Kinh Pháp Hoa phần 2

Quyển Kinh Pháp Hoa phần 2 xin được tiếp tục gửi đến bạn đọc với nội dung sâu sắc và đầy đủ để mọi người khám phá vùng trời trí tuệ.


15. CHÁNH VĂN :
 *Thế Tôn ! Chúng con nay
 Được đạo và chứng quả
 Ở nơi pháp vô lậu
 Được huệ nhãn thanh tịnh.
 Chúng con từ lâu nay
 Gìn tịnh giới Phật chế
 Mới ở ngày hôm nay
 Được hưởng quả báo đó
 Trong pháp của Pháp vương
 Lâu tu hành phạm hạnh
 Ngày nay được vô lậu
 Quả báu lớn Vô thượng.
 Chúng con ngày hôm nay
 Mới thiệt là Thanh văn
 Đem tiếng đạo của Phật
 Cho tất cả đều nghe.
 Chúng con ngày hôm nay,
 Thiệt là A-la-hán
 Ở nơi các thế gian
 Trời, người và ma, Phạm
 Khắp ở trong chúng đó
 Đáng lãnh của cúng dường.
 Ơn lớn của Thế Tôn
 Đem việc ít có nầy
 Thương xót dạy bảo cho
 Làm lợi ích chúng con
 Trải vô lượng ức kiếp
 Ai có thể đền được.
 Tay lẫn chân cung cấp
 Đầu đảnh lễ cung kính,
 Tất cả đem cúng dường
 Đều không thể đền được
 Hoặc dùng đầu đội Phật
 Hai vai cùng cõng vác
 Trong kiếp số Hằng sa
 Tận tâm mà cung kính
 Lại đem dưng đồ ngon
 Y phục báu vô lượng
 Và các thứ đồ nằm
 Cùng các món thuốc thang 
 Gỗ ngưu đầu, chiên-đàn
 Và các vật trân báu
 Để dựng xây tháp miếu
 Y báu lót trên đất
 Như các việc trên đây
 Đem dùng cúng dường Phật
 Trải số kiếp Hằng sa
 Cũng không đền đáp được
 Các Phật thật ít có
 Đấng vô lượng vô biên
 Đến bất khả tư nghì
 Đủ sức thần thông lớn,
 Bậc vô lậu vô vi
 Là vua của các pháp
 Hay vì kẻ hạ liệt
 Nhẫn việc cao thượng đó,
 Hiện lấy tướng phàm phu
 Tùy cơ nghi dạy nói
 Các Phật ở nơi pháp
 Được sức rất tự tại
 Biết các hàng chúng sanh
 Có những điều ưa muốn
 Và chí lực của nó
 Theo sức nó kham nhiệm
 Dùng vô lượng thí dụ
 Mà vì chúng nói pháp,
 Tùy theo các chúng sanh
 Trồng căn lành đời trước
 Lại biết đã thành thục
 Hay là chưa thành thục
 Suy lường những điều đó
 Phân biệt biết rõ rồi
 Ở nơi đạo Nhứt thừa
 Tùy cơ nghi nói ba.
GIẢNG :
Ngài Ma-ha Ca-diếp nói hàng Thanh văn tu pháp Tứ đế chứng quả A-lahán.
A-la-hán là bậc sạch hết lậu hoặc, xứng đáng cho trời người cúng dường nên
gọi là Ứng Cúng. Tuy xưa gọi A-la-hán là bậc Ứng Cúng, nhưng nay xét kỹ lại thì
quả Thanh văn hãy còn hạn hẹp chưa xứng cho trời người cúng dường. Bấy giờ
các ngài Thanh Văn, nhận ra Tri kiến Phật mới thật xứng đáng cho trời người cúng
dường. Đó là ngài Ma-ha Ca-diếp kể lại công ơn giáo hóa vô cùng lớn lao của
Phật. Nhờ công giáo hóa của Phật nên các Ngài mới đến được chỗ cứu kính chân
thật. 
Công ơn giáo hóa sâu dầy của Phật cũng như của Thầy Tổ, đối với người
học đạo lôi thôi thì họ không thấy không biết, vì họ không nhận được sự lợi ích,
vẫn còn mê mờ khổ đau. Còn người học Phật chân chính, càng tu càng thấy công
ơn của Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, và công ơn của Thầy Tổ trực tiếp
hướng dẫn chúng ta tu học cũng không phải nhỏ. Tại sao vậy ? Vì ở thế gian
chúng ta học về ngôn ngữ, luận lý, công nghệ, giúp cho chúng ta khôn ngoan lanh
lợi, ăn nói lưu loát. Có nghề nghiệp để sinh sống thì chúng ta có danh vị quyền lợi,
được giàu sang no ấm, cao lắm là một đời người bốn năm mươi năm, mà chúng ta
còn mang ơn thầy dạy suốt đời. Đối với đức Phật, từ vô lượng kiếp chúng ta vô
minh tạo nghiệp, đi trong luân hồi sanh tử chịu khổ triền miên. Nay được Phật chỉ
dạy cho phương pháp tu hành, nhận ra Tri kiến Phật thoát ly sanh tử, đời đời kiếp
kiếp không còn khổ đau. Như vậy, công ơn của Phật đối với chúng ta chừng bao
nhiêu? Không thể tính kể, khó mà đền đáp ! Cho dù tâm cung kính đảnh lễ, đầu
đội Phật, vai cõng Phật, hoặc dâng cúng thức ăn, y phục, thuốc thang, sàng tòa
toàn bằng vật quí báu, hoặc xây tháp miếu thờ tượng Phật trải qua vô lượng kiếp,
cũng không đền đáp được công ơn của Phật. Tại sao vậy ? Vì tất cả việc làm đó
đều là hình thức, là tướng sanh diệt nên có giới hạn. Còn Phật chỉ bày Tri kiến
Phật là cái không hình tướng, không giới hạn, chúng ta nhận ra và hằng sống với
nó thì dứt khổ đau vĩnh viễn. Lấy cái giới hạn mà đáp cái vô hạn làm sao đáp
được ? Khi đã biết ơn Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, thì cái ơn gần nhất là
Thầy Tổ, đã có công nối tiếp nhắc nhở lời Phật dạy cho chúng ta nghe để tu, thì
công ơn ấy cũng không thể kể xiết.
Vì vậy ngài Ma-ha Ca-diếp tán thán công ơn của Phật không thể tính kể,
không thể đền đáp. Vì thương và làm lợi ích cho đệ tử mà đức Phật đã phương tiện,
tùy nghi phân biệt giảng dạy từ thấp lên cao, cuối cùng đưa các Ngài từ quả vị
Thanh văn đến đạo Nhất thừa rốt ráo.
D
PHẨM 5: DƯỢC THẢO DỤ
Dược Thảo Dụ là ví dụ cây cỏ thuốc. Ngang đây đáng lý Phật thọ ký cho
các vị Tỳ-kheo và A-la-hán. Nhưng vì Phật muốn nói rộng cho hàng Thanh văn
thấy rõ công đức chân thật của Như Lai, rồi sau mới thọ ký, nên Phật nói phẩm
Dược Thảo Dụ này.
1. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-diếp và các vị đại đệ tử:
“Hay thay ! Hay thay ! Ca-diếp! Khéo nói được công đức chân thật của đức Như
Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như Lai lại còn có vô lượng vô biên atăng-kỳ
công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được.
Ca-diếp nên biết ! Đức Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi
đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng trí huệ phương tiện mà diễn nói
đó, pháp của Phật nói thảy đều đến bậc Nhứt thiết trí. Đức Như Lai xem biết chỗ
qui thú của tất cả pháp, cũng rõ biết chỗ tâm sở hành của tất cả chúng sanh thông
thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ
cho các chúng sanh.
GIẢNG :
Đức Phật xác nhận tôn giả Ma-ha Ca-diếp khéo tán thán công đức của Như
Lai. Đúng như lời của tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói, Như Lai còn có vô lượng vô
biên công đức, dù trải qua vô số kiếp nói cũng không hết được. Sở dĩ Như Lai có
được công đức như thế do Ngài tu nhân lành vô lượng vô biên, là hành Lục độ bala-mật,
độ vô số chúng sanh được giải thoát. Ngài tu mãi cho đến khi công hạnh
viên mãn thành Phật mới thôi. Còn hàng phàm phu chúng ta chỉ tu được nhân
phước báo của nhân thiên, nó hữu lượng hữu biên, nên thành tựu quả cũng hữu
lượng hữu biên, vì vậy còn quanh quẩn trong cõi trời cõi người. Ở đây nói trì kinh
Pháp Hoa có công đức nhiều là vì kinh này dạy Bồ-tát tu đến Phật quả mới viên
mãn công hạnh, chớ không dừng ở bất cứ quả vị nào. Quả Phật là chỗ cứu cánh
của người tu Phật, nên nói kinh Pháp Hoa là vua các kinh là nghĩa đó.
Phật lại nói Như Lai là vua tất cả pháp, nói lời không hư dối, dùng sức trí
huệ phương tiện nói pháp đều đưa chúng sanh đến bậc Nhứt thiết trí. Như Lai biết
chỗ qui thú của tất cả pháp, cũng biết rõ tâm sở hành của chúng sanh. Chỗ qui thú
của tất cả pháp là nguồn cội của các pháp, Phật giác ngộ thấy rõ nhân nào đưa
chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử, nhân nào đưa chúng sanh tới chỗ giải thoát
Niết-bàn. Ngài thấy tận nguồn cội của pháp hữu vi sanh diệt ở thế gian và pháp vô
vi bất sanh bất diệt xuất thế gian. Bởi thấy tận nguồn cội của các pháp, nên thấy
được tâm sở hành của chúng sanh, tức là tâm ưa thích đến chỗ này đến chỗ kia của
chúng sanh. Do biết pháp và biết tâm người nên Phật giáo hóa thông suốt không
chướng không ngại. Chúng ta hiện thời, pháp thì biết chút ít, tâm người cũng biết
sơ sơ, nên giáo hóa thường bị chướng ngại. Nếu biết pháp mà không biết tâm
người, thì nói pháp chỉ khế lý mà không khế cơ nên người nghe không thỏa mãn, 
không thực hành theo, không được lợi ích, do đó có chướng ngại. Nếu biết tâm
người mà không biết pháp thì cũng không giáo hóa được, vì chính bản thân mình
chưa tu chưa tiến, làm sao biết rõ đường hướng để chỉ dạy cho người tu theo ? Thế
nên giáo hóa mà bị chướng ngại là lỗi tại chúng ta chưa được trí tuệ viên mãn,
không biết pháp không rõ tâm người!
2. CHÁNH VĂN :
*Ca-diếp ! Thí như trong cõi tam thiên đại thiên nơi núi, sông, khe, hang,
ruộng, đất, sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi
màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam thiên đại thiên, đồng thời
mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm. Cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ
gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ; hoặc thứ gốc bậc vừa, thân vừa, nhánh vừa,
lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thọ khác nhau.
Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh
trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần
mà các cỏ cây đều có sai khác.
GIẢNG :
Phật dụ mặt đất sanh ra cây cỏ thuốc, cây nhỏ, cây vừa, cây lớn, màu sắc
tên gọi khác nhau. Một trận mưa xuống, tùy theo khả năng của mỗi loại mà thấm
nhuần sinh trưởng khác nhau. Ở đây nêu lên hai cái bình đẳng. Bình đẳng thứ nhứt
là cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, tất cả đều từ đất mọc lên. Bình đẳng thứ hai là dù cây
nhỏ cây vừa, hoặc cây lớn cũng được nước của trận mưa rưới đều. Cùng từ đất
mọc lên, cùng nhận nước từ một trận mưa, mà sức hấp thụ phân nước của mỗi loại
sai khác, nên thấm nhuần và sinh trưởng cũng sai khác.
Đất là dụ cho Tri kiến Phật nơi mỗi chúng sanh ai cũng có sẵn. Mưa là dụ
cho pháp Phật dạy chung cho tất cả, nhưng tùy theo sự mê muội của mỗi chúng
sanh dầy hay mỏng mà nhận hiểu sâu hay cạn. Đó là do căn cơ của mỗi loại mà lợi
ích có sai khác, không phải pháp Phật dành cho người cao hay dành cho người
thấp. Vì căn cơ sai biệt nên pháp trở thành sai biệt. Cũng như trong pháp hội này,
thính chúng đều là người xuất gia, ai cũng muốn nghe pháp mà đến đây. Tôi giảng
cũng bình đẳng không đặc biệt dành riêng cho một người nào. Nhưng trong đây,
có người hiểu sâu, có người hiểu cạn, có người nghe vui vẻ hân hoan, có người
nghe không hiểu buồn ngủ... Có phải tại tôi nói pháp chú ý người này nên họ vui
vẻ hân hoan, bỏ rơi người nọ nên họ buồn ngủ không ? Tôi nói pháp bình đẳng,
đối với người có khả năng tiếp thu được, họ hiểu nên họ vui. Người thiếu khả năng,
nghe không hiểu nên buồn ngủ. Đó là do trình độ người nghe sai biệt nên hiểu biết
cũng sai biệt.
Qua ví dụ trên, chúng ta thấy rằng sở dĩ Phật nói ba thừa là tại căn cơ của
chúng sanh sai biệt, nên Ngài tùy thuận nói, nhưng chỗ thú hướng bình đẳng là
Ngài qui Tam thừa trở về Nhất thừa. Đó là ý nghĩa cùng một thửa đất cùng một
đám mưa, nhưng tùy loại giống mà hấp thụ phân nước khác nhau nên có cây lớn,
cây trung, cây nhỏ khác nhau.
3. CHÁNH VĂN : 
*Ca-diếp nên biết ! Đức Như Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là
vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, a-tula,
như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam thiên đại thiên. Phật ở trong đại chúng
mà xướng lời nầy:
“Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật
Thế Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm
cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời
làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc
Nhứt thiết trí, bậc Nhứt thiết kiến, là bậc Tri đạo, bậc Khai đạo, bậc Thuyết đạo.
Các ngươi, hàng trời, người, a-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy.”
Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Phật mà
nghe pháp. Lúc đó đức Như Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của
chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại
nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy
nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng
vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại, ở trong
các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.
Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng, và các cỏ thuốc,
theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
Đức Như Lai nói pháp một tướng, một vị, nghĩa là: tướng giải thoát, tướng
xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc “Nhứt thiết chủng trí”. Có chúng sanh nào nghe
pháp của Như Lai hoặc thọ trì, đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức
tự mình không hay biết.
Vì sao ? Vì chỉ có Như Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó:
Nhớ việc gì ? Nghĩ việc gì ? Tu việc gì ? Nhớ thế nào ? Nghĩ thế nào ? Tu thế nào ?
Dùng pháp gì để nhớ ? Dùng pháp gì để nghĩ ? Dùng pháp gì để tu ? Dùng pháp gì
được pháp gì ?
Chúng sanh ở nơi các bậc, chỉ có đức Như Lai thấy đó đúng như thật, rõ
ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng, các cỏ thuốc kia không tự biết tánh
thượng, trung, hạ của nó.
Đức Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: tướng giải thoát,
tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không,
Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên
chẳng liền vì chúng vội nói “Nhứt thiết chủng trí”.
Ca-diếp ! Các ông rất là hy hữu, có thể rõ biết đức Như Lai tùy cơ nghi nói
pháp hay tin hay nhận, vì sao ? Vì các đức Phật Thế Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó
hiểu khó biết.
GIẢNG :
Tới đây, chúng ta thấy như đức Phật tự khen mình. Nhưng kỳ thật Phật xác
định công đức Như Lai rộng lớn như vậy, là do làm lợi ích cho chúng sanh trong
vô số kiếp mới được thành tựu quả Phật. Ngài tuyên bố dõng dạc rằng: Khả năng
và sở nguyện của Ngài là làm lợi ích chúng sanh đến chỗ viên mãn. Đối với người 
chưa được độ Ngài làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ Ngài làm cho tỏ ngộ,
người chưa an Ngài làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn Ngài làm cho
chứng Niết-bàn, ở đời này và đời sau, Ngài đều biết đúng như thật. Ngài là bậc
Nhứt thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Tri đạo, bậc Khai đạo, bậc Thuyết đạo.
Hàng trời, người, a-tu-la nên đến để nghe pháp.
Xét lại, chúng ta và chúng sanh đời sau chưa được độ, chưa được tỏ ngộ,
chưa được an, chưa được Niết-bàn mà Phật đã diệt độ rồi, sao ở đây Ngài lại nói
như thế ? Đức Phật là đấng Vô thượng sư, một ông thầy không có ai hơn được.
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài thường khuyên dạy các Tỳ-kheo phải y theo pháp
mà nỗ lực tu hành. Muốn đền ơn Phật là phải giáo hóa chúng sanh, giáo hóa
chúng sanh là đền ơn Phật. Chúng ta ở đời này cũng như chúng sanh ở đời sau
không có duyên gặp Phật. Thuở Phật ra đời, không biết chúng ta là loài chúng
sanh nào, có thể là kiến hay muỗi cắn Phật một chút, do cái duyên đó nên ngày
nay cách Phật mấy ngàn năm mới được gặp Phật pháp tu hành. Tuy gặp Phật pháp
mà chỉ gặp gián tiếp, chớ không được gặp trực tiếp. Chính vì lời dạy trên của Phật,
mà sau khi Phật Niết-bàn, hàng đệ tử lớn của Ngài ghi chép lời dạy của Ngài thành
Tam tạng giáo điển lưu truyền cho đời sau. Người đi trước đã tu học, dạy cho
người sau được tu học, cứ thế mà truyền mãi cho tới ngày nay, nên tất cả chúng ta
cũng được gặp Phật pháp. Tuy chúng ta không tỏ ngộ như người xưa, nhưng cũng
được phần tỉnh sáng, tuy không được Niết-bàn an vui vĩnh viễn như người xưa,
nhưng cũng được những giờ phút an ổn. Ngày nay chúng ta được phúc duyên ngồi
đây nghe pháp, là chúng ta đã được Phật gián tiếp độ rồi. Chúng ta được tỉnh sáng
phần nào là nhờ Phật mà được tỏ ngộ. Tâm chúng ta bớt phiền não là nhờ Phật mà
được an. Như vậy lời nói của Phật không dối.
Sở dĩ đạo Phật tồn tại hơn hai ngàn năm trăm năm nay là do giáo pháp Phật
còn, và còn người tu đúng theo pháp Phật. Ngoài ra chùa chiền, di tích, nghi thức
tôn giáo chưa phải là yếu tố chính để duy trì Phật pháp. Trọng tâm của sự truyền
bá đạo Phật, là phải làm sao chính mình thông hiểu và thực hành đúng pháp Phật,
để được lợi ích thực tiễn, rồi dạy người hiểu và tu đúng theo pháp Phật, được lợi
ích như mình. Cho nên chúng tôi tự thấy trách nhiệm là phải làm sao cho Tăng Ni
và Phật tử hiểu, thực hành được những gì mà chúng tôi đã hiểu, đã thực hành, thì
khả dĩ Phật pháp mới được trường tồn. Nếu hiểu Phật pháp mà không tu hoặc tu
sai, hay tu mà không hiểu Phật pháp là tự mình hủy diệt mình, tự làm cho đạo Phật
không còn giá trị chân chính nữa.
Phật nói Ngài là bậc Nhứt thiết trí, tức là trí Phật biết được tất cả. Bậc Nhất
thiết kiến, tức là Phật thấy được tất cả. Bậc Tri đạo, tức là Phật biết đường để dẫn
cho mọi người đi. Bậc Khai đạo, tức Phật là người mở đường cho chúng sanh đi.
Bậc Thuyết đạo, tức Phật là người nói con đường cho chúng sanh biết để đi. Vì
vậy nên tất cả hãy đến để nghe. Phật biết rõ trình độ của chúng sanh nào là lợi căn,
độn căn, tinh tấn, giải đãi... Ngài tùy theo căn cơ của họ mà giảng nói để họ cũng
được lợi ích. Ngài không bỏ sót một người nào, khôn lanh Phật cũng độ, dại khờ
Phật cũng độ, siêng năng Phật cũng độ, lười biếng Phật cũng độ. Nên Ngài nói ai
ai cũng đều được lợi lành, được an ổn, đời sau sanh vào cõi lành, hưởng vui sướng. 
Nhờ nghe pháp Phật mà bớt chướng ngại, lần lần sẽ được vào đạo, chứng Phật quả.
Pháp Phật ví như một đám mưa lớn rưới khắp tất cả cỏ cây, tùy theo giống của
mỗi loại đều được hấp thụ, đượm nhuần và sanh trưởng.
Pháp Phật nói chỉ có một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, vị giải thoát.
Phật giáo hóa suốt bốn mươi chín năm, Ngài nói pháp rất nhiều, tại sao chỉ có một
tướng giải thoát, một vị giải thoát ? Như chúng ta biết, Phật nói pháp thấp nhất là 5
giới, người giữ 5 giới là giải thoát được 5 phần chướng nạn. Ví dụ người có tật
tham lam trộm cắp, khi phát nguyện giữ 5 giới thì không trộm cắp nữa, không
trộm cắp là đã giải thoát được cái nạn bị bắt bớ đánh đập tù tội. Người ghiền rượu
khi phát nguyện giữ 5 giới thì giải thoát được cái nạn nghiện ngập say sưa. Vậy
giữ một giới là giải thoát được một nạn chướng, giữ hai giới là giải thoát được hai
nạn chướng... Trong luật gọi là từng phần giải thoát. Như vậy không phải pháp
Phật có một vị là vị giải thoát sao?
Tướng xa lìa là xa lìa tham sân si, phiền não chấp trước. Đối trước danh lợi,
tài sắc... biết là giả dối không thiệt, không khởi tham sân si, chấp trước, đó là xa
lìa, chớ không phải chạy trốn danh lợi, tài sắc mới gọi là xa lìa. Tướng diệt là sạch
hết mọi vọng niệm, tâm thanh tịnh, hướng đến bậc Nhất thiết chủng trí. Sở dĩ Phật
dạy cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát, là vì Ngài được Nhất thiết chủng trí,
tức là trí biết được mọi chúng sanh. Nên ai nghe kinh này rồi thọ trì, đọc tụng và
đúng như lời Phật dạy mà tu hành thì người đó được công đức tự mình không hay
biết, không thể suy lường. Chúng ta ngày nay chỉ đọc tụng mà không đúng như lời
Phật dạy để tu hành, cho rằng đọc tụng nhiều là tu nhiều. Tu và đọc có giống nhau
không ? Nếu bảo đọc tụng kinh là tu, tôi cho rằng chưa đúng. Vì sao ? Ví dụ một
bệnh nhân đến bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ cho toa bảo về nhà mua đủ những thứ
thuốc ghi trong toa mà uống sẽ lành bệnh. Bệnh nhân đem toa về cứ đọc tới đọc
lui hiệu thuốc ghi trong toa, mà không mua thuốc để uống. Như thế bệnh có lành
không ? Cũng vậy, ở đây Phật dạy đọc tụng rồi đúng như lời dạy của Phật mà tu
hành mới được công đức. Phải hiểu chỗ này cho thật kỹ. Đọc rồi nhớ ứng dụng lời
Phật dạy vào cuộc sống đó là tu, chớ không phải đọc tụng suông như đọc toa thuốc
mà gọi là tu được.
Hiện tại có rất nhiều người tụng kinh Pháp Hoa, tu theo kinh Pháp Hoa,
nhưng chúng ta tụng và tu theo kinh Pháp Hoa với tâm niệm gì ? Cầu trí tuệ Phật
hay cầu phước báo, cầu lợi lộc ? Nếu cầu phước cầu lợi là phản bội kinh Pháp Hoa
rồi ! Tôi xin nhắc lại kinh Pháp Hoa dạy tu để được Nhứt thiết chủng trí, tức là tu
để được trí tuệ Phật. Phật dạy một đàng chúng ta làm một nẻo, mà cho là trì kinh,
cho là mình tu cao, chỉ tăng trưởng lòng tham, tăng trưởng ngã mạn. Đó là một cái
bệnh mà ít ai biết. Nói lời thật thì khó nghe và làm mích lòng người. Nhưng biết,
thấy người tu sai mà không nói thì vấp phải cái lỗi bỏn xẻn, nên buộc lòng chúng
tôi phải nói. Giảng kinh Pháp Hoa là phải làm sáng tỏ lý kinh, chớ để cho người tu
theo kinh Pháp Hoa mà tu lầm, tu sai thì không được.
Tại sao trì tụng kinh và đúng như lời dạy của Phật tu hành mà không tự biết
công đức ? Vì mình không tự biết mình căn cơ ở bậc thượng, bậc trung hay bậc hạ.
Chỉ có Phật mới biết, nên Ngài mới bủa ra nhiều pháp môn. Chúng sanh thích hợp 
với pháp môn nào thì ứng dụng pháp môn đó mà tu hành, chớ tự mình không biết.
Phật do được Nhứt thiết chủng trí mới biết được chủng tướng, thể tánh của chúng
sanh: Nhớ việc gì ? Nghĩ việc gì ? Tu việc gì ? Nhớ thế nào ? Nghĩ thế nào ? Tu
thế nào ? Dùng pháp gì để nhớ ? Dùng pháp gì để nghĩ ? Dùng pháp gì để tu ? Và
được pháp gì ? Nên Ngài đúng theo từng tâm niệm của chúng sanh mà giáo hóa
được kết quả thiết thực. Chúng ta tu chưa được Nhứt thiết chủng trí, nói pháp
không đúng tâm niệm của chúng sanh nên không có kết quả tốt.
Xưa ngài A-nan hướng dẫn cho hai vị đệ tử Sa-di tu, một vị Ngài dạy quán
sổ tức, một vị Ngài dạy quán bất tịnh. Cả hai tu một thời gian không kết quả, khi
gặp lại Ngài, hai vị trình là tu không tiến bộ. Ngài A-nan thắc mắc tại sao mình
dạy tu đúng với pháp Phật mà đệ tử tu không có kết quả. Ngài bèn trình việc này
lên Phật, Phật hỏi hai vị đó trước làm nghề gì. Ngài A-nan thưa, một người làm
thợ rèn, một người giữ nghĩa địa. Phật nói ngài A-nan dạy tu không hợp căn cơ
của người. Với người thợ rèn thì nên dạy tu sổ tức, vì thợ rèn hay thụt ống bễø,
dạy quán sổ tức họ dễ nhớ dễ thực hành. Người giữ nghĩa địa thường thấy thây
chết nên dạy quán bất tịnh. Theo lời Phật, ngài A-nan dạy hai vị Sa-di tu một thời
gian được kết quả tốt. Để thấy chúng ta chưa được Nhứt thiết chủng trí, không biết
tâm hành của chúng sanh, nên giáo hóa không có kết quả. Vì vậy, chúng ta tu nửa
chừng như hiện nay, dù có thông minh đến đâu đi nữa, cũng chưa đủ phương tiện
giáo hóa người, nên đừng tự mãn mà phải tu cho đến chỗ rốt ráo thành Phật mới
thôi.
Phật lặp lại một lần nữa là pháp Phật có một tướng giải thoát, tướng xa lìa,
tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không. Là chỉ cho
Niết-bàn tịch diệt không có tướng mạo, không sanh diệt, không vô thường. Phàm
cái gì có hình tướng thì sanh diệt, vô thường, là duyên hợp huyễn hóa không thật.
Do đó Phật mới dùng phương tiện để đưa mọi người tu từ thấp lần lần lên cao, rồi
đến Trí tuệ Phật là cái chân thật. Nên nói Như Lai tùy cơ nghi nói pháp mà tâm
phàm phu chúng ta khó có thể hiểu biết được.
Tới đây Phật khen Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Ma- ha Ca-chiên-diên, Ma-ha
Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề rất là hi hữu ít có. Tại sao Phật khen các Ngài rất ít có ?
Vì các Ngài biết rõ Phật tùy cơ nghi nói pháp nên tin nhận được, chỗ khó hiểu khó
biết bây giờ các Ngài đã hiểu đã biết. Như vậy là các Ngài xứng đáng gánh vác
trách nhiệm mà Phật giao phó, nên Phật khen để rồi sau này Phật thọ ký.
4. CHÁNH VĂN :
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 *Pháp vương phá các cõi
 Hiện ra trong thế gian
 Theo tánh của chúng sanh
 Dùng các cách nói pháp.
 Đức Như Lai tôn trọng
 Trí huệ rất sâu xa
 Lâu giữ pháp yếu này
 Chẳng vội liền nói ra 
 Người trí nếu được nghe
 Thời có thể tin hiểu,
 Kẻ không trí nghi hối
 Thời bèn là mất hẳn.
 Ca-diếp ! Vì cớ đó
 Theo sức chúng nói pháp
 Dùng các món nhân duyên
 Cho chúng được chánh kiến.
 Ca-diếp ông nên biết !
 Thí như vừng mây lớn
 Nổi lên trong thế gian
 Che trùm khắp tất cả
 Mây trí huệ chứa nhuần
 Chớp nhoáng sáng chói lòa
 Tiếng sấm xa vang động
 Khiến mọi loài vui đẹp
 Nhựt quang bị che khuất
 Trên mặt đất mát mẻ
 Mây mù sa bủa gần
 Dường có thể nắm tới.
 Trận mưa đó khắp cùng
 Bốn phương đều xối xuống
 Dòng nước tuôn vô lượng
 Cõi đất đều rút đầy
 Nơi núi sông hang hiểm
 Chỗ rậm rợp sanh ra
 Những cây cối cỏ thuốc
 Các thứ cây lớn nhỏ
 Trăm giống lúa mộng mạ
 Các thứ mía cùng nho
 Nhờ nước mưa đượm nhuần
 Thảy đều tươi tốt cả.
 Đất khô khắp được rưới
 Thuốc cây đều sum sê
 Vừng mây kia mưa xuống
 Nước mưa thuần một vị
 Mà cỏ cây lùm rừng
 Theo mỗi thứ đượm nhuần
 Tất cả các giống cây
 Hạng thượng, trung cùng hạ
 Xứng theo tánh lớn nhỏ
 Đều được sanh trưởng cả.
 Gốc thân nhánh và lá 
 Trổ bông trái sắc vàng
 Một trận mưa rưới đến
 Cây cỏ đều thấm mướt
 Theo thể tướng của nó
 Tánh loại chia lớn nhỏ
 Nước đượm nhuần vẫn một
 Mà đều được sum sê.
GIẢNG :
Phần trùng tụng lặp lại ý chính ở trên là, Phật ra đời cốt chỉ cho mọi người
nhận ra Tri kiến Phật. Nhưng vì căn cơ chúng sanh không đồng, nên phải tùy theo
trình độ mà giáo hóa có sai biệt, để cho người cao cũng như người thấp đều nhận
được lợi ích và cuối cùng Ngài đưa đến chỗ cứu kính bình đẳng là quả Phật. Phật
dụ pháp Phật bình đẳng như nước mưa có một vị ngọt rưới khắp cỏ cây lớn nhỏ,
tùy mỗi loại cây mà hấp thụ nước sai biệt, nhưng loại nào cũng bình đẳng nhận lợi
ích.
5. CHÁNH VĂN :
 *Đức Phật cũng như thế
 Hiện ra nơi trong đời
 Ví như vầng mây lớn
 Che trùm khắp tất cả.
 Đã hiện ra trong đời
 Bèn vì các chúng sanh
 Phân biệt diễn nói bày
 Nghĩa thật của các pháp
 Đấng Đại Thánh Thế Tôn
 Ở trong hàng trời người
 Nơi tất cả chúng hội
 Mà tuyên nói lời này:
 Ta là bậc Như Lai
 Là đấng Lưỡng Túc Tôn
 Hiện ra nơi trong đời
 Dường như vừng mây lớn
 Thấm nhuần khắp tất cả
 Những chúng sanh khô khao
 Đều làm cho lìa khổ
 Được an ổn vui sướng
 Hưởng sự vui thế gian
 Cùng sự vui Niết-bàn.
 Các chúng trời người nầy
 Một lòng khéo lóng nghe
 Đều nên đến cả đây
 Ra mắt đấng Vô thượng
 Ta là đấng Thế Tôn 
 Không có ai bằng được
 Muốn an ổn chúng sanh
 Nên hiện ra trong đời
 Vì các đại chúng nói
 Pháp cam lồ trong sạch
 Pháp đó thuần một vị
 Giải thoát Niết-bàn thôi.
 Dùng một giọng tiếng mầu
 Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy
 Đều thường vì Đại thừa
 Mà kết làm nhân duyên
 Ta xem tất cả chúng
 Khắp đều bình đẳng cả
 Không có lòng bỉ thử
 Cùng với tâm yêu ghét
 Ta không chút tham đắm
 Cũng không có hạn ngại
 Hằng vì tất cả chúng
 Mà bình đẳng nói pháp
 Như khi vì một người
 Lúc chúng đông cũng vậy
 Thường diễn nói pháp luôn
 Từng không việc gì khác
 Ngồi, đứng, hoặc đến, đi
 Trọn không hề nhàm mỏi
 Đầy đủ cho thế gian
 Như mưa khắp thấm nhuần
 Sang hèn cùng thượng, hạ
 Giữ giới hay phá giới
 Oai nghi được đầy đủ
 Và chẳng được đầy đủ
 Nguời chánh kiến, tà kiến
 Kẻ độn căn, lợi căn
 Khắp rưới cho mưa pháp
 Mà không chút nhàm mỏi.
 Tất cả hàng chúng sanh
 Được nghe pháp của ta
 Tùy sức mình lãnh lấy
 Trụ ở nơi các bực
 Hoặc là ở trời, người
 Làm Chuyển Luân Thánh vương
 Trời, Thích, Phạm, các vua
 Đó là cỏ thuốc nhỏ
 Hoặc rõ pháp vô lậu
 Hay chứng được Niết-bàn
 Khởi sáu pháp thần thông
 Và được ba món minh
 Ở riêng trong núi rừng
 Thường hành môn thiền định
 Chứng được bực Duyên giác
 Là cỏ thuốc bực trung.
 Hoặc cầu bực Thế Tôn
 Ta sẽ được thành Phật
 Tu hành tinh tấn, định
 Là cỏ thuốc bực thượng.
 Lại có hàng Phật tử
 Chuyên tâm nơi Phật đạo
 Thường thật hành từ bi
 Tự biết mình làm Phật
 Quyết định không còn nghi
 Gọi đó là cây nhỏ.
 Hoặc an trụ thần thông
 Chuyển bất thối pháp luân
 Độ vô lượng muôn ức
 Trăm nghìn loài chúng sanh
 Bồ-tát hạng như thế
 Gọi đó là cây lớn.
 Phật chỉ bình đẳng nói
 Như nước mưa một vị
 Theo căn tánh chúng sanh
 Mà hưởng thọ không đồng
 Như những cỏ cây kia
 Được đượm nhuần đều khác.
 *Phật dùng món dụ này
 Để phương tiện chỉ bày
 Các thứ lời lẽ hay
 Đều diễn nói một pháp
 Ở nơi trí huệ Phật
 Như một giọt trong biển.
 Ta rưới trận mưa pháp
 Đầy đủ khắp thế gian
 Pháp mầu thuần một vị
 Tùy sức riêng tu hành,
 Như thể lùm rừng kia
 Và cỏ thuốc những cây
 Tùy giống lớn hay nhỏ
 Lần lần thêm sum sê.
 Pháp của các đức Phật
 Thường dùng thuần một vị
 Khiến cho các thế gian
 Đều khắp được đầy đủ
 Lần lựa siêng tu hành
 Rồi đều được đạo quả.
 Hàng Thanh văn, Duyên giác
 Ở nơi chốn núi rừng
 Trụ thân hình rốt sau
 Nghe Phật pháp được quả
 Đó gọi là cỏ thuốc
 Đều được thêm lớn tốt.
 Nếu các vị Bồ-tát
 Trí huệ rất vững bền
 Rõ suốt cả ba cõi
 Cầu được thừa tối thượng
 Đó gọi là cây nhỏ
 Mà được thêm lớn tốt.
 Lại có vị trụ thiền
 Được sức thần thông lớn
 Nghe nói các pháp không
 Lòng rất sanh vui mừng
 Phóng vô số hào quang
 Độ các loài chúng sanh
 Đó gọi là cây lớn
 Mà được thêm lớn tốt
 Như thế, Ca-diếp này !
 Đức Phật nói pháp ra
 Thí như vừng mây lớn
 Dùng nước mưa một vị
 Đượm nhuần nơi hoa người
 Đều được kết trái cả
 Ca-diếp ông phải biết
 Ta dùng các nhân duyên
 Các món thí dụ thảy
 Để chỉ bày đạo Phật
 Đó là ta phương tiện
 Các đức Phật cũng thế
 Nay ta vì các ông
 Nói việc rất chân thiệt
 Các chúng thuộc Thanh văn
 Đều chẳng phải diệt độ
 Chỗ các ông tu hành
 Là đạo của Bồ-tát
 Lần lần tu học xong
 Thảy đều sẽ thành Phật.
GIẢNG :
Pháp Phật nói thì bình đẳng, không đặc biệt chú trọng kẻ thân người sơ, kẻ
thấp người cao... Hạng người nào đến với Phật, Phật đều bình đẳng giáo hóa cho,
không có tâm bỉ thử cùng với tâm yêu ghét. Nên việc giáo hóa của Ngài không
chướng ngại, không hạn cuộc, khiến cho người nghe ai ai cũng đều được lợi ích.
Tuy nhiên, tùy theo hạnh nguyện của mỗi người, mà sự lợi ích có sai biệt. Đối với
người nghe pháp Phật, phát tâm qui y giữ 5 giới mong đời sau làm người lương
thiện hưởng phước lành. Hoặc người phát tâm tu Thập thiện mong đời sau sanh
lên cõi trời hưởng phước báo an vui, hoặc làm Chuyển Luân Thánh vương. Những
người tu với hạnh nguyện như thế, Phật dụ như cỏ thuốc nhỏ. Đối với người tu
theo pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, mong chứng quả Thanh văn, Duyên giác,
Phật dụ như loại cỏ thuốc bậc trung. Đối với người tu chỉ mong cầu thành Phật
không mong cầu quả vị nào khác và tinh tấn tu hành, tin mình sẽ thành Phật, Phật
dụ như loại cỏ thuốc bậc thượng. Đối với hàng Bồ-tát mới phát tâm, thực hành
hạnh từ bi, làm lợi ích chúng sanh, tinh tấn tu hành, tin mình sẽ thành Phật không
còn nghi ngờ nữa. Hàng Bồ-tát này, Phật dụ như loại cây nhỏ... Đối với hàng Bồ-
tát an trụ thần thông, chuyển pháp luân bất thối, độ vô lượng vô số chúng sanh,
đây chỉ cho hàng Bồ-tát từ Sơ địa cho tới Thập địa. Hàng Bồ-tát này được Phật dụ
như loài cây lớn.
Trong năm hạng người phát tâm tu với hạnh nguyện sai khác, được Phật dụ
cho ba loại cỏ và hai loại cây. Chúng ta tự kiểm lại xem chúng ta thuộc hạng nào
trong năm hạng này ? Ở đây đức Phật cụ thể hóa ví dụ, là trình độ chúng sanh tuy
sai biệt nên pháp tu có thấp cao, nhưng pháp Phật thì bình đẳng chỉ có một vị giải
thoát. Bởi pháp Phật bình đẳng chỉ có một vị giải thoát, tuy lúc đầu phát tâm nhỏ,
tu giữ năm giới, tu thập thiện, nhưng dần dần sẽ tiến đến chỗ viên mãn là thành
Phật, chớ không có dừng nghỉ ở một quả vị nửa chừng.
Phẩm Dược Thảo Dụ nói lên tâm bình đẳng của Phật khi giáo hóa chúng
sanh, giống như nước mưa rưới khắp tất cả loài cây cỏ. Và chúng sanh ai ai cũng
có Tri kiến Phật, bình đẳng như nhau cùng nghe pháp Phật, tùy theo căn cơ sai biệt
mà lợi ích có sai khác. Nhưng cuối cùng rồi cũng được thành Phật, giống như các
loài cây cỏ đều từ mặt đất mọc lên tùy loại giống mà hấp thụ nước mưa sai khác,
nhưng tất cả cây lớn hay cỏ nhỏ loại nào cũng đều được sanh trưởng.
D
PHẨM 6: THỌ KÝ
GIẢNG :
Thọ ký có nghĩa là trao nhận. Tức là đức Phật biết người đệ tử công hạnh tu
hành sắp viên mãn Ngài liền thọ ký cho vị đó sẽ thành Phật. Tùy theo công hạnh
và thời gian tu hành dài hoặc ngắn mà Phật thọ ký có sai biệt. Việc thọ ký của Phật
giống như thiền sư truyền tâm ấn cho đệ tử. Khi trò ngộ đạo, chỗ thấy biết của trò
ngang bằng chỗ thấy biết của thầy, thầy thấy như thế nào trò thấy như thế ấy,
ngang đây thầy ấn chứng cho trò. Tôi ví dụ để quí vị tạm hiểu, ông cha có một đứa
con đi học, đứa bé thông minh học giỏi thường đứng đầu lớp, mỗi năm học mỗi
lên lớp, hết cấp tiểu học lên trung học rồi lên đại học. Nếu nó chuyên ngành khoa
học và vẫn học giỏi dẫn đầu lớp, có người hỏi con ông chừng nào ra trường. Ông
trả lời bốn năm nó sẽ tốt nghiệp Cử nhân khoa học. Nếu nó chuyên ngành Y khoa
và cũng đứng đầu lớp thì ông cũng trả lời bảy năm nó sẽ tốt nghiệp Tiến sĩ y khoa.
Sở dĩ ông cha dám nói như vậy là vì ông biết khả năng của con mình. Ngược lại
nếu đứa con học bình thường, hay ngồi lại lớp thì ông cha không dám nói khẳng
định như thế. Cũng vậy, ở đây hàng đệ tử Phật đã trình bày chỗ thấu suốt lý Phật
dạy, phiền não đã sạch và đã chứng A-la-hán. Bấy giờ các Ngài hướng về Phật,
nhận ra Tri kiến Phật để tu, không còn nghi ngờ nên ngang đây đức Phật thọ ký
cho sẽ thành Phật.
Phẩm Tựa nói tổng quát toàn bộ kinh. Phẩm Phương Tiện, Phật nêu lên bản
hoài của Phật ra đời là Khai Thị chúng sanh Ngộ Nhập Tri kiến Phật. Bấy giờ hội
chúng chỉ có hàng thượng căn bậc thượng như ngài Xá-lợi-phất nhận ra Tri kiến
Phật, còn hạng thượng căn bậc trung thì chưa nhận được. Vì vậy mà phẩm Thí Dụ,
Phật dẫn dụ một cách rõ ràng chủ đích của Phật ra đời, thì hàng thượng căn bậc
trung như ngài Ca-diếp, Tu-bồ-đề... mới ngộ được Phật Tri kiến. Nên đến phẩm
Tín Giải thì các Ngài ra trình sở ngộ lên đức Phật. Đáng lý tới đây là Phật thọ ký,
nhưng vì Phật thấy số người còn lại chưa thâm nhập nổi, nên Ngài nói thêm phẩm
Dược Thảo Dụ, để cho thấy rõ thâm ý của Phật là bình đẳng giáo hóa, đưa mỗi
người tiến tới chỗ cứu kính là thành Phật, chớ không để bất cứ một ai dừng ở một
quả vị thấp nào. Rồi sau đó, Phật mới thọ ký cho những đệ tử trình sở ngộ như
ngài Ma-ha Ca-diếp, Tu-bồ-đề... sẽ thành Phật.

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét