu tập rồi
mới truyền bá, chớ không phải truyền bá suông mà không tu tập.
Đến đây, Phật nêu lý do tại sao Ngài dặn dò như thế. Vì Phật là đấng Đại từ
bi, không có lòng bỏn xẻn, không sợ sệt, nên Phật muốn chỉ cho chúng sanh trí tuệ
Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên. Chúng sanh mỗi người ai cũng có sẵn trí tuệ
Phật, Phật mới chỉ cho biết để nhận ra, gọi đó là cho, chớ không phải Ngài cầm lấy
trí tuệ của Ngài đưa cho chúng sanh. Phật đã tu hành thành Phật; quả Phật là quả
rốt ráo, Ngài đã được như vậy rồi, bây giờ Ngài dạy lại cho đệ tử tu hành cũng
được như Ngài. Nếu Ngài có tâm bỏn xẻn chỉ dạy cho đệ tử tu thành La-hán, thành
Bồ-tát thôi, không dạy cho tu thành Phật, để quả vị độc tôn một mình Ngài được,
đó là Ngài bỏn xẻn. Nhưng Phật dạy cho tất cả chúng sanh tu để thành Phật như
Ngài, không chịu cho ai ở các quả vị thấp, nếu đệ tử không nỗ lực tu hành, còn ở
những tầng bậc thấp, Ngài quở rầy sách tấn cho tiến thêm, để viên thành quả Phật.
Như vậy Phật quá đại từ đại bi muốn ai cũng được như Ngài. Vì vậy nói Ngài là
Đại thí chủ. Ngài không muốn cho ai tu Phật mà được quả vị thấp hơn Ngài, ngoại
trừ độ người căn cơ thấp phải tùy thuận dùng phương tiện dẫn dắt từ thấp đến cao.
Đó là lòng từ bi và tâm bố thí của Ngài không có giới hạn.
Phật lại dặn các vị Bồ-tát, sau này nếu chỉ thẳng Tri kiến Phật là chỗ cứu
kính, mà người không hiểu không tin thì tùy đó mà linh động dạy các pháp khác,
miễn sao cho người được lợi ích được vui mừng, đó cũng là đền ơn Phật rồi. Vì
vậy, khi Phật mới thành đạo, thấy Chân lý tuyệt đối, Ngài muốn nói sợ người
không hiểu, nên Ngài hạ thấp xuống dùng phương tiện giảng dạy. Như vậy chúng
ta mới hiểu tại sao có những kinh nói khác, và kinh này lại nói khác. Đó là Phật vì
căn cơ chúng sanh nên giảng nói có sai biệt.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, các vị đại Bồ-tát nghe Phật nói thế rồi, đều rất vui mừng khắp đầy
nơi thân càng thêm cung kính, nghiêng mình cúi đầu chấp tay hướng Phật, đồng
lên tiếng bạch rằng: “Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính
xin Thế Tôn chớ có lo.”
Các chúng đại Bồ-tát ba phen như thế, đều lên tiếng bạch rằng: “Như lời
Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin đức Thế Tôn chớ có lo.”
Khi đó, đức Thích-ca Mâu-ni Phật khiến các đức Phật phân thân ở mười
phương đến, đều trở về bổn độ mà nói rằng: “Các Phật đều về yên chỗ, tháp của
Phật Đa Bảo được huờn như cũ.”
GIẢNG :
Ở trên Phật ba phen dặn dò rồi dưới đây các vị Bồ-tát ba phen hứa: “Như
lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin Thế Tôn chớ có lo”. Tới
đây là xong phần Thị và Ngộ Phật Tri kiến, nên Phật yêu cầu các Phật phân thân ở
mười phương đến, nên về lại bổn xứ và tháp Phật Đa Bảo trở về chỗ cũ. Ngang
đây là xong phần Khai, Thị, Ngộ.
3. CHÁNH VĂN :
* Phật nói lời đó rồi, vô lượng các đức Phật phân thân ở mười phương ngồi
trên tòa sư tử dưới cây báu, và Phật Đa Bảo cùng vô biên vô số đại chúng Bồ-tát,
bậc thượng hạnh thảy, ngài Xá-lợi- phất v.v... bốn chúng hàng Thanh văn và tất cả
trong đời: trời, người, a-tu-la v.v... nghe Phật nói rồi đều rất vui mừng.
GIẢNG :
Khi đã ngộ thì phải thực hành, nên Phật có lời phó chúc rồi thì Phật Hóa
thân và Phật Đa Bảo trở về bản quốc. Tới phần thực hành thì mỗi người tự hành,
tự sống. Phật không còn chỉ dạy nữa. Thính chúng trong pháp hội nghe Phật phó
chúc tất cả đều vui mừng.
D
PHẨM 23: DƯỢC VƯƠNG BỒ-TÁT BẢN SỰ
Dược Vương Bồ-tát Bản Sự là nói về việc xưa của Bồ-tát Dược Vương.
Thường thường trong kinh có chia ra bản sanh và bản sự. Bản sanh thì nói về
những kiếp quá khứ của Phật, còn bản sự thì nhắc lại việc làm đời trước của đệ tử
và những người khác. Chủ yếu của phẩm này là phá sắc ấm.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Tú Vương Hoa Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Ngài
Dược Vương Bồ-tát dạo đi nơi cõi Ta-bà như thế nào ? Thế Tôn ! Ngài Dược
Vương Bồ-tát đó, có bao nhiêu trăm nghìn muôn ức na-do-tha hạnh khổ khó làm ?
Hay thay Thế Tôn ! Nguyện giải nói cho một ít, các hàng trời, rồng, dạ- xoa, cànthát-bà,
a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân v.v... và
các vị Bồ-tát ở các nước khác đến cùng chúng Thanh văn đây nghe đều vui
mừng.”
GIẢNG :
Mở đầu phẩm này, người đương cơ đứng ra thưa hỏi là Bồ-tát Tú Vương
Hoa. Tú Vương Hoa là vua của loài hoa đẹp. Tại sao lại có một Bồ-tát kiều diễm
như vậy ? Người tu nếu đem thân nhơ nhớp ô uế để hành hạnh Bồ-tát thì sẽ được
báo thân tốt đẹp. Nên khi đề cập tới Bồ-tát Dược Vương muốn đem thân cúng
dường Phật, thì vị Bồ-tát đứng ra thưa hỏi phải là Bồ-tát có thân tươi đẹp.
Đây bắt đầu phần Nhập Tri kiến Phật. Trước đã ngộ, bây giờ nhập. Muốn
Nhập Tri kiến Phật trước phải làm sao ? Là thiêu đốt thân tức phá sắc uẩn. Thông
thường nếu người nặng vật chất thì quên tinh thần, và ngược lại người trọng tinh
thần thì xem thường vật chất. Thế nên muốn Nhập Tri kiến Phật, hay muốn sống
với cái thanh tịnh sáng suốt của mình thì phải xem thường thân thể, nếu còn trọng
thân thể thì không sống được với Tri kiến Phật. Nên bắt đầu Nhập Tri kiến Phật thì
phải coi thường thân tứ đại.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ-tát: “Về thuở quá khứ vô lượng
Hằng hà sa kiếp trước, có Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Phật đó có tám mươi ức đại Bồ-tát, bảy mươi hai Hằng hà sa chúng đại
Thanh văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, Bồ-tát sống lâu cũng bằng
Phật. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la v.v... và
với các khổ nạn. Đất bằng như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang
nghiêm, màn báu trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu, lò hương, khắp cùng
cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn
tên. Các cây báu đó đều có Bồ-tát, Thanh văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều có
trăm ức chư thiên trỗi kỹ nhạc trời ca khen đức Phật để làm việc cúng dường.
GIẢNG :
Phật nói về công hạnh tu hành của những Bồ-tát trước đã hành, để người
sau ứng dụng tu theo. Ngài kể từ thuở trước có đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức
Như Lai ra đời, Ngài có rất đông đệ tử Bồ-tát, Thanh văn, quốc độ Ngài thanh tịnh
và đẹp quí, không có điều ác và khổ, tất cả những cây cối trong nước Ngài đều có
đài, mỗi cây có một đài, mỗi cây đều có một vị Bồ-tát hoặc Thanh văn ngồi ở dưới,
giống như một khu rừng dưới mỗi cây thông có tòa cho người ngồi tu. Cách nhau
một trăm thước, có một vị ngồi thiền yên lặng thanh tịnh. Đây đưa ra hình ảnh
trước, để nói lên cái nhân tu của Bồ-tát Dược Vương.
3. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, đức Phật đó vì ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát,
cùng chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn nói kinh Pháp Hoa. Ngài Nhứt Thiết
Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát đó ưa tu tập khổ hạnh, ở trong pháp hội của đức Nhựt
Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn
một muôn hai nghìn năm được “Hiện nhứt thiết sắc thân tam-muội”.
Được tam-muội đó rồi lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng: “Ta được “Hiện
nhứt thiết sắc thân tam-muội” này đều là do sức được nghe kinh Pháp Hoa, ta nay
nên cúng dường Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và kinh Pháp Hoa.”
Tức thời nhập tam-muội đó, ở giữa hư không rưới bông mạn-đà-la, bông
ma-ha mạn-đà-la, cùng bột kiên hắc chiên-đàn đầy trong hư không như mây mà
rưới xuống. Lại rưới hương hải thử ngạn chiên-đàn, sáu thù hương này giá trị cõi
Ta-bà để cúng dường Phật .
Cúng dường thế đó rồi, từ tam-muội dậy mà tự nghĩ rằng: “Ta dầu dùng
thần lực cúng dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường.” Liền uống các
chất thơm: chiên-đàn, huân lục, đâu-lâu- bà, tất-lực-ca, trầm thủy giao hương; lại
uống dầu thơm các thứ bông chiêm-bặc v.v... mãn một nghìn hai trăm năm, rồi lấy
dầu thơm xoa thân, ở trước đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật dùng y báu cõi
trời mà tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùng sức nguyện thần thông mà tự
đốt thân.
Ánh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới, các đức Phật trong
đó đồng thời khen rằng: “Hay thay ! Hay thay ! Thiện nam tử ! Đó là chân thiệt
tinh tấn gọi là chân pháp cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc,
hương đốt, hương bột, hương xoa, phan lọng bằng lụa cõi trời và hương hải thử
ngạn chiên-đàn, dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng được.
Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện nam tử ! Đó gọi là
món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn rất thượng, bởi dùng pháp cúng
dường các đức Như Lai vậy.” Các đức Phật nói lời đó rồi đều yên lặng. Thân của
Bồ-tát lửa cháy một nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ-tát mới hết.
GIẢNG :
Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến là tiền thân của Bồ-tát Dược Vương,
lúc bấy giờ Ngài chuyên tu khổ hạnh và nghe kinh Pháp Hoa ở trong pháp hội của
Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ngài được chánh định Hiện Nhứt Thiết Sắc
Thân, tức là thấy rõ thấy đúng như thật sắc thân này. Thấy sắc thân này như thế
nào ? Đối với người ngộ được Tri kiến Phật thanh tịnh, thấy rõ sắc thân tứ đại
sanh diệt này như hòn bọt trên mặt biển, chợt nổi rồi tan; hòn bọt sánh với đại
dương không đáng kể, nó chợt hiện chợt mất như mộng như huyễn. Thấy như thế
gọi là được Chánh định hiện nhứt thiết sắc thân. Sau khi được chánh định thì Bồ-
tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến phát tâm cúng dường Phật Nhựt Nguyệt Tịnh
Minh Đức. Ngài liền nhập tam-muội đó, bèn ở giữa hư không rưới những thù
hương hoa để cúng dường Phật. Thù là một dụng cụ cân lường, sáu thù bằng một
phần tư lượng. Một phần tư lượng hương hải thử ngạn chiên-đàn, trị giá bằng cõi
Ta-bà mà chúng ta đang ở, nó quí như thế.
Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến do nghe kinh Pháp Hoa, mà được
Nhứt thiết sắc thân tam-muội. Ngài thấy rõ diệu dụng của kinh Pháp Hoa và công
đức giáo hóa lớn lao của Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức, nên Ngài đã dùng tất
cả hương hoa thơm để cúng Phật. Tuy đã cúng dường hương hoa mà Ngài chưa
mãn nguyện, Ngài lại còn ướp hương vào thân mình châm lửa thiêu để cúng
dường Phật. Và khi Ngài thiêu thân cúng dường, thì được các đức Phật mười
phương khen ngợi là chân thật tinh tấn, là chân pháp cúng dường Như Lai. Cúng
dường hoa hương chuỗi ngọc quí giá, hay bố thí quốc thành thê tử công đức không
bằng thiêu thân cúng dường. Như vậy là sao ?
Giáo lý của Phật có nói đến bố thí, bố thí ngoại tài và bố thí nội tài. Ngoại
tài là những thứ thuộc về con người: như quốc thành, thê tử, hương hoa, phan
lọng... Những thứ này tuy quí nhưng giá trị có giới hạn, nên phước cũng giới hạn.
Nội tài là chính bản thân con người, là cái không tự làm thành được nên rất quí. Vì
vậy mà người dám đốt thân cúng dường Phật, công đức không thể tính kể. Nhưng,
ở đây chúng ta phải hiểu nghĩa đốt thân, đúng với tinh thần kinh Pháp Hoa là, khi
người nhập Tri kiến Phật coi thường thân tứ đại, nên đốt thân mình để cúng dường
Phật, mà đốt thân là phá sắc ấm và tiếp tục phá luôn thọ, tưởng, hành, thức ấm.
Năm ấm phải phá sạch mới tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Người nhập được Tri kiến Phật đầu tiên là phá sắc ấm, thấy rõ thân tứ đại
do cha mẹ sanh là vô thường huyễn hóa không thật, không có giá trị. Thấy như thế
thì không lệ thuộc nó, không bị nó chi phối làm cho phiền não khổ đau, vì không
còn quí trọng nó, dùng nó làm phương tiện để truyền bá chánh pháp làm lợi ích
cho chúng sanh. Thấy và thực hành như vậy là đốt thân hay đem thân cúng dường
Phật. Chớ không phải ngộ đạo rồi đốt thân, đốt như thế vô tình làm cho Phật pháp
sớm hoại diệt. Vì ai ngộ đạo rồi cũng đốt thân cháy thành tro, thì còn ai truyền bá
Phật pháp ? Vậy muốn nhập Tri kiến Phật, đầu tiên là phá sắc ấm, ở đây gọi là đốt
thân cúng dường Phật, đốt thân cúng dường Phật là bố thí thân trên hết. Tại sao ?
Vì những vật ngoài thân có thể làm ra được, còn thân này không tự làm thành
được. Phá chấp ngã về thân, không quí trọng nó nữa, trải thân ra làm lợi ích cho
mọi người, thật vô vàn khó khăn, nên nói bố thí thân là cao hơn cả. Xưa Đại sư Trí
Giả đọc kinh Pháp Hoa tới đoạn này Ngài được chánh định, thấy Phật Thích-ca
đang thuyết pháp trên hội Linh Sơn. Ngài đã nhập Pháp Hoa tam-muội, nên sau
này Ngài giảng tựa kinh Diệu Pháp Liên Hoa suốt một tuần lễ. Đó là Ngài đã được
ngôn ngữ tam-muội. Chỗ này đáng cho chúng ta lưu ý.
4. CHÁNH VĂN :
* Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát làm việc pháp cúng dường
như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của Nhựt Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật, ở nơi nhà vua Tịnh Đức bỗng nhiên ngồi xếp bằng hóa sanh ra,
liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
Đại vương nay nên biết !
Tôi kinh hành chốn kia
Tức thời được Nhứt thiết
Hiện chư thân tam-muội
Siêng tu rất tinh tấn
Bỏ thân thể đáng yêu
Cúng dường đức Thế Tôn
Để cầu huệ Vô thượng.
Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: “ Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật
nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật xong, được “Giải nhứt thiết chúng
sanh ngữ ngôn đà-la-ni” lại nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức nado-tha,
chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà, các bài kệ.
Đại vương ! Tôi nay lại nên cúng dường đức Phật đó.” Thưa xong, liền
ngồi đài bảy báu, bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la, qua đến chỗ Phật đầu
mặt lạy chưn, chấp tay nói kệ khen Phật:
Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân thấy.
GIẢNG :
Thân thấy, có nghĩa là chính mắt mình được thấy, chớ không phải nghe
người ta nói. Sau khi Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến đốt thân cúng dường
xong, thì Ngài hóa sanh trở lại, để gặp và lễ Phật, rồi tiếp tục công việc giáo hóa.
Như vậy Ngài xả thân sắc ấm để cầu trí tuệ Phật, coi như Ngài đã chết, kỳ thật
Ngài có chết không ? Bồ-tát xả kiến chấp về thân, không còn thấy thân tứ đại là
thật ngã nên ngộ Phật pháp thân.
5. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát nói kệ xong mà
bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Đức Thế Tôn vẫn còn ở đời ư ?”
Bấy giờ, đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng
Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát rằng: “Thiện nam tử ! Giờ ta nhập Niết-bàn đã đến, giờ diệt
tận đã đến, ông nên sắp đặt giường tòa, ta trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn.”
Phật lại bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát rằng: “Thiện nam
tử ! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông, và các Bồ-tát đại đệ tử cùng pháp Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng đem cõi thất bảo tam thiên đại thiên các cây
báu, đài báu và hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông.
Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá-lợi cũng phó chúc cho ông, nên làm cho
lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao nhiêu nghìn tháp.”
Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh
Hỉ Kiến Bồ-tát như thế rồi, vào khoảng cuối đêm nhập Niết-bàn.
GIẢNG :
Khi thấy Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến xả thân để cúng dường, thì
Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức tin tưởng giao phó, nào là chánh pháp, nào là
bốn chúng, nào là của cải, đồng giao phó nốt, để vào Niết-bàn. Vì Ngài yên lòng
đã có người thay thế Ngài để gánh vác bảo trì Phật pháp.
6. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát thấy Phật diệt độ
buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùng hải thử ngạn chiên-đàn làm giàn
để cúng dường thân Phật mà thiêu đó.
Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá-lợi đựng trong tám muôn bốn nghìn bình báu,
để xây tám muôn bốn nghìn tháp, cao ba thế giới, chưng dọn trang nghiêm thòng
các phan lọng treo các linh báu.
Bấy giờ, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát lại tự nghĩ rằng: “Ta
dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên cúng dường xá-lợi.”
Liền nói với các Bồ-tát đại đệ tử và trời, rồng, dạ-xoa v.v... tất cả đại chúng rằng:
“Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá- lợi của đức Nhựt Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật.” Nói xong liền ở trước tám muôn bốn nghìn tháp đốt cánh
tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy muôn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến
vô số chúng cầu Thanh văn, vô lượng vô số người phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, đều làm cho trụ trong “Hiện nhứt thiết sắc thân tam-muội”.
Lúc đó, các Bồ-tát, trời, người, a-tu-la v.v... thấy Ngài không có tay bèn sầu
khổ buồn thương mà nói rằng: “Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát này
là thầy chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ.”
Lúc ấy, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát ở trong đại chúng lập
lời thề rằng: “Tôi bỏ hai tay ắt sẽ được thân sắc vàng của Phật, nếu thiệt không dối,
thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ.” Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn
phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ-tát cảm nên.
Đương lúc đó cõi tam thiên đại thiên thế giới sáu điệu vang động, trời rưới
hoa báu, tất cả người, trời được việc chưa từng có.
GIẢNG :
Sau khi Phật ký thác cho Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến phải duy
trì chánh pháp, phải giáo hóa đệ tử và duy trì sự nghiệp của Phật. Tới đây Bồ-tát
đốt luôn hai cánh tay để cúng dường tháp Phật. Vậy đốt hai cánh tay hàm chứa ý
nghĩa gì ? Trước đốt thân là xả kiến chấp ngã nơi thân sắc uẩn, hy sinh thân để làm
lợi ích cho chúng sanh. Nếu chỉ phá chấp ngã nơi thân, mà còn mắc kẹt kiến chấp
nơi tâm, thấy có không, thiện ác... là kiến chấp hai bên, không thể đến quả Phật
được. Vì vậy mà phải phá luôn cái thấy hai bên, qua hình ảnh biểu trưng là đốt hai
cánh tay. Ngay phẩm Tựa đã nói lên ý nghĩa này với hình ảnh Phật phóng quang
giữa chặng mày. Đến đây chúng ta lại càng thấy rõ hơn, nếu xem thường thân sắc
uẩn, hy sinh thân sắc uẩn mà còn kiến chấp hai bên, thì chưa đến chỗ giải thoát
viên mãn, vì còn kẹt trong đối đãi hai bên nên phải phá nốt.
Sau khi đốt hai cánh tay rồi, Ngài thề rằng: “Tôi bỏ hai tay ắt sẽ được thân
sắc vàng của Phật, nếu thật không dối, thì khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ.” Nói
lời thề xong, hai tay tự nhiên hoàn phục. Rõ ràng là phá được kiến chấp hai bên thì
nhất định sẽ được kết quả thành Phật không nghi ngờ.
Hạnh thứ nhất của Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến là phá chấp thân
sắc uẩn, hạnh thứ hai là phá kiến chấp hai bên.
7. CHÁNH VĂN :
* Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ-tát: “Ý ông nghĩ sao ? Nhứt Thiết
Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính nay là ông Dược Vương
Bồ-tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na-do-tha
như thế.
Tú Vương Hoa ! Nếu người phát tâm muốn được đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, có thể đốt một ngón tay nhẫn đến một ngón chưn để cúng dường
tháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi tam thiên đại thiên, núi rừng,
sông ao, các vật trân báu mà cúng dường.
Nếu lại có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi tam thiên đại thiên cúng
dường nơi Phật, cùng đại Bồ-tát, Duyên giác và A-la-hán, công đức của người đó
được chẳng bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu,
phước của người này rất nhiều.
GIẢNG :
Phật kết thúc, Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến là tiền thân của Bồ-
tát Dược Vương, Bồ-tát Dược Vương không phải hy sinh một đời mà hy sinh
nhiều đời, đem thân cúng dường Phật như vậy. Nên Phật mới nói nếu ở đời có
người muốn cầu thành Phật đạo, chỉ cần đốt một ngón chân hoặc một ngón tay
cúng dường tháp Phật, còn hơn đem quốc thành thê tử và vật báu ở cõi tam thiên
đại thiên cúng dường. Như vậy bố thí nội tài quí hơn bố thí ngoại tài.
Hơn thế nữa, người trì kinh Pháp Hoa lại còn quí hơn. Tại sao vậy ? Vì vật
báu tuy là quí, nhưng sanh diệt vô thường, đem tướng sanh diệt vô thường mà cầu
Phật đạo tuy có phước, nhưng chưa viên mãn, không bằng quay lại sống với Tri
kiến Phật không sanh không diệt, có sẵn nơi mình mới là viên mãn cứu kính.
Chúng ta thấy Phật dạy quá rõ ràng, nhưng mà sau này có nhiều người đọc kinh
Pháp Hoa, hoặc đọc trong giới Bồ-tát thấy Phật dạy đốt thân cúng dường Phật, bèn
đốt tay, hoặc đốt chân, hoặc đốt liều trên đầu... để cúng dường Phật, việc làm này
rất thạnh hành, song mâu thuẫn mà người ta không biết mình đang kẹt trên hình
tướng. Tại sao ? Trong giới bổn Phật có dạy: Người thiếu tay thiếu chân có tật,
không được thọ giới Tỳ-kheo. Nếu không được thọ giới Tỳ-kheo thì làm sao
truyền bá chánh pháp mà cho rằng Phật dạy đốt thân? Trong luật Phật đã không
cho người có tật thọ giới, nếu người mới học đạo, nghe kinh rồi chấp tướng bèn
đốt tay cúng dường Phật, tới chừng thọ giới Tỳ-kheo, không được thọ thì sao đây ?
Quí vị có thấy mâu thuẫn không ? Nếu chúng ta hiểu đốt tay chân, đốt một phần
thân xác là thể hiện tinh thần xả thân, xem nhẹ thân sắc uẩn, để tu hành và làm lợi
ích cho chúng sanh, tiến tới quả Phật thì có ý nghĩa. Tôi có sống gần với những vị
đốt một hai ngón tay. Hồi đốt, không biết họ phát nguyện như thế nào, nhưng rồi
họ cũng quí thân và ích kỷ quá ! Lại có nhiều người đốt trên đầu tới chín liều, thế
mà rồi họ cũng cởi áo hoàn tục, sống thường tình như bao nhiêu người khác ! Như
vậy là sao ? Thoạt thấy như họ hy sinh rất mạnh, nhưng kỳ thật đó là một việc làm
do chấp tướng mà ra. Thậm chí còn có quan niệm đốt liều nhiều là lớn, không đốt
liều là nhỏ. Thật là lệch lạc ! Thế nên phải hiểu cho thật rõ.
Hồi xưa khi còn học, tôi thắc mắc chỗ này lắm, thấy quí Hòa thượng khác
có đốt liều, sao Hòa thượng Giám đốc Ấn Quang và Hòa thượng Viện trưởng Viện
Hóa Đạo không đốt ? Tôi mới thưa hỏi thì Hòa thượng cười nói: “Ai muốn nguyện
gì thì nguyện.” Ngài chỉ trả lời như vậy thôi. Chúng ta mới thấy nguyện xả thân để
lo cho đạo mới là chủ yếu. Đốt thân mà không có chí nguyện quên mình vì đạo, dù
cho đốt nhiều tới đâu rồi cũng chỉ là việc làm của buổi đầu thôi. Vì vậy khi tôi thọ
giới Bồ-tát cũng không đốt liều nào. Chúng ta làm điều gì phải hiểu lý cho thật
vững, chớ đừng thấy người làm rồi đua nhau làm theo, như vậy cũng hơi nguy
hiểm, sẽ làm cho Phật pháp suy vi.
8. CHÁNH VĂN :
* Tú Vương Hoa ! Thí như trong các dòng nước: sông ngòi, kinh rạch thời
biển là lớn thứ nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh của đức
Như Lai nói rất là sâu lớn.
Lại như trong các núi non: thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu Thiết-vi, núi đại Thiếtvi
cùng mười núi báu thời núi Diệu Cao bậc nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như
thế, ở trong các kinh rất là bậc thượng.
Lại như trong các ngôi sao, mặt trăng là bậc nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng
như thế, ở trong nghìn muôn ức các kinh, pháp này rất là sáng.
Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, kinh này cũng thế, hay phá tất cả
sự tối bất thiện.
Lại như trong các vua nhỏ, vua Chuyển Luân Thánh vương rất là bậc nhứt,
kinh này cũng như thế, ở trong các kinh là bậc tôn kính hơn cả.
Lại như Đế-thích là vua trong ba mươi ba cõi trời, kinh này cũng thế, là vua
trong các kinh.
Lại như trời Đại Phạm thiên vương là cha của tất cả chúng sanh, kinh này
cũng thế, là cha của tất cả Hiền Thánh: bậc hữu học, vô học cùng hàng phát lòng
bồ-đề.
Lại như trong tất cả phàm phu thời bậc Dự lưu, Nhứt lai, Bất lai, Vô sanh,
Duyên giác là bậc nhứt, kinh này cũng như thế, tất cả Như Lai nói hoặc Bồ-tát nói,
hoặc Thanh văn nói, trong các kinh pháp là bậc nhứt hơn cả, có người thọ trì kinh
điển này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sanh cũng là bậc nhứt.
Trong tất cả Thanh văn cùng Duyên giác, Bồ-tát là bậc nhứt, kinh này cũng
thế, trong tất cả các kinh pháp rất là bậc nhứt.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng thế , là vua của các kinh.
GIẢNG :
Đức Phật nói rằng tất cả các cách bố thí ở trên, không bằng thọ trì kinh
Pháp Hoa. Tới đây Phật mới tán thán giá trị của kinh Pháp Hoa sánh với tất cả
kinh khác thì kinh Pháp Hoa là bậc nhứt, là vua của tất cả kinh.
9. CHÁNH VĂN :
* Tú Vương Hoa ! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, kinh này có thể
làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích cho tất cả
chúng sanh, đầy mãn chỗ mong cầu của chúng như ao nước trong mát có thể đầy
đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng được y
phục, như người buôn được chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như
người bệnh gặp thầy thuốc, như tối được đèn, như nghèo được của báu, như dân
gặp vua, như khách buôn được biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng
thế, có thể làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở
sự trăn trói của tất cả sanh tử.
Nếu người được nghe kinh Pháp Hoa này, hoặc chép, hoặc bảo người chép,
được công đức, dùng trí huệ Phật tính lường nhiều ít chẳng thể được ngằn mé đó.
Nếu chép kinh sách này, dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột,
hương xoa, phan, lọng, y phục, các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu
thơm, đèn dầu chiêm-bặc, đèn dầu tu-mạn-na, đèn dầu ba-la-la, đèn dầu bà-lợi-sư-
ca, đèn dầu na-bà-ma-lợi đem cúng dường, được công đức cũng là vô lượng.
GIẢNG :
Kinh Pháp Hoa có diệu dụng là cứu tất cả khổ ách cho chúng sanh. Chúng
sanh nào biết trì tụng kinh Pháp Hoa, thì mọi khổ não đều hết sạch. Giống như
người khát gặp nước, người đói gặp cơm, người lạnh gặp lửa, người trần truồng
gặp y phục, như tối được đèn, nghèo được của báu... Như vậy, kinh Pháp Hoa là
bộ kinh làm cho chúng sanh xa rời mọi khổ não tật bệnh, mở hết mọi sự trói buộc
ở trong sanh tử. Tại sao ? Vì kinh Pháp Hoa chỉ Tri kiến Phật cho mọi người, ai
nhận ra và hằng sống với Tri kiến Phật thì không còn thấy đói khổ. Tri kiến Phật
không phải là thân tứ đại, đã không phải là thân tứ đại thì làm gì có đói, có khát,
có lạnh, có nóng...? Nếu không đói, không khát, không lạnh, không nóng, thì đâu
có phiền não làm nhân dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Cho nên nói kinh Pháp Hoa
cứu tất cả khổ cho tất cả chúng sanh.
Sau đó, Phật nói công đức của kinh Pháp Hoa, người nào thọ trì, đọc tụng,
biên chép công đức vô lượng, trí tuệ Phật cũng không thể tính đếm được. Tại sao
trí tuệ Phật trùm khắp, mà không thể biết được công đức kinh Pháp Hoa ? Chúng
ta nhớ trong Thiền tông, khi nói tới chỗ cứu kính thì nói chỗ đó mắt Phật nhìn
cũng không thấy nữa. Tại sao? Vì chỗ cứu kính đó không có tướng mạo, bởi
không có tướng mạo nên không có con mắt nào thấy được; mắt quỉ thần, mắt chư
thiên, kể cả mắt Phật cũng không thấy, chỉ ai ngộ được thì người đó tự biết thôi.
Chứ người khác không thể căn cứ trên hình tướng mà thấy được.
10. CHÁNH VĂN :
* Tú Vương Hoa ! Nếu có người nghe phẩm “Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự”
này cũng được vô lượng vô biên công đức.
Nếu có người nữ nghe phẩm “Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự” này mà có thể
thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không còn thọ lại nữa.
Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh
điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ
xứ của đức A-di-đà Phật cùng chúng đại Bồ-tát vây quanh, mà sanh trên tòa báu
trong hoa sen.
Chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng giận dũi, ngu
si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu mạn ganh ghét các tánh nhơ làm khổ, được
thần thông Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát, được pháp nhẫn đó thời nhãn căn thanh
tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức na-do-tha Hằng
hà sa các đức Phật Như Lai.
Bấy giờ, các đức Phật đồng nói khen rằng: “Hay thay ! Hay thay ! Thiện
nam tử ! Ông có thể ở trong pháp hội của đức Thích-ca Mâu-ni Phật mà thọ trì đọc
tụng suy gẫm kinh này vì người khác nói, ông được công đức vô lượng vô biên,
lửa chẳng đốt được, nước chẳng trôi được, công đức của ông, nghìn Phật chung
nói chẳng thể hết được. Ông nay đã có thể phá các giặc ma, hoại quân sanh tử, các
oán địch khác thảy đều trừ diệt.
Thiện nam tử ! Trăm nghìn các đức Phật dùng sức thần thông đồng chung
thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai bằng ông. Chỉ trừ các đức Như Lai,
bao nhiêu thiền định trí huệ của các Thanh văn, Duyên giác, nhẫn đến Bồ-tát
không có ai bằng ông.
Tú Vương Hoa ! Vị Bồ-tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế.”
GIẢNG :
Đến đây, có điều khiến chúng ta để ý là, Phật giảng hơi nghiêng về phái nữ.
Như chúng ta đã biết, trong tất cả ái, ái thân là số một, và trong hai phái, phái nữ
tình cảm dồi dào, vì vậy nói mẹ thương con như biển cả, chớ không nói cha
thương con như biển cả. Thế nên ở đây, nói tới tu hành, phá chấp thân sắc uẩn, thì
nhấn mạnh người nữ. Vì người nữ ái thân nặng, nên mới trang điểm thân sắc cho
đẹp, người nào trang điểm nhiều là người đó ái thân nhiều, người ít trang điểm là
người đó ái thân ít. Ở đây Phật dạy người nữ nghe phẩm Dược Vương Bổn Sự mà
thọ trì đọc tụng thì hết báo thân phụ nữ, tức là sạch ái nhiễm. Tại sao ? Vì khi ngộ
được Tri kiến Phật, thấy rõ thân sắc uẩn là huyễn hóa tạm bợ, không còn chấp thân
thì ái cái gì? Không chấp và không ái thân thì đâu còn tái sanh làm người nữ nữa.
Như vậy, sau khi Phật diệt độ thì người nữ đó sanh về cõi Phật A-di-đà, được tự
tại an lạc. Sở dĩ chúng ta đau khổ là do ái ngã, nghe lời nói nặng ngủ không được,
là vì cái ngã bị xúc chạm, mất một chút quyền lợi ngủ không ngon, vì ngã sở bị
mất mát... tất cả khổ ách đều từ ái ngã mà ra, bây giờ nếu dứt được tâm ái ngã thì
không phải ở Cực lạc là gì ?
Sau đây Phật nói tiếp, nếu người phá được tâm ái ngã thì không còn bị tham
dục làm khổ, không còn bị sân giận làm khổ, không còn bị ngu si làm khổ, không
còn bị kiêu mạn ganh ghét làm khổ... Do ái ngã nên mới ngu si, do ái ngã nên mới
có tham dục, do ái ngã nên mới giận dữ... Nếu phá được tâm ái ngã thì hết ngu si,
hết tham dục, hết sân giận...
Do không còn chấp thân, không còn ái ngã nên không còn sanh tử. Đã
không sanh tử thì lửa làm sao đốt, nước làm sao cuốn trôi, nhận chìm ? Tất cả oán
tặc không làm hại, không làm khổ được, nên nói phá hoại được quân ma sanh tử,
các oán địch khác thảy khác đều trừ diệt.
Tới đây chúng ta thấy hình ảnh đẹp của Bồ-tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ
Kiến, sau khi đốt thân sẽ được hoàn thân đẹp thêm, sau khi đốt tay sẽ được hoàn
tay đẹp hơn. Như vậy để thấy rằng, khi chúng ta phá chấp sắc thân rồi, thì từ đó về
sau được thân đẹp hơn, nên người đương cơ hỏi Phật phép tu để phá sắc ấm là Bồ-
tát Tú Vương Hoa.
11. CHÁNH VĂN :
* Nếu có người nghe phẩm “Dược Vương Bồ-tát Bản Sự” này mà có thể
tùy hỉ khen ngợi, thời người đó trong đời hiện tại trong miệng thường thoảng ra
mùi thơm hoa sen xanh; trong lỗ chân lông nơi thân thường thoảng ra mùi thơm
ngưu đầu chiên-đàn, được công đức như đã nói ở trên.
Tú Vương Hoa ! Vì thế ta đem phẩm “Dược Vương Bồ-tát Bản Sự” này
chúc lụy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộng
truyền ở cõi Diêm-phù-đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trời,
rồng, dạ- xoa, cưu-bàn-trà v.v... phá khuấy được.
Tú Vương Hoa ! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn kinh này. Vì sao?
Vì kinh này là món lương dược của người bệnh trong cõi Diêm-phù-đề; nếu người
có bệnh được nghe kinh này bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Tú Vương Hoa ! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, phải dùng hoa sen
xanh đựng đầy hương bột rải trên người đó. Rải xong nghĩ rằng: “Người này
chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng phá các quân ma, sẽ thổi ốc
pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bệnh,
chết”.
Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này, nên phải
sanh lòng cung kính như thế.
GIẢNG :
Đối với phẩm kinh này, ai mà đầy đủ lòng tin hoặc sanh lòng tùy hỉ, thì
người đó châu thân đẹp đẽ, sạch sẽ không có hôi hám dơ dáy. Vì không còn chấp
thân, không ái thân, thì đâu có niệm xấu ác bẩn thỉu qui về thân nên ma quái
không thể phá được.
Bệnh chung của chúng sanh ở cõi này là chấp ngã, chấp ngã nơi thân sắc
uẩn là nặng nhất, mà chấp thân là khổ. Nếu không còn chấp thân thì bệnh khổ đâu
còn, không phải thuốc hay là gì ? Giả sử như thân đau oằn oại, mà thấy thân là
huyễn hóa không thật, thì không bị cái đau chi phối nên không khổ. Nếu còn chấp
thân, thương thân, thấy thân bệnh, buồn lo nên khổ. Còn chấp thân là còn bệnh còn
khổ. Nếu ứng dụng phẩm này như lời Phật dạy, thì không còn bệnh, không còn già,
không còn chết. Đối với bệnh, già, chết thấy như trò đùa, không có tác dụng làm
cho người khổ đau. Như vậy, người phá được chấp ngã nơi thân thì người đó được
tự tại, người đó sẽ ngồi đạo tràng, và mọi người nên cúng dường các thứ hoa báu.
Vì người đó sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và sẽ nói pháp độ
chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bệnh, chết.
12. CHÁNH VĂN :
* Lúc đức Phật nói phẩm “Dược Vương Bồ-tát Bản Sự “ này, có tám muôn
bốn nghìn Bồ-tát được pháp “Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn đà-la-ni”.
Đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu, khen ngài Tú Vương Hoa Bồ-tát
rằng: “Hay thay ! Hay thay! Tú Vương Hoa ! Ông thành tựu bất khả tư nghì công
đức mới có thể hỏi đức Thích-ca Mâu-ni Phật việc như thế, làm vô lượng lợi ích
cho tất cả chúng sanh.”
GIẢNG :
Tới đây chúng ta lại có chút nghi vấn: Trước nói Phật Đa Bảo hoàn chỗ cũ,
sao bây giờ Ngài ở trong tháp khen ngợi Bồ-tát Tú Vương Hoa ? Như chúng ta đã
biết Phật Đa Bảo là Phật Pháp thân, mà Phật Pháp thân thì không rời Báo thân và
Hóa thân, nên không lúc nào Ngài vắng mặt khi còn nói kinh Pháp Hoa.
Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự, chỉ cho chúng ta một phương thuốc để
trị bệnh sanh, già, bệnh, chết. Phương thuốc ấy là “không chấp, không ái thân sắc
uẩn, và buông xả kiến chấp hai bên đối đãi”. Đó là vị vua thuốc trên tất cả loài
thuốc. Người nào uống được thuốc này thì sẽ được đầy đủ thân sắc vàng, tức là
Phật Pháp thân hiển hiện. Vậy ai thấy mình chấp ngã, ái ngã nặng, hãy trì tụng
phẩm kinh này thường xuyên, không lựa là các cô mang thân xác phụ nữ, hễ chấp
ngã, ái ngã nhiều, dù là mang thân nam nhân, vẫn được coi là các cô như phẩm
này nói. Đọc kinh Đại thừa, nếu chúng ta chỉ hiểu trên chữ nghĩa, thì không thông
được lý Phật dạy, thấy như Phật nói chuyện đàn bà con nít đâu đâu, kỳ thật là dạy
chúng ta tu rất thực tế.
D
PHẨM 24: DIỆU ÂM BỒ-TÁT
Diệu Âm là tiếng nói hay đẹp nhiệm mầu. Tiếng nói như thế nào là nhiệm
mầu ? Căn cứ trên nhân tu để được cái quả của một Bồ-tát. Bồ-tát Diệu Âm do
nhiều đời nhiều kiếp tu hạnh cúng dường chư Phật âm nhạc và bát báu, nên được
tiếng nói nhiệm mầu. Đó là nói theo nghĩa thông thường, còn nói theo lý thì ở
phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự khi phá sắc ấm thì Bồ-tát đốt thân và hai tay,
vào Sơ địa và Nhị địa Bồ-tát. Giờ đây phẩm Diệu Âm Bồ-tát phá thọ ấm vào Tam
địa Tứ địa Bồ-tát. Thọ ấm sâu hơn, nên khó phá.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật từ nhục kế tướng đại nhân, phóng
ra ánh sáng, và phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặng mày, soi khắp
tám trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông.
Qua khỏi số cõi đó có thế giới tên Tịnh Quang Trang Nghiêm. Nước đó có
Phật hiệu: Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, được vô lượng vô biên đại chúng Bồ-tát cung kính
vây quanh, mà vì chúng nói pháp.
Ánh sáng lông trắng của đức Thích-ca Mâu-ni Phật soi khắp cõi nước đó.
GIẢNG :
Ở đây Phật phóng quang ở hai chỗ, một là từ nhục kế ở trên đỉnh đầu, hai là
ở giữa chặng mày. Như chúng ta đã biết, hào quang được phóng ra từ giữa chặng
mày, tượng trưng cho trí tuệ không kẹt hai bên. Đó là cái nhân tu hành. Còn hào
quang được phóng ra từ nhục kế biểu trưng cho quả giác. Vì nhục kế trên đỉnh đầu
là chỗ cao tột của con người, hào quang được phóng ra từ đó là nói lên kết quả tột
cùng của sự giác ngộ. Hào quang ở giữa chặng mày là cái nhân giác ngộ. Nhân
giác và quả giác đồng thời gặp nhau, nên ngang đây tướng của Bồ-tát Diệu Âm
vượt hẳn những vị Bồ-tát trước. Bấy giờ Phật phóng quang qua vô số thế giới ở
phương Đông, có một thế giới tên Tịnh Quang Trang Nghiêm của Phật Tịnh Hoa
Tú Vương Trí, cõi nước này được hào quang của Phật rọi soi khắp tất cả.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, trong nước Nhứt Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ-
tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các cội công đức, cúng dường gần gũi vô lượng
trăm nghìn muôn ức các đức Phật, mà đều được trọn nên trí huệ rất sâu, được môn
“Diệu tràng tướng tam-muội”, “Pháp hoa tam-muội”, “Tịnh đức tam-muội”, “Tú
vương hí tam-muội”, “Vô duyên tam-muội”, “Trí ấn tam-muội”, “Giải nhứt thiết
chúng sanh ngữ ngôn tam-muội”, “Tập nhứt thiết công đức tam-muội”, “Thanh
tịnh tam-muội”, “Thần thông du hí tam-muội”, “Huệ cự tam-muội”, “Trang
nghiêm vương tam-muội”, “Tịnh quang minh tam-muội”, “Tịnh tạng tam-muội”,
“Bất cộng tam-muội”, “Nhựt triền tam-muội” v.v... được trăm nghìn muôn ức
Hằng hà sa các đại tam-muội như thế.
Quang minh của đức Thích-ca Mâu-ni Phật soi đến thân vị Bồ-tát đó, liền
bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật rằng: “Thế Tôn ! Con phải qua đến
cõi Ta-bà để lễ lạy gần gũi cúng dường đức Thích-ca Mâu-ni Phật, cùng để ra mắt
ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dõng Thí Bồ-tát,
Tú Vương Hoa Bồ-tát, Thượng Hạnh Ý Bồ-tát, Trang Nghiêm Vương Bồ-tát,
Dược Thượng Bồ-tát.”
Khi đó, đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật bảo ngài Diệu Âm Bồ-tát: “Ông
chớ có khinh nước Ta-bà sinh lòng tưởng là hạ liệt. Thiện nam tử ! Cõi Ta-bà kia
cao thấp không bằng, các núi đất đá đầy dẫy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các
chúng Bồ-tát thân hình cũng nhỏ, mà thân của ông cao đến bốn muôn hai nghìn
do-tuần, thân của ta sáu trăm tám mươi muôn do-tuần. Thân của ông tốt đẹp thứ
nhứt, trăm nghìn muôn phước sáng rỡ đẹp lạ, cho nên ông qua đó chớ khinh nước
kia, hoặc ở nơi Phật, Bồ-tát cùng cõi nước mà sanh lòng tưởng cho là hạ liệt.”
Ngài Diệu Âm Bồ-tát bạch với Phật đó rằng: “Thế Tôn ! Con nay qua cõi
Ta-bà đều là do sức thần của Như Lai, do thần thông du hí của Như Lai, do công
đức trí huệ trang nghiêm của Như Lai.”
GIẢNG :
Đây nói sở chứng của Bồ-tát Diệu Âm, Ngài do tu nhân cúng dường Phật
âm nhạc và bát báu nhiều đời nhiều kiếp, nên được đầy đủ vô lượng tam-muội.
Hào quang của Phật Thích-ca soi đến thân của Bồ-tát Diệu Âm, Ngài cảm
thọ hào quang Phật Thích-ca, liền xin Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, đến cõi Ta-bà
để lễ Phật Thích-ca và các Bồ-tát. Ở phẩm trước đã phá sắc ấm, phẩm này phá thọ
ấm. Thọ ấm thì thuộc về tinh thần. Nếu không xúc chạm, có thọ không ? Không.
Nếu không có xúc thì không có thọ. Bồ-tát Diệu Âm nhờ hào quang của Phật
Thích-ca soi đến thân Ngài, Ngài tiếp xúc nên có cảm thọ lạc. Song, cõi Ta-bà mà
Ngài muốn qua là nơi đất không bằng phẳng, nhiều hầm hố gò nổng, chúng sanh
thân thì nhỏ, ốm... biểu hiện của khổ đau. Nên khi Ngài xin phép được qua đó, thì
Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí dặn dò Ngài, chớ có khinh chê cõi Ta-bà là xấu, rồi
tự thấy thân mình là tốt. Thấy như vậy là có thọ khổ và thọ lạc sai biệt. Muốn cho
thọ khổ và thọ lạc được bình đẳng, phải dùng trí tuệ quán chiếu cảm thọ do xúc mà
có, nó không có tự thể cố định nên không thật. Cảm thọ không thật thì khổ vui làm
gì có thật ? Đó là phá được thọ ấm.
Bồ-tát Diệu Âm nói Ngài qua cõi Ta-bà được là nhờ sức thần và trí tuệ của
Phật, chớ không phải khả năng của Ngài. Ngài ở nơi cảm thọ được tự tại là do trí
tuệ Phật mà được. Như vậy, ở nơi sáu căn đều có lãnh thọ, nhãn căn thì thọ sắc
trần, nhĩ căn thì thọ thinh trần, tỹ căn thì thọ hương trần, thiệt căn thì thọ vị trần,
thân căn thì thọ xúc trần, ý căn thì thọ pháp trần. Tuy nhiên, căn mà lanh lợi thông
nhiếp nhứt là nhĩ căn, vì khi đi đứng nằm ngồi nói nín thức ngủ, tai đều nghe được
tiếng. Nên Bồ-tát tượng trưng cho cảm thọ của nhĩ căn tên là Diệu Âm.
3. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó Ngài Diệu Âm Bồ-tát chẳng rời khỏi tòa, thân chẳng lay động mà
vào trong tam-muội, dùng sức tam-muội ở nơi núi Kỳ-xà-quật cách pháp tòa
chẳng bao xa hóa làm tám muôn bốn nghìn các hoa sen báu: vàng diêm-phù-đàn
làm cọng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân-thúc-ca-bảo làm đài.
Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thấy hoa sen bèn bạch cùng
Phật rằng: “Thế Tôn ! Đây do nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này, có ngần ấy
nghìn muôn hoa sen: vàng diêm-phù-đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim cang làm
nhụy, chân-thúc-ca-bảo làm đài ?”
Khi ấy, đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đó là
Diệu Âm đại Bồ-tát từ cõi nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật muốn cùng
tám muôn bốn nghìn Bồ-tát vây quanh mà đến cõi Ta-bà này, để cúng dường gần
gũi lễ lạy nơi ta cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.”
Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Vị Bồ-tát đó trồng cội lành
gì, tu công đức gì mà có được sức đại thần thông như thế ? Tu tam-muội gì ?
Mong Phật vì chúng con nói danh tự của tam-muội đó. Chúng con cũng muốn
siêng tu hành đó. Tu hành môn tam-muội này mới thấy được sắc tướng lớn nhỏ oai
nghi tấn chỉ của vị Bồ-tát đó. Cúi mong đức Thế Tôn dùng sức thần thông khi vị
Bồ-tát đó đến khiến chúng con được thấy.”
Lúc ấy, đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Đức Đa Bảo
Như Lai đã diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát
đó.”
Tức thời đức Đa Bảo Phật bảo Bồ-tát đó rằng: “Thiện nam tử đến đây !
Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử muốn thấy thân của ông.”
GIẢNG :
Bồ-tát Diệu Âm từ trong chánh định hiện ra nơi núi Kỳ-xà-quật, cách nơi
nói kinh Pháp Hoa không bao xa, hiện ra hoa sen đẹp nghìn cánh, nhụy, bông,
cành, lá, cọng... đều làm bằng vật báu. Bồ-tát Văn-thù thấy hoa sen quí hiện ra,
cho đó là điềm lành mới thưa hỏi Phật Thích-ca. Phật Thích-ca cho biết có Bồ-tát
Diệu Âm sắp đến. Bồ-tát Văn- thù yêu cầu Phật nói cái nhân tu hành của Bồ-tát
Diệu Âm, để các Ngài tu theo và thấy được Bồ-tát Diệu Âm. Điều này cho chúng
ta thấy Bồ-tát mà được phước tướng trang nghiêm là do tu phước, tu định, tu tuệ...
không phải ngẫu nhiên mà có.
Tại sao Phật Thích-ca không chỉ bày thân tướng Bồ-tát Diệu Âm cho thính
chúng thấy, mà đợi Phật Đa Bảo gọi, Bồ-tát Diệu Âm mới hiện ? Như chúng ta đã
biết thọ vui, thọ khổ là do cảm xúc mà có. Bản chất của cảm thọ là biết, biết khổ
biết vui, biết không khổ biết không vui. Do có biết nên nói cảm thọ phát khởi từ
tâm chân thật, chớ không phải ở ngoài vào, giống như sóng dậy từ mặt biển. Thế
nên Phật Thích-ca không thể chỉ được, mà phải Phật Đa Bảo gọi Bồ-tát Diệu Âm
mới hiện. Tức là tâm phải thật thanh tịnh mới thấy thọ từ tự tánh chân thật dấy
động, nó là hư giả không thật.
4. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, ngài Diệu Âm Bồ-tát nơi cõi nước kia ẩn mặt, cùng với tám
muôn bốn nghìn Bồ-tát đồng nhau qua cõi Ta-bà, ở các nước trải qua, sáu điệu
vang động, thảy đều rưới hoa sen bằng bảy báu, trăm nghìn nhạc trời chẳng trỗi tự
kêu, mắt của vị Bồ-tát đó như cánh hoa sen xanh rộng lớn. Giả sử hòa hiệp trăm
nghìn muôn mặt trăng, diện mạo của Ngài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc vàng
ròng vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói
rực, các tướng đầy đủ như thân Na-la-diên bền chắc.
Ngài vào trong đài thất bảo bay lên hư không cách đất bằng bảy cây đa-la.
Các chúng Bồ-tát cung kính vây quanh, mà đồng đến núi Kỳ-xà-quật ở cõi Ta-bà
này, đến rồi xuống đài thất bảo, dùng chuỗi ngọc giá trị trăm nghìn, đem đến chỗ
Thích-ca Mâu- ni Phật, đầu mặt lễ chân Phật dưng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật
rằng: “Thế Tôn ! Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật hỏi thăm đức Thế Tôn ít bệnh,
ít khổ, đi đứng thơ thới, sở hành an vui chăng ? Bốn đại điều hòa chăng ? Việc đời
nhẫn được chăng ? Chúng sanh dễ độ chăng ? Không có người nhiều tham dục,
giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn chăng ? Không kẻ chẳng thảo cha
mẹ, chẳng kính Sa-môn, tà kiến tâm chẳng lành, chẳng nhiếp năm tình chăng ?
Thế Tôn ! Chúng sanh hàng phục được các ma oán chăng ? Đức Đa Bảo
Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng ? Lại hỏi
thăm đức Đa Bảo Như Lai: an ổn, ít khổ, kham nhẫn ở lâu được chăng ? Thế Tôn !
Nay con muốn thấy thân đức Đa Bảo Phật, cúi mong Thế Tôn chỉ bày cho con
được thấy.”
Lúc đó, đức Thích-ca Mâu-ni Phật nói với Phật Đa Bảo rằng: “Ông Diệu
Âm Bồ-tát này muốn được ra mắt Phật.”
Đức Đa Bảo Phật liền nói với Diệu Âm Bồ-tát rằng: “Hay thay ! Hay thay !
Ông có thể vì cúng dường đức Thích-ca Mâu-ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa cùng
ra mắt Văn-thù-sư-lợi v.v... nên qua đến cõi này.”
GIẢNG :
Ở đoạn trước đã phá sắc ấm rồi, tới đây là phá thọ ấm thì tế nhị hơn, càng tế
nhị là càng đẹp, sáng, bền, nên thân Bồ-tát Diệu Âm được diễn tả từ mặt đến mắt,
màu da... không có cái đẹp, sáng, bền nào ở thế gian có thể sánh bằng. Sở dĩ thân
Ngài được như thế là do Ngài tu vô lượng công đức và được nhiều tam-muội.
Bồ-tát Diệu Âm và các vị Bồ-tát phương khác, đến cõi Ta-bà ra mắt Phật
Thích-ca và Phật Đa Bảo. Theo thể thức chung, trước là vấn an Phật, sau là hỏi
thăm việc giáo hóa của Phật, chúng sanh có dễ độ không, chúng sanh nghiệp ác
nặng nhiều hay ít, có hàng phục được ma oán chăng ? Sau nữa Bồ-tát Diệu Âm hỏi
thăm Phật Đa Bảo và ngỏ ý muốn gặp Phật Đa Bảo. Phật Thích-ca giới thiệu Bồ-
tát Diệu Âm với Phật Đa Bảo. Phật Đa Bảo tùy hỉ việc Bồ-tát Diệu Âm qua cõi
Ta-bà, để ra mắt cúng dường Phật Thích-ca cùng nghe kinh Pháp Hoa và để gặp
Bồ-tát Văn- thù. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa hành giả sau khi phá sắc ấm, tiếp
theo là phá thọ ấm, xoay lại sống với Tri kiến Phật hằng hiện hữu.
5. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Hoa Đức Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Ngài Diệu
Âm Bồ-tát trồng cội lành gì, tu công đức gì, mà có sức thần thông như thế ?”
Đức Phật bảo ngài Hoa Đức Bồ-tát: “Thuở quá khứ có Phật hiệu Vân Lôi
Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, cõi nước tên là Hiện Nhứt Thiết
Thế Gian, kiếp tên Hỉ Kiến. Diệu Âm Bồ-tát ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng
mười muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Vân Lôi Âm Vương Phật cùng dưng lên
tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó nay sanh tại nước
của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức thần như thế.
Hoa Đức ! Ý ông nghĩ sao ? Thuở đó, nơi chỗ đức Vân Lôi Âm Vương
Phật, Diệu Âm Bồ-tát cúng dường kỹ nhạc cùng dưng bát báu lên đó, đâu phải
người nào lạ, chính nay là Diệu Âm đại Bồ-tát đây.
Hoa Đức ! Diệu Âm Bồ-tát này đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các
đức Phật, từ lâu trồng cội công đức, lại gặp Hằng hà sa trăm nghìn muôn ức na-dotha
đức Phật.
GIẢNG :
Ở phẩm Dược Vương, Phật nói bố thí quốc thành thê tử là những món
ngoại tài, công đức không thể sánh bằng cúng dường thân mạng là nội tài. Tại sao
ở đây Bồ-tát Diệu Âm cúng dường âm nhạc và bát bảy báu là hai món ngoại tài,
công đức lại thù thắng hơn Bồ-tát Dược Vương ? Ý này nếu chúng ta không hiểu
thì thấy có cái gì mâu thuẫn. Như trước đã nói, phẩm Diệu Âm Bồ-tát là phần :
phá thọ ấm. Thọ ấm là cảm thọ của sáu căn nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; trong sáu
căn ấy nhãn và nhĩ là đại biểu. Hằng ngày chúng ta đau khổ phần lớn là do thấy và
nghe, nghe tiếng khen lời chê, nghe tiếng từ ái hòa nhã... nên có buồn vui. Nếu
chúng ta nghe tất cả tiếng, không dấy niệm phân biệt tốt xấu khen chê; khi nghe
tiếng, biết mình đang nghe tiếng, không cảm thọ buồn vui, đó là xả thọ, là cúng
dường âm nhạc. Bát bằng bảy báu tốt đẹp chỉ cho sắc pháp, mắt tiếp xúc sắc pháp
mà không có cảm thọ vui hay buồn, đó là xả sắc tướng, là cúng dường bát báu.
Như vậy, mắt thấy sắc tai nghe tiếng; biết rõ sắc tiếng là huyễn hóa không thật,
nên tâm không kẹt không dính và không bị nó quấy nhiễu, đó là phá thọ ấm. Trước
đốt thân, đốt cánh tay là phá sắc ấm, đây là phá thọ ấm. Thọ ấm từ nơi tâm phát ra
khi tiếp với ngoại trần, nên tế nhị và sâu hơn sắc ấm một tầng. Nên đây diễn tả
thân tướng Bồ-tát Diệu Âm trang nghiêm hơn thân tướng Bồ-tát Dược Vương.
6. CHÁNH VĂN :
* Hoa Đức, ông chỉ thấy Diệu Âm Bồ-tát thân hình ở tại đây, mà Bồ-tát đó
hiện các thứ thân hình, nơi nơi vì hàng chúng sanh nói kinh điển này.
Hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Đế-thích, hoặc hiện thân Tự
Tại thiên, hoặc hiện thân Đại Tự Tại thiên, hoặc hiện thân Thiên đại tướng quân,
hoặc hiện thân Tỳ Sa-môn thiên vương, hoặc hiện thân Chuyển Luân thánh vương,
hoặc hiện thân các tiểu vương, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư sĩ,
hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện thân Bà-la-môn, hoặc hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-
kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân phụ nữ của Tể quan, hoặc hiện thân
phụ nữ của Bà-la-môn, hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ, hoặc hiện thân trời,
rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng
phi nhân v.v... mà nói kinh này.
Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và các chỗ nạn đều có thể cứu giúp,
nhẫn đến trong hậu cung của vua biến làm thân người nữ mà nói kinh này.
GIẢNG :
Đây nói lên diệu dụng của Bồ-tát Diệu Âm. Trước phá sắc ấm, thân đã
trang nghiêm tự tại rồi, bây giờ phá luôn thọ ấm nữa thì diệu dụng càng tự tại và
mạnh mẽ hơn, nên Ngài có báo thân đẹp đẽ trang nghiêm. Lại có Ứng thân tùy
theo sở cầu của chúng sanh, mà thị hiện giáo hóa cho mọi người biết và nhận ra
Tri kiến Phật. Như vậy, tùy chúng sanh ở trong loại nào là Ngài hiện thân loài ấy
để hóa độ; nơi nơi chốn chốn Ngài đều Ứng thân thị hiện không thiếu vắng. Đó là
Bồ-tát tu tới Tam địa trở lên đã có Ứng thân. Trước Phật phóng quang từ giữa
chặng mày, rồi phóng quang ở trên đảnh, đó là chỉ cho cái dụng của nhân và quả
hợp nhau, nên Bồ-tát có thể hiện thân Phật và Phật diệt độ được.
7. CHÁNH VĂN:
Hoa Đức! Diệu Âm Bồ-tát này, hay cứu hộ các chúng sanh trong cõi ta-bà,
Diệu Âm Bồ-tát này biến hóa hiện các thứ thân hình như thế ở tại cõi ta-bà này vì
chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa, ở nơi trí huệ thần thông biến hóa không hề tổn
giảm. Vị Bồ-tát này dùng ngần ấy trí huệ sáng soi cõi ta-bà, khiến tất cả chúng
sanh đều được hiểu biết, ở trong Hằng hà sa cõi nước trong mười phương cũng lại
như thế.
Nếu chúng sanh đáng dùng thân Thanh văn được độ thoát, liền hiện thân
hình Thanh văn mà vì đó nói pháp.
Đáng dùng thân hình Duyên giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên giác
mà vì đó nói pháp.
Đáng dùng thân hình Bồ-tát được độ thoát, liền hiện thân hình Bồ-tát mà vì
đó nói pháp.
Đáng dùng thân hình Phật được độ thoát, liền hiện thân hình Phật mà vì đó
nói pháp.
Theo chỗ đáng độ mà vì chúng hiện các thứ thân hình như thế, nhẫn đến
đáng dùng diệt độ mà được độ thoát liền thị hiện diệt độ.
Hoa Đức ! Diệu Âm đại Bồ-tát trọn nên sức đại thần thông trí huệ, việc đó
như thế.
Lúc ấy, ngài Hoa Đức Bồ-tát bạch cùng Phật rằng: “Thế Tôn ! Ngài Diệu
Âm Bồ-tát sâu trồng căn lành. Thế Tôn ! Bồ-tát đó trụ tam-muội gì mà có thể ở
các nơi biến hiện thân hình độ thoát chúng sanh như thế?”
Phật bảo ngài Hoa Đức Bồ-tát: “Thiện nam tử ! Tam-muội đó tên là “Hiện
nhứt thiết sắc thân”.
Diệu Âm Bồ-tát trụ trong tam-muội đó có thể nhiêu ích vô lượng chúng
sanh như thế.
GIẢNG:
Bồ-tát Diệu Âm tùy theo sở cầu của chúng sanh mà thị hiện hóa thân Thanh
văn, Bồ-tát, Phật để giáo hóa chúng sanh. Bồ-tát Hoa Đức thấy vậy mới hỏi Phật:
Bồ-tát Diệu Âm trụ trong tam-muội nào mà hiện được thân như vậy ? Phật nói Bồ-
tát Diệu Âm trụ trong tam-muội Hiện nhứt thiết sắc thân. Tam-muội Hiện nhứt
thiết sắc thân có nghĩa là người sống được với Tri kiến Phật, thấy thọ uẩn chợt có,
chợt không, vô thường huyễn hóa không thật, nên không chấp thọ uẩn là ngã. Do
chấp thọ uẩn là ngã nên bị trói buộc bởi thọ ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý,
vì vậy không tự tại vô ngại. Giờ đây cảm thọ ở sáu căn đã phá vỡ, chấp thọ là ngã
không còn, thể nhập bản thể rộng lớn là Pháp thân, mà Pháp thân thì có diệu dụng
không thể lường, nên ứng hiện thân tự tại không ngại, để hóa độ mọi loài chúng
sanh.
8. CHÁNH VĂN :
* Lúc nói phẩm “Diệu Âm Bồ-tát” này, những Bồ-tát cùng đi chung với
Diệu Âm Bồ-tát tám muôn bốn nghìn người đều được: “Hiện nhứt thiết sắc thân
tam-muội”. Vô lượng Bồ-tát trong cõi Ta-bà này cũng được tam-muội đó và đà-lani.
Khi ngài Diệu Âm đại Bồ-tát cúng dường đức Thích-ca Mâu-ni Phật và
tháp của Đa Bảo Phật xong rồi, trở về bổn độ, các nước trải qua đều sáu điệu vang
động, rưới hoa sen báu, trỗi trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc, đã đến bổn quốc
cùng tám muôn bốn nghìn Bồ-tát vây quanh đến chỗ đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí
Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn ! Con đến cõi Ta-bà lợi ích chúng sanh, ra mắt đức
Thích-ca Mâu-ni Phật và ra mắt tháp đức Đa Bảo Phật lễ lạy cúng dường, lại ra
mắt Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Đắc Cần Tinh Tấn
Lực Bồ-tát, Dõng Thí Bồ-tát, cũng làm cho tám muôn bốn nghìn vị Bồ-tát này
được “Hiện nhứt thiết sắc thân tam-muội”.
Lúc nói phẩm “Diệu Âm Bồ-tát lai vãng” này, bốn muôn hai nghìn vị thiên
tử được Vô sanh pháp nhẫn. Hoa Đức Bồ-tát được Pháp Hoa tam-muội.
GIẢNG :
Bồ-tát Diệu Âm do cảm thọ hào quang của Phật Thích-ca, nên đến cõi Tabà
lễ Ngài và Phật Đa Bảo, cùng thăm viếng các vị Bồ-tát ở cõi này. Làm Phật sự
xong, Bồ-tát Diệu Âm trở về bổn quốc. Các vị Bồ-tát theo Ngài và những vị Bồ-
tát ở cõi Ta-bà đều được chánh định Hiện sắc thân tam-muội, số đông thiên tử thì
được Vô sanh pháp nhẫn. Bồ-tát Hoa Đức thì được Pháp Hoa tam-muội. Tất cả
đều nhờ duyên phước nghe Phật nói Bồ-tát Diệu Âm vãng lai.
Như trước đã nói, cảm thọ là do ngoại trần xúc chạm với nội căn, nếu ngoại
trần hết xúc chạm với nội căn thì cảm thọ hết. Ý nghĩa trên biểu trưng qua hình
ảnh Bồ-tát Diệu Âm vãng lai. Ngài từ phương xa đến xong việc rồi đi, không
thường trụ. Cảm thọ là vô thường nếu chúng ta dùng trí huệ thấy rõ nó không lầm,
thì sẽ được cái chân thường, không còn bị chi phối bởi khổ vui nữa. Nếu chúng ta
còn kẹt trong khổ vui tạm bợ, thì không bao giờ thấy được cái chân thường. Đối
với sắc ấm, phá nó đã là khó; bây giờ, xả thọ ấm lại càng khó hơn, vì nó thuộc về
tâm vi tế hơn nên khó xả. Ví dụ như thân bị đạp gai, nhổ gai xong, xức thuốc ít
hôm lành, là hết cái khổ đau nhức nơi thân. Nhưng bị vu khống chúng ta thấy đó là
sỉ nhục, nên tâm bất an, nhớ hoài, buồn dai dẳng khó quên. Thế nên cảm thọ tuy vi
tế, song khó phá. Cái nhân tu và quả chứng liên hệ mật thiết không rời nhau. Tu,
thiết yếu là phải thực hành cho được những điều Phật và Bồ-tát đã hành và dạy
cho chúng ta. Phần Nhập Tri kiến Phật là phần thực hành, nên Phật nói lên công
hạnh của các vị Bồ-tát để cho chúng sanh theo đó mà tu.
D
PHẨM 25: QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT
PHỔ MÔN
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âm là
xem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát. Ngài lắng nghe
tiếng kêu than của chúng sanh, khởi lòng thương xót đến cứu độ cho hết khổ. “Phổ
Môn” là cái cửa thông suốt khắp tất cả. Bồ-tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, hay
lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh mà hiện thân để hóa độ. Phương tiện hóa
độ của Ngài là cửa pháp thông suốt khắp tất cả, ai ai cũng có thể vào tu, không
giới hạn. Mục đích của phẩm này là phá tưởng ấm vào Ngũ địa và Lục địa Bồ-tát.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày
vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn ! Ngài Quán Thế Âm Bồ-
tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm ?”
Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ-tát: “Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm
nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một
lòng xưng danh, Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được
giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này, dầu vào trong lửa lớn,
lửa chẳng cháy được vì do sức oai thần của Bồ-tát này được như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, san hô, hổ phách, chân châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió
đen thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỉ la-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến
một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời các người đó đều được thoát
khỏi nạn quỉ la-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
GIẢNG :
Phẩm này, người đương cơ đứng ra thưa hỏi là Bồ-tát Vô Tận Ý. Vô Tận Ý
là ý tưởng không cùng, không dứt. Tại sao Bồ-tát mà ý nhiều như vậy? Như đã nói,
phẩm này là phá tưởng ấm. Ý tưởng của chúng sanh có trăm ngàn muôn ức thứ,
cái gì cũng nghĩ tưởng được, nên nói là Vô Tận Ý. Nhưng nếu niệm danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ-tát thì mọi nghĩ tưởng dừng lặng thì hết khổ. Chỗ này nếu
chúng ta không hiểu rõ sẽ lầm. Trong kinh Nhật Tụng phẩm Phổ Môn được liệt
vào kinh cầu an, ai đau bệnh tụng phẩm này cầu cho an ổn. Vậy phẩm Phổ Môn có
phải để cầu an không ? Trong phẩm này Phật nói lên bổn sự của Bồ-tát. Bồ-tát
Quán Thế Âm ở đời quá khứ, Ngài khởi tâm từ bi tu hạnh quán xét tiếng kêu than
của chúng sanh ở thế gian, mà hiện thân đến cứu độ cho mọi loài hết đau khổ. Nếu
chúng ta cứ dựa trên chữ nghĩa hình tướng thì ngang đây bị kẹt lớn. Như câu: “Có
người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng
cháy được, vì do sức oai thần của Bồ-tát này được như vậy.” Quí vị học phẩm này
có tin lời Phật nói không ? Đệ tử Phật mà không tin Phật thì tin ai ? Vậy nếu có
người nhóm một đống củi đốt lửa cháy hừng hực, bảo quí vị niệm Quán Thế Âm
Bồ-tát và đi vào đống lửa đó, xem thân quí vị có cháy không ? Nếu thân quí vị bị
cháy nám thì lời Phật nói không đúng. Quí vị nghĩ sao đây ?
Lại một đoạn nữa: “Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát Quán
Thế Âm liền được chỗ cạn.” Như vậy những người đi biển, thuyền chìm niệm
danh hiệu Bồ-tát, tất cả đều gặp chỗ cạn, hay cũng có người chết chìm ? Những sự
việc này nếu hiểu theo sự tướng thì thấy chống trái, còn hiểu theo lý tánh, như theo
kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật nói Bồ-tát Quán Âm tu hạnh Phản văn văn tự tánh,
tức là xoay lại nghe tánh nghe của mình. Tánh nghe là cái thể chân thật của mỗi
người, không có tướng mạo, không có hình dáng. Đã không có hình dáng tướng
mạo thì lửa nào thiêu được, nước nào nhận chìm được ? Nên nói niệm Quán Âm
tức là lắng nghe tánh nghe của chính mình, thì mọi chướng nạn của lửa nước đều
qua khỏi.
Lại một đoạn nữa: “Có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng bạc,
lưu ly... vào biển lớn, giả sử gió đen thổi ghe thuyền họ trôi tấp nơi nước quỉ la-sát,
nếu có một người trong đó xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời các người
đó đều thoát khỏi nạn quỉ la-sát.” Chuyện này phải hiểu như thế nào ? Xưa có một
vị tướng công, tới hỏi đạo một thiền sư, ông nêu câu chuyện trên và hỏi rằng: “Thế
nào là hắc phong ?” Thiền sư bình tĩnh nói rằng: Ông là một vị tướng công mà đi
hỏi vớ vẩn như vậy sao ? Vị tướng công nghe chê mình nên nổi tức, mặt đỏ gay.
Thiền sư chỉ: Đó, hắc phong đó.
Vậy hắc phong là gì ? Thiền sư không nói hắc phong là gió ào ào mây đen
kéo mù mịt, mà nói hắc phong là cơn sân giận của con người. Sân giận nổi lên tự
mình chịu khổ họa, lại còn gây khổ lụy cho người khác. Ví dụ ông A vô cớ kêu tên
ông B chưởi. Ông B nổi sân, xông tới đánh đập ông A. Ông A bị đánh đau liền
đánh lại ông B. Đó là ông B bị hắc phong thổi phiêu bạt tới cõi nước La-sát, bị quỉ
la-sát hại rồi. Nếu ông B vừa nổi sân, biết mình đang sân, liền niệm danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ-tát, cơn sân giận lắng dịu lần rồi hết, đâu có đánh ông A và bị
ông A đánh lại đau khổ. Như vậy, không phải Bồ-tát Quán Âm cứu ông B thoát
nạn quỉ la-sát là gì ? Hiểu như thế mới thực tế. Chớ trong lục địa cũng như hải đảo
ngoài biển khơi, đảo nào ở đâu, có người ở hay không có người ở, có quỉ hay
không có quỉ, mọi người đều biết hết. Vậy nước La-sát nằm ở vị trí nào trên quả
địa cầu này ? Như vậy, hắc phong và nước quỉ la-sát biểu trưng cho lòng sân giận
của con người dấy khởi, rồi con người theo đó mà tạo nghiệp ác thọ quả báo khổ
đau. Còn Quán Thế Âm Bồ-tát là biểu trưng lòng từ bi, lòng từ bi khởi lên thì sân
giận tiêu tan, nên nói bị hắc phong thổi phiêu bạt đến cõi nước La-sát, niệm danh
hiệu Quán Thế Âm thì không bị hại là vậy.
2. CHÁNH VĂN :
* Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời
dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy được thoát khỏi.
Nếu quỉ dạ-xoa cùng la-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại
người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời các quỉ dữ đó còn không
có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói
buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thảy đều đứt rã, liền được
thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt
các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có
một người xướng rằng: “Các thiện nam tử ! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một
lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, vị Bồ-tát đó hay đem pháp Vô úy thí
cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này.”
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-mô Quán Thế Âm
Bồ-tát !”, vì xưng danh hiệu Bồ-tát nên liền được thoát khỏi.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ-tát sức oai thần cao lớn như thế.
GIẢNG :
Đoạn này nói người bị nạn niệm danh hiệu Quán Thế Âm sẽ được thoát nạn.
Như người sắp bị hại bằng dao gậy, niệm Quán Thế Âm Bồ-tát thời dao gậy gãy ra
từng khúc. Nếu người bị vô số quỉ la-sát đến hại, niệm Quán Thế Âm Bồ-tát thời
quỉ không dám dùng mắt để nhìn huống là hại. Hoặc người bị xiềng xích trói thân,
niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, xiềng xích liền đứt rã. Hoặc những người đi buôn gặp
oán tặc, niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, sẽ được Bồ-tát ban cho pháp vô úy, thoát khỏi
oán tặc. Đó là công hiệu của người niệm Bồ-tát Quán Thế Âm. Đây nói Bồ-tát
Quán Thế Âm hay bố thí pháp vô úy, vô úy là không sợ. Phần nhiều mọi khổ đau
đều phát nguồn từ lòng sợ hãi, sợ đói, sợ khát, sợ bệnh, sợ chết... Lúc sợ thì bồn
chồn, lo âu, kinh hãi, ăn ngủ không được, khổ não hiện ra ngay lúc sợ. Sợ là do
tưởng mới có nên người bất thần đạn lạc bay tới trúng thì không sợ, nhưng có
người chĩa họng súng trước mình thì sợ run lên. Như vậy, sợ là do tưởng tượng mà
ra, và khổ do sợ mà có. Tưởng tượng nhiều là sợ nhiều, sợ nhiều là khổ nhiều, Bồ-
tát Quán Thế Âm cứu khổ là làm cho chúng sanh hết sợ, gọi là thí pháp vô úy. Ví
dụ chúng ta mộng thấy ma nhát, chúng ta sợ hãi, lúc đó liền nhớ niệm danh hiệu
Quán Thế Âm, thì ma biến mất. Do chúng ta có tưởng điên đảo, nên phóng hiện ra
ma quái rồi sợ. Khi sợ, chợt tỉnh niệm Quán Thế Âm thì những niệm điên đảo tiêu
tan, hết sợ hãi nên an ổn. Đó là Bồ-tát Quán Thế Âm thí pháp vô úy. Cao hơn một
bậc, niệm danh hiệu Quán Thế Âm là trở về Tri kiến Phật là cái thể không hình
tướng, không có hình tướng làm sao hại được mà sợ. Do đó mọi hiểm nguy đều
hóa giải.
3. CHÁNH VĂN :
* Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm
Quán Thế Âm Bồ-tát, liền được ly dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát,
liền được lìa lòng giận.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, liền
được lìa ngu si.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ-tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích
như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế
Âm Bồ-tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh
con gái có tướng xinh đẹp, vì trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính
mến.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần như thế.
GIẢNG :
Chúng ta thấy, nếu chúng sanh nào khởi niệm tham dục, liền niệm danh
hiệu Quán Thế Âm, thì tham dục lặng xuống không còn. Nếu nổi giận, niệm Quán
Thế Âm, cơn giận lần lần lắng dịu và hết. Nếu ngu si nghĩ tưởng điên đảo, niệm
danh hiệu Quán Thế Âm, tâm an định tỉnh sáng, lìa được ngu si. Sở dĩ được như
vậy là do biết xoay lại sống với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt nên lìa được
tham, sân, si.
Sau đây nói người nữ muốn sanh con trai, con gái, cúng dường lễ lạy Bồ-tát
Quán Thế Âm thì được thành tựu như ý muốn. Điều này lâu nay chúng ta hiểu trên
chữ nghĩa nên bị kẹt, nhứt là tu sĩ phái nữ, thấy các nữ Phật tử mang thai, hay
khuyên các cô niệm Bồ-tát Quán Thế Âm. Có một nữ Phật tử ở gần chùa tín
ngưỡng rất sâu đậm, cô có thai, ngỏ ý mong được sanh con trai. Nên cô ni ở chùa
dạy cho cô Phật tử niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm để được sanh con trai. Cô
Phật tử nghe lời niệm rất chí thành, nhưng tới ngày sanh thì sanh con gái. Cô Phật
tử đi kiện, cô ni không biết giải quyết thế nào, cứ lánh mặt hoài. Thật là cái họa
của người không hiểu lý kinh. Ở đây Phật nói: Muốn cầu con trai được con trai,
cầu con gái được con gái, là nói lên công đức không thể nghĩ bàn của người niệm
Bồ-tát Quán Thế Âm. Do công đức thù thắng không thể nghĩ bàn, nên mọi việc
được như ý không trái không nghịch. Nếu nói xa hơn, niệm Bồ-tát Quán Thế Âm
là xoay lại với tánh nghe của mình, tức là trở về với Tri kiến Phật thì mọi sự việc
đều được như ý. Tri kiến Phật còn gọi là Châu như ý.
4. CHÁNH VĂN :
* Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ-tát, thời phước đức
chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm
Bồ-tát.
Vô Tận Ý ! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức Hằng hà sa
Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý
ông nghĩ sao ? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân đó có nhiều
chăng ?
Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn ! Rất nhiều.” Phật nói: “Nếu lại có người
thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời
phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp
không thể cùng tận.
Vô Tận Ý ! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát được vô lượng vô biên
phước đức lợi ích như thế.”
GIẢNG :
Phật so sánh công đức người niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm với
người niệm và cúng dường vô số Bồ-tát khác, thì công đức hai người ngang nhau
và nhiều vô tận. Tại sao thế ? Vì niệm vô số danh hiệu của Bồ-tát khác cốt là trở
về với Tri kiến Phật, còn niệm một danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trở về với
Tri kiến Phật. Như vậy, đứng trên danh từ thì có sai khác, nhưng đứng trên lý tánh
thì niệm một danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, hay niệm vô số danh hiệu Bồ-tát
khác đều bình đẳng không sai biệt. Vì niệm là nhớ sống với Tri kiến Phật, chớ
không phải niệm suông ngoài miệng để rồi chấp câu chấp lời.
5. CHÁNH VĂN :
* Ngài Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Quán Thế Âm Bồ-tát
dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào ? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào ? Sức
phương tiện việc đó như thế nào ?”
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ-tát: Thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh trong quốc
độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ-tát liền hiện
thân Phật mà vì đó nói pháp .
Người đáng dùng thân Duyên giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên giác
mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh văn
mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm
vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế-thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-thích mà
vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại
thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đại Tự Tại thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại
Tự Tại thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên đại tướng quân được độ thoát, liền hiện thân
Thiên đại tướng quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa-môn
mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân tiểu vương được độ thoát, liền hiện thân tiểu vương
mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân trưởng giả được độ thoát, liền hiện thân trưởng giả
mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân cư sĩ được độ thoát, liền hiện thân cư sĩ mà vì đó nói
pháp .
Người đáng dùng thân tể quan được độ thoát, liền hiện thân tể quan mà vì
đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn
mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ
thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà-la-môn
được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân
đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la,
khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân được độ thoát, liền đều hiện ra mà
vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần được độ thoát, liền hiện Chấp
Kim Cang thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ-tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các
thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải
một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát.
Quán Thế Âm Bồ-tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự Vô úy, cho
nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị “Thí Vô Úy”.
GIẢNG :
Đây nói về Ứng thân của Bồ-tát, khi Bồ-tát phá được sắc ấm, thọ ấm, tưởng
ấm, thì có được cái dụng ứng hóa thân để độ sanh không thể nghĩ bàn. Nếu chúng
sanh có duyên phước, cảm thông được lòng từ bi của Bồ-tát, thì Ngài tùy theo ước
nguyện của chủng loại chúng sanh mà thị hiện để hóa độ cho hết khổ, đó là trên
mặt sự. Xưa khi tôi còn đi giảng, có ông phó quận Lộc Ninh tên Triền đứng ra tổ
chức, mời tôi và thượng tọa Huyền Vi lên đó giảng, Ông hỏi tôi:
- Thưa Thầy, mình thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Âm, Ngài có ứng
hiện không ?
Tôi hỏi:
- Theo đạo hữu thì thấy sao ?
- Tôi tin chắc, Ngài có ứng hiện.
Rồi ông kể cho tôi nghe, ông có một đứa con khoảng mười ba, mười bốn
tuổi bệnh nặng, đưa đi bệnh viện Đồn Đất chữa trị khoảng nửa tháng. Bệnh không
giảm, bác sĩ bó tay, bảo ông đem nó về nhà, nếu không sẽ chết trong bệnh viện.
Ông chở về nhà tuyệt vọng, không biết phải chạy chữa như thế nào, chỉ thành tâm
cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm. Đêm đó ông ngủ thấy Bồ-tát Quán Thế Âm hiện,
Ngài đứng trên hoa sen trước mặt ông bảo:
- Ngươi nên sai người đi về hướng Bắc rước thầy thuốc về trị, con ngươi sẽ
lành bệnh.
Khi thức giấc ông nhớ rõ ràng hình dáng Bồ-tát Quán Thế Âm ứng hiện.
Sáng ra cho người đi về hướng Bắc tìm gặp thầy thuốc, mời về nhà xem mạch hốt
thuốc, con ông uống chỉ có ba thang là hết bệnh. Từ đó, ông lập bàn thờ Bồ-tát
Quán Thế Âm, tin Tam bảo và rước chúng tôi giảng đạo. Trên sự tướng, chúng ta
thấy có thành tâm cầu nguyện thì có cảm ứng. Song cảm ứng còn tùy duyên phước
của mỗi người, chớ không phải ai ai cũng như vậy. Cũng như mặt trăng trên không,
chỉ hiện bóng khi trời trong và chỗ có nước, nếu trời nhiều mây, không nước thì
mặt trăng không hiện, chẳng phải Bồ-tát đến với người này mà không đến với
người kia. Trên mặt lý, thì khi không còn chạy theo vọng niệm điên đảo, xoay lại
sống với Tri kiến Phật là cái thanh tịnh sáng suốt, thì có việc gì mà chướng ngại
trái ngăn không như ý. Vậy lý sự phải viên dung.
6. CHÁNH VĂN :
* Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn ! Con nay phải cúng dường Quán
Thế Âm Bồ-tát.” Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn
lượng vàng, đem trao cho ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi
trân bảo pháp thí này.”
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại
thưa cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận
chuỗi ngọc này.”
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ-tát: “Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ-tát
này và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩnna-la,
ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó.”
Tức thời Quán Thế Âm Bồ-tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhân và
phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng đức
Thích-ca Mâu-ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo.
- Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi
Ta-bà.
Lúc đó, ngài Vô Tận Ý Bồ-tát nói kệ hỏi Phật rằng:
* Thế Tôn đủ tướng tốt !
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhân duyên gì
Tên là Quán Thế Âm !
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi giạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm được.
Hoặc ở chót Tu-di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không.
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chưn bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã được giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở hại nơi bổn nhân.
Hoặc gặp la-sát dữ
Rồng độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ:
Địa ngục, quỉ, súc sanh
Sanh, già, bệnh, chết khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chân quán, thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhựt phá các tối
Hay tiêu tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi răn như sấm
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm âm, Hải triều âm
Tiếng hơn thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc tịnh Thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
GIẢNG :
Khi Bồ-tát Vô Tận Ý biết được công hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm, Ngài
liền phát tâm cúng dường chuỗi ngọc. Bồ-tát Quán Thế Âm không nhận, Phật bảo
Ngài nên vì tứ chúng mà nhận chuỗi ngọc. Ngài vâng lời Phật nhận chuỗi ngọc
chia hai, một phần cúng dường Phật Thích-ca, một phần cúng dường Phật Đa Bảo.
Qua hình ảnh này khiến chúng ta nghi vấn: Các Bồ-tát thì thân hình mập mạp to
lớn, trang sức bằng ngọc ngà châu báu, trong khi đó, những vị A-la-hán thì thân
hình khô gầy. Đồng thời là đệ tử Phật, học tu theo pháp Phật, tại sao người thì
trang nghiêm đẹp đẽ, người thì khổ hạnh ốm gầy ? Như chúng ta đã biết, Bồ-tát thì
tu theo hạnh tự lợi lợi tha, nên phải vui vẻ cởi mở để cho chúng sanh dễ dàng kết
duyên. Các Ngài do hạnh lợi tha nên có muôn đức trang nghiêm, vì vậy mà thân
đẹp đẽ. Còn các vị A-la-hán với hạnh nguyện tu cốt cho hết phiền não, để được
giải thoát cho mình, nên có dáng khắc khổ đăm chiêu, thiếu phần lợi tha nên chưa
đủ muôn hạnh để trang nghiêm thân cho tươi đẹp. Bồ-tát Quán Thế Âm với hạnh
từ bi, ban cho chúng sanh mọi điều lợi ích, chớ không nhận của người, vì nhận là
vị kỷ chớ không phải vị tha. Lúc đầu, Ngài không nhận chuỗi anh lạc của Bồ-tát
Vô Tận Ý, sau Ngài nhận là vì lòng từ bi chớ không phải do lòng ích kỷ. Khi nhận
xong, lại cúng dường cho Phật Thích-ca và Phật Đa Bảo việc làm này của Bồ-tát
Quán Thế Âm cho thấy Bồ-tát làm mọi công tác Phật sự đều hướng về Phật mà
làm, và được thành quả cũng hướng về Phật mà dâng, chớ không phải vì tư kỷ mà
làm.
Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn dạy cho chúng sanh phá tưởng ấm.
Khi nhập được Tri kiến Phật thì hết tưởng ấm, mà hết tưởng là hết khổ thì tự tại vô
ngại. Vì vậy Bồ-tát Vô Tận Ý khuyên chúng ta nên niệm và đảnh lễ Bồ-tát Quán
Thế Âm.
7. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, ngài Trì Địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật
bạch rằng:“Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát
đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức
người đó chẳng ít.”
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn
chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG :
Từ trước chúng ta không nghe tên Bồ-tát Trì Địa, bây giờ ngẫu nhiên Ngài
xuất hiện nói rằng: “Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát đạo
nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức của
người đó chẳng ít.” Bồ-tát Trì Địa là vị Bồ-tát gìn giữ quả đất, tức là cõi Ta-bà này,
Ngài nói: Nếu mọi người ở cõi Ta-bà này thuận theo pháp tu của Bồ-tát Quán Thế
Âm thì sẽ được kết quả là thần thông tự tại, công đức rất lớn. Sở dĩ được như thế
là do công hạnh tu Phản văn văn tự tánh, là xoay lại nghe tánh nghe của mình,
nghĩa là khi nghe âm thanh bên ngoài, không để tâm phân biệt chạy theo tiếng hay
tiếng dở. Trái lại khi nghe âm thanh liền nhớ mình có tánh nghe luôn luôn hiện
hữu, không đuổi theo tiếng hay tiếng dở, tâm được thanh tịnh thì trí tuệ hằng sáng
soi, công đức đầy đủ, từ đó mà khởi phát diệu dụng. Đây là pháp tu chung ở cõi
Ta-bà này nên nói là Phổ Môn.
D
PHẨM 26: ĐÀ-LA-NI (Dhârani)
Dhârani là tiếng Phạn, nghĩa là tổng trì, là gom lại tất cả để gìn giữ, cũng là
thần chú. Chủ yếu phẩm này là phá hành ấm, vào Thất địa và Bát địa Bồ-tát. Hành
ấm là niệm rất vi tế không hiện rõ như tưởng ấm.
Thần chú là những lời nói nhiệm mầu, khi nghe hay đọc chúng ta không thể
khởi niệm suy tư về ý nghĩa của thần chú được. Nên khi đọc thần chú tâm bình
thản an nhiên, gọi là trừ cái lặng lẽ vi tế của hành ấm. Thông thường người tu khi
phá tưởng ấm, hết vọng tưởng ngỡ rằng tâm mình đã thanh tịnh không có ý tiến
lên, bèn an trú trong đó. Hàng Nhị thừa cho đó là Niết-bàn. Thiền tông biểu trưng
trạng thái này qua bức tranh thứ tám trong mười bức tranh chăn trâu, người chăn
và trâu không còn, gọi đó là đầu sào trăm trượng, mút đầu sào phải nhảy qua mới
là người anh kiệt. Nếu kẹt ở đó là bị chìm trong cái lặng lẽ. Vì người tu tới đây
hay bị kẹt, không biết làm sao tiến nữa nên phải nhờ sức gia hộ của Phật và Bồ-tát
để vượt qua chỗ này. Thần chú là biểu trưng cho sức gia hộ của Phật và Bồ-tát để
phá hành ấm. Nếu không hiểu mà cho rằng thần chú để cứu nạn cứu khổ thì không
đúng.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Dược Vương Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo
bày vai hữu chấp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nếu có thiện nam
tử, thiện nữ nhân hay thọ trì được kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ,
hoặc biên chép quyển kinh, được bao nhiêu phước đức ?”
Phật bảo ngài Dược Vương: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cúng
dường tám trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa các đức Phật. Ý ông nghĩ sao ?
Người đó được phước đức có nhiều chăng ?” - Thưa Thế Tôn ! Rất nhiều.
Phật nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân ở nơi kinh này có thể thọ trì
nhẫn đến một bài kệ bốn câu đọc tụng giải nghĩa, đúng như lời mà tu hành thời
công đức rất nhiều.”
GIẢNG :
Đây lặp lại một lần nữa, người trì kinh Pháp Hoa hay sống với Tri kiến Phật,
thì công đức không thể tính kể, nếu sánh với người làm phước hữu lậu, thì phước
hữu lậu không thể sánh bằng. Nên nói rằng đọc tụng thọ trì chừng bốn câu và giải
nghĩa, đúng như lời mà tu hành thì công đức không thể tính kể. Đó là mở màn
Phật và Bồ-tát ủng hộ người nói kinh Pháp Hoa.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, ngài Dược Vương Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Con nay sẽ
cho người nói kinh Pháp Hoa chú Đà-la-ni để giữ gìn đó. Liền nói chú rằng:
“An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý, đa vĩ
chuyên đế, mục đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý tang lý, ta lý xoa duệ, a xoa duệ, a kỳ
nhị chuyên đế, xa lý, Đà-la-ni, a lư dà bà ta ky dá tỳ xoa nhị, nễ tỳ thế, a tiện đa la
nễ lý thế, a đàn đá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai,
a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi điệt đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa
nễ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá
kiêu xá lược, ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ.”
Thế Tôn ! Thần chú Đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng hà sa các đức
Phật nói. Nếu có người xâm hủy vị Pháp sư này, thời là xâm hủy các đức Phật
rồi.”
Lúc đó, đức Thích-ca Mâu-ni Phật khen Dược Vương Bồ-tát rằng: “Hay
thay ! Hay thay ! Dược Vương ! Ông thương xót muốn ủng hộ vị Pháp sư đó, nên
nói chú Đà-la-ni này, được nhiều lợi ích ở nơi các chúng sanh.”
GIẢNG :
Thần chú này là của chư Phật chớ không phải của Bồ-tát, vì thương xót và
ủng hộ vị Pháp sư mà nói thần chú để giúp cho người tu phá hành ấm không còn
mắc kẹt trong chỗ lặng lẽ, vượt qua khỏi Thất địa và Bát địa.
3. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Dõng Thí Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Con cũng
vì ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa mà nói chú Đà-la-ni. Nếu vị Pháp
sư đó được chú Đà-la-ni này, hoặc dạ-xoa, la-sát hoặc phú-đơn-na, hoặc kiết-giá,
hoặc cưu-bàn-trà, hoặc ngạ quỉ v.v... rình tìm chỗ dở của Pháp sư không thể được
tiện lợi.” Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
“Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ niết lệ đệ, niết lệ đa bà
đệ, y trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ tri nỉ, niết lệ trì nỉ, niết lệ tri bà để.”
Thế Tôn ! Thần chú Đà-la-ni này của Hằng hà sa các đức Phật nói, cũng
đều tùy hỉ. Nếu có người xâm hủy vị Pháp sư này thời là xâm hủy các đức Phật đó
rồi.
GIẢNG :
Bồ-tát Dõng thí nói chú Đà-la-ni để ủng hộ, khiến cho những loài dị nhân
không tìm được khuyết điểm của Pháp sư.
4. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, Tỳ Sa-môn thiên vương, vị trời hộ đời, bạch Phật rằng: “Thế
Tôn ! Con cũng vì thương tưởng chúng sanh ủng hộ vị Pháp sư đó mà nói Đà-la-ni
này. Liền nói chú rằng: “A lê, na lê, nâu na lê a na lư, na lý, câu na lý.”
Thế Tôn ! Dùng thần chú này ủng hộ Pháp sư, con cũng tự phải ủng hộ
người trì kinh này, làm cho trong khoảng trăm do-tuần không có các điều tai
hoạn.”
GIẢNG :
Tỳ Sa-môn thiên vương nói chú để ủng hộ Pháp sư khiến cho Pháp sư
không có các điều tai hoạn.
5. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, Trì Quốc thiên vương ở trong hội này cùng với nghìn muôn ức
na-do-tha chúng càn-thát-bà cung kính vây quanh đến trước chỗ Phật, chấp tay
bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Con cũng dùng thần chú Đà-la-ni ủng hộ người trì
kinh Pháp Hoa. Liền nói chú rằng:
“A dà nể, dà nể, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đẳng kỳ thường cầu lợi,
phù lầu tá nỉ, ác đế.”
Thế Tôn ! Thần chú Đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các đức Phật nói,
nếu có người xâm hủy vị Pháp sư này thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi.”
GIẢNG :
Trì Quốc thiên vương nói chú ủng hộ Pháp sư.
6. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, có những la-sát nữ: một tên Lam- bà, hai tên Tỳ-lam-bà, ba tên
Khúc Xỉ, bốn tên Hoa Xỉ, năm tên Hắc Xỉ, sáu tên Đa Phát, bảy tên Vô Yểm Túc,
tám tên Trì Anh Lạc, chín tên Cao Đế, mười tên Đoạt Nhứt Thiết Chúng Sanh
Tinh Khí. Mười vị la-sát nữ đó cùng với quỉ Tử Mẫu, con và quyến thuộc đều đến
chỗ Phật, đồng tiếng bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Chúng con cũng muốn ủng hộ
người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa, trừ sự khổ hoạn cho người đó. Nếu có kẻ
rình tìm chỗ dở của Pháp sư, thời làm cho chẳng được tiện lợi.” Liền ở trước Phật
mà nói chú rằng:
“Y đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý,
lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu hê, nâu hê.”
Thà trèo lên đầu chúng con chớ đừng não hại Pháp sư, hoặc dạ-xoa, hoặc
la-sát, hoặc ngạ quỉ, hoặc phú-đơn-na, hoặc kiết-giá, hoặc tỳ-đà-la, hoặc kiền-đà,
hoặc ô-ma-lặc-dà, hoặc a-bạt-ma-la, hoặc dạ-xoa kiết-giá, hoặc nhân kiết-giá, hoặc
quỉ làm bệnh nóng, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày,
hoặc đến bảy ngày, hoặc làm bệnh nóng luôn, hoặc hình trai, hoặc hình gái, hoặc
hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, nhẫn đến trong chiêm bao cũng lại chớ não hại.
Liền ở nơi trước Phật mà nói kệ rằng:
Nếu chẳng thuận chú ta
Não loạn người nói pháp
Đầu vỡ làm bảy phần
Như nhánh cây a-lê
Như tội giết cha mẹ
Cũng như họa ép dầu
Cân lường khi dối người
Tội Điều Đạt phá tăng
Kẻ phạm Pháp sư đây
Sẽ mắc họa như thế.
Những la-sát nữ nói kệ đó rồi, bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Chúng con cũng
sẽ tự mình ủng hộ người thọ trì đọc tụng tu hành kinh này, làm cho được an ổn, lìa
các sự khổ hoạn, tiêu các thuốc độc.”
GIẢNG :
Những la-sát nữ nói chú ủng hộ Pháp sư khiến cho Pháp sư an ổn lìa các sự
khổ hoạn, tiêu các thuốc độc.
Người tu nếu đến chỗ lặng lẽ, rồi ưa thích chìm trong đó. Thiền tông cho sự
thích ưa cái lặng lẽ đó là chìm trong biển độc. Tương tợ, đây nói tiêu các thuốc
độc.
7. CHÁNH VĂN :
* Phật bảo các la-sát nữ: “Hay thay ! Hay thay! Các người chỉ có thể ủng
hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa phước chẳng thể lường được rồi, huống là ủng
hộ người thọ trì toàn bộ cúng dường quyển kinh, hoa hương, chuỗi ngọc, hương
bột, hương xoa, hương đốt, phan lọng, kỹ nhạc, thắp các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu,
các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu bông tô-ma-na, đèn dầu bông chiêm-bặc, đèn dầu
bông bà-sư-ca, đèn dầu bông ưu-bát-la, nghìn trăm thứ cúng dường như thế.
Cao Đế ! Các người cùng quyến thuộc phải nên ủng hộ những Pháp sư như
thế.”
Lúc nói phẩm “Đà-la-ni” này, có sáu muôn tám nghìn người được Vô sanh
pháp nhẫn.
GIẢNG :
Khi tu tới đệ Thất địa và đệ Bát địa là giai đoạn phá Hành ấm. Tuy đã yên
tĩnh nhưng chưa phải là sự tĩnh lặng tuyệt đối. Nên lầm cho là Niết-bàn, rồi an trú
trong đó không thoát ra được. Vì vậy phải có sự gia hộ của Phật và Bồ-tát để tiến
lên khỏi chỗ lặng lẽ đó. Nên ở đây Bồ-tát nói chú Đà-la-ni để ủng hộ.
D
PHẨM 27: DIỆU TRANG NGHIÊM
VƯƠNG BẢN SỰ
Diệu Trang Nghiêm Bản Sự là công hạnh tu hành ở đời trước của vua Diệu
Trang Nghiêm. Đời trước Ngài tu hành thế nào, nay thuật lại như thế ấy, gọi đó là
bản sự.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại chúng rằng: Về thuở xưa, cách đây vô
lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú
Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Nước đó tên Quang Minh
Trang Nghiêm, kiếp tên Hỉ Kiến.
Trong pháp hội của Phật đó có vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, phu nhân
của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một tên Tịnh Tạng, hai tên Tịnh Nhãn.
Hai người con đó có sức thần thông lớn, phước đức trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh
của Bồ-tát, những là: Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh
tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Trí huệ ba-la-mật, Phương tiện ba-la-mật, từ bi hỉ
xả nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp thảy đều rành rẽ suốt thấu.
Lại được các môn tam-muội của Bồ-tát: Nhựt tinh tú tam-muội, Tịnh quang
tam-muội, Tịnh sắc tam-muội, Tịnh chiếu minh tam-muội, Trường trang nghiêm
tam-muội, Đại oai đức tạng tam-muội, ở nơi các môn tam-muội này cũng đều thấu
suốt.
GIẢNG :
Đây nêu lên bốn nhân vật biểu trưng là vua Diệu Trang Nghiêm, phu nhân
Tịnh Đức, hai người con là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn. Phẩm này là phá thức ấm,
ấm chót trong năm ấm. Phá được thức ấm là qua được Cửu địa và Thập địa Bồ-tát,
rồi lên Đẳng giác Diệu giác thành Phật. Thức ấm đây không phải là sáu thức do
sáu căn duyên sáu trần dấy khởi, mà là Tạng thức, là kho chứa tất cả chủng tử
thiện ác, khi chuyển hết chủng tử thiện ác thì nó trở thành Như Lai tàng, tức là
thành Phật.
Vua Diệu Trang Nghiêm biểu trưng cho Tạng thức, phu nhân Tịnh Đức
biểu trưng cho Mạt-na thức, Tịnh Tạng biểu trưng cho Ý thức, Tịnh Nhãn biểu
trưng cho Tiền ngũ thức là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân thức. Người tu, dùng ý thức
nhận hiểu chánh pháp rồi mới khởi sự tu hành và chuyển năm thức trước trở thành
thanh tịnh. Do năm thức trước thanh tịnh thì thức thứ bảy là Mạt-na thức mới
thanh tịnh. Khi ý thức và năm thức trước huân tu đầy đủ công đức rồi, mới chuyển
thức thứ tám là A-lại-da thức thành Như Lai tàng. Nên nói hoàng tử Tịnh Tạng và
Tịnh Nhãn xuất gia rồi, khuyên phu nhân Tịnh Đức và vua Diệu Trang Nghiêm
hướng về đạo để tu hành. Hoàng tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn dẫn đường cho phu
nhân và Hoàng đế đi tu, lẽ ra phải được Phật thọ ký trước, Hoàng đế tới sau được
thọ ký sau. Nhưng, ngược lại khi thọ ký thì Phật thọ ký cho vua Diệu Trang
Nghiêm, mà không thọ ký cho hoàng tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn. Để thấy thành
Phật là A-lại-da thức thành, còn những thức kia chỉ là diệu dụng thôi. Nên khi loại
hết chủng tử thiện ác rồi thì A-lại-da thức thành cái kho thanh tịnh gọi là Như Lai
tàng. Thức A-lại-da mang chủng tử thiện ác ở đời quá khứ đến thọ sanh ở đời hiện
tại. Khi mang thân người thì tất cả nghiệp thiện hay ác đều chứa chấp đủ. Nếu
chuyển được nó thì thành Phật, còn nếu chưa chuyển được nó, dầu cho tu các thức
kia cũng không thể thành Phật. Vì vậy, trong Duy thức học nói thức A-lại-da đi thì
đi sau đến thì đến trước, nên nói nó là gốc là chủ. Đó là hình ảnh biểu trưng của sự
tu tiến.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm cùng
thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh Pháp Hoa này.
Bấy giờ, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, hai người con đến chỗ của mẹ, chấp tay
thưa mẹ rằng: “Mong mẹ đến nơi chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí,
chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ lạy.”
Vì sao ? Vì đức Phật đó ở trong tất cả chúng trời, người mà nói kinh Pháp
Hoa, nên phải nghe và tin nhận.
Mẹ bảo con rằng: “Cha con tin theo ngoại đạo, rất ham pháp Bà-la-môn,
các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng đi.”
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chấp tay thưa mẹ: “Chúng con là Pháp vương tử mà
lại sanh vào nhà tà kiến này !”
Mẹ bảo con rằng: “Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển
phép thần thông biến hóa, nếu cha con được thấy lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu
cho chúng ta qua đến chỗ Phật.”
GIẢNG :
Đoạn này chúng ta thấy rõ ý nghĩa của những hình ảnh biểu trưng đó. Lúc
bấy giờ Phật nói kinh Pháp Hoa vì muốn độ vua Diệu Trang Nghiêm cùng chúng
sanh trong thời đó. Hai anh em hoàng tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn xin phép Hoàng
hậu và mời Hoàng hậu đi nghe kinh. Hoàng hậu khuyên hai con nên mời nhà vua
cùng đi. Nhắc tới vua cha, hai hoàng tử mới than rằng: “Chúng con là Pháp vương
tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này !” Tại sao nói nhà vua theo ngoại đạo tà kiến ?
Nhà vua là chỉ cho thức A-lại-da huân chứa chủng tử cũ. Trước khi đức Phật ra
đời đã có đạo Bà-la-môn nên con người đã có sẵn chủng tử đó. Bây giờ muốn
chuyển thì khó khăn lắm, phải đầy đủ diệu dụng mới chuyển được. Vì vậy Hoàng
hậu khuyên hai người con nên dùng phép thần thông để chuyển tâm ý vua cha.
3. CHÁNH VĂN :
* Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư không cao bằng bảy cây
đa-la, hiện các món thần biến. Ở trong hư không đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra
nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy
trong hư không rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở trong hư không ẩn mất, bỗng
nhiên hiện trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các
món thần biến như thế làm cho vua cha lòng thanh tịnh tin hiểu.
Bấy giờ, cha thấy con có sức thần như thế, lòng rất vui mừng được chưa
từng có, chấp tay hướng về phía con mà nói rằng: “Thầy các con là ai, con là đệ tử
của ai ?”
Hai người con thưa rằng: “Đại vương ! Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa
Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp tòa dưới cây bồ-đề bằng bảy báu, ở trong tất
cả chúng trời, người thế gian, rộng nói kinh Pháp Hoa, đó là thầy chúng con, con
là đệ tử.”
Cha nói với con rằng: “Ta nay cũng muốn ra mắt thầy các con, nên cùng
nhau đồng đi.” Khi đó hai người con từ trong hư không xuống, đến chỗ của mẹ
chấp tay thưa mẹ rằng: “Phụ vương nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con đã vì cha làm Phật sự rồi, mong mẹ
bằng lòng cho chúng con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất gia tu hành Phật đạo.”
Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa:
Mong mẹ cho các con
Xuất gia làm Sa-môn
Các Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật học
Như hoa ưu-đàm-bát
Gặp Phật lại khó hơn
Khỏi các nạn cũng khó
Mong cho các con xuất gia.
Mẹ liền bảo con rằng: “Cho các con xuất gia. Vì sao ? Vì Phật khó gặp
vậy.”
GIẢNG :
Thông thường chúng ta tu là do ý thức lanh lợi, giản trạch rõ lẽ chánh tà,
chân ngụy, rồi từ từ chuyển hóa ý thức trở thành thanh tịnh. Do ý thức thanh tịnh
mới có diệu dụng huân lại những chủng tử trong A-lại-da, nhờ đó thức A-lại-da
lần lần chuyển theo. Ý thức và năm thức trước tiếp xúc bên ngoài, nó huân tất cả
những cái hay cái tốt, mới có công năng hướng thức A-lại-da trở thành thanh tịnh,
nên ở đây nói là hai hoàng tử hiện thần thông cho nhà vua tin để rồi đưa nhà vua
tới chỗ Phật ngự.
Sau khi hướng dẫn vua cha đến với đức Phật, hai hoàng tử đồng xin xuất
gia, vì đã làm tròn bổn phận là đưa cha về với chánh pháp. Chúng ta thấy rõ, khi ý
thức và năm thức trước đã chuyển thì thức A-lại-da cũng chuyển thành trí, thì tất
cả thức đều được thanh tịnh hoàn toàn, ý nghĩa này đoạn sau sẽ giải thích.
4. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, hai người con thưa cha mẹ rằng: “Lành thay, cha mẹ ! Xin liền
qua đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật để gần gũi cúng dường.
Vì sao ? Vì Phật khó gặp được, như hoa linh- thoại, lại như rùa một mắt gặp
bộng cây nổi mà chúng ta do phước đời trước sâu dày, sanh đời này gặp Phật pháp,
xin cha mẹ nên cho chúng con được xuất gia.
Vì sao ? Vì các đức Phật khó gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.”
GIẢNG :
Lại một lần nữa hai hoàng tử xin xuất gia vì lý do được gặp Phật là khó.
Nay có phước duyên lớn, sanh nhằm thời Phật ra đời, là cơ hội tốt được gặp Phật,
nên hai hoàng tử nguyện đi theo con đường của Phật để chóng thoát sanh tử.
5. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám muôn bốn
nghìn người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp Hoa này Tịnh Nhãn Bồ-tát từ.
lâu đã thông đạt nơi “Pháp Hoa tam-muội”. Tịnh Tạng Bồ-tát đã từ vô lượng trăm
nghìn muôn ức kiếp, thông đạt môn “Ly chư ác thú tam-muội”, vì muốn làm cho
tất cả chúng sanh lìa các đường dữ vậy.
Phu nhân của vua được môn “Chư Phật tập tam-muội”, hay biết được tạng
pháp bí mật của các đức Phật. Hai người con dùng sức phương tiện, khéo hóa độ
vua cha như thế, khiến cho lòng cha tin hiểu ưa mến Phật pháp.
GIẢNG :
Nhà vua đi đâu là có cả tám muôn bốn ngàn người ở hậu cung đi theo,
những người đó đều thọ trì kinh Pháp Hoa. Điều đó cho chúng ta thấy rằng thức
A-lại-da chứa vô số chủng tử, nên khi thức A-lại-da chuyển thì bao nhiêu chủng tử
liền theo đó chuyển hết. Đây nói Tịnh Nhãn thì được Pháp Hoa tam-muội, Tịnh
Tạng thì được Ly chư ác thú tam-muội. Pháp hoa tam-muội là Tri kiến Phật, mà
Tri kiến Phật lúc nào cũng hiện hữu nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của mỗi người,
nên nói Tịnh Nhãn được Pháp Hoa tam-muội. “Ly chư ác thú tam-muội” là chánh
định lìa các đường ác, hay nói cách khác ý thức đã chuyển, không tạo các nghiệp
ác nên được thanh tịnh. Động lực dẫn con người đi vào đường ác cũng là ý thức,
lìa các nghiệp ác được thanh tịnh cũng là ý thức.
Phu nhân Tịnh Đức thì được “Chư Phật tập tam-muội”. “Chư Phật tập tammuội”
là chánh định do chư Phật nhóm họp, phu nhân được định này.
Đoạn này chúng ta thấy chia ra bốn nhóm: nhóm thứ nhứt chỉ cho Tiền ngũ
thức, nhóm thứ hai chỉ cho Ý thức, nhóm thứ ba chỉ cho Mạt-na thức, nhóm thứ tư
chỉ cho A-lại-da thức. Chúng ta thấy rõ ý thức là động lực chính tạo nghiệp và
chuyển nghiệp. Còn những thức kia có công năng đi theo thôi, nhứt là Mạt-na thức,
qua hình ảnh phu nhân Tịnh Đức không có công gì hết, chỉ có việc đi theo vua
Diệu Trang Nghiêm. Giống như Sa Tăng quảy hành lý theo Tam Tạng đi thỉnh
kinh. Tịnh Nhãn như Trư Bát Giới, Tịnh Tạng như Tề Thiên tài ba mưu lược. Vua
Diệu Trang Nghiêm là Tam Tạng thì không khôn lanh, chậm chạp, nhưng Ngài là
chủ, những người kia theo trợ giúp cho Ngài nên khi thành tựu kết quả thì chính
Ngài nhận lãnh. Qua đoạn này chúng ta thấy trọng tâm tu, là chuyển Ý thức thành
Diệu quan sát trí, năm thức trước thành Thành sở tác trí, Mạt-na thức thành Bình
đẳng tánh trí, A-lại-da thức thành Đại viên cảnh trí. Rõ ràng chuyển tám thức
thành bốn trí.
6. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm, cùng chung với quần thần quyến thuộc,
Tịnh Đức phu nhân cùng chung với thể nữ quyến thuộc nơi hậu cung, hai người
con của vua, cùng chung với bốn muôn hai nghìn người, đồng một lúc đi qua chỗ
Phật. Đến rồi, đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một
phía.
Lúc đó, đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm cho được lợi ích vui
mừng, vua rất vui đẹp.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân mở chuỗi chân châu giá
trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật, chuỗi đó ở giữa hư không hóa
thành đài báu bốn trụ, trong đài có giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên y,
trên đó có đức Phật ngồi xếp bằng phóng hào quang sáng lớn.
GIẢNG :
Vua Diệu Trang Nghiêm mới gặp Phật lần đầu, liền phát tâm cúng dường
chuỗi ngọc, chuỗi ngọc biến thành đài báu, trên đài báu có Phật ngồi xếp bằng
phóng hào quang. Như vậy, vừa khởi tâm cúng dường Phật thì Phật hiện tiền.
7. CHÁNH VĂN :
*Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ rằng: Thân Phật tốt đẹp riêng lạ ít
có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhứt.
Bấy giờ, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, bảo bốn chúng rằng:
“Các ngươi thấy vua Diệu Trang Nghiêm chấp tay đứng trước ta đó chăng ?
Vị vua này ở trong pháp ta làm Tỳ-kheo siêng ròng tu tập các món trợ Phật
đạo pháp, sẽ được làm Phật hiệu Ta-la Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên
Đại Cao Vương.
Đức Ta-la Thọ Vương Phật có vô lượng chúng Bồ-tát và vô lượng Thanh
văn, nước đó bằng thẳng công đức như thế.”
GIẢNG :
Hai hoàng tử và phu nhân phát tâm tu trước mà không được Phật thọ ký,
nhà vua vừa mới phát tâm cúng dường liền được Phật thọ ký. Như vậy, để thấy rõ
ý nghĩa khi chuyển từ mê thành ngộ, từ ô nhiễm thành thanh tịnh, thì tạng thức là
cái nhân chính để thành Phật, chớ bảy thức còn lại là phụ không phải là nhân tố
chính để thành Phật.
8. CHÁNH VĂN :
* Vua Diệu Trang Nghiêm liền đem nước giao cho em, rồi cùng phu nhân,
hai người con và các quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu hành đạo hạnh.
Vua xuất gia rồi trong tám muôn bốn nghìn năm thường siêng tinh tấn tu
hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa; qua sau lúc đây, được môn “Nhứt thiết tịnh công
đức trang nghiêm tam-muội”.
Liền bay lên hư không cao bảy cây đa-la mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn !
Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng sức thần thông biến hóa, xoay
tâm tà của con, làm cho con được an trụ trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai
người con này là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi
ích cho con nên đến sanh vào nhà con.”
Lúc đó, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật bảo vua Diệu Trang
Nghiêm rằng: “Đúng thế ! Đúng thế ! Như lời ông nói, nếu có thiện nam tử, thiện
nữ nhân nào trồng cội lành thời đời đời được gặp thiện tri thức, vị thiện tri thức
hay làm Phật sự, chỉ dạy cho lợi ích vui mừng, khiến vào đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
Đại vương nên biết ! Vị thiện tri thức đó là nhân duyên lớn, giáo hóa dìu
dắt làm cho được thấy Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đại vương ! Ông thấy hai người con này chăng ? Hai người con này đã
từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn muôn ức na-do-tha hằng hà sa các đức
Phật. Gần gũi cung kính, nơi chỗ các đức Phật thọ trì kinh Pháp Hoa, thương
tưởng những chúng sanh tà kiến làm cho trụ trong chánh kiến.”
Diệu Trang Nghiêm vương liền từ trong hư không xuống mà bạch Phật
rằng: “Thế Tôn ! Như Lai rất ít có do công đức trí huệ nên nhục kế trên đảnh sáng
suốt chói rỡ. Mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng chặng mày như
ngọc kha nguyệt, răng trắng bằng và khít thường có ánh sáng, môi sắc đỏ đẹp như
trái tần-bà.”
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng trăm nghìn
muôn ức công đức như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chấp tay lại bạch Phật
rằng: “Thế Tôn ! Chưa từng có vậy ! Pháp của Như Lai đầy đủ trọn nên bất khả tư
nghì công đức vi diệu, dạy răn chỗ tu hành an ổn rất hay. Con từ ngày nay chẳng
còn lại tự theo tâm hành của mình chẳng sanh những lòng ác: kiêu mạn, giận hờn,
tà kiến.”
Vua thưa lời đó rồi, lạy Phật mà ra.
GIẢNG :
Vua Diệu Trang Nghiêm phát tâm tu liền giao hết triều đình, quốc dân cho
em, cả gia đình cùng xuất gia và được “Nhứt thiết tịnh công đức trang nghiêm
tam-muội”, tức là chánh định mà tất cả công đức đều được thanh tịnh trang
nghiêm. Ngài tán thán Phật và nói rằng Ngài được tu hành là do hai người con làm
thiện tri thức, giúp Ngài phát khởi căn lành. Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí
cũng xác nhận là đúng như vậy. Chúng ta thấy, thiện nam thiện nữ có sẵn căn lành
nhờ thiện tri thức hướng dẫn khiến vào đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu có sẵn duyên lành mà không gặp thiện tri thức, thì duyên lành đó cũng khó
phát triển. Thế nên thiện tri thức là người có công lớn đối với người tu hành. Ví dụ
như tôi không gặp Hòa thượng Viện trưởng cho xuất gia, thì không biết bây giờ tôi
trôi nổi ra sao ? Nhờ thiện hữu tri thức giáo hóa hướng dẫn, chúng ta mới nhận
được đạo lý rồi từ đó tiến tu. Vì vậy mà ơn của thiện tri thức đối với chúng ta lớn
vô kể, nếu người không tu tiến thì ơn thiện tri thức thấy như không có. Đó là đứng
trên sự mà nói. Về lý thì, sở dĩ A-lại-da thức mà được thanh tịnh sáng suốt, là nhờ
ý thức và tiền ngũ thức chuyển và hướng dẫn. Vậy A-lại-da thức được chuyển
thành trí là nhờ những thức trước chuyển mà chuyển theo. Cho nên thức thứ tám
được quả mà không phải công của mình, mà do công của những thức kia. Ở đây
biểu trưng qua hình ảnh vua Diệu Trang Nghiêm tán thán hai người con là thiện tri
thức của mình.
Phật lại nói: “Hai người con của nhà vua đã cung kính cúng dường sáu
mươi lăm trăm nghìn muôn ức na-do-tha Hằng hà sa đức Phật, thọ trì kinh Pháp
Hoa, và làm cho chúng sanh hết tà kiến trụ trong chánh kiến.” Điều này cho chúng
ta thấy ý thức và tiền ngũ thức là quan trọng, vì Tri kiến Phật luôn hiện hữu ở
những thức này. Khi đã nhận ra Tri kiến Phật liền từ đó chuyển lần tới A-lại-da
thức. Nên nói Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng đã thọ trì kinh Pháp Hoa với thời gian rất
lâu không thể tính kể.
Vua Diệu Trang Nghiêm tán thán tướng tốt của Phật. Sở dĩ Ngài được
tướng tốt như: trên nhục kế có hào quang sáng suốt, mắt dài rộng xanh biếc, tướng
lông trắng giữa chặng mày như hòn ngọc... là do phước đức sâu dầy trang nghiêm,
không phải do tình phàm mà có được tướng phi thường như vậy. Tới đây vua lại
nói: “Từ nay con chẳng còn tự theo tâm hành của mình.” Tâm hành là chỉ cho
chủng tử do năm thức trước và ý thức huân tập, rồi Mạt-na thức đưa vào A-lại-da
thức. Do có chủng tử ở A-lại-da thức nên khởi ra hiện hành, chủng tử tốt thì khởi
hiện hành tốt, chủng tử xấu thì khởi hiện hành xấu. Chủng tử khởi hiện hành, hiện
hành huân thành chủng tử, cứ như vậy mà tiếp nối không dừng. Nên đây nói:
“chẳng còn tự theo tâm hành”, tức là không còn theo những chủng tử mà sanh
lòng ác kiêu mạn, giận hờn, tà kiến, nên được thanh tịnh.
9. CHÁNH VĂN :
* Phật bảo đại chúng: “Ý các ông nghĩ sao ? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu
phải người nào lạ, nay chính là Hoa Đức Bồ-tát, bà Tịnh Đức phu nhân nay chính
là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ-tát hiện đương ở trước Phật. Hai người
con vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc nên sanh vào trong
cung vua, nay chính là Dược Vương Bồ-tát cùng Dược Thượng Bồ-tát.
Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát này thành tựu các công đức lớn như
thế, đã ở chỗ vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật trồng các cội công đức,
thành tựu bất khả tư nghì những công đức lành. Nếu có người biết danh tự của hai
vị Bồ-tát này thời tất cả trong đời, hàng trời, nhân dân cũng nên lễ lạy.
Lúc Phật nói phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự” này có tám muôn
bốn nghìn người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở trong các pháp chứng được pháp
nhãn tịnh.
GIẢNG :
Phật hợp thức chuyện xưa thành hiện tại. Vua Diệu Trang Nghiêm thời xưa,
nay chính là Bồ-tát Hoa Đức, hoàng tử Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng nay là Bồ-tát
Dược Vương và Dược Thượng. Dược Vương là vua thầy thuốc và Dược Thượng
là thầy thuốc bậc trên. Chúng sanh có những bệnh như tham lam, sân giận, si mê,
kiêu căng, bỏn xẻn... phát sanh từ ý thức và năm thức trước. Khi chuyển ý thức và
năm thức trước, hết những bệnh trên gọi đó là Dược Vương và Dược Thượng. Hai
vị Bồ-tát này hay chuyển cái xấu cái tà thành cái hay cái chánh, nên công đức của
hai vị Bồ-tát này rất lớn. Phật dạy nếu có người biết danh tự của hai vị Bồ-tát này
thời tất cả trong đời, hàng trời, nhân dân cũng nên lễ lạy. Nghĩa là ý thức và năm
thức trước trở thành thầy thuốc trị hết bệnh tham, sân, kiêu mạn... là bậc tôn kính
đáng đảnh lễ.
Trọng tâm của phẩm này là phá Thức ấm trong thân năm ấm, ở kinh Lăng
Nghiêm gọi là ngũ ấm ma. Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm che
khuất Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi người, phá tan năm ấm đó thì Tri kiến Phật
hiển hiện. Cũng như mặt trăng khi mây tan trời trong thì sáng vằng vặc. Phá xong
thức ấm đi tới quả Phật không còn khó khăn nữa. Tới đây là xong phần Nhập Tri
kiến Phật.
D
PHẨM 28: PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
KHUYẾN PHÁT
Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát có nghĩa là Bồ-tát Phổ Hiền khuyên người
phát tâm trì kinh Pháp Hoa. Người sau khi Nhập Tri kiến Phật, công hạnh đã viên
mãn có đầy đủ diệu dụng, theo sở nguyện sở cầu của chúng sanh mà vào đời ngũ
trược để giáo hóa họ. Mở đầu kinh này, Bồ-tát Văn-thù đứng ra giải nghi cho Bồ-
tát Di-lặc, nói lên ý nghĩa muốn Nhập Tri kiến Phật là phải bắt đầu bằng trí tuệ tức
là Căn bản trí. Sau khi nhập Tri kiến Phật phá hết năm ấm, công hạnh tu hành viên
mãn, khởi Sai biệt trí biết rõ tâm bệnh của chúng sanh, mà dùng mọi phương tiện
để giáo hóa. Bấy giờ ra giáo hóa thì không còn chướng ngại thoái lui.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Phổ Hiền Bồ-tát dùng sức thần thông tự tại oai đức
danh văn, cùng vô lượng vô biên bất khả xưng sổ chư đại Bồ-tát từ phương Đông
mà đến; các nước đi ngang qua khắp đều rúng động, rưới hoa sen báu, trỗi vô
lượng trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc.
Lại cùng vô số các đại chúng: trời, rồng, dạ- xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, calâu-la,
khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân v.v... vây quanh, đều hiện sức oai
đức thần thông đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy đức Thích-ca
Mâu-ni Phật, đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Con ở nơi
nước của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi Ta-bà này nói kinh
Pháp Hoa nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ-tát đồng
đến để nghe thọ, cúi mong đức Thế Tôn nên vì chúng con nói đó.
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân sau khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể
được kinh Pháp Hoa này?”
GIẢNG :
Bồ-tát Phổ Hiền từ cõi Phật phương Đông, nghe Phật Thích-ca ở cõi này
nói kinh Pháp Hoa, Ngài cùng với chúng đồng đến để nghe pháp. Bồ-tát Phổ Hiền
không dùng tai để nghe, mà Ngài dùng tâm để nghe. Ngài đặt câu hỏi: Sau khi
Phật diệt độ, thiện nam tử, thiện nữ nhân, làm sao có thể được kinh Pháp Hoa này ?
Dưới đây Phật trả lời.
2. CHÁNH VĂN :
* Phật bảo Phổ Hiền Bồ-tát rằng: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành
tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ được kinh Pháp Hoa này: Một là
được các đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh
định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.
Thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như Lai
diệt độ quyết được kinh này.
GIẢNG :
Phật dạy muốn được kinh Pháp Hoa phải thực hành bốn pháp. Một là được
chư Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là
phát lòng cứu tất cả chúng sanh. Pháp thứ nhứt là được chư Phật hộ niệm, chúng ta
có được Phật hộ niệm không ? Nơi mỗi người ai cũng có Tri kiến Phật, tuy có
nhưng vì quên, nên không được Phật hộ niệm. Nếu chúng ta hằng sống với Tri
kiến Phật thì Phật luôn luôn ở bên cạnh mình không có xa vắng. Như vậy Phật
không hộ niệm là gì ? Pháp thứ hai là trồng các cội công đức, hiện tại chúng ta
đang gieo trồng công đức qua việc tự giác và giác tha. Pháp thứ ba là vào trong
chánh định, thì hiện tại chúng ta đang buông bỏ những vọng tưởng điên đảo, khi
vọng tưởng điên đảo lắng xuống, đó là chúng ta đang ở trong chánh định chứ gì ?
Còn phát lòng từ làm lợi ích chúng sanh, thì chúng ta đang thực hiện, tuy chưa làm
được những việc lớn, nhưng những việc nhỏ đang làm. Như vậy, là bốn pháp phải
có để được kinh Pháp Hoa, hiện tại mỗi người chúng ta ai cũng có, mặc dù chưa
được viên mãn.
Chúng ta nhớ, được kinh Pháp Hoa không phải đem tiền đi thỉnh bộ kinh
bằng văn tự in trên giấy mực. Được kinh Pháp Hoa đây là phải thực hiện bốn pháp
vừa nêu để sống với Tri kiến Phật. Đó là được kinh Pháp Hoa.
3. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Năm trăm năm
sau trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự
khổ hoạn làm cho được an ổn, khiến không ai được tiện lợi rình tìm làm hại; hoặc
ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc người bị ma
dựa, hoặc dạ-xoa, hoặc la-sát, hoặc cưu-bàn-trà, hoặc tỳ-xá-xà, hoặc kiết-giá, hoặc
phú-đơn-na, hoặc vi-đà-la v.v... những kẻ làm hại người đều chẳng được tiện lợi.
Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cưỡi tượng
vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ-tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân
ra, để cúng dường thủ hộ an ủi tâm người đó, cũng để cúng dường kinh Pháp Hoa.
Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cưỡi tượng vương
trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong kinh Pháp Hoa có quên mất
một câu, một bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.
Bấy giờ, người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa được thấy thân con, lòng rất
vui mừng lại càng tinh tấn, do thấy thân con nên liền được tam-muội và đà-la-ni
tên là “Triền Đà-la-ni”, trăm nghìn muôn ức “Triền Đà-la-ni”, “Pháp âm phương
tiện Đà-la-ni”, được những môn đà-la-ni như thế.
GIẢNG :
Bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện đi vào cõi đời ác trược để ủng hộ cho người
trì kinh Pháp Hoa. Tất cả các loại ma muốn phá phách, làm cho người trì kinh
Pháp Hoa thoái tâm, thì Ngài liền tới ủng hộ, để cho những người đó tu hành,
không bị tổn hại. Những người đó đi, đứng, ngồi, nằm đều trì kinh Pháp Hoa thì
Ngài sẽ cưỡi tượng vương trắng sáu ngà, cùng với chúng đại Bồ-tát đến thủ hộ an
ủi những người đó và cúng dường kinh Pháp Hoa. Chúng ta thấy Bồ-tát Phổ Hiền
từ cõi tịnh đi vào cõi uế, để bảo hộ người tu theo kinh Pháp Hoa. Thường, chúng
ta thấy tượng Phật Thích-ca ở giữa, hai vị Bồ-tát ở hai bên là Văn-thù và Phổ Hiền.
Bồ-tát Văn-thù cưỡi sư tử tượng trưng cho Căn bản trí phá dẹp tà kiến xiển dương
chánh pháp. Cũng như con sư tử một phen rống lên, thì mọi con thú khác đều né
tránh bỏ chạy hết, chỉ còn lại loài sư tử, chúa sơn lâm thôi.
Qua giai đoạn Căn bản trí phá tà hiển chánh, tới giai đoạn Sai biệt trí khởi
phát từ bi đi vào đời giáo hóa ủng hộ người tu. Biểu trưng qua hình ảnh Bồ-tát Phổ
Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà. Voi trắng ngầm nói lên tâm hạnh vững mạnh rộng lớn
mà thanh tịnh của Bồ-tát. Sáu ngà là chỉ cho lục độ. Bồ-tát Phổ Hiền vào cõi trần
tục ô uế với tâm hạnh lớn mạnh, trí tuệ sáng suốt không bị nhiễm nhơ, lúc nào
cũng dùng pháp lục độ an ủi làm lợi ích cho chúng sanh chóng viên thành đạo quả.
Tương tợ, trong mười bức tranh chăn trâu Thiền tông, chúng ta thấy bức tranh thứ
mười, thiền sư mặc áo bày ngực, đi chân trần, tay cầm bầu rượu, tay xách con cá
chép, đi vào xóm làng hòa mình với chúng sanh để độ họ. Các Ngài đã vào Phật
quốc là chỗ thanh tịnh rồi, bấy giờ tùy theo căn cơ chúng sanh đi vào chỗ uế trược,
để cứu độ làm lợi ích cho họ. Đó là hạnh nguyện lợi sanh.
Như vậy, người tu tới chặng chót này là phải lao mình vào trần thế để cứu
độ chúng sanh, cứu độ chúng sanh viên mãn mới thành Phật. Đó là tinh thần Tự
giác Giác tha Giác hạnh viên mãn. Nếu mình được giác ngộ mà chưa giác tha thì
chưa đủ công hạnh để thành Phật. Vì vậy mà phẩm chót của bộ kinh Pháp Hoa nói
lên hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Cũng như bức tranh thứ mười trong Thập
mục ngưu đồ, thiền sư thõng tay vào chợ, vào làng hòa mình với những người
nhiễm nhơ trần tục, để giáo hóa hướng dẫn họ trở về với chánh pháp.
Đây nói người suy nghĩ kinh Pháp Hoa, nếu quên hoặc một câu hoặc một
bài kệ, thì Bồ-tát Phổ Hiền đến chung đọc tụng làm cho thông thuộc. Quí vị tụng
kinh Pháp Hoa có vị nào được nhắc chưa ? Chưa. Tại sao ở đây nói như vậy ? Vì
kinh Pháp Hoa là chỉ cho người nhận ra Tri kiến Phật, mọi người có Tri kiến Phật,
nếu quên thì có thiện tri thức nhắc cho nhớ để tu. Và Bồ-tát Phổ Hiền sẽ đến gia
hộ cho được tất cả đà-la-ni tức là nhớ hết các pháp.
4. CHÁNH VĂN :
* Thế Tôn ! Nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác trược, hàng Tỳ-
kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc
tụng, người biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp Hoa này, thời trong hai mươi
mốt ngày, phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi tượng
trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sanh ưa
thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi ích vui mừng cũng lại
cho chú đà-la-ni.
Được chú đà-la-ni này thời không có phi nhân nào có thể phá hoại được,
cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó.
Cúi mong đức Thế Tôn nghe con nói chú đà-la-ni này. Liền ở trước Phật mà nói
chú rằng:
“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu
đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà đà la ni a bà đa ni, tác bà bà sa a
bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng
già bà dà địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam
ma địa, dà lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược,
a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế.”
Thế Tôn ! Nếu có Bồ-tát nào được nghe chú đà-la-ni này, phải biết đó là
sức thần thông của Phổ Hiền.
GIẢNG :
Người trì hay biên chép kinh Pháp Hoa khoảng hai mươi mốt ngày, thì Bồ-
tát Phổ Hiền sẽ tới hiện thân cho thấy để chỉ dạy cho người đó và tặng thêm thần
chú. Đây ngầm ý nói rằng người biết hướng về Tri kiến Phật, hoặc hằng sống với
Tri kiến Phật thì lúc nào cũng được gia hộ, được tâm đại tổng trì.
Ý này có hai nghĩa. Một là người thọ trì kinh Pháp Hoa, muốn cho nhân và
phi nhân không hoặc loạn nhiễu hại, thì phải giữ tâm thanh tịnh không dấy động
nhiễm nhơ, đó là được chú đà-la-ni. Hai là người hướng về sống với Tri kiến Phật,
không có tâm trông cầu ở người khác. Tuy không trông cầu, mà vẫn được gia hộ
của chư Phật và Bồ-tát. Hằng ngày, tuy làm mọi việc mà vẫn ở trong thiền định,
nên nói Bồ-tát Phổ Hiền nói thần chú để gia hộ.
5. CHÁNH VĂN :
* Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong Diêm phù đề có người thọ trì, thời nên
nghĩ rằng: Đều là sức oai thần của Phổ Hiền.
Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh hiểu nghĩa thú trong
kinh đúng như lời mà tu hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô
lượng vô biên các đức Phật, sâu trồng cội lành, được các Như Lai, lấy tay xoa đầu.
Nếu chỉ biên chép người này mạng chung sẽ sanh lên trời Đao-lợi.
Bấy giờ, tám muôn bốn nghìn thiên nữ trỗi các kỹ nhạc mà đến rước đó,
người đó liền đội mão bảy báu, ở trong hàng thể nữ vui chơi khoái lạc, huống là
thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành.
Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú kinh này, người đó khi
mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào
đường dữ, liền lên cung trời Đâu-suất, chỗ Di-lặc Bồ-tát mà sanh vào hàng quyến
thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ, đức Di-lặc Bồ-tát có ba mươi hai tướng,
chúng đại Bồ-tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên người
trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân
chánh đúng như lời tu hành.
Thế Tôn ! Con nay dùng sức thần thông giữ gìn kinh này, sau khi Như Lai
diệt độ, làm cho rộng lưu bố trong Diêm-phù-đề khiến chẳng dứt mất.
GIẢNG :
Người trì kinh Pháp Hoa thì được Bồ-tát Phổ Hiền gia hộ. Và nếu người thọ
trì đọc tụng hiểu nghĩa thú trong kinh, đúng như lời dạy của Phật mà tu hành, đó là
người tu theo hạnh Phổ Hiền. Có nghĩa là Bồ-tát xoay lại sống với Tri kiến Phật
của mình và biết chúng sanh cũng có Tri kiến Phật mà họ quên, nên khởi lòng
thương xót, giáo hóa khiến cho họ nhận ra Tri kiến Phật của họ. Và khi giáo hóa,
với Trí sai biệt, Bồ-tát biết rõ căn cơ trình độ của chúng sanh, dùng phương tiện
thích ứng với căn tánh họ, khiến họ tin nhận và tu theo. Nên việc giáo hóa không
chướng ngại, thực hành được hạnh nguyện lớn của Phổ Hiền.
Phật nói, chỉ cần biên chép kinh Pháp Hoa thôi mà được phước báo sanh
lên cõi trời, rồi được đội mão bảy báu, được thiên nữ tới đón vui chơi khoái lạc
đầy đủ. Còn nếu trì tụng ghi nhớ chân chánh nghĩa thú kinh và đúng như lời Phật
dạy mà tu hành, thì công đức không thể lường được. Chư Bồ-tát luôn luôn khuyến
khích chúng sanh tu bằng mọi hình thức, hoặc là dùng lời ngon ngọt để khuyến
khích, hoặc dùng những hình ảnh mà chúng sanh ưa thích, hoặc nói lên lý đạo
chân chính, để cho chúng sanh phát tâm tu. Đó là phương tiện của Bồ-tát giáo hóa,
khiến chúng sanh hướng về Tri kiến Phật, hoặc ít hoặc nhiều rồi tiến tu cho đến
thành tựu viên mãn. Cuối cùng Bồ-tát Phổ Hiền tuyên bố rõ ràng rằng: Ngài sẽ
làm lưu bố kinh Pháp Hoa khắp cõi Diêm-phù-đề chẳng để dứt mất. Hạnh nguyện
của Ngài cốt làm sao đưa mọi người tới chỗ tỉnh giác, nhận ra nơi mình có Tri
kiến Phật. Phật giáo hóa giảng dạy cốt đưa chúng sanh ngộ được Tri kiến Phật,
Bồ-tát giúp chúng sanh cũng trở về với Tri kiến Phật, là cái gốc của sự tu hành.
6. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật khen rằng: “Hay thay ! Hay thay !
Phổ Hiền ! Ông có thể hộ trợ kinh này làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích.
Ông đã thành tựu bất khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà có thể thật hành nguyện thần
thông đó, để giữ gìn kinh này.
Ta sẽ dùng sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì danh hiệu Phổ Hiền
Bồ-tát.
Phổ Hiền ! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh tu tập biên
chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích-ca Mâu-ni Phật,
như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức
Thích-ca Mâu-ni Phật, phải biết người đó được Phật, Ngài khen lành thay, phải
biết người đó được Thích-ca Mâu-ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người đó được
đức Thích-ca Mâu-ni Phật lấy y trùm cho. Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự
vui trong đời, chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần
gũi ngoại đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc
thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thiệt, có lòng nghĩ nhớ
chân chánh có sức phước đức. Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng
chẳng bị tánh ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại. Người đó
ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ Hiền.
GIẢNG :
Phật khen ngợi Bồ-tát Phổ Hiền có lòng từ bi rộng lớn, đem hết khả năng
để thực hiện hạnh nguyện của mình, là giữ gìn kinh này tồn tại ở cõi Ta-bà, để cho
chúng sanh được lợi ích. Phật hứa sẽ bảo hộ cho những người phát tâm thọ trì
danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền. Nói cách khác là Phật sẽ gia hộ cho người tu theo hạnh
nguyện Phổ Hiền, khởi lòng đại bi quán xét căn cơ của chúng sanh, rồi đi vào đời
ngũ trược để tiếp độ chúng sanh, khiến cho họ được giác ngộ.
Phật lại xác nhận một lần nữa, người mà thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa
một cách chân chánh, thì người đó sẽ được thấy Phật Thích-ca, như từ miệng Phật
mà nghe kinh điển này, được Phật Thích-ca khen ngợi, được Phật Thích-ca xoa
đầu và lấy y trùm cho... Vì sao được như thế ? Vì bản hoài của Phật là muốn cho
chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật của chính mình. Vậy nếu ai thực hành theo bản
hoài của Phật, đấy là trung thành với Phật, nên được Phật nâng đỡ. Đó là nói sự
gia hộ bên ngoài. Sau đây là nói đến bản thân của người trì tụng kinh Pháp Hoa.
Người khi nhận ra Tri kiến Phật là cái thể sáng suốt không sanh không diệt, hằng
hữu thì những thú vui tạm bợ ở đời không nhiễm trước, những cái nhân gây ra
phiền não có thể dẹp bỏ được như đối với kinh sách của ngoại đạo không thích đọc
và không thích gần gũi với những người ngoại đạo. Đối với những thú vui tạm bợ
ở thế gian, cùng những người có nghiệp ác thì không tương ưng, không thân cận.
Vì mọi ý niệm xấu xa không còn, nên nói chẳng bị tánh ghen ghét, ngã mạn, tà
mạn, tăng thượng mạn làm não hại; lại còn ít muốn biết đủ, nên có thể tu theo
hạnh Phổ Hiền, làm lợi ích cho chúng sanh.
7. CHÁNH VĂN :
* Phổ Hiền ! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào
thấy người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao
lâu sẽ đến đạo tràng, phá các chúng ma thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
chuyển pháp luân, đánh pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa
sư tử trong đại chúng trời, người.
Phổ Hiền ! Nếu ở đời sau, có người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, người
đó chẳng còn lại ham ưa y phục, giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu
chẳng luống, cùng ở trong hiện đời được phước báo đó.
Nếu có người khinh chê đó rằng: “Ông là người điên cuồng vậy, luống làm
hạnh ấy trọn không được lợi ích.” Tội báo như thế sẽ đời đời không mắt. Nếu có
người cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời nay được quả báo hiện tại.
Nếu lại thấy người thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc
thiệt, hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời mắc bệnh bạch lại (Bệnh hủi)
Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu,
mũi xẹp, tay chưn cong quẹo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mủ, bụng thủng,
hơi ngắn, bị các bệnh nặng dữ.
Cho nên Phổ Hiền ! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này phải đứng dậy xa
rước, phải như kính Phật.
GIẢNG :
Khi Phật diệt độ khoảng năm trăm năm về sau, có người thọ trì đọc tụng
kinh Pháp Hoa, thì biết người đó chẳng bao lâu sẽ là người ngồi đạo tràng phá
chúng ma, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và chuyển pháp luân giáo
hóa chúng sanh. Người đó được nhiều phước báo về bốn món: ăn, mặc, ở, bệnh, vì
công phu tu hành đã tới mức phải được, dù không muốn cũng có, còn người chưa
đủ phước đó, dù muốn cũng không được. Ý Phật nói rằng người mà biết sống với
Tri kiến Phật thì mọi phước đức không cầu mà vẫn được.
Đến đây Phật nêu ra hai trường hợp. Nếu ai thấy người trì kinh Pháp Hoa
mà chê bai và cho rằng điên dại, thì người đó bị tội báo nặng nề. Ngược lại ai mà
tán thán khen ngợi, thì người đó sẽ được quả báo tốt trong đời hiện tại này. Thông
thường chúng ta thấy ai khen người hiền trí, không khen kẻ hung ác thì biết người
đó đã có chủng tử lành, mà đã có chủng tử lành, thì tự nhiên sẽ hưởng phước lành.
Ngược lại, kẻ khinh chê người hiền trí, lại khen người hung dữ, thì chúng ta biết
kẻ đó ác và ngu, vì đã có chủng tử ác, ắt phải đọa vào cõi ác, chịu quả báo khổ đau
không nghi ngờ.
Sau đây Phật lại nói, kẻ chê bai người trì kinh Pháp Hoa thì răng thưa thiếu,
môi xấu, mũi xẹp... Xét lại, nếu người nào mắc phải những tướng xấu đó, là trước
đã chê bai người trì kinh Pháp Hoa, nay phải sám hối và khen ngợi đừng chê nữa.
Đây Phật kết thúc cho chúng ta thấy rằng người biết xoay lại sống với Tri kiến
Phật thì chắc chắn quả Phật sẽ đến. Và đối với người sống với Tri kiến Phật, chớ
có khinh thường, nếu khinh thường là tạo nghiệp ác đi trong đường dữ chịu khổ
đau.
8. CHÁNH VĂN :
* Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát này có hằng hà sa vô
lượng vô biên Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức môn “Triền Đà-la-ni”, tam thiên
đại thiên thế giới vi trần số các đại Bồ-tát, đủ đạo Phổ Hiền.
Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền v.v... các vị Bồ-tát, Xá-lợi-phất v.v... các
vị Thanh văn và hàng trời, rồng, nhân, phi nhân v.v... tất cả đại chúng đều rất vui
thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.
GIẢNG :
Phẩm PHỔ HIỀN là phẩm chót khuyến khích người trì kinh Pháp Hoa và
ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa. Đó là phần lưu thông cho mọi người thấy rằng,
người thọ trì và bảo hộ kinh Pháp Hoa sẽ được Phật và Bồ-tát ủng hộ. Vậy chớ có
xem thường.
D
TOÁT YẾU TOÀN BỘ KINH
Toàn bộ kinh Pháp Hoa có bảy quyển, hai mươi tám phẩm. Để thấy ý toàn
bộ, chúng ta nên lược qua từng phẩm:
1- Phẩm Tự: Phẩm này chỉ chủ yếu của toàn bộ. Hình ảnh Phật phóng
quang từ lông trắng giữa chặng mày, ánh sáng soi khắp phương đông, thông trên
suốt dưới, theo ánh sáng hội chúng thấy chúng sanh trong lục đạo, tạo nghiệp thọ
báo và thấy chư Phật tu nhân chứng quả giáo hóa chúng sanh… Đây là biểu trưng
tánh giác (tri kiến Phật) rỗng suốt, không kẹt hai bên, biết rõ nguyên nhân luân hồi
sanh tử và nguyên nhân giải thoát sanh tử. Tánh giác rời ngôn ngữ và tâm thức suy
tư, cho nên Phật chỉ hiện tướng mà không nói một lời. Chỉ căn bản trí mới thấu
suốt được tánh giác, vọng thức thì không sao hiểu nổi. Vì thế, đức Di-lặc (thức)
khởi nghi hỏi Bồ-tát Văn Thù (trí).
2- Phẩm Phương Tiện: Từ chỗ vô ngôn đến đây phải dùng ngôn thuyết, ấy
là phương tiện. Lại nữa, Phật dùng mọi phuơng tiện dẫn dắt chúng sanh, cứu kính
đều đưa đến ngộ nhập tri kiến Phật (tánh giác). Đây là mục đích chung của chư
Phật. Dù trước có nói các pháp khác song cũng là phương tiện đưa đến cứu kính
này. Tuy nhiên tri kiến Phật rất khó tin hiểu, nên phải thiết tha cầu thỉnh hai ba
phen Phật mới nói.
3- Phẩm Thí Dụ: Sau khi Phật phương tiện dùng ngôn ngữ trình bày,
người căn cơ lanh lợi bậc thượng liền nhận ra tri kiến Phật của chính mình. Đây là
chỗ đốn ngộ của Xá-lợi-phất, Tôn giả vui mừng hớn hở được điều chưa từng có
trình lên Phật. Phật liền ấn chứng (thọ ký) cho Ngài sau này sẽ thành Phật. Tuy
vậy những căn cơ kém bén nhậy còn chưa nhận ra, Phật phải dùng thí dụ nhà lửa
và ba xe, cuối cùng chỉ cho một xe “bạch ngưu”.
4- Phẩm Tín Giải: Đây là trình bày kiến giải của mình để Phật ấn chứng.
Những vị Thanh văn kỳ cựu đến đây mới nhận rõ tri kiến Phật của mình, vui mừng
vô hạn, như chàng cùng tử được cha trao cả sự nghiệp, điều mà trước kia chưa bao
giờ dám nghĩ đến. Các Ngài dùng thí dụ này trình kiến giải lên Phật.
5- Phẩm Dược Thảo Dụ: Lẽ ra, sau khi trình kiến giải của mình liền được
Phật thọ ký ngay, song cần phải khích lệ những căn cơ bậc trung, cố gắng nhận ra
tri kiến Phật, nên Phật ví dụ đám mưa mọi cây cỏ đều được thấm nhuần. Các căn
cơ có khác, nhưng đều được lợi ích trong một trận pháp vũ này.
6- Phẩm Thọ Ký: Thọ ký là tên khác của ấn chứng trong nhà thiền. Khi
các vị Ma-ha Ca-diếp v.v… trình bày chỗ sở ngộ rồi, Phật liền thọ ký (ấn chứng)
cho mỗi vị tương lai sẽ thành Phật. Đây mới đốn ngộ Phật thừa, còn phải tiệm tu
Bồ-tát hạnh, sau mới chứng thành Phật quả.
7- Phẩm Hóa Thành Dụ: Giải thích một lần nữa về phương tiện của đức
Phật, để những vị căn cơ bậc trung thấy rõ tri kiến Phật của mình. Dùng thí dụ Hóa
thành và Bảo sở để sách tiến các Ngài vượt lên, đừng đắm luyến trong quả vị
Thanh văn.
8- Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký: Giờ đây hàng căn cơ bậc trung đã thấy
rõ tri kiến Phật của mình. Đại diện năm trăm vị, ngài Mãn Từ Tử trình bày sở ngộ,
theo đó Phật thọ ký năm trăm vị tương lai đều thành Phật.
9- Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký: Đến đây hàng hữu học và vô học
mới nhận ra tri kiến Phật của mình, tự nhận mình có phần trong Phật thừa, mong
được Phật thọ ký. Phật thọ ký các Ngài trong tương lai đều sẽ thành Phật.
10- Phẩm Pháp Sư: Còn một số căn cơ hạ liệt, chưa dám nhận tri kiến
Phật của mình. Phật muốn thúc đẩy họ tiến lên, cần khuyến khích họ thọ trì cúng
dường tùy hỷ giáo hóa thì tương lai đều thành Phật.
11- Phẩm Hiện Bảo Tháp: Tháp bảy báu hiện giữa hư không trang nghiêm
đẹp đẽ, trong có toàn thân Phật Đa Bảo. Phật Đa Bảo tượng trưng cho Pháp thân,
tháp bảy báu tượng trưng cho thất đại. Đến đây, Phật chỉ rõ ngay trong thân thất
đại này đã hàm chứa Pháp thân hay Tri Kiến Phật. Song làm sao thấy được Pháp
thân, cần phải thu nhiếp vọng tưởng lại mới thấy. Cho nên trong kinh nói: “Phật
Đa Bảo có nguyện sâu: Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra
trước các đức Phật, vị Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, Phật đó
phải nhóm họp tất cả Phật của mình phân thân ra thuyết pháp ở mười phương về
một chỗ, sau thân ta mới hiện”. Phật phân thân chỉ cho ý thức phân tán chạy theo
sáu trần, chúng tụ họp về một chỗ là an định, Pháp thân sẽ hiện tiền. Đây là chỉ rõ
cho đại chúng biết Tri Kiến Phật đã nằm sẵn trong lầu ngũ uẩn hay trong tháp thất
đại.
12- Phẩm Đề-bà-đạt-đa: Đã chỉ rõ tri kiến Phật ở trong lầu năm uẩn hay
thất đại, mà người căn cơ hạ liệt vẫn chưa tin chưa hiểu. Một lần nữa Phật lại chỉ
cặn kẽ, dù tạo tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa, ty tiện như thân Long Nữ vẫn có
Tri kiến Phật, gặp duyên hóa độ liền ngộ đạo, đều sẽ thành Phật không nghi.
13- Phẩm Trì: Đến đây tất cả vị Tỳ-kheo ni đều buông xả tâm hạ liệt, đinh
ninh rằng người nữ tu hành không thể thành Phật, quí vị tự nhận mình có phần
thành Phật, vì mình đồng có Tri kiến Phật như tất cả những vị đã ngộ, được Phật
thọ ký. Do đó, Phật tuần tự thọ ký riêng và chung cho ni chúng.
14- Phẩm An Lạc Hạnh: Trên đã xong phần mọi căn cơ đều đốn ngộ, đến
đây là phần tiệm tu Bồ-tát hạnh. Hay nói cách khác, ở trên đã ngộ Tri kiến Phật, từ
đây về sau là nhập Tri kiến Phật. Nói theo Thiền thì ở trên đã kiến tánh, từ đây về
sau khởi tu. Kinh nói: “Ở trong đời ác sau, hộ trì đọc tụng giảng nói kinh Pháp
Hoa”, có nghĩa là sống và bảo vệ Tri kiến Phật của mình. Muốn bảo vệ Tri kiến
Phật trước phải gìn giữ giới luật, tức là an trụ bốn pháp vậy.
15- Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất: Do công phu tu trì, bảo vệ Tri kiến Phật,
tự trong thân phát trí vô sư. Trí này từ thân tứ đại xuất phát, nên nói Bồ-tát từ dưới
đất vọt lên. Trí vô sư do công phu tu hành mà được, nên có khả năng chống lại
sanh tử; nó từ chân tánh lưu xuất không sanh không diệt, nên tương ưng với Tri
kiến Phật. Vì thế Phật không chấp nhận Bồ-tát ở tha phương duy trì truyền bá kinh
Pháp Hoa ở cõi này, chỉ dành cho chư Bồ-tát từ đất vọt lên duy trì. Bồ-tát tha
phương biểu trưng trí hữu sư. Trí này do học tập được, còn phân biệt giản trạch,
thuộc về trí sanh diệt, không đủ khả năng bảo vệ Tri kiến Phật.
16- Phẩm Như Lai Thọ Lượng: Đã có trí vô sư phát sanh mới nhận rõ
Pháp thân (Tri kiến Phật) bất sanh bất diệt, thường hằng chẳng đổi. Tuổi thọ của
Pháp thân đồng tuổi thọ của hư không, vì Pháp thân không tướng làm gì bị vô
thường và tan hoại. Như Lai ở đây là Tri kiến Phật hay Pháp thân, thường nằm sẵn
trong thân năm uẩn của chúng ta, song không mấy ai nhận ra, chỉ khi nào trí vô sư
phát sanh mới thể hiện được Pháp thân. Vì thế nên nói rất khó tin khó hiểu, người
tin hiểu được thì công đức vô lượng.
17- Phẩm Phân Biệt Công Đức: Pháp thân chân thật bất biến; người tin
nhận được Pháp thân là đã biết lối trở về chân tánh. Mọi công đức của thế gian đều
là công đức tương đối sanh diệt, nên hữu hạn hữu lượng. Người nhận ra Pháp thân
chân thật là vô sanh, nên công đức vô hạn vô lượng. Vì thế nếu đem so sánh thì
không công đức nào của thế gian có thể sánh kịp.
18- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức: Công đức của người nhận ra Pháp thân đã
cao tột như vậy, người phát tâm tùy hỷ công đức này ắt cũng vô ngần. Phát tâm
tùy hỷ tức đã có phần nhận hiểu, khuyến khích kẻ khác tức đã tự hâm mộ, cho nên
người tùy hỷ kinh này, khuyến khích kẻ khác nghe kinh… đều là công đức vô biên.
19- Phẩm Pháp Sư Công Đức: Công đức Pháp Sư hay công đức của người
sống với Tri kiến Phật, y cứ nơi sáu căn phát hiện. Sáu căn là chỗ phát sáng của
hòn ngọc tánh giác, không nương sáu căn làm sao thấy được hòn ngọc. Hằng sống
trở lại tánh thấy tánh nghe của mình là cửa vào tánh giác, con đường vào cửa Niếtbàn.
Khi sáu căn thuần tịnh thì tự nó trở thành lục thông, khỏi cần tập luyện mới
có thần thông.
20- Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát: Người sống với Tri kiến Phật và
truyền bá cho mọi người phải kiên trì nhẫn nhục, vì làm một điều khó làm, dạy
một điều khó dạy. Biết mọi người đều có Tri kiến Phật, người ngộ trước nào dám
khinh người ngộ sau, người đã ngộ cố chỉ cho người sẽ ngộ. Đây là việc làm của
Bồ-tát Thường Bất Khinh. Ngài trì kinh Pháp Hoa và truyền bá kinh Pháp Hoa
bằng cách gặp ai cũng bái xá nói rằng: “Tôi chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài
đều sẽ thành Phật”. Tu nhân như thế, Ngài kết quả thành Phật, gieo nhân như thế,
kết quả mọi người được dự hội Pháp Hoa. Thế là trì kinh bằng cách chính mình
sống với Tri kiến Phật của mình, truyền bá là gieo cho mọi người đủ niềm tin
mình có Tri kiến Phật.
21- Phẩm Như Lai Thần Lực: Đã biết sống trở về Pháp thân, khi được
thuần thục thì diệu dụng bất khả tư nghì. Tất cả diệu dụng ấy đều từ chỗ Vô Tác
Diệu Trí phát sanh, không phải sự dụng công cố gắng nào cả. Diệu dụng do công
phu tu hành trở về tánh giác là một lẽ thật không còn nghi ngờ gì nữa. Cho nên ở
đây Phật bày tướng lưỡi rộng dài, tất cả lỗ chân lông đều phóng quang…
22- Phẩm Chúc Lụy: Tri kiến Phật là tuệ mạng của chúng sanh, là trí tuệ
của chư Phật, con đường cầu giác ngộ không còn lối nào khác hơn. Thế nên truyền
bá cho mọi người nhận ra Tri kiến Phật là trách nhiệm tối thượng của người ngộ
trước. Ngọn đèn trí tuệ duy nhất để phá đêm tối vô minh của thế gian là Tri kiến
Phật. Vì vậy đức Phật chúc lụy truyền bá kinh Pháp Hoa.
23- Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự: Trên con đường tu hành muốn
đến Phật quả phải dẹp sạch chấp năm ấm, gọi là ngũ ấm ma. Vì năm ấm che đậy
khiến Phật tánh không hiển lộ. Phẩm này là phá sắc ấm. Thân tứ đại là sắc ấm, Bồ-
tát khi được “chánh định hiện tất cả sắc thân” rồi, liền thiêu thân cúng dường Phật,
tức là phá sắc ấm. Pháp thân là thể của Báo thân và Hóa thân, được “chánh định
hiện tất cả sắc thân”, tức là nhập Pháp thân. Khi Bồ-tát thâm nhập Pháp thân thì
xem sắc thân như bóng như bọt, không còn cố chấp làm ngã. Xả chấp sắc thân
hướng về Pháp thân nên nói thiêu thân cúng dường Phật. Xả sắc thân rồi cần phải
xả sáu trần mới viên mãn phá sắc ấm, cho nên Bồ-tát sau lại đốt luôn hai cánh tay
cúng dường Phật. Chấp ngã chấp pháp đã dẹp sạch đó là chân thật cúng dường
Như Lai.
24- Phẩm Diệu Âm Bồ-tát: Phá sắc ấm rồi đến đây phá luôn thọ ấm. Thọ
ấm không hình tướng nên Bồ-tát Diệu Âm đến, mà chúng không thấy, phải đợi
Phật Đa Bảo dạy Ngài hiện, chúng mới thấy. Bởi có nhận được Pháp thân mới
thấy thọ ấm là hư giả, thấy rồi mới phá dẹp được chúng. Bồ-tát Diệu Âm từ xa lại
để nói lên sáu trần từ ngoài đến mới có lãnh thọ. Xả mọi lãnh thọ, không cố chấp,
là phá được thọ ấm. Nhân tu của Bồ-tát Diệu Âm do dùng âm nhạc và bát vàng
cúng Phật, nên được quả báo tốt đẹp và nhiều diệu dụng. Cúng dường là tên khác
của bố thí, tức là buông xả, cúng dường âm nhạc là buông xả âm thanh, cúng
dường bát vàng là buông xả sắc tướng. Âm thanh và sắc tướng là hai thứ nổi bật
trong sáu trần, nói hai thứ đủ đại biểu cho sáu trần.
25- Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn: Phẩm này phá trừ tưởng ấm.
Tưởng là nhân đau khổ của tất cả chúng sanh. Bởi vì có tưởng là có đau khổ. Một
viên đạn, một nhát dao bén phạm vào người một cách quá nhanh, không kịp tưởng
tượng, chúng ta không nghe sợ, cũng không nghe đau. Sau đó, tưởng tượng lại,
chúng ta mới kinh sợ. Thế nên mọi khổ ải trên thế gian này bởi tưởng mà có.
Muốn hết khổ không gì hơn hết tưởng, tưởng hết mọi đau khổ đều sạch. Niệm
danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm liền hết khổ. Quán Thế Âm là phản văn văn tự
tánh. Trở lại tánh giác thì mọi tưởng đều lặng, còn đau khổ nào mà chẳng khỏi.
Sống được với tánh giác, mọi công hạnh, mọi diệu dụng đều đầy đủ. Trong sáu
căn, nhĩ căn là viên thông hơn cả, người tu muốn trở về tánh giác nên từ nhĩ căn
mà tu thì chóng được kết quả. Nên kinh nói niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm,
công đức thù thắng hơn tất cả. Niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại tánh
giác chân thật của mình. Quán được thanh tịnh thì trí tuệ phát sanh, lòng từ bi đầy
đủ, hằng tu như vậy đến khi nào hoàn toàn thanh tịnh, mặt trời trí tuệ liền phát
sanh, soi sáng cả thế gian. Như đoạn văn trong bài tụng:
Chân quán, thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quán
Bi quán cập từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Vô cấu thanh tịnh quang
Tuệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Quán chân, quán thanh tịnh
Quán trí tuệ rộng lớn
Quán từ và quán bi
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay diệt nạn gió lửa
Soi sáng khắp thế gian.
Đây là lối tu trở về Tri kiến Phật, diệt hết mọi vọng tưởng đau khổ.
26- Phẩm Đà-la-ni: Phẩm này phá hành ấm. Hành ấm là lối suy tư thầm
lặng bên trong, nó vừa tế nhị, vừa sâu kín cho nên rất khó phá. Người phá được nó
liền thấy quá tịch tịnh lầm tưởng là Niết-bàn, bị lạc vào ngoại đạo, hoặc rơi vào
trầm không trệ tịch của Thanh văn. Tu nhân diệt hành ấm, hành giả phải buông
sạch mọi xao xuyến thầm lặng vi tế, nên tượng trưng bằng thần chú. Bởi vì khi đọc
thần chú, chúng ta nào có xét nghĩ hiểu biết gì. Kết quả diệt được hành ấm, cần
phải được chư Phật, chư Bồ-tát hoặc Thiện tri thức khuyến phát khích lệ mới vượt
qua được. Đó là hình ảnh chư Bồ-tát nói thần chú bảo hộ người trì kinh Pháp Hoa.
27- Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự: Phẩm này phá thức ấm.
Đây là chặng cuối cùng trên đường tu, nếu người khéo vượt qua thì viên mãn Phật
quả. Vua Diệu Trang Nghiêm tượng trưng thức A-lại-da (Tàng thức), phu nhân
Tịnh Đức tượng trưng cho thức Mạt-na (Ý căn), thái tử Tịnh Tạng tượng trưng cho
ý thức, Tịnh Nhãn tượng trưng cho năm thức trước. Chuyển thức A-lại-da thành
Đại viên cảnh trí là nhờ ý thức và năm thức trước đã được thuần thục thanh tịnh.
Thức A-lại-da thứ tám này là chủ mà không có khả năng quyết định, phải do thức
thứ sáu và năm thức trước hướng dẫn. Thức thứ bảy ở bên cạnh thức thứ tám mà
không có công dụng bao nhiêu. Phá thức ấm tức là chuyển A-lại-da trở thành Đại
viên cảnh trí, nó là chủ thể của các thức kia. Cho nên kinh nói: “Phật vì muốn dẫn
dắt vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh
Pháp Hoa”. Do ý thức và năm thức trước đã thuần thục thanh tịnh, mới chuyển
được thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí. Đây là hình ảnh hai người con Tịnh
Tạng, Tịnh Nhãn đã có thần thông, có trí tuệ tu tập tất cả công đức… mới chuyển
hóa nhà vua đến với Phật. Nhà vua chịu đến là có phu nhân đến. Nguyên nhân tạo
nghiệp luân hồi do thức thứ sáu và năm thức trước, chuyển sanh tử thành Niết-bàn
cũng nhân thức thứ sáu và năm thức trước. Khi chuyển thức A-lại-da rồi thì tám
thức trở thành tứ trí. Đến đây công phu tu hành đã đầy đủ, chỉ còn phải lợi ích
chúng sanh.
28- Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát: Phổ Hiền tượng trưng trí sai
biệt. Người tu khi viên mãn công phu rồi, cần phải phát nguyện độ sanh, giáo hóa
hộ trì cho mọi người được phát tâm bồ-đề (trì kinh Pháp Hoa), khởi nguyện lực
lớn, dùng Lục độ làm phương tiện giáo hóa chúng sanh. Đó chính là hình ảnh Bồ-
tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà đến trước người trì kinh Pháp Hoa an ủi họ. Khi
công hạnh tự lợi lợi tha của họ hoàn toàn viên mãn, liền thành Phật.
Tóm lại, toàn bộ kinh Pháp Hoa cốt khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri
Kiến Phật. Phẩm đầu do Bồ-tát Văn Thù giải nghi cho Bồ-tát Di Lặc về việc
phóng quang của đức Phật. Đó là tượng trưng trí căn bản đánh thức phát tâm bồ-đề.
Phẩm cuối Bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện bảo hộ người trì kinh sau này. Đây là
tượng trưng trí sai biệt làm lợi ích chúng sanh. Câu then chốt trong kinh này:
“Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật Tri Kiến” có khác gì câu “Trực chỉ nhân tâm
kiến tánh thành Phật” của Thiền tông. Phẩm Tín Giải và phẩm Thọ Ký của kinh
này nào xa lạ gì với việc “trình kiến giải” được “ấn chứng” của Thiền tông. Cho
đến sự tu hành thủy chung đều không khác. Chỉ vì chúng ta không nhận được lý
kinh, cứ chạy theo ngôn cú nên thấy dường như khác biệt.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét