Kinh Pháp Hoa phần 3

Blogger xin được giới thiệu tiếp phần 3 của Kinh Pháp Hoa để mọi người cùng tìm hiểu thêm về bộ kinh này.



36. CHÁNH VĂN :
 *Xưa, ta ngồi đạo tràng
 Xem cây cùng kinh hành
 Trong hai mươi mốt ngày
 Suy nghĩ việc như vầy:
 Trí huệ của ta được
 Vi diệu rất thứ nhứt
 Chúng sanh các căn chậm
 Tham vui si làm mù
 Các hạng người như thế
 Làm sao mà độ được?
 Bấy giờ các Phạm vương
 Cùng các trời Đế-thích
 Bốn Thiên vương hộ đời
 Và trời Đại Tự Tại
 Cùng các thiên chúng khác
 Trăm nghìn ức quyến thuộc
 Chắp tay cung kính lễ
 Thỉnh ta chuyển pháp luân.
 Ta liền tự suy nghĩ
 Nếu chỉ khen Phật thừa
 Chúng sanh chìm nơi khổ
 Không thể tin pháp đó
 Do phá pháp không tin
 Rớt trong ba đường dữ
 Ta thà không nói pháp
 Mau vào cõi Niết-bàn
 Liền nhớ Phật quá khứ
 Thật hành sức phương tiện
 Ta nay chứng được đạo
 Cũng nên nói ba thừa.
GIẢNG :
Xưa đức Phật mới thành đạo, hoặc Ngài ngồi ngay đạo tràng, hoặc đi dạo
trong vườn cây, hoặc đi kinh hành trên đường thẳng; suốt hai mươi mốt ngày, Phật
nghĩ rằng trí tuệ mà Ngài chứng được thì quá vi diệu, tối thượng, còn chúng sanh
thì căn cơ quá ám độn, lại bị lòng tham ưa ngũ dục che mờ làm sao mà độ được ?
Ngài nghĩ như vậy thì chư thiên đến thỉnh Ngài nên thuyết pháp. Ngài mới nghĩ
tiếp, nếu nói thẳng Phật thừa mà ta đã chứng, thì e chúng sanh không thể tin nhận,
sanh lòng hủy báng chánh pháp, sẽ mắc tội phá pháp rơi vào ba đường dữ, tốt hơn
ta nên vào Niết-bàn. Nhưng Ngài nhớ lại chư Phật quá khứ từng dùng sức phương 
tiện để giáo hóa chúng sanh, nay ta cũng dùng phương tiện nói ba thừa để dẫn dắt
họ từ từ.
37. CHÁNH VĂN :
 *Lúc ta nghĩ thế đó
 Mười phương Phật đều hiện
 Tiếng Phạm an ủi ta
 Hay thay ! Đức Thích-ca
 Bậc Đạo sư thứ nhứt
 Được pháp Vô thượng ấy
 Tùy theo tất cả Phật
 Mà dùng sức phương tiện
 Chúng ta cũng đều được
 Pháp tối diệu thứ nhứt
 Vì các loại chúng sanh
 Phân biệt nói ba thừa.
 Trí kém ưa pháp nhỏ
 Chẳng tự tin thành Phật
 Cho nên dùng phương tiện
 Phân biệt nói các quả
 Dầu lại nói ba thừa
 Chỉ vì dạy Bồ-tát.
GIẢNG :
Khi đức Phật Thích-ca nghĩ nên mở bày phương tiện để giáo hóa chúng
sanh, thì mười phương chư Phật hoan hỉ tán thán Ngài là bậc thầy thứ nhứt, khéo
léo biết dùng ba thừa để giáo hóa, nhưng rốt sau chỉ dùng Phật thừa để dạy Bồ-tát.
38. CHÁNH VĂN :
 *Xá-lợi-phất nên biết !
 Ta nghe các đức Phật
 Tiếng nhiệm mầu rất sạch
 Xưng: “Nam-mô chư Phật !”
 Ta lại nghĩ thế này
 Ta ra đời trược ác
 Như các Phật đã nói
 Ta cũng thuận làm theo
 Suy nghĩ việc đó rồi
 Liền đến thành Ba-nại.
 Các pháp tướng tịch diệt
 Không thể dùng lời bày
 Bèn dùng sức phương tiện
 Vì năm Tỳ-kheo nói.
 Đó gọi chuyển pháp luân
 Bèn có tiếng Niết-bàn
 Cùng với A-la-hán 
 Tên pháp, tăng sai khác.
 Từ kiếp xa vẫn lại
 Khen bày pháp Niết-bàn
 Dứt hẳn khổ sống chết
 Ta thường nói như thế.
GIẢNG :
Nghe chư Phật quá khứ khen, Ngài liền hướng về chư Phật xưng: “Nam-mô
Phật.” Sau đó, Ngài bắt đầu khởi phương tiện tìm đến Uất-đầu-lam-phất là vị thầy
cũ dạy Ngài tu chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và A-la-la Kamala vị thầy
dạy Ngài tu từ Sơ thiền cho đến Vô sở hữu xứ định. Nhưng hai vị này vừa viên
tịch, Ngài mới tới thành Ba-la-nại nơi vườn Lộc Uyển, nói pháp Tứ đế độ năm anh
em Kiều-trần-như là những người đồng tu học với Ngài thuở trước. Từ đó mới có
Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, mới có danh từ Chuyển pháp luân, Niết-bàn, A-la-hán.
Lần chuyển pháp luân này là phương tiện đầu tiên Ngài dùng để giáo hóa chúng
sanh.
39. CHÁNH VĂN :
 *Xá-lợi-phất ! Phải biết !
 Ta thấy các Phật tử
 Chí quyết cầu Phật đạo
 Vô lượng nghìn muôn ức
 Đều dùng lòng cung kính
 Đồng đi đến chỗ Phật
 Từng đã theo các Phật
 Nghe nói pháp phương tiện
 Ta liền nghĩ thế này:
 Sở dĩ Phật ra đời
 Để vì nói Phật huệ
 Nay chính đã đúng giờ.
GIẢNG :
Sau khi Ngài phương tiện nói pháp Tứ đế v.v... để giáo hóa. Ngài xét lại
thấy thời cơ đã đến, chúng sanh nghe pháp đầy đủ lòng tin. Ngài thấy cần phải nói
thẳng về Phật thừa, nên bắt đầu nói kinh Pháp Hoa.
40. CHÁNH VĂN :
 *Xá-lợi-phất phải biết !
 Người căn chậm trí nhỏ
 Kẻ chấp tướng kiêu mạn
 Chẳng thể tin pháp này
 Nay ta vui vô úy
 Ở trong hàng Bồ-tát
 Chính bỏ ngay phương tiện
 Chỉ nói đạo Vô thượng
 Bồ-tát nghe pháp đó
 Đều đã trừ lưới nghi 
 Nghìn hai trăm La-hán
 Cũng đều sẽ thành Phật
 Như nghi thức nói pháp
 Của các Phật ba đời
 Ta nay cũng như vậy
 Nói pháp không phân biệt
 Các đức Phật ra đời
 Lâu xa khó gặp gỡ
 Chính sử hiện ra đời
 Nói pháp này khó hơn;
 Vô lượng vô số kiếp
 Nghe pháp này cũng khó
 Hay nghe được pháp này
 Người đó cũng lại khó
 Thí như hoa linh thoại
 Tất cả đều ưa mến
 Ít có trong trời, người
 Lâu lâu một lần trổ.
GIẢNG :
Phật nói với ngài Xá-lợi-phất rằng: Những người căn trí nhỏ, chậm lụt,
chấp tướng, kiêu mạn, không thể tin pháp Phật nói. Họ chỉ có cái ưa muốn tầm
thường, như cư sĩ tu thì mong đời sau giàu sang sung sướng, con cái hiếu thảo
v.v... Còn người xuất gia tu thì mong đời sau chuyển nữ thành nam, hoặc được
thông minh trí tuệ... Hoặc người kẹt trên hình tướng thì pháp có hình tướng mới
tin, còn Tri kiến Phật không tướng mạo thì không đủ sức tin nhận. Với người kiêu
mạn, họ đã tự thấy đủ, không cần cầu nghe học thì không thể đến được Tri kiến
Phật. Đó là những tâm bệnh của chúng sanh nên không thể tin nhận chỗ Phật dạy
ở kinh Pháp Hoa này. Nhưng Phật thấy thời tiết đến, lòng chấp của chúng sanh
mòn mỏng, Ngài không ngại, không sợ, sẽ vì hàng Bồ-tát nói thẳng chỗ cứu kính
là Phật thừa, khiến cho hết lòng nghi sẽ chứng quả Phật. Bởi lâu lắm mới có Phật
ra đời; tuy Phật ra đời là khó, nhưng chưa khó bằng nói thẳng Tri kiến Phật, đó là
cái khó thứ nhứt; người nghe được pháp này cũng khó, là cái khó thứ hai; nếu
nghe rồi mà khéo lãnh hội lại càng khó hơn, là cái khó thứ ba. Như vậy, pháp khó
nói mà Phật đã nói, pháp khó nghe mà chúng ta được nghe và nghe rồi khéo lãnh
hội là tùy ở mỗi người chúng ta. Những cái khó đó nếu chúng ta vượt qua được,
giống như hoa Ưu-đàm cả trăm năm mới nở một lần. Vậy nên phải khéo nghe và
thấy rằng nghe được pháp này là việc hi hữu không phải là chuyện thông thường.
Đó là lời khuyến khích của Phật để cho tất cả thính chúng quí pháp và lắng nghe
pháp.
41. CHÁNH VĂN :
 *Người nghe pháp mừng khen
 Nhẫn đến nói một lời
 Thời là đã cúng dường 
 Tất cả Phật ba đời
 Người đó rất ít có
 Hơn cả hoa ưu-đàm
 Các ông chớ có nghi
 Ta là vua các pháp
 Khắp bảo các đại chúng
 Chỉ dùng đạo Nhứt thừa
 Dạy bảo các Bồ-tát
 Không Thanh văn đệ tử.
GIẢNG :
Phật nói rằng người nghe pháp này mà vui mừng, khen ngợi, cho đến nói
một lời tán thán thôi là người đó đã cúng dường tất cả Phật trong ba đời, và người
đó có mặt trên nhân gian này quí hơn là hoa Ưu-đàm. Bởi vậy mà Phật khuyên
mọi người đừng có nghi, vì Phật là ông vua Pháp, tức là vị đã biết tột được tâm
bệnh của chúng sanh, nói pháp đúng thời đúng bệnh, hướng dẫn chúng sanh từ
thấp lên cao đến chỗ rốt ráo. Chúng sanh chớ có nghi ngờ, nghe rồi phải tin hiểu.
Ngài kết thúc, việc Ngài nói pháp độ cho Thanh văn đó chỉ là phương tiện tùy cơ,
chớ chỗ nhắm của Phật là dạy cho hàng Bồ-tát tu để thành Phật.
42. CHÁNH VĂN :
 *Xá-lợi-phất các ông !
 Thanh văn và Bồ-tát
 Phải biết pháp mầu này
 Bí yếu của các Phật
 Bởi đời ác năm trược
 Chỉ tham ưa các dục
 Những chúng sanh như thế
 Trọn không cầu Phật đạo
 Người ác đời sẽ tới
 Nghe Phật nói Nhứt thừa
 Mê lầm không tin nhận
 Phá pháp đọa đường dữ
 Người tâm quí trong sạch
 Quyết chí cầu Phật đạo
 Nên vì bọn người ấy
 Rộng khen đạo Nhứt thừa
 Xá-lợi-phất nên biết !
 Pháp các Phật như thế
 Dùng muôn ức phương tiện
 Tùy thời nghi nói pháp
 Người chẳng học tập tu
 Không hiểu được pháp này
 Các ông đã biết rõ
 Phật là thầy trong đời 
 Việc phương tiện tùy nghi
 Không còn lại nghi lầm
 Lòng sanh rất vui mừng
 Tự biết sẽ thành Phật.
GIẢNG :
Phật nói rằng hàng Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát nên biết diệu pháp
mà Phật dạy là bí yếu của chư Phật, tất cả chư Phật ra đời cốt để truyền dạy cái bí
yếu đó. Trong đời ác ngũ trược sau này, chúng sanh tham ưa đắm mê dục lạc,
không hề cầu Phật đạo, nghe Phật nói Nhứt thừa, họ mê chấp không thể tin nhận,
rồi sẽ phá Chánh pháp đọa vào đường dữ. Còn nếu ai biết hổ thẹn, gìn giữ giới luật
trong sạch, có chí cầu Phật đạo thì nên vì những người đó nói đạo Nhứt thừa tức là
nói kinh Pháp Hoa. Pháp của Phật là như thế ! Ngài dùng muôn ức phương tiện
tùy cơ mà nói, nếu người không chịu học thì không thể hiểu, Phật là bậc thầy khéo
dùng mọi phương tiện hướng dẫn, chúng ta chớ có nghi ngờ. Nếu nghe rồi hoan hỉ
tin nhận tu hành thì chắc chắn sẽ được thành Phật.
D
PHẨM 3: THÍ DỤ
Trong kinh Pháp Hoa có tất cả bảy dụ tại sao chỉ riêng phẩm này lấy tên là
Thí Dụ, còn những phẩm khác cũng dụ mà không để tên Thí Dụ ? Kinh Pháp Hoa,
phẩm Phương Tiện nói lên bản hoài của chư Phật ra đời, cốt làm sao cho tất cả
chúng sanh đều được khai, thị, ngộ, nhập Tri kiến Phật của chính mình, hay nói
cách khác là nhận ra và hằng sống với tánh Giác của chính mình. Nhưng khi chư
Phật ra đời không nói thẳng bản hoài đó vì căn cơ chúng sanh chưa kham thọ nhận,
nên Phật phương tiện nói Ngũ thừa, Tam thừa, sau cùng mới nói Phật thừa. Trong
phẩm này, đức Phật đã dùng những ví dụ để làm sáng tỏ thêm chỗ cứu kính, để
hiển bày những phương tiện mà Ngài đã dẫn dắt chỉ là tạm thời. Nhờ vậy đã giúp
cho hàng trung căn dễ dàng nhận ra đâu là mục tiêu chính mà Phật muốn chỉ. Cho
nên phẩm này lấy tên là Thí Dụ.
1. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi-phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay
chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: “Nay con theo đức Thế
Tôn nghe được tiếng pháp này, trong lòng hớn hở được điều chưa từng có. Vì sao ?
Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thọ ký thành
Phật, mà chúng con chẳng được dự việc đó, tự rất cảm thương mất vô lượng Tri
kiến của Như Lai.
Thế Tôn ! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi,
hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: “Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức
Như Lai lại dùng pháp Tiểu thừa mà tế độ cho ?”
Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế Tôn vậy. Vì sao ? Nếu
chúng con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác thời chắc do pháp Đại thừa mà ĐƯỢC độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu
Phật phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp, vội tin
nhận suy gẫm để chứng lấy.
Thế Tôn ! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà
nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước chưa hề nghe, dứt các lòng nghi
hối, thân ý thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết mình thiệt là Phật tử, từ
miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh được pháp phần của Phật.
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất sau khi nghe Phật nói về Trí tuệ Phật, Ngài liền tin mình
có khả năng thành Phật, hay nói một cách khác là Ngài ngộ được Tri kiến Phật của
chính mình, nên vui mừng hớn hở đứng dậy chấp tay trình sở ngộ với Phật.
Xưa, ngài Xá-lợi-phất nghe Phật dạy Tứ đế hay Mười hai nhân duyên, chớ
không nghe Phật nói Tri kiến Phật, chỉ riêng hàng Bồ-tát mới được nghe và được
thọ ký sẽ thành Phật, còn Ngài thì không được dự phần. Tự thấy cảm thương mình
nên những lúc ở dưới cội cây trong núi rừng, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, Ngài
hằng nghĩ tất cả mọi người ai cũng như ai, tại sao người được nghe pháp Tối 
thượng, người chỉ được nghe pháp Tiểu thừa ? Tại sao có chỗ sai biệt như thế ? Ví
dụ nhiều người tới học đạo, có người tôi khuyên nên ăn ở hiền lành, sống làm sao
cho gia đình được hòa thuận tin yêu lẫn nhau. Có người tôi dạy quán các pháp như
huyễn để phá ngã chấp và pháp chấp, để tự mình được giải thoát và giải thoát cho
chúng sanh. Dạy như vậy tôi có bất công không ? Không. Dạy tu khế lý mà phải
khế cơ, nếu trình độ người thấp mà dạy pháp cao thì họ không thể lãnh hội và ứng
dụng tu được, nếu ứng dụng không được thì không có lợi ích mà còn thiệt hại là
khác. Vì vậy, buộc lòng phải nói pháp ngang với trình độ người nghe, cho họ được
lợi ích thực tiễn. Còn đối với người đã thuần thục thì nói thẳng pháp cao họ ứng
dụng được, chẳng những tự họ có lợi ích mà còn có lợi cho người sau. Sở dĩ Phật
nói pháp sai biệt giữa các môn đồ là bởi căn cơ sai khác, với người trình độ thấp
thì Ngài dùng phương tiện nâng lên từ từ, đến khi họ kham lãnh được pháp lớn, thì
Ngài bình đẳng nói pháp Nhất thừa. Vậy, nếu mình học pháp thấp mà người được
học pháp cao, chớ trách người dạy bất công mà phải tự biết mình chưa đủ sức
kham lãnh pháp cao, nên người hướng dẫn phải tùy thuận theo khả năng của mình
mà dạy pháp thấp. Đó là cái khéo của người giáo hóa.
Ở đây, ngài Xá-lợi-phất tự nhận thấy lỗi mình là đã mất vô lượng Tri kiến
Như Lai. Nghĩa là Ngài có sẵn Tri kiến Như Lai, nhưng vì căn cơ thấp kém nên
Phật không nói thẳng Phật thừa chỉ nói pháp Nhị thừa. Ngài tự cảm thương mình
chứ không trách Phật. Nếu Ngài chờ Phật nói cái nhân thành đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác ngay đó mà tu hành thì sẽ được thành Phật. Nhưng vì
không hiểu Phật phương tiện tùy cơ nói pháp Nhị thừa, liền tin và tu theo pháp
Nhị thừa. Đó là lỗi ở Ngài chớ không phải lỗi ở Phật.
Kế đó, ngài Xá-lợi-phất tán thán pháp mà Phật nói chưa từng có chưa từng
nghe, dứt lòng nghi hối được an ổn. Ngài tự xác nhận mình là con Phật, từ miệng
Phật sanh, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật. Sở dĩ ngài Xá-lợi-phất tự
nhận như vậy là vì người tu lấy trí tuệ làm mạng sống, vì nhân lời Phật dạy mà
được trí tuệ, đó là từ miệng Phật sanh. Nhờ pháp Phật khiến cho trí tuệ ngày càng
tăng trưởng, đó là từ pháp hóa sanh. Được từng phần giác ngộ, nên nói được pháp
phần của Phật.
Ngày nay, đa số người đi chùa tự nhận mình là Phật tử, tức là con của đấng
Giác ngộ. Nếu không giác ngộ toàn phần thì ít ra cũng giác ngộ từng phần mới
dám xưng là Phật tử, chớ không phải vô phần giác ngộ mà tự xưng là Phật tử được.
Trong kinh Phật dạy, người học Phật phải có đủ ba môn trí tuệ là Văn tuệ, Tư tuệ
và Tu tuệ. Văn tuệ tức là nghe lời Phật dạy mà khai thông trí tuệ, đó là từ miệng
Phật sanh. Tư tuệ là do tư duy pháp Phật dạy mà trí tuệ phát sanh, đó là từ pháp
hóa sanh. Tu tuệ là do tu thiền định mà phát sanh trí tuệ, đó là được pháp phần của
Phật. Người học Phật phải có được một trong ba phần trí tuệ vừa nêu thì mới gọi
là Phật tử, nếu không hiểu gì về đạo lý giải thoát thì chưa xứng đáng là Phật tử.
Đây tôi nêu đôi phần giác ngộ để quí vị tự xét xem mình có phải là Phật tử không ?
Phật nói tất cả pháp có hình tướng ở thế gian đều là vô thường. Nếu tin mà chưa
thấy rõ các pháp là vô thường thì chưa gọi là giác. Từ lâu chúng ta mê muội thấy
đời là đẹp là thường, nhờ nghe Phật nói tất cả pháp có hình tướng đều là vô 
thường mà tâm sáng lên, biết mình đã mê lầm (Văn tuệ). Sau khi nghe rồi suy gẫm,
nghiệm xét từ con người đến cảnh vật đều trải qua những giai đoạn thành trụ hoại
không, biến dịch không ngừng, biết rõ ràng tất cả pháp có hình tướng đều bị luật
vô thường chi phối (Tư huệ). Sau khi xác nhận lời Phật dạy là chân lý, thì ứng
dụng vào đời sống hằng ngày, chẳng hạn tâm vừa dấy khởi chạy theo sắc, theo
danh, theo lợi... liền nhớ tới thân vô thường, cảnh vật vô thường, có đó rồi mất đó,
đuổi theo danh lợi rồi danh lợi cũng sẽ mất, ngay đó dẹp được lòng tham danh lợi
(Tu huệ). Người tu sống được như vậy mới không hổ thẹn với danh xưng Phật tử.
2. CHÁNH VĂN :
Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Con nghe tiếng pháp này
 Được điều chưa từng có
 Lòng rất đỗi vui mừng
 Lưới nghi đều đã trừ
 Xưa nay nhờ Phật dạy
 Chẳng mất nơi Đại thừa
 Tiếng Phật rất ít có
 Hay trừ khổ chúng sanh
 Con đã được lậu tận
 Nghe cũng trừ lo khổ
 Con ở nơi hang núi
 Hoặc dưới cụm cây rừng
 Hoặc ngồi hoặc kinh hành
 Thường suy nghĩ việc này
 Than ôi ! Rất tự trách !
 Sao lại tự khi mình
 Chúng ta cũng Phật tử
 Đồng vào pháp vô lậu
 Chẳng được ở vị lai
 Nói pháp Vô thượng đạo
 Sắc vàng, băm hai tướng
 Mười lực, các giải thoát,
 Đồng chung trong một pháp
 Mà chẳng được việc đây
 Tám mươi tướng tốt đẹp
 Mười tám pháp bất cộng
 Các công đức như thế
 Mà ta đều đã mất.
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất nghe Phật nói mọi người ai cũng có Tri kiến Phật, và chủ
yếu Phật ra đời là để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật. Ngài tin chắc
rằng Ngài sẽ được pháp Đại thừa và được thành Phật. Ngài Xá-lợi-phất nói Phật
thuyết pháp cốt là giải khổ cho chúng sanh. Rồi Ngài tự trách mình là đệ tử của 
Phật, cũng được pháp vô lậu mà không được thọ ký thành Phật đầy đủ ba mươi hai
tướng tốt, thập lực, tám món giải thoát.
3. CHÁNH VĂN :
 *Lúc con kinh hành riêng
 Thấy Phật ở trong chúng
 Danh đồn khắp mười phương
 Rộng lợi ích chúng sanh
 Tự nghĩ mất lợi này
 Chính con tự khi dối
 Con thường trong ngày đêm
 Hằng suy nghĩ việc đó
 Muốn đem hỏi Thế Tôn
 Là mất hay không mất ?
 Con thường thấy Thế Tôn
 Khen ngợi các Bồ-tát
 Vì thế nên ngày đêm
 Suy lường việc như vậy.
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất khi ở chỗ vắng vẻ suy gẫm có phải mình đã tự mất giống
Phật không, muốn đem hỏi Thế Tôn mà Ngài chưa dám hỏi.
4. CHÁNH VĂN :
 *Nay nghe tiếng Phật nói
 Theo cơ nghi dạy pháp
 Vô lậu khó nghĩ bàn
 Khiến chúng đến đạo tràng
 Con xưa chấp tà kiến
 Làm thầy các Phạm-chí
 Thế Tôn rõ tâm con
 Trừ tà nói Niết-bàn
 Con trừ hết tà kiến
 Được chứng nơi pháp không
 Bấy giờ lòng tự bảo
 Được đến nơi diệt độ
 Mà nay mới tự biết
 Chẳng phải thiệt diệt độ
 Nếu lúc được thành Phật
 Đủ ba mươi hai tướng
 Trời, người, chúng dạ-xoa
 Rồng, thần đều cung kính
 Bây giờ mới được nói
 Dứt hẳn hết không thừa
 Phật ở trong đại chúng
 Nói con sẽ thành Phật 
 Nghe tiếng pháp như vậy
 Lòng nghi hối đã trừ.
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất nói thuở xưa Ngài là thầy của ngoại đạo Phạm chí, Phật
biết tâm của Ngài nên giáo hóa Ngài trừ hết các tà kiến, chứng được pháp không,
tức Niết-bàn của Nhị thừa. Nghĩa là Ngài quán sát thấy thân này do năm uẩn giả
hợp mà thành, tự tánh nó là không nên nói là vô ngã. Người đạt được lý đó thì
chứng quả A-la-hán. Ngài tưởng chứng quả A-la-hán là Niết-bàn thật. Bây giờ
nghe Phật nói pháp Đại thừa mới biết đó là Niết-bàn tạm, chớ không phải Niết-bàn
thật. Tu bao giờ công đức viên mãn thành Phật mới là Niết-bàn thật, Ngài không
nghi ngờ nữa.
5. CHÁNH VĂN :
 *Khi mới nghe Phật nói
 Trong lòng rất sợ nghi
 Phải chăng ma giả Phật
 Não loạn lòng ta ư ?
 Phật dùng các món duyên
 Thí dụ khéo nói phô
 Lòng kia an như biển
 Con nghe, lưới nghi dứt
 Phật nói thuở quá khứ
 Vô lượng Phật diệt độ
 An trụ trong phương tiện
 Cũng đều nói pháp đó
 Phật hiện tại, vị lai
 Số nhiều cũng vô lượng
 Cũng dùng các phương tiện
 Diễn nói pháp như thế
 Như Thế Tôn ngày nay
 Từ sanh đến xuất gia
 Được đạo chuyển pháp luân
 Cũng dùng phương tiện nói
 Thế Tôn nói đạo thật
 Ba-tuần không nói được.
 Vì thế con định biết
 Không phải ma giả Phật
 Con sa vào lưới nghi
 Cho là ma làm ra
 Nghe tiếng Phật êm dịu
 Sâu xa rất nhiệm mầu
 Nói suốt pháp thanh tịnh
 Tâm con rất vui mừng
 Nghi hối đã hết hẳn 
 An trụ trong thiệt trí
 Con quyết sẽ thành Phật
 Được trời, người cung kính
 Chuyển pháp luân vô thượng
 Giáo hóa các Bồ-tát.
GIẢNG :
Khi mới nghe Phật nói những vị A-la-hán, Duyên giác tuy chứng Niết-bàn,
nhưng không phải thật, ngài Xá-lợi-phất tưởng chừng như ma hóa ra Phật nói. Vì
ngày xưa Phật dạy pháp Tứ đế là lý chân thật, ngày nay lại nói Diệt đế chưa phải
là cứu kính, chưa phải là Niết-bàn nên Ngài nghi. Nhưng Ngài nghe Thế Tôn
giảng chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai khi ra đời giáo hóa đều dùng phương tiện
như nhau, trước nói ba thừa rồi sau nói Phật thừa, nhờ vậy mà Ngài tin chắc đó là
lời Phật nói không phải là ma. Nên Ngài nói rằng nay nghe tiếng Phật rất êm dịu,
sâu xa nhiệm mầu thanh tịnh, Ngài vui mừng hết nghi, tin chắc sẽ thành Phật, nói
pháp Đại thừa giáo hóa Bồ-tát. Tới đây ngài Xá-lợi-phất có lòng tin bất thối
chuyển không còn lui sụt nữa, quyết định sẽ tiến tới quả Phật, vì vậy mà sau này
được thọ ký thành Phật.
Chúng ta nghe Phật nói, có đủ lòng tin mình có sẵn Tri kiến Phật, khởi tâm
tu thì sẽ thành Phật không ? Tri kiến Phật là cái nhân, là hạt giống Phật, nếu đã
tiến tu không thối chuyển thì nhất định sẽ thành Phật không nghi. Và được thọ ký
vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật, không cố định thời gian dài ngắn, quyết định
sẽ thành Phật. Đó là then chốt mà người tụng hay trì kinh Pháp Hoa phải nắm
vững. Nếu trì kinh Pháp Hoa mà còn mong cầu cho có phước, giàu sang, vui tươi,
mát mẻ... thì chưa đúng tinh thần trì kinh Pháp Hoa.
6. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ta nay ở trong hàng trời,
người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo Vô
thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thọ học, ta dùng phương
tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta.
Xá-lợi-phất ! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên
mà bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bổn nguyện
cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh văn nói kinh Đại thừa tên là “Diệu Pháp Liên
Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.
GIẢNG :
Đức Phật Thích-ca mới thành Phật trong đời này, tại sao ở đây lại nói đức
Phật đã từng ở hai muôn ức Phật, vì đạo Vô thượng thường giáo hóa ngài Xá-lợiphất,
ngài Xá-lợi-phất cũng đã từ lâu theo Phật thọ học, và được Phật phương tiện
dẫn dắt cho vào pháp Phật ? Phật lâu xa đó là chỉ cho Phật pháp thân, còn Phật
thành đạo ở Ấn Độ là Phật hóa thân. Đứng về mặt Pháp thân thì ai cũng có Pháp
thân Phật, nên nói Phật từng giáo hóa từ xa xưa, và đã từng dạy cho ngài Xá-lợiphất
tu với chí nguyện thành Phật, nhưng vì ngài Xá-lợi-phất quên đi. Khi nghe
pháp Nhị thừa, Ngài tu được diệt độ bèn cho là đã đủ. Vì vậy mà đức Phật đã nhắc
lại hạnh nguyện xưa của ngài Xá-lợi-phất, rồi mới vì hàng Thanh văn nói kinh 
Pháp Hoa, để thấy tất cả mọi người ai cũng có bản nguyện thành Phật. Bản nguyện
đó chính là Phật tánh sẵn có nơi mỗi người, nhưng vì quên, nên khi nghe pháp nhỏ
liền chấp nhận và tu rồi tự hài lòng nơi đó. Bây giờ Phật nhắc ai cũng sẵn có Tri
kiến Phật và ai tu cũng sẽ thành Phật, chừng đó mới chợt nhận ra tu là phải thành
Phật, chớ từng bậc quả vị chỉ là tạm thời thôi.
7. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị
kiếp, cúng dường bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì chánh pháp đầy đủ đạo
tu hành của Bồ-tát sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Nước tên Ly Cấu, cõi đó bằng thẳng, thanh tịnh đẹp đẽ, an ổn, giàu vui, trời,
người đông đảo. Lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ròng để
giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có bông trái.
Đức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.
Xá-lợi-phất ! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải đời ác mà bởi bổn nguyện
nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là “Đại Bửu Trang Nghiêm”. Vì sao gọi là “Đại
Bửu Trang Nghiêm” ? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm “Đại Bửu” vậy. Các Bồ-tát
đó số đông vô lượng vô biên bất khả tư nghị, tính kể hay thí dụ đều không kịp đến
được, chẳng phải sức trí huệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì
có bông đỡ chân.
Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội đức từ lâu.
Ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh, hằng được các
Phật ngợi khen. Thường tu trí tuệ của Phật, đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả
các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững, bậc Bồ-tát như thế, khắp
đầy nước đó.
Xá-lợi-phất ! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn làm
vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang
Như Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho
Kiên Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên Mãn Bồ-tát này kế đây sẽ thành
Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, cõi nước của
đức Phật đó cũng lại như đây.
Xá-lợi-phất ! Sau khi Phật Hoa Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong
đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ trong đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.
Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Xá-lợi-phất đời sau
 Thành đấng Phật trí khắp
 Hiệu rằng: Phật Hoa Quang
 Sẽ độ vô lượng chúng
 Cúng dường vô số Phật
 Đầy đủ hạnh Bồ-tát
 Các công đức thập lực
 Chứng đặng đạo Vô thượng 
 Quá vô lượng kiếp rồi
 Kiếp tên Đại Bửu Nghiêm
 Cõi nước tên Ly Cấu
 Trong sạch không vết nhơ
 Dùng lưu ly làm đất
 Dây vàng giăng đường sá
 Cây bảy báu sắc đẹp
 Thường có hoa cùng trái
 Bồ-tát trong cõi đó
 Chí niệm thường bền vững
 Thần thông, Ba-la-mật
 Đều đã trọn đầy đủ
 Nơi vô số đức Phật
 Khéo học đạo Bồ-tát
 Những đại sĩ như thế
 Phật Hoa Quang hóa độ
 Lúc Phật làm vương tử
 Rời nước bỏ vinh hoa
 Nơi thân cuối rốt sau
 Xuất gia thành Phật đạo.
 Phật Hoa Quang trụ thế
 Thọ mười hai tiểu kiếp
 Chúng nhân dân nước đó
 Sống lâu tám tiểu kiếp
 Sau khi Phật diệt độ
 Chánh pháp trụ ở đời
 Ba mươi hai tiểu kiếp
 Rộng độ các chúng sanh
 Chánh pháp diệt hết rồi
 Tượng pháp cũng băm hai
 Xá-lợi rộng truyền khắp
 Trời, người khắp cúng dường
 Phật Hoa Quang chỗ làm
 Việc đó đều như thế
 Đấng Lưỡng Túc Tôn kia
 Rất hơn không ai bằng
 Phật tức là thân ông
 Nên phải tự vui mừng.
GIẢNG :
Phật thọ ký cho ngài Xá-lợi-phất trong đời vị lai, vô lượng vô biên bất khả
tư nghì kiếp, cúng dường nghìn ức Phật, hộ trì chánh pháp đầy đủ đạo hạnh của
Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai. Phật thọ ký ngài Xá-lợi-phất vô
lượng vô biên bất khả tư nghì kiếp sẽ thành Phật. Thời gian thành Phật quá xa mà 
ngài Xá-lợi-phất vui mừng cho rằng “Được việc chưa từng có.” Nếu chúng ta thời
nay được Phật thọ ký với thời gian lâu xa như vậy sẽ thành Phật, chắc là không
mừng, vì tu lâu quá nên ngán. Thọ ký khoảng năm mười năm thành Phật thì khả dĩ
vui mừng và lo tu hành cho mau được kết quả. Có phải chúng ta sốt sắng mong
mau thành Phật hơn ngài Xá-lợi-phất không ?
Như trước đã nói Tri kiến Phật là cái không hạn cuộc ở không gian và thời
gian. Vì nó là cái chưa từng sanh cũng như chưa từng diệt, nên nói bao nhiêu kiếp
cũng là vô nghĩa. Chỉ biết mình có Phật tánh và tin mình tu sẽ thành Phật là đủ rồi.
Chúng ta vì còn kẹt trên thời gian, chưa nhận ra Tri kiến Phật, chỉ nhận cái thân tứ
đại là mình, sống khoảng năm sáu chục năm là chết. Nên nghe nói vô lượng vô
biên bất khả tư nghì kiếp, thấy quá xa không tin mình có thể thực hiện được. Đâu
ngờ chính Tri kiến Phật mới thật là mình. Ngài Xá-lợi-phất đã nhận ra Tri kiến
Phật chính là mình, biết có Phật nhân chắc chắn Phật quả không mất phần, nên dầu
có bỏ bao nhiêu cái thân tứ đại duyên hợp tạm bợ này cũng không đáng kể. Chỉ
cần Phật ấn chứng là an lòng là mãn nguyện rồi.
Ngày nay chúng ta nghe nói tu khoảng một tỷ kiếp mới thành Phật thì buồn,
thấy lâu xa quá không đủ kiên nhẫn để tu, nên xao lãng thối chí. Đó là do tâm sinh
diệt nhỏ hẹp lệ thuộc thời gian, nên nghe Phật nói đến thời gian lâu xa không thể
nghĩ lường thì hoảng sợ không đủ lòng tin. Có nhiều người tu hạn định trong
khoảng thời gian ba năm hoặc năm năm phải đạt đạo. Thoạt nghe thì dường như
người ấy có ý chí dõng mãnh đáng khen. Nhưng nếu tu ba năm, năm năm không
đạt đạo thì sao ? Thối Bồ-đề tâm, đó là cái bệnh. Người tu mà nôn nóng mong
mau thành đạo là người ý chí dõng mãnh hay người tham lam lười nhác ? Ví dụ
người chân yếu nghe nói cảnh đẹp nhưng đường dài, thì ngao ngán không muốn đi.
Với người chân khoẻ, đường dài thì mặc đường dài, cứ nhắm đích mà thẳng tiến,
không do dự không ngại ngùng, đó là người dõng mãnh gan dạ, bền chí.
Cũng vậy, chư Bồ-tát Thanh văn trong pháp hội lòng tin và ý chí đã vững,
tuy Phật thọ ký trong khoảng thời gian lâu xa như vậy mà các Ngài hoan hỉ vui
mừng, tâm không chao động thối lui. Chúng ta ngày nay lòng tin không vững,
thiếu nghị lực, tu muốn cho mau đạt đạo nên dễ bị gạt, rơi vào đường tà, rẽ ngã
này tẽ ngã kia, rốt cuộc rồi không đến đích. Đó là bệnh chung của đa số người tu
Phật hiện nay. Với người tu chân chính một phen nghe Phật dạy, biết rõ tu là để
giác ngộ thành Phật, lúc nào cũng thấy rõ lẽ thực hư của các pháp, không lầm,
không mong dễ, không mong mau, không ham hào nhoáng hấp dẫn, cứ như thế mà
sống cho đến khi hoàn toàn triệt ngộ là đến đích thành Phật. Những cái hào
nhoáng hấp dẫn thu hút là cái quảng cáo dối gạt người tu. Lý đạo chân thật thì
thậm thâm vi diệu, lặng lẽ, không nổi bật, không phô trương màu mè để thu hút
người. Nếu người tu Phật càng chạy theo những cái phô trương hấp dẫn là càng xa
với đạo.
Phật thọ ký ngài Xá-lợi-phất thành Phật, nước tên Ly Cấu, kiếp tên Đại
Bửu. Cõi nước ta-bà ngũ trược của đức Phật Thích-ca, chúng sanh nhiều nghiệp ác
nên Phật mới phương tiện dùng Ngũ thừa hoặc Tam thừa để giáo hóa. Tại sao cõi
nước Ly Cấu là cõi nước thanh tịnh, Phật cũng dùng ba thừa để giáo hóa ? Đây là 
bản nguyện của tất cả chư Phật mười phương đều dùng phương tiện nói ba thừa.
Sở dĩ gọi kiếp tên Đại Bửu Trang Nghiêm là vì kiếp đó có vô số Bồ-tát tu hành
thanh tịnh, là những bậc cao minh trang nghiêm cõi Phật, chớ không phải cõi đó
trang nghiêm bằng châu báu vàng bạc.
Qua dữ kiện này, chúng ta thấy chùa nào Tăng Ni tu hành chân chánh thanh
tịnh thì chùa đó được người đời quí trọng. Nếu chùa nào Tăng Ni phạm trai phá
giới, tu hành lôi thôi thì người đời xem thường. Như vậy người đời quí kính là quí
kính tâm người cao đẹp thanh tịnh, nếu tâm người ô uế bất tịnh thì không quí. Vậy,
chư Tăng Ni đừng quan niệm rằng cất chùa cho thật to, thỉnh Phật cho thật lớn,
trang hoàng cho thật lộng lẫy là người đời quí trọng chùa mình. Người đời quí
kính là quí kính người tu chân chính cầu đạo giải thoát, chớ không phải trọng cảnh
đẹp. Cho nên người tu ngộ đạo dù cho vị đó mặc áo vá, ăn cơm hẩm, ở hang đá
hay am tranh, người ta vẫn tìm đến lễ bái cúng dường. Đạo lý là ở nơi con người,
người thanh tịnh mới đáng tôn kính quí trọng. Như vậy, người tu đừng có tâm mơ
mộng tạo chùa cảnh cho đẹp để mai kia mình trụ trì, mà phải cố gắng nỗ lực tu,
chính mình tu chân chính mới dạy được người tu đàng hoàng, đó là trang nghiêm
chùa cảnh.
Muốn cõi Phật mình được trang nghiêm thì phải thực hiện đủ hai môn
phước và tuệ. Về phần tuệ tự mình phải nỗ lực tu tỉnh để được giác ngộ viên mãn,
về phần phước thì phải giáo hóa chúng sanh. Khi đã giáo hoá chúng sanh viên mãn
thì thành Phật. Giả sử đời này chúng ta ngộ đạo là đã có trí tuệ, nhưng chưa giáo
hóa chúng sanh làm sao có phước ? Sở dĩ Bồ-tát khi thành Phật có vô số đồ đệ
Thanh văn Bồ-tát, là những bậc tu phạm hạnh, tu trí tuệ Phật, có sức thần thông
lớn, khéo biết tất cả pháp môn, tâm ngay thật, chí bền vững, là do thời gian hành
Bồ-tát đạo giáo hóa chúng sanh lâu dài, nên mới có quyến thuộc đông như vậy và
có phước tròn đầy nên mới được tôn xưng là Lưỡng Túc Tôn. Ngày nay, chúng ta
tu muốn năm năm bảy năm thành Phật, trong khi chưa độ sanh làm sao được
phước tuệ viên mãn ? Vậy nếu được Phật thọ ký khoảng thời gian lâu dài sẽ thành
Phật, chúng ta có buồn ngán không ? Thời gian tu tập lâu dài thì việc lợi sanh cũng
nhiều, phước đức thêm lớn. Khi việc tự giác giác tha đã viên mãn thì mới đủ
phước và tuệ để thành Phật, quyến thuộc mới đông nhiều để trang nghiêm cõi Phật
đúng như hạnh nguyện. Tu chỉ muốn năm năm, bảy năm thành Phật, làm sao có đủ
phước huệ để thành Phật ? Dù muốn thành cũng không thể thành.
Đoạn này có hai điểm đáng lưu ý. Kiếp chót của đức Thích-ca thành Phật
sanh làm vương tử, ở đây Phật thọ ký cho ngài Xá-lợi-phất kiếp chót thành Phật
cũng làm vương tử và các đức Phật cũng đều như vậy. Tại sao đời chót của chư
Phật đều sanh làm vương tử mà không sanh trong gia đình bần cùng ? Vì khi Bồ-
tát tu tới quả vị Nhất sanh bổ xứ thì phước đức vô lượng vô biên, nên sanh làm
vương tử mà không sanh vào chỗ xấu ác. Hơn nữa, vương tử bỏ ngôi đi tu, để cho
mọi người thấy rằng Ngài đang ở trong ngũ dục lạc sung mãn, mà gan dạ từ bỏ
ngũ dục lạc, khiến cho mọi người ngưỡng mộ kính phục để giáo hóa họ. Và một
vương tử có đủ quyền thế mà còn từ bỏ, trong khi mọi người là những kẻ không có
chút quyền hành, sao không gan dạ xả bỏ để tu ? 
Phần trùng tụng lặp lại ý trên nên tôi không giảng, tuy nhiên bốn câu chót:
Đấng Lưỡng Túc Tôn kia, rất hơn không ai bằng, Phật tức là thân ông, nên phải tự
vui mừng. Tại sao nói “Phật tức là thân ông” ? Vì ngài Xá-lợi-phất nhận ra Tri
kiến Phật của chính mình, nên Ngài tin chắc sẽ thành Phật, và Ngài cũng được
Phật thọ ký thành Phật. Bởi ngay nơi thân năm uẩn phàm phu này có sẵn Phật
nhân nên nói Phật tức là thân này. Trong Chứng Đạo Ca của thiền sư Vĩnh Gia
Huyền Giác, đoạn mở đầu có câu “Huyễn hóa không thân tức Pháp thân” nghĩa là
ngay nơi thân năm uẩn duyên hợp huyễn hóa này tức là Pháp thân; Pháp thân
không rời thân năm uẩn này mà có. Ngay thân năm uẩn của mỗi người ai cũng có
sẵn Pháp thân, nhưng vì không dám nhận nên tự thấy mình là kẻ phàm phu vô
phần, nếu đủ lòng tin dám nhận thì thấy mình có phần, sẽ thành Phật. Vậy không
cần tìm kiếm Phật ở đâu xa, chỉ khéo nhận Pháp thân chân thật ngay nơi thân năm
uẩn huyễn hóa này, và hằng sống với Pháp thân chân thật thì được an vui tự tại.
Nên nói: Phật tức là thân ông, nên phải tự vui mừng.
8. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và cả
đại chúng: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-ladà
v.v... thấy Xá-lợi-phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cổi y
trên của mình đang đắp để cúng dường Phật. Thích-đề hoàn-nhân cùng Phạm
Thiên vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời mạn-đà-la,
ma-ha mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không
mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư không đồng
thời đều trỗi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: “Đức Phật xưa ở thành Ba-lanại,
ban đầu chuyển pháp luân, đến nay mới lại chuyển pháp luân rất lớn Vô
thượng”.
Lúc đó các thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Xưa ở thành Ba-nại
 Chuyển pháp luân bốn đế
 Phân biệt nói các pháp
 Sanh diệt của năm nhóm
 Nay lại chuyển pháp luân
 Rất lớn diệu Vô thượng
 Pháp đó rất sâu mầu
 Ít có người tin được.
 Chúng ta từ xưa lại
 Thường nghe Thế Tôn nói
 Chưa từng nghe thượng pháp
 Thâm diệu như thế này.
 Thế Tôn nói pháp đó
 Chúng ta đều tùy hỉ
 Đại trí Xá-lợi-phất
 Nay được lãnh Phật ký 
 Chúng ta cũng như vậy
 Quyết sẽ đặng thành Phật
 Trong tất cả thế gian
 Rất tôn không còn trên
 Phật đạo chẳng thể bàn
 Phương tiện tùy nghi nói
 Ta bao nhiêu nghiệp phước
 Đời nay hoặc quá khứ
 Và công đức thấy Phật
 Trọn hồi hướng Phật đạo.
GIẢNG :
Lần đầu đức Phật nói pháp Tứ đế ở vườn Lộc Uyển, để phá ngã chấp cho
năm anh em ông Kiều- trần-như khiến chứng Niết-bàn Thanh văn. Nay đức Phật
nói pháp vô thượng vi diệu khó tin khó hiểu, mà ngài Xá-lợi-phất có khả năng tin
nhận và được Phật thọ ký, cho nên tất cả thính chúng trong pháp hội đều vui mừng
tùy hỉ. Theo các kinh A-hàm thì ngài Xá-lợi-phất là đệ tử lớn của Phật, là người
được thời trí, tức là trí tuệ ứng đối kịp thời, hỏi là đáp không cần suy nghĩ, khiến
cho người nghe tiếp nhận dễ dàng, nên được khen ngợi là người trí tuệ bậc nhất, là
hàng thượng căn. Khi nghe Phật nói pháp tối thượng vi diệu thì Ngài ngộ trước.
Cả hội chúng đều hớn hở vui mừng cúng dường y, cúng dường hoa lên đức Phật.
Đó là tâm tùy hỉ của người xưa vì đạo. Còn phần đông chúng ta ngày nay thấy có
người hơn mình thì không vui, khởi lên những niệm tỵ hiềm, nên tu không tiến là
ở chỗ đó. Phần trùng tụng lặp lại ý trên không có gì khác nên khỏi giảng.
9. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, Xá-lợi-phất bạch rằng: “Thế Tôn ! Con nay không còn nghi hối,
tự mình ở trước Phật đặng thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các
vị tâm tự tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường dạy rằng:
Pháp của ta hay lìa sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn. Các vị hữu học, vô học
đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v... nói là đặng Niếtbàn,
mà nay ở trước đức Thế Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm.
Hay thay Thế Tôn ! Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên đó, khiến lìa lòng nghi
hối.”
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất thấy chỉ có Ngài và Bồ-tát Kiên Mãn được thọ ký, số
người còn lại chưa được thọ ký. Với tâm lượng của đàn anh, Ngài được lợi ích thế
nào thì cũng muốn cho huynh đệ được lợi ích như thế ấy, nên Ngài bạch với Phật
rằng nay con không còn nghi hối, được Phật thọ ký. Còn 1250 vị Tỳ-kheo thuộc
hàng hữu học và vô học ở trong chúng, thường theo Phật nghe pháp Tứ đế tu
chứng Niết-bàn, nghe Thế Tôn nói về Tri kiến Phật, các Tỳ-kheo ấy nghi ngờ
không biết mình có kham làm Phật không ? Ngài Xá-lợi-phất muốn đức Phật vì
1250 Tỳ-kheo ấy mà giải thích rõ hơn, nên Ngài vừa tán thán công đức những vị
ấy vừa cầu xin đức Phật thương xót mà nói pháp cho họ hết nghi lầm, đều được
thọ ký như Ngài. Đó là tâm hạnh của Bồ-tát. Còn tâm lượng phàm phu thì khác, 
chỉ muốn mình hơn người chớ không muốn người bằng mình, vì có người bằng
mình thì mình mất giá trị. Đó là tâm bệnh của chúng ta hiện nay.
10. CHÁNH VĂN :
*Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ta trước đâu không nói rằng: Các
Phật Thế Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều
là đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư ? Các điều nói đó đều vì dạy hàng Bồ-
tát vậy. Nhưng Xá-lợi-phất ! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó,
những người có trí do thí dụ mà đặng hiểu”.
GIẢNG :
Tới đây, đức Phật bắt đầu chỉ cho mọi người biết rằng đoạn trước chư Phật
dùng phương tiện này phương tiện nọ để giáo hóa chúng sanh, nhưng cuối cùng
chỉ đưa họ đến quả vị Phật. Bây giờ muốn rõ thì nghe Phật thí dụ:
11. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Như trong quốc, ấp, tụ lạc có vị Đại trưởng giả tuổi đã già
suy, của giàu vô lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ
có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông: hoặc một trăm, hai trăm, cho đến
năm trăm người, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chưn cột hư nát, trính xuyên
xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.
Các người con của Trưởng giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người,
hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó.
*Trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng:
Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong
nhà lửa ưa vui chơi giỡn, không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau
khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.
Xá-lợi-phất ! Ông Trưởng giả đó lại nghĩ: Thân và tay của ta có sức mạnh,
nên dùng vạt áo hoặc dùng ghế v.v... từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà
này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi
giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.
Nhà này đã bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế rồi
theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: “Các con mau ra !” Cha dầu thương xót khéo
nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ sệt,
trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa ? Gì là nhà ? Thế nào là
hại ? Chỉ cứ Đông Tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.
GIẢNG :
Đây là cái cớ đầu tiên của bậc đại trí, đức Phật đưa ví dụ ông Trưởng giả
tuổi già, giàu có, nhiều ruộng vườn tôi tớ, nhà rộng lớn chỉ có một cửa để ra vào,
cột kèo trính xuyên hư mục, vách phên xiêu vẹo, con trong nhà có hàng mấy chục
người đang nô đùa chơi giỡn, bỗng lửa bốc cháy bốn phía nhà.
Thấy lửa bốc cháy, ông Trưởng giả lo ngại và nghĩ rằng ông tuy ở trong
nhà lửa, nếu muốn ra thì ra một cách dễ dàng, còn đám con của ông cứ mải miết
chơi giỡn, không hề hay biết, không hề sợ lửa đốt cháy thân mình, cũng không có
ý muốn ra khỏi nhà lửa. Ông Trưởng giả bảo các con mau ra khỏi nhà lửa, thế mà
các người con không nghe nhìn ông rồi cứ chạy giỡn. 
Nhà lửa là chỉ cho cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc đang bị lửa vô thường,
lửa tham, sân, si thiêu đốt, mà chúng sanh ở trong ba cõi này không hay biết,
không có ý muốn ra. Chúng ta sống trong cõi đời này, một ngày trôi qua là một
ngày bị lửa vô thường thiêu đốt mòn một phần thân thể, một tháng trôi qua là một
tháng bị lửa vô thường thiêu đốt thân mình, một năm trôi qua là một năm bị lửa vô
thường thiêu hoại hình hài. Rồi 60 năm, 70 năm, 80 năm toàn thân con người bị
thiêu rụi, hoàn toàn sụp đổ. Lửa vô thường thiêu đốt, làm hư hoại người vật từng
giây phút, từng ngày giờ, từng năm tháng mà chúng ta không hay không biết ! Xưa
ông Trụ trì Thiện Phát ở Phước Hòa có vóc dáng tráng kiện, tươi trẻ, khi tới Huệ
Nghiêm cũng còn khỏe mạnh, rồi tới Chân Không sức cũng còn kha khá, bây giờ
ở Thường Chiếu thì đã già nua yếu đuối. Đó là một bằng chứng cụ thể, lửa vô
thường âm thầm thiêu đốt tất cả người vật không ngừng nghỉ.
Chúng ta xét kỹ rồi thương mình thương người, dù cho người có nhiều tiền
của, nhà lầu, xe hơi, quyền thế danh vọng cũng không thoát được cái nạn lửa vô
thường thiêu đốt. Vậy mà con người cứ mải đuổi theo danh lợi quyền thế và mong
cho ngày tháng qua mau, trông chờ xuân đến để thực hiện những mộng mơ ước
muốn của mình cho tốt. Đâu ngờ rằng mong ngày tháng qua mau, là mong lửa vô
thường sớm thiêu rụi hình hài này ! Tâm người quá mâu thuẫn, luôn luôn sợ chết,
không muốn chết sớm, mà mong ngày tháng qua mau, thật là mê lầm điên đảo
đáng thương. Nên Phật thuyết giáo cho biết thân là vô thường, các pháp là hư dối,
tuy có nghe nhưng vẫn còn mê say ngũ dục, chưa có ý muốn ra khỏi. Cũng giống
như những đứa con ông Trưởng giả, tuy nghe cha nói nhà cháy sắp sụp đổ, nguy
hiểm tới rồi, mà vẫn cứ mải mê chơi giỡn, không chịu chạy ra, không nghe lời cha
khuyên bảo. Đó là những đứa con ngu si bất hiếu. Vậy mà đêm nào chúng ta cũng
lạy Phật cầu nguyện: Con kính tin Tam bảo, học tu theo giáo pháp Phật để được
giải thoát sanh tử. Và những buổi sám hối quì thưa có vẻ thống thiết lắm, nhưng
rồi thì chứng nào tật nấy không chịu sửa đổi.
Đời sống của người tu là đời sống cao thượng, ý thức được lý vô thường,
biết rõ lửa vô thường đang âm ỉ đốt cháy thân mình, mong muốn thoát ra khỏi nhà
lửa nên mới đi tu. Thế mà khi đi tu rồi lại quên, cũng tìm cách này cách nọ để giải
trí cho vui, giết chết thì giờ vô ích. Để thời giờ và công sức vào việc tu học thì
thấy như làm một việc khó nhọc cực khổ. Thí dụ tối và khuya tôi tăng giờ tụng
kinh và ngồi thiền thì quí vị ngán, than không kham nổi. Còn nếu để cho quí vị vui
chơi văn nghệ tới khuya thì không ai than thở, lại còn lấy làm thích thú. Vậy văn
nghệ có cứu quí vị thoát khỏi lửa vô thường thiêu đốt không ? Hay chỉ là những
trò chơi giải trí cho vui, qua rồi thì mất ? Việc tu là việc cấp thiết để giải khổ thì
lại lơ là !
Vì biết chư Tăng Ni có chí nguyện xuất gia cầu giải thoát sanh tử, tức là
cầu ra khỏi nhà lửa, cho nên tôi khuyến khích thúc đẩy cho quí vị nỗ lực tu hành.
Khuyến khích thúc đẩy là cái duyên tốt đưa quí vị ra khỏi sanh tử luân hồi, mà quí
vị không biết đón nhận, lại có ý tránh né. Có người nói ở đây vừa làm việc, vừa
học, vừa tu cực quá, để đi chỗ khác tu cho khỏe. Tu là tu cho quí vị chớ đâu phải
tu cho tôi, quí vị tu một ngày là quí vị được lợi ích một ngày, tôi có được lợi ích gì 
đâu ? Chúng ta mê muội tập khí sâu dày, tuy có tỉnh giác phát nguyện xuất gia, tuy
xuất gia nhưng lâu rồi quên, trở lại thói cũ là ngu si của thuở xưa, cũng ham chơi,
chạy theo những thú vui của thế tục, chớ không chịu lo tu hành để giải thoát sanh
tử . Nếu là người trí khi đã xuất gia rồi thì trong lòng đau đáu, nghĩ phải làm sao
thoát khỏi cái nhà lửa này, chớ không ngồi yên chờ cho lửa cháy tới thiêu rụi cả
nhà, cả thân. Khi nào ra khỏi nhà lửa rồi mới an ổn vui chơi. Ngày nào còn trong
nhà lửa là ngày đó phải tỉnh giác, biết sợ cái hiểm nguy của lửa vô thường thiêu
đốt mà cố gắng thoát ra.
12. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ Trưởng giả liền nghĩ, nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các
con nếu không liền ra chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương tiện khiến
cho các con được khỏi nạn này.
Cha biết các con đều vẫn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có
chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: “Đây này là những món ít có, khó
đặng mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn.
Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các
con ở nơi nhà lửa, nên mau ra đây, tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con.”
Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình, nên
lòng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng đua nhau ruổi chạy, tranh ra
khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng giả thấy các con đặng an ổn ra khỏi nhà lửa, đều ở
trong ngã tư đường ngồi nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông thơ thới
vui mừng hớn hở.
Bấy giờ các người con đều thưa với cha rằng: “Cha lúc nãy hứa cho những
đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho.”
GIẢNG :
Nghiệm lại mới thấy cái si mê của chúng ta quá lắm, đang bị nguy hiểm
bủa vây, đáng sợ mà không sợ, lại cứ mải miết tham mê, Phật kêu ra mà không ra.
Thật đáng thương ! Cho nên Ngài mới tìm cách dẫn dụ.
Trưởng giả biết các con ham chơi, ưa thích đồ quí đẹp, nên bảo: “Các con
mau ra khỏi nhà lửa, cha sẽ cho đồ chơi quí tốt như xe dê, xe hươu, xe trâu, ở
ngoài cửa sẽ tùy ý dạo chơi, hãy ra mau !” Các người con nghe có đồ chơi tốt quí
sanh lòng ham thích, đua nhau chạy ra.
Tất cả chúng ta đều mê lầm nên Phật nói thẳng lẽ thật, chúng ta không
kham tin nhận nên Ngài phải dùng phương tiện dụ dỗ mới chịu nghe. Cái mà đem
ra dụ dỗ thì không thật, nhưng đức Phật lại nói. Tuy là cái dụ dỗ không thật mà
vẫn hơn. Khi chúng sanh tu để ra khỏi nhà lửa tam giới, chỉ nghĩ sẽ được quả
Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Nhưng khi ra khỏi nhà lửa rồi thì được Phật chỉ
cho Phật thừa bình đẳng, quá sức tưởng tượng, quá điều mong ước của chúng sanh.
Tới đây, chúng ta mới thấy lòng từ bi của đức Phật vô lượng vô biên, Ngài
dùng đủ mọi phương tiện dẫn dụ, thế mà chúng ta có người nghe có người không
nghe, cứ quanh quẩn trong cảnh nguy hiểm khổ đau không chịu ra. Thậm chí Ngài
phải khai thác tâm lý để dẫn dụ: Ráng niệm Phật chừng mười câu, nếu được nhất
tâm bất loạn thì được Phật A-di-đà và Thánh chúng đón về Cực lạc, ở đó không có 
khổ, cực kỳ vui sướng, muốn gì được nấy. Ngài biết chúng sanh đang ham mê ngũ
dục lạc ở thế gian: Ham tiền của, vàng bạc châu báu, Phật nói ở cõi Cực lạc đất cát
thì bằng vàng, có lan can, lưới, cây, ao bằng bảy báu, lầu các làm bằng pha lê, xa
cừ, xích châu, mã não. Chúng sanh tham ưa mùi thơm, sắc đẹp, tiếng hay thì Phật
nói cõi Cực lạc có hoa sen lớn, có ánh sáng đủ màu, mùi thơm vi diệu, có nhạc trời,
chim báu ngày đêm ca hát với âm thanh tuyệt diệu. Thích ăn ngon Phật nói ở Cực
lạc muốn ăn liền có ăn... toàn là những cái đúng với sở thích của chúng sanh. Như
vậy cho thấy đức Phật từ bi đáo để và rất khéo dùng phương tiện trị bệnh đam mê
dục lạc của chúng sanh ở cõi này. Phật nói thẳng chúng sanh không nghe, không
tin, nên phải dẫn dụ, dụ bằng cách này không được thì dụ bằng cách khác. Thấy
tâm lượng của Phật, chúng ta vừa tôn kính Phật, mà cũng vừa tức cười cho mình là
đứa bé bị dụ dỗ !
13. CHÁNH VĂN :
*Xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh,
bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ
mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại
trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch, thân hình mập
đẹp, có sức rất mạnh, bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu
hạ đó.
Vì cớ sao ? Vì ông Trưởng giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy
đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: “Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe
nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu
không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy lòng
bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác.
Vì sao ? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không
thiếu huống gì các con”. Lúc ấy, các người con đều ngồi xe lớn đặng điều chưa
từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.
GIẢNG :
Ông Trưởng giả dụ những người con ra khỏi nhà lửa sẽ cho ba xe, nhờ vậy
mà chúng đua nhau chạy ra khỏi nhà lửa. Khi chúng ra rồi ông Trưởng giả không
cho ba xe, mà chỉ cho xe trâu trắng lớn bậc nhất, trang trí bằng những vật quí giá.
Sở dĩ ông cho như vậy là vì tâm ông bình đẳng không muốn có sự sai biệt giữa các
con. Vả lại ông là người giàu có của cải vô lượng, giả sử cho xe tốt đó khắp người
trong thiên hạ cũng không thiếu. Vậy, xe trâu trắng đó là dụ cho Tri kiến Phật có
sẵn nơi mỗi người; nếu biết quay lại với chính mình, không đuổi theo trần cảnh thì
Tri kiến Phật hiện tiền, lúc bấy giờ an vui, tự do, tự tại, vô ngại.
Qua thí dụ này, chúng ta thấy cái đặc biệt của đạo Phật là nêu lên những
cảnh vô thường, khổ não, bất như ý thường xuyên chi phối con người. Sau khi chỉ
cho thấy những khổ đau rồi dạy phải tu để thoát khỏi cảnh khổ đó, thì sẽ được an
vui tự tại vô ngại. Mới thoạt nhìn thấy đạo Phật như bi quan, nhưng nếu biết nhìn
và biết sống đúng lẽ thật thì đạo Phật rất lạc quan và tích cực.
14. CHÁNH VĂN : 
*Xá-lợi-phất ! Ý của ông nghĩ sao ? Ông Trưởng giả đó đồng đem xe trân
báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng ? Xá-lợi-phất thưa: “Thưa Thế
Tôn ! Không, ông Trưởng giả đó chỉ làm cho các người con đặng khỏi nạn lửa,
toàn thân mạng chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao ? Nếu được toàn thân
mạng bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi
nhà lửa.
Thế Tôn ! Dầu ông Trưởng giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ
còn chẳng phải hư vọng. Vì sao ? Vì ông Trưởng giả đó trước có ý nghĩ như vầy:
Ta dùng chước phương tiện cho các con được ra khỏi, vì nhân duyên đó nên
không hư vọng vậy. Huống gì ông Trưởng giả tự biết mình của giàu vô lượng
muốn lợi ích cho các con mà đồng cho xe lớn.”
GIẢNG :
Đức Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ông Trưởng giả hứa cho ba xe, bấy giờ các
con ra khỏi nhà lửa, ông chỉ cho có một xe trâu trắng, như vậy ông có lỗi dối gạt
không ? Ngài Xá-lợi-phất trả lời không. Vì ông Trưởng giả muốn cho các con khỏi
bị lửa thiêu đốt thân mạng, nên dùng phương tiện dẫn dụ cho ra khỏi nhà lửa để
thoát khỏi nạn khổ. Chẳng những không cho xe nhỏ mà lại cho xe lớn là điều quá
tốt, quá sức tưởng tượng của các con, khiến chúng được điều chưa từng có, lợi ích
vui sướng khôn lường. Cũng vậy, Phật thuyết pháp lặp ba thừa: Thanh văn, Duyên
giác, Bồ-tát rõ ràng. Tới đây Phật nói ba thừa đó không thật, chỉ có Phật thừa mới
là cứu kính. Như vậy là sao ? Điều này chúng ta phải hiểu cho thật kỹ. Đức Phật
với tâm bình đẳng thương chúng sanh như nhau, không muốn có sự sai biệt giữa
người này với người khác. Sở dĩ trước Phật lặp ba thừa là vì căn cơ chúng sanh
còn thấp, nên Phật tùy theo đó mà phương tiện hướng dẫn từ từ. Nay chúng đã đủ
khả năng tin nhận nên Phật chỉ thẳng Phật thừa rốt ráo, để tất cả đều được lợi ích
như nhau.
15. CHÁNH VĂN :
*Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Hay thay ! Hay thay ! Như lời ông nói, Xá-
lợi-phất ! Như Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ
hãi suy não lo buồn vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô
lượng Tri kiến, Trí lực, Vô sở úy, có sức đại thần thông cùng sức trí huệ đầy đủ
các món phương tiện, trí huệ Ba-la-mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi.
Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ
mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa: Sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não,
ngu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng sanh đặng Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.
*Ta thấy các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ
não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì
tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục,
súc sanh, ngạ quỉ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn
khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như
thế mà chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng 
kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm, không cầu giải thoát; ở trong nhà lửa
tam giới này Đông Tây rảo chạy, dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.”
GIẢNG :
Đức Phật là bậc trí tuệ viên mãn, có đủ trí lực, vô sở úy, thần thông, ba-lamật,
vì thương tất cả chúng sanh còn đang mê đắm ngũ dục trong nhà lửa tam giới,
nên Ngài mới nguyện sinh vào trong nhà lửa này để độ tất cả ra khỏi nhà lửa. Lửa
đó là lửa: sanh, già, bệnh, chết, tham, sân, si, lo, buồn. Lửa sanh, già, bệnh, chết
âm ỉ thiêu đốt con người từ lúc tóc xanh cho tới bạc đầu không lúc nào dừng nghỉ.
Còn lửa tham tài, tham sắc, tham danh... người muốn có nhiều tiền của hay danh
vọng thì phải lao thần, hao khí, tổn giảm sức lực nhiều mới có tiền tài, danh vọng,
và đã có rồi thì phải phí công gìn giữ. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật có thí dụ:
“Một cây hương khi được đốt lên, mùi hương lan tỏa dần ra, người xung quanh
ngửi được mùi thơm thì cây hương cháy đã gần tàn.” Cũng vậy, khi chúng ta tạo
cho đủ điều kiện để thành danh, có quyền lợi thì sức lực đã hao mòn, thân già tóc
bạc... Nếu tham mà không được thỏa mãn thì sân hận nổi lên, hoặc lo buồn dấy
khởi, tinh thần rối loạn, nói xằng làm bậy, thân tâm bất an, sức khỏe suy yếu. Đó
là lửa tham, lửa sân, lửa si thiêu đốt con người, khiến cho người khổ đau bất tận.
Sở dĩ chúng ta bị sanh, già, bệnh, chết, tham, sân, lo, buồn, khổ não đốt
cháy, là vì chúng ta thích ưa năm món dục lạc ở thế gian là sắc, thanh, hương, vị,
xúc. Mắt thì mê sắc đẹp, tai thì ưa tiếng hay, mũi thì thích mùi thơm, lưỡi thì ưa vị
ngon, thân thì thích xúc chạm cái trơn, láng, mềm, ấm... Nếu chạy theo năm món
đó thì con người đau khổ. Suốt ngày đi làm nhọc mệt cho có tiền, để ăn cho thật
ngon, mặc cho thật đẹp rồi tối đi xem hát, nghe nhạc... Cả ngày làm vất vả nhọc
nhằn chỉ để thỏa mãn năm món dục lạc. Càng đuổi theo dục lạc càng bị lửa tham
dục, lửa sân hận, lửa si mê đốt cháy khốn khổ vô cùng. Chẳng những khổ trong
đời hiện tại, mà chính vì đuổi theo danh lợi, tài sắc mà con người gây nhiều tội lỗi
tày trời. Khi đã tạo những cái nhân tày trời rồi, thì quả khổ địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh ở đời sau không tránh khỏi. Và thọ báo xong, nếu trở lại làm người thì cũng
làm người cùng khổ, lại bị cái khổ người yêu thương xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ;
bao nhiêu thứ khổ dồn dập không có ngày dừng, không có ngày ra.
"
16. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của
chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí
tuệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.
Xá-lợi-phất ! Đức Như Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng
sức trí tuệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món Tri kiến,
Trí lực, Vô sở úy của Như Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà đặng độ thoát.
Vì sao ? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn,
đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí
huệ của Phật.
GIẢNG : 
Con người mê lầm ngay trong đời hiện tại, khi còn khỏe mạnh thì chạy theo
tài sắc, danh lợi... đến khi già chết thì lại lo di chúc cho con cháu chọn đất tốt để
chôn, xây mộ cho kiên cố... Chết là thân tứ đại trả về cho tứ đại, thân này vô
thường không giữ được, thế mà muốn tạo cái mộ để đời, tất cả đều là tướng vô
thường làm sao giữ được ? Lớp mê lầm này chồng chất lên lớp mê lầm kia, khổ
này chồng lên khổ khác, bao giờ mới ra khỏi ?
Đức Phật nói Ngài có đủ sức thần thông và trí lực vì chúng sanh nói thẳng
kinh Pháp Hoa, nhưng Ngài không áp dụng. Vì sức chúng sanh chưa kham tin
nhận, nên phải bày những phương tiện như Tam thừa, hay cõi Cực lạc... Nhờ
những phương tiện này chúng sanh ứng dụng tu hành, tự thấy rõ ở trong tam giới
là khổ, ham thích quả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát là chỗ an vui, để tự cố gắng
thoát ra khỏi nhà lửa tam giới. Phật ra vào trong tam giới tự do không ngại, tại sao
Ngài không dùng thần thông hay trí lực đưa chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử
mà phải dùng phương tiện dẫn dụ ? Vì muốn ra khỏi luân hồi sanh tử vĩnh viễn, thì
mỗi người phải tự ý thức luân hồi sanh tử là khổ đau và tìm lối thoát ra. Đó là mỗi
người tự tạo nhân rồi thọ quả, chớ Phật không thế được. Ví dụ một học giả thông
minh tài giỏi đỗ Tiến sĩ, có những đứa con lười biếng học, ông biết học dốt thì
thua sút bạn bè, ra đời khó sống. Ông thương, muốn chúng nó học giỏi như ông,
mà chúng cứ lười biếng ỷ lại cha mình là người thông minh tài giỏi nên không
chịu học hành. Ông tuy thương con, nhưng không thể đem cái thông minh học giỏi
của mình cho con được, nên mới dụ các con hãy ráng học ông sẽ cho đồ chơi, để
cho các con ham mà lo học thành người tài giỏi. Cũng giống như Phật dẫn dụ
chúng sanh thực hành theo lời Ngài dạy để được hết khổ...
Hiện tại chúng ta tu cứ cầu Phật cho mình thế này cho mình thế khác. Rõ
ràng, nếu cho được cứu được thì Phật đã dùng thần thông trí lực khiến cho chúng
sanh không già, không bệnh, không chết, cũng như hết tham, hết sân, hết si. Thế
mà, chính thân tứ đại của Ngài cũng già cũng chết; tham, sân, si cũng do Ngài tu
mới hết và mới thành Phật. Đây là một lẽ thực mà tất cả mọi người tu Phật phải
biết và cố gắng thực hành lời Phật dạy để thoát khỏi khổ đau, chớ không phải do lễ
lạy van vái mà Phật ban vui cứu khổ cho chúng ta được.
17. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Như ông Trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà
chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, vậy
sau đều cho xe trân báu lớn.
Đức Như Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy mà chẳng
dùng đến, chỉ dùng trí tuệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, vì
chúng sanh nói ba thừa Thanh văn, Duyên giác cùng Phật thừa, mà bảo rằng: “Các
ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thinh,
hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sanh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt, các ngươi
mau ra khỏi ba cõi sẽ đặng chứng ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa.
Nay ta vì các ngươi mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các ngươi
chỉ nên siêng năng tinh tấn tu hành.” Đức Như Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn
chúng sanh thẳng đến, lại bảo: “Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là 
pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc, không còn
phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi,
thánh đạo, thiền định vô lậu, cùng giải thoát tam-muội v.v... để tự vui sướng, đặng
vô lượng sự an ổn khoái lạc.”
GIẢNG :
Thích ưa sắc, thinh, hương, vị, xúc là cái vui tạm bợ thô hèn. Nếu còn kẹt
trong ngũ dục là còn có ái nhiễm, có ái nhiễm là bị lửa tham dục thiêu đốt. Muốn
ra khỏi ba cõi thì đừng đuổi theo ngũ dục lạc. Nếu dứt được ngũ dục lạc thì sẽ
được ba thừa, và khi được ba thừa thì sẽ được an lạc, tức là đã ra khỏi nhà lửa tam
giới.
18. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật
Thế Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu
chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà
ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân
cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên, ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rõ nhân duyên
của các pháp, gọi đó là Duyên giác thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà
ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu
tinh tấn, cầu Nhứt thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, các món Tri kiến lực,
Vô úy của Như Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi
ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại thừa, Bồ-tát vì cầu đặng thừa
này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG :
Trở lại ví dụ nhà lửa với ba xe. Nếu người nghe Phật nói pháp Tứ đế tinh
tấn tu hành chứng Niết-bàn gọi là Thanh văn thừa, dụ như những người con cầu xe
dê. Người nghe Phật nói Mười hai nhân duyên, ở chỗ vắng vẻ quán sát lý duyên
sanh của các pháp gọi là Duyên giác thừa, dụ như những người con cầu xe hươu.
Người nghe pháp tin nhận, tinh tấn tu hành cầu Nhứt thiết trí, Phật trí, có lòng từ
bi vô lượng làm lợi ích cho chúng sanh gọi là Đại thừa, dụ như những người con
cầu xe trâu.
19. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Như ông Trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà
lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn
đồng cho các con. Đức Như Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu
thấy có vô lượng nghìn ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường
hiểm đáng sợ của ba cõi đặng sự vui Niết-bàn.
Bấy giờ đức Như Lai bèn nghĩ: “Ta có vô lượng vô biên trí huệ, lực vô úy
v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban
cho pháp Đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ
của Như Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ. 
Những chúng sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định
giải thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các
đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhứt.”
*Xá-lợi-phất ! Như ông Trưởng giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con,
sau rồi chỉ ban cho xe lớn, vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhất, song ông Trưởng
giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu
nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại thừa mà độ giải thoát đó.
Vì sao ? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ lực, vô sở úy, có thể ban
pháp Đại thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ vì chúng sanh không thọ được hết.
Xá-lợi-phất ! Vì nhân duyên đó nên phải biết các đức Như Lai dùng sức
phương tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba.
GIẢNG :
Phật hỏi lại ngài Xá-lợi-phất một lần nữa. Khi các con ra khỏi nhà lửa được
an ổn, ông Trưởng giả bình đẳng cho các con một thứ xe là xe trâu trắng. Cũng
như đức Phật tuy có phương tiện nói ba thừa, nhưng khi chúng sanh đủ khả năng
kham nhận, Phật nói ba thừa là không thật, chỉ thẳng Tri kiến Phật là chỗ cứu kính
mà chư Phật hằng khen ngợi hằng hộ niệm, như vậy Ngài có mắc lỗi nói dối hay
không ? Ngài Xá-lợi-phất trả lời rằng: “Phật không có lỗi nói dối, vì Phật từ bi,
phương tiện và bình đẳng độ cho chúng sanh thoát khỏi khổ đau.”
Đức Phật kết thúc chỗ cứu kính chỉ có một Phật thừa, nhưng vì phương tiện
nên nói thành ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát.
20. CHÁNH VĂN :
Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Thí như ông Trưởng giả
 Có một nhà rất lớn
 Nhà đó đã lâu cũ
 Mà lại rất xấu xa
 Phòng nhà vừa cao nguy
 Gốc cột lại gãy mục
 Trính xuyên đều xiêu vẹo
 Nền móng đã nát rã
 Vách phên đều sụp đổ
 Đất bủn rơi rớt xuống
 Tranh lợp sa tán loạn
 Kèo, đòn sai rời khớp
 Bốn bề đều cong vạy
 Khắp đầy những tạp nhơ
 Có đến năm trăm người
 Ở đỗ nơi trong đó
 Chim xi, hiêu, điêu, thứu
 Quạ, chim thước, cưu, cáp
 Loài ngươn xà, phúc yết
 Giống ngô công, do-diên 
 Loài thủ công, bá túc
 Dứu, ly cùng hề thử
 Các giống độc trùng dữ
 Ngang dọc xen ruổi chạy
 Chỗ phân giải hôi thúi
 Đồ bất tịnh chảy tràn
 Các loài trùng khương lương
 Bu nhóm ở trên đó
 Cáo, sói cùng dã can
 Liếm nhai và dày đạp
 Cắn xé những thây chết
 Xương thịt bừa bãi ra
 Do đây mà bầy chó
 Đua nhau đến ngoạm lấy
 Ốm đói và sợ sệt
 Nơi nơi tìm món ăn
 Giành giựt cấu xé nhau
 Gầm gừ gào sủa rân
 Nhà đó sự đáng sợ
 Những biến trạng dường ấy
 Khắp chỗ đều có những
 Quỉ, ly, mị, vọng, lượng
 Quỉ dạ-xoa, quỉ dữ
 Nuốt ăn cả thịt người
 Các loại trùng độc dữ
 Những cầm thú hung ác
 Ấp, cho bú sản sanh
 Đều tự giấu gìn giữ
 Quỉ dạ-xoa đua đến
 Giành bắt mà ăn đó
 Ăn đó no nê rồi
 Lòng hung dữ thêm hăng
 Tiếng chúng đánh cãi nhau
 Thật rất đáng lo sợ
 Những quỉ cưu-bàn-trà
 Ngồi xổm trên đống đất
 Hoặc có lúc hỏng đất
 Một thước hay hai thước
 Qua rồi lại dạo đi
 Buông lung chơi cùng giỡn
 Nắm hai chân của chó
 Đánh cho la thất thanh
 Lấy chân đạp trên cổ
 Khủng bố chó để vui
 Lại có các giống quỉ
 Thân nó rất cao lớn
 Trần truồng thân đen xấu
 Thường ở luôn trong đó
 Rền tiếng hung ác lớn
 Kêu la tìm món ăn
 Lại có các giống quỉ
 Cổ nó nhỏ bằng kim
 Lại có các giống quỉ
 Đầu nó như đầu trâu
 Hoặc là ăn thịt người
 Hoặc lại ăn thịt chó
 Đầu tóc rối tung lên
 Rất ác lại hung hiểm
 Bị đói khát bức ngặt
 Kêu la vừa rong chạy
 Da-xoa cùng quỉ đói
 Các chim muông ác độc
 Đói gấp rảo bốn bề
 Rình xem nơi cửa sổ
 Các nạn dường thế đấy
 Vô lượng việc ghê sợ.
GIẢNG :
Nhà đã hư mục xiêu vẹo, bị lửa lớn đốt cháy, trong nhà có những cảnh khổ
đang diễn ra như: các loài thú dữ, các loài ma quỉ độc ác... luôn luôn tìm cách đe
dọa và chực cắn nuốt lẫn nhau. Những chúng sanh trong cõi tam giới cũng thế. Ở
cõi Dục, ngoài cái khổ sanh, già, bệnh, chết bức ngặt bản thân; ngoài cái khổ do
tham, sân, si, mạn, nghi, đố kỵ... ở nội tâm dày vò, giằng co, còn bị những cái khổ
bên ngoài như nghèo thiếu, đấu tranh, chúng sanh với chúng sanh gây họa hại cho
nhau, chém giết lẫn nhau... không sao kể xiết. Ở đây đức Phật diễn tả bằng những
hình ảnh cọp sói giành giựt mồi cắn xé lẫn nhau, yêu quỉ, hung thần rình rập ăn
nuốt thịt người, ăn nuốt thịt thú... Những chúng sanh ở cõi Sắc và Vô sắc tuy có
sung sướng thỏa mãn khoái lạc, không còn bị khổ xác thân nhưng vẫn còn bị sự
biến dịch của tâm hồn, vẫn còn bị luật vô thường chi phối, hết phước cũng bị đọa
lạc nên vẫn còn khổ.
21. CHÁNH VĂN :
 *Nhà cũ mục trên đó
 Thuộc ở nơi một người
 Người ấy vừa mới ra
 Thời gian chưa bao lâu
 Rồi sau nhà cửa đó
 Bỗng nhiên lửa cháy đỏ
 Đồng một lúc bốn bề
 Ngọn lửa đều hừng hực
 Rường cột và trính xuyên
 Tiếng tách nổ vang động
 Nát gãy rơi rớt xuống
 Vách phên đều lở ngã,
 Các loại quỉ thần thảy
 Đồng cất tiếng kêu to,
 Các giống chim, điêu, thứu
 Quỉ cưu-bàn-trà thảy
 Kinh sợ chạy sảng sốt
 Vẫn không tự ra đặng
 Thú dữ loài trùng độc
 Chui núp trong lỗ hang,
 Các quỉ tỳ-xá-xà
 Cũng ở trong hang đó
 Vì phước đức kém vậy
 Bị lửa đến đốt bức
 Lại tàn hại lẫn nhau
 Uống máu ăn thịt nhau.
 Những loại thú dã can
 Thời đều đã chết trước
 Các giống thú dữ lớn
 Giành đua đến ăn nuốt
 Khói tanh bay phùn phụt
 Phủ khắp bít bốn bề
 Loài ngô công, do diên
 Cùng với rắn hung độc
 Bị lửa lòn đốt cháy
 Tranh nhau chạy khỏi hang
 Quỉ bàn-trà rình chờ
 Liền bắt lấy mà ăn
 Lại có các ngạ quỉ
 Trên đầu lửa bật cháy
 Đói khát rất nóng khổ
 Sảng sốt chạy quàng lên
 Nhà lửa đó dường ấy
 Rất đáng nên ghê sợ
 Độc hại cùng tai lửa
 Các nạn chẳng phải một.
GIẢNG :
Đoạn này đức Phật diễn tả lại cảnh khổ của các người con trong nhà lửa,
nào là các loài quỉ dữ, các giống thú dữ, các loài trùng độc đang làm hại lẫn nhau... 
Ông Trưởng giả là người đã ra khỏi nhà lửa, là vị chủ nhân của căn nhà này. Thấy
lửa đang cháy, các con đang bị lửa thiêu đốt vô cùng khốn khổ, ông thương và lo
cho những người còn ở trong nhà này.
22. CHÁNH VĂN :
 *Lúc bấy giờ chủ nhà
 Đứng ở nơi ngoài cửa
 Nghe có người mách rằng:
 Các người con của ông
 Trước đây vì dạo chơi
 Mà đến vào nhà này
 Thơ bé không hiểu biết
 Chỉ vui ham ưa đắm.
 Trưởng giả vừa nghe xong
 Kinh sợ vào nhà lửa
 Tìm phương nghi cứu tế
 Cho con khỏi thiêu hại
 Mà dụ bảo các con
 Nói rõ các hoạn nạn:
 Nào ác quỉ độc trùng
 Hỏa tai lan tràn cháy
 Các sự khổ thứ lớp
 Nối luôn không hề dứt
 Loài độc xà, nguơn phúc
 Và các quỉ dạ-xoa
 Cùng quỉ cưu-bàn-trà
 Những dã can, chồn, chó
 Chim điêu, thứu, xi, hiêu
 Lại giống bá túc thảy
 Đều đói khát khổ gấp
 Rất đáng phải ghê sợ
 Chỗ khổ nạn như thế
 Huống lại là lửa lớn
 Các con nhỏ không hiểu
 Dầu có nghe cha dạy
 Cứ vẫn còn ham ưa
 Vui chơi mãi không thôi.
GIẢNG :
Ông Trưởng giả ra khỏi nhà lửa, biết đàn con mình đang bị lửa thiêu đốt mà
không hay, cứ say mê chơi giỡn, thích ưa đồ chơi không có giá trị, không biết lối
ra, mắc phải nạn lửa thiêu đốt.
23. CHÁNH VĂN :
 *Bấy giờ Trưởng giả kia
 Mới bèn nghĩ thế này: 
 Các con như thế đó
 Làm ta thêm sầu não.
 Nay trong nhà lửa này
 Không một việc đáng vui
 Mà các con ngây dại
 Vẫn ham mê vui chơi
 Chẳng chịu nghe lời ta
 Toan sẽ bị lửa hại
 Ông bèn lại suy nghĩ
 Nên bày các phương tiện
 Bảo với các con rằng:
 Cha có rất nhiều thứ
 Các đồ chơi trân kỳ
 Những xe báu tốt đẹp
 Nào xe dê, xe hươu
 Cùng với xe trâu lớn
 Hiện để ở ngoài cửa
 Các con mau ra đây
 Cha chính vì các con
 Mà sắm những xe này
 Tùy ý các con thích
 Có thể để dạo chơi
 Các con nghe cha nói
 Các thứ xe như vậy
 Tức thời cùng giành đua
 Rảo chạy ra khỏi nhà
 Đến nơi khoảng đất trống
 Rời những sự khổ nạn.
 Trưởng giả thấy các con
 Được ra khỏi nhà lửa
 Ở nơi ngả tư đường
 Đều ngồi tòa sư tử
 Ông bèn tự mừng rằng
 Ta nay rất mừng vui
 Những đứa con ta đây
 Đẻ nuôi rất khó lắm
 Chúng nhỏ dại không hiểu
 Mới lầm vào nhà hiểm
 Có nhiều loài trùng độc
 Quỉ ly mị đáng sợ
 Lửa lớn cháy hừng hực
 Bốn phía đều phực lên
 Mà các trẻ con này 
 Lại ham ưa vui chơi
 Nay ta đã cứu chúng
 Khiến đều được thoát nạn
 Vì thế các người ơi !
 Ta nay rất vui mừng.
 Khi ấy các người con
 Biết cha đã ngồi an
 Đều đến bên chỗ cha
 Mà thưa cùng cha rằng:
 Xin cha cho chúng con
 Ba thứ xe báu lạ
 Như vừa rồi cha hứa
 Các con mau ra đây
 Sẽ cho ba thứ xe
 Tùy ý các con muốn
 Bây giờ chính phải lúc
 Xin cha thương cấp cho.
GIẢNG :
Ông Trưởng giả khi biết đàn con đang say mê chơi giỡn trong nhà lửa, ông
lấy làm lo ngại, muốn cho chúng ra khỏi nhà lửa, phải dùng phương tiện dụ dỗ cho
các thứ đồ chơi quí báu như xe dê, xe hươu, xe trâu tùy theo ý thích, nếu chạy ra
thì sẽ được cho. Những người con nghe nói thế, đua nhau chạy ra khỏi nhà. Khi
các con ra khỏi nhà lửa thì ông Trưởng giả rất vui mừng và đàn con bu quanh xin
ông cho đồ chơi báu đẹp. Những người con trong nhà lửa này khi ra khỏi nhà lửa
là đã thoát nạn mà không nghĩ mình đã thoát nạn, vẫn còn mang lòng tham, mong
cầu đồ chơi quí đẹp. Cũng vậy, chúng ta tu cứ nghĩ tới chứng đắc quả vị này quả
vị khác, chớ không biết rằng chủ yếu của sự tu hành là xả ly mọi cố chấp mọi loạn
tưởng; hết chấp hết loạn tưởng thì tự nhiên được an vui giải thoát. Hiểu như vậy
mới thấy được lý đạo. Phần nhiều chúng ta tu bị kẹt trên phương tiện, hết kẹt
phương tiện này đến phương tiện khác, đó là do bệnh si mê, nói lẽ thực không chịu
tin nhận, cứ tham lam ham chứng đắc nên mãi chìm trong luân hồi sanh tử.
24. CHÁNH VĂN :
 *Trưởng giả giàu có lớn
 Kho đụn rất nhiều đầy
 Vàng bạc cùng lưu ly
 Xa cừ ngọc mã não
 Dùng những món vật báu
 Tạo thành các xe lớn
 Chưng dọn trang nghiêm đẹp
 Khắp vòng có bao lơn
 Bốn mặt đều treo linh
 Dây vàng xen thắt tụi
 Lưới mành kết chân châu 
 Giăng bày phủ phía trên
 Hoa vàng các chuỗi ngọc
 Lòng thòng rũ khắp chỗ
 Các màu trang sức đẹp
 Khắp vòng xây quanh xe
 Dùng nhiễu hàng mềm mại
 Để làm nệm lót ngồi
 Vải quí mịn rất tốt
 Giá trị đến nghìn muôn
 Bóng láng trắng sạch sẽ
 Dùng trải trùm trên nệm
 Có trâu trắng to lớn
 Mập khỏe nhiều sức mạnh
 Thân hình rất tươi tốt
 Để kéo xe báu đó
 Đông những tôi và tớ
 Mà chực hầu giữ gìn
 Đem xe đẹp như thế
 Đồng ban cho các con
 Các con lúc bấy giờ
 Rất vui mừng hớn hở
 Ngồi trên xe báu đó
 Dạo đi khắp bốn phương
 Vui chơi nhiều khoái lạc
 Tự tại không ngăn ngại.
GIẢNG :
Khi các con ra khỏi nhà lửa, đến vây quanh ông Trưởng giả xin đồ chơi.
Với tâm bình đẳng, ông cho các con toàn xe trâu trắng trang hoàng bằng những vật
báu ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự mong ước của các con.
25. CHÁNH VĂN :
 *Bảo Xá-lợi-phất này
 Đức Phật cũng như vậy
 Tôn cả trong hàng Thánh
 Cha lành của trong đời
 Tất cả các chúng sanh
 Đều là con của ta
 Say mê theo thế lạc
 Không có chút huệ tâm.
 Ba cõi hiểm không an
 Dường như nhà lửa cháy
 Các nạn khổ dẫy đầy
 Rất đáng nên ghê sợ
 Thường có những sanh, già 
 Bịnh, chết và rầu lo
 Các thứ lửa như thế.
 Cháy hừng chẳng tắt dứt.
 Đức Như Lai đã lìa
 Nhà lửa ba cõi đó
 Vắng lặng ở thong thả
 An ổn trong rừng nội
 Hiện nay ba cõi này
 Đều là của ta cả
 Những chúng sanh trong đó
 Cũng là con của ta.
 Mà nay trong ba cõi
 Có nhiều thứ hoạn nạn
 Chỉ riêng một mình ta
 Có thể cứu hộ chúng
 Dầu lại đã dạy bảo
 Mà vẫn không tin nhận
 Vì nơi các dục nhiễm
 Rất sanh lòng tham mê
 Bởi thế nên phương tiện
 Vì chúng nói ba thừa
 Khiến cho các chúng sanh
 Rõ ba cõi là khổ
 Mở bày cùng diễn nói
 Những đạo pháp xuất thế
 Các người con đó thảy
 Nếu nơi tâm quyết định
 Đầy đủ ba món minh
 Và sáu món thần thông
 Có người được Duyên giác
 Hoặc bất thối Bồ-tát.
 Xá-lợi-phất phải biết
 Ta vì các chúng sanh
 Dùng món thí dụ này
 Để nói một Phật thừa
 Các ông nếu có thể
 Tin nhận lời nói đây
 Tất cả người đều sẽ
 Chứng thành quả Phật đạo.
GIẢNG :
Tòa nhà xiêu vẹo hư mục đang bốc cháy, dụ như ở trong ba cõi, chính bản
thân của chúng sanh đang bị lửa vô thường thiêu đốt, không thân nào, cảnh nào là
không bị lửa tàn phá. Ở trong nhà lửa có đủ thứ hình tướng ghê tởm, đủ thứ hung 
hiểm ác độc đe dọa sát hại lẫn nhau, đó là dụ cho tham sân si biến ra thiên hình
vạn trạng làm khổ con người mà không ai biết. Vì vậy Phật phương tiện dẫn dụ
Niết-bàn Thanh văn, Niết-bàn Duyên giác, Niết-bàn Bồ-tát để cho chúng sanh
thích, tu hành thoát khỏi phiền não khổ đau. Sau cùng Phật chỉ thẳng Tri kiến Phật
là chỗ cứu kính viên mãn. Nếu người đến được chỗ rốt ráo này thì an vui tự tại vô
ngại.
26. CHÁNH VĂN :
 *Phật thừa đây vi diệu
 Rất thanh tịnh thứ nhứt
 Ở trong các thế gian
 Không còn pháp nào trên
 Của các Phật vui ưa
 Tất cả hàng chúng sanh
 Đều phải nên khen ngợi
 Và cúng dường lễ bái
 Đủ vô lượng nghìn ức
 Các trí lực, giải thoát
 Thiền định và trí huệ
 Cùng pháp khác của Phật
 Chứng đặng thừa như thế
 Khắp cho các con thảy,
 Ngày đêm cùng kiếp số
 Thường đặng ngồi dạo chơi
 Cho các hàng Bồ-tát
 Cùng với chúng Thanh văn
 Nương nơi thừa báu này
 Mà thẳng đến đạo tràng
 Vì bởi nhân duyên đó
 Tìm kỹ khắp mười phương
 Lại không thừa nào khác
 Trừ Phật dùng phương tiện
 Bảo với Xá-lợi-phất
 Bọn ông các người thảy
 Đều là con của ta
 Ta thời là cha lành.
 Các ông trải nhiều kiếp
 Bị các sự khổ đốt
 Ta đều đã cứu vớt
 Cho ra khỏi ba cõi
 Ta dầu ngày trước nói
 Các ông được diệt độ
 Nhưng chỉ hết sanh tử
 Mà thiệt thời chẳng diệt 
 Nay việc nên phải làm
 Chỉ có trí huệ Phật
 Nếu có Bồ-tát nào
 Ở trong hàng chúng này
 Có thể một lòng nghe
 Pháp thật của các Phật
 Các đức Phật Thế Tôn
 Dầu dùng chước phương tiện
 Mà chúng sanh được độ
 Đều là Bồ-tát cả.
GIẢNG :
Phật thừa là pháp vi diệu thanh tịnh bậc nhất, trong thế gian này không có
pháp nào hơn được, nên phải khen ngợi. Nếu người nào ưa vui tin nhận được pháp
này thì chắc chắn những người đó sẽ thành Phật.
27. CHÁNH VĂN :
 *Nếu có người trí nhỏ
 Quá mê nơi ái dục
 Phật bèn vì bọn này
 Mà nói lý khổ đế
 Chúng sanh nghe lòng mừng
 Đặng điều chưa từng có
 Đức Phật nói Khổ đế
 Chân thật không sai khác
 Nếu lại có chúng sanh
 Không rõ biết gốc khổ
 Quá say nơi khổ nhân
 Chẳng tạm rời bỏ được
 Phật vì hạng người này
 Dùng phương tiện nói dạy
 Nguyên nhân có các khổ
 Tham dục là cội gốc
 Nếu dứt được tham dục
 Khổ không chỗ nương đỗ
 Dứt hết hẳn các khổ
 Gọi là đế thứ ba.
 Vì chứng diệt đế vậy
 Mà tu hành đạo đế
 Lìa hết các khổ phược
 Gọi đó là giải thoát
 Người đó nơi pháp gì
 Mà nói đặng giải thoát ?
 Chỉ xa rời hư vọng
 Gọi đó là giải thoát 
 Kỳ thiệt chưa phải được
 Giải thoát hẳn tất cả
 Đức Phật nói người đó
 Chưa phải thiệt diệt độ
 Vì người đó chưa được
 Đạo quả Vô thượng vậy
 Ý của ta không muốn
 Cho đó đến diệt độ
 Ta là đấng Pháp vương
 Tự tại nơi các pháp
 Vì an ổn chúng sanh
 Nên hiện ra nơi đời
 Xá-lợi-phất phải biết
 Pháp ấn của ta đây
 Vì muốn làm lợi ích
 Cho thế gian nên nói
 Tại chỗ ông đi qua
 Chớ có vọng tuyên truyền
 Nếu có người nghe đến
 Tùy hỷ kính nhận lấy
 Phải biết rằng người ấy
 Là bậc bất thối chuyển
 Nếu có người tin nhận
 Kinh pháp Vô thượng này
 Thời người đó đã từng
 Thấy các Phật quá khứ
 Cung kính và cúng dường
 Cũng được nghe pháp này
 Nếu người nào có thể
 Tin chịu lời ông nói
 Thời chính là thấy Ta
 Cũng là thấy nơi ông
 Cùng các chúng Tỳ-kheo
 Và các hàng Bồ-tát.
GIẢNG :
Đối với những người tâm ý nhỏ hẹp không nhận được pháp lớn, nên Phật
phương tiện nói Khổ đế, rồi từ Khổ đế Ngài chỉ nguyên nhân gây ra khổ là Tập đế.
Khi đã biết Khổ đế, Tập đế, Ngài mới nói Diệt đế tức là Niết-bàn, muốn đến Niếtbàn
là phải biết đường lối tu hành tức là Đạo đế. Nếu người y cứ pháp Tứ đế tu
hành thì sẽ chứng được quả A-la-hán. Nhưng quả A-la-hán chưa thật là diệt độ,
chưa thật là Niết-bàn. Tại sao ? Vì các vị tu pháp Tứ đế thấy thân tâm này bị vô
thường chi phối nên mới khổ đau. Gốc của khổ đau là tham, sân, si mà tham, sân,
si lại là hư vọng. Những thứ hư vọng đó sạch hết tức là dứt được cái nhân luân hồi 
sanh tử gọi là Diệt đế. Thanh văn chỉ dẹp được phiền não hư vọng chưa nhận được
Tri kiến Phật nơi mình nên đây Phật nói: “Chỉ xa rời hư vọng gọi đó là giải thoát.”
Còn hàng Bồ-tát hay Phật thừa thì nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật. Nhận ra nơi
mình có Tri kiến Phật rồi thì buông hết những cái hư vọng không thật.
Ví dụ cái áo bị dính những vết nhơ, khi tẩy hết những vết nhơ thì nói cái áo
đã sạch, kỳ thật chỉ hết những vết nhơ chớ chưa thật sạch. Muốn sạch, sau khi tẩy
các vết nhơ rồi phải đem cả cái áo ra giặt giũ, chừng đó mới thật sạch. Những vết
nhơ sạch là cái sạch tương đối, cái áo sạch toàn diện mới là cái sạch tuyệt đối.
Cũng vậy, khi dứt được tham, sân, si, phiền não hư vọng thì tâm lặng lẽ gọi là
Niết-bàn giải thoát. Niết-bàn này chỉ là Niết-bàn tiêu cực, chưa có diệu dụng tích
cực, nên có nhiều vị A-la-hán chứng Niết-bàn an trụ trong vắng lặng, rồi diệt độ
luôn không làm lợi ích chúng sanh. Còn hàng Bồ-tát nhận ra Tri kiến Phật, đoạn
dứt nhân luân hồi sanh tử có đủ diệu dụng như: Thập lực, Tứ vô sở úy... ra giáo
hóa làm lợi ích chúng sanh. Đó là tinh thần tiêu cực và tích cực của Thanh văn và
Bồ-tát.
28. CHÁNH VĂN :
 *Phật vì người trí sâu
 Nói kinh Pháp Hoa này
 Kẻ thức cạn nghe đến
 Mê lầm không hiểu được
 Tất cả hàng Thanh văn
 Cùng với Bích-chi Phật
 Ở trong kinh pháp này
 Sức kia không hiểu được.
 Chính ông Xá-lợi-phất
 Hãy còn nơi kinh này
 Dùng lòng tin đặng vào
 Huống là Thanh văn khác
 Bao nhiêu Thanh văn khác
 Do tin theo lời Phật
 Mà tùy thuận kinh này
 Chẳng phải trí của mình.
GIẢNG :
Phật vì người trí sâu nói kinh Pháp Hoa, bởi hạng người này mới có đủ khả
năng tin nhận. Còn hạng trí cạn hẹp như Thanh văn, Duyên giác thì không thể hiểu.
Chính ngài Xá-lợi-phất đối với kinh Pháp Hoa phải do lòng tin mà vào, huống là
những hàng Thanh văn khác.
29. CHÁNH VĂN :
 *Lại nầy Xá-lợi-phất !
 Kẻ kiêu mạn biếng lười
 Vọng so chấp lấy ngã
 Chớ vì nói kinh này
 Hạng phàm phu biết cạn 
 Quá mê năm món dục
 Nghe pháp không hiểu được
 Cũng chẳng nên vì nói
 Nếu có người không tin
 Khinh hủy chê kinh này
 Thời là dứt tất cả
 Giống Phật ở thế gian.
 Nếu có người xịu mặt
 Mà cưu lòng nghi hoặc
 Ông nên lóng nghe nói
 Tội báo của người đó
 Hoặc Phật còn tại thế
 Hoặc sau khi diệt độ
 Nếu có người chê bai
 Kinh điển như thế nầy
 Thấy có người đọc tụng
 Biên chép, thọ trì kinh
 Rồi khinh tiện ghét ganh
 Mà cưu lòng kết hờn
 Tội báo của người đó
 Ông nay lại lóng nghe
 Người đó khi mạng chung
 Sa vào ngục A-tỳ
 Đầy đủ một kiếp chẵn
 Kiếp mãn hết lại sanh
 Cứ xoay vần như thế
 Nhẫn đến vô số kiếp
 Từ trong địa ngục ra
 Sẽ đọa vào súc sanh,
 Hoặc làm chó, dã can
 Thân thể nó ốm gầy
 Đen điu thêm ghẻ lác
 Bị người thường chọc ghẹo
 Lại còn phải bị người
 Gớm nhờm và ghét rẻ
 Thường ngày đói khát khổ
 Xương thịt đều khô khan
 Lúc sống chịu khổ sở
 Chết bị ném ngói đá
 Vì đoạn mất giống Phật
 Nên thọ tội báo đó
 Hoặc sanh làm lạc đà
 Hoặc sanh vào loài lừa 
 Thân thường mang kéo nặng
 Lại thêm bị đánh đập
 Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ
 Ngoài ra không biết gì
 Vì khinh chê kinh này
 Mà mắc tội như vậy.
 Có khi làm dã can
 Đi vào trong xóm làng
 Thân thể đầy ghẻ lác
 Lại chột hết một mắt
 Bị bọn trẻ nhỏ vây
 Theo đánh đập liệng ném
 Chịu nhiều các đau khổ
 Hoặc có lúc phải chết
 Ở đây vừa chết rồi
 Liền lại thọ thân rắn
 Thân thể nó dài lớn
 Đến năm trăm do-tuần
 Điếc ngây và không chưn
 Lăn lóc đi bằng bụng
 Bị các loài trùng nhỏ
 Cắn rút ăn thịt máu
 Bị khổ cả ngày đêm
 Không tạm có ngừng nghỉ
 Vì khinh chê kinh này
 Mà mắc tội như vậy
 Nếu được sanh làm người
 Các căn đều ám độn
 Lùn xấu lại lệt què
 Đui điếc thêm lưng gù
 Có nói ra lời gì
 Mọi người không tin nhận
 Hơi miệng thường hôi thúi
 Bị quỉ mỵ dựa nhập
 Nghèo cùng rất hèn hạ
 Bị người sai khiến luôn
 Nhiều bịnh, thân ốm gầy
 Không có chỗ cậy nhờ
 Dầu nương gần với người
 Mà người chẳng để ý
 Nếu có đặng điều chi
 Thời liền lại quên mất
 Nếu học qua nghề thuốc 
 Theo đúng phép trị bịnh
 Mà bịnh người nặng thêm
 Hoặc có khi đến chết,
 Nếu tự mình có bệnh
 Không người chữa lành đặng
 Dầu có uống thuốc hay
 Mà bịnh càng thêm nặng
 Hoặc người khác phản nghịch
 Cướp giựt trộm lấy của
 Các tội dường thế đó
 Lại tự mang vạ lây
 Những người tội như đây
 Trọn không thấy được Phật
 Là vua trong hàng Thánh
 Thường nói pháp giáo hóa
 Những người tội như đây
 Thường sanh chỗ hoạn nạn
 Tâm cuồng loạn, tai điếc
 Trọn không nghe pháp được
 Trải qua vô số kiếp
 Như số cát sông Hằng
 Sanh ra liền điếc câm
 Các căn chẳng đầy đủ
 Thường ở trong địa ngục
 Như dạo chơi vườn nhà
 Ở tại ác đạo khác
 Như ở nhà cửa mình
 Lạc đà, lừa, heo, chó
 Là chỗ kia thường đi
 Vì khinh chê kinh này
 Mắc tội dường thế đó
 Nếu đặng sanh làm người
 Điếc, đui, lại câm, ngọng
 Nghèo cùng các tướng suy
 Dùng đó tự trang nghiêm
 Sưng bủng bịnh khô khát
 Ghẻ, lác cùng ung thư
 Các bịnh như trên đó
 Dùng làm y phục mặc
 Thân thể thường hôi hám
 Nhơ nhớp không hề sạch
 Lòng chấp ngã sâu chặt
 Thêm nhiều tánh giận hờn 
 Tình dâm dục hẩy hừng
 Đến chẳng chừa cầm thú
 Vì khinh chê kinh này
 Mắc tội dường thế đó.
GIẢNG :
Người chấp ngã đắm mê dục lạc thế gian, nghe kinh Pháp Hoa họ không tin
lại còn khinh chê làm khuất mờ hạt giống Phật nơi mình, lại còn nói cho người
khác không tin làm mờ khuất hạt giống Phật nơi người. Đó là làm đoạn mất hạt
giống Phật ở thế gian nên mù mịt mê mờ, mặc tình tạo tội rồi mắc quả báo ở địa
ngục. Khi hết quả báo địa ngục còn dư báo làm súc sanh, làm người thì thân thể
tàn tật, đau bịnh, nghèo đói... Tất cả mọi khổ đau đều do không tin và khinh chê
kinh Pháp Hoa, nên mất ánh sáng trí tuệ mà tạo nghiệp ác thọ quả khổ.
30. CHÁNH VĂN :
 *Bảo cho Xá-lợi-phất !
 Người khinh chê kinh này
 Nếu kể nói tội kia
 Cùng kiếp cũng chẳng hết
 Vì bởi nhân duyên đó
 Ta vẫn bảo các ông
 Trong nhóm người vô trí
 Chớ nên nói kinh này
 Nếu có người lợi căn
 Sức trí huệ sáng láng
 Học rộng và nhớ dai
 Lòng mong cầu Phật đạo
 Những hạng người như thế
 Mới nên vì đó nói
 Nếu có người đã từng
 Thấy trăm nghìn ức Phật
 Trồng các cội đức lành
 Thâm tâm rất bền vững
 Hạng người được như thế
 Mới nên vì đó nói
 Nếu có người tinh tấn
 Thường tu tập lòng từ
 Chẳng hề tiếc thân mạng
 Mới nên vì đó nói
 Nếu có người cung kính
 Không có sanh lòng khác
 Lìa xa các phàm ngu
 Ở riêng trong núi chầm
 Những hạng người như thế
 Mới nên vì đó nói 
 Lại Xá-lợi-phất này !
 Nếu thấy có người nào
 Rời bỏ ác tri thức
 Gần gũi bạn hiền lành
 Người được như thế ấy
 Mới nên vì đó nói.
 Nếu thấy hàng Phật tử
 Giữ giới hạnh trong sạch
 Như minh châu sáng sạch
 Ham cầu kinh Đại thừa
 Những người được như thế
 Mới nên vì đó nói.
 Nếu người không lòng giận
 Chắc thiệt ý dịu hòa
 Thường thương xót mọi loài
 Cung kính các đức Phật
 Hạng người tốt như thế
 Mới nên vì đó nói.
 Lại có hàng Phật tử
 Ở tại trong đại chúng
 Thuần dùng lòng thanh tịnh
 Các món nhân cùng duyên
 Thí dụ và lời lẽ
 Nói pháp không chướng ngại
 Những người như thế ấy
 Mới nên vì đó nói.
 Nếu có vị Tỳ-kheo
 Vì cầu Nhứt thiết trí
 Khắp bốn phương cầu pháp
 Chắp tay cung kính thọ
 Chỉ ưa muốn thọ trì
 Kinh điển về Đại thừa
 Nhẫn đến không hề thọ
 Một bài kệ kinh khác
 Hạng người được như thế
 Mới nên vì đó nói.
 Như có người chí tâm
 Cầu xá-lợi của Phật
 Cầu kinh cũng như thế
 Đặng rồi đảnh lễ thọ
 Người đó chẳng còn lại
 Có lòng cầu kinh khác
 Cũng chưa từng nghĩ tưởng 
 Đến sách vở ngoại đạo
 Người được như thế ấy
 Mới nên vì đó nói.
 Bảo cùng Xá-lợi-phất !
 Ta nói các sự tướng
 Của người cầu Phật đạo
 Cùng kiếp cũng chẳng hết
 Những người như thế đó
 Thời có thể tin hiểu
 Ông nên vì họ nói
 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
GIẢNG :
Ở trước, Phật dạy những người khinh mạn lười biếng, trí kém... thì không
nên vì họ mà nói kinh Pháp Hoa, e họ không đủ sức tin, khinh chê rồi tạo tội mắc
quả khổ. Tới đây, Phật dạy đối với những người lợi căn trí sáng, người đã từng
gặp Phật có căn lành với Phật, người tinh tấn thường tu tập lòng từ, người cung
kính nghe lời Phật dạy không chán nhàm luôn ở chỗ vắng vẻ tu hành, người xa
bạn ác gần gũi bạn lành, người giữ giới thanh tịnh cầu pháp Đại thừa, người ít giận
tâm dịu hòa, kính Phật, thương chúng sanh, người có tâm thuần tịnh hay dùng
phương tiện giảng nói kinh pháp, người thọ trì kinh điển Đại thừa, Tỳ-kheo cầu
Nhứt thiết trí, người nghe kinh điển thành tâm kính lễ tu tập, không ưa thích sách
vở ngoại đạo; nên vì những người đó mà nói kinh Pháp Hoa, vì những hạng người
này có khả năng tin thọ.
Chủ yếu của phẩm Thí Dụ là Phật chỉ cho tất cả hàng đệ tử tu theo Thanh
văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa biết rõ ba thừa đó, Phật tùy căn cơ của
chúng sanh mà phương tiện tạm lặp, nên không có thật. Chỗ chân thật cứu kính mà
Phật muốn chỉ là Phật thừa.
Ngoài điểm chủ yếu đã nói, trong phẩm Thí Dụ đức Phật còn nêu lên những
cảnh tượng khổ đau đang bức bách con người trong nhà lửa, để cho người tu Phật
thấy rõ lẽ thực là người vật đang bị lửa vô thường, lửa tam độc thiêu đốt thân tâm.
Thấy được lẽ thực là tỉnh giác, do tỉnh giác mà tiến tu để thoát khỏi lửa thiêu đốt.
Đó là người trí mạnh do tỉnh giác mà được giải thoát. Còn người trí yếu, nhờ nghe
lời Phật dạy, tuy chưa đủ sức tỉnh giác, nhưng tin lời Phật nói là đúng, y theo đó
mà tiến tu, nhờ tiến tu nên cũng được giải thoát. Dụ như trường hợp các con của
ông Trưởng giả tin cha cho ba xe, nên cố gắng chạy ra khỏi nhà lửa. Không bị lửa
vô thường, lửa tam độc chi phối là giải thoát, còn bị lửa vô thường, lửa tam độc
bức bách thì còn trầm luân trong luân hồi sanh tử.
Thông thường giáo lý Phật nói tu đến chỗ viên mãn thì không còn chấp ngã
chấp pháp, nghĩa là không còn thấy thân tâm này là ngã, không còn thấy có pháp
để tu để chứng. Lúc không còn thấy ngã pháp là lúc an trụ Niết-bàn tịch diệt.
Không còn ngã là không còn mình, vậy ai an trụ Niết-bàn? Không còn pháp là
không có Niết-bàn, vậy tu đến chỗ tịch diệt, chỗ tịch diệt đó có phải là hư không 
chăng, vì không người không vật? Nếu tu để trở thành hư không vô tri thì không
nên tu, tu vô ích !
Đó là một vấn đề mà người tu ít ai để ý, cứ tin Niết-bàn là tịch diệt vắng
lặng, không còn gì hết, hiểu như vậy là họa cho người học Phật. Hình ảnh ông
Trưởng giả kêu các con và khi các con ra khỏi nhà lửa, được ông cho xe trâu trắng
mập, đẹp, trang hoàng bằng bảy báu ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự ước mơ của
các con. Cũng vậy, tu đến chỗ không còn bị lửa vô thường, lửa tham sân si thiêu
đốt, đâu phải ngang đó là hết, mà còn cái chân thật không hình tướng, không sanh
diệt, thanh tịnh sáng suốt mầu nhiệm, vượt khỏi tầm hiểu biết suy lường của con
người, nên đức Phật không nói. Vì Phật không nói nên chúng sanh không biết
không tin. Khi xả được kiến chấp về giả ngã và buông được kiến chấp về giả pháp,
mà Phật đã tùy căn cơ của chúng sanh giả lặp thì cái chân thật hiện bày đầy đủ
diệu dụng bất khả tư nghì. Nhiều người học Phật, nghĩ Niết-bàn vắng lặng chắc
buồn lắm vì trống vắng. Còn ngã còn pháp thì mình có cái này được cái kia, khi
tới Niết-bàn thì vô ngã, không có một pháp thì hưởng cái gì ? vui cái gì ? Họ đâu
ngờ chính khi hết vô minh phiền não, thoát khỏi luân hồi sanh tử trong tam giới thì
được tự tại vô ngại, đầy đủ diệu dụng lợi ích chúng sanh. Ví dụ nhà lửa làm sáng
tỏ ý nghĩa này.
Phẩm Thí Dụ còn nói lên rằng: Người đến với đạo Phật mà không tin mình
có Tri kiến Phật, đó là tự hủy hoại tự đoạn dứt căn lành của người, làm mất hạt
giống Phật ở thế gian. Nên biết rõ Tri kiến Phật không rời thân năm uẩn sinh diệt
giả tạm này mà riêng có. Vì vậy, việc tin nhận Tri kiến Phật ở chính mình là việc
rất thực tế, không phải là chuyện mơ hồ viễn vông. Tin nhận Tri kiến Phật ngay
nơi mình thì mới thấy rõ thân năm uẩn giả hợp này là huyễn hóa không thật, nếu ai
mê chấp nó là thật thì trầm luân đau khổ. Thế nên nói tin kinh này thì được vô
lượng trí tuệ công đức; nếu không tin thì mê muội tạo vô số tội ác, chịu quả khổ
cùng cực. Tin là tin mình có giống Phật, nếu tu sẽ được thành Phật, chứ không
phải tin trên ngôn thuyết chữ nghĩa suông. Lý này đến phẩm Thường Bất Khinh
Bồ-tát sẽ thấy rõ hơn.
Qua phẩm Thí Dụ, chúng ta thấy lòng từ của Phật đối với chúng sanh vô
lượng vô biên không ngằn mé. Ngài dùng mọi phương tiện để dẫn dụ giáo hóa cho
chúng sanh mau thoát khỏi nhà lửa Tam giới, được đầy đủ diệu dụng, tiến đến quả
Phật như Ngài mới thôi.
D
PHẨM 4: TÍN GIẢI
Tín là tin, giải là hiểu rõ, tín giải là do giải ngộ mà rõ suốt pháp Phật nên có
niềm tin sâu xa không thối chuyển. Nếu nương lời Phật dạy tin suông mà không
giải ngộ, hoặc tin hiểu một cách cạn cợt thì chưa gọi là tín giải đối với pháp mà
Phật muốn chỉ. Sau khi đức Phật chỉ rõ nơi mỗi chúng sanh có Tri kiến Phật, tức là
mỗi người đã có sẵn Phật nhân, nếu tu sẽ thành Phật quả. Các bậc A-la-hán đệ tử
Phật như ngài Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên v.v... nghe Phật nói pháp được giải
ngộ, các Ngài không còn kẹt ở quả vị Thanh văn nữa, do tin hiểu thâm sâu nên các
Ngài trình sở ngộ lên đức Phật và sẽ được Phật thọ ký cho. Sự kiện này giống như
Thiền tông trình kiến giải và được ấn chứng.
1. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, các ngài Huệ Mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên, Đại Cadiếp,
Đại Mục-kiền- liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn
dự ghi cho ngài Xá-lợi-phất sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sanh
lòng hi hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai
hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chắp tay cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung
nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: “Chúng con ở đầu trong hàng tăng, đều lụn
tuổi già, tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu
thêm đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi tòa
thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các
pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-tát, lòng
chúng con không ưa thích.
Vì sao ? Đức Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi đặng chứng Niết-bàn,
lại nay đây chúng con tuổi đã già nua, ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác của Phật dạy Bồ-tát không hề sanh một niệm ưa thích.
Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn sẽ đặng Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, lòng rất vui mừng đặng pháp chưa từng có, chẳng
ngờ hôm nay bỗng nhiên đặng pháp hi hữu, tự rất mừng may đặng lợi lành lớn, vô
lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự đặng.
GIẢNG :
Trong pháp hội Phật, ngài Xá-lợi-phất là bậc đại căn đại trí, nên khi Phật
nói phẩm Phương Tiện Ngài liền thấy rõ bản hoài của Phật và nhận ra nơi mình có
Tri kiến Phật. Ngang đó Ngài trình sở ngộ, được Phật ấn chứng và thọ ký cho sau
này sẽ thành Phật. Còn các vị A-la-hán trưởng lão như Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiêndiên
v.v...thuộc hàng trung căn tuy đã nghe Phật giải nói cái nào là phương tiện,
cái nào là cứu kính vẫn chưa dám tin nhận. Đến khi Phật nêu ví dụ rõ ràng, các
Ngài mới thấy rằng ban đầu được Phật dạy pháp Tiểu thừa, các Ngài tu chứng
Niết-bàn Thanh văn. Nhưng nay Phật nói quả vị rốt ráo là quả Phật, quả Thanh
văn chỉ là giả lặp, không phải cứu kính. Các Ngài lãnh hội được lý này và chứng 
kiến ngài Xá-lợi-phất trình sở ngộ được Phật thọ ký, nên vui mừng đứng lên chiêm
ngưỡng dung nhan Phật và nói lên tâm trạng của mình rằng: “Đức Thế Tôn thuở
trước nói pháp đã lâu lúc đó chúng con ngồi nơi tòa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ
ba pháp: Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi
nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-tát, lòng chúng con không ưa thích.” Vì
các Ngài đã già và đã chứng được Niết-bàn Thanh văn rồi, nên đối với đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác các Ngài không hề nghĩ tới. Nay nghe Phật thọ ký
hàng Thanh văn sẽ được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các Ngài vui
mừng vì bất ngờ mà được của báu, thật hi hữu.
Qua đoạn này chúng ta thấy tâm nguyện của Thanh văn khác với tâm
nguyện của Bồ-tát. Các vị Thanh văn tuổi già, ngồi nghe pháp lâu sinh mỏi mệt,
nên không muốn nhớ nhiều chỉ nhớ có ba điều: Không, Vô tướng, Vô tác là ba
môn giải thoát. Khi tu dừng hết mọi vọng tưởng, sạch hết kiết sử gọi đó là Không.
Vì không còn vọng tưởng, không còn kiết sử, tâm vắng lặng không hình tướng nên
nói là Vô tướng. Bởi không có hình tướng nên không có động tác nói là vô tác.
Vậy, không, vô tướng, vô tác là ba cửa giải thoát của hàng Nhị thừa. Hàng Thanh
văn do nhận được lý ấy mà thoát ly sanh tử. Đó là đứng trên pháp vô vi mà nói.
Nếu nhìn trên tướng hữu vi thì các pháp do duyên hợp tạm có các tướng, nhưng
không có tự tánh cố định, nó chỉ là giả tướng không thật nên nói là vô tướng. Vì
trên tánh không, nó không có tạo tác, vì tạo tác là tướng của duyên, nên nói là vô
tác. Hàng Thanh văn lấy làm hài lòng ở ba món giải thoát này, cho đó là đã đủ,
không khởi nguyện làm lợi ích chúng sanh. Nên đối với pháp du hí thần thông
tam-muội, tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sanh thì các Ngài không ưa thích.
Thế nào là du hí thần thông tam-muội ? Bồ-tát khi đạt lý tất cả pháp duyên
khởi tánh không, bởi tánh không nên duyên hợp tạm có, có mà có trong hư giả
huyễn hóa. Bởi huyễn hóa nên Bồ-tát lấy thân như huyễn độ hữu tình như huyễn,
khi làm việc độ sinh không thấy có khổ, vì không còn thấy ta là người giáo hóa,
chúng sanh là người được độ, do không chấp ta không chấp người nên không khổ.
Hằng ra vào trong ba cõi để độ sanh, tâm an vui không buồn không khổ nên gọi là
du hí thần thông tam-muội, đó là tâm hạnh của Bồ-tát. Còn tâm hạnh phàm tăng
của chúng ta ngày nay làm cái gì là kẹt cái nấy, tới đâu là dính đó, do ngã chấp
chưa buông, nên ngay khi độ sinh là khởi phiền não. Vì vậy mà không được thần
thông du hí tam-muội. Hàng Bồ-tát được du hí tam-muội, nên các Ngài hằng tịnh
cõi nước Phật bằng cách ra vào trong ba cõi để giáo hóa chúng sanh, chuyển
nghiệp xấu thành nghiệp tốt, nhiều đời nhiều kiếp làm mãi mãi mà không chán. Do
thấy thân như huyễn, dù có bỏ thân huyễn mộng này trăm ngàn lần cũng chỉ là trò
chơi, nên ra vào ba cõi cũng như đi du hí không sợ. Đến khi công hạnh viên mãn
thì Bồ-tát thành Phật. Cõi nước của Ngài có vô số quyến thuộc là Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-tát đồng duyên, đồng phước qui hội về, gọi là tịnh Phật quốc độ.
Hàng Thanh văn an trụ trong Niết-bàn tịch tịnh, không khởi nguyện độ sanh, vì sợ
khởi nguyện là khởi nhân phiền não, nên các Ngài chìm lặng mãi trong Niết-bàn
tịch tịnh. Nhưng nay nghe Phật thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Phật thì các 
Ngài vui mừng, thấy rằng bỗng nhiên được của báu, điều mà các Ngài không bao
giờ nghĩ tới.
2. CHÁNH VĂN :
*Thế Tôn ! Chúng con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó.
Thí như có người tuổi còn thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác,
hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo
cùng khốn khổ, rong ruỗi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ
trở về bổn quốc.
Người cha từ trước đến nay, tìm con không đặng bèn ở lại tại một thành
trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly,
san hô, hổ phách, pha lê, châu v.v...thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất
đông, voi, ngựa, xe cộ, bò, dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước
khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.
Bấy giờ, gã nghèo cùng kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi
đến nơi thành của người cha ở.
Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn
chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn. Ông tự
nghĩ, nhà có nhiều của cải, vàng bạc trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái,
một mai mà chết mất thời của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần
luôn nhớ đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp đặng con, ủy phó của cải, thản nhiên
khoái lạc không còn sầu lo.
GIẢNG :
Chúng sanh đi trên con đường lầm mê, giống hệt như gã cùng tử thơ bé bỏ
cha mẹ đi hoang đến xứ người. Trải qua thời gian dài từ mười năm tới năm mươi
năm, vì nghèo cùng khốn khổ nên rong ruổi bốn phương tìm cầu sự ăn mặc, đi lần
lần tình cờ trở về bổn quốc. Đó là tâm trạng của chúng sanh ở giai đoạn bối giác
hiệp trần. Tự mình có sẵn tánh Giác, đầy đủ công đức mà quên, nên đi lang thang
trong lục đạo luân hồi, không biết bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Bấy giờ bỗng
nhiên gặp duyên tốt thức tỉnh cạo tóc xuất gia. Tuy xuất gia mà không nghĩ mình
sẽ thành Phật, vì quả Phật quá cao siêu, đòi hỏi phải tích lũy vô lượng vô biên
công đức, trải qua thời gian lâu dài, e mình không kham nổi, nên không bao giờ
dám nghĩ tu để thành Phật. Tu không phải một đời là thành Phật, mà phải trải qua
nhiều đời nhiều kiếp gạn lọc phiền não, tích lũy công đức. Song, tập khí phiền não
đâu phải một lần buông là hết, công quả lợi sinh đâu phải làm đôi ba việc là đủ. Vì
vậy, phải siêng năng cần mẫn, không ngại gian lao khó nhọc tự mình tiến tu và
làm lợi ích cho mọi người, thì khả dĩ tiến được từng bước trên con đường đi đến
quả Phật. Nếu nhút nhát yếu hèn sợ lao nhọc khó khổ thì đã đi ngược đường mà
Phật đã đi rồi ! Có lắm người tưởng vô chùa tu là thảnh thơi nhàn hạ, nhưng không
ngờ vô chùa phải thức khuya dậy sớm để tu học, lại còn phải chấp tác vất vả khổ
cực bao nhiêu năm trường. Chẳng những nhiều năm, mà là nhiều đời nhiều kiếp
mới thành Phật. Vì lý do đó nên sanh tâm lười mỏi thối chuyển không muốn tu
nữa. Như vậy là người tu chấp nhận làm đứa con đi hoang nghèo khổ lang thang
nơi này chốn nọ, để ăn mày ăn xin, chớ không chịu làm con Trưởng giả thừa kế sự
nghiệp sang giàu của cha, để cho mọi người nương nhờ. Thật là điều đáng tiếc !
Con tuy bỏ cha đi hoang, nhưng cha lúc nào cũng nghĩ đến con. Nghĩa là chúng
sanh mê, quên tánh Giác có sẵn nơi mình nên tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử,
còn tánh Giác lúc nào cũng sẵn có nơi mỗi chúng sanh không hề thiếu mất.
3. CHÁNH VĂN :
*Thưa Thế Tôn ! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ
đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu
đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, cư sĩ đều cung kính bao quanh. Trên
thân ông đó dùng chuỗi ngọc chân châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại
dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan
đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày,
phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, oai đức rất tôn
trọng.
Gã cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối hận về việc đến
nhà nầy, nó thầm nghĩ rằng: “Ông này chắc là vua hoặc là bậc đồng vua, chẳng
phải là chỗ của ta làm thuê mướn đặng tiền vật.
Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức để đặng đồ mặc vật
ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm.” Gã nghĩ như
thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.
GIẢNG :
Gã cùng tử về đến nhà, thấy ông Trưởng giả giàu sang quá, hoảng hốt hãi
kinh không dám nhìn cha, bèn bỏ chạy trốn kiếm chỗ nghèo hèn để mưu cầu ăn
mặc. Cũng giống như chúng ta phát tâm cắt tóc xuất gia mà không dám nghĩ mình
tu sẽ thành Phật, mặc dù hằng đêm miệng đọc tụng: “Ngã kim phát tâm bất vị tự
cầu nhân thiên phước báo, Thanh văn, Duyên giác nãi chí quyền thừa chư vị Bồ-
tát. Duy y tối thượng thừa phát Bồ-đề tâm. Nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhứt
thời đồng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.” Như thế mà khi tu không dám
nghĩ mình sẽ thành Phật. Vì sợ tu khó khổ, sợ độ sanh nhọc nhằn, sợ trải qua trăm
ngàn kiếp quá lâu ! Người tu phát nguyện lớn, ngoài việc tu tỉnh nơi mình còn
phải lăn xả vào đời để giác ngộ cho chúng sanh đời đời kiếp kiếp, không biết mỏi
mệt. Nếu đời này tu ít chục năm mà đã ngao ngán mệt mỏi thối lui, như vậy không
phải hạnh nguyện của Bồ-tát.
Tới đây chắc có nhiều vị sẽ đặt vấn đề với tôi: Thầy nói vậy, tại sao Thầy
dự định năm tới sẽ nghỉ dạy ? Có phải là Thầy đã thối Bồ-đề tâm và muốn qui tịch
không ? Như quí vị đã biết đối với người thực hành Bồ-tát đạo phải tu từ Thập
tín ... đến Thập địa, đến Đẳng giác, Diệu giác và thành Phật. Muốn thành Phật thì
phần tự giác và giác tha phải viên mãn. Nhưng riêng tôi thì những gì tôi tu tôi
nhận biết đã nói hết cho quí vị nghe rồi, nếu nói nữa chỉ là việc lặp lại mà thôi,
chứ không có gì mới mẻ. Tôi cần phải nghỉ để nỗ lực tu thêm, nếu có phát minh
được điều gì mới lạ thì sẽ nói cho quí vị nghe, còn nếu chết thì tôi cũng đi trước
quí vị được năm mười bước. Việc thầy tới đâu, trò tới đó thì có gì để học ? Vì
muốn cho mọi người đều được tiến không dừng thì bổn phận người hướng dẫn
phải đi trước. Việc tôi nghỉ dạy không phải là thối tịch ẩn trốn, mà tôi tự thấy rằng 
chỗ giác ngộ của tôi chưa viên mãn, nên phải nghỉ dạy để có thì giờ nỗ lực tiến tu.
Nếu đời này hướng dẫn quí vị không kịp thì đời sau tiếp tục làm nữa, cho đến viên
mãn mới thôi. Tôi không chấp nhận: “Thầy trò chỉ tiến một đoạn, rồi ngang đó
dừng nghỉ không chịu tiến nữa.”
4. CHÁNH VĂN :
*Khi đó, ông Trưởng giả ngồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất
vui mừng mà tự nghĩ rằng: “Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi,
ta thường nghĩ nhớ đứa con nầy làm sao gặp đặng, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ
muốn của ta, ta dầu tuổi già vẫn còn tham tiếc.” Ông liền sai người hầu cận đuổi
gấp theo bắt lại.
Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu
xưng, oan: “Tôi không hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt ?” Kẻ sứ giả bắt đó càng
gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây
chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất.
 Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng: “Không cần người đó,
chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với
nó.”
Vì sao ? Cha biết con mình chí ý hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm khiếp
sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác
biết là con mình. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: “Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý.”
Gã cùng tử vui mừng đặng điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua
đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.
GIẢNG :
Đã từ lâu, ông Trưởng giả tiếc sự nghiệp, mong có người thừa kế nay biết
con mình đã về, nên yên lòng có người giao phó sự nghiệp. Nhưng gã cùng tử về
tới cửa thấy cha quá giàu sang oai quyền, nên khiếp sợ bỏ chạy tới chỗ nghèo hèn
mà nương náu. Khi bị sứ giả ví bắt gấp thì kinh sợ ngất xỉu, ông bảo thả ra lấy
nước rảy cho tỉnh lại.
Ở đây nói ông Trưởng giả tham tiếc, là tham tiếc kho báu Trí tuệ Phật chưa
có người truyền trao, chớ không phải tham tiếc tiền của vật chất thế gian. Tâm
trạng gã cùng tử giống như tâm trạng người tu chúng ta ở giai đoạn mới vào đạo,
học chút ít kinh điển, nghe nói muốn thành Phật thì phải trải qua vô số kiếp hành
Bồ-tát đạo, tu Lục độ ba-la-mật nào là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn... Bố thí
ba-la-mật thì không thấy có người thí, không thấy có kẻ thọ thí và không thấy có
vật đem ra bố thí. Bố thí mà không có mình, không có người, không có vật làm
sao làm ? Khó quá ! Bèn thối Bồ-đề tâm, hoàn tục sống làm lành lánh dữ để có
chút phước đời sau hưởng. Chính vì tâm hạ liệt ấy, nên Phật phải dùng phương
tiện an ủi, dắt dẫn từ từ.
 5. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ ông Trưởng giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước
phương tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tụy không có oai đức: “Hai người nên
qua xóm kia từ từ nói với gã cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng
tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì ? Thời nên 
nói với nó rằng: “Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung
nhau làm.” Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên.
*Bấy giờ gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy
con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm
o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cổi chuỗi ngọc, áo tốt
mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt
cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: “Các ngươi phải
siêng làm việc chớ nên lười nghỉ.” Dùng phương tiện đó đặng đến gần người con.
Lúc sau lại bảo con rằng: “Gã nam tử này ! Ngươi thường làm ở đây đừng
lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi. Những đồ cần dùng như loại bồn,
chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu
cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo.
Vì sao ? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong
lúc làm việc, không lòng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy
ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như
con đẻ của ta.” Tức thời Trưởng giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là “con”.
Khi đó gã cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là
khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt
phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng
vẫn nguyên chỗ cũ.
GIẢNG :
Gã cùng tử khi gặp cha mà không dám nhận hoảng kinh bỏ chạy. Ông
Trưởng giả ngầm sai hai người làm công có thân hình tiều tụy quê xấu, đến dụ dẫn
cùng tử về nhà ông để hốt phân dọn dẹp cho nhà cửa sạch sẽ. Cùng tử nghe nói
việc hợp với khả năng mình nên nhận làm. Nhân khi đó, ông mới hóa trang ăn mặc
dơ xấu để gần gũi an ủi dụ dẫn cho con biết việc nhà và coi ông như cha.
Nghề hốt phân ngầm dụ cho công phu tu hành tẩy trừ vô minh, ba độc cấu
uế. Vô minh cấu uế sạch rồi mới chứng A-la-hán. Các vị tu Thanh văn thường
hành hạnh đầu đà, mặc y bằng vải vụn kết lại nên thô xấu, ăn thì ai cho gì dùng
nấy, ở dưới cội cây, sống kham khổ nên thân hình gầy ốm. Ngược lại chúng ta
nhìn tượng của các Bồ-tát thì vị nào cũng to mập, ăn mặc sang trọng vui tươi. Qua
hai hình ảnh đó chúng ta thấy hạnh Thanh văn tu thì phải cần khổ, nỗ lực tư duy
thiền quán để diệt trừ phiền não ngay trong kiếp này, không muốn tái sanh lại nữa.
Còn Bồ-tát được Trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp như huyễn, nên tùy duyên ứng hóa,
không sợ sanh tử, không cầu Niết-bàn. Thể theo hạnh nguyện, các Ngài hiện thân
hợp với sở thích của chúng sanh, để gần gũi thân cận mà giáo hóa làm lợi ích cho
họ.
Vì tâm hạ liệt của chúng sanh không kham nhận được pháp lớn, nên sau khi
Phật thành đạo ở dưới cội Bồ-đề, Ngài suy gẫm nếu đem chỗ chứng ngộ của Ngài
ra giảng nói, e chúng sanh không tin nổi, nên Ngài mới phương tiện nói Tứ đế là
thời pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Trước hết chỉ cho chúng sanh thấy sanh già
bệnh chết là khổ; kế đó chỉ cho tập nhân gây ra khổ đau là tham sân si... vô minh
phiền não; tiếp theo là nêu bày cảnh giới an vui sau khi đã diệt hết vô minh phiền 
não; sau cùng là dạy cho phương pháp đoạn diệt vô minh phiền não. Đây là hình
ảnh của ông Trưởng giả cởi hết châu ngọc trang sức, mặc y phục thô xấu, cầm đồ
hốt phân đến gần cùng tử để an ủi vỗ về và bảo coi ông như cha, những vật dụng
có sẵn trong nhà cứ tự nhiên lấy dùng. Gã cùng tử được ông Trưởng giả coi như
con, nhưng chưa dám nhận mình là con Trưởng giả. Cũng vậy, tuy hàng Thanh
văn tu học theo pháp Phật dạy, nhưng chưa dám tin mình tu sẽ được thành Phật.
6. CHÁNH VĂN :
*Thế Tôn ! Bấy giờ Trưởng giả có bịnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết
mới bảo cùng tử rằng: “Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy,
trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng, ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế,
ngươi nên thể theo ý ta.
Vì sao ? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để
sót mất.”
Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo, lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân báu
và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã
ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.
GIẢNG :
Gã cùng tử theo lời yêu cầu của ông Trưởng giả, nhận quản lý kho báu
trong nhà nhưng vẫn còn ở ngoài hành lang và chưa dám nghĩ mình có phần trong
đó. Cũng vậy, hiện tại nhiều người tu nghe kinh nói mỗi chúng sanh ai cũng có
Phật tánh, Bồ-tát tu lục độ vạn hạnh viên mãn thì sẽ thành Phật. Nghe như vậy rồi
khi ra giảng nói cũng giảng nói như vậy. Nhưng trong thâm tâm chỉ mong đời này
mình tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm là được rồi, chớ không dám nghĩ
mình có thể thực hiện được hạnh Bồ-tát.
7. CHÁNH VĂN :
*Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn,
tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc,
quốc vương, quan đại thần, dòng Sát-lợi, hàng cư sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền
tự tuyên rằng: “Các Ngài nên rõ, người nầy là con ta, của ta sanh ra, ngày trước
trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy,
còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp
được nó. Nó thiệt là con ta, ta thiệt là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải,
đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết.”
Thế Tôn ! Khi đó gã cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được
điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: “Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng
báu này tự nhiên mà đến.”
GIẢNG :
Khi thấy con mình có trí khôn đủ khả năng quản lý gia sản, ông Trưởng giả
bèn họp tất cả thân tộc lại tuyên bố gã cùng tử chính là con ruột của ông, sự
nghiệp của ông chính là sự nghiệp của con ông. Gã cùng tử không có lòng mong
cầu mà nay bất ngờ được kho báu, nên rất vui mừng được điều chưa từng có. Ví 
dụ này nói lên tâm trạng vui mừng bất ngờ của hàng đệ tử Thanh văn khi nhận ra
Tri kiến Phật.
8. CHÁNH VĂN :
*Thế Tôn ! Ông phú Trưởng giả đó là đức Như Lai, còn chúng con đều
giống như con của Phật. Đức Như Lai thường nói chúng con là con.
Thưa Thế Tôn ! Chúng con vì ba món khổ nên ở trong sanh tử chịu các sự
đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp Tiểu thừa. Ngày nay đức Thế
Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hý luận. Chúng
con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Đã được
đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: “Ở trong pháp của Phật, do
siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều.”
Nhưng đức Thế Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi
pháp Tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ, chẳng vì phân biệt rằng: Các ông
sẽ có phần bửu tàng Tri kiến của Như Lai.
Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như Lai. Chúng
con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày cho là được nhiều rồi, đối với pháp Đại
thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ-tát
mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.
Vì sao ? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp Tiểu thừa, nên dùng sức
phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là
Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật không
có lẫn tiếc.
Vì sao ? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp Tiểu
thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại thừa thời Phật vì chúng con mà nói pháp Đại
thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp Nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-tát
chê trách Thanh văn ham pháp Tiểu thừa.
Nhưng đức Phật thiệt dùng Đại thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng con nói
vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp vương tự nhiên đến,
như chỗ nên được của Phật tử đều đã được đó.
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ này: Ông phú Trưởng giả đó là đức
Như Lai, cùng tử là hàng Thanh văn, là con của Phật. Ngài nêu lên ba món khổ
làm chướng đạo Bồ-đề là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Khổ khổ là ngay nơi thân
tâm con người bị lửa vô thường, lửa tham sân si thiêu đốt làm cho đau khổ, lại còn
bị ngoại cảnh như thiên tai, binh biến, nghèo đói... chồng chất thêm một lớp khổ
nữa gọi là khổ khổ. Hoại khổ là thân con người từng sát-na mọi tế bào sanh diệt...
vừa thấy tóc xanh, thoáng chốc đã bạc đầu, da nhăn, răng rụng, mắt mờ, tai điếc...
đó là hoại khổ. Hành khổ là sự biến dịch đổi thay nơi con người đưa đến sự già
chết. Hành khổ còn chỉ cho hành nghiệp dẫn dắt thần thức đi thọ thân năm ấm,
chịu luật vô thường chi phối nên khổ đau.
Các bậc Thanh văn do nhận ra ba cái khổ này nên quyết tâm cầu thoát ly
sanh tử, bằng cách thích tu pháp Tứ đế để chứng Niết-bàn. Vì vậy khi nghe lời
Phật dạy, các Ngài lo dọn trừ những phân dơ hí luận, tức là tránh xa các lối hí luận 
suông để vui cười, không giúp cho người nghe thấy được đạo. Bởi dẹp hết hí luận,
nên sạch hết nhiễm trước, do sạch hết nhiễm trước được chứng Niết-bàn. Niết-bàn
này chỉ có giá trị bằng một ngày ! Niết-bàn là vô sanh, đã là vô sanh thì không lệ
thuộc thời gian tại sao nói giá trị bằng một ngày ? Do tu nên vọng tưởng dừng lặng,
khi vọng tưởng dừng lặng cho đó là vô sanh, là Niết-bàn. Niết-bàn đó là trạng thái
dừng lặng của vọng tưởng, chưa phải là Niết-bàn chân thật. Nếu tu mà nhận được
Tri kiến Phật nơi chính mình chưa từng sanh chưa từng diệt mới là Niết-bàn chân
thật cứu cánh. Còn Niết-bàn do dừng vọng tưởng, tâm vắng lặng mà không nhận
ra thực thể của chính mình, nên ở đây kinh nói giá trị một ngày.
Thí dụ tọa thiền trụ tâm vào một cảnh, chẳng hạn như quán thân bất tịnh,
dồn hết tâm lực quán sát, thân này là ô uế bất tịnh, lúc nào cũng thấy hình hài này
là bất tịnh, không có một niệm khác dấy khởi thì tâm được định. Tuy nhiên, tâm
chỉ định trong thời gian quán chiếu, khi hết quán thì tâm hết định. Còn định của
Đại thừa là nhận ra Tri kiến Phật có sẵn nơi mình, mà Tri kiến Phật thì hằng hữu,
bất động, nên đi đứng nằm ngồi, bửa củi, nấu cơm, không lúc nào thiếu vắng.
Hằng sống với Tri kiến Phật thì không có loạn tưởng, không loạn tưởng là định.
Định này không xuất không nhập, nên nói là Đại định, là Niết-bàn viên mãn.
Ngài Ma-ha Ca-diếp thật thà lặp lại rằng Phật có nêu Tri kiến Phật nhưng
các Ngài đã được Niết-bàn Thanh văn nên lấy làm hài lòng, không cầu pháp Đại
thừa. Tới đây có điều chúng ta lấy làm lạ là các ngài Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Mụckiền-liên,
Tu-bồ-đề… khi nói pháp cho hội chúng nghe thì các Ngài cũng nói pháp
Đại thừa. Tại sao các Ngài không thích và không cầu pháp Đại thừa, mà lại giảng
nói pháp Đại thừa ?
Nhân vì các Ngài quen nghe Phật khen ngợi pháp Đại thừa, nên có người
cần cầu pháp Đại thừa thì các Ngài cũng nói nói để cho người nghe, chớ các Ngài
không mong cầu. Nếu có người hỏi về hạnh của Bồ-tát phải tu Lục độ ba-la-mật
như thế nào, thì các Ngài biết liền chỉ dạy cho người tu, nhưng chính các Ngài thì
không ham thích pháp tu của Bồ-tát. Hiện nay chúng ta tu có vấp phải lỗi này
không ? Thí dụ trong giới xuất gia, có người tới học đạo, hỏi: Làm thế nào để diệt
tham sân si ? Các vị trả lời rất rành rẽ, muốn hết tham phải tu hạnh bố thí, muốn
đoạn trừ sân phải tu hạnh từ bi nhẫn nhục, muốn dứt sạch si mê phải quán 12 nhân
duyên, hay giới phân biệt quán. Giải thích bố thí phải bố thí như thế nào, Quán từ
bi phải quán ra sao, Quán 12 nhân duyên hay giới phân biệt quán thì phải quán
như thế nào. Giải thích một cách rõ ràng tường tận. Nhưng chính bản thân mình
khi đối duyên xúc cảnh thì vẫn tham, vẫn sân, vẫn si. Như vậy là sao ? Vì người
mong cầu muốn dứt trừ tham sân si, được chúng ta hướng dẫn thì họ nỗ lực tu
hành. Còn chúng ta nhờ nghe học nên hiểu biết, nhưng lòng chưa thiết tha loại bỏ
nên không tu, tham sân si vẫn còn nguyên vẹn.
Nhiều khi tôi thấy hơi buồn và hổ thẹn. Phật tử ở thế gian, gặp những hoàn
cảnh bất như ý phiền não, vào chùa nhờ các thầy các cô giảng dạy, cứu cho họ bớt
buồn khổ. Lúc đó các thầy các cô dạy lý thuyết nghe cũng hay lắm. Nhưng rồi mai
kia các thầy các cô phiền não thì Phật tử an ủi lại ! Như vậy là sao ? Ai dạy ai ?
Nếu chúng ta là người có trách nhiệm đi trước, điều gì chúng ta dạy cho người thì 
điều đó chúng ta phải làm được, nếu chúng ta làm chưa được viên mãn thì chúng
ta cũng làm được đôi phần. Đã làm được đôi phần thì khả dĩ không hổ thẹn. Điều
mình làm không được mà đem ra dạy người, đó chỉ là lý thuyết suông không đem
lợi ích cho ai cả.
Đức Phật thuận theo tâm nguyện của các đệ tử, dùng sức phương tiện
hướng dẫn cho các đệ tử biết rằng mình là con của Phật. Khi thấy công hạnh đệ tử
gần viên mãn thì Phật liền trao truyền sự nghiệp cho, điều mà hàng Thanh văn đệ
tử Phật chưa bao giờ nghĩ tới, không có tâm mong cầu, ngoài sức tưởng tượng của
các Ngài. Đây là lòng chân thành sau khi thấy đạo, các Ngài nói lên chỗ hi hữu
của mình để đức Phật chứng minh.
9. CHÁNH VĂN :
Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Chúng con ngày hôm nay
 Nghe âm giáo của Phật
 Lòng hớn hở mừng rỡ
 Được pháp chưa từng có
 Phật nói hàng Thanh văn
 Sẽ được thành quả Phật
 Đống châu báu vô thượng
 Chẳng cầu tự nhiên được
 Ví như gã đồng tử
 Thơ bé không hiểu biết
 Bỏ cha trốn chạy đi
 Đến cõi nước xa khác
 Nổi trôi khắp nước ngoài
 Hơn năm mươi năm dài
 Cha gã lòng buồn nhớ
 Kiếm tìm khắp bốn phương
 Kiếm tìm đó đã mỏi
 Liền ở lại một thành
 Xây dựng nên nhà cửa
 Năm món dục tự vui
 Nhà ông giàu có lớn
 Nhiều những kho vàng, bạc
 Xa cừ, ngọc mã não
 Chân châu, ngọc lưu ly
 Voi ngựa cùng trâu dê
 Kiệu, cáng, đủ xe cộ
 Ruộng đất và tôi tớ
 Nhân dân rất đông nhiều
 Xuất nhập thâu lời lãi
 Bèn khắp đến nước khác
 Khách thương người buôn bán 
 Không xứ nào không có,
 Nghìn muôn ức chúng hội
 Vây quanh cung kính ông,
 Thường được bậc vua chúa
 Mến yêu nhớ tưởng đến
 Các quan, hạng hào tộc
 Đều cũng đồng tôn trọng.
 Vì có các sự duyên
 Người đến lui rất đông
 Giàu mạnh như thế đó
 Có thế lực rất lớn
 Mà tuổi đã già nua
 Lại càng buồn nhớ con
 Ngày đêm luống suy nghĩ
 Giờ chết toan sắp đến
 Con thơ dại bỏ ta
 Hơn năm mươi năm tròn
 Các của vật kho tàng
 Sẽ phải làm thế nào ?
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Ca-diếp lặp lại ý trên là nghe Phật nói hàng Thanh văn sẽ được
thành Phật, các Ngài vui mừng bất ngờ được của báu chưa từng có. Ví như gã
cùng tử khờ dại bỏ cha đi lang thang trong thời gian năm mươi năm. Ông Trưởng
giả là người giàu có lớn, có rất nhiều ngọc ngà châu báu, xe, ngựa, ông là người có
nhiều uy tín được vua quan cho đến thứ dân đều tôn trọng cung kính. Ngày càng
lớn tuổi, ông nhớ trông con về để ủy thác tài sản sự nghiệp.
10. CHÁNH VĂN :
 *Bây giờ gã cùng tử
 Đi tìm cầu ăn mặc
 Ấp này đến ấp khác
 Nước này sang nước nọ,
 Hoặc có khi được của
 Hoặc có lúc không được,
 Đói thiếu hình gầy gò
 Thân thể sanh ghẻ lác
 Lần lựa đi trải qua
 Đến thành cha gã ở
 Xoay vần làm thuê mướn
 Bèn đến trước nhà cha
 Lúc ấy ông Trưởng giả
 Đang ở trong nhà ông
 Giăng màn châu báu lớn
 Ngồi tòa sư tử cao 
 Hàng quyến thuộc vây quanh
 Đông người đứng hầu hạ
 Hoặc có người tính toán
 Vàng, bạc, cùng vật báu
 Của cải ra hoặc vào
 Biên chép ghi giấy tờ
 Gã cùng tử thấy cha
 Quá mạnh giàu tôn nghiêm
 Cho là vị quốc vương
 Hoặc là đồng bậc vua
 Kinh sợ tự trách thầm
 Tại sao lại đến đây ?
 Lại thầm tự nghĩ rằng:
 Nếu ta đứng đây lâu
 Hoặc sẽ bị bức ngặt
 Ép buộc sai khiến làm.
 Suy nghĩ thế đó rồi
 Rảo chạy mà đi thẳng
 Hỏi thăm xóm nghèo nàn
 Muốn qua làm thuê mướn.
GIẢNG :
Gã cùng tử nghèo đói thân hình tiều tụy lang thang khắp nơi để mưu cầu sự
ăn mặc rất gian nan khốn khổ. Một hôm tình cờ trở về cố hương, gặp lại cha già
đang ngồi trên tòa báu, có quyến thuộc đông đảo, kẻ hầu hạ, người xuất nhập của
cải, kẻ biên chép giấy tờ... có vẻ tôn nghiêm giàu mạnh. Gã cùng tử tự thấy mình
lạc loài, tự trách mình sao đến chỗ này, e ngại sẽ bị bắt làm không công, hoặc bị
giết. Nên hối hận rồi bỏ chạy đi nơi khác. Tâm trạng gã cùng tử giống như chúng
ta, nhiều đời đi lang thang trong sáu nẻo luân hồi quá ư khốn khổ, chợt thức tỉnh
cầu đạo giải thoát. Nhưng khi tìm đến với đạo, học hiểu chút ít thấy việc thành đạo
khó quá sanh nản lòng thối lui không muốn tiến nữa.
11. CHÁNH VĂN :
 *Lúc bấy giờ Trưởng giả
 Ngồi trên tòa sư tử
 Xa trông thấy con mình
 Thầm lặng mà ghi nhớ,
 Ông liền bảo kẻ sứ
 Đuổi theo bắt đem về.
 Gã cùng tử sợ kêu
 Mê ngất ngã trên đất,
 Người này theo bắt tôi
 Chắc sẽ bị giết chết,
 Cần gì đồ ăn mặc
 Khiến tôi đến thế này ! 
 Trưởng giả biết con mình
 Ngu dại lòng hẹp hèn
 Chẳng chịu tin lời ta
 Chẳng tin ta là cha
 Ông liền dùng phương tiện
 Lại sai hai người khác
 Mắt chột, thân lùn xấu
 Hạng không có oai đức !
 Các người nên bảo nó
 Rằng ta sẽ thuê nó
 Hốt dọn các phân nhơ
 Trả giá bội cho nó.
 Gã cùng tử nghe rồi
 Vui mừng theo sứ về
 Vì dọn các phân nhơ
 Sạch sẽ các phòng nhà.
 Trưởng giả trong cửa sổ
 Thường ngó thấy con mình
 Nghĩ con mình ngu dại
 Ưa thích làm việc hèn
 Lúc đó ông Trưởng giả
 Mặc y phục cũ rách
 Tay cầm đồ hốt phân
 Qua đến chỗ con làm
 Phương tiện lần gần gũi
 Bảo rằng: Rán siêng làm !
 Đã thêm giá cho ngươi
 Và cho dầu xoa chưn
 Đồ ăn uống đầy đủ
 Thêm đệm chiếu dầy ấm
 Cặn kẽ nói thế nầy:
 Ngươi nên siêng làm việc !
 Rồi lại dịu dàng bảo
 Như con thiệt của ta.
GIẢNG :
Ông Trưởng giả thấy con bỏ chạy, nên sai người đuổi theo bắt lại. Nhưng
gã cùng tử thấy người đuổi theo, sợ bắt hành hạ hay giết nên hoảng hốt ngất xỉu.
Ông Trưởng giả thấy con mình quá khờ dại nên bảo sứ giả thả ra, mặc tình nó đi
đâu thì đi. Tuy nhiên, ông ngầm sai hai người mắt chột, thân lùn xấu, nghèo hèn
khuyên gã cùng tử đến hốt phân nhà ông Trưởng giả. Gã cùng tử nhận lời làm thuê
cho ông Trưởng giả. Bấy giờ ông Trưởng giả thương xót con khờ dại nên hóa
trang, mặc đồ dơ xấu đến gần để an ủi con, cho nó những vật dụng cần dùng, ông
khuyên bảo nên siêng làm việc, và nói ông coi gã như là con. Giống như chúng ta 
khi trở về với đạo, đáng lý phải thừa nhận sự nghiệp lớn lao của Phật là tu để
thành Phật và độ sanh. Nhưng vì tâm lượng hẹp hòi, chỉ mong cầu chút ít phước
báo ở cõi người cõi trời.
12. CHÁNH VĂN :
 *Ông Trưởng giả có trí
 Lần lần cho ra vào
 Trải qua hai mươi năm
 Coi sóc việc trong nhà,
 Chỉ cho biết vàng, bạc,
 Ngọc chân châu, pha lê
 Các vật ra hoặc vào
 Đều khiến gã biết rõ.
 Gã vẫn ở ngoài cửa
 Nương náu nơi am tranh
 Tự nghĩ phận nghèo nàn
 Ta không có vật đó.
 Cha biết lòng con mình
 Lần lần đã rộng lớn
 Muốn giao tài vật cho
 Liền nhóm cả thân tộc
 Quốc vương, các đại thần
 Hàng Sát-lợi, cư sĩ
 Rồi ở trong chúng này
 Tuyên nói chính con ta
 Bỏ ta đi nước khác
 Trải hơn năm mươi năm,
 Từ gặp con đến nay
 Đã hai mươi năm rồi
 Ngày trước ở thành kia
 Mà mất đứa con này
 Ta đi tìm khắp nơi
 Bèn đến ngụ nơi đây,
 Phàm của cải ta có
 Nhà cửa cùng nhân dân
 Thảy đều phó cho nó
 Mặc tình nó tiêu dùng
 Người con nhớ xưa nghèo
 Chí ý rất kém hèn
 Nay ở nơi cha mình
 Được quá nhiều châu báu
 Và cùng với nhà cửa
 Gồm tất cả tài vật,
 Lòng rất đỗi vui mừng 
 Được điều chưa từng có.
GIẢNG :
Ông Trưởng giả là người có trí, biết ý chí con hạ liệt, nên phương tiện
hướng dẫn cùng tử coi sóc việc nhà cho quen, sau đó chỉ kho tàng của báu, giao
cho cùng tử quản lý tất cả sự nghiệp. Rồi ông họp thân tộc, quốc vương, đại thần...
công bố cùng tử là con đẻ của ông, sự nghiệp của ông là sự nghiệp của con ông.
Gã cùng tử được điều chưa từng có nên rất vui mừng.
13. CHÁNH VĂN :
 *Đức Phật cũng như thế
 Biết con ưa Tiểu thừa
 Nên chưa từng nói rằng
 Các ngươi sẽ thành Phật
 Mà chỉ nói chúng con
 Được có đức vô lậu
 Trọn nên quả Tiểu thừa
 Hàng Thanh văn đệ tử
 Đức Phật bảo chúng con
 Nói đạo pháp tối thượng
 Người tu tập pháp này
 Sẽ được thành Phật quả
 Chúng con vâng lời Phật
 Vì các Bồ-tát lớn
 Dùng các món nhân duyên
 Cùng các môn thí dụ
 Bao nhiêu lời lẽ hay
 Để nói đạo Vô thượng
 Các hàng Phật tử thảy
 Từ nơi con nghe pháp
 Ngày đêm thường suy gẫm
 Tinh tấn siêng tu tập
 Bấy giờ các đức Phật
 Liền thọ ký cho kia
 Các ông ở đời sau
 Sẽ được thành Phật đạo,
 Pháp mầu rất bí tàng
 Của tất cả các Phật
 Chỉ để vì Bồ-tát
 Mà dạy việc thiệt đó
 Nhưng chẳng vì chúng con
 Nói pháp chân yếu nầy
 Như gã cùng tử kia
 Được gần bên người cha
 Dầu lãnh biết các vật 
 Nhưng lòng chẳng mong cầu
 Chúng con dầu diễn nói
 Tạng pháp báu của Phật
 Tự mình không chí nguyện
 Cũng lại như thế đó.
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ. Ngài nói rằng ông Trưởng giả dụ cho
đức Phật, Phật biết hàng Thanh văn ưa pháp Tiểu thừa nên chưa từng nói “các
ngươi sẽ thành Phật”, chỉ nói tu hạnh Thanh văn sẽ chứng Niết-bàn, còn hàng Bồ-
tát thì Phật dạy tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Do nghe Phật dạy, nên các Ngài
cũng nói người nào tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Các Ngài nói người nào
nghe Phật dạy cố gắng tu và được Phật thọ ký, còn các Ngài thì vô phần. Để thấy
rằng người học đạo hài lòng với pháp nhỏ mà mình đã được thì khó tiến bộ. Phật
vì lòng từ bi, thấy đệ tử không có chí nguyện lớn, nên phương tiện thúc đẩy cho
tiến lên, cuối cùng Ngài thọ ký cho thành Phật.
14. CHÁNH VĂN :
 *Chúng con diệt bề trong
 Tự cho là đã đủ
 Chỉ xong được việc này
 Lại không biết việc khác
 Chúng con dầu có nghe
 Pháp tịnh cõi nước Phật
 Cùng giáo hóa chúng sanh
 Đều không lòng ưa vui
 Như thế là vì sao ?
 Vì tất cả các pháp
 Thảy đều là không lặng
 Không sanh cũng không diệt
 Không lớn cũng không nhỏ
 Vô lậu và vô vi
 Suy nghĩ thế đó rồi
 Chẳng sanh lòng ưa muốn
 Chúng con đã từ lâu
 Đối với trí huệ Phật
 Không tham, không ưa thích
 Không lại có chí nguyện
 Mà đối với pháp mình
 Cho đó là rốt ráo
 Chúng con từ lâu nay
 Chuyên tu tập pháp không
 Được thoát khỏi hoạn nạn
 Khổ não của ba cõi
 Trụ trong thân rốt sau 
 Hữu dư y Niết-bàn
 Đức Phật dạy bảo ra
 Chứng được đạo chẳng luống
 Thời là đã có thể
 Báo được ơn của Phật
 Chúng con dầu lại vì
 Các hàng Phật tử thảy
 Tuyên nói pháp Bồ-tát,
 Để cầu chứng Phật đạo,
 Mà mình đối pháp đó
 Trọn không lòng mong muốn
 Đấng Đạo sư buông bỏ
 Vì xem biết lòng con
 Ban đầu không khuyên gắng
 Nói những lợi có thiệt,
 Như ông Trưởng giả giàu
 Biết con chí kém hèn
 Bèn dùng sức phương tiện
 Để hòa phục tâm con
 Vậy sau mới giao phó
 Tất cả tài vật báu,
 Đức Phật cũng thế đó
 Hiện ra việc ít có
 Biết con ưa Tiểu thừa
 Bèn dùng sức phương tiện
 Điều phục tâm của con
 Rồi mới dạy trí lớn
 Chúng con ngày hôm nay
 Được pháp chưa từng có
 Chẳng phải chỗ trước mong
 Mà nay tự nhiên được
 Như gã cùng tử kia
 Được vô lượng của báu.
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Ca-diếp thuật lại việc tu hành của hàng Thanh văn là diệt bề
trong cho là đã đủ, lại không biết việc khác. Nghĩa là các Ngài một bề dẹp những
kiết sử trói buộc ở nội tâm, kiết sử hết thì không còn luân hồi, chứng Niết-bàn, các
Ngài thấy đó là đủ, không tự biết mình có sẵn Tri kiến Phật, không thực hành pháp
tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sanh. Sỡ dĩ hàng Thanh văn không ưa giáo hóa
chúng sanh, làm thanh tịnh cõi nước Phật là vì các Ngài quán chiếu thấy tất cả
pháp đều không lặng, không sanh không diệt, không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi,
chỉ thích an tịnh trong cái tịch tịnh đó. Còn việc độ sanh, tịnh cõi nước Phật, là
việc bên ngoài nên không bao giờ nghĩ và thích. Vì vậy, Phật mới vì các Ngài 
khuyến khích muốn cho các Ngài được pháp Vô thượng cũng như gã cùng tử được
của báu
1. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xướng lời
thế này: “Ông Ma- ha Ca-diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm
muôn ức các đức Phật Thế Tôn, cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, rộng
nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là
Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế
Tôn. 
Nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại Trang Nghiêm. Phật thọ mười hai
tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Tượng pháp cũng trụ hai mươi
tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp, không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện
lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng thẳng không có cao thấp, hầm hố gò nổng, đất bằng
lưu ly, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, rải các hoa
báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ-tát trong nước đó đông vô lượng nghìn ức, các chúng Thanh văn cũng
lại vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ trì Phật pháp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Bảo các Tỳ-kheo rằng:
 Ta dùng mắt của Phật
 Thấy ông Ca-diếp này
 Ở nơi đời vị lai
 Quá vô số kiếp sau
 Sẽ được thành quả Phật,
 Mà ở đời vị lai
 Cúng dường và kính thờ
 Đủ ba trăm muôn ức
 Các đức Phật Thế Tôn.
 Vì cầu trí huệ Phật
 Mà tịnh tu phạm hạnh
 Cúng dường đấng Tối thượng
 Nhị Túc Tôn xong rồi
 Tu tập trọn tất cả
 Trí huệ bực Vô thượng
 Ở nơi thân rốt sau
 Được chứng thành làm Phật.
 Cõi đó rất thanh tịnh
 Chất lưu ly làm đất
 Nhiều thứ cây bằng báu
 Thẳng hàng ở bên đường
 Dây vàng giăng ngăn đường
 Người ngó thấy vui mừng
 Thường thoảng ra hương thơm
 Rải các thứ hoa đẹp
 Các món báu kỳ diệu
 Dùng để làm trang nghiêm
 Cõi đó đất bằng thẳng
 Không có những gò hầm.
 Các hàng chúng Bồ-tát
 Đông không thể xưng kể
 Tâm các vị hòa dịu
 Đến được thần thông lớn 
 Phụng trì các kinh điển
 Đại thừa của các Phật
 Các hàng chúng Thanh văn
 Vô lậu thân rốt sau
 Là con của Pháp vương
 Cũng chẳng thể kể hết
 Nhẫn đến dùng thiên nhãn
 Cũng chẳng thể đếm biết.
 Phật đó sẽ sống lâu
 Tuổi mười hai tiểu kiếp
 Chánh pháp trụ ở đời
 Đủ hai mươi tiểu kiếp
 Tượng pháp trụ ở đời
 Cũng hai mươi tiểu kiếp
 Đức Quang Minh Thế Tôn
 Việc của Ngài như thế.
GIẢNG :
Sau khi các Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tu-bồ-đề... trình sở ngộ, đức Phật liền
thọ ký cho các Ngài thành Phật. Trước thọ ký cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp đời vị
lai sẽ được thành Phật đầy đủ mười hiệu và đủ 32 tướng tốt. Ngài phụng thờ ba
trăm muôn ức đức Phật mới thành Phật. Chúng ta thấy thời gian tu hành của ngài
Ca-diếp quá lâu, mà Ngài được thọ ký là vui mừng thấy mình được điều chưa từng
có. Điều này nói lên tâm hạnh của Bồ-tát có khác với tâm hạnh của phàm phu.
Sau khi thành Phật, tuổi thọ của Ngài đến mười hai tiểu kiếp, một tiểu kiếp
là 16.800.000 năm. Tính ra đến 201.600.000 năm. Sống quá lâu! Còn cõi nước thì
đất bằng phẳng trang nghiêm đẹp đẽ toàn bằng đồ báu không có dơ bẩn, không có
cực khổ. Đồ đệ toàn là hàng Bồ-tát, La-hán nhiều vô lượng vô biên. Sở dĩ tôn giả
Ca-diếp khi thành Phật mà được chánh báo y báo tốt đẹp lớn lao như vậy, là nhờ
công phu tu hành giáo hóa chúng sanh lâu dài và nhiều vô kể. Nhân thế nào thì
quả thế ấy, nhân lớn thì quả phải to.
Phật thọ ký cho tôn giả Ma-ha Ca-diếp sau khi thành Phật, số Bồ-tát Ngài
độ được có tới nghìn muôn ức, Thanh văn cũng vô số. Một vị Bồ-tát khi thành
Phật, không có đơn độc ở một mình, như đức Thích-ca khi thành Phật bên cạnh
Ngài có rất nhiều Bồ-tát, La-hán, Thanh văn. Những đồ đệ đó đều là những người
đã có túc duyên nhiều đời nhiều kiếp với Ngài, chớ không phải chỉ có duyên một
đời này. Như vậy những đệ tử Bồ-tát, Thanh văn, La-hán trước kia là những người
phàm, khi Phật còn làm Bồ-tát giáo hóa họ tu; thầy tiến lên thành Phật, trò cũng
tiến lên thành Bồ-tát, La-hán.
Chúng ta thấy tất cả Bồ-tát được Phật thọ ký, vị nào cũng có đồ đệ đông
như vậy. Vì rằng một vị tu hành từ khi mới phát tâm tu, cho tới ngày thành Phật, là
đời đời giáo hóa chúng sanh và cũng tiếp tục gặp lại nhau ở nơi này hay ở nơi
khác, những người này là hàng Bồ-tát, hàng Thanh văn câu hội về quốc độ của
Phật. Như vậy, không có nghĩa tu một đời tâm hạnh bị mất, nếu phát tâm chân 
chánh, tu hành đứng đắn thì đời này mới tu duyên phước còn mỏng thì độ ít, đời
sau tiếp tục tu nữa và giáo hóa nhiều hơn, đời sau nữa tiếp tục công hạnh cũ, như
thế mà tiếp tục cho đến khi thành Phật, thì quyến thuộc là Bồ-tát, Thanh văn cũng
đông vầy. Thế nên chúng ta không thể lo tu một mình để cầu mau thành Phật,
thiếu phần giác tha thì công hạnh chưa viên mãn làm sao thành Phật được. Để thấy
tinh thần kinh Pháp Hoa là Bồ-tát đời đời thực hiện bổn nguyện nối tiếp thắp sáng
ngọn đuốc Phật pháp cho chúng sanh, đến khi công hạnh viên mãn mới thành Phật,
và chúng sanh được giáo hóa cũng thành Bồ-tát và La-hán câu hội về quốc độ của
các Ngài. Phần trùng tụng lặp lại ý trên.
2. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, ngài Đại Mục-kiền-liên, Ngài Tu-bồ-đề, Ngài Đại Ca-chiêndiên
v.v...thảy đều run sợ một lòng chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật,
mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:
 Thế Tôn rất hùng mãnh
 Pháp vương trong dòng Thích
 Vì thương xót chúng con
 Mà ban giọng tiếng Phật.
 Nếu rõ thâm tâm con
 Được Phật thọ ký cho
 Như dùng cam lồ rưới
 Từ nóng được mát mẻ.
 Như từ nước đói đến
 Bỗng gặp cỗ tiệc vua
 Còn ôm lòng nghi sợ
 Chưa dám tự ăn liền
 Nếu lại được vua bảo
 Vậy sau mới dám ăn,
 Chúng con cũng như vậy
 Hằng nghĩ lỗi Tiểu thừa
 Chẳng biết làm thế nào
 Được huệ Vô thượng Phật,
 Dầu nghe giọng tiếng Phật
 Nói chúng con thành Phật
 Còn ôm lòng lo sợ
 Như chưa dám tự ăn
 Nếu được Phật thọ ký
 Mới là khoái an vui
 Thế Tôn rất hùng mãnh
 Thường muốn an thế gian
 Xin thọ ký chúng con
 Như đói cần bảo ăn.
GIẢNG : 
Còn ba vị chưa được thọ ký là ngài Ma-ha Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha
Ca-chiên-diên nên các Ngài run sợ, chấp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan
của Phật. Vì bốn vị cùng là bạn, trình độ học tu ngang nhau, một trong bốn vị
được thọ ký thành Phật, lúc đó ba người còn lại cả mừng hóa thành hoảng hốt, bởi
hoảng hốt nên run sợ. Thế nên các Ngài mới trình bày tâm trạng của các Ngài:
 Nếu rõ thâm tâm con
 Được Phật thọ ký cho
 Như dùng cam lồ rưới
 Từ nóng được mát mẻ.
Tâm các Ngài đang nóng nảy, hồi hộp, lo sợ không biết có được Phật thọ
ký không. Nếu bấy giờ được Phật thọ ký thì như được rưới nước cam lộ khiến cho
tâm các Ngài được mát mẻ, êm ả, không còn hồi hộp lo sợ nữa.
Kế đến các Ngài lại nói thêm:
 Như từ nước đói đến
 Bỗng gặp cỗ tiệc vua
 Còn ôm lòng nghi sợ
 Chưa dám tự ăn liền
 Nếu lại được vua bảo
 Vậy sau mới dám ăn.
Các Ngài dụ các Ngài như ở nước đói đến gặp tiệc vua ban đủ thức ăn sang
trọng bày la liệt trên bàn, lòng còn lo sợ chưa dám ăn liền, vì chưa được mời ăn.
Nếu được vua bảo, thì các Ngài mới dám ăn. Thí dụ này nói lên ý nghĩa các Ngài
đã được cái thấy biết mà huynh đệ các Ngài như tôn giả Xá-lợi-phất, Ma-ha Cadiếp
đã được, nhưng chưa dám tin rằng mình sẽ được thọ ký thành Phật. Nay nếu
được Phật thọ ký thì tâm các Ngài mới an, mới tin chắc.
Các thiền sư cũng có tâm trạng như các tôn giả ở đây. Như ngài Vĩnh Gia
Huyền Giác do xem kinh Duy-ma-cật mà ngộ đạo, Ngài biết rõ mình đã thông suốt
được lý Thiền, nhưng chưa được bậc tôn túc nào ấn chứng, nên thể theo lời đề
nghị của thiền sư Huyền Sách đến Lục tổ cầu xin ấn chứng. Sau khi được Lục tổ
ấn chứng, Ngài mới dám nói lên chỗ chứng đạo của mình qua bài Chứng Đạo Ca.
Nếu chưa được ấn chứng vẫn còn hồ nghi. Đó là tâm niệm của người xưa và người
gần đây không khác nhau. Những đồ đệ của đức Phật khi xưa khao khát được Phật
thọ ký như thế nào, thì các Thiền sư sau này khao khát được thầy ấn chứng cũng
như vậy. Vì vậy sau khi các Thiền sư ngộ đạo rồi, đi tìm thiện hữu tri thức trình sở
ngộ và cầu xin ấn chứng để an ổn mà tiến tu.
3. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn, bảo các thầy Tỳ-
kheo rằng: “Ông Tu-bồ-đề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm muôn ức na-dotha
đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh
tịnh, đủ đạo Bồ-tát, ở thân rốt sau được thành Phật hiệu: Danh Tướng Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. 
Kiếp đó tên Hữu Bửu, nước đó tên là Bửu Sanh. Cõi đó bằng thẳng, đất
bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những gò, hầm, cát, sỏi, gai, chông
cùng tiện lợi dơ dáy, hoa báu trải khắp nơi sạch sẽ, nhân dân cõi đó đều ở đài báu
và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí
dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ-tát đông vô số nghìn muôn ức na-do-tha.
Đức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp,
tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, đức Phật đó thường ở trên hư không
vì chúng nói pháp độ thoát được vô lượng Bồ-tát cùng chúng Thanh văn.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Các chúng Tỳ-kheo nầy !
 Nay ta bảo các ông
 Đều nên phải một lòng
 Lóng nghe lời ta nói
 Đệ tử lớn của ta
 Là ông Tu-bồ-đề
 Rồi sẽ được làm Phật
 Hiệu gọi là Danh Tướng
 Sẽ phải cúng vô số
 Muôn ức các đức Phật
 Theo hạnh của Phật làm
 Lần lần đủ đạo lớn
 Thân rốt sau sẽ được
 Ba mươi hai tướng tốt
 Xinh lịch đẹp đẽ lắm
 Dường như núi báu lớn
 Cõi nước của Phật đó
 Trang nghiêm sạch thứ nhứt
 Chúng sanh nào được thấy
 Không ai chẳng ưa mến.
 Phật ở trong cõi đó
 Độ thoát vô lượng chúng.
 Trong pháp hội của Phật
 Các Bồ-tát đông nhiều
 Thảy đều bực lợi căn
 Chuyển pháp luân bất thối.
 Cõi nước đó thường dùng
 Bồ-tát để trang nghiêm
 Các chúng Thanh văn lớn
 Chẳng có thể đếm kể
 Đều được ba món minh
 Đủ sáu thứ thần thông
 Trụ tám pháp giải thoát
 Có oai đức rất lớn. 
 Đức Phật đó nói pháp
 Hiện ra vô lượng món
 Pháp thần thông biến hóa
 Chẳng thể nghĩ bàn được.
 Các hàng trời, nhân dân
 Số đông như Hằng sa
 Đều cùng nhau chắp tay
 Lóng nghe lãnh lời Phật
 Đức Phật đó sẽ thọ
 Tuổi mười hai tiểu kiếp
 Chánh pháp trụ lại đời
 Đủ hai mươi tiểu kiếp
 Tượng pháp trụ ở đời
 Cũng hai mươi tiểu kiếp.
GIẢNG :
Đức Phật thọ ký cho ngài Tu-bồ-đề sau này sẽ thành Phật hiệu là Danh
Tướng, kiếp tên Hữu Bửu, cõi nước tên Bửu Sanh, cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu
ly, cây báu trang nghiêm, hàng đồ đệ toàn là Thanh văn, Bồ-tát đông vô số không
thể tính kể. Sự kiện này cho chúng ta thấy, làm việc lợi sanh được phần công đức
là tích tụ thành một hạt lưu ly, làm vô số công đức thanh tịnh trải qua nhiều đời
nhiều kiếp, thì tụ thành cả quốc độ toàn là lưu ly thanh tịnh theo như công hạnh tu
hành của mình. Đó là do tinh thần độ sanh không giới hạn, nếu công hạnh viên
mãn thì thành Phật. Nếu công hạnh chưa viên mãn mà muốn thành Phật sớm thì
cõi nước không thanh tịnh, tuổi thọ không lâu dài, đồ đệ chưa phải là hàng Thánh.
Ở đây đức Phật nói “Phật Danh Tướng thường ở trên hư không vì chúng nói pháp
độ thoát được vô lượng Bồ-tát cùng chúng Thanh văn”. Tại sao Phật Danh Tướng
lại nói pháp ở trên hư không ? Như chúng ta biết, Ngài Tu-bồ-đề tu hạnh quán lý
không, nên được Phật khen là Giải không bậc nhất trong hội chúng. Do ngộ được
lý không nên khi nói pháp Ngài nói về lý Bát-nhã chân không. Vì vậy mà nói Ngài
ở trên hư không vì chúng sanh nói pháp.
4. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ-kheo: “Ta nay nói với các
ông, ông Đại Ca-chiên-diên này ở đời sẽ tới, dùng các đồ cúng mà cúng dường
phụng thờ tám nghìn ức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ,
ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn do-tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm
do-tuần, tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân
châu và mai khôi hiệp lại thành cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi
ngọc, hương hoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan v.v...
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai muôn ức Phật cũng như trước, cúng
dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật hiệu: Diêm-phù-na-đề
Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế
Tôn. 
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm
dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều
vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la. Các trời
cùng người rất đông, các chúng Thanh văn và Bồ-tát vô lượng muôn ức trang
nghiêm nước đó. Đức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai
mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Lúc đó Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Các chúng Tỳ-kheo này !
 Đều nên một lòng nghe
 Như lời của ta nói
 Chân thiệt không khác lạ.
 Ông Ca-chiên-diên này
 Sau sẽ dùng các món
 Đồ cúng dường tốt đẹp
 Mà cúng dường các Phật.
 Các đức Phật diệt rồi
 Dựng tháp bằng bảy báu
 Cũng dùng hoa và hương
 Để cúng dường xá-lợi.
 Thân rốt sau của ông
 Được trí huệ của Phật
 Thành bực Đẳng Chánh Giác
 Cõi nước rất thanh tịnh
 Độ thoát được vô lượng
 Muôn ức hàng chúng sanh
 Đều được mười phương khác.
 Thường đến kính cúng dường,
 Ánh sáng của Phật đó
 Không ai có thể hơn
 Đức Phật đó hiệu là:
 Diêm-phù Kim Quang Phật
 Bồ-tát và Thanh văn
 Dứt tất cả hữu lậu
 Đông vô lượng vô số
 Trang nghiêm cõi nước đó.
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Ca-chiên-diên cũng được Phật thọ ký. Do tu hạnh Bồ-tát cung
kính cúng thờ tới tám nghìn ức Phật, sau Phật diệt độ lại xây tháp miếu cúng
dường. Sau lại cúng dường hai muôn ức Phật cũng như trước, công hạnh viên mãn
sẽ thành Phật hiệu Diêm-phù-na-đề Kim Quang, quốc độ bằng phẳng, đất bằng
pha lê, trang nghiêm bằng cây báu... Sở dĩ Bồ-tát ra đời gặp Phật là vì các Ngài tu
hạnh Bồ-tát, mà Bồ-tát là nhân mà Phật là quả, nên ra đời đều gặp Phật. Nơi nào 
có Phật là có các Ngài gần gũi tôn trọng cúng dường và tu học. Trải qua thời gian
lâu dài công hạnh viên mãn, thì thành Phật cõi nước đẹp đẽ trang nghiêm.
5.CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo trong đại chúng: “Ta nay nói với các
ông, ông Đại Mục-kiền-liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám nghìn
các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu
cao một nghìn do-tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do-tuần, dùng bảy món
báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi hiệp lại thành. Đem
các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng
phan để cúng dường tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như
trước, rồi sẽ được thành Phật hiệu: Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên là Hỷ Mãn, nước tên là Ý Lạc, cõi đó bằng thẳng, chất pha lê
làm đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa chân châu khắp nơi sạch sẽ, người được
thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông, Bồ-tát và Thanh văn số nhiều vô
lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, chánh pháp trụ lại đời bốn mươi
tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ bốn mươi tiểu kiếp.”
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Đệ tử của ta đây
 Là Đại Mục-kiền-liên
 Bỏ thân người nầy rồi
 Sẽ được gặp tám nghìn
 Hai trăm muôn ức vị
 Các đức Phật Thế Tôn.
 Ông vì cầu Phật đạo
 Nên cúng dường cung kính
 Ở nơi các đức Phật
 Thường tu trì phạm hạnh
 Ở trong vô lượng kiếp
 Phụng trì pháp của Phật.
 Các đức Phật diệt rồi
 Xây tháp bằng bảy báu
 Tháp vàng rất cao rộng,
 Dùng hoa hương kỹ nhạc
 Để dùng dưng cúng dường
 Tháp miếu các đức Phật.
 Lần lần được đầy đủ
 Đạo hạnh Bồ-tát rồi
 Ở nơi nước Ý Lạc
 Mà được thành quả Phật
 Hiệu là Đa-ma-la. 
 Bạt Chiên-đàn Hương Phật
 Đức Phật đó thọ mạng
 Hai mươi bốn tiểu kiếp
 Thường vì hàng trời, người
 Mà diễn nói đạo Phật
 Chúng Thanh văn vô lượng
 Như số cát sông Hằng
 Đủ ba minh, sáu thông
 Đều có oai đức lớn
 Bồ-tát đông vô số
 Chí bền lòng tinh tấn
 Ở nơi trí huệ Phật
 Đều không hề thối chuyển.
 Sau khi Phật diệt độ
 Chánh pháp sẽ trụ đời
 Đủ bốn mươi tiểu kiếp
 Tượng pháp cũng như thế.
 *Các đệ tử của ta
 Bực oai đức đầy đủ
 Số đó năm trăm người
 Ta đều sẽ thọ ký
 Ở nơi đời vị lai
 Đều được chứng thành Phật
 Ta cùng với các ông
 Đời trước kết nhân duyên
 Ta nay sẽ thuật nói
 Các ông khéo lóng nghe.
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Mục-kiền-liên được Phật thọ ký sau này sẽ thành Phật hiệu là
Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Như Lai, kiếp tên Hỷ Mãn, nước tên Ý Lạc...
cũng do tu hạnh Bồ-tát, phụng thờ vô số đức Phật công hạnh viên mãn mới được
thành Phật.
Sau khi thọ ký cho bốn vị đại đệ tử xong, Phật hứa rằng 500 vị đại đệ tử của
Phật tuần tự sẽ được thọ ký. Không riêng gì đối với đệ tử lớn mà những vị nhỏ, có
khả năng tin thọ lời Phật dạy là được Phật bình đẳng thọ ký cho. Đây là một lối ấn
chứng cho đệ tử đủ lòng tin mà an tâm tiến tu không lui sụt.
Qua phẩm Thọ ký chúng ta thấy cõi nước của các vị Phật tương lai, cõi nào
cũng bằng phẳng, đất thì bằng vàng, bằng lưu ly, trang nghiêm bằng bảy báu, đồ
đệ là hàng Bồ-tát, Thanh văn vô số. Tuổi thọ của Phật thì rất lâu, chánh pháp,
tượng pháp cũng lâu... Rồi chúng ta nghiệm lại đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni cũng
là một vị Phật, tại sao cõi ta-bà của Ngài toàn là gò nổng, đất bùn sình nhơ nhớp,
chúng sanh ở cõi này thì nhiều khổ đau phiền não, đồ đệ thuộc hàng Bồ-tát, Thanh 
văn chỉ có 1250 vị ? Còn tuổi thọ của Ngài chỉ có 80 tuổi, chánh pháp của Ngài trụ
thế có 500 năm, tượng pháp 1000 năm ?
Đức Phật Thích-ca sinh ở cung vua Tịnh Phạn xứ Ấn Độ giáo hóa cõi ta-bà
này là Phật ứng thân; chúng sanh ở cõi ta-bà này vô minh nghiệp chướng sâu dày,
phước mỏng, thì chánh báo và y báo của họ dĩ nhiên là thô xấu bất tịnh. Phật vì từ
bi tùy duyên ứng thân ở cõi này để cứu độ họ. Ví dụ như người ở thủ đô giàu có,
ăn cao lương mỹ vị, ở nhà lầu đi xe hơi, sống rất sung túc sang trọng. Người đó
thấy dân miền sơn cước quê dốt, thiếu ăn thiếu mặc, tình nguyện đến đó để hướng
dẫn dân miền này biết chữ, biết nghề nghiệp làm cho đủ cơm ăn áo mặc. Khi
người thủ đô đến miền sơn cước ở thì đời sống của họ cũng đạm bạc không tiện
nghi, vì chỗ ở này là chỗ ở tạm. Cũng vậy, đức Thích-ca ra đời ở cõi ta-bà này là
một chặng hóa thân của Ngài để hóa độ. Cõi này là cõi tạm, Ngài ở một thời gian
ngắn Ngài đi, nên tuổi thọ không dài. Còn cõi nước không thanh tịnh trang nghiêm,
vì chúng sanh cõi này đa phần phước mỏng nghiệp dầy nên cũng có các y báo
chung như thế.
D
PHẨM 7: HÓA THÀNH DỤ
Hóa Thành Dụ là ví dụ hóa ra cái thành tạm, cho kẻ đi đường dài mỏi mệt
nghỉ chân để rồi tiếp tục đi nữa. Dụ này ngầm nói lên quả vị Thanh văn, Duyên
giác chỉ là Niết-bàn tạm, không phải cứu kính. Cứu kính là phải đạt quả vị Phật.
1. CHÁNH VĂN :
*Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị a-tăng-kỳ kiếp đã qua, lúc
bấy giờ có đức Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Nước đó tên Hảo Thành, kiếp tên Đại Tướng. Các Tỳ-kheo ! Từ khi đức
Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam thiên
đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở
phương Đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước
nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở
trên. Ý các ông nghĩ sao ? Các cõi nước đó hoặc thầy toán hoặc đệ tử của thầy
toán có thể biết được ngằn mé số đó chăng ?
- Thưa Thế Tôn ! Không thể biết !
- Các Tỳ-kheo ! Những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực
hoặc không chấm mực, đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ
đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn
ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức Tri kiến của Như Lai xem thuở lâu xa đó dường
như hiện ngày nay.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Ta nhớ đời quá khứ
 Vô lượng vô biên kiếp
 Có Phật Lưỡng Túc Tôn
 Hiệu Đại Thông Trí Thắng.
 Như người dùng sức mài
 Cõi tam thiên đại thiên
 Hết tất cả địa chủng
 Thảy đều làm thành mực
 Quá hơn nghìn cõi nước
 Bèn chấm mỗi điểm trần
 Như thế lần lựa chấm
 Hết các mực trần nầy.
 Bao nhiêu cõi nước đó
 Điểm cùng chẳng điểm thảy
 Lại đều nghiền làm bụi
 Một bụi làm một kiếp 
 Kiếp số lâu xa kia
 Lại nhiều hơn số bụi
 Phật đó diệt đến nay
 Vô lượng kiếp như thế
 Trí vô ngại của Phật
 Biết Phật đó diệt độ
 Và Thanh văn, Bồ-tát
 Như hiện nay thấy diệt.
 Các Tỳ-kheo nên biết
 Trí Phật tịnh vi diệu
 Vô lậu và vô ngại
 Suốt thấu vô lượng kiếp.
GIẢNG :
Đức Phật kể lại chuyện của một đức Phật từ kiếp xa xưa tên là Đại Thông
Trí Thắng. Từ khi đức Phật ấy diệt độ nhẫn đến nay thời gian rất lâu xa. Thí như
lấy đất tam thiên đại thiên thế giới, mài nát ra thành mực, rồi cứ đi về phương
Đông cách khoảng một ngàn cõi nước chấm một điểm nhỏ, và cứ thế mà chấm cho
đến khi hết mực được mài, thì chừng bao nhiêu thế giới ? Không thể tính đếm
được, quá nhiều. Bây giờ đem những thế giới chấm mực và không chấm mực
nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi tính là một kiếp. Như vậy vô số bụi là vô số kiếp.
Từ khi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhập diệt tới nay lâu hơn vô số kiếp đó,
thế mà đức Thế Tôn dùng Tri kiến Phật xem thuở lâu xa đó thấy như hiện nay.
Chúng ta không thể tưởng tượng nổi, không thể tính toán ra thời gian đó là bao
nhiêu, làm sao mà tin được ? Đứng về mặt sự mà nói thì kinh Phạm Động trong bộ
Trường A-hàm có ghi lại sáu mươi hai kiến chấp của ngoại đạo. Sở dĩ ngoại đạo
có những kiến chấp là do họ tu thiền định, nếu sức định vừa thì họ nhớ từ năm
mười kiếp về trước, thấy rõ về túc mạng, gia tộc, quốc độ, sinh hoạt của họ và mỗi
loài chúng sanh. Nếu sức định sâu thì thấy cả trăm cả ngàn đời về trước. Họ thấy
tới đâu là họ chấp tới đó. Còn những gì xa hơn chỗ thấy biết do sức định thì họ
không biết. Ở đây nói lên sức định của Phật thâm sâu không thể diễn tả nổi. Cho
nên cái biết của Ngài về quá khứ cũng không thể nghĩ lường. Thời gian từ đức
Phật Đại Thông Trí Thắng tịch diệt, đến lúc đức Thích-ca ra đời trải qua thời gian
lâu xa vô kể, mà bây giờ Ngài ưng nhớ lại thì thấy rõ như chuyện hiện nay. Đó là
do sức thiền định sâu, nhớ được quá khứ rất lâu xa. Đứng về mặt lý, thì Tri kiến
Như Lai là Trí tuệ Phật, mà Trí tuệ Phật thì không lệ thuộc thời gian... Thời gian
như ngày, tháng, năm chẳng qua là khái niệm do người đặt ra, không có thật. Quả
đất cứ xoay quanh mặt trời, vùng đất nhận ánh sáng mặt trời, người cho là ngày,
vùng đất không nhận ánh sáng mặt trời, người cho là đêm, chớ nó không tự nói là
ngày hay là đêm. Thời gian chỉ là ý niệm người đặt ra tạm dùng không có lẽ thật.
Dù thời gian muôn nghìn triệu ức, nhưng đối với đức Đại Thông Trí Thắng tức Tri
kiến Phật là cái không hình, không tướng, không sanh, không diệt thì không bị
giới hạn bởi thời gian. Vì vậy mà nói dù cho vô lượng kiếp xa xưa không thể tính
đếm được, cần nhớ thì nhớ thấy như hiện tại. 
2. CHÁNH VĂN :
*Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Đức Đại Thông Trí Thắng Phật thọ năm trăm
bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá
quân ma rồi, sắp được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Phật pháp
chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng
thân và tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước.
Thuở đó, các vị trời Đao-lợi ở dưới cội cây bồ-đề đã trước vì đức Phật đó
mà trải tòa sư tử cao một do-tuần. Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ được đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm Thiên vương
rưới những hoa trời khắp một trăm do-tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa
héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường
đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa này. Các trời Tứ thiên vương
vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời. Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ
nhạc trời mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.
Các Tỳ-kheo ! Đức Đại Thông Trí Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật
pháp hiện ra trước thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí
Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng
được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ
Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đưa.
Ông nội là vua Chuyển Luân Thánh vương, cùng một trăm vị đại thần và
trăm nghìn muôn ức nhân dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng, mọi
người đều đến gần gũi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung
kính, tôn trọng, ngợi khen. Khi đã đến nơi, tất cả đem đầu mặt mình lạy chân Phật,
đi vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của
Phật, rồi nói kệ khen Phật.
GIẢNG :
Tại sao đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi đạo tràng phá quân ma rồi sắp
được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thân tâm chẳng động mà Phật pháp
không hiện tiền ? Đứng về mặt sự thì chúng ta thấy đức Thích-ca Mâu-ni tuổi thọ
khoảng 80 tuổi. Ngài tọa thiền 49 ngày đêm, đêm sau cùng đầu hôm, ma quân đến
quấy nhiễu, Ngài chiến đấu với ma quân, đến canh năm lúc sao mai mọc thì Ngài
thành đạo. Còn đức Phật Đại Thông Trí Thắng tuổi thọ đến năm trăm bốn mươi
vạn ức na-do-tha kiếp, nên thời gian Ngài nhập định chiến đấu với ma quân cũng
lâu dài và mãi đến mười tiểu kiếp sau trời Đao-lợi trải tòa sư tử dưới cội bồ-đề,
Ngài ngồi trên tòa này mới thành đạo. Sự kiện này nói lên đức Thích-ca Mâu-ni là
Phật hóa thân tuổi thọ ngắn nên thời gian tu cũng ngắn, còn đức Đại Thông Trí
Thắng là Phật báo thân, tuổi thọ dài nên thời gian tu cũng dài. Đứng về mặt lý thì
nếu nhập định thân tâm không động, mãi an trú trong định thì chưa giác, mà nếu
chưa giác thì chưa thành Phật, nên nói Phật pháp chưa hiện ra. Thiền tông có một
câu chuyện nói lên ý nghĩa này: Xưa có một bà già thấy một thiền sư tu hành tinh
tấn, bà phát tâm cất một cái am và cung cấp lương thực cho Ngài ở tu. Thiền sư ở
yên tu một thời gian, một hôm bà sai đứa cháu gái đem cơm đến cho Ngài và dặn 
đứa cháu khi đưa cơm xong thì vòng tay ôm Ngài và hỏi: “Ngay bây giờ thì
thế nào?” Đứa cháu gái làm đúng như lời bà dạy. Thiền sư trả lời:
 Khô mộc ỷ hàn nham
 Tam xuân vô noãn khí.
 Dịch:
 Cây khô tựa đá lạnh
 Ba xuân không hơi ấm.
Tuy cô gái ôm Ngài, nhưng Ngài không động tâm, trơ trơ như cây khô như
đá lạnh, đã trải qua ba năm rồi lòng Ngài như băng giá không có chút tình cảm hơi
ấm với người. Hành động của cô gái đối với Ngài, Ngài không hề khởi niệm dục
vọng. Cô gái về thuật lại sự việc ấy cho bà nghe, bà nói: “Uổng mấy năm nuôi
ông thầy không có trí tuệ”. Bà bèn đốt am đuổi đi.
Một người tu chân chính bị nữ sắc cám dỗ tâm không dao động, đối với
chúng ta Ngài là người có đạo lực cao, đáng tán thán khen ngợi. Nhưng dưới mắt
bà già cũng như dưới mắt Thiền tông thì thiền sư ấy đang chìm trong nước chết,
tức là đang ở trong trạng thái tịch lặng, trí tuệ chưa sáng, chưa đến chỗ rốt ráo. Để
cảnh giác Ngài, bà đốt am để Ngài vươn lên. Một việc làm phi thường của bà già
thấu được lý đạo. Đây nói ngồi thân tâm không động, Phật pháp chẳng hiện tiền, là
chỉ trạng thái tịch lặng, trí tuệ chưa sáng. Trải qua mười tiểu kiếp lúc đó Phật pháp
mới hiện tiền, tức là vượt qua chỗ nước chết, trí tuệ sáng ra.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng lúc chưa xuất gia có mười sáu người con
trai, người con cả tên là Trí Tích. Trí Tích là trí chứa nhóm lâu đời, phần sau sẽ
giải thích rộng hơn. Khi Phật thành đạo thì mười sáu người con phát tâm tu và cả
quyến thuộc đều lần lượt kéo đến chiêm ngưỡng cung kính, cúng dường, khen
ngợi.
3. CHÁNH VĂN :
 *Thế Tôn oai đức lớn
 Vì muốn độ chúng sanh
 Trong vô lượng ức năm
 Bèn mới được thành Phật
 Các nguyện đã đầy đủ
 Hay thay lành vô thượng.
 Thế Tôn rất ít có
 Một phen ngồi mười kiếp
 Thân thể và tay chân
 Yên tịnh không hề động
 Tâm Phật thường lặng lẽ
 Chưa từng có tán loạn
 Trọn rốt ráo vắng bặt
 An trụ pháp vô lậu.
 Ngày nay thấy Thế Tôn
 An ổn thành Phật đạo
 Chúng con được lợi lành 
 Mừng rỡ rất vui đẹp.
 Chúng sanh thường đau khổ
 Đui mù không Đạo sư
 Chẳng biết đạo dứt khổ
 Chẳng biết cầu giải thoát
 Lâu ngày thêm nẻo ác
 Giảm tổn các chúng trời
 Từ tối vào nơi tối
 Trọn chẳng nghe danh Phật.
 Nay Phật được Vô thượng
 Đạo an ổn vô lậu
 Chúng con và trời người
 Vì được lợi lớn tột
 Cho nên đều cúi đầu
 Qui mạng đấng Vô thượng.
GIẢNG :
Mười sáu vị vương tử và trong thân quyến tán thán Phật. Trong lời tán thán
Phật, đoạn trên lặp lại ý đức Phật tu hành, đoạn dưới nói lên sự đau khổ của chúng
sanh là do đui mù không người hướng dẫn. Chúng ta thấy mọi loài chúng sanh ai
ai cũng có mắt, thấy đường đi, ai ai cũng phân biệt được cảnh vật tốt xấu, tại sao
trong kinh nói mù ? Chữ đui mù ở đây ý nói rằng tất cả chúng sanh ở trong thế
gian này, nếu không có Phật ra đời thì không làm sao nhận ra Pháp thân thanh tịnh
bất sanh, bất diệt của mình. Cứ sống theo vọng tưởng hình tướng sanh diệt nên
chúng sanh đời đời kiếp kiếp mê mờ, chẳng khác nào người mù không thấy lối đi.
Chính vì mê mờ chẳng biết đạo dứt khổ, chẳng biết cầu giải thoát. Khi sinh ra
không biết mình từ đâu đến, rồi khi nhắm mắt chẳng biết mình đi về đâu ! Sống cứ
loanh quanh lẩn quẩn trong việc ăn, mặc, ở, bịnh, già, chết... không biết đầu mối
trước, cũng không biết cuối mối sau, cứ mù mù mịt mịt, không có ánh sáng nên
mãi đau khổ. Sở dĩ như thế là vì không có minh sư hướng dẫn để thoát khỏi vòng
lẩn quẩn đó, nên càng ngày càng tạo thêm nghiệp ác, dẫn tới những đường ác như
địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Không có người tu Thập thiện nên cõi trời ít chúng
sanh sanh lên đó. Như vậy thì đường ác càng ngày càng tăng, cõi thiện càng ngày
càng giảm, nên nói từ tối vào nơi tối. Kinh A-hàm, Phật có dùng thí dụ để giải
thích sự kiện này. Phật nói có 4 hạng người:
1.- Từ tối vào tối: là những người quá khứ không tạo duyên phước lành nên
sanh ra trong cảnh nghèo khổ bịnh tật, chẳng những không phát tâm hướng thiện
lại còn hung dữ tàn bạo tạo nhiều nghiệp ác. Trước đã mờ mịt nay lại tạo nghiệp
đen tối nữa nên nói từ tối vào tối.
2.- Từ sáng đến sáng: là những người quá khứ đã tạo duyên phước lành nên
sanh ra trong cảnh giàu sang, thông minh, hiền hậu, lại biết làm lành tạo nghiệp
thiện. Trước đã sáng suốt nay tiếp tục tạo nghiệp duyên tốt nên nói từ sáng đến
sáng. 
3.- Từ tối đến sáng: là những người quá khứ mê mờ không tạo duyên phước
lành nên sanh ra trong cảnh cơ cực bần cùng, nay biết hướng thiện tạo nghiệp
duyên lành, lần lần nghiệp ác giảm, nghiệp thiện và trí tuệ tăng trưởng, nên nói từ
tối đến sáng.
4.- Từ sáng vào tối: là những người trước đã có phước duyên lành sanh ra
trong cảnh giàu có, mà không biết nương đạo lý tạo nhân lành lại tạo nghiệp ác. Vì
vậy mà đời này thì sung sướng nhưng mai kia sẽ khổ sở, nên nói từ sáng vào tối.
Tới đây chúng ta thấy trách nhiệm của Tăng Ni là làm thầy dẫn đường cho
người đời. Vì vậy mình phải tự tu cho sáng được lý đạo, để rồi hướng dẫn người
biết đường thoát ra khỏi cảnh mê mờ u tối, bằng cách mồi đuốc trí tuệ với chánh
pháp của Phật. Chính Tăng Ni phải là ngọn đuốc soi đường cho người đời đi đúng
hướng, chớ không thể chấp nhận một kẻ dẫn đường là người mù dẫn theo một số
người đui, chắc chắn không tránh khỏi cảnh lạc đường hay sa hầm sụp hố, khổ đau
không có ngày cùng.
4. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh
đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng: “Đức Thế Tôn nói pháp được an ổn,
thương xót làm lợi ích cho các trời và nhân dân.” Lại nói kệ rằng:
 Đức Phật không ai bằng
 Trăm phước tự trang nghiêm
 Được trí huệ vô thượng
 Nguyện vì đời nói pháp
 Độ thoát cho chúng con
 Và các loài chúng sanh
 Xin phân biệt chỉ bày
 Cho được trí huệ Phật
 Nếu chúng con thành Phật
 Chúng sanh cũng được thế
 Thế Tôn biết chúng sanh
 Thâm tâm nghĩ tưởng gì
 Cũng biết đạo chúng làm
 Lại biết sức trí huệ
 Muốn ưa và tu phước
 Nghiệp gây tạo đời trước
 Thế Tôn biết cả rồi
 Nên chuyển pháp Vô thượng.
GIẢNG :
Trên là cảnh khổ của chúng sanh không gặp Phật ra đời. Nay được Phật ra
đời là điều mãn nguyện bậc nhất của các vương tử nên các Ngài tán thán và khẩn
cầu Phật vì lợi ích chúng sanh mà chuyển pháp luân.
5. CHÁNH VĂN :
*Phật bảo các Tỳ-kheo: Lúc đức Đại Thông Trí Thắng Phật được quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm 
muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm
ánh sáng của nhựt nguyệt không soi tới được mà đều sáng rỡ, trong đó chúng sanh
đều được thấy nhau, đồng nói rằng: “Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh ?”
Lại trong các cõi đó cung điện của chư thiên cho đến Phạm cung sáu điệu
vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời.
GIẢNG :
Khi đức Đại Thông Trí Thắng thành Phật thì năm trăm muôn ức cõi Phật ở
mỗi phương trỗi lên sáu điệu vang động. Trong cõi nước chỗ nào tối tăm, ánh sáng
mặt trời mặt trăng không đến được, nay nhân Phật thành đạo, hào quang của Phật
bủa khắp cả mười phương, chỗ tối tăm người ta không thấy nhau bây giờ được
thấy. Do đó, các chúng sanh mới lần theo ánh sáng tìm đến chỗ Phật ngự. Khi đến
nơi, ra mắt Phật, tán thán Phật, cúng dường Phật và cuối cùng thỉnh Phật chuyển
pháp luân. Phần này, đứng về mặt sự thì trí tuệ Phật là cái hằng sáng soi khắp tất
cả chỗ, được dụ như mặt trời không chỗ nào là soi chẳng đến. Tại sao ? Vì do công
phu thiền định sâu nên khi giác ngộ thì giác ngộ viên mãn. Do giác ngộ viên mãn
nên trí tuệ trùm khắp cả mười phương. Đứng về lý thì trí tuệ Phật không sanh,
không diệt không bị hạn cuộc ở thời gian như đã trình bày ở đoạn trước, và ở đây
thì nói trí tuệ Phật không hình, không tướng nên không bị hạn cuộc bởi không gian.
Trong kinh thường ví trí tuệ Phật rộng lớn như hư không, phàm cái gì có hình
tướng là có giới hạn, còn hư không không hình tướng nên không ngằn mé, không
giới hạn, bởi không giới hạn nên trùm khắp cả mười phương, vì vậy mà đâu đâu
cũng thấy được ánh sáng Phật.
Khi chúng sanh còn mê thì trí tuệ Phật bị hạn cuộc trong thân năm uẩn, bị
giới hạn bởi ý niệm thời gian. Khi đã giác ngộ rồi, hết vô minh phiền não thì trí tuệ
Phật bủa khắp tất cả chỗ. Sự kiện này người giác ngộ thì tự biết. Bây giờ chúng ta
chỉ lý luận để tạm hiểu chớ chưa phải là thấy thật. Do đó phải nỗ lực tu hành để
nhận ra lẽ thật ấy.
6. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, phương Đông, năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của
trời Phạm thiên ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm
thiên vương đều tự nghĩ rằng: “Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có,
vì nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này ?” Lúc đó các vị Phạm thiên vương liền đi
đến nhau để chung bàn việc đó. Trong chúng có một vị Phạm thiên vương lớn tên
Cứu Nhứt Thiết vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
 Các cung điện chúng ta
 Sáng suốt chưa từng có
 Đây là nhân duyên gì
 Phải nên chung nhau tìm
 Là trời Đại đức sanh
 Hay là Phật ra đời
 Mà ánh sáng lớn này
 Khắp soi cả mười phương. 
Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm thiên vương cùng chung
với cung điện mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây
suy tìm tướng sáng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử ở
nơi đạo tràng dưới cội bồ-đề, hàng chư thiên, Long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la,
ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân... cung kính vây quanh đức Phật, và thấy mười sáu
vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân; tức thời các vị Phạm thiên vương đầu
mặt lạy chưn Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Diệu Cao, cùng để cúng dường cây bồ-
đề của Phật, cây bồ-đề đó cao mười do-tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem
cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: “Xin đức Phật đoái thương lợi ích cho
chúng con, cung điện dâng cúng đây xin nạp ở.”
Lúc đó, các vị Phạm thiên vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng
dùng kệ khen rằng:
 Thế Tôn rất ít có
 Khó thể gặp gỡ được
 Đủ vô lượng công đức
 Hay cứu hộ tất cả
 Thầy lớn của trời người
 Thương xót ở trong đời
 Mười phương các chúng sanh
 Khắp đều nhờ lợi ích.
 Chúng con cùng theo đến
 Năm trăm muôn ức nước
 Bỏ vui thiền định sâu
 Vì để cúng dường Phật
 Chúng con phước đời trước
 Cung điện rất tốt đẹp
 Nay đem dưng Thế Tôn
 Cúi xin thương nạp thọ.
Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương nói kệ khen đức Phật rồi đều thưa rằng:
“Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sanh mở đường Niết-bàn.”
Khi ấy, các vị Phạm thiên vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:
 Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn
 Cúi xin diễn nói pháp
 Dùng sức từ bi lớn
 Độ chúng sanh khổ não.
Lúc đó, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai lắng yên nhận lời đó.
*Lại nữa các Tỳ-kheo ! Phương Đông Nam năm trăm muôn ức cõi nước
các vị Phạm thiên vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa
chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền cùng đến nhau chung bàn
việc đó. Lúc ấy trong chúng đó có một vị Phạm thiên vương tên là Đại Bi, vì các
Phạm chúng mà nói kệ rằng:
 Việc đó nhân duyên gì 
 Mà hiện tướng như thế ?
 Các cung điện chúng ta
 Sáng suốt xưa chưa có
 Là trời Đại đức sanh
 Hay là Phật ra đời ?
 Chưa từng thấy tướng này
 Nên chung một lòng cầu
 Quá nghìn muôn ức cõi
 Theo luồng sáng tìm đó
 Phần nhiều Phật ra đời
 Độ thoát khổ chúng sanh.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm thiên vương cùng chung với cung
điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây Bắc suy tìm tướng đó.
Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội bồ-
đề, các hàng chư thiên, Long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân
cùng phi nhân v.v... cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật
chuyển pháp luân.
Khi ấy các vị Phạm thiên vương đầu mặt lạy chưn Phật, đi quanh trăm
nghìn vòng... liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao,
cùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung
điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: “Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con,
những cung điện dâng đây cúi xin nhận ở”.
Lúc đó, các vị Phạm thiên vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói
kệ khen rằng:
 Thánh Chúa vua trong trời
 Tiếng ca-lăng-tần-già
 Thương xót hàng chúng sanh
 Chúng con nay kính lễ.
 Thế Tôn rất ít có
 Lâu xa một lần hiện
 Một trăm tám mươi kiếp
 Luống qua không có Phật
 Ba đường dữ dẫy đầy
 Các chúng trời giảm ít.
 Nay Phật hiện ra đời
 Làm mắt cho chúng sanh
 Chỗ qui thú của đời
 Cứu hộ cho tất cả
 Là cha của chúng sanh
 Thương xót làm lợi ích
 Nhờ phước lành đời trước
 Nay được gặp Thế Tôn. 
Khi đó, các vị Phạm thiên vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng:
“Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả chuyển pháp luân cho, để độ thoát chúng
sanh.”
Lúc ấy, các vị Phạm thiên vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:
 Đại Thánh chuyển pháp luân
 Chỉ bày các pháp tướng
 Độ chúng sanh đau khổ
 Khiến được rất vui mừng
 Chúng sanh nghe pháp này
 Được đạo hoặc sanh thiên
 Các đường dữ giảm ít
 Bậc nhẫn thiện thêm nhiều.
Khi đó, đức Đại Thông Trí Thắng Phật lặng yên nhận lời.
*Lại nữa các Tỳ-kheo ! Năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị
Đại Phạm vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa có, vui
mừng hớn hở sanh lòng hi hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhân
duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng chói này ?
Trong chúng đó có một vị Phạm thiên vương lớn tên là Diệu Pháp, vì hàng
Phạm chúng mà nói kệ rằng:
 Các cung điện chúng ta
 Quang minh rất oai diệu
 Đây không phải không nhân
 Tướng này phải tìm đó
 Quá hơn trăm nghìn kiếp
 Chưa từng thấy tướng này
 Là trời Đại đức sanh
 Hay đức Phật ra đời ?
Bấy giờ, năm trăm muôn ức Phạm thiên vương cùng cung điện chung, mỗi
vị dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy
đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội cây bồ-đề,
hàng chư thiên, Long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân và phi
nhân v.v... cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật
chuyển pháp luân.
Khi đó, các vị Phạm thiên vương, đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn
vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao và
để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung
điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: “Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng
con, cung điện của chúng con dâng đây cúi xin nạp xử.” Bấy giờ, các vị Đại Phạm
thiên vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
 Thế Tôn rất khó thấy
 Bậc phá các phiền não
 Hơn trăm ba mươi kiếp
 Nay mới thấy một lần 
 Hàng chúng sanh đói khát
 Nhờ mưa pháp đầy đủ
 Xưa chỗ chưa từng thấy
 Đấng vô lượng trí huệ
 Như hoa ưu-đàm-bát
 Ngày nay mới gặp gỡ
 Cung điện của chúng con
 Nhờ hào quang được đẹp
 Thế Tôn đại từ mẫn
 Cúi xin thương nhận ở.
Khi đó, các vị Phạm thiên vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng:
“Cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân làm cho tất cả thế gian các hàng trời,
ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn đều được an ổn mà được độ thoát.”
Lúc ấy, các vị Phạm thiên vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
 Cúi mong Thiên Nhân Tôn
 Chuyển pháp luân Vô thượng
 Đánh vang pháp cổ lớn
 Mà thổi pháp loa lớn
 Khắp rưới pháp vũ lớn
 Độ vô lượng chúng sanh
 Chúng con đều qui thỉnh
 Nên nói tiếng sâu xa.
Khi đó, đức Đại Thông Trí Thắng lặng yên nhận lời đó.
*Phương Tây Nam nhẫn đến phương dưới cũng lại như thế.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước ở Thượng phương, các vị Đại Phạm
thiên vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa
từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó.
Vì nhân duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng này ? Lúc đó, trong chúng
có một vị Đại Phạm thiên vương tên là Thi-khí vì hàng Phạm chúng mà nói kệ
rằng:
 Nay vì nhân duyên gì
 Cung điện của chúng ta
 Ánh sáng oai đức chói
 Đẹp đẽ chưa từng có
 Tướng tốt như thế đó
 Xưa chưa từng nghe thấy
 Là trời Đại đức sanh
 Hay là Phật ra đời ?
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm thiên vương cùng cung điện
chung, mỗi vị đều dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm
tướng sáng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo
tràng dưới cội bồ-đề, hàng chư thiên, Long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-
hầu-la-dà, nhân và phi nhân v.v... cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương
tử thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Lúc đó, các vị Phạm thiên vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn
vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật. Hoa rải nhóm như núi Diệu Cao và để
cúng dường cây bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng
lên đức Phật mà bạch rằng: “Xin đoái thương lợi ích chúng con. Cung điện dâng
đây cúi mong Phật nhận ở.”
Lúc đó, các vị Phạm thiên vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng
dùng kệ khen rằng:
 Hay thay ! Thấy các Phật
 Đấng Thánh Tôn cứu thế
 Hay ở ngục tam giới
 Cứu khỏi các chúng sanh
 Thiên Nhân Tôn trí khắp
 Thương xót loài quần manh
 Hay khai môn cam lồ
 Rộng độ cho tất cả.
 Lúc xưa vô lượng kiếp
 Luống qua không có Phật
 Khi Phật chưa ra đời
 Mười phương thường mờ tối
 Ba đường dữ thêm đông
 A-tu-la cũng thạnh
 Các chúng trời càng bớt
 Chết nhiều đọa ác đạo
 Chẳng theo Phật nghe pháp
 Thường làm việc chẳng lành
 Sắc, lực, cùng trí huệ
 Các việc đều giảm ít
 Vì tội nghiệp nhân duyên
 Mất vui, cùng tưởng vui
 Trụ trong pháp tà kiến
 Chẳng biết nghi tắc lành
 Chẳng nhờ Phật hóa độ
 Thường đọa trong ác đạo.
 Phật là mắt của đời
 Lâu xa mới hiện ra
 Vì thương các chúng sanh
 Nên hiện ở trong đời
 Siêu việt thành Chánh giác
 Chúng con rất mừng vui
 Và tất cả chúng khác
 Mừng khen chưa từng có. 
 Cung điện của chúng con
 Nhờ hào quang nên đẹp
 Nay đem dưng Thế Tôn
 Cúi mong thương nhận ở.
 Nguyện đem công đức này
 Khắp đến cho tất cả
 Chúng con cùng chúng sanh
 Đều đồng thành Phật đạo.
Khi đó, năm trăm muôn ức các vị Phạm thiên vương nói kệ khen đức Phật
rồi, đều bạch Phật rằng: “Cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân, nhiều chỗ an
ổn, nhiều chỗ độ thoát.” Lúc ấy, các vị Phạm thiên vương đồng nói kệ rằng:
 Thế Tôn chuyển pháp luân
 Đánh trống pháp cam lồ
 Độ chúng sanh khổ não
 Mở bày đường Niết-bàn
 Cúi mong nhận lời con
 Dùng tiếng vi diệu lớn
 Thương xót mà nói bày
 Pháp tu vô lượng kiếp.
GIẢNG :
Phật vì muốn đưa mình và chúng sanh ra khỏi khổ luân hồi sanh, lão, bịnh,
tử, mới xuất gia tu hành. Khi thành Phật rồi sao Ngài không đi giáo hóa cứu độ
chúng sanh hết khổ, mà đợi khuyến thỉnh mới ra nói pháp ? Thái độ này không
riêng gì đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai mà ngay cả đức Thích-ca cũng vậy,
Phật có thiếu từ bi chăng? Theo tâm lý thông thường thì những gì mà người đời
không ưa thích, chưa biết giá trị, dù vật có quí giá đem cho, họ vẫn không trọng.
Hơn thế nữa, Phật pháp cao siêu vượt ngoài sự hiểu biết thông thường của con
người, nên khó nói, khó hiểu, khó nhận. Cái cao quí, khó nói khó hiểu khó nhận,
nếu đem cho một cách dễ dàng thì sẽ bị khinh thường, khi đã khinh thường thì
người không cố gắng tu học để được lợi ích. Phật sẵn sàng cho nhưng người nhận
phải thiết tha mong cầu. Đã thiết tha mong cầu thì khi nhận mới chịu áp dụng tu
hành, có tu mới lợi ích. Vì vậy khi Phật thành đạo, đợi mấy phen thưa thỉnh Ngài
mới chuyển pháp luân.
Trí tuệ Phật trùm khắp tất cả chỗ, chúng sanh trong mười phương được soi
sáng, nên tìm đến để cúng dường hương hoa cùng cung điện, xin Phật nạp thọ và
cung thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Trong phần này có đề cập đến những chúng sanh không theo Phật nghe
pháp, thường làm việc ác nên sắc, lực cùng trí tuệ đều suy giảm. Tại sao ? Vì
người tạo nghiệp ác là do thiếu trí tuệ nên tâm không sáng, vì tâm không sáng nên
hiện ra tướng bên ngoài u tối, và sức lực yếu kém, do quả báo sát sanh hại vật
chiêu cảm mà nên. Đồng là người sanh ra trong cõi đời mà người thì sắc diện trí
tuệ sáng suốt, sức lực khỏe mạnh, kẻ thì sắc diện tối, sức lực yếu kém, đó là kết
quả do tạo nghiệp ác hay nghiệp lành mà nên. 
“Vì tội nghiệp nhân duyên, mất vui cùng tưởng vui.” Tội nghiệp đây không
có nghĩa là thương xót theo tình cảm thông thường của chúng ta mà là thân, khẩu,
ý tạo nghiệp gây tội, do nghiệp và tội đó là nhân là duyên cho nên mất vui cùng
tưởng vui. Mất vui cùng tưởng vui là sao ? Vì nhân duyên gây tạo nghiệp xấu ác
nên có tội, vì có tội nên không được hưởng thú vui ở thế gian, không được vui mà
lòng vẫn ham muốn, do lòng ham muốn nên cứ mơ tưởng đến lạc thú. Đó là do tội
nghiệp mà ra vậy.
“Trụ trong pháp tà kiến, chẳng biết nghi tắc lành, chẳng nhờ Phật hóa độ,
thường đọa trong ác đạo.” Có những chúng sanh thấy biết lệch lạc sai lầm, không
biết điều thiện việc lành, cái không đáng nghĩ cứ nghĩ, việc không nên làm cứ làm,
không có duyên với Phật nên không được Phật hóa độ. Vì vậy mà đọa trong đời ác.
Phật là bậc trí tuệ dẫn dắt đưa chúng sanh ra khỏi chỗ mê lầm tối tăm nên nói Phật
là mắt của đời.
Tóm lại, mười sáu vị vương tử cho đến mười phương tất cả Phạm Thiên
đều đến cúng dường tán thán Phật, và cầu thỉnh Phật thương xót chuyển pháp luân
độ cho chúng sanh được thành Phật.
"
7. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các
Phạm thiên vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp luân
mười hai hành hoặc là Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc là trời, ma, Phạm và các thế gian
khác đều không thể chuyển được, nói: đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt,
đây là đạo diệt khổ.
Và rộng nói pháp Mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên
thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc
duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên
lão, tử, ưu bi, khổ não.
Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc
diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ
diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời
sanh diệt, sanh diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Đức Phật ở trong đại chúng trời, người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn
ức na-do-tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát,
đều được thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.
Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nghìn muôn ức Hằng hà
sa na-do-tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được
giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh văn nhiều vô lượng vô biên, không
thể tính kể được.
GIẢNG :
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ở thời xa xưa khi bắt đầu giáo hóa cũng
dùng phương tiện nói pháp Tứ đế gọi là “tam chuyển pháp luân, thập nhị hành”.
Tam chuyển pháp luân là Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển. Thị chuyển 
là Phật chỉ rõ bốn lẽ thật có tánh cách khách quan: đây là khổ, đây là khổ tập, đây
là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ. Khuyến chuyển là Phật khuyên năm vị Tỳ-kheo
xưa chưa từng nghe, nay cần phải biết hãy chánh tư duy để phát sanh trí tuệ: đây là
khổ các ông phải biết, đây là tập các ông phải đoạn, đây là diệt các ông phải chứng,
đây là đạo các ông phải tu. Chứng chuyển, Phật nói đối với pháp Tứ đế Ngài đã
biết, đã tu, đã đoạn và đã chứng. Đây là khổ ta đã biết, đây là khổ tập ta đã đoạn,
đây là khổ diệt ta đã chứng, đây là khổ đạo ta đã tu. Phật nói về Tứ đế ba lần là thị
chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển mỗi lần đều lặp lại bốn đế, ba lần lặp lại,
thành muời hai. Nên nói Thập nhị hành. Lần thứ nhứt chưa hiểu nói cho hiểu, lần
thứ hai hiểu rồi phải tu, lần thứ ba tu rồi để chứng.
Đức Phật thuyết pháp rất cụ thể, mỗi khi Ngài nói điều gì thì điều đó Ngài
đã biết rõ, đã thực hành và được lợi ích, khuyên người nên làm để được lợi ích
như Ngài, nên lời Phật dạy rất có giá trị được coi là chân lý. Chúng ta ngày nay
nói pháp, chỉ lý thuyết suông thiếu cụ thể, có khi lại mâu thuẫn nữa. Vì vậy tốn
công rất nhiều mà kết quả rất ít. Điều mình dạy người mà chính bản thân mình
chưa thực hành được thì làm sao có đủ kinh nghiệm, đủ lòng tin, để hướng dẫn
người ? Trên đây là Phật chuyển pháp luân, chúng ta chớ lầm lối chuyển luân xa
của ngoại đạo là dẫn điển chạy từ rún qua xương cùng, rồi theo xương sống chạy
lên đầu xuống rún trở lại, dẫn điện chạy vòng vòng trong người gọi là chuyển luân
xa. Hiện tại có nhiều người mang hình thức tu sĩ Phật giáo đầu tròn áo vuông vẫn
tin và tu theo, thực là một việc đáng tiếc! Danh từ Phật giáo bị ngoại đạo lợi dụng,
thế mà người tu Phật không biết lại thực hành theo!
Kế đến là Phật nói pháp mười hai nhân duyên là vô minh duyên hành, hành
duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập... cho tới sanh duyên
lão tử, ưu bi khổ não, đó là chiều lưu chuyển. Còn chiều hoàn diệt là vô minh diệt
thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt... cho tới sanh diệt thì lão tử diệt, ưu bi khổ
não không còn. Căn cứ vào mười hai pháp nhân duyên thì đầu mối của luân hồi
sanh tử là vô minh. Từ vô minh dẫn tới hành rồi thúc đẩy thức đi thọ sanh, khi có
bào thai thì có danh sắc, có danh sắc thì có lục nhập... Cứ như vậy tạo nghiệp rồi
trở lại sanh, liên miên không cùng tận. Muốn dứt vòng luân hồi đó là phải diệt vô
minh, làm cho trí tuệ bừng sáng thì hết tạo nghiệp tức là hành diệt, nếu hết tạo
nghiệp thì thức không còn đi thọ sanh, nên thức diệt... Nhưng mà vô minh gốc,
thuộc về quá khứ không thể diệt, phải đoạn vô minh hiện tại là ái, thủ, hữu, nếu ái,
thủ, hữu dứt thì vô minh gốc cũng không còn. Vậy làm thế nào phá vô minh ? Mọi
nguời ai cũng thấy thân này là thật, thấy vọng tưởng là thật, thấy cảnh vật là thật.
Dùng trí Bát-nhã quán chiếu thấy thân này do duyên hợp tạm có, vọng tưởng cũng
là tướng duyên hợp chợt hiện chợt mất, cảnh vật cũng là tướng duyên hợp không
thật. Khi thấy thân này không thật, vọng tưởng không thật, cảnh vật không thật thì
ái, thủ, hữu theo đó mà dứt. Như vậy vô minh diệt thì hành diệt ngay trong đời này.
Đó là dùng trí tuệ phá dẹp vô minh để thoát khỏi luân hồi sanh tử. Nhưng từ đâu
mà thắp sáng trí tuệ ? Kinh A-hàm Phật có dạy chư Tỳ-kheo: “Các ông hãy tự thắp
đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp.” Chánh pháp Phật dạy được kết tập
lại thành Tam tạng giáo điển, chúng ta học hiểu và thực hành theo lời Phật dạy 
bằng cách giữ giới luật, tu thiền quán, trí tuệ bừng sáng, không còn thấy biết mê
mờ, không tạo nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, đó là tự thắp đuốc lên với
chánh pháp để phá vô minh. Đạo Phật chủ trương phát huy trí tuệ để dẹp vô minh,
vì vậy trong tất cả thời khóa tụng niệm ở trong chùa đều có tụng Bát-nhã tâm kinh.
Bát-nhã tâm kinh là kinh dạy cho chúng ta dùng trí thấy đúng như thật về thân, về
tâm, về pháp. Bất cứ pháp tu nào cũng phải có trí tuệ, để phá vô minh mới dứt luân
hồi sanh tử. Trước tự mình tu, sau là giáo hóa cho người tu, hết vô minh thoát ly
sanh tử luân hồi. Đó là mồi đuốc chánh pháp, hay nói theo tinh thần Thiền tông là
truyền đăng tục diệm.
Sau đây Phật lại dạy: “Do không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải
thoát, đều được thiền định sâu mầu ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải
thoát.” Không thọ tất cả các pháp là sao? Kinh Phạm Động trong Trường A-hàm
có ghi lại giai đoạn Phật đi du hóa gặp hai người Phạm chí, thầy thì dùng đủ cách
để chê Phật, trò cũng dùng đủ cách để khen Phật. Khi về tinh xá Phật dạy các Tỳ-
kheo: Nếu gặp người hủy báng Phật, Pháp, Tăng, các ngươi chớ sinh oán giận,
hoặc có ác ý với người ta, vì như vậy sẽ bị hãm nịch. Và khi gặp người khen ngợi
tán thán Phật, Pháp, Tăng, các ngươi lấy đó làm vui mừng kiêu hãnh cũng bị hãm
nịch. Vì khi vui mừng kiêu hãnh hay oán giận có ác ý thì không thấy đúng lẽ thật,
mờ tối không có trí tuệ nên bi ưu khổ não bủa vây.
Phật lại nói tiếp, người chỉ căn cứ vào hình thức giới tướng như ăn một
ngày một bữa, mặc chỉ ba y, đêm thức nhiều ngủ ít, hành hạnh khất thực... Phật
nói người khen Ngài như vậy là chưa hiểu Ngài. Chỗ đáng khen của Ngài chỉ có
các bậc A-la-hán mới biết để khen là: “Ngài biết tất cả pháp mà không thọ.” Thế
nào là không thọ ? Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với sáu trần sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp không thọ nhận. Mắt thấy cảnh, thấy người biết là cảnh
là người, chớ không thấy cảnh đẹp người đẹp thì ưa thích, thấy cảnh xấu người
xấu thì ghét bỏ, đó là không thọ. Hoặc tai nghe tiếng khen biết là khen, nghe tiếng
chê biết là chê, không nhận tiếng khen khởi tâm vui mừng, không nhận tiếng chê
sanh tâm buồn giận, đó là không thọ. Nếu thấy cảnh đẹp người đẹp hay nghe tiếng
khen mà sanh lòng ưa thích đó là thọ lạc. Hoặc thấy cảnh xấu người xấu hay tiếng
chê mà sanh buồn giận đó là thọ khổ. Tắng ái sở dĩ có là do thọ khổ thọ lạc mà ra.
Nếu không có tắng ái làm gì có thủ và hữu đời sau ? Nên nói không thọ tất cả là
nhân giải thoát.
Nhưng làm sao không thọ ? Mắt thấy vật thấy người, biết đẹp biết xấu, tai
nghe tiếng khen tiếng chê, biết là khen là chê. Nhưng đẹp xấu khen chê, dùng trí
tuệ biết rõ nó là tướng duyên hợp không thật. Đẹp trên tướng giả, xấu trên tướng
giả, khen trên tướng giả, chê trên tướng giả. Thấy đúng lẽ thật của các pháp không
lầm, không lầm thì không thọ, không thọ thì không nhiễm trước do đó mà được vô
lậu giải thoát. Chúng ta vì si mê nên lầm chấp các pháp, chấp các pháp là thọ nên
tự trói buộc, sanh vô số phiền não khổ đau, đi mãi trong luân hồi sanh tử.
8. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa-di, các
căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các 
đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều
bạch cùng Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Các vị Đại đức Thanh văn vô lượng nghìn
muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học. Thế Tôn !
Chúng con có chí mong được Tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm
tâm, đức Phật tự chứng biết cho.”
Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh vương
dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận
cho.
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa-di qua hai muôn kiếp sau mới ở
trong hàng bốn chúng nói kinh Đại thừa tên là: “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát
Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Đức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa-di vì đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác đều đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói
kinh đó, mười sáu vị Sa-di Bồ-tát thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh văn cũng có
người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm.
Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền
vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
GIẢNG :
Mười sáu vị vương tử xuất gia làm Sa-di các căn trí lanh sáng, thiết tha cầu
Phật Đại Thông Trí Thắng nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để các
Ngài được nghe và được tu chứng thành Phật. Đức Đại Thông Trí Thắng Phật thể
theo lời yêu cầu của mười sáu vị Sa-di, Ngài nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nói
xong liền trụ trong thiền định suốt 84.000 kiếp.
9. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, mười sáu vị Bồ-tát Sa-di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định
vắng bặt, mỗi vị đều lên pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ
chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy
cho được lợi mừng, khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG :
Sau khi biết Phật Đại Thông Trí Thắng trụ trong thiền định, muời sáu vị
Bồ-tát Sa-di đều lên pháp tòa vì tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa, mỗi vị đều độ vô
số chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị Sa-di chỉ là
Bồ-tát thôi, chưa chứng quả Phật mà vẫn ra nói pháp cho tứ chúng nghe. Vì các vị
Bồ-tát Sa-di đã tin thọ lời Phật dạy rồi, nên có quyền ra hành Bồ-tát đạo độ chúng
sanh cho công hạnh tự giác giác tha được viên mãn để thành Phật. Chúng ta thấy
rõ tinh thần của đạo Phật, ngoài công việc tự giác ở chính mình, còn phải làm lợi
ích cho chúng sanh, chớ không phải đợi tu thành Phật rồi mới ra giáo hóa. Như
chúng ta đã thấy Phật Thích-ca thường nhắc lại ở kinh Bổn Sanh, trải qua nhiều
đời nhiều kiếp Ngài hành Bồ-tát đạo, kiếp sau cùng mới thành Phật dưới cội bồ-đề.
Nên nói tự giác giác tha viên mãn thì thành Phật.
10. CHÁNH VĂN : 
*Đức Đại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tammuội
dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng:
“Mười sáu vị Bồ-tát Sa-di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã
từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường
tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó.
Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy.
Vì sao? Nếu hàng Thanh văn, Duyên giác cùng các Bồ-tát có thể tin kinh
pháp của mười sáu vị Bồ-tát Sa-di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ
được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trí huệ của Như Lai.”
GIẢNG :
Pháp mà mười sáu vị Sa-di Bồ-tát nói là kinh Pháp Hoa, tức là Tri kiến
Phật. Các Ngài đã tin nhận được Tri kiến Phật rồi thọ trì tu hành, sau này chắc
chắn sẽ thành Phật không nghi. Đó là trách nhiệm giáo hóa của Đức Phật Đại
Thông Trí Thắng đã xong.
11. CHÁNH VĂN :
*Phật bảo các Tỳ-kheo: “Mười sáu vị Bồ-tát đó thường ưa nói kinh Diệu
Pháp Liên Hoa nầy. Sáu trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa chúng sanh của mỗi
vị Bồ-tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ-tát ở chung, theo nghe pháp với
Bồ-tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó mà được gặp bốn muôn ức các đức
Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.
Các Tỳ-kheo ! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa-di đệ tử của đức Phật kia
nay đều chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiện đương nói pháp
trong cõi nước ở mười phương, có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ-tát, Thanh
văn để làm quyến thuộc.
Hai vị Sa-di làm Phật ở phương Đông: vị thứ nhứt tên là A-súc ở nước
Hoan Hỉ, vị thứ hai tên là Tu-di Đảnh. Hai vị làm Phật ở phương Đông Nam: vị
thứ nhứt tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng. Hai vị làm Phật ở
phương Nam: vị thứ nhứt tên là Hư Không Trụ, vị thứ hai tên là Thường Diệt. Hai
vị làm Phật ở phương Tây Nam: vị thứ nhất tên là Đế Tướng, vị thứ hai tên là
Phạm Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Tây: vị thứ nhứt tên là A-di-đà, vị thứ hai
tên là Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: vị
thứ nhứt tên là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tudi
Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: vị thứ nhứt tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai
tên là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Đông Bắc hiệu Hoại Nhứt
Thiết Thế Gian Bố Úy. Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích-ca Mâu-ni Phật ở cõi
nước Ta-bà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các Tỳ-kheo ! Lúc chúng ta làm Sa-di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm
nghìn muôn Hằng hà sa chúng sanh, vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
theo ta nghe pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bậc Thanh văn, ta
thường giáo hóa pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những bọn người này
đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo.
Vì sao? Vì trí tuệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng Hằng hà sa chúng
sanh được hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ-kheo, và sau khi ta diệt 
độ các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe
kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ-tát, tự ở nơi công đức của mình được
tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng
là diệt độ nhập Niết- bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ Phật được nghe kinh này,
chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai
phương tiện nói pháp.
Các Tỳ-kheo ! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết-bàn sắp đến, chúng lại
thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn
nhóm các Bồ-tát và chúng Thanh văn mà vì nói kinh này. Trong đời không có hai
thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa được diệt độ thôi.
Các Tỳ-kheo nên rõ ! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh,
biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham năm món dục, vì hạng người này mà nói Niết-bàn,
người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
GIẢNG :
Những vị Sa-di Bồ-tát do nghe kinh Pháp Hoa và nói kinh Pháp Hoa để
giáo hóa chúng sanh, sau này ra đời đều gặp chư vị Bồ-tát, và chư Phật tiếp tục tu
hành tiến mãi trên đường tu cho đến khi thành Phật. Và sau khi thành Phật thì cứ
hai vị giáo hóa một phương, như phương Đông có Phật A-súc, Phật Tu-di Đảnh,
phương Nam có Phật Sư Tử Âm, Sư Tử Tướng... cho tới muời phương, phương
nào cũng có các Phật do đức Đại Thông Trí Thắng giáo hóa thành Phật. Và chính
đức Thích-ca Mâu-ni cũng do đức Đại Thông Trí Thắng là cha nói kinh Pháp Hoa
giáo hóa mà được thành Phật. Như vậy là thế nào ? Kinh Kim Cang có đoạn nói:
Kinh này là mẹ của chư Phật ba đời. Kinh điển từ miệng Phật nói ra, tại sao lại nói
kinh là mẹ của Phật ? Kinh này là chỉ cho Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật. Chư Phật
nếu được thành Phật là phải đầy đủ trí tuệ, nếu không có trí tuệ thì không thể thành
Phật, mà Phật là giác và giác là trí tuệ. Nên nói Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật là
mẹ của chư Phật. Cũng vậy, ở đây thay vì nói Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật là mẹ
của chư Phật thì dùng hình ảnh đức Phật Đại Thông Trí Thắng nói kinh Pháp Hoa,
con của Ngài nhân nghe kinh Pháp Hoa mà tu hành thành Phật ở khắp mười
phương. Như vậy, chư Phật ở mười phương được thành Phật là do đức Đại Thông
Trí Thắng là cha nói kinh Pháp Hoa, các Ngài nghe tu hành mà được thành Phật.
Đức Đại Thông Trí Thắng là chỉ cho Pháp thân, nếu muốn sống được với Pháp
thân thì không gì hơn là từ Tri kiến Phật mà vào, vì Tri kiến Phật là dụng của Pháp
thân.
Ví dụ một ngọn đèn đốt ở giữa nhà, nhà có sáu cửa mở rộng, người ở ngoài
nhà do thấy ánh sáng từ sáu cửa mà biết có đèn trong nhà, và phải do cửa mà vào
nhà mới thấy được ngọn đèn. Ngọn đèn dụ cho Pháp thân Phật, ánh sáng tỏa ra sáu
cửa dụ cho Tri kiến Phật. Tri kiến Phật từ Pháp thân tỏa ra gọi là dụng của Pháp
thân, muốn sống được với Pháp thân thì phải từ Tri kiến Phật mà vào, chớ không
có con đường nào khác. Vì vậy nên đây mới nói đức Đại Thông Trí Thắng giảng
kinh Pháp Hoa cho các Sa-di Bồ-tát tu và được thành Phật. Tóm lại muời phương
chư Phật đều từ cửa Tri kiến Phật mà ngộ nhập được Pháp thân Phật, chớ không 
có cửa nào đường nào khác. Vì vậy nên các Ngài tu trong vô lượng kiếp khi thành
Phật rồi mỗi vị phân ở mỗi phương, để nói lên ý nghĩa Pháp thân không bị giới
hạn bởi không gian và thời gian.
 Tới đây Phật nói trí tuệ Phật khó tin khó hiểu. Song, có vô số chúng sanh
đã được Phật giáo hóa, tu theo Phật chứng quả Thanh văn rồi đến Bồ-tát. Lại cũng
có người sau này nghe pháp Phật có lòng tin tưởng Phật nhập Niết-bàn là hết
không trở lại, không ngờ Phật thị hiện Niết-bàn ở đây rồi giáng sinh ở kia để giáo
hóa chúng sanh, chớ không phải ngang đó mà hết.
Diệt độ tức là Niết-bàn. Đạo Phật chỉ có một Niết-bàn duy nhất là Niết-bàn
Phật. Sở dĩ Phật nói Niết-bàn Thanh văn, Duyên giác chẳng qua là phương tiện
dẫn dụ, vì Ngài biết tâm chúng sanh thích ngũ dục ưa pháp nhỏ, để cho thấy dễ họ
ham mà hướng dẫn họ tu lần lần. Nếu nói tu lâu và phải chứng được Phật quả thì
họ ngán sanh lười mỏi không chịu tu.
12. CHÁNH VĂN :
*Thí như đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do-tuần, chốn ghê sợ
hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ
trân bửu, có một vị Đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của
con đường hiểm, dắt chúng nhân muốn vượt qua nạn đó. Chúng nhân được dắt đi
giữa đường lười mỏi bạch Đạo sư rằng: “Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt
chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về.”
Vị Đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: “Bọn nầy đáng thương,
làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về”. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện
ở giữa đường hiểm quá ba trăm do-tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng
nhân rằng: “Các ngươi chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể dừng ở trong
đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại
thẳng đến chỗ châu báu đi cũng được.”
Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay
khỏi được đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhân thẳng vào hóa thành sanh
lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc ấy Đạo sư biết chúng nhân đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt,
liền diệt hóa thành bảo chúng nhân rằng: “Các ngươi nên đi tới, chỗ châu báu ở
gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi.”
Các Tỳ-kheo ! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại
Đạo sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua.
Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng
muốn gần gũi, mà nghĩ thế nầy: “Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có
thể được thành.” Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện
mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết-bàn.
Nếu chúng sanh trụ nơi hai bậc, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói: “Chỗ
tu của các ông chưa xong, bậc của các ông ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát
suy lường Niết-bàn đã được đó chẳng phải chân thật vậy. Chỉ là sức phương tiện
của Như Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo sư kia vì cho 
mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo đó rằng:
“Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi.”
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Đại Thông Trí Thắng Phật
 Mười kiếp ngồi đạo tràng
 Phật pháp chẳng hiện tiền
 Chẳng được thành Phật đạo
 Các trời thần, Long vương,
 Chúng a-tu-la thảy
 Thường rưới các hoa trời
 Để cúng dường Phật đó
 Chư thiên đánh trống trời
 Và trỗi các kỹ nhạc
 Gió thơm thổi hoa héo
 Lại mưa bông tốt mới
 Quá mười tiểu kiếp rồi
 Mới được thành Phật đạo
 Các trời cùng người đời
 Lòng đều sanh hớn hở
 Mười sáu người con Phật
 Đều cùng quyến thuộc mình
 Nghìn muôn ức vây quanh
 Cùng đi đến chỗ Phật
 Đầu mặt lạy chân Phật
 Thỉnh Phật chuyển pháp luân:
 “Đấng Thánh sư mưa pháp
 Lợi con và tất cả
 Thế Tôn rất khó gặp
 Lâu xa một lần hiện
 Vì giác ngộ quần sanh
 Mà chấn động tất cả.”
 Các thế giới phương Đông
 Năm trăm muôn ức cõi
 Phạm cung điện sáng chói
 Từ xưa chưa từng có
 Phạm vương thấy tướng nầy
 Liền đến chỗ Phật ở
 Rải hoa để cúng dường
 Và dưng cung điện lên
 Thỉnh Phật chuyển pháp luân
 Nói kệ ngợi khen Phật
 Phật biết chưa đến giờ
 Nhận thỉnh yên lặng ngồi 
 Ba phương cùng bốn phía
 Trên, dưới cũng như thế
 Rưới hoa, dưng cung điện
 Thỉnh Phật chuyển pháp luân:
 “Thế Tôn rất khó gặp
 Nguyện vì bổn từ bi
 Rộng mở cửa cam lồ
 Chuyển pháp luân vô thượng.”
 * Thế Tôn huệ vô thượng
 Nhân chúng nhân kia thỉnh
 Vì nói các món pháp
 Bốn đế, mười hai duyên
 Vô minh đến lão tử
 Đều từ sanh duyên hữu
 Những quá hoạn như thế
 Các ông phải nên biết.
 Tuyên nói pháp đó rồi
 Sáu trăm muôn ức cai (Cai: một trăm triệu. )
 Được hết các ngằn khổ
 Đều thành A-la-hán
 Thời nói pháp thứ hai
 Nghìn muôn Hằng sa chúng
 Ở các pháp chẳng thọ
 Cũng được A-la-hán
 Từ sau đây được đạo
 Số đông đến vô lượng
 Muôn ức kiếp tính kể
 Không thể được ngằn mé.
 * Bấy giờ mười sáu vị
 Xuất gia làm Sa-di
 Đều đồng thỉnh Phật kia
 Diễn nói pháp Đại thừa:
 “Chúng con cùng quyến thuộc
 Đều sẽ thành Phật đạo
 Nguyện được như Thế Tôn
 Huệ nhãn sạch thứ nhất.”
 Phật biết lòng đồng tử
 Chỗ làm của đời trước
 Dùng vô lượng nhân duyên
 Cùng các món thí dụ
 Nói sáu Ba-la-mật
 Và các việc thần thông
 Phân biệt pháp chân thiệt 
 Đạo của Bồ-tát làm
 Nói kinh Pháp Hoa nầy
 Kệ nhiều như Hằng sa.
 Phật kia nói kinh rồi
 Vào tịnh thất nhập định
 Tám muôn bốn nghìn kiếp
 Một lòng ngồi một chỗ.
 Các vị Sa-di đó
 Biết Phật chưa xuất thiền
 Vì vô lượng chúng nói
 Huệ Vô thượng của Phật
 Mỗi vị ngồi pháp tòa
 Nói kinh Đại thừa nầy
 Sau khi Phật yên lặng
 Tuyên bày giúp giáo hóa.
 Mỗi vị Sa-di thảy
 Số chúng sanh mình độ
 Có sáu trăm muôn ức
 Hằng hà sa các chúng.
 Sau khi Phật diệt độ
 Các người nghe pháp đó
 Ở các nơi cõi Phật
 Thường cùng thầy sanh chung.
 Mười sáu Sa-di đó
 Đầy đủ tu Phật đạo
 Nay hiện ở mười phương
 Đều được thành Chánh giác
 Người nghe pháp thuở đó
 Đều ở chỗ các Phật
 Có người trụ Thanh văn
 Lần dạy cho Phật đạo.
 Ta ở số mười sáu
 Cũng từng vì ngươi nói
 Cho nên dùng phương tiện
 Dẫn ngươi đến huệ Phật
 Do bổn nhân duyên đó
 Nay nói kinh Pháp Hoa
 Khiến ngươi vào Phật đạo
 Dè dặt chớ kinh sợ.
 * Thí như đường hiểm dữ
 Xa vắng nhiều thú độc
 Và lại không cỏ nước
 Chốn mọi người ghê sợ
 Vô số nghìn muôn chúng
 Muốn qua đường hiểm nầy
 Đường đó rất xa vời
 Trải năm trăm do-tuần.
 Bấy giờ một Đạo sư
 Nhớ dai có trí huệ
 Sáng suốt lòng quyết định
 Đường hiểm cứu các nạn
 Mọi người đều mệt mỏi
 Mà bạch Đạo sư rằng:
 “Chúng con nay mỏi mệt
 Nơi đây muốn trở về.”
 Đạo sư nghĩ thế nầy
 Bọn nầy rất đáng thương
 Làm sao muốn lui về
 Cam mất trân bửu lớn ?
 Liền lại nghĩ phương tiện
 Nên bày sức thần thông
 Hóa làm thành quách lớn
 Các nhà cửa trang nghiêm
 Bốn bề có vườn rừng
 Sông ngòi và ao tắm
 Cửa lớn lầu gác cao
 Trai, gái đều đông vầy.
 Hóa ra thành đó rồi
 An ủi chúng: “Chớ sợ
 Các ngươi vào thành nầy
 Đều được vừa chỗ muốn.”
 Mọi người đã vào thành
 Lòng đều rất vui mừng
 Đều sanh tưởng an ổn
 Tự nói đã được độ.
 Đạo sư biết nghĩ xong
 Nhóm chúng mà bảo rằng:
 “Các ngươi nên đi nữa
 Đây là hóa thành thôi
 Thấy các ngươi mỏi mệt
 Giữa đường muốn lui về
 Nên dùng sức phương tiện
 Ta hóa làm thành nầy
 Các ngươi gắng tinh tấn
 Nên đồng đến chỗ báu
 * Ta cũng lại như vậy 
 Đạo sư của tất cả
 Thấy những người cầu đạo
 Giữa đường mà lười bỏ
 Không thể vượt đường dữ
 Sanh tử đầy phiền não
 Nên dùng sức phương tiện
 Vì nghỉ nói Niết-bàn.
 Rằng các ngươi khổ dứt
 Chỗ làm đều đã xong
 Đã biết đến Niết-bàn
 Đều chứng A-la-hán
 Giờ mới nhóm đại chúng
 Vì nói pháp chân thật
 Sức phương tiện các Phật
 Phân biệt nói ba thừa
 Chỉ có một Phật thừa
 Vì nghỉ nên nói hai
 Vì các ngươi nói thiệt
 Các ngươi chưa phải diệt,
 Vì Nhất thiết trí Phật
 Nên phát tinh tấn mạnh
 Ngươi chứng Nhất thiết trí
 Mười lực các Phật pháp
 Đủ băm hai tướng tốt
 Mới là chân thiệt diệt,
 Các Phật là Đạo sư
 Vì nghỉ nói Niết-bàn
 Đã biết ngơi nghỉ rồi
 Dẫn vào nơi huệ Phật.
GIẢNG :
Để cho rõ nghĩa hơn, Phật nói ví dụ: Có một đoàn người đi lấy trân bảo
phải đi qua con đường rất dài, hoang vắng không người, nhiều tai nạn nguy hiểm.
Đoàn người nầy đi qua được một đoạn đường dài khá mệt nhọc mà chưa tới chỗ
trân bảo, nên sanh tâm chán nản muốn thối lui. Khi đó vị hướng đạo là người
thông minh tài trí rõ biết đường đi, không muốn cho đoàn người mất lợi ích bèn dụ
dẫn đoàn người rằng, ở phía trước có một cái thành rất an ổn, hãy ráng đi chút nữa
rồi sẽ vào thành nghỉ ngơi cho khỏe. Nghe vị hướng đạo nói, mọi người rất vui
mừng, nỗ lực tiếp tục đi đến thành, vào trong ấy được mọi nhu cầu tiện nghi rất an
ổn, nên muốn nghỉ luôn ở đó. Vị hướng đạo thông minh tài trí biết đoàn người
nghỉ đã hết mệt, bèn nói với họ rằng thành nầy do ta hóa ra để cho các người nghỉ,
chớ không phải là chỗ chứa trân bảo. Hãy ra khỏi thành nầy và đi thêm một đoạn
đường nữa sẽ đến chỗ chúng ta muốn đến. Đoàn người hết mệt nhọc nên nên tiếp
tục đi đến đích. 
Đây là tâm bịnh chung của tu sĩ chúng ta, khi mới xuất gia tuổi còn trẻ phấn
chấn tu hành, nhưng khi tu được năm, mười năm, chưa chứng đạo quả bèn sanh
tâm lười mỏi muốn thối lui, vì thấy quả Phật khó thành. Trên đường tu hay gặp
những chướng nạn ma vương như sắc, tài, danh, lợi cám dỗ. Người tu không khéo
tỉnh giác thì mắc bẫy, sa hầm sụp hố. Nên tuổi trẻ đi tu thì nhiều nhưng giữ được
phạm hạnh thanh tịnh cho tới tuổi già thì rất ít. Số còn lại, người thì tay bồng tay
dắt, kẻ thì lạc ngõ tẽ nầy, kẻ thì lạc lối quanh nọ... Rốt cuộc rồi tu chẳng tới đâu.
Nên người hướng dẫn biết tâm bịnh đó phải khuyến khích, chẳng hạn như tôi nói
tu một giờ là tiến một giờ, tu một ngày là tiến một ngày, tu một tháng là tiến một
tháng. Vọng tưởng khởi, biết, không theo là giác, vọng tưởng khởi một trăm lần,
giác một trăm lần là tiến rồi. Tôi lấy cái nhỏ để khuyến khích họ, chớ bảo tọa thiền
nhập định năm, bảy ngày thì họ không thực hiện nổi, phải tùy theo trình độ mà
hướng dẫn, điều phục họ tiến cho xuôi đường thẳng lối, làm thầy khó là khó ở chỗ
đó.
Đây là phần hợp pháp thí dụ: Vị Đạo sư dẫn đường là dụ cho đức Phật.
Đoàn người đi tìm trân bảo dụ cho các bậc Thanh văn, Duyên giác đang tu theo sự
hướng dẫn của Phật. Hóa thành là Niết-bàn Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chỗ
chứa trân bảo tức quả Phật. Phật biết hàng Tỳ-kheo tu theo hạnh Thanh văn với
tâm nguyện nhỏ hẹp, nên trước Ngài nói tu đoạn sạch phiền não liền chứng Niếtbàn
tịch diệt. Niết-bàn đó chỉ là phương tiện, là Niết-bàn tạm thôi, vì chỉ làm lợi
ích cho mình, thiếu phần công đức lợi tha cho người nên chưa được viên mãn. Vì
vậy muốn được Niết-bàn cứu kính chân thật ngoài phần tự tu cho mình giác ngộ
thành Phật, còn phải giáo hóa cho người cũng được giác ngộ thành Phật như mình,
tới đó mới là viên mãn. Như vậy quí vị mới thấy tinh thần Tiểu thừa và Đại thừa dị
biệt ở chỗ nào. Thật ra tu mà giữ phạm hạnh, hết phiền não tâm thanh tịnh, sánh
với chúng ta thì quá quí. Tuy nhiên được phần mình rồi, nhìn lại người còn đang
mờ tối quờ quạng khổ đau, mà làm ngơ không hóa độ thì lòng từ chưa khai mở.
Nên ở trước Phật mới ví Niết-bàn Thanh văn giá đáng chừng một bữa ăn là vậy.
Phật dùng thí dụ nầy cho hàng Thanh văn thấy rõ thêm các Ngài đã có
chủng tử Tri kiến Phật và Niết-bàn các Ngài được chỉ là tạm, chưa phải cứu kính,
không nên an trú trong đó. Phải khởi tâm đại bi, ra giáo hóa chúng sanh cho công
hạnh tự giác giác tha viên mãn thành Phật. Vì thương chúng sanh, vì thương đệ tử
đi chưa tới chỗ cứu kính viên mãn, nên Phật dùng mọi phương tiện để giáo hóa,
thúc đẩy đi cho tới chỗ rốt ráo như Ngài, Ngài mới toại nguyện. Nên khi Phật nói
kinh Pháp Hoa rồi Ngài nhập Niết-bàn rất là hợp lý, vì đã có người tin nhận chỗ
Ngài muốn chỉ. Vì vậy, Phật Niết-bàn rồi mà Phật pháp vẫn còn tồn tại ở thế gian
không mất. Đây tôi nhắc lại một lần nữa, bản hoài của đức Phật là muốn cho mọi
người đều được giác ngộ thành Phật, chớ không bằng lòng cho bất cứ một ai dừng
ở bất cứ chặng đường nào. Nếu chúng ta hài lòng ở chặng đường nào đều bị Phật
quở.
Phẩm nầy có thể phân bốn đoạn:
1.- Trí tuệ Phật không bị hạn cuộc ở thời gian, vì định lực Phật rất thâm sâu
nên có thể nhớ vô số kiếp về quá khứ, thấy biết một cách tường tận không sai lầm. 
Và vì Trí tuệ Phật là thể sáng suốt thanh tịnh, vượt ngoài ý niệm về ngày tháng
năm theo thông lệ của thế gian.
2.- Trí tuệ Phật không bị giới hạn bởi không gian, vì Phật đã trải qua vô
lượng kiếp tu tập Trí tuệ, nên trí tuệ Phật viên mãn không giới hạn. Và trí tuệ Phật
là thể sáng suốt không hình tướng trùm khắp, nên không giới hạn bởi không gian.
3.- Mười sáu vị vương tử từ đức Phật Đại Thông Trí Thắng mà được thành
Phật, rồi phân vị mà giáo hóa ở tám phương. Điều nầy cho chúng ta thấy sức hiểu
biết của Phật không thể nghĩ bàn, không riêng ở cõi ta-bà mới có Phật như từ lâu
chúng ta nghĩ tưởng, mà ở những thế giới khác cũng có Phật giáo hóa. Trí tuệ Phật
là thể sáng suốt viên mãn trùm khắp tất cả không đâu không có. Và không ai tu mà
không từ Trí tuệ Phật khởi tu để được thành Phật.
4.- Dụ hóa thành cho thấy rằng Trí tuệ Phật rộng lớn không ngằn mé. Công
hạnh Phật không thể tính kể, với ý chí tầm thường của phàm phu không thể theo
nổi, nên Phật tùy căn cơ chúng sanh phương tiện nói Ngũ thừa Phật giáo hướng
dẫn từ thấp lần lên cao, cuối cùng đưa chúng sanh đến mục đích cứu kính mà Phật
muốn chỉ là Phật thừa. Còn kết quả được ở Ngũ thừa chỉ là quả an vui tạm bợ
không nên an trụ nơi ấy.
Muốn đạt được quả Phật thì phải trải qua nhiều kiếp tu lâu dài cho công
hạnh Bồ-tát đầy đủ, trí tuệ Phật viên mãn mới thành Phật.
D
PHẨM 8: NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KÝ
Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký là 500 vị đệ tử được Phật thọ ký sau sẽ thành Phật.
Ở phẩm Thí Dụ Phật đã thọ ký cho ngài Xá-lợi-phất ở phẩm Thọ Ký, Phật thọ ký
cho ngài Huệ Mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên- diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiềnliên
và tới đây Phật lại thọ ký cho 500 vị đệ tử như Phú-lâu-na, Kiều-trần-như...
sau sẽ thành Phật, vì lòng tin các Ngài đã thuần thục.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Mãn Từ Tử từ nơi đức Phật nghe trí huệ phương tiện
tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe thọ ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe các
đức Phật có sức tự tại thần thông lớn, được điều chưa từng có, lòng thanh tịnh hớn
hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng qua
một bên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm rời, mà nghĩ thế nầy:
“Thế Tôn rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánh ở
trong đời, dùng sức phương tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, cứu vớt chúng sanh ra
khỏi các chỗ tham trước, chúng con ở nơi công đức của Phật không thể dùng lời
nói mà tuyên bày được, chỉ có đức Phật Thế Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm
tâm của chúng con.”
GIẢNG :
Tôn giả Mãn Từ Tử nghe Phật thọ ký cho các bậc huynh trưởng, lòng Tôn
giả đã thanh tịnh, vui mừng đến đảnh lễ Phật và nghĩ rằng việc làm của Phật rất ít
có, Phật biết chủng tánh của chúng sanh, mà vì họ phương tiện nói pháp theo chỗ
họ mong muốn. Hôm nay trong hội nầy, nếu Phật theo bổn nguyện của Tôn giả mà
thọ ký cho thì thật là sung sướng, là điều mà Tôn giả trông mong chờ đợi đã lâu.
Đó là tâm khao khát được thọ ký của tôn giả Mãn Từ Tử.
2. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ông thấy Mãn Từ Tử đây chăng ?
Ta thường khen ông là bậc nhất trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các
món công đức của ông, ròng rặt siêng năng hộ trì giúp tuyên bày pháp của ta, có
thể chỉ dạy lợi mừng cho hàng bốn chúng giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật,
mà làm nhiều lợi ích cho những người cùng đồng hạnh thanh tịnh. Ngoài đức Như
Lai, không ai có thể cùng tận chỗ biện bác ngôn luận của ông. Các ông chớ tưởng
Mãn Từ Tử chỉ hay hộ trì trợ tuyên pháp của ta thôi, ông cũng đã ở nơi chín mươi
ức đức Phật thuở quá khứ mà hộ trì trợ tuyên chánh pháp của Phật, ở trong nhóm
người nói pháp thuở đó cũng là bậc nhất.
Ông lại ở pháp không của chư Phật nói, thông suốt rành rẽ, được bốn món
trí vô ngại, thường hay suy gẫm chắc chắn nói pháp thanh tịnh không có nghi lầm,
đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát tùy số thọ mạng mà thường tu hạnh thanh tịnh.
Người đời thuở đức Phật kia đều gọi ông thiệt là Thanh văn. Nhưng ông
Mãn Từ Tử dùng phương tiện đó làm lợi ích cho vô lượng trăm nghìn chúng sanh, 
lại giáo hóa vô lượng vô số người khiến đứng nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Ông vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.
Các Tỳ-kheo ! Ông Mãn Từ Tử cũng được bậc nhất ở trong hàng người nói
pháp thuở bảy đức Phật, nay ở nơi chỗ ta trong hàng người nói pháp cũng là bậc
nhất.
Trong hàng người nói pháp thuở các đức Phật trong Hiền kiếp về đương lai
cũng lại là bậc nhất, mà đều hộ trì giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở
trong đời vị lai hộ trì trợ tuyên chánh pháp của vô lượng vô biên các đức Phật,
giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, khiến an lập nơi đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, vì tịnh cõi Phật mà thường siêng năng tinh tấn giáo hóa
chúng sanh, lần lần đầy đủ đạo Bồ-tát.
Qua vô lượng vô số kiếp sau, ông sẽ ở nơi cõi nầy thành Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, hiệu là: Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Đức Phật đó lấy số thế giới tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng
mà làm thành một cõi Phật. Đất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay, không
có núi gò, khe suối, rạch ngòi. Nhà, đài bằng bảy thứ báu đầy dẫy trong đó, cung
điện của các trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp nhau, hai bên đều
thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.
Tất cả chúng sanh đều do biến hóa sanh, không có dâm dục, được pháp
thần thông lớn, thân chói ánh sáng, bay đi tự tại, chí niệm bền chắc, có đức tinh
tấn trí huệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang nghiêm.
Nhân dân nước đó thường dùng hai thức ăn: một là Pháp hỉ thực, hai là
Thiền duyệt thực. Có vô lượng vô số nghìn muôn ức na-do-tha các chúng Bồ-tát
được sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại, khéo hay giáo hóa loài chúng sanh.
Chúng Thanh văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể biết được, đều
được đầy đủ ba món minh, sáu pháp thần thông và tám món giải thoát.
Cõi nước của đức Phật đó có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu
như thế, kiếp tên Bửu Minh, nước tên Thiện Tịnh. Phật đó sống lâu vô lượng vô số
kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp
cả nước đó.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Các Tỳ-kheo lóng nghe
 Đạo của Phật tử làm
 Vì khéo học phương tiện
 Chẳng thể nghĩ bàn được
 Biết chúng ưa pháp nhỏ
 Mà sợ nơi trí lớn
 Cho nên các Bồ-tát
 Làm Thanh văn, Duyên giác
 Dùng vô số phương tiện
 Độ các loài chúng sanh, 
 Tự nói là Thanh văn
 Cách Phật đạo rất xa
 Độ thoát vô lượng chúng
 Thảy đều được thành tựu
 Dầu ưa nhỏ, biếng lười
 Sẽ khiến lần thành Phật.
 Trong ẩn hạnh Bồ-tát
 Ngoài hiện là Thanh văn
 Ít muốn, nhàm sanh tử
 Thiệt tự tịnh cõi Phật
 Bày ba độc cho người
 Lại hiện tướng tà kiến,
 Đệ tử ta như vậy
 Phương tiện độ chúng sanh
 Nếu ta nói đủ cả
 Các món việc hiện hóa
 Chúng sanh nghe đó rồi
 Thời lòng sanh nghi lầm.
 * Nay Phú-lâu-na đây
 Ở xưa nghìn ức Phật
 Siêng tu đạo mình làm
 Tuyên hộ các Phật pháp
 Vì cầu huệ Vô thượng
 Mà ở chỗ chư Phật
 Hiện ở trên đệ tử
 Học rộng có trí huệ
 Nói pháp không sợ sệt
 Hay khiến chúng vui mừng
 Chưa từng có mỏi mệt
 Để giúp nên việc Phật.
 Đã được thần thông lớn
 Đủ bốn trí vô ngại
 Biết các căn lợi độn
 Thường nói pháp thanh tịnh
 Diễn xướng nghĩa như thế
 Để dạy nghìn ức chúng
 Khiến trụ pháp Đại thừa
 Mà tự tịnh cõi Phật.
 Đời sau cũng cúng dường
 Vô lượng vô số Phật
 Hộ trợ tuyên chánh pháp
 Cũng tự tịnh cõi Phật
 Thường dùng các phương tiện 
 Nói pháp không e sợ
 Độ chúng không kể được
 Đều thành Nhất thiết trí
 Cúng dường các Như Lai
 Hộ trì tạng Pháp bảo.
 Sau đó được thành Phật
 Hiệu gọi là Pháp Minh
 Nước đó tên Thiện Tịnh
 Bảy thứ báu hiệp thành
 Kiếp tên là Bửu Minh
 Chúng Bồ-tát rất đông
 Số nhiều vô lượng ức
 Đều được thần thông lớn
 Sức oai đức đầy đủ
 Khắp đầy cả nước đó
 Thanh văn cũng vô số
 Ba minh tám giải thoát
 Được bốn trí vô ngại
 Dùng hạng nầy làm tăng,
 Chúng sanh trong cõi đó
 Dâm dục đều đã dứt
 Thuần một biến hóa sanh
 Thân trang nghiêm đủ tướng
 Pháp hỉ, Thiền duyệt thực
 Không tưởng món ăn khác.
 Không có hàng nữ nhân
 Cũng không các đường dữ
 Phú-lâu-na Tỳ-kheo
 Khi công đức trọn đầy
 Sẽ được tịnh độ nầy
 Chúng Hiền Thánh rất đông
 Vô lượng việc như thế
 Nay ta chỉ nói lược.
GIẢNG :
Phật tán dương công đức thuyết pháp của tôn giả Mãn Từ Tử trong hội
chúng của Phật, ngoài Phật ra thì tôn giả Mãn Từ Tử là người thuyết pháp bậc nhất
trong hàng đệ tử Phật. Phật nói chẳng những trong đời nầy tôn giả Mãn Từ Tử
rộng nói pháp Phật mà thuở quá khứ, ở nơi chín mươi ức đức Phật, Tôn giả cũng
đã từng nói pháp bậc nhất và trong những kiếp tương lai Tôn giả cũng sẽ nói pháp
bậc nhất, giáo hóa chúng sanh làm thanh tịnh cõi Phật. Đó là do duyên phước
nhiều đời, Tôn giả mới làm được việc đó. Cũng vậy, trong đời hiện tại chúng ta có
năng khiếu gì tốt, là do nhiều đời chúng ta đã gieo trồng giống đó, chớ không phải
chỉ trong một đời mà được. 
Phật nói thuở đó tôn giả Mãn Từ Tử căn cứ vào “Pháp không” của chư Phật
mà nói, nên thông suốt, được bốn trí vô ngại, nói pháp thanh tịnh không nghi lầm,
đủ sức thần thông của Bồ-tát, thường tu hạnh thanh tịnh. Pháp không ở đây là chỉ
cho pháp Bát-nhã. Do đạt được trí tuệ Bát-nhã nên Tôn giả thuyết pháp không
chướng ngại, chỉ dạy cho mọi người đều được pháp thanh tịnh. Người thuở đó gọi
tôn giả Mãn Từ Tử là Thanh văn, nhưng với Phật thì tôn giả Mãn Từ Tử là Bồ-tát,
bên ngoài hiện tướng Thanh văn giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh
khiến trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy, nên sau khi nhắc đến Tri
kiến Phật, Tôn giả liền lãnh hội và được Phật thọ ký cho sau nầy sẽ thành Phật. Do
Tôn giả chuyên tu hạnh tuyên dương chánh pháp khai thông trí tuệ cho người, nhờ
nhiều đời nhiều kiếp tích lũy phước đức đó nên khi thành Phật hiệu là Pháp Minh.
Cõi nước thì lấy số thế giới tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng
mà trang nghiêm, cõi nầy gần cung điện của chư thiên, nên hai bên giao tiếp nhau
rất dễ. Nhân dân ở cõi nầy do tu đầy đủ hạnh thanh tịnh, nhờ nguyện lực mà được
hóa sanh, nên không có tướng nam tướng nữ. Nhân dân ở cõi nầy dùng hai món ăn
là pháp hỉ và thiền duyệt chớ không dùng thức ăn bằng phạn thực như chúng sanh
ở cõi Ta-bà, nên có đủ ba món minh, sáu pháp thần thông, tám món giải thoát. Khi
đói thì nghe pháp, tâm hoan hỷ liền được no. Hoặc đói thì tọa thiền, tâm hoan hỉ
liền được no. Vì nhân dân ở cõi nầy chỉ cần chánh pháp và thiền định chớ không
cần cơm gạo thô phù như ở cõi ta-bà. Chúng đệ tử toàn là hàng Thanh văn, Bồ-tát
nhiều vô số không thể tính đếm, tuổi thọ thì dài vô kể.
2. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A-la-hán, bậc tâm tự tại, nghĩ như vầy:
“Chúng ta vui mừng được điều chưa từng có, nếu đức Thế Tôn đều thọ ký cho như
các đệ tử khác thời sung sướng lắm.”
Đức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài Đại Ca-diếp: “Một
nghìn hai trăm vị A-la-hán đó, nay ta sẽ hiện tiền thứ tự mà thọ ký đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Trong chúng đó, đệ tử lớn của ta là Kiều-trần-như Tỳ-kheo sẽ cúng dường
sáu muôn hai nghìn ức đức Phật, vậy sau được thành Phật hiệu là Phổ Minh Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Năm trăm vị A-la-hán: ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, ông Dà-gia Ca-diếp,
ông Na-đề Ca-diếp, ông Ca-lưu-đà-di, ông Ưu-đà-di, ông A-nậu-lâu-đà, ông Lybà-đa,
ông Kiếp-tân-na, ông Bạc-câu-la, ông Châu-đà-tá, ông Dà-đà v.v... đều sẽ
được đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác, đều đồng một hiệu là Phổ Minh.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Kiều-trần-như Tỳ-kheo
 Sẽ gặp vô lượng Phật
 Qua vô số kiếp sau
 Mới được thành Chánh giác
 Thường phóng quang minh lớn
 Đầy đủ các thần thông 
 Danh đồn khắp mười phương
 Tất cả đều tôn kính
 Thường nói pháp Vô thượng
 Nên hiệu là Phổ Minh
 Cõi nước đó thanh tịnh
 Bồ-tát đều dõng mãnh
 Đều lên lầu gác đẹp
 Dạo các nước mười phương
 Đem đồ cúng vô thượng
 Hiến dưng các đức Phật,
 Làm việc cúng đó xong
 Sanh lòng rất vui mừng
 Giây lát về bổn quốc
 Có sức thần như thế.
 Phật thọ sáu muôn kiếp
 Chánh pháp trụ bội thọ
 Tượng pháp lại hơn chánh
 Pháp diệt trời người lo.
 * Năm trăm Tỳ-kheo kia
 Thứ tự sẽ là Phật
 Đồng hiệu là Phổ Minh
 Theo thứ thọ ký nhau:
 Sau khi ta diệt độ
 Ông đó sẽ làm Phật
 Thế gian của ông độ
 Cũng như ta ngày nay
 Cõi nước đó nghiêm sạch
 Và các sức thần thông
 Chúng Thanh văn, Bồ-tát
 Chánh pháp cùng tượng pháp
 Thọ mạng kiếp nhiều ít
 Đều như trên đã nói.
 Ca-diếp ! Ông đã biết
 Năm trăm vị tự tại
 Các chúng Thanh văn khác
 Cũng sẽ làm như thế
 Vị nào vắng mặt đây
 Ông nên vì tuyên nói.
GIẢNG :
Bấy giờ, chư vị A-la-hán là huynh đệ đồng đẳng với tôn giả Mãn Từ Tử,
khi thấy Tôn giả được thọ ký rồi, các Ngài mong rằng các Ngài sẽ được Phật thọ
ký cho mình. Phật biết tâm niệm ấy của các Ngài liền thứ tự thọ ký cho các Ngài
được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong đó đệ tử lớn của Phật là ngài 
A-nhã Kiều-trần-như do công đức cúng dường sáu muôn hai nghìn ức đức Phật,
sau sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh. Kế đến năm trăm vị A-la-hán như Ưu-lâu-tầnloa
Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Nan-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-di, Ưu-đà-di, A-nậu-lâu-
đà... đều sẽ được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đồng hiệu là Phổ Minh.
Tại sao chư vị A-la-hán thấy tôn giả Mãn Từ Tử được thọ ký, các Ngài đều
vui mừng và mong được Phật thọ ký cho mình thành bậc Chánh đẳng Chánh giác,
còn chúng ta nghe các Ngài được thọ ký chúng ta tự thấy mình là kẻ vô phần nên
không vui mừng ? Tôi ví dụ, các anh em cùng học chung một lớp, đến giờ trả bài,
anh A trả bài thuộc được tám điểm thầy khen giỏi, anh B trả bài thuộc được tám
điểm cũng được thầy khen giỏi. Mình lúc đó cũng thuộc bài chưa được gọi lên trả
bài trong lòng cũng mong được thầy gọi lên trả bài. Nếu hôm đó mình không
thuộc bài thì không dám mong được trả bài. Qua ví dụ nầy chúng ta thấy sở dĩ các
Ngài mong được Phật thọ ký, là vì các Ngài cũng có sở ngộ như những người bạn
đồng đẳng mà chưa được Phật xác chứng, nên mong chờ. Nếu các Ngài chưa ngộ
chắc không dám mong, do thấy được tâm mong chờ đó Phật liền thọ ký cho. Đó là
ý nghĩa vui mừng chờ thọ ký là như vậy.
3. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán ở trước Phật được thọ ký xong, vui mừng
hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật, ăn năn
lỗi của mình mà tự trách: Thế Tôn, chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình
đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như người vô trí. Vì sao ? Chúng con
đáng được trí huệ Như Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
Thế Tôn ! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó
người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say,
cho đó rồi đi. Gã đó say nằm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước
khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít
bèn cho là đủ.
Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng: “Lạ thay ! Anh nầy,
sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi nầy. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ
thọ năm món dục, ở ngày tháng năm đó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh,
nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống
thật là khờ lắm, nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thời
thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn.
Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ-tát giáo hóa chúng con khiến phát
lòng cầu Nhất thiết trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Đã được
đạo A-la-hán tự nói là diệt độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ, tất cả trí
nguyện vẫn còn chẳng mất. Ngày nay đức Thế Tôn giác ngộ chúng con mà nói
rằng: “Các Tỳ-kheo ! Đạo của các ông không phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến
các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ tướng Niết-bàn mà các
ông cho là thiệt được diệt độ.”
Thế Tôn ! Chúng con nay mới biết mình thiệt là Bồ-tát được thọ ký sẽ
thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì nhân duyên đó lòng rất vui
mừng được điều chưa từng có. 
Bấy giờ, ông A-nhã Kiều-trần-như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ
rằng:
 * Chúng con nghe Vô thượng
 Tiếng thọ ký an ổn
 Vui mừng chưa từng có
 Lạy Phật trí vô lượng.
 Nay ở trước Thế Tôn
 Tự hối các lỗi quấy
 Trong Phật báu vô lượng
 Được chút phần Niết-bàn
 Như người ngu vô trí
 Bèn tự cho là đủ.
 Thí như người nghèo cùng
 Qua đến nhà thân hữu
 Nhà đó rất giàu lớn
 Bày đủ các tiệc ngon
 Đem châu báu vô giá
 Cột dính trong vạt áo
 Thầm cho rồi bỏ đi
 Gã say nằm không hay.
 Sau khi gã đã dậy
 Dạo đi đến nước khác
 Cầu ăn mặc tự sống
 Nuôi sống rất khốn khổ
 Được ít cho là đủ
 Chẳng lại muốn đồ tốt
 Chẳng biết trong vạt áo
 Có châu báu vô giá.
 Người thân hữu cho châu
 Sau gặp gã nghèo nầy
 Khổ thiết trách gã rồi
 Chỉ cho châu trong áo.
 Gã nghèo thấy châu đó
 Lòng gã rất vui mừng
 Giàu có các của cải
 Tha hồ hưởng ngũ dục.
 Chúng con cũng như vậy
 Thế Tôn từ lâu xưa
 Thường thường giáo hóa cho
 Khiến gieo nguyện Vô thượng.
 Chúng con vì vô trí
 Chẳng hay cũng chẳng biết
 Được chút phần Niết-bàn 
 Cho đủ chẳng cầu nữa
 Nay Phật giác ngộ con
 Nói chẳng phải thiệt diệt
 Được Phật huệ Vô thượng
 Đó mới là thiệt diệt.
 Con nay từ Phật nghe
 Thọ ký việc trang nghiêm
 Cùng tuần tự thọ ký
 Thân tâm khắp mừng vui.
GIẢNG :
Năm trăm vị A-la-hán được thọ ký vui mừng hớn hở, ăn năn lỗi mình và tự
trách: Mình cũng có khả năng thành Phật và cũng được Phật thọ ký, vậy mà từ lâu
chứng quả A-la-hán tự cho là đủ, nay mới biết mình là kẻ vô trí, chỉ biết lấy trí nhỏ
cho là đủ. Nên các Ngài mới dùng ví dụ hạt châu cột trong chéo áo của chàng say
rượu. Tại sao các Ngài dùng ví dụ nầy ? Vì ở phẩm Hóa Thành Dụ, Phật có nói
thuở Ngài còn tu hạnh Sa-di Bồ-tát đã từng nói kinh Pháp Hoa giáo hóa đồ đệ, nay
Ngài thành Phật những đồ đệ nầy cũng có duyên theo Ngài là hàng hữu học vô học
chứng A-la-hán ở trong hội nầy. Những vị nầy nghe Phật nhắc lại, liền nhớ mình
đã được gieo trồng hạt giống Tri kiến Phật hồi xa xưa, nay lại quên, cứ theo
phương tiện Phật dạy hiện thời tu theo hạnh Thanh văn. Nay Phật nhắc lại liền tin
nhận, được an vui tự tại và được Phật thọ ký. Các Ngài dùng hình ảnh anh chàng
nghèo say rượu tới thăm người bạn thân, được bạn đãi cơm thịnh soạn và tặng cho
một hạt châu cột trong chéo áo. Do uống rượu say nên quên không nhớ mình có
hạt châu quí giá, cứ đi lang thang cầu thực một cách khổ sở. Sau bạn cũ bất thần
gặp lại, thì ra anh bạn nghèo say nay vẫn còn nghèo, mới trách: Xưa tôi có cho anh
một hạt châu cột trong chéo áo sao không lấy ra dùng ? Từ đó anh bạn nghèo mới
lấy hạt châu ra xài và trở thành người giàu có sang trọng. Người cho châu là dụ
cho đức Phật, từ thuở xa xưa, Ngài đã từng nói kinh Pháp Hoa giáo hóa cho đồ đệ
rồi. Kẻ nghèo say rượu chỉ cho hàng đệ tử đã được Phật nói kinh Pháp Hoa rồi mà
quên đi. Bấy giờ được Phật nhắc lại mới nhớ, nhận ra Tri kiến Phật nơi mình và
được Phật thọ ký sẽ thành Phật. Qua ví dụ nầy, chúng ta thấy tâm hạnh của hàng
Thanh văn còn hạn cuộc chưa viên mãn, được chút ít cho là đủ. Chỗ mà hàng
Thanh văn lấy làm sở chứng sở đắc đó không phải là bản hoài của Phật; Phật
muốn ai tu rồi cũng thành Phật như Ngài, chớ không bằng lòng cho chúng ta an trú
ở quả vị Thanh văn, Duyên giác.
Vậy kinh Pháp Hoa dạy chúng ta phát tâm tu phải rộng lớn, là tự mình tu
được giác ngộ thành Phật và giáo hóa cho người tu cũng được giác ngộ thành Phật
như mình. Muốn được thế thì phải trải qua thời gian công phu tu tập lâu dài, công
hạnh mới viên mãn.
D
PHẨM 9: THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
Thọ Học Vô Học Nhân Ký nghĩa là thọ ký cho hàng đệ tử hữu học và vô
học. Hàng hữu học là người tu chứng từ quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na- hàm.
Tôn giả A-nan và La-hầu-la bấy giờ còn ở trong vòng hữu học. Hàng vô học là
những người tu dứt sạch lậu hoặc, chứng A-la-hán.
1. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ ngài A-nan và ngài La-hầu-la nghĩ như vầy: “Chúng ta tự suy
nghĩ, nếu được thọ ký thời sung sướng lắm.” Liền từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến
trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật đồng bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Chúng con
trong đây cũng đáng có phần, chỉ có đức Như Lai là chỗ về nương của chúng con.
Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời, người, a-tu-la trong đời. A-nan
thường làm vị thị giả hộ trì tạng Pháp, La-hầu-la là con của Phật, nếu Phật thọ ký
đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho, thời lòng nguyện cầu của chúng con
đã mãn, mà lòng trông của chúng cũng được đủ.”
Lúc đó, hàng đệ tử Thanh văn, bậc hữu học cùng vô học, hai nghìn người
đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu đến trước Phật chấp tay, một lòng
chiêm ngưỡng dung nhan của Thế Tôn như chỗ nguyện cầu của A-nan và La-hầula
rồi đứng qua một phía.
GIẢNG :
Tôn giả A-nan và La-hầu-la là hai vị gần gũi với Phật nhất, lòng tha thiết
muốn được thọ ký nên cùng đứng lên một lượt trình bày sở nguyện của mình. Tôn
giả A-nan đặc biệt là hộ trì tạng Pháp, tôn giả La-hầu-la là con của Phật, tất cả hội
chúng ai cũng đều biết là chưa được thọ ký, nay mong được Phật thọ ký để mọi
người được mãn nguyện. Thấy hai vị đứng dậy thưa thỉnh thì hàng đệ tử hữu học
vô học đồng hưởng ứng cũng mong được Phật thọ ký.
2. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, đức Phật bảo A-nan: “Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu là
Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn; ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức đức Phật, hộ
trì tạng Pháp vậy sau chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo
hóa hai mươi nghìn muôn ức hằng hà sa các chúng Bồ-tát v.v... làm cho thành đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nước tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng chất lưu
ly. Kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn. Đức Phật đó thọ mạng vô lượng nghìn muôn ức
a-tăng-kỳ kiếp, nếu có người ở trong nghìn muôn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, tính
đếm số kể chẳng có thể biết được. Chánh pháp trụ đời gấp bội thọ mạng, tượng
pháp lại gấp bội chánh pháp. 
A-nan ! Đức Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô lượng
nghìn muôn ức Hằng hà sa các đức Phật Như Lai ở muời phương đồng ngợi khen
công đức của Ngài.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nay Ta nói trong tăng
 A-nan người trì pháp
 Sẽ cúng dường các Phật
 Vậy sau thành Chánh giác
 Hiệu rằng: Sơn Hải Huệ
 Tự Tại Thông Vương Phật
 Cõi nước kia thanh tịnh
 Tên Thường Lập Thắng Phan
 Giáo hóa các Bồ-tát
 Số đông như Hằng sa
 Phật có oai đức lớn
 Tiếng đồn khắp mười phương
 Vì bởi thương chúng sanh
 Nên sống lâu vô lượng
 Chánh pháp bội thọ mạng
 Tượng pháp lại bội chánh
 Vô số hàng chúng sanh.
 Đông như cát sông Hằng
 Ở trong pháp Phật đó
 Gieo nhân duyên Phật đạo.
GIẢNG :
Trước hết là Phật thọ ký cho tôn giả A-nan cúng dường sáu mươi hai ức
đức Phật, hộ trì tạng Pháp sau sẽ thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông
Vương, giáo hóa hai muơi nghìn muôn ức Hằng hà sa chúng Bồ-tát cũng được đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tên nước là Thường Lập Thắng Phan, tức là
thường dựng cây cờ thù thắng, kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn tức là kiếp đó có tiếng
nhiệm mầu khắp cả. Thọ mạng vô lượng nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Sở dĩ
Ngài được thọ ký như thế là vì do công hạnh tu tập của Ngài chứa nhóm mà được
vậy.
3. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, trong hội hàng Bồ-tát mới phát tâm tám nghìn người đều nghĩ
thế nầy: “Chúng ta còn chưa nghe các vị Bồ-tát lớn được thọ ký như thế, có nhân
duyên gì mà các Thanh văn được thọ ký như thế ?”
Lúc ấy, đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ-tát mà bảo rằng: “Các
thiện nam tử ! Ta cùng bọn ông A-nan ở chỗ đức Phật Không Vương đồng thời
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A-nan thường ưa học rộng, còn ta
thường siêng năng tinh tấn, cho nên nay ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác, mà A-nan hộ trì pháp của ta, ông cũng sẽ hộ trì pháp tạng của các đức Phật 
tương lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ-tát. Bổn nguyện của ông như thế nên
được thọ ký dường ấy.”
Ngài A-nan tận mặt ở trước Phật, tự nghe Phật thọ ký cùng cõi nước trang
nghiêm, chỗ mong cầu đã đủ lòng rất vui mừng được điều chưa từng có. Tức thời
nghĩ nhớ tạng Pháp của vô lượng nghìn muôn ức các đức Phật thuở quá khứ, suốt
thấu không ngại như hiện nay nghe và cũng biết bổn nguyện.
Khi đó Ngài A-nan nói kệ rằng:
 Thế Tôn rất ít có
 Khiến con nhớ quá khứ
 Vô lượng các Phật pháp
 Như chỗ nghe ngày nay
 Con nay không còn nghi
 An trụ trong Phật đạo
 Phương tiện làm thị giả
 Hộ trì các Phật pháp.
GIẢNG:
Tôn giả A-nan được thọ ký rồi thì hàng Bồ-tát sơ phát tâm trong đại chúng
khởi nghĩ: Tại sao mình tu hạnh Bồ-tát chưa được thọ ký mà Phật thọ ký cho hàng
Thanh văn, như vậy là lý do gì ? Nhân đó, Phật mới giải thích lý do: Hồi thời đức
Phật Không Vương, tôn giả A-nan cùng với Phật Thích-ca đồng phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Song tôn giả A-nan thì ưa học rộng, Phật Thíchca
thì tinh tấn tu hành nên nay Ngài đã thành Phật, tôn giả A-nan thì còn hộ trì
pháp Phật. Đó là nguyên nhân mà Phật thọ ký cho tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan
phát tâm đồng thời với đức Phật, nhưng vì Ngài nghiêng về học vấn nên thông thì
có thông mà ngộ thì chưa, nên phải hộ trì tạng Pháp Phật của sáu mươi hai ức đức
Phật mới chứng thành Phật đạo. Thế nên, người tinh tấn tu hành và người ham học
rộng biết nhiều, kết quả sai biệt như vậy. Tuy nhiên, không phải đặt nặng phần tu
mà thiếu phần học, nếu tu mà không học thì tu mù tu sai, kết quả cũng không tới
đâu, tự mình không lợi ích cũng không giáo hóa được người. Nếu lấy sự học hiểu
làm trên, thì thời gian học hiểu chiếm hết không có thì giờ tu và giáo hóa thì công
hạnh tự giác giác tha làm sao viên mãn thành Phật? Học tuy khó mà nhiều người
ham, tu thấy dễ mà ít người kham nổi, cần phải nỗ lực cả hai mặt.
4. CHÁNH VĂN:
* Bấy giờ, Phật bảo ông La-hầu-la: “Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu:
Đạo Thất Bửu Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật
Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường các đức Như Lai như số vi trần trong mười thế giới.
Thường vì các đức Phật mà làm trưởng tử cũng như hiện nay.
Đức Phật Đạo Thất Bửu Hoa đó, cõi nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng,
giáo hóa đệ tử, chánh pháp và tượng pháp cũng đồng như đức Sơn Hải Huệ Tự Tại
Thông Vương Như Lai không khác. Ông cũng làm trưởng tử cho Phật nầy, qua
sau đây rồi sẽ được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 
 Lúc ta làm thái tử
 La-hầu làm trưởng tử
 Ta nay thành Phật đạo
 Thọ pháp làm Pháp tử
 Ở trong đời vị lai
 Gặp vô lượng ức Phật
 Làm trưởng tử cho kia
 Một lòng cầu Phật đạo.
 Hạnh kín của La-hầu
 Chỉ ta biết được thôi
 Hiện làm con cả ta
 Để chỉ các chúng sanh
 Vô lượng ức nghìn muôn
 Công đức không thể đếm
 An trụ trong Phật pháp
 Để cầu đạo Vô thượng.
GIẢNG :
Kế đến Phật thọ ký cho tôn giả La-hầu-la cúng dường chư Phật nhiều như
số vi trần trong mười thế giới và cũng thường làm trưởng tử chư Phật, với tâm cầu
Phật đạo tu mật hạnh sẽ thành Phật hiệu là Đạo Thất Bửu Hoa, cõi nước, thọ mạng,
giáo hóa cũng như đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai.
5. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, đức Thế Tôn thấy bậc hữu học cùng vô học hai nghìn người, chí
ý hòa dịu vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật. Phật bảo A-nan: “Ông thấy
bậc hữu học vô học hai nghìn người đây chăng ?”
- Vâng con đã thấy.
- A-nan ! Các người này sẽ cúng dường các đức Như Lai như số vi trần
trong năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng hộ trì pháp tạng. Rốt sau đồng thời ở
cõi nước trong mười phương đều được thành Phật, đều đồng một hiệu là Bửu
Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn
sống lâu một kiếp cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ-tát, chánh pháp, tượng
pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 Hai nghìn Thanh văn đây
 Nay đứng ở trước ta
 Thảy đều thọ ký cho
 Đời sau sẽ thành Phật
 Cúng dường các đức Phật
 Như số trần nói trên
 Hộ trì tạng pháp Phật
 Sau sẽ thành Chánh giác
 Đều ở nơi mười phương 
 Thảy đồng một danh hiệu
 Đồng thời ngồi đạo tràng
 Để chứng huệ Vô thượng
 Đều hiệu là Bửu Tướng
 Cõi nước cùng đệ tử
 Chánh pháp và tượng pháp
 Thảy đều không có khác.
 Đều dùng các thần thông
 Độ mười phương chúng sanh
 Tiếng đồn vang khắp cùng
 Lần nhập vào Niết-bàn.
Lúc đó, bậc hữu học cùng vô học hai nghìn người nghe đức Phật thọ ký vui
mừng hớn hở mà nói kệ rằng:
 Thế Tôn đèn huệ sáng
 Con nghe tiếng thọ ký
 Lòng vui mừng đầy đủ
 Như được rưới cam lồ.
GIẢNG :
Sau cùng, Phật thọ ký cho hàng hữu học và vô học cả thảy hai ngàn người,
về sau cúng dường chư Phật nhiều như số vi trần trong năm mươi thế giới cũng hộ
trì pháp tạng. Rốt sau thành Phật đồng hiệu là Bửu Tướng, tuổi thọ, sự giáo hóa
đồng giống nhau. Những vị này đều nhân Phật chỉ dạy nên bấy giờ gặp lại và được
Phật thọ ký. Khi được thọ ký các Ngài đồng phát tâm vui mừng thấy như được
rưới cam lồ.
Tới đây tôi lặp lại lần nữa, hàng thượng thượng căn như ngài Xá-lợi-phất
chỉ nghe qua một lần (phẩm Phương Tiện) là ngộ. Hàng thượng căn như ngài Maha
Ca-diếp, Tu-bồ-đề... Phật nói thêm một ví dụ nữa (phẩm Thí Dụ) các Ngài mới
ngộ. Còn hàng trung căn thì Phật phải giảng dạy thêm (Hóa Thành Dụ) rồi mới
ngộ. Đến hàng hạ căn thì chưa ngộ nên Phật phải mấy phen nói đi nói lại để cho
ngộ.
D
PHẨM 10: PHÁP SƯ
Pháp Sư là thầy nói pháp, mà pháp được nói là kinh Diệu Pháp Liên Hoa
tức là Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi người. Nếu quên, không nhớ nơi mình có Tri
kiến Phật thì đời đời kiếp kiếp không bao giờ thành Phật. Nếu nhớ nơi mình có Tri
kiến Phật lấy đó làm nhân tu hành không nghi ngờ thì thời gian sau sẽ thành Phật.
Vì Tri kiến Phật quan trọng như vậy, nếu người chỉ Tri kiến Phật cho chúng ta nhớ
và tin để tu hành, thì công đức người đó vô lượng vô biên không tính kể. Vì vậy
phẩm này trước tán thán kinh, kế đó tán thán người truyền bá kinh.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhân nói với Dược Vương Bồ-tát để bảo tám
muôn Đại sĩ rằng: “Dược Vương ! Trong đại chúng đây vô lượng hàng chư thiên,
Long vương, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà,
nhân cùng phi nhân, và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng cầu
Thanh văn, hạng cầu Bích-chi Phật, hạng cầu Phật đạo, các loại như thế đều ở
trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một bài kệ, một câu, nhẫn đến một niệm
tùy hỷ đó, ta đều thọ ký cho sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Phật bảo Dược Vương: “Lại sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người
nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, một câu, một niệm tùy hỷ đó,
ta cũng thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho.
Nếu lại có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối kinh điển này cung kính xem như Phật. Các thứ
cúng dường: hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa,
tràng phan, y phục, kỹ nhạc, nhẫn đến chấp tay cung kính. Dược Vương nên biết !
Các người trên đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, ở chỗ các đức Phật
thành tựu chí nguyện lớn vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian.
Dược Vương ! Nếu có người hỏi những chúng sanh nào ở đời vị lai sẽ được
làm Phật ? Nên chỉ các người trên đó ở đời vị lai ắt được làm Phật. Vì sao ? Nếu
có gã thiện nam, người thiện nữ nào ở nơi kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu, thọ trì,
đọc tụng, giải nói, biên chép. Các thứ cúng dường kinh quyển: hoa hương, chuỗi
ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, kỹ nhạc,
chấp tay cung kính. Người đó tất cả trong đời đều nên chiêm ngưỡng sùng phụng.
Nên đem đồ cúng dường Như Lai mà cúng dường đó. Phải biết người đó là Bồ-tát
lớn thành xong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương xót chúng sanh
mà nguyện sanh trong đời để rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa, huống
lại là người trọn hay thọ trì và các thứ cúng dường.
Dược Vương nên biết ! Người đó tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh, sau khi ta
diệt độ vì thương chúng sanh mà sanh nơi đời ác, rộng nói kinh này. Nếu người
thiện nam, người thiện nữ đó, sau khi ta diệt độ có thể riêng vì một người nói kinh
Pháp Hoa, nhẫn đến một câu, phải biết người là sứ của Như Lai, đức Như Lai sai
làm việc của Như Lai, huống là ở trong đại chúng rộng vì người nói. 
Dược Vương ! Nếu có người ác dùng tâm không lành ở trong một kiếp hiện
ở trước Phật thường chê mắng Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có người dùng một lời dữ
chê mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội đây rất nặng.
Dược Vương ! Có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng
đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình, thời được Như Lai dùng vai
mang vác. Người đó đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ, một lòng chấp tay
cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen: hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột,
hương xoa, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan, y phục, đồ ngon, trỗi các thứ kỹ
nhạc, đồ cúng bậc thượng của trong loài người mà đem cúng dường cho người đó,
nên cầm báu trời mà rải cúng đó, nên đem đống báu trên trời dưng cho đó.
Vì sao ? Người đó hoan hỉ nói pháp, giây lát nghe pháp liền được rốt ráo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vậy.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nếu muốn trụ Phật đạo
 Thành tựu trí tự nhiên
 Thường phải siêng cúng dường
 Người thọ trì Pháp Hoa.
 Có ai muốn mau được
 Nhứt thiết chủng trí huệ
 Nên thọ trì kinh này
 Và cúng dường người trì.
 Nếu người hay thọ trì
 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
 Nên biết là sứ Phật
 Thương nhớ các chúng sanh
 Những người hay thọ trì
 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
 Xa bỏ cõi thanh tịnh
 Thương chúng nên sanh đây.
 Phải biết người như thế
 Chỗ muốn sanh tự tại
 Ở nơi đời ác này
 Rộng nói pháp Vô thượng,
 Nên đem hoa, hương trời
 Và y phục, báu trời
 Đống báu tốt trên trời
 Cúng dường người nói pháp.
 Đời ác, sau ta diệt
 Người hay trì kinh này
 Phải chấp tay lễ kính
 Như cúng dường Thế Tôn,
 Đồ ngon ngọt bậc thượng
 Và các món y phục 
 Cúng dường Phật tử đó
 Mong được giây lát nghe.
 Nếu người ở đời sau
 Hay thọ trì kinh này
 Ta khiến ở trong người
 Làm việc của Như Lai.
 Nếu ở trong một kiếp
 Thường ôm lòng chẳng lành
 Đỏ mặt mà mắng Phật
 Mắc vô lượng tội nặng.
 Có người đọc tụng trì
 Kinh Diệu Pháp Hoa này
 Giây lát dùng lời mắng
 Tội đây lại hơn kia.
 Có người cầu Phật đạo
 Mà ở trong một kiếp
 Chấp tay ở trước ta
 Dùng vô số kệ khen
 Do vì khen Phật vậy
 Được vô lượng công đức
 Khen ngợi người trì kinh
 Phước đây lại hơn kia.
 Trong tám mươi ức kiếp
 Dùng sắc thinh tối diệu
 Và cùng hương vị xúc
 Cúng dường người trì kinh
 Cúng dường như thế rồi
 Mà được chốc lát nghe
 Thời nên tự mừng vui
 Nay ta được lợi lớn.
 Dược Vương ! Nay bảo ông
 Các kinh của ta nói
 Mà ở trong kinh đó
 Pháp Hoa tột thứ nhứt.
GIẢNG :
Phẩm Pháp Sư cho chúng ta thấy đức Phật vì hàng hạ căn như Tỳ-kheo, Tỳ-
kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thiên, long... hạng cầu Thanh văn, cầu Bích-chi
Phật, cầu Phật, ở trước Phật nghe chừng một câu kinh, một bài kệ nhẫn đến phát
tâm tùy hỉ, đều được Phật thọ ký thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì
đã có giống Phật chắc chắn sẽ thành Phật. Như vậy là đại chúng ở đây ai cũng thấy
mình có phần hết. Còn chúng ta hiện nay tuy có nghe kinh Pháp Hoa, nhưng
không sanh đồng thời với Phật nên không được thọ ký, thấy như vô phần. Nhưng
chúng ta đừng mặc cảm vì Phật có nói: “Lại, sau khi đức Như Lai diệt độ nếu có 
người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, một câu, một niệm tùy
hỷ đó, ta cũng thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho.” Đức Phật tuần
tự thọ ký cho người có mặt và ngầm thọ ký cho người sau. Như vậy là pháp Phật
nói ra trùm khắp các căn cơ của chúng sanh, hàng hạ căn cũng có phần trong đó.
Phật nói ai mà nghe kinh Pháp Hoa, hoặc thọ trì, đọc tụng, biên chép, vì
người giải nói cung kính cúng dường, người đó từ trước đã cúng dường mười
muôn ức đức Phật và cũng đã thành tựu công đức Phật, hoặc vì chí nguyện lớn
thương xót chúng sanh mà vào cõi này chớ không phải mới tu, các vị đó đang
hành Bồ-tát hạnh. Như vậy là Phật vì căn cơ bậc thấp mà nâng lên, để cho chúng
ta khỏi mặc cảm chỉ có các bậc chứng A-la-hán hàng hữu học vô học được thọ ký,
còn chúng ta thì vô phần. Nếu đã có phần với kinh Pháp Hoa thì sau này thành
Phật không nghi.
Đến đây Phật lặp lại cho rõ ý Ngài đã nêu ở trên, là có người hỏi những
chúng sanh nào ở đời vị lai sẽ được làm Phật ? Ngài nói chỉ những người thọ trì,
đọc tụng, biên chép kinh Pháp Hoa. Những người tu hạnh Bồ-tát vì lợi ích chúng
sanh mà trở lại cõi này, những người cúng dường Phật hãy đến cúng dường những
người đó. Phật nâng chúng ta lên tột đỉnh, ngang với đức Phật để cho chúng ta
đừng tự ti mặc cảm mình là chúng sanh hèn hạ không có phần. Đó là lòng từ bi vô
bờ bến của Phật. Ngài dạy cho hàng thượng căn khác, dạy cho hàng hạ căn khác,
để cho hàng chúng sanh nào cũng có lòng tin rằng mình có Tri kiến Phật. Dù là
một niệm hướng về Trí huệ Phật mà tiến tu thì sớm muộn gì cũng thành Phật. Vì
đã tin mình có Phật nhân nên tu hạnh Bồ-tát, tu hạnh Bồ-tát là vì chúng sanh mà
giáo hóa cho viên mãn công hạnh thì thành Phật, người đó là sứ giả của Như Lai.
Giả sử bây giờ có người hỏi những chúng sanh nào sẽ thành Phật ? Tôi chỉ quí vị
đang ngồi nghe kinh Pháp Hoa có được không ? Được. Chỉ do công phu tu hành
tinh tấn hay giải đãi mà thành Phật trước hay sau thôi. Thoạt nghe thấy như dễ
nhưng kỳ thật không dễ, vì ở sau, Phật đưa ra những điều kiện mà vị Pháp sư phải
có.
Phật nói rằng: “Nếu có người ác dùng tâm không lành ở trong một kiếp
hiện ở trước Phật thường chê mắng Phật tội đó còn nhẹ. Nếu có người dùng một
lời dữ chê mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội đây rất
nặng.” Tại sao thường chửi mắng Phật trong một kiếp mà tội nhẹ hơn là dùng một
lời dữ chê mắng người phàm phu đọc tụng kinh Pháp Hoa ? Có phải Phật thấp hơn
kẻ phàm phu trì kinh Pháp Hoa chăng ? Xưa, khi Phật thành đạo đi giáo hóa, nhiều
tín đồ Bà-la-môn giáo theo Ngài. Các vị truyền đạo Bà-la-môn giận tức nên vây
chửi Phật, Ngài thản nhiên không đáp lại, khiến họ càng tức thêm nên chặn Phật
lại hỏi lý do. Ngài trả lời là Ngài không thọ nhận lời chửi mắng đó, nên Ngài thản
nhiên bất động. Vì Ngài thản nhiên bất động, nên không có sân hận dấy khởi, làm
gì có chướng ngại Phật ? Đối với người phàm phu mới phát tâm tu, đạo lực còn
yếu kém, nếu bị người ác mắng chửi, sân hận liền dấy khởi, thối tâm Bồ-đề. Phật
nêu lên ví dụ này để nhấn mạnh kẻ làm cho người tu trở ngại, thối Bồ-đề tâm là tội
nặng. Còn làm, mà người tu không chướng ngại không thối chuyển, ngay cả mắng
chửi Phật, tội cũng nhẹ. Đối với đức Phật, đồng một việc ác, nếu việc ác đó gây 
tổn hại sự tu hành nhiều thì tội nặng, nếu không gây tổn hại cho sự tu hành thì tội
nhẹ. Vì chửi mắng Phật mà Phật không thối tâm Bồ-đề, Phật không bị tổn thương
nên Ngài nói tội nhẹ. Còn hàng phàm phu sơ cơ, nếu làm khó hoặc chửi mắng làm
cho họ thối tâm Bồ-đề thì tội nặng. Tội nặng ở chỗ làm cho người tu không tiến,
chớ không phải nặng ở chỗ người có công đức nhiều hay người có công đức ít. Để
thấy lòng từ của Phật vô lượng vô biên, chỉ vì lợi ích cho chúng sanh, muốn cho
mọi người tiến đến chỗ giác ngộ như Ngài, mà không ngần ngại tự hạ mình thấp
đưa người lên, để tạo duyên tốt cho người tu tiến. Tới đây Phật nói quá dễ chỉ cần
tùy hỉ hay đọc tụng năm, bảy câu cũng được Phật thọ ký. Đó là vì hạng người hạ
căn, tâm hạ liệt nên Phật phải nói dễ để nâng đỡ cho họ tu, chớ không phải là pháp
dễ.
Thứ đến Phật còn hạ thấp Ngài xuống một bậc nữa, Ngài nói: “Có người
đọc tụng kinh Pháp Hoa phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật, tự
trang nghiêm mình, thời được Như Lai dùng vai mang vác.” Phật là bậc thầy của
trời người, là bậc Toàn Giác tại sao lại cõng vác kẻ phàm phu mới phát tâm tu ? Ví
dụ người đời sinh ra một đứa con dáng dấp tính hạnh cũng như cách nói năng rất
vừa ý họ. Đứa bé đó rất được họ thương cưng, chính vì thương cưng nên họ
thường ẵm bồng, cõng trên lưng trên vai. Cũng vậy bản hoài của Phật ra đời là dạy
cho người tu thành Phật, nên người mà trì tụng kinh Pháp Hoa tức tin mình có sẵn
Tri kiến Phật và tu hành để được thành Phật, nên Phật hài lòng nâng đỡ cho tiến; ở
đây diễn tả bằng cách cõng vác trên vai. Lại nữa Tri kiến Phật của Phật hay Tri
kiến Phật của người không hai không khác. Vì không hai không khác nên Ngài
hằng mang vác không rời.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, Phật lại bảo ngài Dược Vương đại Bồ-tát: “Kinh điển của ta
nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói, mà ở trong đó kinh
Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu.
Dược Vương ! Kinh này là tạng bí yếu của các đức Phật, chẳng có thể chia
bủa vọng trao cho người. Kinh đây là của các đức Phật giữ gìn từ xưa đến nay
chưa từng bày nói, mà chính kinh này khi Như Lai đương hiện tại còn nhiều kẻ
oán ghét, huống là sau lúc Phật diệt độ.
Dược Vương nên biết ! Sau khi Như Lai diệt độ người nào có thể biên chép,
thọ trì, đọc tụng, cúng dường, vì người khác mà nói, thời được Như Lai lấy y trùm
đó, lại được các đức Phật hiện tại ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có sức tin
lớn và sức chí nguyện, các sức căn lành, phải biết người đó cùng Như Lai ở chung,
được đức Như Lai lấy tay xoa đầu.
GIẢNG :
Trong các kinh Phật nói, như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên... thì kinh Pháp
Hoa là bậc nhất, khó tin khó hiểu. Vì kinh Pháp Hoa chỉ thẳng Tri kiến Phật, là
chỗ giác ngộ viên mãn mà Phật đã đạt được và biết mọi người ai cũng có sẵn, nên
Phật chỉ cho để tu thành Phật như Ngài. Nhưng khi Phật chỉ thì người ta không tin
không nhận được, vì mọi người quen nhìn ra ngoài không biết tự tri. Hơn thế nữa, 
Tri kiến Phật là cái không hình không tướng, không thể dùng mắt thịt hay suy tư
mà biết được nên khi chỉ thì khó nhận khó tin.
Đến đây Phật lại an ủi người sau, khi Phật còn tại thế nói kinh Pháp Hoa
người nghe còn khó tin khó nhận, sanh lòng oán ghét, huống là sau khi Phật diệt
độ. Vì kinh Pháp Hoa là tạng bí yếu của các đức Phật, chỉ có người khéo nghe
khéo nhận mới tin được. Còn nghe mà không hiểu thì không tin, nếu không hiểu
không tin thì xem thường, rồi sanh lòng phỉ báng.
Phật lại nói, sau khi Phật diệt độ có người trì tụng, biên chép, giảng nói
kinh Pháp Hoa thì sẽ được Phật lấy y trùm và người đó cùng Như Lai ở chung,
được Như Lai lấy tay xoa đầu. Hiện tại có rất nhiều người trì tụng và giảng kinh
Pháp Hoa, mà chúng ta chưa thấy Phật lấy y trùm và lấy tay xoa đầu, như vậy là
Phật nói rỗng sao ? Điều này chúng ta cần hiểu cho thấu đáo. Nếu chúng ta thọ trì
kinh Pháp Hoa, tức là chúng ta tin nhận nơi mình có Tri kiến Phật, mà Tri kiến
Phật có sẵn nơi mỗi người không rời thân năm uẩn này, lúc nào cũng hiện hữu nơi
mỗi chúng ta. Như vậy, không phải Phật đang trùm chúng ta, xoa đầu chúng ta, và
ở chung với chúng ta sao ? Quí vị nên nhớ, Như Lai đây không phải là Phật Thíchca
mà là Tri kiến Phật hay Pháp thân. Nếu hiểu Như Lai là Phật Thích-ca thì
chúng ta sẽ ước vọng ra ngoài, tìm kiếm tướng lạ này tướng lạ nọ, trở thành mê tín.
Lý kinh rất cao siêu rất thực tế, nếu hiểu lầm thì kinh điển trở thành huyễn hoặc,
gây tác hại cho người tu học.
3. CHÁNH VĂN :
* Dược Vương ! Nơi nơi, chỗ chỗ, hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc
chép, hoặc chỗ có quyển kinh này, đều nên dựng tháp bằng bảy thứ báu cho tột
cao rộng đẹp đẽ, chẳng cần để xá-lợi.
Vì sao ? Vì trong đó đã có toàn thân của đức Như Lai rồi. Tháp đó nên
dùng tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, tràng phan, kỹ nhạc, ca tụng, để
cúng dường cung kính tôn trọng, ngợi khen. Nếu có người thấy được tháp này mà
lễ lạy cúng dường, phải biết những người đó đều gần đạo Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.
Dược Vương ! Có rất nhiều người tại gia cùng xuất gia làm đạo Bồ-tát, nếu
chẳng có thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì, cúng dường được kinh Pháp
Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ-tát. Nếu có người được nghe
kinh điển này, mới là hay khéo tu đạo Bồ-tát. Có chúng sanh nào cầu Phật đạo
hoặc thấy, hoặc nghe kinh Pháp Hoa này, nghe xong tin hiểu thọ trì, nên biết
người đó được gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Dược Vương ! Thí như có người khát tìm nước ở nơi gò cao kia soi đào tìm
đó, vẫn thấy đất khô biết rằng nước còn xa, ra công đào không thôi, lần thấy đất
ướt rồi lần thấy đến bùn, tâm người đó quyết chắc biết rằng nước ắt gần.
Bồ-tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu chưa có thể tu tập kinh
Pháp Hoa này, phải biết người đó cách đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
còn xa.
Nếu được nghe hiểu suy gẫm tu tập kinh này, thời chắc biết được gần Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. 
Vì sao ? Vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Bồ-tát đều thuộc
kinh này, kinh này mở môn phương tiện bày tướng chân thiệt. Tạng kinh Pháp
Hoa này, xa kín nhiệm sâu không có người đến được, nay Phật vì giáo hóa để
thành tựu Bồ-tát mà chỉ bày cho.
Dược Vương ! Nếu có Bồ-tát nghe kinh Pháp Hoa này mà kinh nghi sợ sệt,
phải biết đó là Bồ-tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh văn nghe kinh này mà kinh
nghi sợ sệt, phải biết đó là hạng tăng thượng mạn.
GIẢNG :
Phật dạy, nơi chỗ đọc tụng biên chép kinh Pháp Hoa hoặc có kinh Pháp
Hoa, nên xây tháp bảy báu cúng dường mà không cần để xá-lợi. Nghĩa là người
mà tin hiểu Tri kiến Phật tức là tin Phật tánh sẵn có nơi chính mình, như vậy chỗ
đó nên xây tháp mà thờ vì có sẵn Phật pháp thân không cần xá-lợi.
Phật nói thêm, người hành đạo Bồ-tát mà chưa thọ trì, đọc tụng kinh Pháp
Hoa, thì người đó chưa khéo tu đạo Bồ-tát, vì chưa tin nhận nơi mình có sẵn Tri
kiến Phật. Còn người mà biết thọ trì, biên chép, cúng dường, giảng nói kinh Pháp
Hoa thì sẽ gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tại sao được gần ? Kinh
Pháp Hoa là chỉ cho Phật tánh sẵn có nơi mỗi người, người mà biết trở về với Phật
tánh của chính mình là người đó gần với Phật rồi, nên nói gần đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Phật dùng ví dụ người đào giếng, đào từng lớp đất khô rồi dần dần tới lớp
đất im im, lần tới lớp đất ướt. Khi tới lớp đất ướt là biết sắp tới nước. Cũng vậy,
người nào đối với kinh Pháp Hoa đủ niềm tin, biết trở về với chính mình thì chắc
chắn người đó sẽ thành Phật. Vì biết mình có sẵn Tri kiến Phật và biết trở về với
Tri kiến Phật, thì cũng như người đi lạc đường mà tìm ra đường về, và bắt đầu đi
về thì chắc chắn người đó sẽ tới nhà.
Tới đây Phật nói ngược lại, nếu người nghe kinh Pháp Hoa không tin lại
nghi sợ, nên biết đó là Bồ-tát mới phát tâm. Còn hàng Thanh văn nghe kinh này
mà nghi sợ thì biết đó là tăng thượng mạn. Tại sao vậy ? Vì Phật chỉ thẳng Tri kiến
Phật, nếu tin nhận được tức là khởi tu Phật nhân, nhứt định sẽ thành Phật quả. Mà
Bồ-tát tu cốt là để thành Phật, bây giờ nghe kinh Pháp Hoa mà sợ thì biết người đó
mới bắt đầu, nên chưa hiểu, chưa tin, lại sợ. Còn hàng Thanh văn tự cho mình
chứng quả Tu-đà-hoàn... hay A-la-hán là đủ rồi. Bấy giờ nghe kinh Pháp Hoa thì
không tin nên gọi là tăng thượng mạn, được ít cho là đủ.
4. CHÁNH VĂN :
* Dược Vương ! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào, sau khi đức
Như Lai diệt độ muốn vì hàng bốn chúng mà nói kinh Pháp Hoa này thời phải nói
cách thế nào ? Người thiện nam, người thiện nữ đó phải vào nhà Như Lai, mặc y
Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng mà rộng nói kinh này.
Nhà Như Lai chính là tâm từ bi lớn đối với tất cả chúng sanh, y Như Lai
chính là lòng nhu hòa, nhẫn nhục, tòa Như Lai chính là Nhứt thiết pháp không. An
trụ trong đây, sau rồi dùng tâm không biếng trễ vì các Bồ-tát và bốn chúng rộng
nói kinh Pháp Hoa này. 
Dược Vương ! Bấy giờ ta ở nước khác sai hàng hóa nhân làm chúng nhóm
nghe pháp của người đó, ta cũng sai hóa Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-
di, nghe người đó nói pháp. Các người biến hóa đó nghe pháp tin nhận thuận theo
không hề trái. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, ta liền sai nhiều trời, rồng, quỉ,
thần, càn-thát-bà, a-tu-la v.v... nghe người đó nói pháp. Ta dầu ở nước khác,
nhưng luôn luôn khiến người nói pháp đó được thấy thân ta. Nếu ở trong kinh nầy
quên mất câu lối, ta lại vì nói cho đó được đầy đủ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Muốn bỏ tánh biếng lười
 Nên phải nghe kinh này
 Kinh này khó được nghe
 Người tin nhận cũng khó.
 Như người khát cần nước
 Xoi đào nơi gò cao
 Vẫn thấy đất khô ráo
 Biết cách nước còn xa
 Lần thấy đất ướt bùn
 Quyết chắc biết gần nước.
 Dược Vương ! Ông nên biết
 Các người như thế đó
 Chẳng nghe kinh Pháp Hoa
 Cách trí Phật rất xa,
 Nếu nghe kinh sâu này
 Quyết rõ pháp Thanh văn
 Đây là vua các kinh
 Nghe xong suy gẫm kỹ
 Phải biết rằng người đó
 Gần nơi trí huệ Phật.
 Nếu người nói kinh này
 Nên vào nhà Như Lai
 Mặc y của Như Lai
 Mà ngồi tòa Như Lai
 Ở trong chúng không sợ
 Rộng vì người giải nói,
 Từ bi lớn làm nhà
 Y nhu hòa nhẫn nhục
 Các pháp không làm tòa
 Ở đó vì người nói.
 Nếu lúc nói kinh này
 Có người lời ác mắng
 Dao gậy, ngói, đá đánh
 Nhớ Phật nên phải nhịn.
 Ta trong muôn ức cõi 
 Hiện thân sạch bền chắc
 Trải vô lượng ức kiếp
 Vì chúng sanh nói pháp.
 Sau khi ta diệt độ
 Nếu hay nói kinh này
 Ta sai hóa tứ chúng
 Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
 Và nam, nữ thanh tịnh
 Cúng dường nơi Pháp sư
 Dẫn dắt các chúng sanh
 Nhóm đó khiến nghe pháp.
 Nếu người muốn làm hại
 Dao gậy cùng ngói đá
 Thời khiến người biến hóa
 Giữ gìn cho người đó.
 Nếu người nói Pháp Hoa
 Ở riêng nơi vắng vẻ
 Lặng lẽ không tiếng người
 Đọc tụng kinh điển này
 Bấy giờ ta vì hiện
 Thân thanh tịnh sáng suốt
 Nếu quên mất chương cú
 Vì nói khiến thông thuộc.
 Nếu người đủ đức này
 Hoặc vì bốn chúng nói
 Chỗ vắng đọc tụng kinh
 Đều được thấy thân ta
 Nếu người ở chỗ vắng
 Ta sai trời, Long vương
 Dạ-xoa, quỉ, thần thảy
 Vì làm chúng nghe pháp.
 Người đó ưa nói pháp
 Phân giải không trở ngại
 Nhờ các Phật hộ niệm
 Hay khiến đại chúng mừng
 Nếu ai gần Pháp sư
 Mau được đạo Bồ-tát
 Thuận theo thầy đó học
 Được thấy Hằng sa Phật.
GIẢNG :
Đây, Phật đưa ra điều kiện người nói kinh Pháp Hoa phải vào nhà Như Lai,
mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai mới đủ tư cách của người nói kinh Pháp Hoa. Vì
vào nhà Như Lai mới có tâm từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sanh, mặc y Như
Lai mới có đủ nhu hòa nhẫn nhục đối với tất cả mọi khó khổ chướng ngại, ngồi tòa
Như Lai mới có đủ trí tuệ rộng lớn thấy rõ tất cả pháp không có tự thể cố định. Từ
lâu chúng ta quen học hiểu trên sự tướng, hiểu thọ trì, đọc tụng bằng lời, diễn nói
bằng ngôn ngữ, biên chép bằng tay, sẽ được Phật xoa đầu thọ ký thành Phật.
Nhưng ở đây Phật dạy người nói kinh Pháp Hoa phải có đủ ba điều kiện vừa nêu.
Nếu muốn giảng nói kinh Pháp Hoa thì trước phải biên chép, thọ trì, đọc tụng cho
thể nhập, rồi sau mới vì người mà giảng dạy. Như vậy, thì người thọ trì, đọc tụng,
biên chép kinh Pháp Hoa cũng phải vào nhà Như Lai, ngồi tòa Như Lai, mặc y
Như Lai mới gần với Tri kiến Phật. Tại sao ? Vì Tri kiến Phật là tánh giác có sẵn
nơi mỗi người mà bị vô minh vọng tưởng che khuất, muốn cho tánh giác hiển lộ
thì phải có trí tuệ thấy rõ thật tướng tất cả pháp không có tự thể cố định tùy duyên
tạm có, huyễn hóa không thật, thấy rõ ràng không lầm lẫn, thì đối với mọi hoàn
cảnh khó khổ, đói thiếu, vinh nhục... không cố chấp không chao động, và thấy
chúng sanh đang mê mờ chạy theo giả tướng, tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử
không có ngày dừng, nên khởi lòng từ bi tế độ.
Thiền sư Duy Tín nói rằng: “Ba mươi năm trước, tôi thấy núi sông là núi
sông. Sau khi gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi
sông. Bây giờ tôi thấy núi sông là núi sông.” Khi chưa học đạo còn phàm phu, trí
tuệ chưa sáng thấy lầm các pháp là thật, nên thấy núi thật là núi, thấy sông thật là
sông. Khi được thiện tri thức chỉ dạy biết tu, dùng trí tuệ quán chiếu thấy rõ các
pháp không có tự thể cố định, do duyên hợp tạm có không thật, thấy núi không
phải là núi, thấy sông không phải là sông, nên không cố chấp không phiền não. Vì
không cố chấp nên tâm không vọng động, tâm thể nhứt như, thấy các pháp đúng
như bản vị của nó, thấy núi là núi, thấy sông là sông. Như vậy, muốn vì người nói
kinh Pháp Hoa là phải đủ ba điều kiện nêu trên, mới không hướng dẫn người tu sai
lạc.
Phật kết thúc rằng người có đủ ba điều kiện nêu trên, vì chúng sanh nói
kinh Pháp Hoa thì Phật sẽ sai hóa nhân đến để nghe pháp, luôn luôn được Phật hộ
niệm và người nói pháp đó là người thấy Phật. Tại sao được thấy Phật ? Vì người
nói được kinh Pháp Hoa là người có đủ từ bi nhẫn nhục trí tuệ, mà người đã có trí
tuệ là người hằng sống với trí tuệ Phật thì thấy Phật chớ gì.
Qua phẩm này, chúng ta thấy Phật tán thán kinh Pháp Hoa là ít có, quí nhất
trên đời, quí nhất trong các kinh, vì vậy mà Phật tán thán người thọ trì, đọc tụng,
biên chép kinh Pháp Hoa. Kế đó, Phật tán thán người đem kinh này ra giảng nói
cho mọi người nghe, nhắc cho mọi người nhớ và tin nơi mình có sẵn Tri kiến Phật
là quí. Sau rốt, Phật nêu lên ba điều kiện mà một Pháp sư nói kinh Pháp Hoa phải
có: tâm từ bi lớn, nhu hòa nhẫn nhục, và sống bằng trí tuệ Bát-nhã.
Như vậy, Phật tùy theo người hạ căn mà nói. Người nào có một niệm
hướng về kinh Pháp Hoa đều có thể thành Phật. Ngài nói thật thấp rồi Ngài nâng
lên cao. Người nói kinh Pháp Hoa phải có ba điều kiện nêu trên, chứ không phải
dễ. Phật vừa an ủi kẻ hạ căn không mặc cảm để nỗ lực tu, vừa răn dè kẻ nghe nói
dễ rồi lơ là khinh thường, hoặc hiểu theo sự rồi chấp tướng, cứ lo trì tụng lễ bái
suông cho là đủ công đức sẽ thành Phật. Thành Phật thì ai cũng có khả năng thành, 
nhưng thành hay không còn tùy thuộc ở người có thực hiện ba điều kiện vừa nêu
hay không.
D
PHẨM 11: HIỆN BẢO THÁP
Như tôi đã nói mục đích Phật nói kinh Pháp Hoa là để khai thị cho chúng
sanh ngộ nhập Tri kiến Phật. Phẩm Tựa nói tổng quát trọn bộ kinh. Từ phẩm
Phương Tiện đến phẩm Pháp Sư là phần khai Phật tri kiến. Những phẩm này Phật
dùng những phương tiện thực tế, cũng như các đệ tử Phật dùng những thí dụ cụ thể
nói lên chỗ nhận hiểu của các Ngài, để minh chứng rằng các Ngài đã tin nhận nơi
mình có sẵn Tri kiến Phật. Trước tiên là ngài Xá-lợi-phất, kế đến là bốn vị Đại Cadiếp,
Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên... sau nữa gồm 500 vị A-la-hán, và
cuối cùng thì có những vị hữu học vô học như ngài A-nan, La-hầu-la... Phật tùy
theo cơ duyên mà thọ ký cho, phần này là phần khai, tức là mở ra cái hướng để
nhìn và đi vào.
Phẩm Hiện Bảo Tháp là phần “thị” Phật tri kiến. “Thị” là chỉ cho người
thấy (ngộ), “thị” và “ngộ” không rời nhau. Tri kiến Phật tướng trạng như thế nào
mà có thể chỉ được ? Tri kiến Phật là tánh giác có sẵn nơi mỗi người, hằng sáng
soi mà không hình không tướng, nên khó chỉ khó nhận. Giống như không khí tối
cần thiết cho lẽ sống của sinh vật, nhưng không hình không tướng nên khó chỉ;
khó chỉ không phải là không có. Vì vậy mà phải mượn những hình ảnh biểu trưng
để chỉ cho chúng ta ngầm nhận ra Tri kiến Phật, nên phẩm Hiện Bảo Tháp, phẩm
Đề-bà-đạt-đa... nêu lên những hình ảnh biểu trưng cho Tri kiến Phật có sẵn muôn
thuở không mất ở nơi mỗi người, khi người tin nhận thì nó hiện tiền. Ở đây mang
tính cách giải bày nêu ra phần khai, thị, ngộ, nhập, kỳ thật toàn bộ kinh đều chỉ
cho mọi người nhận ra nơi thân năm uẩn này có sẵn Tri kiến Phật chớ không ở nơi
nào khác.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần,
ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không;
các món vật báu trau giồi, năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng
phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên
tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly cấu, chiên-đàn khắp cùng cả cõi
nước.
Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân
châu và mai khôi hiệp lại thành, cao đến ngang cung trời Tứ thiên vương, trời
Đao-lợi rưới hoa mạn-đà-la cúng dường tháp báu.
Các trời khác và rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la,
ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân v.v... nghìn muôn ức chúng đều đem tất cả hoa,
hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, kỹ nhạc mà cúng dường tháp báu, đồng cung kính
tôn trọng ngợi khen.
Bấy giờ, trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: “Hay thay ! Hay thay !
Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn ! Có thể dùng huệ lớn bình đẳng vì đại chúng nói 
kinh Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế ! Đúng
thế ! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn ! Như lời Phật nói đó, đều là chân thật.”
GIẢNG :
Tới đây Phật nêu lên hình ảnh một tháp bằng bảy báu, từ dưới đất nổi lên
trụ giữa hư không, rồi từ trong tháp đó vang ra tiếng khen Phật Thích-ca nói kinh
Pháp Hoa là đúng là chân thật. Tháp bảy báu là tượng trưng cho cái thân hình
thành bằng thất đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức, kiến. Khi “ngộ”, nhận ra Tri
kiến Phật thì nó thanh tịnh trở thành thất bảo, nếu còn mê Tri kiến Phật, tâm uế
trược thì nó là thất đại. Tại sao tháp bảy báu này nổi lên trụ ở giữa hư không mà
không trụ ở mặt đất ? Ở phẩm Pháp Sư, Phật có nói người giảng kinh Pháp Hoa
phải có đủ ba điều kiện là từ bi, nhẫn nhục và trí tuệ rõ biết tất cả pháp không. Trụ
trong hư không là ngồi tòa Như Lai, với trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả các pháp tự tánh
là không. Thấy được như thế mới chuyển thất đại thành thất bảo. Ngay trong thất
đại có sẵn Tri kiến Phật, đoạn sau biểu trưng bằng Phật Đa Bảo, nếu gặp duyên
khai mở thì nó hiện ra rỡ ràng, nên nói ở trong tháp bảy báu vang ra tiếng khen
Phật Thích-ca nói kinh Pháp Hoa đúng và chân thật. Kinh Pháp Hoa chính là Tri
kiến Phật, chư Phật đời quá khứ cũng ngộ Tri kiến Phật, chư Phật đời hiện tại, đời
vị lai cũng ngộ Tri kiến Phật không khác.
2. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, bốn chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư không, lại nghe trong
tháp vang tiếng nói ra, đều được pháp hỉ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy cung kính chấp tay rồi đứng một bên.
Lúc đó, có vị đại Bồ-tát tên Đại Nhạo Thuyết, biết lòng nghi của tất cả trời,
người, a-tu-la v.v... trong thế gian mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn ! Do nhân
duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế ?”
Lúc đó, Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát: “Trong tháp báu này có
toàn thân Như Lai, thời quá khứ về trước, cách đây vô lượng nghìn muôn ức vô số
cõi nước ở phương Đông, có nước tên Bảo Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu là Đa
Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ-tát phát lời thệ nguyện lớn rằng: Nếu ta được
thành Phật sau khi diệt độ trong cõi nước ở mười phương có chỗ nào nói kinh
Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng
minh khen rằng: “Hay thay !” Đức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt độ ở trong
đại chúng, trời, người, bảo các Tỳ-kheo rằng: “Sau khi ta diệt độ muốn cúng
dường toàn thân của ta thời nên dựng một tháp lớn.”
Đức Phật đó dùng sức nguyện thần thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười
phương cõi nước, nếu có nói kinh Pháp Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước,
toàn thân Phật ở trong tháp khen rằng: “Hay thay ! Hay thay !”
Đại Nhạo Thuyết ! Nay tháp của Đa Bảo Như Lai vì nghe nói kinh Pháp
Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằng: “Hay thay ! Hay thay !”
GIẢNG :
Từ trước những người đứng ra thưa hỏi là những vị Thanh văn, La-hán có
trong lịch sử. Tới đây là phần “thị” Phật tri kiến dùng hình ảnh biểu trưng để chỉ,
nên người đứng ra thưa hỏi cũng là vị Bồ-tát biểu trưng tên là Đại Nhạo Thuyết. 
Ngài đứng ra thưa hỏi nguyên do nào tháp nổi lên trụ giữa hư không và vang ra
tiếng như vậy ?
Ngài được đức Phật giải thích rằng, trong tháp báu ấy có toàn thân Như Lai.
Thời quá khứ xa xưa, về phương Đông có cõi nước tên là Bảo Tịnh, Phật hiệu Đa
Bảo tu hạnh Bồ-tát, có lời thệ nguyện là sau khi Ngài diệt độ, nơi nào nói kinh
Pháp Hoa thì tháp Ngài sẽ nổi lên ở trước để nghe kinh và chứng minh. Đây lại
nêu lên hình ảnh tượng trưng nữa. Phật đã thành Phật mà còn nghe pháp là chuyện
thừa, vì đã là bậc vô học rồi đâu còn cần nương pháp để học để tu. Tại sao Phật Đa
Bảo đã Niết-bàn rồi mà còn nguyện nghe pháp và chứng minh pháp hội đó ? Rõ
ràng là ý nghĩa biểu trưng ! Đa Bảo là nhiều báu, Bảo Tịnh là của báu trong sạch,
nước Phật và hiệu Phật đều là quí báu, những món quí báu đều chỉ cho Tri kiến
Phật. Tri kiến Phật thanh tịnh, sáng suốt không bị thời gian không gian chi phối,
rất tôn quí nên nói là báu. Ở đây Phật Đa Bảo là chỉ cho Tri kiến Phật, hay Phật
pháp thân, mà Phật pháp thân thì thanh tịnh ở ngay nơi thân thất đại của mỗi người,
nên tượng trưng bằng cõi nước Bảo Tịnh. Thí dụ con người chúng ta tâm đang bị
phiền não chi phối, thường tạo những ác nghiệp nên thường lộ ra dáng vẻ tối tăm
nặng nề, nếu tâm thường an vui sáng suốt, thường tạo nghiệp lành thì lộ ra dáng vẻ
tươi sáng thanh tịnh. Vì vậy ở đây nói tâm thanh tịnh thì hiện ra thân cũng thanh
tịnh, nên nói là báu.
3. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát do sức thần của đức Như Lai mà
bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn ! Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật
đó.” Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát: “Phật Đa Bảo đó có nguyện
sâu nặng: “Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra nơi trước
các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị
Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười phương đều
phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra.”
Đại Nhạo Thuyết ! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cõi nước
trong mười phương nay nên sẽ nhóm lại.” Ngài Đại Nhạo Thuyết bạch Phật rằng:
“Thưa Thế Tôn ! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế Tôn
phân thân để lễ lạy cúng dường.”
GIẢNG :
Đến đây, chúng ta càng thêm sáng tỏ là, đức Phật Đa Bảo có nguyện rằng
khi tháp Ngài hiện ra trong hội nghe kinh Pháp Hoa, đức Phật giảng kinh Pháp
Hoa trong thời đó, muốn cho tứ chúng thấy được thân của Ngài thì, các hóa thân
của Phật đó, đang phân đi giáo hóa ở khắp nơi phải tụ hội về một chỗ, ngồi yên lại,
mở tháp ra mới thấy được thân của Ngài. Nếu mà phân thân Phật đi làm phật sự
chưa tụ hội về thì không thể mở tháp được, và cũng không thấy toàn thân của Phật
Đa Bảo được. Lời nguyện này có ý nghĩa gì ? Phật pháp thân tức là Phật Đa Bảo,
Phật báo thân là chỉ cho thân Phật Thích-ca giáng sinh ở Ấn Độ, Phật hóa thân hay
Ứng thân là những thân Phật phân ra đi nói pháp ở các cõi trong mười phương.
Muốn thấy được Phật Đa Bảo thì các Hóa thân phải cùng qui hội về nhập Pháp
thân là thấy rõ toàn thân Ngài. Đoạn sau sẽ nói rõ ý này. 
4. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặng mày, liền
thấy năm trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa cõi nước ở phương Đông. Các cõi
nước đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang nghiêm, vô số
nghìn muôn ức Bồ-tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu
phủ trên, đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy
vô lượng nghìn muôn ức Bồ-tát khắp đầy trong nước đó vì chúng sanh mà nói
pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng chiếu
đến cũng lại như thế.
Lúc đó, các Phật ở mười phương đều bảo chúng Bồ-tát rằng: “Thiện nam
tử ! Ta nay phải qua thế giới Ta-bà, chỗ của đức Thích-ca Mâu-ni Phật, cùng để
cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai.”
* Lúc bấy giờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu
trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ lạc
làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông cùng rừng. Đốt hương báu lớn,
hoa mạn-đà-la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, treo những
linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người để ở cõi khác.
Lúc đó, các đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm thị giả qua cõi
Ta-bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá
bông trái thứ lớp rất trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có tòa sư tử cao năm dotuần
cũng dùng đồ báu tốt mà trau dồi đó.
Khi ấy, các đức Phật đều ngồi xếp bằng trên tòa này, như thế lần lựa đến
khắp đầy cả cõi tam thiên đại thiên mà ở nơi thân của đức Thích-ca Mâu-ni Phật
phân ra trong một phương vẫn còn chưa hết.
Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni vì muốn dung thọ các vị Phật của mình phân
thân, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều
làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh cùng a-tu-la, lại cũng dời
các hàng trời người để ở cõi khác.
Những nước của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu
trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái đều có thứ lớp tốt đẹp,
dưới cây đều có tòa báu sư tử cao năm do-tuần, dùng các thứ báu để trau dồi.
Những nước đó cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chânlân-đà,
núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di v.v... thông làm một cõi nước Phật,
đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan
lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất.
Đức Thích-ca Mâu-ni Phật vì các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương
lại đều biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh,
không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la, lại dời các hàng trời người để ở
cõi khác. Những nước biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang
nghiêm, cao năm trăm do-tuần, nhánh, lá, bông, trái thứ tự tốt đẹp, dưới cây đều
có tòa sư tử bằng báu cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu tốt mà trau dồi đó.
Những nước này cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mụcchân-lân-đà,
núi Đại Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di 
v.v... thông lại làm một cõi nước Phật đất báu bằng thẳng, các báu đương xen lẫn
nhau thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ
hoa trời báu trải khắp trên đất.
Bấy giờ, ở phương Đông, các đức Phật trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha
Hằng hà sa cõi nước của đức Thích-ca Mâu-ni Phật phân thân ra, thảy đều nói
pháp đến nhóm ở cõi này. Tuần tự như thế, các đức Phật trong cõi nước ở mười
phương thảy đều đến nhóm ngồi ở tám phương. Bấy giờ, mỗi mỗi phương các đức
Như Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi nước.
GIẢNG :
Đức Phật Thích-ca được đại chúng yêu cầu họp các hóa thân Phật của Ngài
về, để chúng chiêm ngưỡng và được thấy đức Phật Đa Bảo ở trong tháp. Bấy giờ
Phật Thích-ca từ giữa chặng mày phóng ra một luồng hào quang sáng qua vô số
cõi nước ở phương Đông, Nam, Tây, Bắc... Các hóa thân Phật thấy hào quang liền
biết Phật muốn mình qui hội về, tuần tự các Ngài rủ nhau về. Khi vô số hóa thân
Phật đều qui hội về thì cõi Ta-bà này được dẹp hết các loài trời, người, a-tu-la, súc
sanh, ngạ quỉ, địa ngục, chỉ còn một cõi thanh tịnh, hiện ra các tòa báu để cho hóa
thân Phật an trụ. Khi hóa thân Phật an trụ xong thì Phật mới mở cửa tháp cho đại
chúng thấy Phật Đa Bảo. Chúng ta phải hiểu như thế nào về ba đức Phật này ?
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục tổ có nói về ba thân Phật như sau:
Pháp thân khởi niệm; Pháp thân là Tự tánh pháp thân, khởi niệm là Hóa
thân. Khi khởi niệm mà không dính không kẹt hai bên có không, tà chánh v.v... là
Báo thân thanh tịnh. Thân tuy nói là ba nhưng cùng một thể. Pháp thân là chỉ cho
Tự tánh thanh tịnh của chính mình, Báo thân là chỉ cho tâm thanh tịnh lìa chấp hai
bên, còn niệm tưởng dấy từ tâm gọi là Hóa thân. Như chúng ta mỗi ngày khởi vô
số nghĩ tưởng hết chuyện xưa đến chuyện nay, hết chuyện thiện tới chuyện ác, hết
chuyện bên Đông tới chuyện bên Tây... Đó là Hóa thân của chúng ta, vì chúng ta
là phàm phu nên Hóa thân không đi giáo hóa chúng sanh, mà là đi phá phách chọc
ghẹo chúng sanh, chớ không làm được điều gì hay. Ví dụ như đang tu, bỗng dưng
khởi lên những niệm rất trần tục đó là phá phách chớ gì? Chư Phật đã giác ngộ
thấy nơi nào chúng sanh có duyên liền khởi nguyện đến giáo hóa. Phật khởi niệm,
khởi trong giác ngộ chớ không khởi trong mê mờ như chúng sanh. Do đó chúng
sanh có vô số phiền não, Phật cũng có vô số Hóa thân để giáo hóa. Bây giờ muốn
thấy được Pháp thân Phật thì Hóa thân phải qui về với Báo thân và phải ngồi yên,
nghĩa là những Hóa thân tức là những vọng tưởng chạy Đông chạy Tây khắp cả
mười phương phải dừng, phải định thì Pháp thân Phật mới hiển hiện, nếu còn vọng
tưởng rối loạn thì Pháp thân Phật không hiển hiện. Chúng ta tu hành lúc nào cũng
vậy, nếu muốn được giác ngộ thì phải định, tức là sạch hết mọi loạn tưởng rồi mới
phát huệ, tức là nhận ra Tri kiến Phật sẵn có nơi mình. Đây là những hình ảnh biểu
trưng, chúng ta chớ kẹt trên danh tướng mà không thấu được lý kinh, rồi không
ứng dụng tu hành được.
Đến đây chúng ta thấy có cái gì mâu thuẫn: Tại sao cõi Ta-bà của Phật
Thích-ca không thanh tịnh, nào là núi sông, gò nổng, sỏi cát... lộn xộn đủ thứ, còn
các cõi phân thân Phật đến giáo hóa thì thanh tịnh trang nghiêm toàn là bảy báu ? 
Như vậy phân thân do Phật hóa ra có giá trị hơn chính Báo thân Phật Thích-ca sao ?
Như trên đã nói Hóa thân là những vọng tưởng chạy khắp mười phương nghĩ về
người, về trời, về thú, về địa ngục... đó là đang đi trong lục đạo. Tất cả những
vọng tưởng đó đều bất tịnh. Khi mà dừng hết mọi vọng tưởng bất tịnh chạy Đông
chạy Tây đó, thì tâm thanh tịnh an định, nên cõi nước cũng thanh tịnh, mà khi tâm
thanh tịnh thì Phật hiện tiền. Nhưng muốn dừng hết mọi vọng tưởng không chạy
Đông chạy Tây, hay nói theo trong kinh là gom hết Hóa thân Phật về một nơi thì
trước tiên phải có trí tuệ không kẹt hai bên. Người đối với cảnh khởi niệm phân
biệt hai bên, tốt xấu, hay dở, phải trái... rồi sanh ưa ghét, niệm khởi rồi diệt, diệt
rồi sanh, sanh sanh diệt diệt, vô số vọng niệm chạy khắp sáu đường không dừng
nghỉ, nên phiền não trần lao cũng vô số. Đó là người thấy một bên không có trí tuệ.
Nếu người có trí tuệ đối với các pháp thấy đúng như thật, do duyên hợp tạm có,
không có tự thể cố định nên không chấp thế này là tốt thế kia là xấu, không khởi
niệm ưa chán tìm cầu hay ghét bỏ, nên không bị phiền não chi phối, tâm được an
định. Như vậy là người có trí không kẹt hai bên. Trí không kẹt hai bên ở đây tượng
trưng bằng hình ảnh hào quang phát ra ở giữa chặng mày.
5. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó các đức Phật đều ngồi tòa sư tử dưới cây báu, đều sai vị thị giả
qua thăm viếng đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo
thị giả rằng: Thiện nam tử ! Ngươi qua đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của đức Thích-ca
Mâu-ni Phật, theo như lời của ta mà thưa cùng Phật thế này: “Như Lai có được ít
bịnh ít khổ sức khỏe an vui, và chúng Bồ-tát cùng Thanh văn đều an ổn chăng ?”
Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng dường mà thưa rằng: “Đức Phật kia
cùng muốn mở tháp báu này.” Các đức Phật sai người đến cũng như vậy.
Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân
đều ngồi trên tòa sư tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền
từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đồng đứng dậy
chấp tay một lòng nhìn Phật.
Khi ấy, đức Thích-ca Mâu-ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu
vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn.
Tức thời, tất cả chúng trong hội đều thấy đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp
báu ngồi tòa sư tử, toàn thân không rã như vào thiền định, lại nghe Phật đó nói:
“Hay thay ! Hay thay ! Thích-ca Mâu-ni Phật sướng thích nói kinh Pháp Hoa đó,
ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này.”
Bấy giờ, hàng tứ chúng thấy đức Phật đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức
kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu
rải trên đức Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni.
Lúc đó, đức Đa Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Thích-ca Mâuni
Phật mà nói rằng: “Thích-ca Mâu-ni Phật có thể đến ngồi trên tòa này.” Tức
thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó.
Bấy giờ, hàng đại chúng thấy hai đức Như Lai ngồi xếp bằng trên tòa sư tử
trong tháp bảy báu thời đều nghĩ rằng: “Đức Phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức
Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không.” 
Tức thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại
chúng đều ở hư không, rồi dùng tiếng lớn mà khắp bảo đó rằng: “Ai có thể ở trong
cõi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nay chính phải lúc. Như Lai
không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho
có người.”
GIẢNG :
Khi Hóa thân Phật cùng qui hội về, đều ngồi trên tòa sư tử sai thị giả đem
hoa báu đến núi Kỳ-xà-quật vấn an Phật Thích-ca, cùng với đại chúng và cúng
dường cung thỉnh Phật Thích-ca mở tháp bảy báu để chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo.
Sau khi Hóa thân Phật qui hội về ngồi yên rồi, Phật Thích-ca mới mở được
cửa tháp cho đại chúng thấy toàn thân Phật Đa Bảo trong tháp, và Phật Đa Bảo
mời Phật Thích-ca cùng ngồi nửa tòa với Ngài. Như vậy để thấy rằng Pháp thân là
có sẵn muôn đời nếu dừng hết vọng tưởng điên đảo thì ngay nơi Báo thân này
Pháp thân hiện tiền. Nếu còn vọng tưởng duyên theo ngoại cảnh thì Pháp thân ẩn
khuất không hiển hiện.
Khi đại chúng thấy hai đức Phật cùng ngồi tòa sư tử trong tháp bảy báu trên
hư không, đều nghĩ rằng Phật ngồi trên hư không cao xa, mong đức Như Lai dùng
sức thần thông khiến cho các Ngài đều được ở trên hư không. Phật Thích-ca liền
dùng thần thông tiếp đại chúng trên hư không. Tại sao có những hiện tượng như
vậy ? Như phẩm Pháp Sư đã nói, người nào muốn thấy được Tri kiến Phật là phải
từ bi, nhẫn nhục và thấy tất cả pháp là không. Vì vậy, đức Phật phương tiện giáo
hóa để cho người dùng trí Bát-nhã tu, thấy tất cả pháp là không, đó là thần thông,
chớ không phải dùng thần lực đưa tất cả đại chúng từ mặt đất lên hư không để thấy
Phật. Nếu Ngài biến hóa đại chúng được như vậy thì Ngài cũng biến hóa cho tất cả
chúng sanh thành Phật, để họ khỏi tu, vì tu khó và lâu lắm mới được thành Phật.
Đó là Ngài vận dụng phương tiện giáo hóa cho chúng sanh tỉnh giác, không còn
lầm lẫn chấp các pháp là thật có. Thấy rõ các pháp duyên hợp giả có, tự tánh là
không, tâm không còn chấp, không còn chạy theo các pháp, tâm an định, Pháp
thân hiển hiện. Vì vậy ở đây nói nâng đại chúng lên hư không để thấy Phật và
được nghe Phật nói pháp. Và sau khi nâng đại chúng lên hư không rồi, nói rằng:
“Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nay chính
phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa
này phó chúc cho có người.” Khi nâng đại chúng lên hư không thì ngang chừng đó
là phải lúc, là xứng đáng nhận lãnh lời phó chúc, nên Ngài kết luận là Ngài sắp
vào Niết-bàn, ai có thể nói kinh Pháp Hoa thì Ngài giao phó. Khi đại chúng còn ở
dưới đất tức là còn chấp có, chấp không, thấy hai bên, Ngài không tuyên bố lời
này. Khi nâng đại chúng lên hư không, tức là đại chúng đã có trí tuệ thấy rõ tất cả
pháp đúng như thật, không còn kẹt hai bên, Phật mới tuyên bố như vậy.
Qua những hình ảnh trên, nếu chúng ta căn cứ trên chữ nghĩa thì thấy khó
hiểu khó tin, thấy như huyễn hoặc mê tín, rồi đâm ra phỉ báng kinh. Lý kinh thật
cao siêu tuyệt diệu, nếu chúng ta không hiểu, vô tình biến thành cái tầm thường rồi
phỉ báng, điều này không nên để xảy ra.
6. CHÁNH VĂN : 
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Đấng Thánh chúa Thế Tôn
 Dầu diệt độ đã lâu
 Ở trong tháp báu này
 Còn vì pháp mà đến
 Các ông lại thế nào
 Há chẳng siêng vì pháp ?
 Phật Đa Bảo diệt độ
 Đã vô lượng số kiếp
 Nơi nơi đến nghe pháp
 Vì khó gặp được vậy.
 Phật kia bổn nguyện rằng:
 Sau khi ta diệt độ
 Nơi nơi tháp ta qua
 Thường vì nghe Pháp Hoa.
 Lại vô lượng các Phật
 Số nhiều như Hằng sa
 Của ta phân thân ra
 Vì muốn đến nghe pháp
 Và cùng để ra mắt
 Phật diệt độ Đa Bảo
 Nên đều bỏ cõi đẹp
 Cùng với chúng đệ tử
 Trời, người, rồng, thần thảy
 Và các việc cúng dường
 Muốn pháp lâu ở đời
 Cho nên đến cõi này.
 Ta vì các Phật ngồi
 Dùng sức thần thông lớn
 Dời vô lượng trời, người
 Làm cho nước thanh tịnh.
 Các đức Phật mỗi mỗi
 Đều đến dưới cây báu
 Như hoa sen trang nghiêm
 Nơi ao báu trong sạch.
 Dưới mỗi cây báu đó
 Có tòa báu sư tử
 Phật xếp bằng ngồi trên
 Sáng suốt rất đẹp đẽ
 Như giữa đêm tối tăm
 Đốt đuốc lớn lửa sáng.
 Thân Phật thoảng hương thơm
 Bay khắp mười phương nước 
 Chúng sanh được hương xông
 Vui mừng không kể xiết
 Thí như luồng gió lớn
 Thổi lay nhánh cây nhỏ
 Dùng các phương tiện đó
 Làm cho pháp ở lâu.
GIẢNG :
Phật khuyến khích đại chúng rằng Phật Đa Bảo đã Niết-bàn lâu rồi, nay vì
kinh Pháp Hoa mà hiện bảo tháp để nghe, bởi kinh Pháp Hoa khó gặp khó được,
đại chúng nên phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa.
7. CHÁNH VĂN :
 * Nói cùng hàng đại chúng
 Sau khi ta diệt độ
 Ai có thể hộ trì
 Đọc nói kinh pháp này
 Thời nay ở trước Phật
 Nên tự phát lời thệ.
 Coi Phật Đa Bảo kia
 Dầu đã diệt từ lâu
 Do bổn thệ nguyện rộng
 Mà còn rền tiếng lớn.
 Đức Đa Bảo Như Lai
 Và cùng với thân ta
 Nhóm họp các Hóa Phật
 Phải nên biết ý này.
 Các hàng Phật tử thảy
 Ai có thể hộ pháp
 Nay nên phát nguyện lớn
 Khiến pháp ở đời lâu.
 Có ai hay hộ được
 Kinh Diệu Pháp Hoa này
 Thời là đã cúng dường
 Thích-ca cùng Đa Bảo
 Đức Đa Bảo Phật đây
 Ở trong tháp báu lớn
 Thường dạo qua mười phương
 Vì để nghe kinh này.
 Cũng là để cúng dường
 Các Hóa Phật đến nhóm
 Trang nghiêm rất sáng đẹp
 Các thế giới vô lượng.
 Nếu người nói kinh này
 Thời là đã thấy ta 
 Cùng Đa Bảo Như Lai
 Và các vị Hóa Phật.
GIẢNG :
Phật dạy tất cả những người đã phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa, sau đó là
phải thệ nguyện. Tại sao phải thệ nguyện ? Vì Phật Đa Bảo từ muôn kiếp tới giờ
vẫn còn ở trong tháp không hư không hoại, đó là nói lên ý nghĩa Pháp thân không
hoại diệt vì nó vô tướng, bởi vô tướng nên thọ trì rất là khó. Phàm cái gì có hình
tướng mắt thấy tay sờ mó được thì nắm bắt gìn giữ tương đối dễ. Tri kiến Phật tuy
không tướng mà hằng hiện hữu, muốn chỉ và muốn nhận rất khó, nên đòi hỏi
người tu phải bền chí nhẫn nại tâm không lui sụt, mới có thể tiến tới đích được.
Tuy biết mình có sẵn Tri kiến Phật, song thời gian tu để nhận ra nó không hạn
định. Trong kinh thường diễn tả rất lâu xa, nếu thệ nguyện không vững, khi khỏe
vui thì tu, mệt buồn thì nghỉ, như vậy không tiến. Do đó Phật dạy người phát tâm
thọ trì kinh Pháp Hoa phải có chí nguyện bền vững.
8. CHÁNH VĂN :
 * Các thiện nam tử này
 Đều nên suy nghĩ kỹ
 Đây là việc rất khó
 Phải phát nguyện rộng lớn
 Bao nhiêu kinh điển khác
 Số nhiều như Hằng sa
 Dầu nói hết kinh đó
 Cũng chưa đủ làm khó,
 Hoặc đem núi Diệu Cao
 Ném để ở phương khác
 Cách vô số cõi Phật
 Cũng chưa lấy làm khó
 Nếu người dùng ngón chân
 Động cõi nước Đại Thiên
 Ném xa qua cõi khác
 Cũng chưa lấy làm khó,
 Hoặc đứng trên Hữu Đảnh
 Nói vô lượng kinh khác
 Vì để dạy bảo người
 Cũng chưa lấy làm khó,
 Nếu sau lúc Phật diệt
 Người ở trong đời ác
 Có thể nói kinh này
 Đây thời rất là khó.
 Giả sử lại có người
 Dùng tay nắm hư không
 Để mà khắp dạo đi 
 Cũng chưa lấy làm khó,
 Sau khi ta diệt độ
 Nếu người tự thơ trì
 Hoặc bảo người thơ trì (Thơ trì: biên chép và thọ trì)
 Đây thời là rất khó.
 Hoặc đem cả cõi đất
 Để trên móng ngón chân
 Bay lên đến Phạm thiên
 Cũng chưa lấy làm khó,
 Sau khi Phật diệt độ
 Người ở trong đời ác
 Tạm đọc kinh pháp này
 Đây thời mới là khó.
 Giả sử gặp kiếp thiêu
 Gánh mang những cỏ khô
 Vào lửa không bị cháy
 Cũng chưa lấy làm khó,
 Sau khi ta diệt độ
 Nếu người trì kinh này
 Vì một người mà nói
 Đây thời mới là khó.
 Hoặc người trì tám muôn
 Bốn nghìn các tạng pháp
 Đủ mười hai bộ kinh
 Vì người mà diễn nói
 Khiến các người nghe pháp
 Đều được sáu thần thông
 Dầu được như thế đó
 Cũng chưa lấy làm khó,
 Sau khi ta diệt độ
 Nghe lãnh kinh điển này
 Hỏi nghĩa thú trong kinh
 Đây thời mới là khó.
 Hoặc có người nói pháp
 Làm cho nghìn muôn ức
 Đến vô lượng vô số
 Hằng hà sa chúng sanh
 Chứng được quả La-hán
 Đủ sáu phép thần thông
 Dầu có lợi ích đó
 Cũng chưa phải là khó,
 Sau khi ta diệt độ
 Nếu người hay phụng trì 
 Những kinh điển như đây
 Đây thời là rất khó.
GIẢNG :
Phật nói kinh Pháp Hoa rất khó thọ trì, khó đem ra giảng dạy. Ngài dùng
những ví dụ để so sánh cái khó của kinh Pháp Hoa. Thứ nhứt là dầu cho nói hết
kinh điển của Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng chưa đủ làm khó.
Thứ hai là đem núi Diệu Cao ném ở phương khác, cách vô số cõi Phật cũng
chưa phải là khó. Thứ ba là dùng ngón chân động cõi nước Đại Thiên ném xa qua
cõi khác cũng chưa phải là khó. Thứ tư là đứng trên cõi trời Sắc Cứu kính nói vô
lượng kinh để dạy bảo người cũng chưa phải là khó. Thứ năm là dùng bàn tay nắm
hư không để dạo đi khắp cõi nước cũng chưa phải là khó. Thứ sáu là đem tất cả
cõi đất để trên móng ngón chân bay lên đến Phạm Thiên cũng chưa phải là khó.
Thứ bảy là gặp kiếp thiêu mang những cỏ khô vào lửa không bị cháy cũng chưa
phải là khó. Thứ tám là trì tám muôn bốn nghìn tạng pháp đủ mười hai bộ kinh,
giảng nói cho người nghe chứng lục thông cũng chưa phải là khó. Thứ chín là nói
pháp độ cho vô số chúng sanh chứng lục thông La-hán cũng chưa phải là khó. Cái
khó nhất là sau khi Phật diệt độ ở trong đời ác nói được kinh này mới thật là khó.
Chín việc khó vừa nêu trên, đối với khả năng chúng ta đã không làm được,
thế mà sánh với việc thọ trì giảng nói kinh Pháp Hoa trong đời ác trược càng khó
hơn nữa. Như vậy là sao ? Đời ác trược là thời mà tâm người đang điên đảo móng
vọng tìm cầu, tranh giành, dua nịnh, người mạnh lấn hiếp người yếu, khen mình
chê người, lừa dối lẫn nhau. Với tâm người mê mờ cuồng loạn như thế, mà giảng
nói Tri kiến Phật thì họ có tin có nhận được không? Thật khó mà tin nhận được !
Vì muốn nhận ra Tri kiến Phật là phải dừng tất cả mọi vọng niệm. Nếu vọng niệm
còn chạy ngược chạy xuôi, dù cho thuyết giảng thế nào chăng nữa, người ta cũng
không hiểu không tin nên nói là khó. Nên nhớ, kinh này là chỉ cho Tri kiến Phật,
chớ không phải bộ kinh văn tự được ghi chép bằng giấy mực và đóng lại thành tập
thành bộ. Thế nên muốn giảng giải chỉ cho người nhận ra Tri kiến Phật là phải có
đủ từ bi, nhẫn nhục và trí tuệ mới hội đủ điều kiện để thuyết giảng, nên nói là khó.
Ngày nay chúng ta thấy giảng kinh Pháp Hoa tuy dễ, nhưng nếu làm đúng thì
chúng ta ít ai làm được. Như hôm nay tôi giảng kinh Pháp Hoa cũng chỉ là gượng
gạo nói, chưa trọn vẹn ý nghĩa trên và có lẽ người nghe cũng còn dính kẹt đủ thứ
trần lao, nên nghe thì nghe chớ chưa nhận ra Tri kiến Phật.
9. CHÁNH VĂN :
 * Ta vì hộ Phật đạo
 Ở trong vô lượng cõi
 Từ thuở trước đến nay
 Rộng nói nhiều các kinh
 Mà ở trong kinh đó
 Kinh này là bậc nhứt
 Nếu có người trì được
 Thời là trì thân Phật.
 Các thiện nam tử này 
 Sau khi ta diệt độ
 Ai có thể thọ trì
 Và đọc tụng kinh này
 Thời nay ở trước Phật
 Nên tự nói lời thệ
 Kinh pháp đây khó trì
 Nếu người tạm trì đó
 Thời ta rất vui mừng
 Các đức Phật cũng thế
 Người nào được như vậy
 Các đức Phật thường khen
 Đó là rất dõng mãnh
 Đó là rất tinh tấn
 Gọi là người trì giới
 Bậc tu hạnh đầu-đà
 Thời chắc sẽ mau được
 Quả Vô thượng Phật đạo.
 Có thể ở đời sau
 Đọc trì kinh pháp này
 Là chân thật Phật tử
 Trụ ở bậc thuần thiện.
 Sau khi Phật diệt độ
 Có thể hiểu nghĩa này
 Thời là mắt sáng suốt
 Của trời người trong đời.
 Ở trong đời kinh sợ
 Hay nói trong chốc lát
 Tất cả hàng trời người
 Đều nên cúng dường đó.
GIẢNG :
Vì muốn hộ trì Phật đạo thường còn mà Phật hằng nói kinh, và trong các
kinh, Phật thường nói kinh Pháp Hoa là bậc nhứt. Nên người nào thọ trì kinh này
là hộ trì pháp Phật, thọ trì thân Phật được Phật hoan hỉ tán thán khen ngợi là người
trì giới tinh tấn, dõng mãnh tu hạnh đầu đà, chắc chắn sẽ mau được Vô thượng
Phật đạo, sẽ là con mắt sáng cho thế gian, xứng đáng cho trời người cúng dường.
D
PHẨM 12: ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA
Căn cứ kinh A-hàm thì đương thời với Phật, Đề-bà-đạt-đa là người có tham
vọng thay Phật thống lãnh Tăng đoàn, từng làm cho thân Phật ra máu, phá hoại
Phật nhiều cách, làm chướng ngại sự tu tiến của Phật chẳng những một đời mà
nhiều đời ở quá khứ. Với con mắt phàm phu và Nhị thừa thì thấy Đề-bà-đạt-đa là
người tội lỗi, phạm tội ngũ nghịch phải đọa địa ngục. Nhưng ở đây dưới mắt Phật
thì Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức của Phật, nhờ Đề-bà-đạt-đa Ngài mới được
viên mãn công hạnh Bồ-tát để thành Phật. Như vậy nhãn quan của kinh A-hàm và
kinh Đại thừa về Đề-bà-đạt-đa rất dị biệt, phần sau sẽ giải thích.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ-tát và hàng trời, người, bốn chúng:
“Ta ở trong vô lượng kiếp về thời quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không có lười mỏi.
Trong nhiều kiếp thường làm vị quốc vương phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-
đề, lòng không thối chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la- mật nên siêng làm
việc bố thí lòng không lẫn tiếc, bố thí voi, ngựa, bảy báu, nước, thành, vợ, con, tôi
tớ, bạn bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳng tiếc thân mạng.
Thuở đó, nhân dân trong đời sống lâu vô lượng, vua vì mến pháp nên thôi
bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho thái tử. Đánh trống rao lệnh cầu pháp khắp bốn
phương: “Ai có thể vì ta nói pháp Đại thừa, thời ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ.”
Khi ấy có vị Tiên nhân đến thưa cùng vua rằng: “Ta có pháp Đại thừa tên là
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nếu Đại vương không trái ý ta, ta sẽ vì Đại vương mà
tuyên nói.”
Vua nghe lời vị Tiên nhân nói, vui mừng hớn hở, liền đi theo vị Tiên nhân
để cung cấp việc cần dùng: hoặc hái trái, gánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho
đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mỏi. Thuở đó theo
phụng thờ vị Tiên nhân trải qua một nghìn năm, vì trọng pháp nên siêng năng cung
cấp hầu hạ cho Tiên nhân không thiếu thốn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Ta nhớ kiếp quá khứ
 Vì cầu pháp Đại thừa
 Dầu làm vị quốc vương
 Chẳng ham vui ngũ dục.
 Đánh chuông rao bốn phương
 Ai có pháp Đại thừa
 Nếu vì ta giải nói
 Thân sẽ làm tôi tớ.
 Giờ có tiên Trường thọ
 Đến thưa cùng Đại vương
 Ta có pháp nhiệm mầu
 Trong đời ít có được 
 Nếu có thể tu hành
 Ta sẽ vì ông nói.
 Khi vua nghe tiên nói
 Sanh lòng rất vui đẹp
 Liền đi theo Tiên nhân
 Cung cấp đồ cần dùng
 Lượm củi và rau trái
 Theo thời cung kính dâng
 Lòng ham pháp Đại thừa
 Thân tâm không lười mỏi,
 Khắp vì các chúng sanh
 Siêng cầu pháp mầu lớn
 Cũng không vì thân mình
 Cùng với vui ngũ dục
 Nên dầu làm vua lớn
 Siêng năng được pháp này
 Do đó được thành Phật
 Nay vẫn vì ông nói.
GIẢNG :
Phẩm này cũng có vẻ huyền bí như phẩm Hiện Bảo Tháp, nếu không khéo
nghe có thể hiểu lầm. Trước hết Phật kể lại thuở vô lượng kiếp về trước, Ngài từng
làm quốc vương cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, muốn viên mãn hạnh Lục độ, thực
hành pháp Bố thí rốt ráo không tiếc thân mạng. Vua truyền ngôi cho thái tử, đi
khắp nơi để cầu pháp, lúc bấy giờ có vị Tiên nhân tự giới thiệu với vua là ông có
pháp Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, nếu vua không trái ý ông thì ông sẽ vì
vua mà nói. Vua nghe rất vui mừng bèn theo vị tiên ấy trải qua một ngàn năm, xả
thân, phụng thờ, hầu hạ, cung cấp mọi nhu cầu không thiếu sót. Ở đây quốc vương
vì muốn viên mãn hạnh Lục độ để thành Phật, nên Ngài thực hành pháp Bố thí,
buông xả tất cả những sở hữu như danh vọng, quyền hành, vợ con... cho tới thân
mạng cũng không lẫn tiếc. Tức là không còn chấp thân tâm là thật, không còn
chấp ngoại cảnh là thật. Do buông xả tất cả ngã pháp, nên mới thể nhập Tri kiến
Phật. Xưa thiền sư Qui Tông đệ tử của ngài Mã Tổ, là người buông xả tất cả nên
được thiền sư Hoàng Bá khen: “Trong đây chỉ có Qui Tông là người tiêu chảy đầy
đất.” Tổ nói nghe có vẻ tiếu ngạo, nhưng kỳ thật đó là lời tán thán hạnh buông xả
của ngài Qui Tông. Tu mà không buông xả, còn một niệm chấp thủ thì không bao
giờ thấy đạo.
Vì vậy vừa có một niệm dấy khởi, dù là niệm thiện hay niệm bất thiện đều
phải buông, đó là xả. Buông sạch không còn một niệm, tâm thanh tịnh đó mới thật
là xả.
2. CHÁNH VĂN :
* Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: “Thuở ấy, vua đó thời chính thân ta, còn Tiên
nhân đó nay chính là ông Đề-bà-đạt-đa. Do nhờ ông thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa
làm cho ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, từ bi hỷ xả, ba mươi hai tướng tốt, tám 
mươi món đẹp, thân sắc vàng tía, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp
pháp, mười tám món bất cộng, thần thông đạo lực, thành bậc Đẳng Chánh giác
rộng độ chúng sanh, tất cả công đức đó đều là nhân thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa
cả.”
GIẢNG :
Phật nói vị Tiên nhân thuở xưa, nay chính là Đề-bà-đạt-đa, vị quốc vương
cầu đạo, nay chính là Ngài. Nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà Phật thực hành
viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, từ bi hỉ xả... được đầy đủ công đức trí tuệ và thành
Phật. Chỗ này chúng ta phải hiểu cho thấu đáo, nếu không, thì sẽ hoang mang nghi
ngờ.
Trong kinh A-hàm Phật có tuyên bố rằng Đề-bà-đạt-đa sau khi chết sẽ đọa
địa ngục không thể cứu. Tôn giả A-nan là em ruột của Đề-bà-đạt-đa nghe Phật nói
vậy lo sợ thương khóc, đến thưa hỏi Phật rằng: Bạch Thế Tôn do thiên nhãn mà
Phật nói như vậy, hay Ngài dùng trí suy luận quán xét về nhân duyên mà nói như
vậy ? Phật trả lời rằng: “Ta dùng trí xét thì thấy Đề-bà-đạt-đa không có một hành
vi thiện nên ta nói như thế.” Nhìn theo lý nhân quả thì Đề-bà-đạt-đa tạo quá nhiều
nghiệp ác, mà tội nặng nhất là phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu, đó là
hai tội trong năm tội ngũ nghịch. Chỉ tạo một trong năm tội ngũ nghịch là phải đọa
địa ngục rồi huống là hai tội. Đó là cái nhìn tương đối theo kinh A-hàm dạy bỏ ác
làm thiện, mà Đề-bà-đạt-đa đã làm nhiều điều ác, nên Phật nói đọa địa ngục để
hướng dẫn chư Tỳ-kheo tu, bỏ pháp ác thực hành pháp thiện.
Còn kinh Pháp Hoa thì chỉ thẳng Tri kiến Phật. Tri kiến Phật thì không bị
giới hạn bởi không gian thời gian, không kẹt trong pháp tương đối hai bên. Giáo lý
cứu kính không cho phép chúng ta nhìn hai bên thiện ác mà phải thấy vượt trên cả
thiện ác. Khi đã nhận ra nơi mình có cái chân thật là Phật tánh thì ở trong mọi
hoàn cảnh bất như ý phải khắc phục để vượt qua, như thế công hạnh Bồ-tát mới
viên mãn, thành Phật. Ví dụ thầy A phát tâm tu hạnh bố thí, đem rất nhiều của cải
tiền bạc xây chùa, cúng tăng, giúp đỡ người đau bịnh tật nguyền nghèo khó... Tuy
nhiên, thầy cũng còn để lại một vài vật quí mà thầy ưa thích. Một hôm có người
đến xin vật quí đó, nếu thầy A thấy người xin là kẻ xấu lợi dụng lòng tốt của mình
nên không cho. Như vậy hạnh bố thí của thầy chưa tròn. Tuy thầy A quí các vật đó
không đem ra bố thí, nhưng có người xin, thầy vui vẻ cho và thấy người dám xin
là người tốt, muốn giúp cho thầy buông xả rốt ráo, sớm thành tựu hạnh bố thí.
Hạnh nhẫn nhục và những hạnh khác cũng vậy. Nếu người phát tâm tu
hạnh nhẫn nhục mà không có sự thử thách thì hạnh nhẫn nhục không viên mãn. Ví
dụ thầy B là người giữ giới rất nghiêm minh, sống rất thành thật hài hòa trên kính
dưới nhường, nên rất được thầy bạn thương quí. Thầy phát tâm tu hạnh nhẫn nhục.
Một hôm bất thần có người mắng thầy thậm tệ, cho thầy là kẻ phạm trai, phá giới,
phản thầy, lừa bạn, không xứng đáng là người tu. Nếu thầy tức giận phân bua cải
chính thì thầy thực hành hạnh nhẫn nhục chưa tròn. Nếu thầy bình thản chấp tay
Mô Phật, thấy người đó đã vì sự tu tiến của thầy mà phải chấp nhận nghiệp ác
khẩu, họ đã hy sinh quá nhiều, không phải Bồ-tát nghịch hạnh là gì ? Thầy không 
giận mà còn nhớ ơn và kính trọng. Như vậy thì không có niệm oán thù thân sơ để
đi tới từ bi bình đẳng, có như thế công hạnh nhẫn nhục của thầy mới viên mãn.
Bồ-tát có khi hiện thuận hạnh, an ủi vỗ về trong khi chúng ta nguy khốn
hay thối tâm Bồ-đề; có khi hiện nghịch hạnh để thử thách, khiến người đang kẹt
trong cảnh xuôi thuận được thức tỉnh để tiến. Cả hai thuận hạnh hay nghịch hạnh
đều là Bồ-tát giúp cho người tu được viên mãn công hạnh tu hành. Nếu thấy người
an ủi vỗ về giúp đỡ là người ơn, người thử thách rầy mắng là kẻ phá hại, còn thấy
người ơn và kẻ hại là còn thấy hai. Còn thấy hai thì không thể nào nhận ra Tri kiến
Phật mà kinh Pháp Hoa đã dạy. Vì vậy nên ở đây Phật nói Đề-bà-đạt-đa là thiện
hữu tri thức của Ngài, không phải đời này mà là nhiều kiếp về trước. Nhờ thiện
hữu tri thức Đề-bà-đạt-đa mà Phật viên mãn công hạnh Bồ-tát, được thành Phật.
3. CHÁNH VĂN :
* Phật bảo hàng tứ chúng: “Qua vô lượng kiếp về sau, ông Đề-bà-đạt-đa sẽ
được thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên Đạo, lúc Thiên Vương
Phật trụ ở đời hai mươi trung kiếp, rộng vì các chúng sanh mà nói pháp mầu. hằng
hà sa chúng sanh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Duyên giác,
Hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng đạo, được Vô sanh nhẫn đến bậc bất
thối chuyển.
Sau khi đức Thiên Vương Phật nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ lại đời hai
mươi trung kiếp, toàn thân xá-lợi dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do-tuần,
ngang dọc bốn mươi do-tuần. Các hàng trời, nhân dân đều đem hoa đẹp, hương
bột, hương xoa, hương đốt, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng báu, kỹ nhạc ca
tụng để lễ cúng dường tháp đẹp bằng bảy báu đó. Vô lượng chúng sanh được quả
A-la-hán, vô lượng chúng sanh ngộ Bích-chi Phật, bất khả tư nghì chúng sanh phát
tâm Bồ-đề đến bậc bất thối chuyển.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người
thiện nữ nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Đề-bà-đạt-đa, sanh lòng trong sạch
kính tin chẳng sanh nghi lầm, thời chẳng đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, được
sanh ở trước các đức Phật trong mười phương, chỗ người đó sanh ra thường được
nghe kinh này. Nếu sanh vào cõi nhân thiên thời hưởng sự vui rất thắng diệu, nếu
sanh ở trước Phật thời từ hoa sen hóa sanh.”
GIẢNG :
Tới đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa sau thành Phật hiệu là Thiên Vương,
cõi nước cũng trang nghiêm đẹp đẽ, đồ đệ cũng đông đảo. Phật lại kết thúc rằng:
Nếu đời sau, ai nghe phẩm Đề-bà-đạt-đa mà kính tin không nghi thì không đọa ba
đường ác, sanh vào cõi lành, từ hoa sen sanh. Tại sao chỉ tin mà phước lớn như
vậy ? Vì Tri kiến Phật không phải chỉ có nơi người thiện mà người ác cũng có. Từ
trước những người thiện biết hướng về Phật pháp, biết trì kinh Pháp Hoa đều đã
được Phật thọ ký thành Phật. Đến đây, người làm điều ác phá hòa hợp Tăng, làm
thân Phật ra máu như Đề-bà-đạt-đa cũng được Phật thọ ký thành Phật. Như vậy để
thấy rằng người thiện hay ác đều có Tri kiến Phật, nếu biết thức tỉnh tu hành thì sẽ
thành Phật. Kế đó là đối với tất cả chướng duyên, người tu khắc phục được, tâm
không phiền não luôn luôn thanh tịnh thì có một sức mạnh phi thường, tiến vững
trên đường đạo, không yếu hèn rơi trong đường ác.
4. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, ở Hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Đa Bảo Như Lai tên là Trí
Tích bạch với đức Đa Bảo Phật nên trở về bổn quốc, đức Thích-ca Mâu-ni Phật
bảo Trí Tích rằng: “Thiện nam tử ! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-tát tên Văn Thù Sư
Lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ.”
Lúc đó, ngài Văn-thù-sư-lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các
vị Bồ-tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển
lớn tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh Thứu, từ trên hoa sen bước
xuống đến chỗ Phật, đầu mặt kính lạy chân hai đức Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí
Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.
Ngài Trí Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Ngài qua cung rồng
hóa độ chúng sanh số được bao nhiêu ?”
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải
miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết.”
Ngài Văn-thù nói chưa dứt lời, liền có vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển
vọt lên đến núi Linh Thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều là của ngài
Văn-thù-sư-lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát đều chung luận nói sáu pháp Ba-la-mật.
Những vị mà trước kia là Thanh văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh văn nay đều
tu hành “nghĩa không” của Đại thừa.
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Trí Tích rằng: “Tôi giáo hóa ở nơi biển
việc đó như thế.”
Lúc ấy, ngài Trí Tích Bồ-tát nói kệ khen rằng:
 Đại Trí đức mạnh mẽ
 Hóa độ vô lượng chúng
 Nay trong hội lớn này
 Và tôi đều đã thấy
 Diễn nói nghĩa thiệt tướng
 Mở bày pháp Nhứt thừa
 Rộng độ các chúng sanh
 Khiến mau thành Bồ-đề.
GIẢNG :
Bồ-tát thị giả của Phật Đa Bảo ở phương dưới tên là Trí Tích. Tích là dấu
vết, là chứa nhóm, Trí Tích là trí hiểu biết do huân tập, nên còn kẹt còn vướng
mắc. Trí này còn phân biệt còn vướng mắc, thuộc về Hữu sư trí, nên không thể tin
nhận Tri kiến Phật. Vì vậy mà ở đây biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Trí Tích ở
Hạ phương đòi trở về bổn quốc. Bồ-tát Văn-thù tiêu biểu cho Căn bản trí. Căn bản
trí hằng dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái chấp trước, luôn thanh tịnh, có khả năng tin
nhận Tri kiến Phật, nên biểu trưng bằng hình ảnh Bồ-tát Văn-thù ngồi hoa sen lớn
từ biển lớn vọt lên hư không, đến núi Linh Thứu đảnh lễ Phật. Sau khi đảnh lễ
Phật, Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng thăm hỏi nhau. Hai vị Bồ-tát gặp 
nhau để làm gì ? Vì Bồ-tát Trí Tích thuộc về Hữu sư trí, do huân tu, tùy duyên ứng
hiện giáo hóa chúng sanh mà được. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí có sẵn nơi
mỗi người hằng thanh tịnh sáng suốt. Hai trí này hợp nhau mới viên mãn đạo Bồ-
đề thành Phật, nên nói Bồ-tát Trí Tích và Bồ-tát Văn-thù cùng ra mắt luận nói
pháp mầu. Lại nữa, Căn bản trí là trí biết đầy đủ, biết được Tri kiến Phật sẵn có
nơi mọi chúng sanh. Vô số chúng sanh ở cõi Ta-bà này ai cũng có Tri kiến Phật,
nên nói Bồ-tát Văn-thù giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh không thể tính kể.
5. CHÁNH VĂN :
* Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp
Liên Hoa.”
Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Kinh này rất sâu vi diệu là
báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn
tu hành kinh này mau được thành Phật chăng ?”
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Có con gái của vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi
mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh,
được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì,
sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát- na phát tâm Bồ-đề được
bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công
đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm
nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-đề.”
Trí Tích Bồ-tát nói rằng: “Tôi thấy đức Thích-ca Như Lai ở trong vô lượng
kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa
từng có lúc thôi dứt, ta xem trong cõi tam thiên đại thiên nhẫn đến không có chỗ
nhỏ bằng hột cải, mà không phải là chỗ của Bồ-tát bỏ thân mạng để vì lợi ích
chúng sanh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề. Chẳng tin Long nữ đó ở trong
khoảng giây lát chứng thành bậc Chánh giác.”
Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long vương bỗng hiện ra nơi trước,
đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:
 Thấu rõ tướng tội phước
 Khắp soi cả mười phương
 Pháp thân tịnh vi diệu
 Đủ ba mươi hai tướng
 Dùng tám mươi món tốt
 Để trang nghiêm Pháp thân
 Trời, người đều kính ngưỡng
 Long thần thảy cung kính
 Tất cả loài chúng sanh
 Không ai chẳng tôn phụng
 Lại nghe thành Bồ-đề
 Chỉ Phật nên chứng biết
 Tôi nói pháp Đại thừa
 Độ thoát khổ chúng sanh.
GIẢNG : 
Ở đây không những nam tử được Bồ-tát Văn-thù giáo hóa cho thành Phật,
mà hàng nữ nhi như Long nữ cũng được độ thành Phật. Long nữ chẳng những
mang thân nữ lại còn là loài rồng mới có tám tuổi, mà nói thành Phật thì Bồ-tát Trí
Tích không tin. Tại sao ? Vì Trí Tích là trí do huân tập. Bởi do huân tập được, nên
chỉ biết tu mà được thành Phật. Thành Phật là phải trải qua vô lượng kiếp hành
Bồ-tát đạo, như lời Phật Thích-ca kể lại tiền thân của Ngài. Bây giờ nói Long nữ,
vừa là nữ, vừa là thú, vừa là nhỏ mà thành Phật, thì làm sao tin được ? Nên với
Bồ-tát Trí Tích, Ngài không thể tin. Còn Bồ-tát Văn-thù là Căn bản trí, biết rõ tất
cả chúng sanh đều có sẵn Tri kiến Phật, nếu căn tánh lanh lợi khi được khai thị, tin
nhận và hằng sống với Tri kiến Phật là thành Phật, bất luận là nam hay nữ, lớn hay
nhỏ, người hay thú.
6. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ rằng: “Người nói không bao
lâu chứng được đạo Vô thượng, việc đó khó tin. Vì sao ? Vì thân gái nhơ uế chẳng
phải là pháp khí, thế nào có thể được thành Vô thượng Chánh giác ? Đạo Phật xa
rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy
sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm
Phạm thiên vương; hai, chẳng được làm Đế Thích; ba, chẳng được làm ma vương;
bốn, chẳng được làm Chuyển Luân Thánh vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế
nào thân gái được mau thành Phật ?”
Lúc đó, Long nữ có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên
đem dưng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ-tát cùng
tôn giả Xá-lợi-phất rằng: “Tôi hiến châu báu, đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có
mau chăng ?”
Đáp: “Rất mau.”
Long nữ nói: “Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn
việc đó.”
Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử,
đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô Cấu ở phương Nam ngồi tòa sen báu thành bậc
Đẳng Chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng
sanh trong mười phương mà diễn nói pháp mầu.
Khi ấy trong cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh văn, trời, rồng, bát bộ, nhân
cùng phi nhân đều xa thấy Long nữ thành Phật khắp vì hàng nhân thiên trong hội
đó mà nói pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng chúng sanh nghe
pháp tỏ ngộ được bậc Bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh được lãnh lời thọ ký
thành Phật. Cõi Vô Cấu sáu điệu vang động, cõi Ta-bà ba nghìn chúng sanh trụ
bậc Bất thối, ba nghìn chúng sanh phát lòng Bồ-đề mà được lãnh lời thọ ký.
Trí Tích Bồ-tát và ngài Xá-lợi-phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin
nhận đó.
GIẢNG :
Không riêng gì Bồ-tát Trí Tích không tin Long nữ sẽ thành Phật mà cả tôn
giả Xá-lợi-phất cũng không tin. Ngài nêu lên năm điều mà nữ giới không thể làm
được, là Phạm thiên vương, Đế-thích, ma vương, Chuyển luân Thánh vương, Phật. 
Thông thường những người tu hành có liên hệ tình cảm với phái nữ, nửa chừng cởi
áo tu ra đời thì bấy giờ người nữ ấy bị coi như ma nữ, phá hại người tu hành. Ở
đây nói nữ giới không thể làm Phạm thiên, Đế-thích, Chuyển Luân Thánh vương,
cho đến ma vương cũng không làm được. Tại sao chê phái nữ quá vậy ? Như trước
đã nói, tuy tôn giả Xá-lợi-phất đã được thọ ký, nhưng Ngài còn quen cái nhìn theo
nghiệp tướng, thấy người nữ nghiệp nặng hơn người nam, nên không thể làm
Phạm thiên, Đế-thích... Vì nhìn trên nghiệp tướng nên thấy người nữ khó tu hơn
người nam.
Long nữ dâng hạt châu lên Phật để cúng dường, có nghĩa là trình sự tin
nhận Tri kiến Phật. Giống như trình sở ngộ để Phật Tổ ấn chứng cho chỗ tin, thấy
của mình là không sai. Việc thành Phật của Long nữ nhanh hơn việc dâng châu lên
Phật.
Bấy giờ trong chúng hội đều thấy Long nữ thoạt biến thành nam tử đầy đủ
công hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô Cấu thành Phật thuyết pháp. Ngài Trí Tích
thuộc hàng Bồ-tát, tôn giả Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn, cả hai đều là bậc trí
tuệ. Nhưng trí tuệ của hai Ngài do huân tập, còn hạn cuộc trong vòng tương đối
nên còn thấy theo nghiệp tướng, vì vậy mà không thể tin Long nữ thành Phật. Căn
cứ trên nghiệp tướng thì thân nam nữ có sai biệt, nhưng Tri kiến Phật sẵn có nơi
mỗi người thì không khác. Hơn nữa Tri kiến Phật không có nam nữ đối đãi, vì
không có nam nữ đối đãi nên ai nhận ra Tri kiến Phật thì thành Phật, bất luận nam
hay nữ, không nhận được thì không thành Phật.
Phẩm này nêu lên hai đặc điểm:
- Thứ nhứt là bình đẳng giữa thiện và ác, kẻ ác người thiện ai cũng có Tri
kiến Phật như nhau. Dù ác dù thiện một phen nhận ra Tri kiến Phật của chính mình
thì thành Phật. Chẳng hạn đồ tể Quảng Ngạch ngộ được lý đạo liền nói: “Hôm qua
tâm Dạ-xoa, ngày nay mặt Bồ-tát, Dạ-xoa và Bồ-tát, chỉ cách một đường tơ”. Ở
đây Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa thành Phật là để nói kẻ ác phạm tội ngũ nghịch
như Đề-bà-đạt-đa vẫn có Tri kiến Phật, nếu thức tỉnh tu hành thì cũng thành Phật.
- Thứ hai là bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người và thú, người nam hay
người nữ, kể cả súc sanh đều có Tri kiến Phật. Vì vậy mà Bồ-tát Thường Bất
Khinh gặp ai cũng nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật.”
Đó là để nói lên ý nghĩa này. Ai ai cũng có Tri kiến Phật, nhưng vì quên nên
không nhận, vì vậy mà cứ luân hồi mãi trong sáu đường. Nếu nhận ra thì thành
Phật, nên ở đây Long nữ khi nghe kinh Pháp Hoa liền tin nhận và thành Phật.
- Phẩm kinh này dạy cho chúng ta một lối nhìn bình đẳng dù là người thiện
hay ác, đều thấy như nhau, đối với người ác, không khinh thường, không ác cảm,
dù là người nam hay nữ cũng thấy như nhau, vì ai ai cũng có Tri kiến Phật. Dù là
người hay thú, tất cả đều có Tri kiến Phật nên không nỡ hại nhau. Nếu tin nhận
được thì công đức vô lượng.
D
PHẨM 13: TRÌ
GIẢNG :
Trì có nghĩa là gìn giữ. Vậy ở đây gìn giữ cái gì ? Người tu theo kinh Pháp
Hoa là phải gìn giữ cho kinh này tồn tại mãi ở thế gian. Mà kinh này là chỉ cho Tri
kiến Phật sẵn có nơi mỗi người, làm sao cho mọi người ở thế gian mãi mãi đủ lòng
tin nơi mình có Tri kiến Phật. Và thứ nữa, là sau khi đã tự nhận ra nơi mình có Tri
kiến Phật, luôn luôn phải gìn giữ chớ để phiền não trần lao phủ che, nghĩa là lúc
nào cũng nhớ nơi mình có Tri kiến Phật, không quên, đó là “Trì”.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Dược Vương đại Bồ-tát và ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-
tát Ma-ha-tát cùng chung với quyến thuộc hai muôn vị Bồ-tát đều ở trước Phật nói
lời thệ rằng: “Cúi mong đức Thế Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt độ chúng con sẽ
phụng trì đọc tụng nói kinh điển này, đời ác sau, chúng sanh căn lành càng ít,
nhiều kẻ tăng thượng mạn tham lợi dưỡng cúng dường, thêm lớn căn chẳng lành,
xa lìa đạo giải thoát, dầu khó có thể giáo hóa, chúng con sẽ khởi sức nhẫn lớn đọc
tụng kinh này, thọ trì, giải nói, biên chép, dùng các món cúng dường cho đến
chẳng tiếc thân mạng.”
GIẢNG :
Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết đứng lên thệ nguyện đem
kinh Pháp Hoa truyền bá cho chúng sanh đời sau, khi Phật đã Niết-bàn. Tuy chúng
sanh đời sau căn lành ít, nhiều kẻ tăng thượng mạn, tham lợi dưỡng cúng dường,
tăng trưởng nhiều tật xấu ác, xa lìa đạo giải thoát rất khó giáo hóa, nhưng các Ngài
vẫn nguyện khởi sức nhẫn lớn để truyền bá kinh này, dù có bị hại cũng không tiếc
thân mạng.
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc đó, trong chúng có năm trăm vị A-la-hán đã được thọ ký đồng bạch
Phật rằng: “Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ nguyện ở nơi cõi khác rộng nói kinh
này.”
Lại có bậc học và vô học tám nghìn người đã được thọ ký đồng từ chỗ ngồi
đứng dậy, chấp tay hướng về phía Phật nói lời thệ rằng: “Thế Tôn ! Chúng con
cũng sẽ ở cõi khác rộng nói kinh này. Vì sao ? - Vì người trong nước Ta-bà nhiều
điều tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, giận hờn, dua vạy tâm
không chân thật.”
GIẢNG :
Tới đây các vị A-la-hán và hàng hữu học vô học đã được thọ ký cũng phát
nguyện: Đời sau sẽ truyền bá kinh Pháp Hoa, mà truyền bá ở cõi khác, chớ không
truyền bá ở cõi Ta-bà. Vì chúng sanh ở cõi này tệ ác, không chân thật, nghiệp
chướng nặng nề, các Ngài không kham giảng nói, các Ngài chỉ có thể giáo hóa
những chúng sanh ở những cõi hiền lành. Đó là tâm nguyện của các vị A-la-hán,
tuy đã được thọ ký thành Phật tâm lợi tha vẫn còn hạn cuộc. Ở trên thì các vị Bồ-
tát phát nguyện: Sau khi Phật Niết-bàn đời sau chúng sanh nghiệp ác sâu dầy, dù
có khó giáo hóa đến đâu các Ngài cũng sẵn sàng xả thân, làm lợi ích cho họ mà
không tiếc thân mạng. Tâm hạnh Bồ-tát và La-hán khác nhau ở chỗ đó.
3. CHÁNH VĂN :
* Khi đó, dì của Phật là Đại Ái Đạo Tỳ-kheo ni cùng chung với bậc “học”
và “vô học” Tỳ-kheo ni sáu nghìn người, đồng từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay
chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt chẳng tạm rời.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Kiều-đàm-di: “Cớ chi có sắc buồn mà nhìn Như Lai,
tâm bà toan cho rằng tôi chẳng nói đến tên bà, để thọ ký thành Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác ư ?
Kiều-đàm-di ! Tôi trước tổng nói tất cả Thanh văn đều đã được thọ ký, nay
bà muốn biết thọ ký đó, đời tương lai sau bà sẽ ở trong pháp hội của sáu muôn tám
nghìn ức đức Phật làm vị đại Pháp sư và sáu nghìn vị “học” và “vô học” Tỳ-kheo
ni đều làm Pháp sư. Bà lần lần đủ đạo hạnh Bồ-tát như thế sẽ được thành Phật hiệu
là Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Kiều-đàm-di ! Đức Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Phật đó và sáu nghìn
Bồ-tát tuần tự thọ ký được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là bà Gia-thâu-đà- la Tỳ-kheo ni nghĩ rằng: “Thế
Tôn ở nơi trong hội thọ ký riêng chẳng nói đến tên tôi.”
Phật bảo bà Gia-thâu-đà-la: “Ngươi ở đời sau trong pháp hội của trăm
nghìn muôn ức đức Phật, tu hạnh Bồ-tát làm vị đại Pháp sư, lần lần đầy đủ Phật
đạo ở trong cõi Thiện quốc sẽ được thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang
Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Phật sống lâu vô lượng vô số kiếp.”
Lúc đó, bà Đại Ái Đạo Tỳ-kheo ni và bà Gia- thâu-đà-la Tỳ-kheo ni cùng
cả quyến thuộc đều rất vui mừng được việc chưa từng có, liền ở trước Phật mà nói
kệ rằng:
 Đấng Thế Tôn Đạo sư
 Làm an ổn trời người
 Chúng con nghe thọ ký
 Lòng an vui đầy đủ.
Các vị Tỳ-kheo ni nói kệ đó rồi, bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Chúng con
cũng có thể ở cõi nước phương khác rộng tuyên nói kinh này.”
GIẢNG :
Tới đây chúng ta thấy có điều dường như lạc đề, là hai vị thuộc cấp lãnh
đạo bên ni giới là Tỳ-kheo ni Đại Ái Đạo và Da-du-đà-la đứng dậy chấp tay chiêm
ngưỡng dung nhan Phật im lặng không nói, Phật biết tâm trạng của hai bà mong
được thọ ký, nên liền thọ ký cho hai bà và sáu ngàn Tỳ-kheo ni hữu học và vô học
sẽ được thành Phật. Đây không phải là phẩm Thọ Ký tại sao các bà mong được thọ
ký ? Ở trước chúng ta đã thấy Phật tổng thọ ký rồi, tuy không nói tên riêng từng 
người, nhưng trong đó đã có hai bà Đại Ái Đạo và Da-du-đà-la là cấp lãnh đạo của
ni giới. Chẳng lẽ ni giới lại vô phần, không được Phật gọi tên người nào để thọ ký,
trong khi Long nữ là súc sanh mới tám tuổi mà được Phật đề cập đến. Điều này
khiến người sau nghi ngờ. Để đánh tan mối nghi ngờ, hai bà tạo điều kiện để Phật
gọi tên ít vị lớn thọ ký trước, rồi sau mới thọ ký chung như Phật đã thọ ký bên
tăng, chớ không phải các bà không biết là đã được thọ ký rồi. Sau khi đã được thọ
ký, hai bà và các Tỳ-kheo ni khác cũng phát nguyện sau khi Phật Niết-bàn, các bà
cũng rộng nói kinh Pháp Hoa ở các cõi khác.
4. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, đức Thế Tôn nhìn tám mươi muôn ức na-do-tha vị đại Bồ-tát,
các vị Bồ-tát đó đều là bậc Bất thối chuyển, chuyển pháp luân bất thối được các
pháp tổng trì, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật một lòng chấp tay mà nghĩ
rằng: “Nếu đức Thế Tôn dạy bảo chúng ta nói kinh này, thời chúng ta sẽ như lời
Phật dạy, rộng tuyên nói pháp này.”
Các vị đó lại nghĩ: “Nay đức Phật yên lặng chẳng thấy dạy bảo, chúng ta
phải làm thế nào ?”
Lúc đó, các vị Bồ-tát kính thuận ý của Phật, và muốn tự thỏa mãn bổn
nguyện, bèn ở trước Phật nói lớn tiếng mà phát lời thệ rằng: “Thế Tôn ! Sau khi
Như Lai diệt độ, chúng con đi giáp vòng qua lại khắp mười phương thế giới hay
khiến chúng sanh biên chép kinh này thọ trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, nghĩ nhớ
chân chánh, đúng như pháp mà tu hành, như thế đều là sức oai thần của Phật. Cúi
mong đức Thế Tôn ở phương khác xa giữ gìn cho.”
Tức thời các vị Bồ-tát đều đồng tiếng mà nói kệ rằng:
 * Cúi mong Phật chớ lo
 Sau khi Phật diệt độ
 Trong đời ác ghê sợ
 Chúng con sẽ rộng nói
 Có những người vô trí
 Lời ác mắng rủa thảy
 Và dao gậy đánh đập
 Chúng con đều phải nhẫn.
 Tỳ-kheo trong đời ác
 Trí tà lòng dua vạy
 Chưa được nói đã được
 Lòng ngã mạn dẫy đầy.
 Hoặc người mặc áo nạp
 Lặng lẽ ở chỗ vắng
 Tự nói tu chân đạo
 Khinh rẻ trong nhân gian
 Vì ham ưa danh lợi
 Nói pháp cho bạch y
 Được người đời cung kính
 Như lục thông La-hán 
 Người đó ôm lòng ác
 Thường nghĩ việc thế tục
 Giả danh “A-luyện-nhã”
 Ưa nói lỗi chúng con
 Mà nói như thế này
 Các bọn Tỳ-kheo này
 Vì lòng tham lợi dưỡng
 Nói luận nghĩa ngoại đạo
 Tự làm kinh điển đó
 Dối lầm người trong đời
 Vì muốn cầu danh tiếng
 Mà giải nói kinh đó
 Thường ở trong đại chúng
 Vì muốn phá chúng con
 Đến quốc vương, quan lớn
 Bà-la-môn, cư sĩ
 Và chúng Tỳ-kheo khác
 Chê bai nói xấu con
 Đó là người tà kiến
 Nói luận nghĩa ngoại đạo
 Chúng con vì kính Phật
 Đều nhẫn các ác đó.
 Bị người đó khinh rằng
 Các người đều là Phật
 Lời khinh mạn dường ấy
 Đều sẽ nhẫn thọ đó.
 Trong đời ác kiếp trược
 Nhiều các sự sợ sệt
 Quỉ dữ nhập thân kia
 Mắng rủa hủy nhục con
 Chúng con kính tin Phật
 Sẽ mặc giáp nhẫn nhục
 Vì để nói kinh này
 Nên nhẫn các việc khó,
 Con chẳng mến thân mạng
 Chỉ tiếc đạo Vô thượng.
 Chúng con ở đời sau
 Hộ trì lời Phật dặn
 Thế Tôn tự nên biết
 Tỳ-kheo ác đời trược
 Chẳng biết Phật phương tiện
 Tùy cơ nghi nói pháp
 Châu mày nói lời ác 
 Luôn luôn bị xua đuổi
 Xa rời nơi chùa tháp
 Các điều ác như thế
 Nhớ lời Phật dặn bảo
 Đều sẽ nhẫn việc đó.
 Các thành ấp xóm làng
 Kia có người cầu pháp
 Con đều đến chỗ đó
 Nói pháp của Phật dặn.
 Con là sứ của Phật
 Ở trong chúng không sợ
 Con sẽ khéo nói pháp
 Xin Phật an lòng ở
 Con ở trước Thế Tôn
 Mười phương Phật đến nhóm
 Phát lời thệ như thế
 Phật tự rõ lòng con.
GIẢNG:
Đến hàng Bồ-tát bất thối chuyển đứng lên phát nguyện, là đi khắp mười
phương thế giới đem kinh Pháp Hoa giáo hóa chúng sanh, cho họ thọ trì đọc tụng
đúng như pháp mà tu hành. Tâm nguyện của các Ngài thênh thang không giới hạn,
không chọn lựa, sẵn sàng làm việc lợi sanh dù cho bị kẻ cư sĩ vô trí hãm hại các
Ngài cũng kham nhẫn. Hoặc hàng Tỳ-kheo trí tà ngã mạn, tham danh lợi, lòng còn
ác giả danh làm ẩn sĩ, chê bai nói lỗi các Ngài là hàng ngoại đạo tự làm ra kinh
điển dối gạt người đời, để cầu danh lợi. Cho đến hàng vua quan cư sĩ cho các Ngài
là kẻ truyền bá tà kiến ngoại đạo, như tổ Huệ Khả bị giam trong khám, các Ngài
đều vì Phật mà kham nhẫn. Hoặc quỉ nhập thân người, mắng chửi hủy nhục các
Ngài, các Ngài vì kính Phật vì truyền bá kinh Pháp Hoa, sẵn sàng nhẫn chịu tất cả,
chẳng tiếc thân mạng. Tại sao ? Vì Tri kiến Phật là tôn quí nếu không truyền bá
được thì chúng sanh mê mờ, mãi trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử khổ đau. Còn
thân này dù có khéo gìn giữ cũng không gìn giữ được, duy trì được khoảng sáu
bảy mươi năm, rồi cũng hoại. Nếu truyền bá cho người tin nhận được Tri kiến
Phật thì họ sẽ thành Phật, dứt mọi phiền não khổ đau không còn luân hồi sanh tử.
Nên nói chẳng mến thân mạng chỉ tiếc đạo Vô thượng.
Tại sao ở đây Phật không chỉ định cho đệ tử đi giáo hóa nơi này nơi kia, mà
để cho các Ngài từ Bồ-tát bậc thượng, đến hàng Bồ-tát mới phát tâm, rồi Thanh
văn La-hán, cho đến hàng hữu học vô học, tự đứng lên phát nguyện ? Vì chuyện
hoằng hóa làm lợi ích cho chúng sanh là trách nhiệm của người thực hành hạnh
Bồ-tát. Nếu chỉ định thì có tính cách cưỡng bách bắt buộc, không thích hợp với
căn cơ của người tự giác. Vì vậy mà hàng đệ tử Phật thể theo ý Phật, đứng lên phát
nguyện đúng với khả năng trình độ của mình, ra làm lợi ích cho chúng sanh.
D
PHẨM 14: AN LẠC HẠNH
An lạc hạnh là công hạnh tu hành đúng như lời Phật dạy để việc tự lợi lợi
tha được an vui không có chướng nạn. Vì ở trước các hàng Bồ-tát phát nguyện sau
khi Phật Niết-bàn, các Ngài sẽ đem kinh Pháp Hoa giáo hóa cho người sau, dù có
gặp khó khăn chướng ngại cũng không thối chuyển, các Ngài xả thân vì đạo Vô
thượng Bồ-đề.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi đại Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn !
các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: “Ở nơi
đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này.”
Thế Tôn ! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này ?”
Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Nếu vị đại Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói
kinh này, phải an trụ trong bốn pháp.”
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù tán thán những vị Bồ-tát thuận theo Phật, nguyện ở đời ác
sau hộ trì giảng nói kinh Pháp Hoa. Kế đó, Ngài nêu lên câu hỏi: Các vị đại Bồ-tát
ở đời ác sau, làm thế nào có thể nói kinh Pháp Hoa ? Phật dạy ở đời ác sau muốn
nói kinh này phải trụ trong bốn pháp.
2. CHÁNH VĂN :
* Một, an trụ nơi “Hành xứ” và nơi “Thân cận xứ” của Bồ-tát, thời có thể vì
chúng sanh mà diễn nói kinh này. Văn-thù-sư-lợi ! Thế nào gọi là chỗ “Hành xứ”
của đại Bồ-tát ? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu khéo thuận mà
không vụt chạc, lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán
tướng như thật của các pháp cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ
“Hành xứ” của Bồ-tát.
Thế nào gọi là chỗ “Thân cận” của đại Bồ-tát ? Vị đại Bồ-tát chẳng gần gũi
quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm
chí, Ni-kiền-tử v.v... và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại
đạo cùng với phái “Lộ-già-da-đà” phái “Nghịch Lộ-già-da-đà”, cũng chẳng gần
gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau và bọn Na-la v.v... bày các
cuộc chơi biến luận.
Lại chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài
lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời
Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu.
Lại chẳng gần gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hạng
người cầu quả Thanh văn, cũng chẳng thăm hỏi hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh
hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó
lại đến, Bồ-tát theo cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu.
Văn-thù-sư-lợi ! Lại vị đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ có niệm
tưởng hay sanh dục nhiễm và vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người 
chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa v.v... chung nói chuyện, cũng lại chẳng
gần năm giống người bất nam để làm thân hậu.
Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân duyên cần riêng mình
vào thời chuyên một lòng niệm Phật.
Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực,
nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác.
Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng
nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình.
Văn-thù-sư-lợi ! Đó gọi là “chỗ thân cận ban đầu”.
GIẢNG :
Bốn pháp Phật dạy Bồ-tát ở đời sau phải an trụ để nói kinh Pháp Hoa là:
Một là an trụ nơi “Hành xứ” và “Thân cận xứ”. An trụ nơi Hành xứ là nhẫn
nhục hòa dịu, khéo thuận mà không vụt chạc, lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi
pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp, chẳng vin theo chẳng
phân biệt.
Trước, tôi nói về hạnh nhẫn nhục hòa dịu không nóng nảy, không kinh sợ.
Thí dụ như: Tối, đến giờ chỉ tịnh, thầy hương đăng sửa soạn đóng cửa chùa. Có
người đến ngăn cản, nói những câu trái ý nghịch lòng, làm cho thầy hương đăng
bậc bội, thầy lộ ra cử chỉ thô tháo, đóng cửa mạnh tay, gây tiếng động rầm rầm.
Đó là thiếu nhẫn nhục, thiếu hòa dịu, vụt chạc. Khi thầy hương đăng có thái độ vụt
chạc không hòa dịu là do tự tâm thầy đã bất an phiền não, nên mới phát lộ ra làm
phiền lòng người đối diện và mọi người chung quanh. Khi thấy một sự việc xảy ra,
hay nghe một câu nói bất bình, tâm khởi niệm bậc bội liền tỉnh giác buông ngay,
không tiếp tục nghĩ suy nữa, tâm liền được an ổn. Và tự tâm mình đã an ổn thì mọi
người trong cộng đồng sống chung với mình cũng được an vui. Vì vậy muốn được
an lạc thì phải tu hạnh nhẫn nhục nhu hòa.
Kế đó là phải có lòng can đảm không sợ sệt. Vì trong đời sau Phật Niết-bàn,
người ác nhiều, người hiền ít. Khi nói đạo lý thì người hiền nghe, người ác lại ghét,
nên họ hăm dọa phá phách. Nếu vì sự hăm dọa phá phách của họ, mà mình không
dám giảng nói thì mình không thực hành được hạnh Bồ-tát. Vì vậy, vừa nhẫn nhục
nhu hòa lại vừa can đảm, chớ không phải nhẫn nhục hòa nhu, rồi việc gì cũng
vâng dạ tuân theo lệnh của bạo lực, thì không thể xiển dương được chánh pháp.
Nhớ là nhẫn mà không nhu nhược.
Thứ đến là ở nơi các pháp không phân biệt, không vin theo, mà quán tướng
như thật của các pháp. Đối cảnh tâm không khởi cái này đẹp cái kia xấu, cái này
hơn cái kia thua... đó là ở nơi các pháp không phân biệt. Đúng ra, quán tướng như
thật của các pháp trước, rồi mới không khởi phân biệt sau. Hàng Nhị thừa thấy
tuớng như thật của các pháp là ngay nơi con người, hiện đang trẻ trung cường
tráng, thấy rõ thân năm uẩn đang bị luật vô thường làm cho biến hoại, dần đưa đến
bệnh hoạn già nua rồi chết mất, đó là khổ và không. Còn với hàng Bồ-tát thì ngay
nơi thân năm uẩn này, thấy rõ nó do duyên hợp tạm có, không có thực thể cố định.
Duyên hợp có hình hài con người thì nói là sanh, duyên ly tán hình hài con người 
rã tan thì nói là tử. Thành hoại hay sanh tử là do duyên tụ hay tán, rõ ràng nó
không thật có. Như vậy thì có gì mà phân biệt tốt xấu hơn thua ?
Nghe nói vậy quí vị đừng tưởng mình ở ngoài cái tụ tán đó, thực ra mình
không ở ngoài cũng không ở trong. Tụ tán là tứ đại tụ tán, mà tứ đại là vô tri, còn
mình là hữu tri, “cái biết” đâu có tụ tán. Tứ đại tụ lại, có thân bằng xương bằng
thịt này gọi là sanh, tứ đại ly tán, thân bằng xương bằng thịt này rã tan gọi là tử.
Chớ “cái biết” đâu có sanh tử. Nên tôi nói “Gá thân mộng”. Thân này là mộng “cái
biết” gá vào thân, thân tứ đại không phải là mình. Vì “cái biết” gá vào thân nên có
sinh hoạt hằng ngày gọi đó là cuộc sống tạm. Như vậy, nếu nhìn trên thực tướng
thì thấy thân này là một khối tứ đại đất, nước, gió, lửa hợp thành, sinh là tứ đại
hợp, tử là tứ đại tan. Tỉ dụ chúng ta hít vô bao nhiêu không khí, khi thở ra cũng
bấy nhiêu không khí, mượn vô bao nhiêu gió thì trả ra bấy nhiêu, đất (thức ăn),
nước mượn vô bao nhiêu rồi cũng phải trả ra bấy nhiêu . Và ngay thân tứ đại này
là bao nhiêu khi rã tan cũng rã tan bấy nhiêu. Tứ đại tụ tán chớ Tri kiến Phật đâu
có tụ tán hay sanh tử. Từ người rồi nhìn ra sự vật cũng vậy, duyên tụ thì sự vật
thành, duyên tán thì sự vật hoại. Các pháp thành hoại là do duyên tụ tán, không có
pháp nào là chân thật chắc bền, nên không vin theo không phân biệt. Đó là chỗ
hành xứ của Bồ-tát. Sở dĩ vin theo các pháp để phân biệt là vì thấy các pháp thật
đẹp thật quí... nên ưa pháp này chán pháp kia. Nếu thấy các pháp do duyên hợp
tạm có, nó không có thực thể cố định thì vin vào đâu mà đeo đuổi dính mắc ? Vậy
hành xứ của Bồ-tát là tâm nhu hòa nhẫn nhục và thấy các pháp đúng như thật.
Thường thì chúng ta dễ mắc kẹt trên giả tướng giả danh, một vị Tỳ-kheo tu khoảng
vài chục năm được gọi là Thượng tọa. Nếu có ai không biết gọi là Đại đức, thì khó
chịu không vui, đó là do chấp ngã quá nặng, tu càng lâu ngã càng lớn, động tới là
nổi sân, đó là do không thấy các pháp đúng như thật, nên ngã chấp càng lớn phiền
não thêm dày. Tất cả chỉ là giả danh giả tướng mà người ta không thấy cứ vin vào
đó mà chấp, rồi thành bệnh.
Thế nào là chỗ thân cận của đại Bồ-tát ? Một là Bồ-tát không gần gũi với
những người có thế lực như quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng. Hai là
không gần gũi với ngoại đạo. Ba là không gần gũi với những người viết sách thế
tục. Bốn là không gần gũi hạng người ca hát. Năm là không gần gũi với người
sống bằng những nghề ác. Nếu những hạng người đó có đến mong cầu nghe pháp
thì Bồ-tát vì họ nói pháp với tâm không mong cầu. Thường tình, thì người nói
pháp hay có bệnh mong cầu lợi dưỡng muốn cho người cúng dường, thậm chí tụng
kinh chẳng những mong cầu cúng dường mà còn ra giá trước nữa. Phật dạy người
tu chúng ta phải có một đời sống cao thượng, nếu đối với năm hạng người đó nói
pháp thì tùy cơ mà nói, lòng không mong cầu họ thù đáp bất cứ một thứ gì. Như
thế mới là người nói pháp chân chính.
Phật lại dạy Bồ-tát không nên thân cận với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di cầu quả Thanh văn. Nếu những người này cầu pháp thì vì họ nói pháp,
tâm không khởi niệm mong cầu bất cứ điều gì.
Đến đây, Phật dạy rất tỉ mỉ, nếu hạng người nữ cầu pháp thì không nên nhìn
trên thân họ mà sanh tâm dục nhiễm, chỉ một bề nói pháp giáo hóa họ. Chẳng vì 
hàng gái tơ gái nhỏ mà nói chuyện, cũng chẳng thân cận với người bán nam bán
nữ, vì những người này có nhiều chướng tật, gần họ thì lôi thôi lắm. Không nên
một mình vào nhà người, đây là lời Phật dạy chớ không phải qui chế của Thiền
viện tự đặt ra. Nếu có duyên sự đặc biệt mà vào nhà người thì phải niệm Phật.
Niệm Phật là nhớ đến công hạnh Phật mà không khởi niệm ác, chớ không phải
ngồi lâm râm niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Phật còn dạy khi nói pháp cho người
nữ, chớ cười hở răng hoặc để lộ hông ngực. Vì quấn y theo tu sĩ Nam tông Ấn Độ
nếu bất cẩn thì để lộ thân ra coi kỳ, nên phải dè dặt tối đa, tránh được những cái đó
thì sẽ không có chướng nạn, việc nói pháp mới tốt.
Phật lại còn cẩn thận dạy không nên nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi, và không cùng
chúng đồng thầy. Tại sao giáo hóa mà hạn cuộc như vậy ? Theo tinh thần thừa kế,
tức là nối tiếp ngọn đèn chánh pháp, nếu không nuôi dưỡng người trẻ nhỏ thì lấy
ai mà kế thừa Phật pháp ? Các chú nhỏ thì khờ dại chưa biết tu hành, ham ăn, ham
ngủ, ham chơi, ngỗ nghịch. Nếu nuôi là phải dạy dỗ, mà dạy dỗ thì phải rầy la răn
phạt, nếu răn phạt nhiều lần mà nó không nghe thì sanh bậc bội, mà bậc bội là
chướng đạo, ở đây Phật dạy không nên nuôi Sa-di ít tuổi. Và tại sao Phật dạy
không cùng với chúng đồng thầy ? Thông thường những người tu có cái tình chấp
là người cùng thầy người tu sau gọi người tu trước là Sư huynh. Giả sử như tôi đã
nhận những đệ tử bốn năm mươi tuổi, tu cũng mấy mươi năm chẳng hạn như Đắc
Pháp, bây giờ tôi nhận chú tiểu chừng mười hai tuổi làm đệ tử. Bấy giờ chú gọi
Đắc Pháp là sư huynh có được không, trong khi Đắc Pháp đã có đệ tử ngoài ba
mươi tuổi ? Nếu gọi Đắc Pháp là sư huynh thì gọi đệ tử Đắc Pháp là gì ? Chẳng lẽ
đệ tử Đắc Pháp ngoài ba mươi tuổi gọi chú tiểu mười hai tuổi bằng Sư chú ! Sư
chú gì mà Phật pháp chưa thông, giới hạnh chưa nghiêm túc còn đùa giỡn nghịch
ngợm ? Như thế chỉ làm rối loạn trong đạo. Theo tôi, người thọ cụ túc giới thì gọi
bằng thầy, còn là Sa-di thì gọi bằng chú, chứ sư thúc sư bá sư huynh sư đệ...
không khéo sẽ bị kẹt vào tình chấp chướng đạo !
Trước Phật dạy những chỗ cần phải xa lánh. Kế, Phật bảo thường ưa ngồi
thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm. Chỗ này có nhiều nhà phê bình kinh Pháp Hoa là
kinh Đại thừa, chỉ thẳng chỗ cứu kính, mà cũng vẫn còn mang tinh thần Tiểu thừa.
Nếu quan niệm như thế là sai lầm. Vì người đem kinh Pháp Hoa ra giáo hóa tức là
đem mạng mạch Phật pháp trao lại cho đời, đó là trách nhiệm rất lớn. Nếu người
đem trách nhiệm lớn lao trao cho người khác, mà không đủ tác phong uy tín để
cho người tin, thì người không quí, không quí thì không thực hành theo. Vì vậy
muốn làm được việc lớn khó làm, thì trước hết phải tự tu chỉnh tâm mình cho
thanh tịnh, giới tướng cho nghiêm minh, điều mình giảng dạy mới có giá trị, người
đời mới kính tin và chấp nhận mà tiến tu dễ dàng. Nếu người giảng nói chưa đủ uy
tín, thì dù là của báu đem cho, họ cũng không nhận, chỉ làm chuyện vô ích. Tuy là
hình tướng bên ngoài nhưng cũng là điều cần thiết để giáo hóa người.
Hiện tại có một số Tăng Ni trẻ mang tinh thần Đại thừa quá sớm, cho
những tu sĩ gìn giữ giới luật là Tiểu thừa, cố chấp, không hiểu nam nữ bình đẳng,
Phật tánh đồng nhất..., kẻ đó là bệnh. Tuy đứng về tánh mà nói Tri kiến Phật
không có nam nữ, không có lớn nhỏ sai biệt. Nhưng chúng sanh nhìn người hướng 
đạo là nhìn theo nghiệp tướng hay nhìn theo thể tánh ? Đứng trên mặt giáo hóa lợi
tha, chúng sanh phàm phu đa số là nhìn người hướng đạo theo nghiệp tướng, nếu
làm trái với cái thấy biết của họ là họ không tin, họ không tin thì làm sao hướng
dẫn họ tu ? Vì vậy người giáo hóa lợi tha chẳng những có được tâm hồn cao
thượng thanh tịnh, mà còn phải khéo giữ giới tướng cho nghiêm minh thì việc lợi
tha mới hữu hiệu. Đối với chúng sanh, chỉ vài hành động sơ suất cũng đủ đánh mất
lòng kính tin của họ, thì những điều cao quí mình không đem ra chỉ dạy được. Nên
phẩm An Lạc Hạnh, Phật dạy chúng ta muốn làm được việc dễ dàng vui vẻ, thì
phần giới tướng đừng để cho người phàm tục nghi ngờ, cho đến giữ gìn hành vi
nhỏ nhiệm để dễ dàng chỉ bày lý cao tột cứu kính cho người tin nhận. Đức Phật rất
cẩn thận, sự không rời lý, lý không bỏ sự, lý sự viên dung. Chúng ta thường thì
chấp lý bỏ sự, cứ nói làm gàn bướng, khiến cho người khinh chê phỉ báng Tam
bảo, rốt rồi chẳng giáo hóa được ai. Chỗ này phải hiểu cho thật kỹ kẻo lầm ý Phật
dạy, cho rằng Phật dạy hàng Thanh văn không phải dạy cho Bồ-tát.
3. CHÁNH VĂN :
* Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát “Nhứt thiết pháp không như thiệt tướng”
chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có
thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh,
không tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không
chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa
quán sát pháp tướng như thế, đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của vị đại Bồ-tát.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nếu có vị Bồ-tát
 Ở trong đời ác sau
 Lòng không hề sợ sệt
 Muốn nói kinh pháp này
 Nên trụ vào “Hành xứ”.
 Và trụ “Thân cận xứ”.
 Thường xa rời quốc vương
 Và con của quốc vương
 Quan đại thần, quan lớn
 Kẻ chơi việc hung hiểm
 Cùng bọn chiên-đà-la
 Hàng ngoại đạo Phạm chí
 Cũng chẳng ưa gần gũi
 Hạng người tăng thượng mạn
 Hàng học giả tham chấp
 Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa
 Những Tỳ-kheo phá giới
 Danh tự A-la-hán
 Và những Tỳ-kheo ni
 Ưa thích chơi giỡn cười
 Các vị Ưu-bà-di 
 Tham mê năm món dục
 Cầu hiện tại diệt độ
 Đều chớ có gần gũi.
 Nếu những hạng người đó
 Dùng tâm tốt mà đến
 Tại chỗ của Bồ-tát
 Để vì nghe Phật đạo
 Bồ-tát thời nên dùng
 Lòng không chút sợ sệt
 Chẳng có niệm mong cầu
 Mà vì chúng nói pháp.
 Những gái góa, gái trinh
 Và các kẻ bất nam
 Đều chớ có gần gũi
 Để cùng làm thân hậu.
 Cũng chớ nên gần gũi
 Kẻ đồ tể cắt thái
 Săn bắn và chài lưới
 Vì lợi mà giết hại
 Bán thịt để tự sống
 Buôn bán sắc gái đẹp
 Những người như thế đó
 Đều chớ có gần gũi.
 Các cuộc chơi giỡn dữ
 Hung hiểm đâm đánh nhau
 Và những dâm nữ thảy
 Trọn chớ có gần gũi.
 Chớ nên riêng chỗ khuất
 Vì người nữ nói pháp
 Nếu lúc vì nói pháp
 Chẳng được chơi giỡn cười
 Khi vào xóm khất thực
 Phải dắt một Tỳ-kheo
 Nếu không có Tỳ-kheo
 Phải một lòng niệm Phật
 Đây thời gọi tên là
 “Hành xứ”, “Thân cận xứ”.
 Dùng hai xứ trên đây
 Có thể an lạc nói.
 Lại cũng chẳng vin theo
 Pháp thượng, trung và hạ
 Hữu vi hay vô vi
 Thiệt cùng pháp chẳng thiệt 
 Cũng chẳng có phân biệt
 Là nam là nữ thảy
 Lại chẳng được các pháp
 Chẳng biết cũng chẳng thấy
 Đây thời gọi tên là
 “Hành xứ” của Bồ-tát.
 Tất cả các món pháp
 Đều không, chẳng chỗ có
 Không có chút thường trụ
 Vẫn cũng không khởi diệt
 Đây gọi là “Thân cận”
 Chỗ người trí hằng nương.
 Chớ đảo điên phân biệt
 Các pháp có hoặc không
 Là thật, chẳng phải thật
 Là sanh chẳng phải sanh.
 Ở an nơi vắng vẻ
 Sửa trau nhiếp tâm mình
 An trụ chẳng lay động
 Như thể núi Tu-di.
 Quán sát tất cả pháp
 Thảy đều không thật có
 Dường như khoảng hư không
 Không có chút bền chắc.
 Chẳng sanh cũng chẳng xuất
 Chẳng động cũng chẳng thối
 Thường trụ một tướng thể
 Đó gọi là “Cận xứ”.
 Nếu có vị Tỳ-kheo
 Sau khi ta diệt độ
 Vào được “Hành xứ” này
 Và “Thân cận xứ” đó
 Thời lúc nói kinh này
 Không có lòng e sợ
 Vị Bồ-tát có lúc
 Vào nơi nhà tịnh thất
 Lòng nghĩ nhớ chân chánh
 Theo đúng nghĩa quán pháp.
 Từ trong thiền định dậy
 Vì các bậc quốc vương
 Vương tử và quan, dân
 Hàng Bà-la-môn thảy
 Mà khai hóa diễn bày 
 Rộng nói kinh điển này
 Tâm vị đó an ổn
 Không có chút khiếp nhược.
 Văn-thù-sư-lợi này !
 Đó gọi là Bồ-tát
 An trụ trong sơ pháp
 Có thể ở đời sau
 Diễn nói kinh Pháp Hoa.
GIẢNG :
Trên là Phật nêu lên sự tướng mà người nói kinh Pháp Hoa cần phải có, để
khi giáo hóa chúng sanh không bị chướng ngại. Tới đây là phần lý, người nói kinh
Pháp Hoa phải đạt được, tức là thấy các pháp không có tướng cố định do duyên
hợp tạm có, nên tâm không điên đảo, không động, không thối chuyển, như hư
không, không có thật tánh. Tất cả lời nói đều không thật, không sanh, không diệt
v.v... Tất cả các pháp đều từ nhân duyên mà sanh, do điên đảo mà có. Tại sao nói
pháp do điên đảo mà có ? Thí dụ đêm tối có người cầm cây nhang cháy quay thật
nhanh, người ngoài nhìn thấy một vòng lửa tròn. Vòng lửa tròn ấy không thật có,
chẳng qua do tay quay cây nhang nhanh, mắt nhìn không kịp, nên thấy một vòng
lửa. Thấy không tới lẽ thật, nên nói điên đảo như thế. Chúng ta có thân này là do
duyên hợp tạm có không thật. Nếu nó còn thì mừng, nó hoại thì sợ. Bởi sợ nó mất
nên khởi niệm điên đảo tìm gá thân khác. Từ niệm điên đảo đó mà tiếp nối thân
sau đi mãi trong ba cõi, nên nói điên đảo sanh. Chúng ta nhìn cho thật kỹ thì tất cả
các pháp ở thế gian này, có pháp nào là thật ? Như con người, ai cũng nhận thân
này là ta là mình, thế mà mỗi ngày đưa vô một số thức ăn, nước, không khí vào
trong thân, bao tử, ruột, phổi, tim... nó biến hóa, nó làm gì, chúng ta hoàn toàn
không biết, không hề ra lịnh cho nó làm thế này hay thế kia, mặc tình nó làm gì thì
làm, nó biến hóa ra sao tùy nó. Nó biến hóa tốt thì thân khỏe mạnh, biến hóa
không tốt thì thân đau bệnh. Chúng ta hoàn toàn không biết gì về hoạt động bên
trong của thân. Tim đập nhanh, chậm, hay ngừng nghỉ tùy nó; bao tử ruột tiêu hóa
tốt hay xấu cũng tùy nó, chúng ta không điều khiển được. Vậy mà nhận nó là ta,
chấp chặt nó là mình thật, đó là cái tưởng điên đảo, không đúng sự thật.
Với cái nhìn của trí tuệ Bát-nhã thấy sự vật là một dòng chuyển biến trôi
chảy, đủ duyên thì tụ, hết duyên thì tan, luôn luôn chuyển động không dừng. Vạn
vật luôn luôn biến dịch mà mắt phàm phu của chúng sanh không thấy không biết.
Nhìn sự vật như cái bàn, với mắt người thường thì thấy nó là một cố thể, nhưng
với mắt khoa học phân tích từ thô đến tế thì cái bàn do nhiều miếng gỗ ráp lại bởi
những cây đinh, công thợ... và rồi phân tích đến chỗ vi tế thì thấy cái bàn hình
thành bởi những nguyên tử nó đang quay vùn vụt ở trong mỗi vật. Ngay thân con
người thì thấy vô số tế bào đang hoạt động, ngay nơi vật thì thấy vô số nguyên tử
đang quay, tất cả đều di động không dừng. Vì vậy Phật nói tất cả pháp không có
một pháp nào có thực thể cố định, tụ tán biến chuyển không dừng. Đã là pháp
chuyển biến, mà chấp bám chặt muốn nó dừng một chỗ là khờ dại ngu si. Càng
bám giữ cái không bao giờ dừng đứng là càng khổ đau. Nên nói chấp là gốc của 
khổ, điều đó cụ thể vô cùng. Với mắt Trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả người vật là một
dòng trôi chảy không dừng. Con người thì sanh, già, bệnh, chết tuần tự đuổi nhau,
vật thì thành, trụ, hoại, không. Nếu biết chuyện sẽ đến đương nhiên phải đến, lo sợ
cũng không khỏi, nên nhìn và cười nó đến đi một cách bình thản, người như thế có
phải là người trí không ? Chư Tổ xưa kia trí tuệ tròn đầy, các Ngài nói thân này
còn cũng tốt mà hoại cũng vui không có gì sợ sệt. Người trí thấy đúng như thật là
thấy các pháp là một dòng chuyển biến, đã chuyển biến thì chấp nhận nó đổi thay.
Đó là nói các pháp có hình tướng. Còn tâm niệm con người cũng vậy, chợt khởi
chợt mất, giây phút trước nghĩ chuyện này, giây phút sau nghĩ chuyện khác, tiếp
nối nhau nghĩ tưởng không có được một phút giây dừng lặng. Nó cũng là một
dòng trôi chảy biến dịch, ngày nay nghĩ như vậy, ngày mai chưa chắc cũng nghĩ
như vậy vì vọng niệm vô thường đổi thay! Nên đừng chấp lời nói ý nghĩ người đó
trước sau như một, nó cứ biến chuyển đổi thay hoài. Vì vậy người tu chúng ta
cũng phải thay đổi, chuyển từ nghiệp bất thiện sang nghiệp thiện, chuyển từ mê
sang tỉnh. Thí dụ như khi chưa tu thì tham, sân, si có đủ một trăm phần trăm khi
biết tu chuyển tham, sân, si giảm dần còn chín mươi, tám mươi, bảy mươi phần
trăm cho đến khi hết tham, sân, si.
Tóm lại, Phật dạy Bồ-tát nói kinh Pháp Hoa giáo hóa chúng sanh, trên mặt
sự phải đủ giới tướng, trên mặt lý phải quán thông các pháp, thì khi hành Bồ-tát
đạo, mình được an vui, chúng sanh được lợi ích. Nếu chấp sự mà không thông lý,
thì chỉ có được hình tướng để cho người mến, cũng chẳng giáo hóa chúng sanh
được thăng tiến lợi ích. Còn nếu thông lý mà bỏ sự, khiến cho người hoang mang
không kính tin, cũng không giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh được. Vì vậy lý
sự phải viên dung thì việc tự giác giác tha mới viên mãn.
4. CHÁNH VĂN :
* Lại Văn-thù-sư-lợi ! Sau khi đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp
muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh An lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc
kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các
Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh
văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi
điều tốt của người đó.
Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế nên
những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa
đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc “Nhứt thiết chủng
trí”.
GIẢNG :
Hai là Phật dạy người nói kinh Pháp Hoa mà được an vui thì đừng có nói
lỗi người và lỗi kinh, đừng có khinh Pháp sư khác, không nên nói việc hay dở tốt
xấu của người. Đối với hàng Thanh văn không khen và cũng không chê. Đa số
chúng ta thời nay tụng kinh Pháp Hoa sợ đổ nghiệp, vì vừa ra khỏi đạo tràng thì,
khen người này chê người kia, tạo điều kiện cho phiền não dấy động làm mờ trí
tuệ Phật, trái với lời Phật dạy thì làm sao được an lạc ? Trong Pháp Bảo Đàn Kinh,
Lục tổ đánh Sa-di Thần Hội ở chỗ thấy lỗi người. Lục tổ dạy chỉ thấy lỗi mình mà 
không nên thấy lỗi người, vì thấy lỗi người thì lỗi mình đã đến một bên rồi, đó là
điều chướng đạo. Tại sao ? Vì thấy lỗi người thì bậc bội không thể thương người
được, bậc bội không thương thì không giáo hóa, không chướng đạo là gì? Thế nên
không thấy lỗi người, mà hằng thấy tâm niệm mình đang an ổn hay đang bị vọng
tưởng dấy động phiền não phủ che, để điều phục cho được yên.
Trên Phật dạy nơi miệng không nói lỗi người không khen chê người. Tới
đây Phật dạy nơi tâm không sanh lòng oán hiềm, nếu có người hỏi thì không dùng
pháp Tiểu thừa để đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa giải nói làm cho họ được Nhứt
thiết chủng trí. Người nói kinh mà tâm còn oán thù người này, hiềm hận người kia,
thì tự mình đã chướng đạo, không có lòng từ bủa rộng đâu làm lợi ích cho người
được. Và nếu chỉ đem pháp Tiểu thừa ra giảng nói, mà không nói pháp Đại thừa
thì không đưa người đến chỗ rốt ráo thành Phật cũng là chướng đạo, chưa đủ tư
cách nói kinh Pháp Hoa.
5. CHÁNH VĂN :
Khi ấy, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Vị Bồ-tát thường ưa
 An ổn nói kinh pháp
 Ở nơi chỗ thanh tịnh
 Mà sắp đặt sàng tòa
 Dùng hương dầu xoa thân
 Tắm gội các bụi dơ
 Mặc y mới sạch sẽ
 Trong ngoài đều sạch thơm
 Ngồi an nơi pháp tòa
 Theo chỗ hỏi vì nói.
 Nếu có vị Tỳ-kheo
 Cùng với Tỳ-kheo ni
 Các hàng Ưu-bà-tắc
 Và hàng Ưu-bà-di
 Quốc vương và vương tử
 Các quan cùng sĩ dân
 Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
 Vui vẻ vì họ nói
 Nếu có người gạn hỏi
 Theo đúng nghĩa mà đáp
 Nhân duyên hoặc thí dụ
 Giải bày phân biệt nói
 Dùng trí phương tiện này
 Đều khiến kia phát tâm
 Lần lần thêm đông nhiều
 Vào ở trong Phật đạo.
 Trừ lòng lười biếng trễ
 Cùng với tưởng giải đãi 
 Xa rời các ưu não
 Tâm từ lành nói pháp.
 Ngày đêm thường tuyên nói
 Giáo pháp Vô thượng đạo
 Dùng các việc nhân duyên
 Vô lượng món thí dụ
 Mở bày dạy chúng sanh
 Đều khiến chúng vui mừng
 Y phục cùng đồ nằm
 Đồ ăn uống thuốc thang
 Mà ở nơi trong đó
 Không có chỗ mong cầu
 Chỉ chuyên một lòng nhớ
 Nhân duyên nói kinh pháp
 Nguyện ta thành Phật đạo
 Khiến mọi người cũng vậy
 Đó là lợi lành lớn.
 Là an vui cúng dường.
 Sau khi ta diệt độ
 Nếu có vị Tỳ-kheo
 Có thể diễn nói được
 Kinh Diệu Pháp Hoa này
 Lòng không chút ganh hờn
 Không các não chướng ngại
 Cũng lại không ưu sầu
 Và cùng mắng nhiếc thảy
 Lại cũng không sợ sệt
 Không dao gậy đánh đập
 Cũng không xua đuổi ra
 Vì an trụ nhẫn vậy.
 Người trí khéo tu tập
 Tâm mình được dường ấy
 Thời nay trụ an lạc
 Như ta nói ở trên
 Công đức của người đó
 Trong nghìn muôn ức kiếp
 Tính kể hay thí dụ
 Nói chẳng thể hết được.
GIẢNG :
Phật trùng tụng và lặp lại ý trên, tuy nhiên có thêm vài chi tiết. Phật dạy
phải ăn mặc sạch sẽ trang nghiêm để nói đạo. Kế đến nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni,
vua, quan... tới hỏi đạo, thì với sắc diện hòa nhã vui vẻ mà đáp, chớ có thái độ bậc 
dọc cau có. Khi đáp thì phải đáp cho đúng với nghĩa lý Phật dạy, dùng mọi cách
dẫn giải thí dụ, để cho họ hiểu lần lần được vào đạo.
6. CHÁNH VĂN :
* Lại Văn-thù-sư-lợi ! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ
trì, đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng
người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh văn hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ-tát
đạo đều không được làm não đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà nói với
người đó rằng: “Các người cách đạo rất xa trọn không thể được bậc Nhứt thiết
chủng trí. Vì sao ? Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo vậy.”
Lại cũng chẳng nên hí luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả
chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các đức Như Lai sanh tưởng như cha lành,
đối với các Bồ-tát, tưởng là bậc Đại sư; đối với các đại Bồ-tát ở mười phương phải
thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp
nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng vì nói
nhiều.
Văn-thù-sư-lợi ! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành
tựu được hạnh An lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn,
được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng
thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi
hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển cung kính tôn trọng ngợi
khen.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nếu muốn nói kinh này
 Phải bỏ lòng ganh hờn
 Ngạo dua dối tà ngụy
 Thường tu hạnh chất trực
 Chẳng nên khinh miệt người
 Cũng chẳng hí luận pháp
 Chẳng khiến kia nghi hối
 Rằng người chẳng thành Phật,
 Phật tử đó nói pháp
 Thường nhu hòa hay nhẫn
 Từ bi với tất cả
 Chẳng sanh lòng biếng trễ,
 Bồ-tát lớn mười phương
 Thương chúng nên hành đạo
 Phải sanh lòng cung kính
 Đó là Đại sư ta,
 Với các Phật Thế Tôn
 Tưởng là cha Vô thượng
 Phá nơi lòng kiêu mạn
 Nói pháp không chướng ngại 
 Pháp thứ ba như thế
 Người trí phải giữ gìn
 Một lòng An lạc hạnh
 Vô lượng chúng cung kính.
GIẢNG :
Pháp thứ ba Phật dạy người nói kinh Pháp Hoa được an lạc, là chớ có ôm
lòng ganh ghét dua dối, chớ có khinh mắng người học đạo tối dốt. Đối với người
cầu Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát tuy căn cơ họ có chậm lụt, nhưng cũng không
được nói làm cho họ xúc não thối Bồ-đề tâm, mất lòng tin, đó là việc làm trái đạo
lý. Vì ai cũng có sẵn Tri kiến Phật. Người giảng nói kinh có bổn phận phải khơi
dậy niềm tin nơi mọi người, để họ phấn khởi tu tiến. Nếu khinh chê làm xúc não
họ, chẳng khác nào mình phủ nhận hạt giống Bồ-đề nơi họ. Đó là bệnh là tội lỗi,
chúng ta phải dè dặt, phải chừa. Nếu chúng ta không làm cho người đủ niềm tin
phấn khởi tu hành, chớ có làm cho họ thối Bồ-đề tâm. Phật dạy người nói kinh
phải có lòng từ đối với chúng sanh, kính thờ Phật coi như cha, Bồ-tát coi như bậc
Đại sư. Đồng thời Phật còn dạy người nói kinh chớ có hí luận, tức là dùng pháp
này công kích pháp kia, đứng bên này công kích bên kia, đứng bên kia công kích
bên này, gây nên sự chia rẽ tranh chấp lẫn nhau, đó là bệnh. Và, đây là cái bệnh
của người giảng đạo nữa, nếu người nghe mà chăm chú, tiếp thu nhanh, ưa nghe
pháp mình nói, thì nói say mê không chán, quên ngày quên giờ, nếu người nghe lơ
đễnh, tiếp thu chậm, thì nói qua loa vài ba câu thôi, không nói nữa. Ở đây, Phật
dạy phải điều hòa đừng nói quá nhiều cũng đừng nói quá ít. Nếu nói nhiều quá thì
dư, khiến người nghe sinh lòng khinh thường nhàm chán không tu được. Còn nói
ít quá thì phụ lòng kính ngưỡng khát vọng của người nghe, và người nghe cũng
không hiểu để mà tu tiến. Điều này tuy nhỏ nhưng quan trọng, vì vậy mà phải cố
gắng điều hòa đừng để thiên lệch, chớ nói dư mà cũng đừng nói thiếu. Đó là hạnh
An lạc thứ ba.
7. CHÁNH VĂN :
* Lại Văn-thù-sư-lợi ! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt, có
vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng từ lớn,
ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sanh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: Những
người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp
chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó
dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt đó
khiến được trụ trong pháp này.
Văn-thù-sư-lợi ! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như Lai diệt độ nếu thành tựu
được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm lỗi, thường được hàng
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà- di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân
dân, Bà-la-môn, cư sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư
thiên ở trên hư không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng
thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm
thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng. 
Vì sao ? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá khứ, vị
lai, hiện tại, giữ gìn vậy. Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi
nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng được nghe, hà huống là được thấy, thọ trì, đọc
tụng.
Văn-thù-sư-lợi ! Thí như vua Chuyển Luân Thánh vương sức lực mạnh mẽ
muốn dùng oai thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lịnh,
bấy giờ Chuyển Luân Thánh vương đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh
chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban.
Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y phục trang
nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san
hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh châu trong búi tóc
chẳng đem cho đó.
Vì sao ? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời
các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ.
Văn-thù-sư-lợi ! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí huệ được
cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà ma vương chẳng khứng thuận phục, các
tướng Hiền Thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng
cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban
cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu, căn lực. Và lại ban cho thành Niết-bàn,
bảo rằng được diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà
chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này.
Văn-thù-sư-lợi ! Như vua Chuyển Luân thấy các binh chúng những người
có công lớn, lòng rất hoan hỷ đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc
chẳng vọng cho người, mà nay cho đó.
Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp vương trong ba cõi, đem
pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh. Thấy quân Hiền Thánh cùng ma ngũ ấm, ma
phiền não, ma chết, đánh nhau có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới
ma. Lúc ấy Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng
sanh đến bậc “Nhứt thiết trí” là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét khó tin,
trước chưa từng nói mà nay nói đó.
Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhứt của Như Lai, ở
trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn
viên minh châu mà nay mới cho đó.
Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như
Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói,
mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Thường tu hành nhẫn nhục
 Thương xót tất cả chúng
 Mới có thể diễn nói
 Kinh của Phật khen ngợi.
 Đời mạt thế về sau
 Người thọ trì kinh này 
 Với tại gia, xuất gia
 Và chẳng phải Bồ-tát
 Nên sanh lòng từ bi
 Những người đó chẳng nghe
 Chẳng tin kinh pháp này
 Thời là mất lợi lớn
 Khi ta chứng Phật đạo
 Dùng các sức phương tiện
 Vì nói kinh pháp này
 Làm cho trụ trong đó.
 Thí như vua Chuyển Luân
 Thánh vương có sức mạnh
 Binh tướng đánh có công
 Thưởng ban những đồ vật
 Voi, ngựa và xe cộ
 Đồ trang nghiêm nơi thân
 Và những ruộng cùng nhà
 Xóm làng, thành ấp thảy
 Hoặc ban cho y phục
 Các món trân báu lạ
 Tôi tớ cùng của cải
 Đều vui mừng ban cho,
 Nếu có người mạnh mẽ
 Hay làm được việc khó
 Vua mới mở búi tóc
 Lấy minh châu cho đó.
 Đức Như Lai cũng thế
 Là vua trong các pháp
 Nhẫn nhục sức rất lớn
 Tạng báu trí huệ sáng
 Dùng lòng từ bi lớn
 Đúng như pháp độ đời
 Thấy tất cả mọi người
 Chịu các điều khổ não
 Muốn cầu được giải thoát
 Cùng các ma đánh nhau,
 Phật vì chúng sanh đó
 Nói các món kinh pháp
 Dùng sức phương tiện lớn
 Nói các kinh điển đó,
 Đã biết loài chúng sanh
 Được sức mạnh kia rồi
 Rốt sau mới vì chúng 
 Nói kinh Pháp Hoa này
 Như vua Thánh mở tóc
 Lấy minh châu cho đó.
 Kinh này là bậc tôn
 Trên hết trong các kinh
 Ta thường giữ gìn luôn
 Chẳng vọng vì mở bày
 Nay chính đã phải lúc
 Vì các ông mà nói.
 Sau khi ta diệt độ
 Người mong cầu Phật đạo
 Muốn được trụ an ổn
 Diễn nói kinh pháp này
 Phải nên thường gần gũi
 Bốn pháp trên như thế.
 Người đọc tụng kinh này
 Thường không bị ưu não
 Lại không có bệnh đau
 Nhan sắc được trắng sạch
 Chẳng sanh nhà bần cùng
 Dòng ti tiện xấu xa
 Chúng sanh thường ưa thấy.
 Như ham mộ Hiền Thánh
 Các đồng tử cõi trời
 Dùng làm kẻ sai khiến
 Dao gậy chẳng đến được
 Độc dữ chẳng hại được
 Nếu người muốn mắng nhiếc
 Miệng thời liền ngậm bít
 Dạo đi không sợ sệt
 Dường như sư tử vương
 Trí huệ rất sáng suốt
 Như mặt trời chói sáng.
 Nếu ở trong chiêm bao
 Chỉ thấy những việc tốt
 Thấy các đức Như Lai
 Ngồi trên tòa sư tử
 Các hàng chúng Tỳ-kheo
 Vây quanh nghe nói pháp
 Lại thấy các Long thần
 Cùng a-tu-la thảy
 Số như cát sông Hằng
 Đều cung kính chấp tay 
 Tự ngó thấy thân mình
 Mà vì chúng nói pháp.
 Lại thấy các đức Phật
 Thân tướng thuần sắc vàng
 Phóng vô lượng hào quang
 Soi khắp đến tất cả
 Dùng giọng tiếng Phạm âm
 Mà diễn nói các pháp
 Phật vì hàng tứ chúng
 Nói kinh pháp Vô thượng
 Thấy thân mình ở trong
 Chấp tay khen ngợi Phật
 Nghe pháp lòng vui mừng
 Mà vì cúng dường Phật
 Được pháp Đà-la-ni
 Chứng bậc bất thối trí,
 Phật biết tâm người đó
 Đã sâu vào Phật đạo
 Liền vì thọ ký cho
 Sẽ thành tối Chánh giác.
 Thiện nam tử người này !
 Sẽ ở đời vị lai
 Chứng được Vô lượng trí
 Nên đạo lớn của Phật,
 Cõi nước rất nghiêm tịnh
 Rộng lớn không đâu bằng
 Cũng có hàng tứ chúng
 Chấp tay nghe nói pháp
 Lại thấy thân của mình
 Ở trong rừng núi vắng
 Tu tập các pháp lành
 Chứng thiệt tướng các pháp
 Sâu vào trong thiền định
 Thấy các Phật mười phương
 Các Phật thân sắc vàng
 Trăm phước tướng trang nghiêm
 Nghe pháp vì người nói
 Thường có mộng tốt đó.
 Lại mộng làm quốc vương
 Bỏ cung điện quyến thuộc
 Và ngũ dục thượng diệu
 Đi đến nơi đạo tràng
 Ở dưới cội bồ-đề
 Mà ngồi tòa sư tử
 Cầu đạo quả bảy ngày
 Được trí của các Phật
 Thành đạo Vô thượng rồi
 Dậy mà chuyển pháp luân
 Vì bốn chúng nói pháp
 Trải nghìn muôn ức kiếp
 Nói pháp mầu vô lậu
 Độ vô lượng chúng sanh
 Sau sẽ vào Niết-bàn
 Như khói hết đèn tắt.
 Nếu trong đời ác sau
 Nói pháp bậc nhứt này
 Người đó được lợi lớn
 Các công đức như trên.
GIẢNG :
Pháp thứ tư mà người nói kinh Pháp Hoa cần phải có để được an lạc là khởi
tâm từ bi lớn. Tại sao đối với hàng tại gia xuất gia thì khởi lòng từ, còn đối với
người chẳng phải Bồ-tát thì khởi lòng bi ? Vì hàng tại gia xuất gia là những người
đang tiến tu, nên Bồ-tát làm lợi lạc khiến cho họ được thăng tiến an vui nên nói là
khởi lòng từ; còn đối với hàng chúng sanh chưa tu theo giáo pháp của Phật, lòng
tràn đầy khổ đau, vì vậy mà Bồ-tát thương xót dùng mọi phương tiện để cứu khổ
khiến cho họ được an vui. Nên nói đối với hàng chúng sanh, Phật nói pháp mà
không nghe không hiểu không tin... thì Bồ-tát phải phát tâm đại bi, nguyện rằng:
Khi mình được thành Phật thì những người đó ở đâu cũng dùng phương tiện dẫn
dắt cho họ tu. Phàm phu có cái bệnh nếu biết điều nào hay có lợi ích thì khuyến
khích khuyên bảo cho người làm, mà họ không làm thì bậc bội, không nói nữa để
khổ cho đáng kiếp, không thèm cứu. Tâm Bồ-tát thì không phải vậy, vẫn trải lòng
từ bi mà cứu độ khi họ khổ.
Phật nói kinh Pháp Hoa rất quí, được chư Phật ba đời hộ trì. Có vô lượng
cõi nước không được thấy nghe kinh Pháp Hoa huống là được thọ trì đọc tụng.
Điều này làm cho chúng ta có chút nghi vấn. Kinh Pháp Hoa được in ấn và phát
hành rất nhiều, tại sao Phật lại nói không được nghe đến tên kinh và thấy kinh để
thọ trì ? Chúng ta nhớ kinh Pháp Hoa là chỉ cho Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi
người, nếu không được gặp thiện hữu tri thức khai thị, thì làm sao mà tin hiểu, nên
nói khó thấy nghe huống là thọ trì. Chớ không phải quyển kinh Pháp Hoa được in
bằng giấy mực mà chúng ta đọc tụng hằng ngày. Tuy nhiên, nhờ đọc tụng kinh
Pháp Hoa bằng giấy mực mà chúng ta khéo nhận ra quyển Kinh không lời không
chữ mà Phật đã chỉ. Vậy ở đây, quí vị đã từng đọc tụng hằng chục hằng trăm bộ,
có nhận ra quyển Kinh không lời chưa ?
Dưới đây Phật dùng ví dụ nói lên cái quí của kinh Pháp Hoa để cho chúng
ta thấy, ở vào từng trường hợp đặc biệt nào Phật mới chỉ cho. Phật thí dụ Chuyển
Luân Thánh vương muốn hàng phục các nước nhỏ, mà các nước nhỏ không tuân 
mạng lịnh, nên vua đem binh đánh dẹp. Quan quân đánh giặc có công, vua tùy
theo công mà thưởng ban cho ngọc ngà châu báu hay thành ấp... Đối với vị tướng
lãnh có công lớn nhất thì vua lấy hạt minh châu trong búi tóc mà thưởng. Khi vua
thưởng hạt minh châu cho vị tướng lãnh có công lớn, thì tất cả quyến thuộc rất
kinh ngạc. Vì hạt minh châu là vật quí nhất, mà vua lấy đem ra ban thưởng, thật là
chuyện hiếm có, Chuyển Luân Thánh vương là dụ cho đức Phật, binh tướng là dụ
cho Hiền Thánh tăng đệ tử Phật, giặc phải dẹp là ma ngũ ấm, ma phiền não, ma
chết... Vậy chư Tăng Ni có mặt ở đây đã đánh trận nào với ma chưa và đánh như
thế nào ?
Ma ngũ ấm là kiến chấp thân năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thật
ngã. Do chấp thân năm ấm là thật ngã, nên không nhận ra Tri kiến Phật sẵn có nơi
mình. Bây giờ phải dùng kiếm trí tuệ Bát-nhã đâm thủng con ma ngũ ấm, thì tình
chấp thân tâm là thật ngã không còn nữa. Tri kiến Phật hiện tiền. Mỗi tối chúng ta
lên chùa hăm he “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, sắc không thật, thọ không thật,
tưởng không thật, hành, thức cũng không thật... Tôi xin hỏi, có phải quí vị là binh
tướng của Phật đang tuyên chiến với quân ma không ? Tuy tuyên chiến với ma mà
gặp ma không nỡ giết vẫn còn thương ma, nên cũng thấy “ngũ uẩn giai hữu”, vì
vậy bị thua ma dài dài. Ma phiền não thì rất nhiều, nào là tham, sân, si, nào là mạn,
nghi, ác kiến... Với ma tham, quí vị có tuyên chiến với nó chưa ? thắng nó hay là
bại ? Ma sân coi bộ hung dữ quá, thắng nó được mấy trận rồi ? hay là bất như ý là
bậc tức hiện ra mặt, ra lời, ra tay chân, xong rồi hối hận ? Như vậy là thua ma, làm
tôi mọi cho nó đó ! Nên, khi ma tham ma sân dấy lên, liền biết nó không thật,
không có cứ điểm, không có nơi chốn, thì nó tự lặn mất, như vậy là thắng ma. Ma
chết là con người khi chết chưa siêu quanh quẩn phá phách người sống. Và sự chết
làm mất thân mạng không còn đủ duyên để tiến tu cũng gọi là ma. Khi thân này
bệnh, điều trị không khỏi, cái chết sẽ đến nên rất lo sợ hoặc ở chỗ vắng vẻ có
những hiện tướng bất tường hiện ra, chúng ta run sợ đó là sợ ma chết. Tất cả
những thứ ma chết chúng ta đều sợ, hễ sợ là chướng đạo, thế nên phải chiến thắng
nó. Phá sạch ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, mới thoát khỏi luân hồi sinh tử
trong ba cõi, không còn bị trói buộc trong lưới ma nữa.
Việc làm này đối với Phật là một công trận lớn nhất, nên Phật rất vui mừng
đem kinh Pháp Hoa giảng nói khiến cho được Nhứt thiết chủng trí, tức là khiến
cho thành Phật để thưởng người công đầu. Trong cuộc chiến với ma quân tùy theo
công trận lớn nhỏ, mà Phật có những pháp để thưởng công, nào là thiền định, giải
thoát, nào là vô lậu, căn lực, thành Niết-bàn, hễ chiến đấu có công là được thưởng.
Chỉ đặc biệt người có công lớn nhất là được thưởng kinh Pháp Hoa. Xét lại xem,
chúng ta có được Phật thưởng công không ? Chắc vô phần ! Nếu không được
thưởng công tức là chưa chiến thắng ma quân. Chúng ta chưa được phần thưởng
nào, huống là được thưởng kinh Pháp Hoa ! Nhưng tại sao hôm nay chúng ta lại
được học kinh Pháp Hoa ? Như vậy có trái ngược không ? Ở đây chúng ta học
kinh Pháp Hoa là học văn tự nghĩa lý, chứ kinh Pháp Hoa vô tự, tức Tri kiến Phật
có sẵn nơi mỗi người, chỉ có bậc Thánh tăng phá tan quân ma vượt khỏi lưới ma
Phật mới hiện tiền, nói theo phẩm này thì mới được Phật ban thưởng. Còn chúng 
ta chưa được dự phần, vì chưa phá được quân ma cũng như chưa ra khỏi lưới ma !
“Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như Lai” là sao? Vì kinh
Pháp Hoa là chỉ Tri kiến Phật, chính thái tử Tất-đạt-đa đã ngộ, nên thành Phật.
Muốn chỉ cho người thì rất khó, vì nó không có tướng mạo, vượt ngoài ngôn ngữ,
suy tư, làm sao chỉ được! Nó hằng hiện hữu nơi mỗi người mà chỉ không được,
nên gọi là tạng bí mật của Như Lai. Khi căn lành tròn đủ, sạch hết các ma chướng
lúc đó mới thấy được tạng bí mật này.
Sở dĩ từ lâu Phật không nói kinh Pháp Hoa là tại sao ? Vì tất cả chư Phật
nhân kinh này mà được thành, song khó tin khó nhận. Đối với người căn cơ thấp
kém họ không tin nên Phật không nói. Khi nào phiền não sạch, trí tuệ sáng, Phật
chỉ, liền nhận ra tức thành Phật. Đó là dụ kế châu tức hạt châu trong búi tóc.
 Như vậy, trong bộ kinh Pháp Hoa có tất cả 7 dụ: dụ Nhà lửa với ba cỗ xe,
dụ Cùng tử, dụ Dược thảo, dụ Hóa thành, dụ Hệ châu, dụ Tạc tỉnh, dụ Kế châu.
Phẩm An Lạc Hạnh là phẩm dạy cho chúng ta thực hành nên rất quan trọng.
Người muốn nói kinh Pháp Hoa phải cần có đủ bốn điều kiện để được an lạc
không bị chướng ngại, đó là:
1.- Nhẫn nhục nhu hòa, không kinh sợ, quán tướng như thật của các
pháp...
2.- Không thân cận người có quyền thế, ngoại đạo, kẻ xướng ca, kẻ
hung ác...
3.- Không nói lỗi người, không oán hờn người, không dùng pháp Tiểu
thừa để giáo hóa mà chỉ dùng pháp Đại thừa giảng giải, khiến được Nhứt thiết
chủng trí, không ganh ghét dua dối, không khinh mắng người học đạo...
4.- Phải có đầy đủ lòng từ bi lớn đối với mọi chúng sanh, dắt dẫn họ an trụ
trong pháp Phật...
 Phẩm Trì ở trước là Phật giao phó kinh Pháp Hoa cho người sau, đến
phẩm này Phật dạy bốn hạnh cần phải có, để đem kinh Pháp Hoa truyền bá
được an lạc không bị chướng ngại. Trong bộ kinh, phẩm trước có liên hệ với
phẩm sau. Như vậy trì kinh và đem kinh ra giáo hóa đó là phần Thị và Ngộ
Phật tri kiến theo tinh thần của thiền sư Minh Chánh. Nếu không thấy (thị)
làm sao mà nguyện trì và không ngộ làm sao giáo hóa ?
D
PHẨM 15: TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT
Tùng Địa Dũng Xuất nghĩa là từ đất vọt mạnh lên. Ý nói chư Bồ-tát từ dưới
đất nứt vọt lên rất nhiều. Phẩm An Lạc Hạnh Phật dạy người trì kinh Pháp Hoa và
truyền bá Pháp Hoa, phải tu bốn hạnh như đã nêu lên ở trước thì mới được an lạc.
Vì Phật khuyến khích chư Bồ-tát và tất cả chúng nên duy trì kinh Pháp Hoa, để
cho chúng sanh cõi Ta-bà được biết và thọ trì, vì vậy chư Bồ-tát phát nguyện thực
hành.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát
của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đứng dậy chấp tay làm lễ mà bạch Phật rằng:
“Thế Tôn ! Nếu bằng lòng cho chúng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cõi Ta-bà
này siêng tu tinh tấn, giữ gìn, đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điển này, thời
chúng con sẽ ở trong cõi đây mà rộng nói đó.”
Khi đó, Phật bảo các chúng đại Bồ-tát: “Thiện nam tử ! Thôi đi chẳng cần
các ông hộ trì kinh này. Vì sao ? Vì cõi Ta-bà của ta tự có chúng đại Bồ-tát số
đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị Bồ-tát có sáu muôn Hằng hà sa
quyến thuộc, những người đó có thể sau khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói
kinh này.”
GIẢNG :
Phật khuyến khích các vị Bồ-tát nên duy trì kinh Pháp Hoa ở cõi Ta-bà, thì
chư Bồ-tát ở phương khác phát nguyện xin được ở cõi Ta-bà tinh tấn gìn giữ, đọc
tụng, biên chép, cúng dường kinh điển này, tại sao Phật lại từ chối ? Vì ở cõi Tabà
số chúng Bồ-tát và quyến thuộc đông không thể tính đếm được, sau khi Phật
diệt độ có thể hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này. Như vậy, có phải Phật dành phần
thọ trì truyền bá kinh Pháp Hoa cho chư Bồ-tát, đệ tử của Phật không ?
2. CHÁNH VĂN :
* Lúc Phật nói lời đó, cõi Ta-bà trong tam thiên đại thiên cõi nước, đất đều
rúng nứt, mà ở trong đó có vô lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ-tát đồng thời vọt ra.
Các vị Bồ-tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô lượng ánh
sáng, trước đây đều ở dưới cõi Ta-bà này, cõi đó trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát
đó nghe tiếng nói của đức Thích-ca Mâu-ni Phật nên từ dưới mà đến. Mỗi vị Bồ-
tát đều là bậc đạo thủ trong đại chúng, đều đem theo sáu muôn Hằng hà sa quyến
thuộc, huống là những vị đem năm muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một
muôn Hằng hà sa quyến thuộc. Huống là nhẫn đến những vị đem một Hằng hà sa,
nửa Hằng hà sa, một phần tư Hằng hà sa, nhẫn đến một phần trong nghìn muôn ức
na-do-tha phần Hằng hà sa quyến thuộc. Huống là những vị đem nghìn muôn ức
na-do-tha quyến thuộc, huống là đem ức muôn quyến thuộc, huống là đem nghìn
muôn trăm muôn nhẫn đến một muôn, huống là đem một nghìn, một trăm nhẫn
đến mười quyến thuộc, huống là đem năm, bốn, ba, hai, một người đệ tử. Huống 
lại là những vị riêng một mình ưa hạnh viễn ly, số đông vô lượng vô biên dường
ấy, tính đếm thí dụ chẳng có thể biết được.
GIẢNG :
Tới đây, lại có thêm những nghi vấn nữa là, tại sao chư Bồ-tát từ trong
lòng đất rúng nứt vọt lên trụ trong hư không. Nếu từ lòng đất vọt lên thì các Ngài
không phải ở thế giới khác đến. Bồ-tát sao ở dưới đất nhiều vô số vậy ? Phần
nhiều lấy số sáu để định lượng, như vậy có hàm súc ý nghĩa gì đặc biệt?
3. CHÁNH VĂN :
* Các vị Bồ-tát đó từ dưới đất lên, đều đến nơi tháp đẹp bảy báu, chỗ của
đức Đa Bảo Như Lai và Thích-ca Mâu-ni Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế
Tôn mà đầu mặt lạy chân Phật, và đến chỗ các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới
cội cây báu, cũng đều làm lễ. Đi quanh bên mặt ba vòng, chấp tay cung kính, dùng
các cách ngợi khen của Bồ-tát mà ngợi khen Phật, rồi đứng qua một phía, ưa vui
chiêm ngưỡng hai đấng Thế Tôn.
Từ lúc các vị đại Bồ-tát do từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi khen của
Bồ-tát mà khen ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật nín lặng ngồi yên, cùng hàng tứ chúng
cũng đều nín lặng, năm mươi tiểu kiếp, vì do sức thần của Phật, khiến hàng đại
chúng cho là như nửa ngày.
Bấy giờ, hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy các Bồ-tát đầy
khắp vô lượng nghìn muôn ức cõi nước hư không.
GIẢNG :
Đoạn này lại có thêm nghi vấn nữa là, chư vị Bồ-tát từ đất vọt lên đến đảnh
lễ hai đức Phật, lễ xong thì tán thán khen ngợi, tán thán khen ngợi xong mất một
khoảng thời gian là năm mươi tiểu kiếp. Chúng ta thấy đức Phật Thích-ca từ khi
giáng sinh đến khi Niết- bàn cho đến ngày nay chỉ có trên hai ngàn năm trăm năm
(một tiểu kiếp bằng 16.800.000 năm) như vậy lẽ thật ở chỗ nào ?
4. CHÁNH VĂN :
* Trong chúng Bồ-tát đó có bốn vị Đạo sư: 1.- Thượng Hạnh. 2.- Vô Biên
Hạnh. 3.- Tịnh Hạnh. 4.- An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là bậc thượng thủ
xướng Đạo sư trong chúng đó, ở trước đại chúng, bốn vị đồng chấp tay nhìn đức
Thích-ca Mâu-ni Phật mà hỏi thăm rằng: “Thưa Thế Tôn có được ít bệnh, ít não,
an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ chăng, chẳng làm cho đức
Thế Tôn sanh mỏi nhọc chăng ?”
Khi đó, bốn vị đại Bồ-tát nói kệ rằng:
 Thế Tôn được an vui
 Ít bệnh cùng ít não,
 Giáo hóa các chúng sanh
 Được không mỏi nhọc ư ?
 Lại các hàng chúng sanh
 Thọ hóa có dễ chăng ?
 Chẳng làm cho Thế Tôn
 Sanh nhọc mệt đó ư ? 
GIẢNG :
Trong chúng Bồ-tát có bốn vị lãnh đạo là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh,
Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh. Hạnh có nghĩa là hành. Tại sao bốn vị Bồ-tát này đều
có tên chung là Hạnh ? Đây là phần ngộ Tri kiến Phật, tức là sống được với Tri
kiến Phật. Người mà sống được với Tri kiến Phật, là đã thực hành đầy đủ công
hạnh của bậc Bồ-tát, hoặc là hạnh bậc thượng, hoặc là hạnh vô biên, hoặc là hạnh
thanh tịnh, hoặc là hạnh an lập. Những hạnh đó giúp cho người ngộ được Tri kiến
Phật thoát khỏi phiền não trần lao, cũng như những Bồ-tát từ đất vọt lên giữa hư
không.
5. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong đại chúng Bồ-tát mà nói rằng: “Đúng
thế ! Đúng thế ! Các thiện nam tử ! Đức Như Lai an vui, ít bệnh, ít não, các hàng
chúng sanh hóa độ được dễ, không có nhọc mệt.
Vì sao ? Vì các chúng sanh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được ta dạy
bảo, mà cũng từng ở nơi các đức Phật quá khứ, cung kính, tôn trọng, trồng các cội
lành. Các chúng sanh đó mới vừa thấy thân ta, nghe ta nói pháp, liền đều tin nhận,
vào được trong huệ của Như Lai; trừ người trước đã tu tập học hạnh Tiểu thừa;
những người như thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong huệ của Phật.”
Lúc ấy, các vị đại Bồ-tát nói kệ rằng:
 Hay thay ! Hay thay !
 Đức Đại Hùng Thế Tôn
 Các hàng chúng sanh thảy
 Đều hóa độ được dễ
 Hay hỏi các đức Phật
 Về trí huệ rất sâu
 Nghe pháp rồi tin làm
 Chúng con đều tùy hỉ.
Khi đó, đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ- tát thượng thủ: “Hay thay !
Hay thay ! Thiện nam tử ! Các ông có thể đối với đức Như Lai mà phát lòng tùy
hỉ.”
GIẢNG :
Đức Phật nhận rằng Ngài được cảnh thuận lợi nên giáo hóa dễ dàng cùng
khắp không bỏ sót một ai. Phẩm này nằm trong phần Thị và Ngộ Tri kiến Phật.
Phật chỉ cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật. Song, Tri kiến Phật thì không có
hình tướng, đã không hình tướng làm sao chỉ được ? Vì vậy, mà Phật dùng những
hình ảnh biểu trưng, để người được chỉ nhận ra nơi mình có sẵn Tri kiến Phật. Thế
nên, ở đây mượn hình ảnh chư Bồ-tát từ lòng đất vọt lên. Hình ảnh này nói lên ý
nghĩa gì ? Trong quyển Góp Nhặt Cát Đá của thiền sư Muju, do Đỗ Đình Đồng
dịch có kể câu chuyện tên Giáo Lý Thượng Thừa:
Có một anh chàng mù đi thăm người bạn thân, vì là bạn thân nên khi gặp
nhau nói chuyện quên ngày giờ. Nói mãi tới khuya, anh mù từ giã ra về. Anh bạn
sáng mắt mới đốt cây đèn lồng đưa cho anh mù cầm đi đường. Anh mù cười nói:
- Đối với tôi, đêm như ngày, ngày như đêm, đốt đèn làm gì ? 
Anh bạn sáng mắt giải thích:
- Anh hãy cầm cây đèn, người ta thấy anh, họ tránh, không đụng anh.
Anh bạn mù nghe nói có lý, nên nhận cây đèn lồng cầm đi về. Đi được nửa
đường thì anh bị người đụng, anh la lên:
- Anh không thấy tôi sao ?
Người đi đường nói:
- Thưa, tôi không thấy anh.
Anh mù trách:
- Tôi cầm cây đèn đây mà anh không thấy à?
Người đi đường đáp:
- Thưa bạn, cây đèn bạn đã tắt tự bao giờ !
Câu chuyện rất đơn giản thông thường, sao gọi là Giáo Lý Thượng Thừa ?
Trong nhà Phật, Trí được chia làm hai loại: Trí hữu sư và Trí vô sư. Trí hữu sư là
sự hiểu biết do nghe học ở sách vở, ở các bậc thiện tri thức chỉ dạy, nhờ đó mà
được sáng. Trí vô sư là cái biết có sẵn nơi mình, không do học hỏi ở người hay
sách vở, mà do tu hành, phiền não lóng lặng tâm thanh tịnh, trí tuệ phát sáng, thấy
biết đúng như thật. Trọng tâm kinh Pháp Hoa là khai thị Tri kiến Phật ở nơi mỗi
người, để rồi mỗi người tự ngộ nhập Tri kiến Phật của chính mình. Câu chuyện
Giáo Lý Thượng Thừa nói lên ý nghĩa: Trí vô sư là cái có sẵn nơi mình, khi nó
phát sáng thì thấy biết các pháp đúng như thật không lầm, tránh khỏi mọi tai ách
khốn khổ và đi đúng đích. Nếu trí tuệ chưa sáng dù người khác có muốn giúp cũng
không giúp được, ngay cả Bồ-tát hay Phật cũng không giải cho mình thoát khỏi
ách nạn, sanh tử luân hồi. Thế nên, Trí vô sư là trí thiết yếu, mà mỗi người chúng
ta cần phải phát minh. Người phát minh được Trí vô sư phải là bậc Thượng thừa
mới thực hiện nổi, chớ hạng tầm thường thì không kham được. Xưa ngài Đức Sơn
là người tinh thông Kinh Luật, từng giải kinh Kim Cang, nghe phương Nam Thiền
tông thạnh hành, Sư bất bình nói: “Kẻ xuất gia ngàn muôn kiếp học oai nghi tế
hạnh của Phật mà chẳng được thành Phật. Những kẻ ma ở phương Nam dám nói
trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật. Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt
hết những giống ấy để đền ơn Phật.” Sư bèn khăn gói lên đường mang theo bộ
Thanh Long Sớ Sao. Trên đường đi gặp bà già bán bánh, Sư bèn nghỉ chân bảo bà
lấy ít bánh điểm tâm. Bà chỉ gánh kinh của Sư hỏi:
- Gói ấy là sách vở gì ?
Sư bảo:
- Thanh Long Sớ Sao.
Bà hỏi:
- Thầy thường giảng kinh gì ?
Sư đáp:
- Kinh Kim Cang.
Bà nói:
- Tôi có một câu hỏi, nếu Thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm
tâm. Bằng đáp chẳng được, mời Thầy đi nơi khác.
Sư nhận lời. Bà hỏi: 
- Kinh Kim Cang nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc,
vị lai tâm bất khả đắc.” Xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào ?
Sư không đáp được bèn lên đường đi Long Đàm.
Đến pháp đường gặp Long Đàm, Sư nói:
- Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi, đàm chẳng thấy mà long cũng
không hiện.
Sùng Tín bảo:
- Ngươi đã gần đến Long Đàm.
Sư không đáp được, liền dừng lại đây.
Một đêm Sư đứng hầu, Sùng Tín bảo:
- Đêm đã khuya sao chẳng xuống ?
Sư kính chào bước ra, lại trở vào, thưa:
- Bên ngoài trời tối đen.
Sùng Tín thắp đèn đưa Sư, Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó
Sư đại ngộ, liền lễ bái. Sùng Tín hỏi:
- Ngươi thấy cái gì ?
Sư thưa:
- Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng trong thiên hạ.
Đức Sơn ngộ cái gì ? Sư nói bên ngoài trời tối đen. Câu ấy chỉ trời tối mà
cũng ngụ ý nói con đang mù mịt, không biết làm sao ngộ được bản tánh của mình.
Đức Sơn than tối, Sùng Tín cho đèn, nhưng Đức Sơn vừa cầm đèn thì Sùng Tín
liền thổi tắt. Tại sao ? Vì người tối dù cho có đèn cũng không thấy cũng không
cứu cho được sáng. Khi Sùng Tín thổi tắt đèn, Đức Sơn mới chợt thấy rằng cái
sáng phải tự nơi mình phát ra, chứ không phải từ người khác cho mà được, nên
ngay đó đại ngộ. Chúng ta thấy lý Thiền cùng với lý kinh Đại thừa rất gần nhau.
Câu chuyện sau đây cũng nói lên ý nghĩa này.
Tuyết Phong và Nham Đầu là hai huynh đệ cùng học ở Đức Sơn, Nham
Đầu đã đạt được lý Thiền, Tuyết Phong thì còn băn khoăn. Một hôm hai vị cùng đi
đến Ngao Sơn, gặp trời trở tuyết nên dừng lại, Nham Đầu mỗi ngày cứ ngủ, Tuyết
Phong một bề ngồi thiền. Một hôm Sư gọi:
- Sư huynh, Sư huynh hãy dậy.
Nham Đầu hỏi:
- Làm cái gì ?
Sư nói:
- Đời nay chẳng giải quyết xong, lão Văn Thúy đi hành khước đến nơi chốn,
bị y chê cười, từ ngày đến đây sao chỉ lo ngủ ?
Nham Đầu nạt:
- Ngủ đi ! Mỗi ngày ngồi trên giường giống như thổ địa, ngày sau còn làm
mê hoặc người.
Sư chỉ trong ngực nói:
- Tôi trong ấy còn chưa ổn, không dám tự dối.
- Nếu thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ
chứng minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp. 
- Khi tôi mới đến Diêm Quan, nghe nói nghĩa sắc không liền được chỗ vào.
- Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến.
Lạ chưa, ngộ được lý Sắc Không là quá hay, tại sao kỵ ba mươi năm không
cho nói đến ? - Vì ngộ lý Sắc Không chỉ là cửa không ở ngoài, chưa vào nhà. Nếu
lấy đó cho là đủ thì bệnh.
Tuyết Phong lại nói:
- Tôi nghe bài kệ qua sông của ngài Động Sơn, ngay đó tôi liền tỉnh.
Ngài Động Sơn Lương Giới đang đi trên cầu nhìn xuống thấy bóng mình ở
dưới sông, ngay đó Ngài làm bài kệ diễn đạt cái ngộ của Ngài. Sau này Tuyết
Phong đọc có tỉnh ngộ. Khi thuật lại giai thoại này thì Nham Đầu nói:
- Nếu thế ấy tự cứu cũng chưa xong.
Tuyết Phong lại nói thêm:
- Sau, hỏi Đức Sơn: Việc Tông thừa tự trước con có phần chăng ? Đức Sơn
đánh một gậy hỏi: Nói cái gì ? Tôi khi đó giống như thùng lủng đáy.
Thùng lủng đáy là ngộ suốt rồi. Vậy mà Nham Đầu nạt:
- Ông chẳng nghe nói “từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà” ?
Trí vô sư là cái có sẵn nơi mình, không phải từ cửa vào, dù chúng ta hỏi,
thiện tri thức tạo duyên cho chúng ta ngộ, ngộ đó là cái duyên bên ngoài chưa phải
là của báu trong nhà, nó là của người ta, không phải của mình.
Câu chuyện này cho chúng ta thấy rõ Trí hữu sư là cái biết từ ngoài huân
vào, giống như của báu ở bên ngoài. Còn Trí vô sư là của báu ở trong nhà, chỉ cần
khai thác là phát sáng, giống như hòn ngọc quí để trong tủ, chỉ cần mở tủ ra là có
của báu, không cần tìm kiếm ở đâu xa.
Tuyết Phong mới hỏi:
- Về sau làm thế nào mới phải ?
Nham Đầu đáp:
- Về sau nếu muốn xiển dương đại giáo, mỗi mỗi từ trong hông ngực mình
lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi !
Từ trong hông ngực mình lưu xuất, tức là từ trong cái thân ngũ uẩn này mà
phát ra chớ không phải ở ngoài vào. Qua ba câu chuyện vừa nêu, chúng ta hiểu
được ý nghĩa của phẩm này. Bồ-tát nghĩa là tự giác và giác tha, mà giác là biết là
trí, Bồ-tát ở tha phương là chỉ cho trí tuệ của người khác mà mình huân tập, là của
báu ở bên ngoài, không phải của mình, thì không thể thọ trì kinh Pháp Hoa được
nên Phật không nhận, mà chỉ nhận những vị Bồ-tát từ lòng đất vọt lên. Đấy là hình
ảnh biểu trưng Trí vô sư tự nơi thân ngũ uẩn phát ra, chính là của mình, nó không
sanh không diệt, mới có thể duy trì truyền bá kinh Pháp Hoa, tức là thể nhập Trí
tuệ Phật.
Trở về nguồn, giai đoạn đầu thái tử Sĩ-đạt-ta xuất gia học đạo với Alàràma
Kàlàma, tu chứng từ Sơ thiền đến Vô sở hữu xứ định. Qua Uddaka Ràmaputta, tu
chứng được Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Tuy đã chứng được tám bậc thiền
định ấy mà Ngài chưa thỏa mãn. Tại sao ? Vì mục đích Ngài xuất gia là tìm ra
manh mối của luân hồi sanh tử, mà con người ai cũng chấp nhận nó như một lẽ
đương nhiên, không hề có ý muốn thoát ra cái vòng luẩn quẩn đó. Chí nguyện 
chưa đạt được, nên Ngài tới cội cây bồ-đề xếp chân ngồi, phát nguyện: “Nếu
không thấy được chân lý, dù cho tan thân mất mạng cũng không đứng dậy.” Thế là
suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền quán, Ngài chứng ngộ thấy rõ manh mối của
luân hồi sanh tử, và biết cách thoát ly ra khỏi sanh tử. Nên nói Ngài thành Phật.
Như vậy, Phật thấy biết manh mối luân hồi sanh tử, ai dạy Ngài ? Rõ ràng Trí vô
sư có sẵn nơi Ngài hiển hiện tròn sáng, Ngài thấy biết tất cả. Nên Ngài tuyên bố
Ngài học đạo không có thầy. Nếu Ngài thỏa mãn với tám tầng thiền của Alàràma
Kàlàma và Uddaka Ràmaputta thì Ngài học đạo có thầy. Nhưng điều Ngài muốn
khám phá thì không ai chỉ dạy, mà do chính Ngài tu thiền định, tâm thanh tịnh trí
tuệ sáng ra, thông suốt các pháp không còn nghi ngờ. Đó là Trí Vô sư không sanh
không diệt hiển hiện nơi Ngài, nêân Ngài thoát khỏi luân hồi sanh tử. Còn Trí hữu
sư do huân tập từ bên ngoài mà được, do huân tập nên động, do động nên sinh diệt,
còn sinh diệt nên chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Vậy, thọ trì kinh Pháp Hoa là thọ trì Tri kiến Phật, để được thành Phật.
Điều này nói ra thì khó tin, kỳ thật rõ ràng là vậy, vì chính bản thân tôi đã nghiệm
thấy điều này. Xưa, tôi làm Tri tạng ở Ấn Quang nên đọc hết Đại tạng, đọc tới
kinh Đại thừa và ngữ lục của thiền sư, tôi không hiểu gì cả, thầm tự nói rằng mình
không có phần với Đại thừa với Thiền tông. Nhưng qua một thời gian tu, tâm được
yên, một hôm bất chợt đọc qua những câu kinh luận mà ngày xưa không hiểu nay
hiểu dễ dàng. Từ đó tôi đem Đại tạng, ngữ lục của thiền sư ra đọc, đọc tới đâu hiểu
tới đó, hiểu rõ như ban ngày. Vậy lúc đó tôi học với ai ? Rõ ràng chính khi tâm an
định thì trí tuệ phát sáng, đó là Trí vô sư có sẵn ở mỗi người. Tuy nhiên, chỉ lóe
sáng chút thôi, vì sức định của tôi chưa sâu, nếu định sâu thì hoàn toàn sáng như
Phật. Trí vô sư ai ai cũng có, chỉ vì vô minh phiền não phủ che nên không sáng.
Phá được vô minh thì ngay nơi mỗi người trí tuệ hiện sáng. Vì vậy mà nói Thượng
thừa hay Phật thừa, cốt làm sao cho trí tuệ từ nơi mình phát sáng, chớ không phải
huân tập sự hiểu biết từ bên ngoài vào, đó là điều thiết yếu của người tu.
Có nhiều vị tu sĩ học giỏi, nhớ kinh điển nhiều, nói pháp hay, nhưng không
bao lâu cởi áo hoàn tục lập gia đình, lắm người thắc mắc: Thầy đó thông minh, rất
thông hiểu Phật pháp, nhưng tại sao bỏ tu cởi áo hoàn tục ? Điều này không có gì
lạ, sự hiểu biết mà vị sư ấy có là do huân tập của người, nó là cái động luôn luôn
sinh diệt. Cái vay mượn của người không phải của báu trong nhà, nên không thể
cứu được mình. Khi nào Trí vô sư phát sáng thì mới cứu được mình. Vì vậy nên ở
đây các vị Bồ-tát đều có tên là Hạnh tức là phải thực hành, thì Trí vô sư mới hiện.
Ở đây cái không thể chỉ được, mà Phật đã khéo dùng hình ảnh biểu trưng,
để cho chúng ta nhân hình ảnh đó mà nhận ra cái Phật muốn chỉ. Cũng vậy, trong
nhà Thiền, các thiền sư cũng áp dụng thuật này, nhờ tu thiền mà chúng ta sáng
được lý kinh. Thế nên, ngài Khuê Phong nói “nhân tu thiền mà sáng được kinh,
nhờ học kinh mà rõ được thiền”, thiền giáo hỗ tương nhau. Vậy kinh Pháp Hoa có
dạy tu thiền không ? Rõ ràng nhắm thẳng Trí vô sư có sẵn nơi mỗi người, mà khai
thác bằng phương tiện tu thiền định, để cho sáng tỏ. Tuy nhiên, đối với người chưa
phát minh được Trí vô sư thì phải học. Đầu tiên phải nhờ thầy hướng dẫn phương 
pháp ban đầu, trước tạm dùng Trí hữu sư, rồi sau đó mới ứng dụng tới chỗ tột đỉnh;
cái tột đỉnh đó là của mình không phải là cái của thầy dạy.
6. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, ngài Di-lặc đại Bồ-tát cùng tám nghìn Hằng hà sa các chúng Bồ-
tát đều nghĩ rằng: “Chúng ta từ xưa nhẫn lại, chẳng thấy, chẳng nghe các chúng
đại Bồ-tát như thế, từ dưới đất vọt lên, đứng trước đức Thế Tôn, chấp tay cúng
dường thăm hỏi Như Lai.”
Lúc đó, ngài Di-lặc Bồ-tát biết tâm niệm của tám nghìn Hằng hà sa chúng
Bồ-tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chấp tay hướng về phía
Phật, nói kệ hỏi rằng:
 Vô lượng nghìn muôn ức
 Các Bồ-tát đại chúng
 Từ xưa chưa từng thấy
 Nguyện đấng Lưỡng Túc nói
 Là từ chốn nào đến
 Do nhân duyên gì nhóm
 Thân lớn đại thần thông
 Trí huệ chẳng nghĩ bàn
 Chí niệm kia bền vững
 Có sức nhẫn nhục lớn
 Chúng sanh chỗ ưa thấy
 Là từ chốn nào đến ?
 Mỗi mỗi hàng Bồ-tát
 Đem theo các quyến thuộc
 Số đông không thể lường
 Như số Hằng hà sa
 Hoặc có đại Bồ-tát
 Đem sáu muôn Hằng sa
 Các đại chúng như thế
 Một lòng cầu Phật đạo.
 Những Đại sư đó thảy
 Sáu muôn Hằng hà sa
 Đều đến cúng dường Phật
 Cùng hộ trì kinh này.
 Đem năm muôn Hằng sa
 Số này hơn số trên
 Bốn muôn và ba muôn
 Hai muôn đến một muôn
 Một nghìn một trăm thảy,
 Nhẫn đến một Hằng sa,
 Nửa và ba bốn phần
 Một phần trong ức muôn
 Nghìn muôn na-do-tha, 
 Muôn ức các đệ tử
 Nhẫn đến đem nửa ức
 Số đông lại hơn trên.
 Trăm muôn đến một muôn
 Một nghìn và một trăm
 Năm mươi cùng một mươi
 Nhẫn đến ba, hai, một
 Riêng mình không quyến thuộc
 Ưa thích ở riêng vắng
 Đều đi đến chỗ Phật
 Số đây càng hơn trên.
 Các đại chúng như thế
 Nếu người phát thẻ đếm
 Quá nơi kiếp Hằng sa
 Còn chẳng thể biết hết.
 Các vị oai đức lớn
 Chúng Bồ-tát tinh tấn
 Ai vì đó nói pháp
 Giáo hóa cho thành tựu
 Từ ai, đầu phát tâm ?
 Xưng dương Phật pháp nào ?
 Thọ trì tu kinh gì ?
 Tu tập Phật đạo nào ?
 Các Bồ-tát như thế
 Thần thông sức trí lớn
 Đất bốn phương rúng nứt
 Đều từ đất vọt lên
 Thế Tôn ! Con từ xưa
 Chưa từng thấy việc đó
 Xin Phật nói danh hiệu,
 Cõi nước của kia ở.
 Con thường qua các nước
 Chưa từng thấy chúng này
 Con ở trong chúng đây
 Bèn chẳng biết một người
 Thoạt vậy từ đất lên
 Mong nói nhân duyên đó.
 Nay trong đại hội này
 Vô lượng trăm nghìn ức
 Các chúng Bồ-tát đây
 Đều muốn biết việc này
 Hàng Bồ-tát chúng kia
 Gốc ngọn nhân duyên đó 
 Thế Tôn đức vô lượng
 Cúi mong quyết lòng nghi.
GIẢNG :
Khi thấy vô số Bồ-tát từ đất vọt lên hư không, đứng trước đức Thế Tôn
chấp tay cúng dường thăm hỏi Như Lai, thì Bồ-tát Di-lặc và tám ngàn Bồ-tát ở
phương khác khởi nghi, nên thưa thỉnh Phật giải nghi. Như trước đã nói, Di-lặc
Bồ-tát biểu trưng cho thức, và tám ngàn vị Bồ-tát ở phương khác biểu trưng cho
cái biết phân biệt của tám thức ở bên ngoài. Vì là thức nên không thể nhận ra Tri
kiến Phật. Nên mới nghi và thưa hỏi Phật. Tại sao thức cũng gọi là Bồ-tát ? Vì
thức nào cũng có tri giác, song vì còn phân biệt cho nên gọi là thức. Nếu hết niệm
phân biệt, chỉ còn tri giác thanh tịnh thì gọi là trí, đã là trí thì không nghi ngờ
không thưa hỏi.
7. CHÁNH VĂN :
* Khi ấy, các vị Phật của đức Thích-ca Mâu-ni phân thân, từ vô lượng
nghìn muôn ức cõi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng trên tòa sư tử, dưới
các cội cây báu nơi trong tám phương. Hàng thị giả của Phật đó, đều thấy đại
chúng Bồ-tát ở bốn phương cõi tam thiên đại thiên, từ đất vọt lên trụ trên hư
không, đều bạch với Phật mình rằng: “Thế Tôn ! Các đại chúng vô lượng vô biên
a-tăng-kỳ Bồ-tát đó, từ chốn nào mà đến ?”
Lúc ấy các đức Phật đều bảo thị giả: “Các thiện nam tử ! Hãy chờ giây lát,
hiện có vị đại Bồ-tát tên là Di-lặc, là vị mà đức Thích-ca Mâu-ni Phật thọ ký kế
đây sẽ làm Phật đã hỏi việc đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương, nhân đây mà
được nghe.”
GIẢNG :
Tôi lặp lại, Di-lặc biểu trưng cho thức, vì là thức phân biệt nên không hiểu
được Tri kiến Phật. Và Phật hóa thân, Bồ-tát hóa thân thì không thật, bởi không
thật nên không biết được Tri kiến Phật nên mới nghi và thưa hỏi. Trí vô sư biểu
trưng qua hình ảnh Bồ-tát, không hạn cuộc bởi thời gian và không gian, nói lâu
mau hay nói nhỏ lớn đều không khác. Vì vậy mà ở đây nói các vị Bồ-tát vọt lên hư
không đông vô số đầy khắp mười phương, tán thán Phật lâu khoảng năm mươi tiểu
kiếp... đó là để nói Trí vô sư không hình tướng, không bị vô thường sinh diệt chi
phối, nên hóa thân Phật, hóa thân Bồ-tát không thể hiểu tới.
8. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo ngài Di-lặc Bồ-tát: “Hay thay !
Hay thay ! A-dật-đa, bèn có thể hỏi Phật việc lớn như thế, các ông phải chung một
lòng, mặc giáp tinh tấn, phát ý bền vững. Nay đức Như Lai muốn hiển phát tuyên
bày trí huệ của các đức Phật, sức thần thông tự tại của các đức Phật, sức sư tử
mạnh nhanh của các đức Phật, sức oai thế mạnh lớn của các đức Phật.”
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 Phải một lòng tinh tấn
 Ta muốn nói việc này
 Chớ nên có nghi hối
 Trí Phật chẳng nghĩ bàn 
 Ông nay gắng sức tin
 Trụ nơi trong nhẫn thiện
 Chỗ pháp xưa chưa nghe
 Nay đều sẽ được nghe
 Nay ta an ủi ông
 Chớ ôm lòng nghi sợ
 Phật không lời chẳng thiệt
 Trí huệ chẳng nghĩ bàn
 Phật được pháp bậc nhứt
 Rất sâu khó phân biệt
 Như thế nay sẽ nói
 Các ông một lòng nghe.
GIẢNG :
Phật nói Bồ-tát Di-lặc nghi ngờ muốn hiểu, đó là điều đáng khen. Nhưng
nếu muốn biết việc đó trước phải tinh tấn, phải phát ý bền vững mới có thể nghe
hiểu được. Vì Như Lai muốn hiển phát tuyên bày trí tuệ, sức thần thông tự tại, sức
sư tử mạnh nhanh, sức oai thế mạnh lớn của Phật. Việc này của Phật chỉ có Trí vô
sư khi đã sạch vô minh phiền não mới có thể hiểu tới.
9. CHÁNH VĂN :
* Khi đức Thế Tôn nói kệ đó, bảo ngài Di-lặc Bồ-tát: “Nay ta ở trong đại
chúng này, tuyên bảo các ông. A-dật-đa ! Các hàng đại Bồ-tát vô lượng vô số atăng-kỳ,
từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cõi Tabà
lúc được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ-tát đó,
điều phục tâm kia khiến phát đạo tâm.
Các vị Bồ-tát đó, ở phía dưới cõi Ta-bà, cõi đó trụ giữa hư không, ở trong
các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy gẫm rõ hiểu, nghĩ tưởng chân chánh. A-dật-
đa ! Các thiện nam tử đó chẳng thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ưa chỗ
vắng, siêng tu tinh tấn, chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người trời mà ở,
thường ham trí huệ sâu, không có chướng ngại, cũng thường ham nơi pháp của
đức Phật, chuyên lòng tinh tấn, cầu huệ Vô thượng.”
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 A-dật ông nên biết !
 Các Bồ-tát lớn này
 Từ vô số kiếp lại
 Tu tập trí huệ Phật,
 Đều là ta hóa độ
 Khiến phát đại đạo tâm.
 Chúng đó là con ta
 Y chỉ thế giới này
 Thường tu hạnh đầu-đà
 Chí thích ở chỗ vắng
 Bỏ đại chúng ồn náo
 Chẳng ưa nói bàn nhiều, 
 Các vị đó như thế
 Học tập đạo pháp ta
 Ngày đêm thường tinh tấn
 Vì để cầu Phật đạo
 Ở phương dưới Ta-bà
 Trụ giữa khoảng hư không
 Sức chí niệm bền vững
 Thường siêng cầu trí huệ
 Nói các món pháp mầu
 Tâm kia không sợ sệt.
 Ta ở thành Già-da
 Ngồi dưới cội bồ-đề
 Thành bậc tối Chánh giác
 Chuyển pháp luân Vô thượng
 Rồi mới giáo hóa đó
 Khiến đầu phát đạo tâm
 Nay đều trụ bất thoái
 Đều sẽ được thành Phật.
 Nay ta nói lời thiệt
 Các ông một lòng tin
 Ta từ lâu xa lại
 Giáo hóa các chúng đó.
GIẢNG :
Ở đây diễn tả các vị Bồ-tát ở phía dưới cõi Ta-bà trụ giữa hư không, đọc
tụng thông lẹ, suy gẫm rõ hiểu, nghĩ tưởng chân chánh, không thích ở trong chúng
nói bàn nhiều, ưa chỗ thanh vắng... Rõ ràng là chỉ tâm hạnh của người tu, Trí vô
sư có sẵn nơi mỗi người, nó không có tướng mạo, không có dấu vết, khi vô minh
phiền não dấy khởi thì có tướng mạo có vết tích, khi vô minh phiền não lặng
xuống và hết sạch thì Trí vô sư sáng ra mà không hình tướng không dấu vết. Vì
vậy nên nói ở giữa hư không dưới cõi Ta-bà. Đó là biểu trưng Trí vô sư ẩn dưới
lớp vô minh phiền não; nó không hình tướng mà không phải không. Và muốn cho
Trí vô sư phát sáng thì phải phá vô minh phiền não, vô minh phiền não mà được
dứt trừ là phải nhờ an định. Nên nói không ưa chỗ chúng đông nói bàn nhiều, thích
ở chỗ thanh vắng, và siêng năng tinh tấn chưa từng thôi dứt. Không nương tựa ở
trời người, chỉ mong cầu trí tuệ Vô thượng tức là trí tuệ Phật. Đó là diễn tả tâm
hạnh của Bồ-tát.
Muốn được trí tuệ Phật là phải thiền định để phá dẹp vô minh phiền não và
hằng sống với trí tuệ Phật của chính mình.
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín, ngài Mã Minh trình bày về phần tịnh huân
giống như trên. Nghĩa là do pháp thân thanh tịnh làm gốc, tịnh huân dần dần cho
đến khi viên mãn thì phá sạch vô minh phiền não, liền phát ra vô số diệu dụng. Đó
là hình ảnh đức Phật giáo hóa vô số Bồ-tát từ dưới đất vọt lên giữa hư không. Các 
vị Bồ-tát là chỉ cho cái tịnh huân đã viên mãn, thì lúc đó diệu dụng của trí tuệ
không thể nghĩ bàn.
10. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Di-lặc đại Bồ-tát cùng vô số chúng Bồ-tát, lòng sanh
nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng: “Thế nào đức Thế Tôn ở trong
thời gian rất ngắn mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các đại Bồ-tát đó,
làm cho trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Liền bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Đức Như Lai lúc làm thái tử rời khỏi cung
dòng Thích, ngồi nơi đạo tràng cách thành Già-da chẳng bao xa, được thành Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm, đức Thế
Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó làm nên Phật sự lớn ! Do thế lực của Phật,
do công đức của Phật, giáo hóa vô lượng chúng Bồ-tát lớn, như thế sẽ thành Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thế Tôn ! Chúng đại Bồ-tát này giả sử có người trong nghìn muôn ức kiếp
đếm không thể hết, chẳng được ngằn mé, chúng đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô lượng
vô biên các đức Phật, trồng các cội lành, thành tựu đạo Bồ-tát, thường tu phạm
hạnh.
Thế Tôn ! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người sắc đẹp, tóc đen
tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con của ta. Người trăm tuổi nọ
cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ nuôi ta thảy, việc đó khó tin. Đức Phật cũng
như thế. Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu, mà các đại chúng
Bồ-tát đó, đã ở nơi vô lượng nghìn muôn ức kiếp, vì Phật đạo nên siêng tu tinh tấn,
khéo nhập xuất trụ nơi vô lượng nghìn muôn ức tam-muội, được thần thông lớn, tu
hạnh thanh tịnh đã lâu, khéo hay thứ đệ tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp, là báu
quí trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.
Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc được Phật đạo, bắt đầu khiến kia phát
tâm, giáo hóa chỉ dạy dìu dắt, làm cho kia hướng về Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu mà có thể làm được việc công
đức lớn này.
Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng
hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, nhưng các Bồ-tát mới phát tâm, sau
khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này hoặc chẳng tin nhận, sanh nhân duyên tội
nghiệp phá chánh pháp.
Kính thưa Thế Tôn ! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi của chúng con
và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng chẳng sanh nghi.”
Lúc đó, ngài Di-lặc muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 Phật xưa từ dòng Thích
 Xuất gia gần Già-da
 Ngồi dưới cây bồ-đề
 Đến nay còn chưa xa.
 Các hàng Phật tử này
 Số đông không thể lường
 Lâu đã tu Phật đạo 
 Trụ nơi sức thần thông
 Khéo học đạo Bồ-tát
 Chẳng nhiễm pháp thế gian
 Như hoa sen trong nước
 Từ đất mà vọt ra
 Đều sanh lòng cung kính
 Đứng nơi trước Thế Tôn,
 Việc đó khó nghĩ bàn
 Thế nào mà tin được
 Phật được đạo rất gần
 Chỗ thành tựu rất nhiều
 Mong vì trừ lòng nghi
 Như thiệt phân biệt nói
 Thí như người trẻ mạnh
 Tuổi mới hai mươi lăm
 Chỉ người trăm tuổi già
 Tóc bạc và mặt nhăn:
 Bọn này của ta sanh
 Con cũng nói là cha
 Cha trẻ mà con già
 Mọi người đều chẳng tin.
 Thế Tôn cũng như thế
 Được đạo đến nay gần
 Các chúng Bồ-tát này
 Chí vững không khiếp nhược
 Từ vô lượng kiếp lại
 Mà tu đạo Bồ-tát.
 Giỏi nơi gạn hỏi đáp
 Tâm kia không sợ sệt
 Nhẫn nhục lòng quyết định
 Đoan chánh có oai đức
 Mười phương Phật khen ngợi
 Khéo hay phân biệt nói
 Chẳng thích ở trong chúng
 Thường ưa ở thiền định,
 Vì cầu Phật đạo vậy
 Trụ hư không phương dưới.
 Chúng con từ Phật nghe
 Nơi việc này không nghi
 Nguyện Phật vì người sau
 Diễn nói khiến rõ hiểu,
 Nếu người ở kinh này
 Sanh nghi lòng chẳng tin 
 Liền phải đọa đường dữ
 Mong nay vì giải nói:
 Vô lượng Bồ-tát đó
 Thế nào thời gian ngắn
 Giáo hóa khiến phát tâm
 Mà trụ bậc bất thoái ?
GIẢNG :
Bồ Tát Di-lặc nghi: Từ khi Phật Thích-ca thành đạo đến giờ, Ngài giáo hóa
khoảng hơn bốn mươi năm, thời gian quá ngắn sao Ngài giáo hóa vô số Bồ-tát đã
tu nhiều kiếp và làm cho các Bồ-tát thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ?
Đây là điều không thể tin. Ngài nêu lên một ví dụ người thanh niên hai mươi lăm
tuổi chỉ ông già một trặm tuổi nói: đây là con của ta, và ông già một trăm tuổi
nhận thanh niên hai mươi lăm tuổi là cha mình. Điều này căn cứ vào đâu mà tin
được ? Từ lâu chúng ta quen nhìn và xét đoán sự việc qua hình tướng của tứ đại
giả hợp, chớ không khéo nhìn đúng lẽ thật. Ngay nơi thân năm uẩn của Phật
Thích-ca, cũng như thân năm uẩn của mỗi người chúng ta là do duyên hợp tạm có.
Nhưng ngay nơi thân tạm bợ đó có sẵn Trí vô sư không sanh không diệt, mà ít ai
biết rằng mình có. Chúng ta tu tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não thì Trí vô
sư hiển lộ. Nên nói các vị Bồ-tát do Phật giáo hóa mà được. Vì Trí vô sư đã có sẵn
từ thuở nào, nên nói già lâu. Nếu căn cứ nơi thân tứ đại Phật Thích-ca tám mươi
năm thị tịch với Trí vô sư thì hai cái khác xa. Vì vậy mà không thể tin được, bởi
không tin được nên mới nêu ví dụ cha trẻ con già để phủ nhận. Tuy nhiên, điều
này không có gì lạ. Nếu căn cứ trên giới thân tuệ mạng, thì có nhiều người tuy
thân già mà mới tu, giới đức trí tuệ còn non kém, phải theo làm đệ tử với một vài
vị tu sĩ thân còn trẻ mà đức trí khá sâu dày và gọi bằng Thầy xưng bằng con. Đó là
dựa trên trí đức mà đối xử.
Để thấy rõ câu chuyện này cốt làm sáng tỏ Bồ-tát từ đâu mà ra, tại sao mà
có ? Ở đây Phật trả lời do Ngài giáo hóa, tức là phải đoạn tận vô minh phiền não
thì Trí vô sư hiển hiện. Câu hỏi của Bồ-tát Di-lặc được Phật trả lời ở phẩm sau.
Thường trụ đây nói pháp.
Ta thường ở nơi đây
D
PHẨM 16: NHƯ LAI THỌ LƯỢNG
Như ở trước đã nói Trí vô sư không lệ thuộc thời gian, không giới hạn trong
không gian. Tuy Phật nói tất cả hội chúng đều nghe, nhưng chưa hiểu hết, nên giờ
đây Phật mới nói tuổi thọ của Phật không thể tính kể. Tuổi thọ của Phật đây không
phải tuổi thọ của Phật Thích-ca tám mươi tuổi thị tịch, mà là tuổi thọ của Phật
pháp thân.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại chúng: “Các thiện nam tử !
Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai.”
Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như
Lai.”
Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như
Lai.”
Lúc đó, đại chúng Bồ-tát, ngài Di-lặc làm đầu, chấp tay bạch Phật rằng:
“Thế Tôn ! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật.” Ba phen bạch như
thế rồi lại nói: “Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”
GIẢNG :
Tại sao Phật bảo tới ba lần là phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai ?
Vì điều Phật nói là một lẽ thực, nhưng lẽ thực quá tầm tin hiểu của con người. Nên
Phật lặp lại nhiều lần để cho mọi người chú ý lắng nghe.
Ba lần Phật bảo phải tin hiểu lời Phật nói. Đáp lại ba lần các vị Bồ-tát hứa
sẽ tin lời Phật. Sau Phật mới nói.
2. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo
đó rằng: “Các ông lóng nghe ! Sức bí mật thần thông của Như Lai, tất cả trong đời,
trời, người và a-tu-la đều cho rằng nay đức Thích-ca Mâu-ni Phật ra khỏi cung họ
Thích, cách thành Già-da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo tràng, được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Nhưng, thiện nam tử ! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô lượng vô biên
trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha atăng-kỳ
cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương
Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một
bụi trần, đi qua phía Đông như thế cho đến hết vi trần đó.
Các thiện nam tử ! Ý ông nghĩ sao ? Các thế giới đó có thể suy gẫm so tính
biết được số đó chăng ?”
Di Lặc Bồ-tát thảy, đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Các thế giới đó vô
lượng vô biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực biết đến
được. Tất cả Thanh văn, Duyên giác dùng trí vô lậu, chẳng có thể suy nghĩ biết
được hạng số đó. Chúng con trụ bậc bất thoái, ở trong việc này cũng chẳng thông
đạt. 
Thế Tôn ! Các thế giới như thế, nhiều vô lượng vô biên.”
GIẢNG :
Đại đa số người nghĩ rằng: Phật thành Phật, theo sử ghi thái tử Sĩ-đạt-ta từ
cung vua Tịnh Phạn xuất gia tu hành thành Phật dưới cội bồ-đề. Chớ không ai tin
rằng Phật thành Phật từ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp rồi. Phật Thích-ca thành
đạo dưới cội bồ-đề là căn cứ trên sự tướng tu hành. Vì mọi người quên Trí vô sư
sẵn có nơi mình, bây giờ nhờ tu, phá sạch vô minh phiền não, Trí vô sư hiển hiện
gọi là thành Phật. Vì vậy mà nói tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. Nếu căn cứ
trên thể tánh, thì Trí vô sư đã sẵn có nơi mỗi người từ bao giờ, không hạn cuộc bởi
thời gian. Vì vậy mà nói tất cả chúng sanh đều đã thành Phật. Với tâm phàm phu,
chúng ta nghe nói tất cả chúng sanh ai cũng sẽ thành Phật, thì chấp nhận và hy
vọng, cố gắng tu để sau này thành Phật. Còn nói tất cả chúng sanh đã thành Phật
thì nghi vấn: Mọi người ai cũng còn phàm phu, tham sân si dẫy đầy, đụng chạm
gây phiền não cho nhau không ít, mà nói đã thành Phật, làm sao tin ? Bây giờ tôi
ví dụ như mặt trăng đã có sẵn từ bao giờ. Nếu người ở trong vòng quay của quả
đất thì thấy mặt trăng khi mọc khi lặn, khi khuyết khi tròn, khi có khi không. Nếu
người ra khỏi vòng quay của quả đất thì thấy mặt trăng là mặt trăng, không còn có
hiện tượng trăng mọc, trăng lặn, trăng tròn, trăng khuyết... Cũng vậy, Trí vô sư có
sẵn từ thuở nào không tối không sáng. Nhưng vì vô minh phiền não phủ che,
người lúc mê lúc giác nên thấy có tối có sáng. Khi hết vô minh phiền não, Trí vô
sư hằng hiển hiện, thì không còn nói tối nói sáng nữa.
3. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, Phật bảo các chúng đại Bồ-tát: “Các thiện nam tử ! Nay ta sẽ
tuyên nói rành rõ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính,
đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến
nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn
lại, ta thường ở cõi Ta-bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức
na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng sanh.
Các thiện nam tử ! Nơi chặng giữa đó ta nói Phật Nhiên Đăng v.v... và lại
có các đức Phật nhập Niết-bàn, như thế đều là dùng phương tiện để phân biệt.
Các thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn
quan sát: tín, v.v... các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói
văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn,
lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho chúng sanh phát lòng
vui mừng.
Các thiện nam tử ! Như Lai thấy những chúng sanh ưa nói pháp Tiểu thừa,
đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, nhưng thiệt, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy,
chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế.
GIẢNG :
Trên Phật dùng ví dụ: Nghiền nát trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ
cõi tam thiên đại thiên thành vi trần, cứ một vi trần tính là một kiếp. Phật nói từ
khi Phật thành đạo tới nay lâu hơn số kiếp tính bằng vi trần nghiền nát, và Phật ở
cõi Ta-bà cùng các cõi nước khác giáo hóa làm lợi ích chúng sanh cũng lâu như
thế. Vậy tuổi thọ của Phật là bao nhiêu ? Không thể nghĩ bàn tính đếm được. Thời
gian là ý niệm của con người căn cứ trên hình tướng; quả đất quay một vòng
quanh nó, phía hướng ra mặt trời có ánh sáng gọi là ngày, phía không có ánh sáng
gọi là đêm, một lần sáng một lần tối qui định là một ngày đêm. Quả đất quay
quanh mặt trời tính là một năm... Nếu định tinh lớn thì vòng quay lâu, mà vòng
quay lâu thì ngày tháng năm cũng lâu. Như vậy thời gian không có cố định, tùy
theo sự vận hành của vũ trụ mà thấy dài ngắn khác nhau. Thế nên, cái gì vượt
ngoài sự vận hành của vũ trụ, thì không có hạn định thời gian. Cũng vậy, Trí vô sư
không hình tướng, không sinh diệt, không lệ thuộc sự vận hành của vũ trụ, vì vậy
không có hạn định thời gian. Nên nói tuổi thọ của Phật dài lâu nhiều hơn số vi trần
của vô số thế giới được nghiền nát ra.
Mọi người ai cũng có Trí vô sư với tuổi thọ lâu dài không thể tính đếm, mà
chúng ta lại không biết quên đi, chỉ biết sống với thân tứ đại tạm bợ tuổi thọ cao
lắm chừng tám chín chục năm, nên rồi buồn than khóc lóc bởi mạng sống quá
ngắn ngủi. Nếu chúng ta khéo nhận và sống với Tri kiến Phật tuổi thọ không thể
tính đếm thì cười hoài, vì không thấy mình già, không thấy mình chết, lúc nào nó
cũng như vậy thôi. Nhưng vì chúng ta chưa biết sống với Tri kiến Phật của mình,
nên phẩm này Phật mới nói thọ lượng của Như Lai, để cho mọi người thấy: Nếu
nhập được Tri kiến Phật, thì chúng ta sống không có hạn lượng tuổi tác thời gian
là bao nhiêu năm. Nó lại trùm khắp cả không gian, nên đối với thân tứ đại này,
thấy nó như hạt cát giữa sa mạc, sự chết sống không có nghĩa lý gì. Chừng đó mới
chợt thấy rằng ngay nơi thân tứ đại nhỏ bé sanh diệt này, có một cái không hạn
lượng không sanh không diệt.
Sở dĩ nói Phật là vua thầy thuốc, vì nếu có một thầy thuốc trị lành bệnh và
kéo dài tuổi thọ cho một bệnh nhân hấp hối từ tám mươi tuổi tới chín mươi tuổi,
thì thầy thuốc đó coi như đại tài. Nhưng đức Phật dạy cho chúng ta tu để thể nhập
Tri kiến Phật, tuổi thọ không thể tính đếm được, như vậy Ngài không phải vua
thầy thuốc là gì ? Điều này không thể dùng thức mà hiểu, nên không thể tin, chỉ tu
và thể nhập mới có thể tin lời Phật nói: “Nơi chặng giữa đó ta nói có Phật Nhiên
Đăng v.v... Và lại có đức Phật nhập Niết-bàn...” đó là đứng trên hình tướng của
thân tứ đại mà nói, nên thấy có gần có xa khác nhau, nếu căn cứ trên pháp thân thì
Phật không có sanh không có diệt. Tùy theo trình độ, người ưa những cái nhỏ thì
Phật nói chuyện gần như: Phật xuất gia, tu thành Phật rồi ra giáo hóa. Vậy các ông
hãy rán tu cho hết vô minh phiền não rồi cũng thành Phật như Ngài. Đối với người
căn cơ cao thì nói: Các ông cũng như ta đều có sẵn Phật tánh từ vô lượng kiếp, nếu
hằng sống với Phật tánh thì thành Phật. Đó là sống được với kinh Pháp Hoa.
Đại sư Trí Khải tụng kinh Pháp Hoa, Ngài tụng luôn hai mươi mốt ngày,
một hôm tụng tới phẩm Dược Vương Bồ-tát thì Ngài nhập Pháp Hoa tam-muội,
Ngài thấy Phật đang thuyết pháp cho hội chúng nghe ở hội Linh Sơn trên núi Kỳ-
xà-quật. Tôi có một lần qua Ấn Độ đến đó mà không thấy Phật và chúng tăng, chỉ
thấy còn một nền thất trên một hòn đá thôi. Như vậy qua Ấn Độ tìm Phật hay nhập
chánh định để tìm Phật ? Tâm an định thì thấy được Phật sống dài lâu vô lượng vô 
biên kiếp, còn đang nói pháp vang như sấm cả bầu trời. Nếu tâm còn loạn động dù
qua đến Ấn Độ, chỉ thấy cảnh hoang tàn đổ nát chớ không thấy Phật đâu nữa ! Nếu
nhận được lý này mới thấy lý kinh cao siêu, bằng không chỉ thấy kinh nói cái gì
huyền hoặc. Như vậy nói Phật đản sanh, Phật Niết-bàn là dùng phương tiện mà nói,
chớ mỗi đức Phật đều thể nhập Pháp thân thì không có sanh không có diệt.
4. CHÁNH VĂN :
* Các thiện nam tử ! Kinh điển của đức Như Lai nói ra, đều vì độ thoát
chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ
thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người. Các lời nói ấy đều thiệt
chẳng dối.
Vì sao ? Vì đức Như Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, không
có sanh tử, hoặc thoái, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật,
chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi
ba cõi. Các việc như thế Như Lai thấy rõ, không có sai lầm.
Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các món hạnh, các món
nhớ tưởng phân biệt muốn làm cho sanh các căn lành, nên dùng bao nhiêu nhân
duyên, thí dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ. Như
thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp,
thường còn chẳng mất.
Các thiện nam tử ! Ta xưa tu hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ mạng, nay vẫn
chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ, mà bèn xướng
nói sẽ diệt độ. Đức Như Lai dùng phương tiện đó, giáo hóa chúng sanh.
Vì sao ? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng cội
lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng
kiến. Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông lung
nhàm trễ, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gỡ cùng lòng cung kính, cho nên
đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: “Tỳ-kheo phải biết, các đức Phật ra đời
khó có thể gặp gỡ.”
Vì sao ? - Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc
có người thấy Phật, hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: “Tỳ-
kheo ! Đức Như Lai khó có thể được thấy.”
Các chúng sanh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó gặp gỡ, ôm
lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành, cho nên đức Như Lai dầu
chẳng diệt mà nói diệt độ.
Lại thiện nam tử ! Phương pháp của các đức Như Lai đều như thế, vì độ
chúng sanh đều thiệt chẳng dối.
GIẢNG :
Ở đây đức Phật chỉ rõ rằng: Phật nói pháp, có khi vì độ chúng sanh mà căn
cứ vào thân tứ đại của mình, hoặc căn cứ trên thân người khác, hoặc chỉ việc của
mình, hoặc chỉ việc của người, mà phương tiện chỉ bày cho người thấy được lẽ
thật. Chỗ thấy của Phật là tướng của tam giới không có sanh tử, hoặc thoái hoặc
xuất, cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật chẳng phải hư, chẳng phải như
chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Tại sao thấy tam giới 
không có sanh tử ? Vì các pháp hữu vi do duyên hợp tạm có; có thì gọi là sanh, hư
hoại thì gọi là tử. Ví dụ như cái đồng hồ, khi các bộ phận ráp lại, máy chạy kim
quay kêu tích tắc thì gọi thành cái đồng hồ. Khi các bộ phận hư, máy không chạy
kim không quay, thì nói đồng hồ chết. Nếu mở từng bộ phận của đồng hồ ra, thì
đồng hồ không có sanh không có tử, sanh tử là căn cứ trên duyên hợp hay tan. Nếu
căn cứ trên thân tứ đại của con người, khi duyên tan, đất, nước, gió, lửa rã, thì nói
người chết. Bấy giờ, tóc, lông, móng, xương... trở về đất; máu, mồ hôi, nước
miếng... trở về nước; hơi ấm trở về lửa; hơi thở trở về gió. Bốn đại chưa từng chết
mà cũng chưa từng sống, bốn đại là bốn đại. Khi duyên hợp đủ thì có sinh, có hoạt
động thì gọi là sống. Khi duyên tan nó lặng yên thì gọi là chết.
Với trí tuệ nhìn qua bốn đại, thấy bốn đại chưa có chết sống, huống nữa là
ngay nơi thân này có cái không hình tướng, hằng thanh tịnh sáng suốt làm sao có
chết sống ? Chúng ta thấy rõ tứ đại nơi mình không có sanh tử, thì biết rõ Tri kiến
Phật nơi mình cũng không có sanh diệt. Nếu tứ đại nơi mình không có sống chết,
thì tứ đại bên ngoài có sống chết hay không ? Thay hình biến dạng là do duyên
hợp rồi tan, tan rồi hợp. Thấy có hợp tan, còn mất, là thấy theo duyên. Chớ tứ đại
vẫn là tứ đại. Vậy, nhìn tất cả vạn vật trên vũ trụ này, tự thể nó vốn không có sanh
tử, sanh tử chẳng qua chỉ là giả tướng thôi. Nếu chúng ta biết nhìn thẳng vào tự thể
của vạn vật như Phật đã nhìn, thì thấy tam giới không có sanh tử, không thoái
không xuất... chẳng phải như ba cõi mà tạm thấy là ba cõi. Và tứ đại không phải là
ta mà thấy có thân ta, rồi thấy có sống có chết. Nếu thấy đúng lẽ thật thì nó đâu có
sanh diệt.
Sở dĩ đức Phật nói pháp dùng nhân duyên thí dụ..., chẳng qua tùy theo tâm
bệnh của chúng sanh mà nói, chớ Ngài thì sống vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp,
từ trước tới giờ đâu từng sanh đâu từng diệt. Nhưng Ngài cũng tạm xướng lên rằng
“Ta sắp vào Niết-bàn”, để cho những chúng sanh có bệnh buông lung nhàm trễ lo
tu hành. Và đối với những chúng sanh đời sau phước mỏng nghiệp dày, có bệnh
khinh lờn, thì Ngài nói “Khó gặp được Phật” để họ khởi tâm tôn quí khởi lòng
khao khát, nương theo kinh điển mà nỗ lực tu hành. Chớ Phật có bao giờ diệt độ
đâu ?
5. CHÁNH VĂN :
* Ví như vị lương y, trí huệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc trị các
bệnh. Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự
duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc
phát muộn loạn, lăn lộn trên đất.
Bấy giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc
người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về, đều rất vui mừng, quì lạy hỏi
thăm: “An lành về an ổn, chúng con ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho,
lại ban thọ mạng cho chúng con.”
Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, tìm cỏ thuốc tốt,
mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm nghiền hòa hiệp, đưa bảo các con uống mà
nói rằng: “Thuốc đại lương dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con
nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại có các bệnh hoạn.” 
Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, sắc
hương đều tốt liền bèn uống đó, bệnh trừ hết được lành mạnh. Ngoài ra những
người thất tâm, thấy cha về, dầu cũng vui mừng, hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, song
trao thuốc cho mà không chịu uống.
Vì sao ? Vì hơi độc đã thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp
này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị
trúng độc, tâm đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc
tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng uống
thuốc này.”
Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã
đến, thuốc “lương dược” tốt này nay để ở đây các con nên lấy uống, chớ lo không
lành.” Bảo thế, rồi lại đến nước khác, sai sứ về nói: “Cha các ngươi đã chết.”
Bấy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: “Nếu cha ta
còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước
khác.” Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm
bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều
lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.
Các thiện nam tử ! Ý ông nghĩ sao ? Vả có người nào có thể nói ông lương
y đó mắc tội hư dối chăng ?
- Thưa Thế Tôn, không thể được !
Phật nói: “Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên
trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sanh dùng sức phương
tiện nói: “Sẽ diệt độ”, cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư
dối.”
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Từ ta thành Phật lại
 Trải qua các kiếp số
 Vô lượng trăm nghìn muôn
 A-tăng-kỳ ức năm
 Thường nói pháp giáo hóa
 Vô số ức chúng sanh
 Khiến vào nơi Phật đạo
 Đến nay vô lượng kiếp
 Vì độ chúng sanh vậy
 Phương tiện hiện Niết-bàn
 Mà thiệt chẳng diệt độ
 Thường trụ đây nói pháp.
 Ta thường ở nơi đây
 Dùng các sức thần thông
 Khiến chúng sanh điên đảo
 Dầu gần mà chẳng thấy
 Chúng thấy ta diệt độ
 Rộng cúng dường xá-lợi 
 Thảy đều hoài luyến mộ
 Mà sanh lòng khát ngưỡng,
 Chúng sanh đã tín phục
 Ngay thiệt ý dịu hòa
 Một lòng muốn thấy Phật
 Chẳng tự tiếc thân mạng
 Giờ ta cùng chúng tăng
 Đều ra khỏi Linh Thứu
 Ta nói với chúng sanh
 Thường ở đây chẳng diệt
 Vì dùng sức phương tiện
 Hiện có diệt chẳng diệt.
 Nước khác có chúng sanh
 Lòng cung kính tín nhạo
 Ta lại ở trong đó
 Vì nói pháp Vô thượng
 Ông chẳng nghe việc đó
 Chỉ nói ta diệt độ.
 Ta thấy các chúng sanh
 Chìm ở trong khổ não
 Nên chẳng vì hiện thân
 Cho kia sanh khát ngưỡng
 Nhân tâm kia luyến mộ
 Hiện ra vì nói pháp
 Sức thần thông như thế
 Ở trong vô số kiếp
 Thường tại núi Linh Thứu
 Và các trụ xứ khác.
 Chúng sanh thấy tận kiếp
 Lúc lửa lớn thiêu đốt
 Cõi ta đây an ổn
 Trời người thường đông vầy
 Vườn rừng các nhà gác
 Những món báu trang nghiêm
 Cây báu nhiều bông trái
 Chỗ chúng sanh vui chơi
 Các trời đánh trống trời
 Thường trỗi những kỹ nhạc
 Rưới bông mạn-đà-la
 Rải Phật và đại chúng
 Tịnh độ ta chẳng hư
 Mà chúng thấy cháy rã
 Lo sợ các khổ não 
 Như thế đều đầy dẫy
 Các chúng sanh tội đó
 Vì nhân duyên nghiệp dữ
 Quá a-tăng-kỳ kiếp
 Chẳng nghe tên Tam bảo.
 Người nhu hòa ngay thiệt
 Có tu các công đức
 Thời đều thấy thân ta
 Ở tại đây nói pháp.
 Hoặc lúc vì chúng này
 Nói Phật thọ vô lượng,
 Người lâu mới thấy Phật
 Vì nói Phật khó gặp.
 Trí lực ta như thế
 Huệ quang soi vô lượng
 Thọ mạng vô số kiếp
 Tu hành lâu cảm được.
 Các ông người có trí
 Chớ ở đây sanh nghi
 Nên dứt khiến hết hẳn
 Lời Phật thiệt không dối.
 Như lương y chước khéo
 Vì để trị cuồng tử
 Thiệt còn mà nói chết
 Không thể nói hư dối.
 Ta là cha trong đời
 Cứu các người đau khổ
 Vì phàm phu điên đảo
 Thiệt còn mà nói diệt,
 Vì cớ thường thấy ta
 Mà sanh lòng kiêu tứ
 Buông lung ham ngũ dục
 Sa vào trong đường dữ
 Ta thường biết chúng sanh
 Hành đạo chẳng hành đạo
 Tùy chỗ đáng được độ
 Vì nói các món pháp
 Hằng tự nghĩ thế này:
 Lấy gì cho chúng sanh
 Được vào huệ Vô thượng
 Mau thành tựu thân Phật.
GIẢNG : 
Sau đây là Phật đưa ví dụ: Một thầy thuốc giỏi có duyên sự đi xa, ở nhà
những đứa con ông uống nhầm thuốc, bị nhiễm độc nên phát cuồng điên. Khi ông
trở về, con ông tuy bệnh nhưng cũng mừng và biết ông là thầy thuốc, nên xin
thuốc giải độc. Ông chế ra những liều thuốc hay quí để giải cứu các con. Những
người con bị nhiễm độc nhẹ, ông đưa thuốc uống liền thì khỏi bệnh. Còn những
người con nhiễm độc nặng, không chịu uống nên bệnh không lành. Ông mới dùng
phương tiện nói, ông có việc phải đi xa, thuốc để ở nhà, các con tùy tiện lấy đó mà
uống. Và khi đi xa, ông nhắn tin về là ông đã chết. Những người con nghe tin cha
đã chết, không còn ỷ lại, bèn lấy thuốc uống và được khỏi bệnh.
Ông cha là vị lương y, dụ cho đức Phật. Những đứa con bị nhiễm độc ít dụ
cho những bậc thượng căn như ngài Xá-lợi-phất, ngài Mục-kiền-liên... là những vị
bị vô minh ái kiến phủ che mỏng. Khi Phật nói pháp giáo hóa, liền tin nhận tu
hành và phá sạch vô minh phiền não, giải thoát mọi khổ đau. Còn những đứa con
bị nhiễm độc nhiều dụ cho hạng chúng sanh hạ căn bị vô minh phiền não phủ che
dầy, tuy nghe Phật nói pháp giáo hóa mà chưa đủ lòng tin, vẫn còn bị quay cuồng
trong vòng vô minh phiền não. Mãi đến khi Phật Niết-bàn rồi, kinh điển Phật còn
để lại, mới chịu nghiên cứu đọc tụng và ứng dụng tu hành, khả dĩ hết vô minh
phiền não, tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền.
Vậy thử xét lại, chúng ta là những đứa con cuồng loạn hay tỉnh táo ? Nếu
chúng ta tỉnh táo thì đã hết khổ từ lâu rồi. Vì chúng ta cuồng loạn quên mất bản
tâm nên trôi lăn mãi cho tới ngày nay, bây giờ gặp pháp Phật để lại, rán lo tu để
hết khổ và được giải thoát. Như vậy, hiện tướng Phật Niết-bàn là vì lòng từ bi,
khiến cho chúng sanh đem lời Phật dạy ra ứng dụng tu hành. Chúng ta đã có thuốc
hay, chỉ biết khen mà không uống, đó là lỗi tại chúng ta, để rồi cũng cuồng loạn
cũng chạy ngược chạy xuôi. Vậy xin mời quí vị uống đi, thực tình uống đi, đừng
khen hoài mà không uống thì không hết bệnh.
D
PHẨM 17: PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Phân Biệt Công Đức là giản trạch cho thấy rõ công đức của kinh này hơn
các kinh khác, hoặc công đức của người tu theo kinh Pháp Hoa như thế nào.
Ba phẩm Tùng Điạ Dũng Xuất, Như Lai Thọ Lượng và Phân Biệt Công
Đức có liên hệ mật thiết với nhau, nên khi giảng không thể tách rời được. Phẩm
Tùng Địa Dũng Xuất, Phật chỉ cho thấy Tri kiến Phật. Sau khi đã chỉ, nếu thính
chúng còn nghi ngờ thì phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật xác định Tri kiến Phật
không phải mới có mà nó đã có từ thuở nào, không hạn cuộc bởi không gian và
vượt khỏi thời gian. Tới phẩm Phân Biệt Công Đức cho chúng sanh thấy rằng
người nhận ra Tri kiến Phật nơi mình công đức không thể tính kể, lớn hơn người
tu các hạnh khác như bố thí, trì giới, nhẫn nhục... Vì đó là pháp hữu vi có hình
tướng còn sanh diệt, nên có giới hạn. Còn Tri kiến Phật là pháp vô vi không hình
tướng, không sanh không diệt, vượt khỏi không gian và thời gian, không thể suy
lường tính kể được, vì vậy nên nói người nhận hiểu hay thọ trì kinh Pháp Hoa
công đức hơn tất cả.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, trong đại hội nghe Phật nói thọ mạng, kiếp số dài lâu như
thế, vô lượng, vô biên, vô số chúng sanh được lợi ích lớn.
Khi đó, đức Thế Tôn bảo ngài Di-lặc đại Bồ-tát: “A-dật-đa ! Lúc ta nói đức
Như Lai thọ mạng dài lâu như thế, có sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha Hằng
hà sa chúng sanh được “Vô sanh pháp nhẫn”.
Lại có đại Bồ-tát nghìn lần gấp bội được môn “Văn trì Đà-la-ni”. Lại có
một thế giới vi trần số đại Bồ-tát được “Nhạo thuyết vô ngại biện tài”. Lại có một
thế giới vi trần số đại Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức vô lượng môn “Triền Đà-
la-ni”. Lại có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đại Bồ-tát chuyển được “Pháp
luân bất thoái”.
Lại có nhị thiên trung quốc độ vi trần số đại Bồ-tát chuyển được “Pháp luân
thanh tịnh”. Lại có tiểu thiên quốc độ vi trần số đại Bồ-tát tám đời sẽ được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có bốn tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ-tát bốn
đời sẽ được Chánh đẳng Chánh giác. Lại có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ-tát ba
đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có hai tứ thiên hạ vi trần số
đại Bồ-tát hai đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có một tứ thiên
hạ vi trần số đại Bồ-tát một đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có tám thế giới vi trần số chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
GIẢNG :
Mở đầu phẩm Phân Biệt Công Đức, Phật nhắc lại kết quả sau khi Phật nói
về thọ lượng của Như Lai, thì trong hàng Bồ-tát Thánh chúng đều trụ bất thoái,
hoặc còn một đời, hai đời... thì chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, số
Bồ-tát đó nhiều vô số không thể kể xiết.
2. CHÁNH VĂN : 
* Lúc đức Phật nói các vị đại Bồ-tát đó được pháp lợi, trên giữa hư không,
rưới hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, để rải vô lượng trăm nghìn muôn ức các
đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu, và rải đức Thích-ca Mâu-ni Phật
cùng đức Đa Bửu Phật ngồi trên tòa sư tử trong tháp bảy báu, cùng rải tất cả các
đại Bồ-tát và bốn bộ chúng.
Lại rưới bột gỗ chiên-đàn, trầm thủy hương v.v... trong hư không, trống trời
tự kêu tiếng hay sâu xa.
Lại rải nghìn thứ thiên y, thòng các chuỗi ngọc, chuỗi ngọc chân châu,
chuỗi châu ma-ni, chuỗi châu như ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt
hương vô giá, tự nhiên khắp đến cúng dường đại chúng.
Trên mỗi đức Phật có các vị Bồ-tát nắm cầm phan lọng, thứ đệ mà lên đến
trời Phạm thiên. Các vị Bồ-tát đó dùng tiếng tăm hay, ca vô lượng bài tụng ngợi
khen các đức Phật.
Khi ấy, ngài Di-lặc Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chấp
tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:
 * Phật nói pháp ít có
 Từ xưa chưa từng nghe
 Thế Tôn có sức lớn
 Thọ mạng chẳng thể lường.
 Vô số các Phật tử
 Nghe Thế Tôn phân biệt
 Nói được pháp lợi đó
 Vui mừng đầy khắp thân
 Hoặc trụ bậc bất thoái
 Hoặc được Đà-la-ni
 Hoặc Vô ngại nhạo thuyết
 Muôn ức Triền tổng trì.
 Hoặc có cõi Đại thiên
 Số vi trần Bồ-tát
 Mỗi vị đều nói được
 Pháp luân bất thoái chuyển.
 Hoặc có Trung thiên giới
 Số vi trần Bồ-tát
 Mỗi vị đều có thể
 Chuyển pháp luân thanh tịnh.
 Lại có Tiểu thiên giới
 Số vi trần Bồ-tát
 Còn dư lại tám đời
 Sẽ được thành Phật đạo.
 Lại có bốn, ba, hai
 Tứ thiên hạ như thế
 Số vi trần Bồ-tát
 Theo số đời thành Phật. 
 Hoặc một Tứ thiên hạ
 Số vi trần Bồ-tát
 Còn dư có một đời
 Sẽ thành Nhứt thiết trí.
 Hàng chúng sanh như thế
 Nghe Phật thọ dài lâu
 Được vô lượng quả báo
 Vô lậu rất thanh tịnh.
 Lại có tám thế giới
 Số vi trần chúng sanh
 Nghe Phật nói thọ mạng
 Đều phát tâm Vô thượng.
 * Thế Tôn nói vô lượng
 Bất khả tư nghì pháp
 Nhiều được có lợi ích
 Như hư không vô biên
 Rưới hoa thiên mạn-đà
 Hoa ma-ha mạn-đà
 Thích, Phạm như Hằng sa
 Vô số cõi Phật đến
 Rưới chiên-đàn trầm thủy
 Lăng xăng loạn xạ xuống
 Như chim bay liệng đáp
 Rải cúng các đức Phật.
 Trống trời trong hư không
 Tự nhiên vang tiếng mầu,
 Áo trời nghìn muôn thứ
 Xoay chuyển mà rơi xuống
 Các lò hương đẹp báu
 Đốt hương quí vô giá
 Tự nhiên đều cùng khắp
 Cúng dường các Thế Tôn.
 Chúng đại Bồ-tát kia
 Cầm phan lọng bảy báu
 Cao đẹp muôn ức thứ
 Thứ lớp đến Phạm thiên.
 Trước mỗi mỗi đức Phật
 Tràng báu treo phan tốt
 Cũng dùng nghìn muôn kệ
 Ca vịnh các Như Lai
 Như thế các món việc
 Từ xưa chưa từng có
 Nghe Phật thọ vô lượng 
 Tất cả đều vui mừng
 Phật tiếng đồn mười phương
 Rộng lợi ích chúng sanh
 Tất cả đủ căn lành
 Để trợ tâm Vô thượng.
GIẢNG :
Các vị Bồ-tát khi nghe Phật nói phẩm Như Lai Thọ Lượng, thì các Ngài
đều được lòng tin bất thoái và chứng được quả vị trên đường tu, để tiến tới Phật
quả không còn ngăn ngại. Vì vậy nên được chư thiên rải hoa hương, chuỗi ngọc...
cúng dường và trống trời trỗi lên với lời khen ngợi ca tụng công đức của Phật.
3. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Di-lặc đại Bồ- tát: “A-dật-đa ! Có chúng sanh
nào nghe đức Phật thọ mạng dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sanh một niệm tín
giải, được công đức không thể hạn lượng. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, vì
đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong tám mươi muôn ức na-do-tha kiếp
tu năm pháp Ba-la-mật: Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật,
Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, trừ Trí tuệ Ba-la-mật, đem công đức
này sánh với công đức tín giải trước, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức
phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí dụ, không thể biết được. Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhân có công đức như thế mà thoái thất nơi Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, thời quyết không có lẽ đó.
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nếu người cầu huệ Phật
 Trong tám mươi muôn ức
 Na-do-tha kiếp số
 Tu năm Ba-la-mật
 Ở trong các kiếp đó
 Bố thí cúng dường Phật
 Và Duyên giác đệ tử
 Cùng các chúng Bồ-tát,
 Đồ uống ăn báu lạ
 Thượng phục và đồ nằm
 Chiên-đàn dựng tinh xá
 Dùng vườn rừng trang nghiêm
 Bố thí như thế thảy
 Các món đều vi diệu
 Hết các kiếp số này
 Để hồi hướng Phật đạo,
 Nếu lại gìn cấm giới
 Thanh tịnh không thiếu sót
 Cầu nơi đạo Vô thượng
 Được các Phật ngợi khen,
 Nếu lại tu nhẫn nhục 
 Trụ nơi chỗ điều nhu
 Dầu các ác đến hại
 Tâm đó chẳng khuynh động
 Các người có được pháp
 Cưu lòng tăng thượng mạn
 Bị bọn này khinh não
 Như thế đều nhẫn được,
 Hoặc lại siêng tinh tấn
 Chí niệm thường bền vững
 Trong vô lượng ức kiếp
 Một lòng chẳng trễ thôi,
 Lại trong vô số kiếp
 Trụ nơi chỗ vắng vẻ
 Hoặc ngồi hoặc kinh hành
 Trừ ngủ thường nhiếp tâm
 Do các nhân duyên đó
 Hay sanh các thiền định
 Tám mươi ức muôn kiếp
 An trụ tâm chẳng loạn
 Đem phước thiền định đó
 Nguyện cầu đạo Vô thượng
 Ta được Nhứt thiết trí
 Tận ngằn các thiền định,
 Người đó trong trăm nghìn
 Muôn ức kiếp số lâu
 Tu các công đức này
 Như trên đã nói rõ,
 Có thiện nam, tín nữ.
 Nghe ta nói thọ mạng
 Nhẫn đến một niệm tin
 Phước đây hơn phước kia
 Nếu người trọn không có
 Tất cả các nghi hối
 Thân tâm giây lát tin
 Phước đó nhiều như thế.
 Nếu có các Bồ-tát
 Vô lượng kiếp hành đạo
 Nghe ta nói thọ mạng
 Đây thời tin nhận được
 Các hàng người như thế
 Lãnh thọ kinh điển này
 Nguyện ta thuở vị lai
 Sống lâu độ chúng sanh 
 Như Thế Tôn ngày nay
 Vua trong các họ Thích
 Đạo tràng rền tiếng lớn
 Nói pháp không sợ sệt
 Chúng ta đời vị lai
 Được mọi người tôn kính
 Lúc ngồi nơi đạo tràng
 Nói thọ mạng cũng thế.
 Nếu có người thâm tâm
 Trong sạch mà ngay thật
 Học rộng hay tổng trì
 Tùy nghĩa giải lời Phật
 Những người như thế đó
 Nơi đây không có nghi.
GIẢNG :
Tới đây Phật xác nhận một cách rõ ràng, nếu có chúng sanh nào nghe thọ
mạng của Phật dài lâu như thế, mà có lòng tín giải thì công đức không thể hạn
lượng được. Tín giải là tin nhận, tin nhận Tri kiến Phật ở chính mình không mảy
may nghi ngờ. Phật so sánh người tu năm hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định trải qua tám mươi muôn ức na-do-tha kiếp, công đức người này không
bằng một phần công đức của người tin nhận Tri kiến Phật ở chính mình. Tại sao ?
Vì năm hạnh trên thuộc pháp hữu vi, có tướng sanh diệt nên quả báo có hạn lượng.
Còn Tri kiến Phật thì không hình tướng không hạn lượng, lấy pháp hữu vi hạn
lượng mà sánh với pháp vô vi không hạn lượng thì không thể nào sánh kịp. Việc tu
không phải khó mà cũng không phải dễ. Không khó, nếu chúng ta nhận hiểu được
lý kinh rồi tu, thì đơn giản không tốn công nhiều mà trí tuệ đạo lực tăng trưởng.
Ngược lại, người không lãnh hội được lý kinh, mà dùng công sức khổ cực để tu,
như lạy từng chữ kinh Pháp Hoa, từ năm này qua năm khác mà trí tuệ chưa sáng,
đó là tu khó. Như vậy, người nghe kinh Pháp Hoa sống được với Tri kiến Phật,
ngày ngày sinh hoạt bình thường bẻ củi nấu cơm, sánh với người ngày ngày y hậu
nghiêm trang, khổ công lạy từng chữ kinh Pháp Hoa, mà trí tuệ không sáng, hai
người ấy người nào hơn ? Người sống với Tri kiến Phật.
Tóm lại, người không đạt được yếu chỉ Phật dạy, cứ hành khổ hạnh nhọc
nhằn thân xác để cầu Phật đạo, tuy tốn nhiều công mà kết quả không bao nhiêu,
chỉ được phước hữu lậu thế gian thôi. Còn người nhận được yếu chỉ Phật dạy,
sống được với Tri kiến Phật của mình, dụng công ít mà công đức thì vô lượng vô
biên.
4. CHÁNH VĂN :
* Lại A-dật-đa ! Nếu có người nghe nói đức Phật thọ mạng dài lâu, hiểu ý
thú của lời nói đó, người này được công đức không có hạn lượng, có thể sanh huệ
Vô thượng của Như Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe,
hoặc tự thọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc
đem hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng 
dường quyển kinh, công đức của người này vô lượng vô biên có thể sanh Nhứt
thiết chủng trí.
A-dật-đa ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe ta nói thọ mạng dài lâu
sanh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy đức Phật thường ở núi Kỳ- xà-quật,
cùng chúng Bồ-tát lớn và hàng Thanh văn vây quanh nói pháp.
Lại thấy cõi Ta-bà này đất bằng lưu ly ngang liền bằng thẳng, dây vàng
diêm-phù-đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bày hàng, các đài lầu nhà thảy đều
có các thứ báu hiệp thành, chúng Bồ-tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán
được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc.
Và lại sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này mà không
chê bai, sanh lòng tùy hỷ, phải biết đó đã là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là
người đọc tụng, thọ trì kinh này, người này thời là kẻ đầu đội đức Như Lai.
A-dật-đa ! Thiện nam tử cùng thiện nữ nhân đó chẳng cần lại vì ta mà dựng
chùa tháp, và cất tăng phường dùng bốn sự cúng dường để cúng dường chúng tăng.
Vì sao ? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này thời là
đã dựng tháp, tạo lập tăng phường cúng dường chúng tăng, thời là đem xá-lợi của
Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời Phạm thiên, treo các phan
lọng và các linh báu, hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt,
các trống, kỹ nhạc, ống tiêu, ống địch, không hầu, các thứ múa chơi, dùng tiếng
giọng tốt ca ngâm khen ngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm
việc cúng dường đó rồi.
A-dật-đa ! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này, có người hay thọ trì,
hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, thời là dựng lập tăng phường, dùng gỗ chiên-
đàn đỏ làm cung điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa-la, cao rộng
nghiêm đẹp, trăm nghìn Tỳ-kheo ở trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành,
hang ngồi thiền, y phục, đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang tất cả đồ vui dẫy
đầy trong đó, tăng phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó
nhiều vô lượng, dùng để hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ-kheo tăng.
Cho nên ta nói: Sau khi ta diệt độ, nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người
khác nói, hoặc mình chép hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển thời
chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạo lập tăng phường cúng dường chúng tăng.
Huống lại có người hay thọ trì kinh này mà gồm tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, trí tuệ, công đức của người đây rất thù thắng vô lượng vô biên.
Thí như hư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên, dưới vô lượng vô
biên, công đức của người đó cũng lại như thế vô lượng vô biên mau đến bậc Nhứt
thiết chủng trí. Nếu có người đọc tụng, thọ trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự
chép, hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập tăng phường cúng
dường khen ngợi chúng Thanh văn tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi
khen mà ngợi khen công đức của Bồ-tát.
Lại vì người khác dùng các món nhân duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp
Hoa này, lại có thể thanh tịnh trì giới cùng người nhu hòa mà chung cùng ở, nhẫn
nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quí ngồi thiền được các món định sâu,
tinh tấn, mạnh mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí sáng, giỏi gạn hỏi đáp. 
A-dật-đa ! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì,
đọc tụng kinh điển này lại có các công đức lành như thế, phải biết người đó đã đến
đạo tràng gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ngồi dưới cội đạo thọ.
A-dật-đa ! Chỗ của thiện nam tử cùng thiện nữ nhân đó hoặc ngồi, hoặc
đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời, người đều phải cúng dường
như tháp của Phật.
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Sau khi ta diệt độ
 Hay phụng trì kinh này
 Người đó phước vô lượng
 Như trên đã nói rõ.
 Đó thời là đầy đủ
 Tất cả các cúng dường
 Dùng xá-lợi xây tháp
 Bảy báu để trang nghiêm.
 Chùa chiền rất cao rộng
 Nhỏ dần đến Phạm thiên
 Linh báu nghìn muôn ức
 Gió động vang tiếng mầu,
 Lại trong vô lượng kiếp
 Mà cúng dường tháp đó
 Hoa hương, các chuỗi ngọc
 Thiên y, các kỹ nhạc
 Thắp đèn dầu nến thơm
 Quanh khắp thường soi sáng,
 Lúc đời ác mạt pháp
 Người hay trì kinh này
 Thời là đã đầy đủ
 Các cúng dường như trên.
 Nếu hay trì kinh này
 Thời như Phật hiện tại
 Dùng ngưu đầu chiên-đàn
 Dựng tăng phường cúng dường
 Nhà ba mươi hai sở
 Cao tám cây đa-la
 Đồ ngon, y phục tốt
 Giường nằm đều đầy đủ.
 Trăm nghìn chúng nương ở
 Vườn, rừng, các ao tắm
 Chỗ kinh hành, ngồi thiền
 Các món đều nghiêm tốt.
 Nếu có lòng tin hiểu
 Thọ trì, đọc tụng biên 
 Nếu lại bảo người biên
 Và cúng dường kinh quyển.
 Rải hoa hương, hương bột
 Dùng tu-mạn, chiêm-bặc
 A-đề, mục-da-đà
 Ướp dầu thường đốt đó
 Người cúng dường như thế
 Được công đức vô lượng
 Như hư không vô biên
 Phước đó cũng như thế.
 Huống lại trì kinh này
 Gồm bố thí, trì giới,
 Nhẫn nhục, ưa thiền định
 Chẳng sân, chẳng ác khẩu
 Cung kính nơi tháp miếu
 Khiêm hạ các Tỳ-kheo
 Xa lìa tâm tự cao
 Thường nghĩ suy trí tuệ
 Có gạn hỏi chẳng sân
 Tùy thuận vì giải nói
 Nếu làm được hạnh đó
 Công đức chẳng lường được.
 Nếu thấy Pháp sư này
 Nên công đức như thế
 Phải dùng hoa trời rải
 Áo trời trùm thân kia
 Đầu mặt tiếp chân lạy
 Sanh lòng tưởng như Phật,
 Lại nên nghĩ thế này:
 Chẳng lâu đến đạo thọ
 Được vô lậu vô vi
 Rộng lợi các trời người
 Chỗ trụ chỉ của kia
 Kinh hành hoặc ngồi nằm
 Nhẫn đến nói một kệ
 Trong đây nên xây tháp
 Trang nghiêm cho tốt đẹp
 Các món đem cúng dường,
 Phật tử ở chỗ này
 Thời là Phật thọ dụng
 Thường ở nơi trong đó
 Kinh hành và ngồi nằm.
GIẢNG : 
Phật nói người nghe thọ mạng của Phật, hiểu được ý thú của kinh, thì người
đó được công đức không thể lường và có thể phát sanh tuệ Vô thượng Như Lai.
Huống là nghe rồi lại khuyến khích người khác nghe, hoặc tự thọ trì, hoặc bảo
người thọ trì, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, hoặc cúng dường kinh này, nhất
định sẽ thành Phật. Nếu chúng ta hiểu thọ trì, biên chép cúng dường theo nghĩa
thông thường, cứ ngày ngày đọc tụng biên chép nhiều cho có phước, đó là chúng
ta chỉ hiểu qua sự tướng, mà không thông đạt được lý tánh. Thọ trì, ghi chép, cúng
dường ở đây, hàm ý nghĩa tin nhận mình có Tri kiến Phật và khéo gìn giữ phát huy
cho trí tuệ Phật càng hiển hiện tròn sáng, chớ để cho vô minh phiền não che mờ.
Người sống được như vậy, nhất định sẽ thành Phật và được vô lượng vô biên công
đức.
Phật lại dạy, người mà tin nhận chắc chắn lời Phật nói về thọ mạng Như Lai,
thì hằng thấy Phật đang nói pháp ở núi Linh Thứu. Như vậy là sao ? Với con mắt
thịt của người chưa giác ngộ, quen nhìn ra ngoài, lên núi Linh Thứu thấy trống
vắng, không có Phật và Thánh chúng nên nói Phật nhập diệt. Nhưng với người đã
giác ngộ và tin sâu nơi mình có Tri kiến Phật hằng hiển hiện thì có lúc nào sống xa
Phật, không thấy Phật luôn nói pháp là gì ? Trong mọi sinh hoạt hằng ngày như
cuốc đất, nấu cơm, ngủ nghỉ... lúc nào cũng có Phật bảo hộ, không hề xa vắng phút
giây nào. Và người sống như vậy là do tâm đã thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì
thấy cảnh vật cũng thanh tịnh, nên nói thấy cõi Ta-bà này đất bằng lưu ly bằng
thẳng, vàng diêm-phù-đàn... trang nghiêm không có ô uế. Sở dĩ thấy cõi Ta-bà này
ô uế, là vì chúng ta nhìn cõi Ta-bà bằng đôi mắt thịt của thân ngũ uẩn đầy phiền
não, nên thấy nó ô trọc.
Đến đây Phật nói sau khi Như Lai diệt độ, nếu người nghe kinh này mà
không chê lại tùy hỉ, huống là có lòng tin sâu và thọ trì kinh này, đó là đầu đội đức
Như Lai. Tại sao ? Vì người ngộ được Tri kiến Phật, nên có đủ lòng tin, tâm
thường hoan hỷ và luôn luôn bảo hộ không để phiền não phủ che, lúc nào cũng
nhớ và sống với Tri kiến Phật, đó là đầu đội Như Lai.
Phật lại nói người nam hay nữ chẳng cần dựng chùa tháp, dâng tứ sự cúng
dường Phật và chúng tăng, mà chỉ ngộ nhập Tri kiến Phật, là đã dâng tứ sự cúng
dường Phật và tăng, lại cũng đã xây tháp bằng bảy báu cao tới cõi trời Phạm thiên
để cúng dường Phật và tăng. Như vậy người thọ trì kinh này là đã cúng dường
Phật và tăng rồi. Tại sao ? Vì người sống được với Tri kiến Phật của chính mình,
tuy không làm ra tiền để xây tháp, để dâng tứ sự cúng dường, song sống được với
Tri kiến Phật tức là sống với Phật, hay nói cách khác là cúng dường Phật.
Trên Phật nói xây tháp, tới đây Ngài nói cất chùa và nhà tăng bằng gỗ
chiên-đàn đỏ, trong đó trang bị đầy đủ phương tiện tu hành, để cúng dường Phật
và chúng tăng, công đức không bằng thọ trì kinh Pháp Hoa. Vì thọ trì kinh Pháp
Hoa là sống với Tri kiến Phật, tức là thành Phật, không còn luân hồi sanh tử, nên
Ngài nói hơn tất cả. Phật nói thế e chúng sanh chấp lý bỏ sự, nên tới đây Ngài nói
thêm, nếu người thọ trì kinh Pháp Hoa được như vậy, mà còn tu bố thí cúng dường
thì công đức vô lượng vô biên. 
Đức Phật nói không cho chúng ta mắc kẹt một bên, tới đây Ngài kết thúc:
Người nghe và thọ trì kinh Pháp Hoa mà còn bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí tuệ nữa, người đó chắc chắn sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác, sẽ ngồi dưới cội bồ-đề thành Phật không nghi. Đức Phật lại khuyến khích,
người đó ngồi đâu, ở đâu, đi đâu, chúng sanh ở đó nên xây tháp cúng dường, coi
tháp đó như tháp của Phật vậy. Tại sao ? Vì người đó không chấp lý bỏ sự, không
chấp sự bỏ lý, thực hành cả lý và sự viên dung, chắc chắn sẽ thành Phật, nên xứng
đáng cúng dường như cúng dường Phật. Chúng ta thấy, trước Phật đưa về lý, sau
gồm lý sự viên dung, không cho chúng ta kẹt một bên. Vừa ngộ được nơi mình có
Tri kiến Phật đồng thời phải tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ, thì người đó mới xứng đáng nối tiếp ngôi vị Phật. Người đó ở đâu, chúng
sanh nên cúng dường như cúng dường Phật.
D
PHẨM 18: TÙY HỈ CÔNG ĐỨC

Tùy là theo, hỉ là vui, người mà thấy ai làm điều thiện điều hay khởi tâm
vui theo, thì gọi là tùy hỉ. Ở trước, Phật đã so sánh công đức của người nghe, tin
hiểu, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa rồi. Giờ đây Phật lại nói
công đức của người tùy hỉ khi thấy người khác thọ trì, đọc tụng... kinh Pháp Hoa
như thế nào ?
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, ngài Di-lặc Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỉ đó, được bao nhiêu
phước đức ?” Liền nói kệ rằng:
 Sau khi Phật diệt độ
 Có người nghe kinh này
 Nếu hay tùy hỉ đó
 Lại được bao nhiêu phước ?
* Khi đó, Phật bảo ngài Di-lặc Bồ-tát rằng: A-dật-đa ! Sau khi Như Lai diệt
độ nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và người trí khác, hoặc lớn,
hoặc nhỏ nghe kinh này mà tùy hỉ rồi, từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại
tăng phường, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng rẫy,
đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà vì cha mẹ tôn thân, thiện hữu tri thức tùy sức
diễn nói. Các người đó nghe rồi tùy hỉ lại đi chuyển dạy người khác, người khác
nghe rồi cũng tùy hỉ chuyển dạy, xoay vần như thế đến người thứ năm mươi.
* A-dật-đa ! Công đức tùy hỉ của thiện nam tử, thiện nữ nhân thứ năm mươi
đó, ta nay nói, ông phải lóng nghe.
Nếu bốn trăm muôn ức vô số thế giới có sáu đường chúng sanh trong bốn
loài sanh: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh hoặc có hình, không hình, có
tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, không chân,
hai chân, bốn chân, nhiều chân, tất cả trong số chúng sanh như thế, có người cầu
phước tùy theo đồ ưa thích của chúng muốn đều cung cấp cho đó. Mỗi mỗi chúng
sanh cho các trân bảo tốt: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách đầy
cả Diêm- phù-đề và voi, ngựa, xe cộ, bảy báu làm thành những cung điện lầu gác
v.v...
Vị đại thí chủ đó bố thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nghĩ rằng: “Ta đã
ban cho chúng sanh những đồ ưa thích tùy theo ý muốn, nhưng chúng sanh này
đều đã già suy tuổi quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn gần chết chẳng lâu, ta phải
dùng Phật pháp mà dạy bảo dìu dắt chúng.” Liền nhóm chúng sanh đó tuyên bày
pháp giáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui mừng. Đồng thời được đạo Tu-đà-hoàn, đạo Tư-
đà-hàm, đạo A-na-hàm, đạo A-la-hán dứt hết cả hữu lậu, với những thiền định sâu
đều được tự tại, đủ tám món giải thoát.
Ý ông nghĩ sao ? Công đức của vị đại thí chủ đó được, có nhiều chăng ?” 
Ngài Di-lặc bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Công đức của người đó rất nhiều
vô lượng vô biên. Nếu vị thí chủ đó chỉ thí tất cả đồ ưa thích cho chúng sanh, công
đức đã vô lượng rồi, huống là làm cho đều được quả A-la-hán.”
Phật bảo ngài Di-lặc: “Ta nay rành rẽ nói cùng ông, người đó đem tất cả đồ
vui thích thí cho sáu đường chúng sanh trong bốn trăm muôn ức vô số thế giới, lại
khiến được quả A-la-hán, công đức của người đó được chẳng bằng công đức của
người thứ năm mươi kia nghe một bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỉ, trăm phần,
nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến tính, đếm,
thí dụ không thể biết được.
A-dật-đa ! Người thứ năm mươi như thế, xoay vần nghe kinh Pháp Hoa,
công đức tùy hỉ còn vô lượng vô biên a-tăng-kỳ, huống là người tối sơ ở trong hội
nghe kinh mà tùy hỉ, phước đó lại hơn vô lượng vô biên a-tăng-kỳ không có thể
sánh được.
GIẢNG :
Mở đầu ngài Di-lặc hỏi Phật: Người nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỉ thì
được bao nhiêu phước đức ?
Phật vì ngài Di-lặc nói phước đức của người nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỉ,
rồi ở chỗ khác chuyển nói tuần tự cho đến người thứ năm mươi, thì công đức của
người thứ năm mươi này thù thắng hơn công đức của một thí chủ bố thí tứ sự bằng
bảy báu sung mãn, và dạy cho vô số chúng sanh thuộc bốn loài ở trong vô số thế
giới tu chứng quả từ Tu-đà-hoàn tới A-la-hán. Ở đây, tôi không nói bốn loài chúng
sanh trong vô số thế giới mà chỉ nói loài người trên quả đất này thôi. Ai nuôi
dưỡng hết loài người trên quả đất cho no ấm, rồi dạy cho họ tu chứng quả A-lahán,
thì phước đức chừng bao nhiêu? Với tình thức của phàm phu, chúng ta không
thể nghĩ lường công đức của người đó, huống là vô số chúng sanh trong vô số thế
giới, phước đức không thể toán số thí dụ nổi. Tại sao vậy ? Vì bố thí cúng dường
là việc làm hữu vi, tuy có phước, nhưng phước hữu lậu sanh diệt nên có giới hạn.
Và dù cho dạy vô số chúng sanh tu chứng quả A-la-hán, thì cũng chỉ là Niết-bàn
của một ngày, chớ chưa phải chứng được thể bất sanh bất diệt Như Lai. Nếu
chứng được thể bất sanh bất diệt của Như Lai, mới có thể tùy duyên ứng hóa vô
lượng thân mà độ sinh. Còn chứng được Niết-bàn một ngày của A-la-hán, chìm
trong lặng lẽ không làm lợi ích cho chúng sanh được. Vì thế mà không bì không
sánh kịp. Người nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỉ tin nhận rồi giảng nói cho người
khác nghe, người ấy đã nhận được cái nhân Phật chớ không phải cái nhân A-lahán.
Mà người đã nhận và tu cái nhân Phật thì chắc chắn sẽ thành Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy nên nói phước đức của người thứ năm mươi nghe
kinh Pháp Hoa mà tùy hỉ, thù thắng hơn phước đức của người bố thí và dạy cho vô
số chúng sanh ở trong vô số thế giới tu chứng A-la-hán.
2. CHÁNH VĂN :
* A-dật-đa ! Nếu có người vì kinh này mà qua đến tăng phường, hoặc ngồi,
hoặc đứng, trong chốc lát nghe nhận, nhờ công đức đó chuyển thân sanh ra được
voi ngựa, xe cộ, kiệu cáng bằng trân bảo tốt đẹp bậc thượng và được ở thiên cung. 
Nếu có người ngồi trong chỗ giảng pháp, sau lại có người đến bèn khuyên
mời ngồi nghe, hoặc chia chỗ cho ngồi, công đức của người đó chuyển thân được
chỗ ngồi của Đế-thích hoặc chỗ ngồi của Phạm vương, hoặc chỗ ngồi của Chuyển
Luân thánh vương.
* A-dật-đa ! Nếu lại có người nói với người khác rằng: “Có kinh tên Pháp
Hoa nên cùng nhau qua nghe.” Liền nhận lời bảo nhẫn đến nghe trong giây lát,
công đức của người đó chuyển thân được với Đà-la-ni Bồ-tát, sanh chung một chỗ,
căn tánh lanh lợi, có trí huệ, trăm nghìn muôn đời, trọn chẳng ngọng câm, hơi
miệng chẳng hôi, lưỡi thường không bệnh, miệng cũng không bệnh, răng chẳng
đen dơ, chẳng vàng, chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng sếu
gãy, môi chẳng trớt, cũng chẳng rút túm, chẳng thô rít, chẳng ghẻ mụt, cũng chẳng
sứt hư, cũng chẳng cong vẹo, chẳng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen nám, không có
các tướng đáng chê.
Mũi chẳng xệp giẹp, cũng chẳng cong gãy, sắc mặt chẳng đen, chẳng hẹp
dài, cũng chẳng hóm gãy, không có tất cả tướng chẳng đáng ưa, môi lưỡi răng
nướu thảy đều nghiêm tốt, mũi lớn cao thẳng, diện mạo tròn đủ, mày cao mà dài,
trán rộng bằng thẳng, tướng người đầy đủ, đời đời sanh ra thấy Phật, nghe pháp tin
nhận lời dạy bảo.
A-dật-đa ! Ngươi hãy xem khuyên nơi một người khiến qua nghe pháp mà
công đức như thế, huống là một lòng nghe, nói, đọc, tụng, lại ở trong đại chúng vì
người phân biệt, đúng như lời dạy mà tu hành.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nếu người trong pháp hội
 Được nghe kinh điển này
 Nhẫn đến một bài kệ
 Tùy hỉ vì người nói
 Xoay vần dạy như thế
 Đến người thứ năm mươi
 Người rốt sau được phước
 Nay sẽ phân biệt đó.
 Như có đại thí chủ
 Cung cấp vô lượng chúng
 Đầy đủ tám mươi năm
 Tùy ý chúng ưa muốn
 Thấy chúng: tướng già suy
 Tóc bạc và mặt nhăn
 Răng thưa, thân khô gầy
 Nghĩ kia sắp phải chết
 Ta nay phải nên dạy
 Cho chúng được đạo quả
 Liền vì phương tiện nói
 Pháp Niết-bàn chân thật
 Đời đều chẳng bền chắc 
 Như bọt bóng ánh nắng
 Các ngươi đều nên phải
 Mau sanh lòng nhàm lìa.
 Các người nghe pháp đó
 Đều được A-la-hán
 Đầy đủ sáu thần thông
 Ba minh, tám giải thoát.
 Người năm mươi rốt sau
 Nghe một kệ tùy hỉ
 Người này phước hơn kia
 Không thể thí dụ được.
 Xoay vần nghe như thế
 Phước đó còn vô lượng
 Huống là trong pháp hội
 Người tùy hỉ ban đầu.
 Nếu có khuyên một người
 Dắt đến nghe Pháp Hoa
 Rằng: kinh này rất mầu
 Nghìn muôn kiếp khó gặp
 Liền nhận lời qua nghe
 Nhẫn đến nghe giây lát
 Phước báu của người đó
 Nay nên phân biệt nói.
 Đời đời miệng không bệnh
 Răng chẳng thưa, vàng, đen,
 Môi chẳng dày teo thiếu
 Không có tướng đáng chê,
 Lưỡi chẳng khô đen ngắn
 Mũi cao lớn mà ngay
 Trán rộng và bằng thẳng
 Mặt, mắt đều đoan nghiêm
 Được người thấy ưa mến
 Hơi miệng không hôi nhơ
 Mùi thơm bông ưu-bát
 Thường từ trong miệng ra.
 Nếu cố đến tăng phường
 Muốn nghe kinh Pháp Hoa
 Giây lát nghe vui mừng
 Nay sẽ nói phước đó:
 Sau sanh trong trời, người
 Được voi, ngựa, xe tốt
 Kiệu, cáng bằng trân báu,
 Cùng ở cung điện trời. 
 Nếu trong chỗ giảng pháp
 Khuyên người ngồi nghe kinh
 Nhơn vì phước đó được
 Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân.
 Huống là một lòng nghe
 Giải nói nghĩa thú kinh
 Đúng như pháp mà tu
 Phước đó chẳng lường được.
GIẢNG :
Tới đây, Phật nói công đức của người vì kinh Pháp Hoa mà ngồi hoặc đứng
nghe trong chốc lát, hoặc nhường chỗ hoặc mời ngồi nghe kinh, thì được sanh lên
cõi trời, được chỗ ngồi của Đế-thích, hay Phạm thiên và hưởng phước báo. Thông
thường thì người tu thập thiện suốt cả đời mà không lỗi giới, mới được sanh lên
cõi trời cao nhất là trời Đao-lợi. Còn ở đây, chỉ ngồi nghe hoặc nhường chỗ mời
người nghe kinh Pháp Hoa một chút, là được sanh lên cõi trời Phạm thiên... như
vậy là quá dễ. Song, Phật dạy người khéo biết và hướng dẫn người sống với Tri
kiến Phật, dầu trong một thời gian ngắn, tuy ít mà họ có chút lòng tin Tri kiến Phật
thì công đức cũng vô kể. Bởi vì Tri kiến Phật là cái chân thật bất sanh bất diệt, tất
cả pháp hữu vi không pháp nào sánh kịp. Chính vì vậy mà trong sử ghi rằng: Phật
sinh ra đi bảy bước, tay chỉ trời tay chỉ đất nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã
độc tôn”, trên trời dưới trời chỉ Ta là tôn quí. Ta là chỉ cho Tri kiến Phật thanh tịnh
sáng suốt, có sẵn nơi mỗi người. Trong thế gian này, chỉ có Tri kiến Phật là cái
thường hằng bất hoại, là hơn cả. Như vậy, tất cả công đức, tất cả vật quí báu,
không có công đức nào, của báu nào bằng Tri kiến Phật. Nên người sống được với
Tri kiến Phật dù chỉ trong chốc lát cũng là hơn tất cả.
Kế tiếp Phật nói thêm, người nghe kinh Pháp Hoa, hoặc nhường chỗ, hoặc
mời ngồi nghe kinh được phước đức, khi chuyển thân, căn tánh lanh lợi, có trí tuệ,
trán, mày, mũi, miệng, răng, lưỡi... đều được tướng tốt đầy đủ, đời đời sanh ra gặp
Phật nghe pháp. Ở đây, hơi đặt nặng về miệng. Tại sao? Vì miệng mời người nghe
pháp và khuyên người đến nghe pháp. Nên mọi tật xấu nơi miệng không có và
chính người mời nghe kinh đã có đủ lòng tin đối với kinh Pháp Hoa, tức là đã biết
mình có Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt, nên thể hiện ra ngoài vui tươi, hài hòa
thanh thoát... Còn người sống với điên đảo vọng tưởng, thì mặt nhăn má cóp gầy
ốm, vì ăn không ngon, ngủ không được nên tâm buồn bực, nếu mở miệng ra là nói
những lời xấu xa bần tiện, là chửi thề, nói thô tục. Đó là miệng hôi hám, lời nhơ
bẩn...
Chúng ta thấy Phật giáo hóa rất khéo, Ngài nói kinh bao hàm cả sự và lý.
Người thấu đạt được lý, sống với Tri kiến Phật của chính mình thì an nhàn tự tại,
còn người chưa đạt được lý nương theo sự thì biết nhường nhịn, khuyến khích
nhau nghe kinh, đó cũng là hành động tốt đẹp. Vì vậy người nghe ở trình độ nào
cũng được lợi ích.
Tóm lại, Phật so sánh công đức của người tùy hỉ khi nghe kinh Pháp Hoa.
Công đức người ấy siêu việt thù thắng hơn người bố thí cúng dường tứ sự cho vô 
số chúng sanh ở trên vô số thế giới và dạy cho họ tu chứng quả A-la-hán. Và
người tùy hỉ khuyến khích người nghe kinh Pháp Hoa được tướng tốt ở nơi trán,
mặt, mày, mũi, miệng...
D
PHẨM 19: PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC
Ở trước, Phật đã nói công đức của kinh Pháp Hoa, công đức người thọ trì
kinh Pháp Hoa, công đức người tùy hỉ khi nghe kinh Pháp Hoa. Tới phẩm Pháp Sư,
Phật nói công đức của người giảng kinh Pháp Hoa. Người giảng kinh Pháp Hoa
cho người khác tin hiểu, thì người đó phải tin hiểu thọ trì trước rồi sau mới giảng
nói được.
1. CHÁNH VĂN :
* Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Thường Tinh Tấn đại Bồ-tát rằng: “Nếu có
thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc
giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn
hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công
đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý,
dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.
Thiện nam tử và thiện nữ nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra,
thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển dưới
đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong
đó và nghiệp nhơn duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 * Nếu người ở trong chúng
 Dùng tâm không sợ sệt
 Nói kinh Pháp Hoa này
 Ông nghe công đức đó
 Người đó được tám trăm
 Công đức thù thắng nhãn
 Do dùng đây trang nghiêm
 Mắt kia rất thanh tịnh.
 Mắt thịt cha mẹ sanh
 Thấy cả cõi tam thiên
 Trong ngoài núi Di-lâu
 Núi Tu-di, Thiết-vi
 Và các núi rừng khác
 Biển lớn nước sông ngòi
 Dưới đến ngục A-tỳ
 Trên đến trời Hữu Đảnh
 Chúng sanh ở trong đó
 Tất cả đều thấy rõ
Dầu chưa được thiên nhãn
Sức nhục nhãn như thế.
GIẢNG : 
Đoạn này có hai phần, phần đầu nói tổng quát, phần sau nói chi tiết. Mở
đầu Phật nói, người trì kinh Pháp Hoa rồi đem giảng cho người khác nghe, thì
ngay nơi thân này được tám trăm công đức ở mắt, một ngàn hai trăm công đức ở
tai, tám trăm công đức ở mũi, một ngàn hai trăm công đức ở lưỡi, tám trăm công
đức ở thân, một ngàn hai trăm công đức ở ý. Công đức là chỉ cho khả năng của
từng giác quan. Mắt thấy trước và thấy hai bên, không thấy phía sau, bốn phía mà
mắt thấy có ba phía khả năng của mắt có giới hạn, nên nói có tám trăm công đức.
Thân và mũi khả năng cũng giới hạn nên có tám trăm công đức. Tai thì âm thanh ở
trước, sau, hai bên đều nghe được khắp, không ngăn ngại nên nói có một ngàn hai
trăm công đức. Lưỡi và ý thì chuyện trên trời dưới đất, bên Đông bên Tây, lưỡi và
ý muốn nói muốn nghĩ đều nói nghĩ được cả, nên có một ngàn hai trăm công đức.
Phật nói, nếu người nào biết trì kinh Pháp Hoa, hay biết sống với Tri kiến Phật có
sẵn nơi thân năm uẩn, thì ngay nơi sáu căn này có đầy đủ công đức. Nếu sáu căn
rong ruổi theo sáu trần thì bị lục tặc hoành hành quấy nhiễu, khi biết sống với Tri
kiến Phật thì sáu căn trở thành thanh tịnh đầy đủ công đức.
Sau đây là phần chi tiết, Phật phân biệt công đức từng căn một. Thứ nhứt là
nhãn căn thanh tịnh. Ngay nơi nhục nhãn do cha mẹ sanh ra, người nào biết thọ trì
giảng nói kinh Pháp Hoa, thì sẽ có khả năng thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trên
từ cõi trời Hữu Đảnh dưới đến địa ngục A-tỳ, thấy tất cả mọi loài chúng sanh và
thấy suốt nghiệp duyên quả báo của họ. Như vậy là sao ? Vì Tri kiến Phật là cái
thể không tướng mạo, không giới hạn, bởi không giới hạn nên người sống được
với Tri kiến Phật xuyên suốt tất cả, vì vậy mà nói thấy khắp tất cả.


Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét