Kinh Pháp Hoa là một trong những quyển kinh quan trọng nhất chứa đựng tinh hoa của Phật giáo, mời bạn đọc cùng theo dõi phần 1 của quyển Kinh
LỜI ĐẦU SÁCH
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được
nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức và
phổ cập rộng trong quần chúng.
Giáo nghĩa trọng yếu của kinh Pháp Hoa là chỉ bày Tri kiến Phật có sẵn nơi
mỗi chúng sanh. Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi
thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm). Lại là thể của thân tâm,
thường trụ không sanh không diệt. Bất luận là hàng nam nữ xuất gia thiện trí, hay
hạng phàm nhân tại gia, cho đến kẻ ác tạo tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa và
những chúng sanh khác như loài rồng... cũng đều có Tri kiến Phật. Nếu biết và tin
nơi mình có Tri kiến Phật, liền khởi nhân tu hành thì sẽ được thành tựu quả Phật.
Kinh Pháp Hoa không ức dương đặc biệt cho một trình độ căn cơ nào, mà
bao dung tế độ hết thảy mọi chúng sanh không bỏ sót một loài nào. Nhưng vì căn
cơ chúng sanh không đồng, nên phải tùy theo trình độ mà giáo hóa có sai biệt, để
cho người cao cũng như người thấp đều nhận được lợi ích, và cuối cùng đưa đến
chỗ cứu kính bình đẳng là quả Phật. Do đó, kinh Pháp Hoa rất được nhiều thành
phần xuất gia, cũng như cư sĩ tôn quí, tín ngưỡng, thiết lặp nhiều đạo tràng trì tụng,
lễ kính, tu tập.
Hòa thượng Viện chủ tu viện Chân Không khôi phục Thiền tông trong bối
cảnh Phật giáo Việt Nam đương thời, không thể chỉ thẳng “chỗ cứu kính” cho
người trực ngộ, mà phải đem Kinh, Luận, Sử ra giảng dạy để cho thiền sinh thầm
hội lý kinh rồi liễu ngộ lý Thiền. Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh có
quan hệ với Thiền tông, nên Hòa thượng đem ra giảng dạy cho Tăng Ni và Phật tử
học.
Từ trước, chúng tôi cũng đã từng theo chúng tụng kinh Pháp Hoa, và cũng
đã từng theo học kinh Pháp Hoa trong những khóa giảng ở Sài Gòn; nhưng vẫn
chưa thông hiểu lý kinh và cũng không biết kinh Pháp Hoa dạy tu như thế nào.
Chẳng những riêng chúng tôi, mà đa số các bạn đồng tụng đồng học cũng cùng
tâm trạng đó. Nay duyên phuớc lớn hội đủ, chúng tôi được nghe Hoà thượng Viện
chủ giảng kinh Pháp Hoa; càng nghe chúng tôi càng sáng càng vui. Những điều
thắc mắc trong kinh từ trước đều được hóa giải. Pháp lạc này đối với chúng tôi
không lấy gì sánh được ! Đối với những pháp lữ khác, không rõ quí vị có những
cảm khái như thế nào, mà có một số người đến đề nghị chúng tôi nên sưu tập lời
giảng của Hòa thượng cho in thành sách, để có tài liệu nghiên cứu tu hành. Vì
những lý do trên mà kinh Pháp Hoa do Hòa thượng tu viện Chân Không giảng,
được sưu tập thành sách, được Hòa thượng xem qua và đồng ý cho xuất bản.
Bản kinh Pháp Hoa giảng giải này, chúng tôi phối hợp những bài giảng của
khóa I tại tu viện Chân Không và khóa III tại thiền viện Thường Chiếu. Vì phối
hợp bài giảng của hai khóa nên lý nghĩa vừa sâu lại cũng vừa rộng. Ý lời không
nhứt thiết của khóa I, mà cũng không hẳn của khóa III. Vậy nên quí vị đã trực tiếp
nghe Hòa thượng giảng tại Thường Chiếu chớ lấy làm thắc mắc: sao tập sách
không trung thực với lời giảng của Hòa thượng mà quí vị đã được nghe.
Cũng như những tập sách chúng tôi ghi từ lời giảng của Hòa thượng, mặc
dù cố gắng hết sức mình, nhưng sức người có hạn, chắc chắn không tránh khỏi sơ
sót lỗi lầm trong lúc làm việc. Kính mong quí vị độc giả thông cảm, bỏ qua cho
những lỗi mà chúng tôi đã vấp phải.
Thường Chiếu 12-4-1992 ÂL
THUẦN GIÁC
Kính ghi
"
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Kinh Pháp Hoa ở Việt Nam đã có nhiều nhà giảng giải. Tuy nhiên, hôm nay
tôi giảng kinh Pháp Hoa theo cái nhìn của Thiền tông. Nếu quí vị nghe, thấy có
chỗ dị biệt, chớ lấy làm lạ. Vì, đó là điểm đặc trưng của tinh thần triển khai kinh
điển theo chỗ thông hội lý kinh của người giảng giải.
LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ KINH
Kinh Pháp Hoa nguyên chữ Phạn (Sanskrit) tên Saddharmapundarika -
Suttra, được dịch ra chữ Hán bởi nhiều dịch giả với nhiều bản khác nhau.
Hiện nay còn đang lưu hành ba bản:
1.- Chánh Pháp Hoa Kinh, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn,
niên hiệu Vĩnh Khang ( ) tại Đôn Hoàng, gồm 10 quyển.
2.- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, vào đời Diêu
Tần, niên hiệu Hoằng Thủy và Long An (khoảng 396-397 Tây lịch) tại Trường An,
gồm 7 quyển, sau thêm thành 8 quyển.
3.- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do hai ngài Xà-na và Cấp-đa dịch vào đời
Tùy, niên hiệu Nhân Thọ (khoảng 601 Tây lịch), tại chùa Đại Hưng Thiện, gồm 7
quyển.
Dịch từ Hán văn ra Việt văn có những bản sau đây:
1/ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Đoàn Trung Còn dịch, xuất bản vào năm
1936. Bản dịch này, dung họp bản Hán văn của Cưu-ma-la-thập và bản Pháp văn
của Eugène Burnouf.
2/ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch, xuất bản
năm 1948. Bản dịch này căn cứ theo bản Hán văn của ngài Cưu-ma-la-thập.
3/ Pháp Hoa Huyền Nghĩa do Mai Thọ Truyền tuyển dịch, xuất bản năm
1964, ông dung họp nhiều bản Hán văn và Pháp văn để dịch.
4/ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Diễn Giải Lục do Hòa thượng Thích Trí
Nghiêm dịch, xuất bản năm 1970, Ngài dịch nguyên bản chữ Hán và chú giải của
đại sư Thái Hư.
Về phẩm loại của những bản dịch Phạn Hán thì bản Chánh Pháp Hoa của
Trúc Pháp Hộ dịch có 27 phẩm, không có phẩm Đề-bà-đạt-đa và phẩm Chúc Lụy
là phẩm sau cùng. Bản Diệu Pháp Liên Hoa của hai ngài Xà-na và Cấp-đa dịch đủ
28 phẩm, có phẩm Đề-bà-đạt-đa và phẩm Chúc Lụy ở vào phẩm thứ 22. Bản của
ngài Cưu-ma-la-thập dịch, thiếu nửa phần đầu của phẩm Dược Thảo Dụ; thiếu
phần đầu của phẩm Pháp Sư, thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa, thiếu phần kệ tụng của
phẩm Phổ Môn và phẩm Chúc Lụy ở chót. Nhưng sau y cứ vào bản “bối diệp” do
Xà-na, Cấp-đa mang tới, Ngài dịch bổ khuyết thêm đầy đủ là 28 phẩm. Do đó mà
sau này được đặt tên là Thiêm Phẩm Pháp Hoa tức là kinh Pháp Hoa thêm một
phẩm. Ba bản kinh Pháp Hoa dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán đang lưu hành, thì bản
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Cưu-ma-la-thập dịch được coi là định bản. Vì
đa số tu sĩ cũng như cư sĩ đều dùng bản này để nghiên cứu tụng đọc, bởi văn kinh
lưu loát sáng sủa đầy đủ ý nghĩa, lý sâu sắc, đọc tụng dễ hiểu dễ nhận.
Bốn bản kinh Pháp Hoa được dịch từ chữ Hán ra chữ Việt mà chúng tôi vừa
nêu, thì bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh, được hầu hết người xuất gia
cũng như tại gia ở Việt Nam dùng để nghiên cứu học hỏi, trì tụng. Hôm nay giảng
kinh Pháp Hoa, chúng tôi cũng dùng bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh để
cho quí vị dễ theo dõi, dễ hiểu. Hòa thượng Thích Trí Tịnh là người dày công
nghiên cứu và phiên dịch kinh điển, nên có đầy đủ uy tín trên phương diện giáo
dục cũng như dịch thuật. Pháp Phật mà Ngài phiên dịch và truyền bá hầu hết
chúng ta đều tin tưởng, nên bản dịch của Ngài được mọi người tin cậy nhất. Tuy
nhiên, một bản dịch dày đến năm sáu trăm trang, việc làm nhiều thì không tránh
khỏi chút ít sơ sót. Nhưng phần căn bản thì đáng cho chúng ta tin tưởng để y theo
đó mà tu học.
Kinh Pháp Hoa chẳng những ở Trung Hoa, Tăng Ni Phật tử quí trọng, mà
khi truyền sang Việt Nam cũng được các chùa kính trọng, nên hay tổ chức các đạo
tràng Pháp Hoa hay hội Pháp Hoa để trì tụng. Ở Nhật Bản, kinh Pháp Hoa cũng
được tôn trọng nên có ra đời một phái tên Nhật Liên Tôn, chuyên trì kinh Pháp
Hoa và niệm câu Nam-mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Sớ giải kinh Pháp Hoa thì ở Trung Hoa có cả trăm nhà sớ giải. Nhưng hai
bộ sách được quí trọng, phổ biến rộng rãi là Pháp Hoa Huyền Nghĩa, do Thiên
Thai Trí Giả đại sư sớ giải và bộ Pháp Hoa Huyền Tán, do ngài Khuy Cơ đệ tử
ngài Huyền Trang sớ giải.
TÊN KINH:
Tên kinh, bản chữ Hán nói đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp
Phật Sở Hộ Niệm”, gọi tắt là Diệu Pháp Liên Hoa, nói gọn nữa là kinh Pháp Hoa.
Tên kinh được cấu tạo theo đề ghép, thuộc loại pháp dụ. Diệu Pháp là pháp, Liên
Hoa là dụ. Theo kinh Pháp Hoa, Diệu Pháp là Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng
sanh, còn gọi là Pháp thân thanh tịnh hay Phật tánh... Nếu người nhận ra Tri kiến
Phật thì không còn kẹt trong pháp đối đãi hai bên của phàm phu. Liên Hoa là dụ,
sở dĩ dụ Tri kiến Phật như hoa sen, vì hoa sen có những đặc điểm như sau:
1/ Nhân quả đồng thời, nghĩa là hoa sen, gương sen có đồng một lúc, không
giống như những hoa khác khi nở, cánh hoa tàn rồi mới tượng nụ thành trái.
Gương sen đã có sẵn trong hoa, vì cánh hoa chưa rụng nên gương chưa lộ ra. Nếu
cánh hoa rụng hết thì gương sen lộ ra đầy đặn. Cũng vậy, Tri kiến Phật có sẵn nơi
mỗi chúng sanh, vì vô minh phủ che nên nó không hiện. Nếu người biết tu hành,
công phu viên mãn thì Tri kiến Phật hiển hiện tròn sáng. Đó là ý nghĩa nhân quả
đồng thời.
2/ Hoa sen mọc trong bùn lầy nhơ nhớp mà không bị hôi tanh, vẫn đẹp
thơm thanh khiết. Hoa sen được người ưa quí, không phải ở sắc đẹp, mùi thơm
như những hoa khác, mà quí ở chỗ hoa mọc từ nơi bùn lầy nhơ nhớp mà vẫn giữ
được sắc hương thanh khiết. Cũng giống như thân năm uẩn này, nếu nhìn với con
mắt giác ngộ thì nó rất ô uế bất tịnh. Tuy nó ô uế bất tịnh, nhưng có cái hằng thanh
tịnh sáng suốt, kinh Pháp Hoa gọi đó là Tri kiến Phật.
3/ Hoa sen có những hoa vượt lên khỏi mặt nước hé nụ, trổ hoa, bày gương
hạt; lại có những hoa còn đang ở trong nước, và cũng có những hoa vừa nhú lên
khỏi bùn. Tất cả những hoa sen ấy, trước sau đều nở hoa sắc hương thanh khiết.
Cũng vậy, Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát căn cơ tuy có sai biệt
nhưng ai cũng có Tri kiến Phật, nếu tu hành viên mãn thì thành Phật.
4/ Hoa sen không bị ong bướm bu đậu và không bị phụ nữ dùng để trang
điểm. Cũng vậy, Tri kiến Phật là pháp vi diệu nhiệm mầu, không bị bất cứ pháp
thế gian nào làm ô nhiễm.
Sở dĩ gọi Tri kiến Phật là Diệu Pháp là vì Tri kiến Phật siêu việt trên tất cả
pháp đối đãi và không thể so sánh với bất cứ một pháp nào ở thế gian này được.
Thiền tông gọi là “Bản Lai Diện Mục”, là pháp gốc mà tất cả mọi chúng sanh xưa
nay ai cũng có sẵn. Nếu tu, sạch hết vô minh vọng tưởng thì “Bản Lai Diện Mục”
hiện tiền. Bài kệ truyền pháp mà Phật truyền cho tôn giả Ma-ha Ca-diếp mở đầu
bằng câu: “Pháp bổn pháp vô pháp”. Pháp bổn là Diệu Pháp, gọi nó là pháp mà
không phải pháp. Tại sao ? Vì pháp ấy không phải là một vật đối đãi theo con mắt
phàm tình thế gian thấy biết, nên nói không phải pháp. Pháp gốc là thể của muôn
pháp. Diệu Pháp cũng tương đương nghĩa này. Tương truyền, ngày xưa Thiên
Thai Trí Giả đại sư khi ngộ được kinh Pháp Hoa, Ngài giảng chữ Diệu suốt một
tuần lễ. Vì Diệu Pháp là thể của muôn pháp nên nói không hết, giảng không cùng,
vì vậy nên gọi Tri kiến Phật là Diệu Pháp và dụ như hoa sen. Ở hội Linh Sơn, Phật
giơ cành hoa sen lên, đưa mắt nhìn khắp tứ chúng; cả hội chúng lặng im, chỉ có
tôn giả Ma-ha Ca-diếp nhìn thấy liền chúm chím cười. Phật nhân đó ấn chứng cho
Ngài là người đã ngộ được lý Thiền, và được truyền thừa y bát làm Tổ thứ nhất
phái Thiền tông. Như vậy, kinh Pháp Hoa được Phật nói ở núi Linh Thứu và dùng
hoa sen để dụ cho Diệu Pháp; tổ Ca-diếp thấy Phật đưa cành hoa sen, Ngài ngộ
được Pháp gốc (Diệu Pháp) cũng ở núi Linh Thứu. Điều đó cho chúng ta thấy kinh
Pháp Hoa có mối liên hệ với Thiền tông rất mật thiết nên các thiền sư khi hoằng
hóa hay dùng hoa sen để ví dụ, như nói: “Hoa sen ở trong lò lửa mà vẫn tươi
nhuần”. Lò lửa là chỉ cho thân vô thường, hoa sen thanh khiết chỉ cho Pháp thân
thanh tịnh, ý nói từ nơi thân vô thường của mỗi chúng sanh có sẵn thể bất sanh bất
diệt hằng thanh tịnh.
Vì kinh Pháp Hoa có mối liên hệ với Thiền tông, nên hôm nay chúng tôi
giảng kinh Pháp Hoa theo tinh thần Thiền tông. Với con mắt của Thiền tông,
chúng ta mới lãnh hội được những biểu trưng kỳ đặc ở trong kinh. Nếu nhìn theo
lý thông thường thì không thấy được những ý nghĩa đặc biệt đó.
D
PHẨM 1: TỰA
Thông thường ở mỗi bộ kinh, phần đầu là tựa. Phẩm Tựa nói lên ý nghĩa
tổng quát toàn bộ kinh. Các kinh mở đầu đều có Lục chủng chứng tín. Đó là sáu
điều chứng cứ của ngài A-nan nêu ra, để người nghe có đủ lòng tin pháp Ngài tụng
là do Phật nói. Lục chủng chứng tín giống như một biên bản của thơ ký trong
phiên họp ngày nay vậy.
1. CHÁNH VĂN :
* Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, nơi
thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu hội. Các
vị đó đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã
xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-nhã
Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu- lâu-tần-loa Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề
Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà,
Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-ta, Bạc-câu-la, Ma-ha
Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, A-nan,
La-hầu-la v.v... đó là những vị đại A-la-hán hàng trí thức của chúng.
Lại có bậc hữu học và vô học hai nghìn người.
Bà Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người
câu hội. Mẹ của La- hầu-la là bà Tỳ-kheo ni Gia-thâu-đà-la cũng cùng với quyến
thuộc câu hội.
* Bậc đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều chứng được pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện
tài, chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn
chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức.
Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí
huệ của Phật thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới, có
thể độ vô số trăm nghìn chúng sanh.
Tên của các vị đó là: Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại
Thế Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát, Bất Hưu Tức Bồ-tát, Bửu Chưởng Bồ-tát,
Dược Vương Bồ-tát, Dõng Thí Bồ-tát, Bửu Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát,
Mãn Nguyệt Bồ-tát, Đại Lực Bồ-tát, Vô Lượng Lực Bồ-tát, Việt Tam Giới Bồ-tát,
Bạt-đà-bà-la Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát, Bửu Tích Bồ-tát, Đạo Sư Bồ-tát v.v... các vị đại
Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội.
* Lúc bấy giờ, Thích đề-hoàn-nhân cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử
câu hội.
Lại có Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bửu Quang thiên tử, bốn
vị đại Thiên vương cùng với quyến thuộc một muôn thiên tử câu hội. Tự Tại thiên
tử, Đại Tự Tại thiên tử, cùng với quyến thuộc ba vạn thiên tử câu hội.
Chủ cõi Ta-bà: Phạm Thiên vương, Thi-khí Đại Phạm, Quang Minh Đại
Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên tử câu hội.
Có tám vị Long vương: Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Tadà-la
Long vương, Hòa-tu-kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-
đạt-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưu-bát-la Long vương v.v... đều cùng
bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Khẩn-na-la vương: Pháp khẩn-na-la vương, Diệu Pháp khẩn-nala
vương, Đại Pháp khẩn-na-la vương, Trì Pháp khẩn-na-la vương đều cùng bao
nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Càn-thát-bà vương: Nhạc càn-thát-bà vương, Nhạc Âm càn-thátbà
vương, Mỹ càn-thát-bà vương, Mỹ Âm càn thát-bà vương, đều cùng bao nhiêu
trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-trỉ A-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà A-tu-la
vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương, đều cùng bao
nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca-lầu-la vương: Đại Oai Đức ca-lầu-la vương, Đại Thân ca-lầula
vương, Đại Mãn ca-lầu-la vương, Như Ý ca-lầu-la vương, đều cùng bao nhiêu
trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu
hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
GIẢNG :
“Tôi nghe”, chỉ cho tôn giả A-nan, người nghe và thuật lại kinh này - Văn
thành tựu.
“Như thế này”, chỉ pháp mà ngài A-nan nghe Phật nói, đó là kinh Pháp Hoa
- Tín thành tựu.
“Một thuở nọ”, là thời gian nói kinh. Xưa, thời gian mỗi nơi mỗi khác,
không thống nhất, nên chỉ nói một thuở nọ, chớ không nói ngày mấy, tháng mấy,
lúc mấy giờ - Thời thành tựu.
“Đức Phật”, là vị chủ tọa trong buổi thuyết pháp - Chủ thành tựu.
“Núi Kỳ-xà-quật”, nơi thành Vương Xá là chỗ Phật thuyết pháp - Xứ thành
tựu.
“Chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người là bậc A-la-hán, như A-nhã
Kiều-trần-như..., hàng Tỳ-kheo hữu học và vô học có trên 2000 người. Các Tỳ-
kheo ni như Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Gia-thâu-đà-la và quyến thuộc. Hàng Bồ-tát có
tới tám muôn như Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Quán Âm... Thích đề-hoàn nhân và
quyến thuộc. Tứ thiên vương và quyến thuộc. Phạm Thiên vương và các vị trời
cùng với quyến thuộc. Long vương và quyến thuộc. Khẩn-na-la vương cùng quyến
thuộc. Càn-thát-bà vương cùng quyến thuộc. A-tu-la vương cùng quyến thuộc. Calâu-la
vương cùng với quyến thuộc. Vua A-xà-thế cùng với quyến thuộc” là những
cử tọa đến nghe pháp - Chúng thành tựu.
Sáu điều trên đây gọi là Lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm bằng
chứng để cho chúng ta tin kinh này không phải ngài A-nan tự ý nói, mà chính
Ngài đã cùng nghe với thính chúng và thuật lại.
2. CHÁNH VĂN :
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng dường cung kỉnh
ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa tên là “Vô Lượng
Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.
GIẢNG :
Kinh “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm” là bộ kinh có
nghĩa lý sâu rộng, không thể nghĩ lường được. Kinh này dạy cho hàng Bồ-tát tu để
thành Phật, và chính kinh này là chỗ mà chư Phật hằng hộ niệm. Đoạn này không
ghi Phật nói kinh như thế nào, chỉ nói tổng quát là kinh Đại thừa tên “Vô Lượng
Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.
3. CHÁNH VĂN :
Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định “Vô
lượng nghĩa xứ”, thân và tâm của Phật đều không lay động.
GIẢNG :
Từ trước, Phật tùy theo căn cơ cao thấp của chúng sanh mà phương tiện nói
kinh nghĩa lý hữu lượng, chớ kinh Vô lượng liễu nghĩa thì chưa từng nói. Nay thấy
căn cơ đệ tử đã thuần thục, Phật mới nói kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập chánh
định tên là Vô Lượng Nghĩa Xứ, để chuẩn bị tư thế nói kinh Pháp Hoa là chân lý
tuyệt đối.
4. CHÁNH VĂN :
Khi đó trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa
ma-ha mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu
điệu vang động.
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam,
cận sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-ladà,
nhân, phi nhân và các vị tiểu vương cùng Chuyển Luân Thánh vương, các đại
chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chấp tay một lòng nhìn Phật.
GIẢNG :
Khi Phật nói kinh “Vô Lượng Nghĩa” xong, Ngài nhập định thì chư thiên
rải hoa cúng dường, quả đất rúng động, phát ra sáu thứ âm thanh vi diệu. Bấy giờ,
thính chúng trong hội thấy việc chưa từng có, nên vui mừng chấp tay một lòng
hướng về đức Phật mắt không tạm rời.
5. CHÁNH VĂN :
Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày phát ra luồng
hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương Đông, dưới thời
chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên suốt thấu trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở cõi này đều
thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi kia.
GIẢNG :
Đoạn này dùng hình ảnh để hiển bày cái chân thật tuyệt đối, đó là Tri kiến
Phật. Sở dĩ không dùng ngôn ngữ để diễn tả, là vì mọi ngôn ngữ đều ở trong vòng
tương đối, không thể nói lên pháp tuyệt đối. Hai chân mày là hai bên chỉ cho pháp
tương đối: Có không, phải quấy, tốt xấu... Lông trắng giữa chặng mày tượng trưng
cho lý Trung đạo không kẹt hai bên đối đãi. Hào quang là ánh sáng, tượng trưng
cho trí tuệ Phật. Qua hình ảnh tượng trưng đó, nếu chúng ta biết xoay lại mình để
tu tập như lời dạy của Tổ Bá Trượng, mới thấy được ý nghĩa huyền diệu của kinh
Đại thừa. Người không còn kẹt hai bên là người hằng sống với lý Trung đạo, thì
được trí tuệ viên mãn. Trí tuệ viên mãn là trí tuệ Phật thênh thang rộng lớn, nên
soi rọi thấu suốt một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, từ địa ngục cho tới cõi
trời Sắc Cứu kính. Nếu nương theo trí tuệ Phật thì chúng ta sẽ thấy rõ các cõi, biết
rõ nhân quả của sáu loài chúng sanh luân hồi trong lục đạo, và cũng thấu suốt
được nguyên nhân tu hành cùng quả báo của các vị Tỳ-kheo, Thanh văn, Duyên
giác, Bồ-tát. Ở đây có điều khiến cho chúng ta nghi vấn là, tại sao hào quang Phật
chỉ soi thấu về phương Đông mà không soi về các phương khác ? Phương Đông là
phía mặt trời mọc, ánh sáng của ngày bắt đầu từ phương Đông, chiếu rọi khắp cả.
Còn phương Tây là phía mặt trời lặn, ánh sáng của ngày mờ dần và tắt hẳn. Phật
muốn chỉ cho mọi người trí tuệ cứu kính của Phật thấu suốt tất cả pháp, nên Ngài
dùng phương Đông là phương mở màn cho ánh sáng ban mai để làm ví dụ.
6. CHÁNH VĂN :
Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các
đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự
nam, cận sự nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải, các
loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy
sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy
báu.
GIẢNG :
Qua đoạn này, chúng ta thấy cái nhìn của đạo Phật rất rộng rãi, chỉ một
phương Đông thôi mà thấy có một muôn tám nghìn cõi. Nếu trông cả mười
phương hay cả vũ trụ thì sẽ thấy vô số cõi nước không thể tính đếm. Vì vậy mà
trong kinh nói hằng hà sa số cõi Phật. Điều mà đức Phật nói cách đây trên hai ngàn
năm trăm năm thì hiện nay các nhà khoa học đã chứng minh một cách cụ thể là,
trong vũ trụ ngoài quả đất chúng ta đang ở còn có vô số hành tinh, gần nhất là mặt
trăng, nơi loài người đã từng đặt chân đến đó cách nay không lâu. Bây giờ trong
hội chúng nương hào quang Phật, thấy và nghe được các đức Phật ở các cõi ấy nói
Pháp. Rồi cũng thấy thính chúng của các đức Phật ở các cõi ấy tu hành đắc đạo.
Chẳng những thấy Phật, Bồ-tát, thính chúng ở các cõi khác, mà còn thấy Phật nhập
Niết-bàn. Lại thấy sau khi Phật nhập Niết-bàn, xá-lợi Phật được dựng tháp bằng
bảy báu để cúng dường.
7. CHÁNH VĂN :
* Khi ấy, ngài Di-lặc Bồ-tát nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn hiện thần
biến tướng, vì nhân duyên gì mà có điềm lành này ?
Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hy hữu không thể
nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được ?”
Ngài lại nghĩ: “Ông Pháp vương tử Văn-thù-sư- lợi này đã từng gần gũi
cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ, chắc đã thấy tướng hy hữu này, ta
nay nên hỏi ông.”
Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và các trời, rồng,
quỉ, thần v.v... đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây,
nay nên hỏi ai ?”
* Bấy giờ, ngài Di-lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, Ngài lại
xét tâm niệm của bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và của
cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v... mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: “Vì nhân
duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một
muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức
Phật ?”
GIẢNG :
Theo Duy thức học thì Bồ-tát Di-lặc tượng trưng cho Thức phân biệt. Bởi
Thức phân biệt nên không thể hiểu được những hình ảnh biểu trưng Tri kiến Phật
(lý trung đạo). Vì Tri kiến Phật vượt khỏi pháp nhị nguyên tương đối của thế gian.
Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí hay Bản giác có sẵn nơi mỗi chúng
sanh. Do gần gũi, bảo hộ, cúng dường, thâm nhập Tri kiến Phật nên Ngài mới hiểu
được những điềm lành mà Phật hiện ra; vì vậy Bồ-tát Di-lặc mới có dự ý thưa hỏi.
Đây là những vị Bồ-tát tượng trưng để nói lên ý nghĩa thâm sâu trong việc tu hành
của mỗi người chúng ta, chớ không phải là hàng Bồ-tát đi hoằng truyền Chánh
pháp giáo hóa chúng sanh trong đời.
Đa số kinh Đại thừa, phẩm đầu thường là Bồ-tát Văn-thù thưa hỏi và phẩm
kết thúc là hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Như kinh Pháp Hoa, mở đầu là Bồ-
tát Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và bốn chúng, phần cuối cùng nêu lên hạnh
nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Bồ-tát Phổ Hiền tượng trưng cho Trí sai biệt. Trí căn
bản là trí đã có sẵn, bởi vô minh vọng tưởng che phủ nên không hiển lộ. Nhờ tu
hành lần lần sạch hết vô minh phiền não, Trí căn bản mới hiển hiện tròn sáng. Lúc
đó có đủ diệu dụng, tùy duyên giáo hóa chúng sanh gọi là Trí sai biệt. Chúng sanh
căn cơ trình độ không đồng nhau, kẻ thì đần độn, người thì lanh lợi; Trí sai biệt
của Phật có đủ diệu lực thấu suốt trình độ sai biệt ấy, nên tùy theo căn cơ mà
phương tiện nói pháp sai biệt giáo hoá họ. Chính Trí sai biệt làm căn bản cho hàng
Bồ-tát làm hạnh lợi tha không lười mỏi, không thối chuyển. Vì chúng ta tu chưa
được viên mãn, chưa có Trí sai biệt, khi hành hạnh lợi tha mà không biết trình độ
căn cơ của chúng sanh, không rõ được cái gốc đau khổ của muôn loài, nói pháp
chỉ khế lý mà không khế cơ, nên người nghe không tin không theo tu học; kết quả
là giúp người mà người không hết khổ, chán nản, nên thối Bồ-đề tâm. Lỗi đó
không phải tại người cứng đầu không chịu nghe, mà tại mình chưa có Trí sai biệt
biết rõ căn cơ trình độ của người, để nói pháp hợp thời đúng bệnh. Nếu nói pháp
hợp thời đúng bệnh thì người nghe mới kính tin vâng theo mà tu tập hết khổ đau.
Sở dĩ người không nghe là vì chúng ta nói pháp không đúng bệnh, không hợp thời,
khiến người nghe không tin, bất mãn, xa lánh. Đó là muốn giúp người được lợi ích
mà hóa ra hại người mất tín tâm, lỗi đó là tại mình. Vì vậy, nếu được Trí sai biệt
thì sự giáo hóa chẳng những khiến chúng sanh được lợi ích, mà người giáo hóa
cũng không lười mỏi, không chán nản, nên mới gọi là Đại Hạnh Phổ Hiền.
Phần Trùng tụng là phần lặp lại ý của văn Trường hàng ở trên, nhưng lặp
lại có phần chi tiết.
8. CHÁNH VĂN :
Khi đó, ngài Di-lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
Ngài Văn-thù-sư-lợi !
Đức Đạo sư cớ chi
Lông trắng giữa chặng mày
Phóng ánh sáng khắp soi
Trời mưa hoa Mạn-đà
Cùng hoa Mạn-thù-sa
Gió thơm mùi chiên-đàn
Vui đẹp lòng đại chúng
Vì nhân duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơ thới
Được việc chưa từng có.
GIẢNG :
Đoạn này lặp lại chỗ nghi vấn của Bồ-tát Di- lặc và hội chúng về hình
tướng biểu trưng cho cái chân thật tuyệt đối.
9. CHÁNH VĂN :
Ánh sáng giữa chặng mày
Soi suốt thẳng phương Đông
Một muôn tám nghìn cõi
Đều ánh như sắc vàng
Từ địa ngục A-tỳ
Trên đến trời Hữu Đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõ.
GIẢNG :
Nương ánh sáng do Phật phóng ra, mà cả hội chúng đều thấy tất cả nhân
quả luân hồi của sáu loài chúng sanh, ở một muôn tám nghìn cõi nước về phương
Đông.
10. CHÁNH VĂN :
Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh chúa Sư tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bậc thứ nhứt.
Tiếng của Ngài thanh tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-tát
Vô số ức muôn người
Tiếng Phạm âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe.
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chánh pháp
Dùng nhiều món nhân duyên
Cùng vô lượng tỉ dụ
Để soi rõ Phật pháp
Mà khai ngộ chúng sanh.
Nếu có người bị khổ
Nhàm lìa già, bệnh, chết,
Phật vì nói Niết-bàn
Để dứt các ngằn khổ.
Nếu là người có phước
Đã từng cúng dường Phật
Chí cầu pháp thù thắng
Vì nói hạnh Duyên giác.
Nếu lại có Phật tử
Tu tập các công hạnh
Để cầu huệ Vô thượng
Phật vì nói tịnh đạo.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc cùng bốn chúng thấy các đức Phật đang ở cõi nước của các
Ngài với Phạm âm vi diệu, tùy căn cơ dùng phương tiện nói pháp khai ngộ cho
hàng Thanh văn, Duyên giác.
11. CHÁNH VĂN :
Ngài Văn-thù-sư-lợi !
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra !
Tôi thấy ở cõi kia
Có Hằng sa Bồ-tát
Dùng các món nhân duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Hoặc có vị bố thí
Vàng, bạc, ngọc, san hô,
Chân châu, ngọc như ý,
Ngọc xa cừ, mã não,
Kim cương các trân bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu, cáng chưng châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướng về Phật đạo
Nguyện được chứng thừa ấy
Bậc nhứt của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có vị Bồ-tát
Xe tứ mã, xe báu
Bao lơn che tàng đẹp
Trau tria dùng bố thí.
Lại thấy có Bồ-tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Để cầu Vô thượng đạo.
Lại thấy có Bồ-tát
Đầu mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí huệ Phật.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc tường trình chỗ thấy nghe của Ngài như: Có vô số Bồ-tát bố
thí vàng bạc, châu báu, bố thí xe cộ, bố thí thân mạng, vợ con để cầu Phật đạo.
12. CHÁNH VĂN :
Ngài Văn-thù-sư-lợi !
Ta thấy các quốc vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo Vô thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung điện cả thần thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phục.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc lại thấy các quốc vương thưa hỏi đạo Vô thượng, rồi bèn bỏ
nước, bỏ ngôi vua, thần thiếp, cạo bỏ râu tóc xuất gia.
13. CHÁNH VĂN :
Hoặc lại thấy Bồ-tát
Mà hiện làm Tỳ-kheo
Một mình ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển.
Cũng thấy có Bồ-tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo.
Và thấy bậc ly dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thiền định
Được năm món thần thông
Và thấy vị Bồ-tát
Chấp tay trụ thiền định
Dùng nghìn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp vương.
Lại thấy có Bồ-tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thọ trì
Lại thấy hàng Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùng vô lượng tỉ dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp.
Cùng thấy vị Bồ-tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung kính
Chẳng lấy đó làm mừng.
Và thấy có Bồ-tát
Ở rừng phóng hào quang
Cứu khổ chốn địa ngục
Khiến đều vào Phật đạo.
Lại thấy hàng Phật tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật đạo
Cũng thấy đủ giới đức
Oai nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bửu châu
Để cầu chứng Phật đạo.
Và thấy hàng Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tăng thượng mạn
Mắng rủa cùng đánh đập,
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứng Phật đạo.
Lại thấy có Bồ-tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến thuộc ngu si
Ưa gần gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Để cầu được Phật đạo.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng thấy các Bồ-tát ở nơi vắng vẻ, mỗi vị dùng
mọi phương tiện tu hành khác nhau để cầu Phật đạo.
14. CHÁNH VĂN :
Lại thấy vị Bồ-tát
Đồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng,
Áo tốt đồ thượng phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô giá y
Đem cúng Phật và Tăng,
Dùng nghìn muôn ức thứ
Nhà báu bằng chiên-đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Để cúng Phật cùng Tăng,
Rừng vườn rất thanh tịnh
Bông trái đều sum sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng dường Phật và Tăng,
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Để cầu đạo vô thượng.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát ở cõi kia cúng dường tứ sự quí giá cho Phật và
Tăng để cầu đạo Vô thượng.
15. CHÁNH VĂN :
Lại có vị Bồ-tát
Giảng nói pháp tịch diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúng sanh
Hoặc thấy vị Bồ-tát
Quán sát các pháp tánh
Đều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không.
Lại thấy hàng Phật tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu huệ này
Mà cầu đạo Vô thượng.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát các cõi kia, vị thì dùng pháp tịch diệt giáo hóa
chúng sanh, vị thì quán pháp tánh không hai, vị thì ly dục dùng trí tuệ nhiệm mầu
cầu Phật đạo.
16. CHÁNH VĂN :
* Ngài Văn-thù-sư-lợi !
Lại có vị Bồ-tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúng dường xá-lợi Phật.
Lại thấy hàng Phật tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô số Hằng sa
Nghiêm sức khắp cõi nước.
Bửu tháp rất cao đẹp
Đều năm nghìn do-tuần
Bề ngang rộng xứng nhau
Đều hai nghìn do-tuần.
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Đều có nghìn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Các vị trời, rồng, thần,
Người cùng với phi nhân
Hương, hoa cùng kỹ nhạc
Thường đem đến cúng dường.
Ngài Văn-thù-sư-lợi !
Các hàng Phật tử kia
Vì cúng dường xá-lợi
Nên trang sức tháp miếu
Cõi quốc giới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây Thiên thọ vương
Bông kia đương xòe nở.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc thấy Phật ở cõi kia tịch diệt, Bồ-tát xây vô số bửu tháp cao
đẹp quí báu, trang hoàng cờ, phướn, màn, linh. Rồi trời, người, rồng, thần dâng
hương hoa kỹ nhạc để cúng dường xá-lợi Phật.
17. CHÁNH VĂN :
*Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hy hữu
Phóng một luồng tịnh quang
Soi khắp vô lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Được điều chưa từng có.
*Xin Phật tử Văn-thù
Giải quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn Ngài và nhìn ta
Đức Thế Tôn cớ chi
Phóng ánh quang minh này ?
Phật tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì
Đức Phật phóng quang này ?
Khi Phật ngồi đạo tràng
Chứng được pháp thâm diệu.
Vì muốn nói pháp đó
Hay là sẽ thọ ký ?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Đây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn-thù nên biết
Bốn chúng và long, thần
Nhìn xem xét Ngài đó
Mong sẽ nói những gì?
GIẢNG :
Vì Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng nương hào quang của Phật, thấy được
những việc chưa từng có ở các cõi nước của chư Phật khác, nên yêu cầu Bồ-tát
Văn-thù giải nghi về những điềm lành mà Phật hiện: có phải Phật sắp nói pháp hay
sắp thọ ký chăng ? Xin Ngài giải đáp cho, vì đại chúng đang trông cậy Ngài.
18. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Di-lặc Đại Bồ-tát cùng các
vị Đại sĩ: “Các thiện nam tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Phật Thế Tôn muốn
nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp
nghĩa lớn.
Các thiện nam tử ! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành
này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng
hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng sanh
đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm
lành này.
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù trả lời: Sở dĩ Phật hiện những tướng nhiệm mầu đó, là vì
Ngài sắp nói pháp Đại thừa. Và Bồ-tát Văn-thù xác nhận là Ngài đã từng gần gũi
các đức Phật đời quá khứ, nên Ngài biết mỗi khi Phật hiện điềm lành là Phật sắp
nói pháp Đại thừa nghĩa lý rất sâu xa, người đời không thể tin nổi. Thông thường,
với con mắt người phàm chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe được. Còn Tri kiến
Phật mà Phật sắp nói ở đây là diệu pháp không hình không tướng nên khó tin. Bởi
pháp khó tin, nên trước khi nói Phật phải hiện những tướng lạ để cho người tin,
Ngài mới nói pháp chân thật tuyệt đối, thì khả dĩ họ mới tin.
19. CHÁNH VĂN :
* Các thiện nam tử ! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước. Bấy
giờ, có đức Phật hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba
chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ
cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù nói: Vô lượng vô biên a-tăng- kỳ kiếp về trước, có đức Phật
tên là Nhựt Nguyệt Đăng Minh (Nhựt là mặt trời, Nguyệt là mặt trăng, Đăng là
đèn, Minh là sáng). Phật có trí tuệ sáng suốt như mặt trời, mặt trăng và đèn. Tất cả
ánh sáng thế gian đều phát ra từ mặt trời, mặt trăng và đèn. Nói cách khác là trí tuệ
Phật sáng suốt viên mãn không khiếm khuyết. Vì vậy, tượng trưng cho trí tuệ viên
mãn của Phật là Nhựt Nguyệt Đăng. Mười hiệu của Phật hàm ý nghĩa sau:
- Như Lai: Như là như như bất động bất biến, chỉ cho tâm thể chân thật có
sẵn ở mỗi người, tượng trưng là Bồ-tát Văn-thù. Lai là tùy duyên, tu khi viên mãn
công hạnh, đầy đủ Trí sai biệt, thì tùy duyên giáo hóa chúng sanh, tượng trưng là
Bồ-tát Phổ Hiền.
- Ứng Cúng: Xứng đáng cho người, trời cúng dường.
- Chánh Biến Tri: Biết chân chánh khắp giáp tất cả.
- Minh Hạnh Túc: Đầy đủ công hạnh, tức là đủ tam minh và lục thông.
- Thiện Thệ: Khéo qua biển sanh tử đến Niết-bàn.
- Thế Gian Giải: Thấu suốt tất cả các pháp thế gian.
- Vô Thượng Sĩ: Kẻ sĩ cao tột không ai hơn.
- Điều Ngự Trượng Phu: Bậc trượng phu có khả năng điều phục được tất cả
mọi người từ trí đến ngu.
- Thiên Nhân Sư: Bậc thầy của trời, người.
- Phật Thế Tôn: Bậc giác ngộ mà người đời cung kính, tôn trọng.
Người giác ngộ thể nhập được trí tuệ viên mãn thì gọi là Phật. Khi đã thành
Phật thì những lời Phật nói ra rất sâu xa nhiệm mầu, ba thời quá khứ, hiện tại, vị
lai đều như một không sai trái, giúp cho người tu được thanh tịnh sáng suốt nên
được coi là chân lý. Chẳng hạn Phật nói: Các pháp thế gian là vô thường, chúng
sanh thì đau khổ. Xưa, con người sanh ra, lớn lên rồi phải già, bệnh, chết. Ngày
nay, con người sanh ra cũng không tránh khỏi lão, bệnh, tử. Và mai kia, nếu con
người có mặt ở cõi đời này cũng chẳng thoát khỏi nỗi khổ của sanh, già, bệnh,
chết. Như vậy, điều Phật nói cách nay trên hai ngàn năm trăm năm, trải qua ba thời
quá khứ, hiện tại, vị lai đều như một, không biến dịch, không phải chân lý là gì ?
Ngày nay, chúng ta vì chưa được trí tuệ Phật, thấy biết không đúng lẽ thật, nên
nói ra điều gì mới nghe qua thấy hợp lý, nhưng ít tháng sau hoặc ít năm sau thì
không còn đúng nữa, nên không được coi là chân lý.
20. CHÁNH VĂN :
Phật, vì người cầu đạo Thanh văn, nói pháp Tứ đế thoát khỏi sanh, già, bịnh,
chết cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên giác, nói pháp Mười hai nhân
duyên. Vì hàng Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho chứng được quả Vô
Thượng Chánh đẳng Chánh giác thành bậc Nhứt thiết chủng trí.
GIẢNG :
Vì Phật có đủ Trí sai biệt, biết rõ hạnh nguyện của người tu, nên tùy duyên
ứng hóa làm lợi ích cho tất cả. Nếu người muốn thoát khổ cầu đạo Thanh văn,
Phật nói pháp Tứ đế độ cho thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, được cứu kính Niếtbàn.
Nếu người trí tuệ khá hơn, cầu quả Duyên giác, Phật sẽ nói pháp Mười hai
nhân duyên. Nếu là hàng Bồ-tát, Phật sẽ nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho chứng
được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc Nhất thiết chủng trí tức là
thành Phật. Tùy theo căn cơ cao thấp mà Phật nói pháp có sai biệt để hết thảy
người tu đều đạt được sở nguyện của mình.
21. CHÁNH VĂN :
Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Lại có đức Phật
cũng hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một
tên, hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, lại cùng đồng một họ, họ Phả-la-đọa.
GIẢNG :
Tất cả chư Phật có đến hai muôn đều đồng một hiệu là Nhựt Nguyệt Đăng
Minh. Tại sao Phật nhiều như thế mà chỉ cùng một hiệu ? Như trước đã nói, Nhựt
Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho trí tuệ sáng suốt viên mãn; tất cả chư Phật khi thành
Phật đều có trí tuệ sáng suốt viên mãn như nhau, vì vậy mà đồng một hiệu Nhựt
Nguyệt Đăng Minh.
22. CHÁNH VĂN :
Di-lặc nên biết ! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhựt
Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra đầu, giữa, sau đều
lành.
Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất
tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bửu Ý, thứ
năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp
Ý.
GIẢNG :
Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh lúc chưa xuất gia là chỉ cho chúng sanh khi
chưa tu. Theo kinh Lăng-già thì mọi chúng sanh đều có Như Lai tàng, nhưng vì
quên (mê) Như Lai tàng nên biến thành tàng thức. Khi biến thành tàng thức rồi thì
có bảy thức thân theo. Tám vương tử là tượng trưng cho tám thức; còn Phật Nhựt
Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho Như Lai tàng hay là Phật tánh. Chúng sanh có Phật
tánh mà quên (mê) Phật tánh nên biến thành thức. Mà thức thì hay phân biệt nên
đây để tên là Ý. Do thức hay phân biệt nên lưu chuyển trong lục đạo, sanh tử luân
hồi.
23. CHÁNH VĂN :
Tám vị vương tử đó có oai đức tự tại, đều lãnh trị bốn châu thiên hạ. Nghe
vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bỏ ngôi vua,
cũng xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc
Pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
GIẢNG :
Tám vị vương tử có oai đức tự tại cai trị bốn châu thiên hạ, là chỉ cho tám
thức có công năng phân biệt khắp tất cả pháp. Mắt thì nhìn trước, ngó sau, xem
phải, thấy trái phân biệt sắc pháp rất tinh tường. Tai thì nghe âm thanh của bốn
phía, phân biệt trầm bổng, hay dở... một cách rành rẽ. Mũi ngửi mùi từ mọi nơi
bay tới phân biệt thơm, thúi, tanh, hôi... một cách rõ ràng. Khi nghe vua cha xuất
gia, tám vị vương tử liền xuất gia theo; ý nói khi tạng thức chuyển thành Như Lai
tàng thì tám thức cũng chuyển thành Trí, có nghĩa là chúng sanh khi chưa xuất gia
(mê) thì có tám thức phân biệt, rồi tạo nghiệp nên phải luân hồi trong lục đạo. Khi
ngộ thì tám thức qui về với tánh giác, không còn phân biệt lăng xăng nữa mà vẫn
biết rõ ràng (liễu liễu thường tri) đó là Trí.
24. CHÁNH VĂN :
*Đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên “Vô
Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở
trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định “Vô lượng nghĩa xứ”,
thân và tâm chẳng động.
* Khi ấy trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma- ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa,
cùng hoa ma-ha mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại chúng. Khắp cõi nước
Phật sáu điệu vang động.
Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, trời,
rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi
nhân cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển Luân Thánh vương v.v... các đại
chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
*Bấy giờ, đức Như Lai từ tướng lông trắng giữa chặng mày phóng ra luồng
ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương Đông như nay
đương thấy ở cõi Phật đây.
Di-lặc nên biết ! Khi đó trong hội có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn nghe
pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng
có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh sáng này.
Khi ấy có vị Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm người đệ tử.
GIẢNG :
Đoạn này Bồ-tát Văn-thù lặp lại những hiện tướng lạ sau khi Phật nói kinh
“Vô Lượng Nghĩa”. Tuy thời gian khác nhau, nhưng tướng hiện không khác. Song,
xưa kia là Bồ-tát Diệu Quang, nay trong hội Linh Sơn là Bồ-tát Văn-thù, Văn-thù
chính là tên sau của Bồ-tát Diệu Quang thuở trước (Diệu Quang có nghĩa là ánh
sáng nhiệm mầu, tức là Trí căn bản có sẵn nơi mỗi chúng sanh).
25. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ, đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định mà dậy,
vì Diệu Quang Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát
Pháp Phật Sở Hộ Niệm” trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
* Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu
kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong
khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là
tâm mà sanh lười mỏi.
GIẢNG :
Một tiểu kiếp bằng 16.800.000 năm, sáu chục tiểu kiếp bằng 1.008.000.000
năm. Phật nói pháp trải qua trên một tỷ năm mà Phật cùng với thính chúng thân
tâm đều không lay động, không lười mỏi, thấy thời gian như chừng một bữa ăn.
Thật là kỳ diệu ! Chúng ta chỉ ngồi nghe pháp liên tục khoảng chừng bốn giờ là đã
thấy lười mỏi. Thính chúng ở hội này nghe pháp trên một tỷ năm mà thân tâm
không lay động, không lười mỏi ! Điều này, nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thông
thường thì không thấy được chân lý, học kinh Đại thừa nếu kẹt trên văn tự thì
không thể hiểu nổi. Ở đây, Phật vì Bồ-tát Diệu Quang nói kinh “Diệu Pháp Liên
Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa là chỉ cho
Tri kiến Phật (Phật tánh) có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Tri kiến Phật không hình,
không tướng, không sanh, không diệt, vượt ngoài không gian và thời gian, Phật
nói kinh Pháp Hoa để chỉ Tri kiến Phật, thì thời gian và không gian đối với Tri
kiến Phật là vô nghĩa; nên nói tâm bất động, thân không ăn uống, ngồi lâu cũng
chẳng lười mỏi. Nhập được Diệu Pháp Liên Hoa là thể nhập Tri kiến Phật của
chính mình. Tri kiến Phật vốn không hình tướng, không sanh diệt thì dựa vào đâu
để phân biệt thời gian lâu mau, không gian rộng hẹp ? Do đó nói sáu mươi tiểu
kiếp thấy như trong khoảng bữa ăn; vì vậy các thiền sư thường nói “nhứt niệm vạn
niên”, một niệm bằng vạn năm hay vạn năm bằng một niệm là để nói lên ý nghĩa
dung nhiếp của pháp tánh.
26. CHÁNH VĂN :
* Đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó
rồi, liền ở trong chúng ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la, mà
tuyên rằng: “Hôm nay vào nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.”
GIẢNG :
Tại sao đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh sau khi nói kinh Pháp Hoa xong,
liền tuyên bố giữa đêm sẽ vào vô dư Niết-bàn ? Đây tôi ví dụ như chúng ta có một
nghề thiện xảo, muốn để lại cho đời. Nhưng người đang học chưa đủ khả năng để
được truyền tuyệt kỹ. Khi thấy họ đủ khả năng nhận thọ, mới trao dạy hết nghề.
Và khi đã trao dạy tận tình rồi thì coi như hết bổn phận. Bổn phận đã hết ở lại là
thừa ! Cũng vậy bản hoài của chư Phật ra đời cốt là làm sao chỉ cho chúng sanh
nhận được Tri kiến Phật của chính mình. Mà nhận được Tri kiến Phật đó là cái
nhân tu, dẹp sạch vô minh vọng tưởng, Tri kiến Phật thường hiện tiền, đó là quả
Phật. Mục đích cứu kính mà Phật muốn đưa chúng sanh đến, đó là thể nhập Tri
kiến Phật. Nhưng vì quá cao, nói ra sợ người nghe không hiểu, hoang mang nên
Phật mới nói Tam thừa. Vì Thanh văn nói Tứ đế, vì Duyên giác nói Thập nhị nhân
duyên, vì Bồ-tát nói pháp Lục độ ba-la-mật. Mục tiêu cuối cùng mà Phật muốn
đưa chúng sanh đến, đó là Phật thừa, tức ngộ nhập Tri kiến Phật mà kinh Pháp
Hoa chỉ dạy. Sở dĩ từ trước Phật muốn chỉ mà chưa chỉ được, vì là pháp khó hiểu
khó tin; đợi khi căn cơ của chúng sanh thuần thục thì Ngài nói, và khi nói xong
Phật thừa, chúng sanh đã nhận biết được, thì bản nguyện đã viên mãn nên Ngài
nhập Niết-bàn.
27. CHÁNH VĂN :
Khi đó có vị Bồ-tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh liền
thọ ký cho, bảo các Tỳ-kheo rằng: “Ông Đức Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành
Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng Chánh giác.”
Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô dư Niết-bàn.
GIẢNG :
Tại sao Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa với Bồ-tát Diệu Quang mà lại
thọ ký cho Bồ-tát Đức Tạng ? Bồ-tát Diệu Quang là Trí căn bản, mà Trí căn bản
tức là Phật tánh tròn sáng đâu cần thọ ký. Còn Bồ-tát Đức Tạng là chỉ cho kho
công đức khi đã tu hành viên mãn tức là Sai biệt trí, tương tự như Bồ-tát Phổ Hiền
giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh, khi đầy đủ công đức rồi thì thành Phật. Vì
vậy Phật nói pháp là phải nói với Bồ-tát Diệu Quang và khi thọ ký thì phải thọ ký
cho Bồ-tát Đức Tạng.
28. CHÁNH VĂN :
* Sau khi đức Phật diệt độ, Diệu Quang Bồ-tát trì kinh “Diệu Pháp Liên
Hoa” trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
*Tám người con của Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh đều học với ngài Diệu
Quang, ngài Diệu Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Các vị vương tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức
đức Phật đều thành Phật đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên Đăng.
GIẢNG :
Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang trì kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” và
vì người diễn nói. Trong số người được Ngài giáo hóa có tám vị vương tử con của
Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Tám vương tử có đủ lòng tin đối với đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác và đều được thành Phật, vị rốt sau thành Phật hiệu
là Nhiên Đăng. Nhiên là đốt, Đăng là đèn. Nhiên Đăng là thắp đèn phát ra ánh
sáng; ánh sáng đó phát ra từ Trí căn bản hướng dẫn tám thức, rũ sạch vọng tưởng
phân biệt, trở nên trí tuệ tròn sáng gọi là thành Phật.
29. CHÁNH VĂN :
* Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên Cầu Danh, người này
tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều
quên mất, nên gọi là Cầu Danh, người này cũng do có trồng các nhân duyên căn
lành nên được gặp vô lượng trăm ngàn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung
kính, tôn trọng khen ngợi.
*Di-lặc nên biết ! Lúc đó Diệu Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính
là ta đấy. Còn Cầu Danh Bồ-tát là Ngài đấy.
Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ,
hôm nay đức Phật Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo
Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.
GIẢNG :
Phần kết thúc khiến cho chúng ta có những nghi vấn:
* Bồ-tát Diệu Quang từ trước đã giáo hóa cho bao nhiêu Bồ-tát thành Phật
rồi, mà sao bây giờ Ngài vẫn còn làm Bồ-tát hiệu là Văn-thù ?
* Trong hội Pháp Hoa, Phật thọ ký cho vô số Bồ-tát thành Phật, thậm chí
Bồ-tát Cầu Danh tham ưa danh lợi, tu hành lôi thôi mà cũng được thọ ký cho sau
này sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc. Tại sao Phật không thọ ký cho Bồ-tát Văn-thù ?
Kinh Lăng-già có nêu lên năm pháp là danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí,
như như. Nếu còn vọng tưởng tức là còn thức phân biệt; mà Bồ-tát Di-lặc tượng
trưng cho thức phân biệt, phân biệt danh, phân biệt tướng nên không thuộc kinh,
được gọi là Cầu Danh. Tuy cầu danh, nhưng nhờ có duyên lành nên gặp Phật và tu
hành. Khi tu biết rõ vọng tưởng không thật, đó là chánh trí, đã có chánh trí thì trở
lại như như tức thành Phật. Mặc dầu Bồ-tát Cầu Danh (thức) chạy theo danh tướng
bên ngoài, nhưng nếu khéo chuyển thì sẽ thành Trí, do đó mà được thọ ký thành
Phật. Còn Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Trí căn bản, mà Trí căn bản là tánh Phật,
đã là tánh Phật còn thọ ký thành Phật gì nữa ?
Ý nghĩa tổng quát ở đây nêu bày cho chúng ta thấy rằng tất cả mọi chúng
sanh đều có sẵn tánh giác, nhờ khéo tu, chuyển thức thành trí, công hạnh độ sanh
viên mãn thì thành Phật. Đó là tượng trưng cho Trí căn bản và Trí sai biệt. Trí sai
biệt chỉ khi thành Phật mới có, còn Trí căn bản mọi người ai cũng có sẵn. Căn cứ
vào đâu mà nói mỗi người ai cũng có Trí căn bản ? Ví dụ có một nắm bổi đang
bốc khói, chúng ta biết ngay dưới nắm bổi đó có lửa, hoặc là tàn thuốc hay là cục
than. Cũng vậy, nếu chúng ta không có Trí căn bản thì động cơ nào thúc đẩy
chúng ta phát tâm Bồ-đề cầu giác ngộ, xuất gia học đạo ? Phát tâm Bồ-đề là phát
tâm giác, mà phát tâm giác là phải có sẵn động cơ giác là Trí căn bản. Cũng như
nắm bổi bốc khói là do có lửa sẵn mới phát cháy.
Tại sao ai cũng có Trí căn bản mà người được thôi thúc phát Bồ-đề tâm đi
tu, người thì không phát tâm tu hành ? Ví dụ đêm rằm có trăng sáng, nhưng trời
chuyển mưa, mây đen kịt, lúc đó trăng vẫn sáng, nhưng vì mây che nên chúng ta
thấy bầu trời tối. Nếu chỗ nào mây thưa thì thấy được ánh trăng mờ mờ. Cũng vậy,
ai cũng có Trí căn bản, nhưng vì vô minh phiền não quá dày nên nó thôi thúc
không nổi. Với người vô minh phiền não hơi mỏng, nó liền có công năng hiện ra.
Chẳng hạn như những người tu, vô minh có phần mỏng nên Trí căn bản mới thúc
đẩy phát tâm cầu giác ngộ giải thoát mà đi tu. Nếu không có động cơ thúc đẩy dễ
gì kham chịu chay lạt, thức khuya, dậy sớm sống phạm hạnh để tu hành ! Kinh
Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, người mà thôi thúc khuyến khích Thiện Tài
đồng tử đi tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức là Bồ-tát Văn-thù. Khi tham vấn
đến vị cuối cùng thì gặp Bồ-tát Phổ Hiền, và ngay lúc đó Bồ-tát Văn-thù đồng
hiện ra nữa. Như vậy, để thấy kinh Pháp Hoa cũng như kinh Hoa Nghiêm có chỗ
gặp nhau là Trí căn bản thúc đẩy người phát tâm cầu giác ngộ, đi tu dẹp hết vô
minh phiền não rồi mới thành Phật. Do đó mà nói Bồ-tát Diệu Quang (Trí căn bản)
là thầy của chư Phật, dạy các Bồ-tát tu thành Phật hết mà chính Ngài chưa thành.
Nếu không thông lý căn bản này thì không dễ gì phá được cái nghi trên và biết
phương hướng để tu hành.
30. CHÁNH VĂN :
Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát ở trong đại chúng, muốn tuyên lại
nghĩa trên mà nói kệ rằng:
* Ta nhớ thuở quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp
Có Phật Nhân Trung Tôn
Hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh
Đức Thế Tôn nói pháp
Độ vô lượng chúng sanh,
Vô số ức Bồ-tát
Khiến vào Trí huệ Phật.
* Khi Phật chưa xuất gia
Có sanh tám vương tử
Thấy Đại Thánh xuất gia
Cũng theo tu phạm hạnh.
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù lặp lại lời giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và hội chúng là, thời
quá khứ có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói pháp độ vô số chúng được thành
Phật. Và tám vương tử thấy Ngài đi tu cũng xuất gia theo Ngài.
31. CHÁNH VĂN :
* Phật nói kinh Đại thừa
Tên là “Vô Lượng Nghĩa”
Ở trong hàng đại chúng
Mà vì rộng tỏ bày.
Phật nói kinh ấy rồi
Liền ở trong pháp tòa
Xếp bằng nhập chánh định
Tên “Vô Lượng Nghĩa Xứ”
Trời rưới hoa Mạn-đà
Trống trời tự nhiên vang
Các trời, rồng, quỉ, thần
Cúng dường đấng Nhân Tôn
Tất cả các cõi Phật
Tức thời vang động lớn.
GIẢNG :
Sau khi Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa cho đại chúng nghe xong, Ngài liền
nhập chánh định và được trời, rồng, quỉ, thần cúng dường hoa, nhạc.
32. CHÁNH VĂN :
* Phật phóng sáng giữa mày
Hiện các việc hi hữu
Ánh sáng chiếu phương Đông
Muôn tám nghìn cõi Phật
Bày sanh tử nghiệp báo
Của tất cả chúng sanh
Lại thấy các cõi Phật
Dùng các báu trang nghiêm
Màu lưu ly, pha lê
Đây bởi Phật quang soi
* Lại thấy những trời, người
Rồng, thần, chúng dạ-xoa
Càn-thát, khẩn-na-la
Đều cúng dường Phật mình.
GIẢNG :
Nương hào quang của Phật, Bồ-tát Văn-thù thấy nghiệp báo của các loài
chúng sanh, những vật báu trang nghiêm cõi Phật và thấy trời, người, rồng... cúng
dường Phật mình ở một muôn tám nghìn cõi Phật.
33. CHÁNH VĂN :
* Lại thấy các Như Lai
Tự nhiên thành Phật đạo
Màu thân như núi vàng
Đoan nghiêm rất đẹp mầu
Như trong lưu ly sạch
Hiện ra tượng chân kim
Thế Tôn trong đại chúng
Dạy nói nghĩa thâm diệu.
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù thấy các Như Lai tự nhiên thành Phật có thân tướng đoan
nghiêm, nói pháp thâm diệu.
34. CHÁNH VĂN :
* Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúng Thanh văn vô số
Nhân Phật quang soi sáng
Đều thấy đại chúng kia
Hoặc có các Tỳ-kheo
Ở tại trong núi rừng
Tinh tấn giữ tịnh giới
Dường như gìn châu sáng.
* Lại thấy các Bồ-tát
Bố thí nhẫn nhục thảy
Số đông như Hằng sa
Đây bởi sáng Phật soi.
Lại thấy hàng Bồ-tát
Sâu vào các thiền định
Thân tâm lặng chẳng động
Để cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ-tát
Rõ tướng pháp tịch diệt
Đều ở tại nước mình
Nói pháp cầu Phật đạo.
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù thấy ở mỗi cõi Phật có hàng Thanh văn, Tỳ-kheo ở
chỗ vắng tu tịnh hạnh, Bồ-tát tu bố thí, thiền định, nói pháp để cầu Phật đạo.
35. CHÁNH VĂN :
* Bấy giờ bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhựt Nguyệt Đăng
Hiện sức thần thông lớn
Tâm kia đều vui mừng
Mỗi người tự hỏi nhau
Việc này nhân duyên gì ?
GIẢNG :
Tứ chúng thấy Phật hiện thần thông, vừa vui mừng vừa nghi vấn.
36. CHÁNH VĂN :
* Đấng của trời, người thờ
Vừa từ chánh định dậy
Khen Diệu Quang Bồ-tát
Ông là mắt của đời
Mọi người đều tin về
Hay vưng giữ tạng pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được
Đức Phật đã ngợi khen
Cho Diệu Quang vui mừng
Liền nói kinh Pháp Hoa
Trải sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời chỗ ngồi ấy
Ngài Diệu Quang pháp sư
Trọn đều hay thọ trì
Pháp thượng diệu của Phật.
* Phật nói kinh Pháp Hoa
Cho chúng vui mừng rồi
Liền chính trong ngày đó
Bảo hàng chúng trời, người
Các pháp “Nghĩa thật tướng”
Đã vì các ông nói
Nay ta giữa đêm này
Sẽ vào cõi Niết-bàn
Phải một lòng tinh tấn
Rời các sự buông lung
Các Phật rất khó gặp
Ức kiếp được một lần.
GIẢNG :
Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh xuất định, khen Bồ-tát Diệu Quang có khả
năng thọ trì diệu pháp cao thượng, nên Ngài vì Bồ-tát Diệu Quang mà nói kinh
Pháp Hoa. Và sau khi nói kinh xong, Phật cho biết là sẽ nhập Niết-bàn, Ngài
khuyên chúng nên tinh tấn tu hành, chớ có buông lung.
37. CHÁNH VĂN :
* Các con của Phật thảy
Nghe Phật sắp nhập diệt
Thảy đều lòng buồn khổ
Phật sao gấp diệt vậy ?
Đấng Thánh chúa Pháp vương
An ủi vô lượng chúng:
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Đức Tạng Bồ-tát đây
Tâm đã được thông thấu
Nơi vô lậu thiệt tướng
Kế đây sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh Thân
Cũng độ vô lượng chúng.
GIẢNG :
Tứ chúng nghe Phật sắp Niết-bàn, lấy làm buồn khổ. Phật an ủi là sau khi
Phật diệt độ, có Bồ-tát Đức Tạng tâm thấu suốt được thật tướng, sẽ thành Phật tiếp
tục giáo hóa chúng sanh.
38. CHÁNH VĂN :
* Đêm đó Phật diệt độ
Như củi hết, lửa tắt
Chia phân các xá-lợi
Mà xây vô lượng tháp
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni
Số đông như Hằng sa
Lại càng thêm tinh tấn
Để cầu đạo Vô thượng.
GIẢNG :
Phật diệt độ, xá-lợi Phật được xây tháp để cúng dường, chúng càng thêm
tinh tấn cầu đạo Vô thượng.
39. CHÁNH VĂN :
* Diệu Quang pháp sư ấy
Vưng giữ Phật pháp tạng
Trong tám mươi tiểu kiếp
Rộng nói kinh Pháp Hoa.
Tám vị vương tử đó
Được Diệu Quang dạy bảo
Vững bền đạo Vô thượng
Sẽ thấy vô số Phật
Cúng dường các Phật xong
Thuận theo tu đại đạo
Nối nhau được thành Phật
Chuyển thứ thọ ký nhau
Đấng Phật rốt sau cả
Hiệu là Phật Nhiên Đăng
Đạo sư của thiên tiên
Độ thoát vô lượng chúng.
GIẢNG :
Bồ-tát Diệu Quang vâng giữ Pháp tạng Phật, nói kinh Pháp Hoa độ cho vô
số chúng, trong đó có tám vương tử đầy đủ lòng tin với đạo Vô thượng và sẽ được
thành Phật, vị rốt sau hiệu Nhiên Đăng.
40. CHÁNH VĂN :
* Diệu Quang pháp sư đó
Có một người đệ tử
Tâm thường cưu biếng trễ
Tham ưa nơi danh lợi
Cầu danh lợi không nhàm
Thường đến nhà sang giàu
Rời bỏ việc tụng học
Bỏ quên không thông thuộc
Vì bởi nhân duyên ấy
Nên gọi là Cầu Danh
Cũng tu các nghiệp lành
Được thấy vô số Phật
Cúng dường các đức Phật
Thuận theo tu đại đạo
Đủ sáu Ba-la-mật
Nay gặp đấng Thích-ca
Sau đây sẽ thành Phật
Hiệu rằng: Phật Di-lặc
Rộng độ hàng chúng sanh
Số đông đến vô lượng.
GIẢNG :
Bồ-tát Văn-thù nhắc lại chuyện xưa, Bồ-tát Diệu Quang có người đệ tử
tham ưa danh lợi tên là Cầu Danh, nhờ có duyên lành nên gặp chư Phật, tu pháp
Lục độ, nay gặp Phật Thích-ca giáo hóa cũng sẽ thành Phật.
41. CHÁNH VĂN :
* Sau Phật kia diệt độ
Lười biếng đó là Ngài
Còn Diệu Quang pháp sư
Nay thời chính là ta.
Ta thấy Phật Đăng Minh
Điềm sáng trước như thế
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói “Pháp Hoa”.
Tướng nay như điềm xưa
Là phương tiện của Phật
Nay Phật phóng ánh sáng
Giúp bày nghĩa thiệt tướng
Các người nay nên biết
Chấp tay một lòng chờ
Phật sẽ rưới nước pháp
Đầy đủ người cầu đạo
Các người cầu ba thừa
Nếu có chỗ nghi hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết không còn thừa.
GIẢNG :
Bồ-tát Di-lặc trong đời này tức là Cầu Danh thuở xưa và Bồ-tát Diệu
Quang thuở xưa là Bồ-tát Văn-thù thời nay. Bồ-tát Văn-thù bảo cho hội chúng biết,
nay Phật hiện những điềm lành giống như thuở xưa là Phật sắp nói kinh Pháp Hoa,
chúng nên chờ để nghe. Đặc biệt là hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát sẽ được
dứt trừ nghi mà thành tựu Phật thừa.
Chúng ta thấy ở phẩm này nêu lên các vị Bồ-tát tượng trưng. Mở đầu là Bồ-
tát Di-lặc nghi vấn những hiện tướng kỳ diệu mà Phật hiện ra trước khi nói kinh
Vô Lượng Nghĩa và được Bồ-tát Văn-thù giải đáp. Như vậy để thấy kinh Pháp
Hoa chỉ thẳng Tri kiến Phật (Phật tánh) của mỗi người, nếu dùng Thức phân biệt
thì không thể thấy biết mà phải nhờ Trí căn bản mới nhận được. Đoạn sau Bồ-tát
Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc bằng một câu chuyện tiền kiếp: Cầu Danh
ngày xưa chính là Bồ-tát Di-lặc ngày nay và Bồ-tát Diệu Quang ngày xưa dạy cho
các Bồ-tát thành Phật mà Ngài không được thọ ký thành Phật chính là Bồ-tát Vănthù
ngày nay. Văn Thù là Trí căn bản thúc đẩy con người phát tâm Bồ-đề, còn Cầu
Danh là thức, nếu khéo tu đúng theo lời Phật dạy thì thức cũng chuyển thành trí.
Khi mê, vọng thức chạy theo danh tướng; khi tỉnh giác, chánh trí hiện, không chạy
theo danh tướng liền trở thành như như. Cho nên ngài Cầu Danh được thọ ký sẽ
thành Phật hiệu là Di-lặc sau Phật Thích-ca. Đó là mục tiêu chánh yếu mà chư
Phật ra đời để dạy cho chúng ta.
Phẩm này Phật chỉ dùng hình ảnh biểu trưng để hiển bày lý chân thật tuyệt
đối là Tri kiến Phật, chớ không dùng ngôn ngữ để diễn tả. Vì vậy chúng ta chớ kẹt
trên ngôn ngữ mà hiểu kinh Pháp Hoa.
D
PHẨM 2: PHƯƠNG TIỆN
Phương tiện là tùy theo sở cầu trong mỗi giai đoạn của người mà tạm thời
làm lợi ích. Nói cách khác, phương tiện là từng bậc thang đưa người đi từ dễ đến
khó, từ thấp đến cao, từ chỗ tạm đến chỗ chân thật rốt ráo. Trí tuệ Phật viên mãn
nên có vô số phương tiện hướng dẫn chúng sanh từ mê tới giác là chỗ cứu kính
chân thật.
Chúng ta thấy ở phẩm Tựa, Phật nhập định, hiện tướng lạ, không nói một
lời... để thính chúng nương tướng lạ đó mà ngầm nhận ra thâm ý Phật muốn chỉ.
Tới phẩm Phương Tiện, Ngài mới bắt đầu dùng ngôn giáo. Tôi đi xa hơn một chút,
theo tinh thần phán giáo của ngài Thiên Thai thì kinh Pháp Hoa và kinh Hoa
Nghiêm là hai bộ kinh được nói ở đầu và cuối đời đức Phật. Ngài ví dụ: Mặt trời
khi mới mọc, ánh sáng chiếu thẳng trên đỉnh núi và khi sắp lặn, ánh sáng cũng
chiếu thẳng trên đỉnh núi. Khi Phật mới thành đạo nói kinh Hoa Nghiêm và sắp
Niết-bàn nói kinh Pháp Hoa. Hai kinh được nói ở hai thời điểm khác nhau mà chỉ
thú không hai. Kinh Hoa Nghiêm ở phẩm Nhập Pháp Giới được coi là tối quan
trọng. Trong phẩm này, Thiện Tài đồng tử được Bồ-tát Văn-thù khuyến khích đi
tham vấn năm mươi ba vị thiện hữu tri thức. Đầu tiên Thiện Tài đến ngọn Diệu
Phong để tham vấn Tỳ-kheo Đức Vân. Nhưng lên tận đỉnh Diệu Phong, Thiện Tài
không gặp Tỳ-kheo Đức Vân. Lúc trở xuống thì gặp Ngài ở ngọn Biệt Phong,
chừng đó mới đàm đạo tham vấn. Cũng như kinh Pháp Hoa, mở đầu phẩm Tựa,
đức Phật nhập định hiện tướng lạ, không nói. Qua phẩm Phương Tiện Phật xả định,
rồi tán thán pháp Phật vi diệu nhiệm mầu, khó nói, khó hiểu, khó tin, chừng đó
mới có ngôn ngữ. Như vậy, kinh Hoa Nghiêm cũng như kinh Pháp Hoa đều nói
rằng chỗ cứu kính chân thật (Pháp thân hay Tri kiến Phật) thì bặt ngôn ngữ, bởi
nói năng không thể hiển bày được. Vì vậy phẩm này Phật xuất định, dùng ngôn
ngữ nói cho hội chúng nghe để dìu dắt chúng sanh từ thấp đến cao nên gọi là
Phương tiện.
1. CHÁNH VĂN :
*Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-lợiphất:
“Trí huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào,
tất cả hàng Thanh văn cùng Bích-chi Phật đều không biết được. Vì sao ?
Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô
lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh, tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên
pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.
Xá-lợi-phất ! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí
dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa
lòng chấp. Vì sao ? Đức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, Tri kiến và Ba-la-mật.
Xá-lợi-phất ! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại,
lực vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn
nên tất cả pháp chưa từng có.
Xá-lợi-phất ! Như Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm
dịu vui đẹp lòng chúng.
Xá-lợi-phất ! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức
Phật thảy đều trọn nên.
GIẢNG :
Phẩm Tựa, đức Phật hiện điềm lành rồi nhập chánh định “Vô Lượng Nghĩa
Xứ”, im lặng không nói. Nay thấy căn cơ của thính chúng đã thuần thục, Phật xuất
định giảng nói. Trước hết, Ngài tán thán ca ngợi với tôn giả Xá-lợi-phất là Trí tuệ
của chư Phật sâu xa vô lượng nên khó nói, khó hiểu, khó vào. Vì vậy mà hàng
Thanh văn, Bích-chi Phật không thể hiểu được.
Sở dĩ đức Phật được trí tuệ sâu rộng mà tất cả người khác không thể biết
được, là vì Ngài đã từng gần gũi vô số đức Phật, tu vô lượng pháp, dõng mãnh,
tinh tấn, tiếng tốt đồn khắp... Nên Ngài mới được pháp sâu rộng chưa từng có và
tùy theo thời cơ mà đem chỉ dạy ý thú sâu xa khó hiểu đó cho chúng sanh.
Chúng ta thấy rõ Phật nói lên phương tiện Ngài sử dụng. Từ khi thành Phật,
Như Lai có đầy đủ phương tiện, thấy biết tận nguồn ngọn tất cả pháp nên Ngài đã
dùng nhân duyên, thí dụ, ngôn giáo và vô số phương tiện khác để dìu dắt chúng
sanh, khiến cho họ xa lìa kiến chấp.
Phật nói rằng Tri kiến Phật rộng lớn sâu xa, không thể đo lường được nên
gọi là đức vô lượng, không có cái gì làm chướng ngại được nên gọi là vô ngại, về
sức thì được vô sở úy, tức là không sợ sệt, được thiền định, được giải thoát rất sâu
không ngằn mé. Tức là Trí tuệ Phật ở thế gian chưa từng có. Vì tất cả pháp thế
gian có đều là tương đối, đã là tương đối thì sinh diệt. Trí tuệ Phật là cái không
sanh không diệt nên nói thế gian chưa từng có.
2. CHÁNH VĂN :
*Thôi Xá-lợi-phất ! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ
nhứt mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân
thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy,
lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy,
trước sau rốt ráo như vậy.
GIẢNG :
Tại sao đức Phật đang khen ngợi Trí tuệ của chư Phật, tới đây Ngài lại
không muốn nói, bảo: “Thôi, Xá-lợi-phất, chẳng cần nói nữa”. Vì lý do gì ? Vì
pháp khó nói, khó hiểu, khó tin, chỉ Phật với Phật mới có thể thấu tột tướng chân
thật của các pháp. Còn hàng Bồ-tát, Duyên giác, La-hán đều không thể thấy như
Phật. Bởi trình độ chư Phật ngang nhau mới thấy biết như nhau; còn phàm phu
chúng ta, mọi thấy biết đều sai lầm. Ví dụ như cái thân năm uẩn này thấy nó là thật
ngã, là của ta... Với trí Bát-nhã thấy thân người do năm ấm giả hợp mà thành,
không có chủ thể cố định. Bởi không có chủ thể cố định nên nói là vô ngã, là tạm
bợ, huyễn hóa. Các pháp ở thế gian, với người mê thì thấy thế này, còn người ngộ
lại thấy khác. Nhưng ngộ cũng tùy theo trình độ, như Thanh văn, Duyên giác, Bồ-
tát mỗi chỗ ngộ đều khác nhau. Nhưng đến cái ngộ của Phật mới thấy tột cùng,
dung hợp tất cả không còn sai biệt. Vì thế ở đây nói chỉ có Phật với Phật mới thấy
các pháp đúng như thật thể của nó, cho nên nói tướng như vậy, tánh như vậy, thể
như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy,
báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.
Thế nào là tướng, thế nào là tánh ? Phàm, vạn pháp trên thế gian này được
nhìn qua hai mặt tướng và tánh. Ví dụ: Lửa là một pháp, khi cháy ánh lửa hiện ra
các màu hoặc đỏ, hoặc xanh, hoặc cam; ta thấy tướng trạng màu sắc của lửa có sai
khác, nhưng tánh nóng của lửa không khác, vẫn là nóng; thế nên, tướng lửa có đổi
thay mà tánh lửa thì không biến dịch.
Thế nào là thể lực... quả báo ? Phàm tất cả mọi sự vật đều có cái thể chung,
chẳng hạn toàn thân con người gọi là “thể”; do thân này hoạt động có tác dụng có
sức mạnh gọi là “lực”; do hoạt động tạo “tác” nên có nghiệp; bởi có tạo tác nên
mới thành “nhân”; nhân hội đủ “duyên” thì thành “quả”; mà quả kết tựu đúng như
nhân đã tạo gọi là “báo”, rõ ràng “trước sau rốt ráo” như vậy không sai biệt. Đó là
đứng trên mặt tướng dụng của các pháp nhìn thì thấy rõ ràng như vậy.
Nếu nhìn toàn thân con người bằng trí tuệ Bát-nhã thì đầu, mình, tay, chân,
mắt, tai... tất cả đều do tứ đại duyên hợp mà có giả tướng ấy, không một bộ phận
nào trong thân là tướng chân thật. Nên dù nói tướng, nói tánh, nói thể, nói lực, nói
tác, nói nhân, nói duyên, nói quả, nói báo, nói rốt ráo, tất cả đều là ngôn ngữ giả
lặp. Đã là ngôn ngữ giả lặp thì tự tánh nó là không, bởi tự tánh là không nên nói
tịch diệt.
Nếu nhìn toàn thân con người với tâm nhất như không động, không phân
biệt thì thấy con người là con người. Hoặc mắt thấy sắc, sắc vẫn là sắc; tai nghe
âm thanh, âm thanh vẫn là âm thanh; hương, vị, xúc, pháp cũng như vậy, không
phân tích chia chẻ. Bởi nhìn tất cả pháp ở thế gian này với tâm như như thì thấy
các pháp là như, không có chút sai biệt. Ví dụ có một thoi vàng trên bàn, mọi
người đều thấy thoi vàng là thoi vàng, không thêm một niệm nào khác thì nó là
như. Nếu thấy thoi vàng liền cho thoi vàng quí có giá trị bạc triệu thì lòng tham
dấy khởi, nhiều niệm bất chánh theo đó mà sanh... Vậy, nếu tâm như thì mọi cảnh
đều như.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, lúc Lục tổ đến chùa Ấn Tông với hình thức cư
sĩ, có hai ông sa-di đứng trước chùa dưới cây phướn cãi nhau:
- Đố huynh cái gì động ?
- Gió động.
- Phướn động.
Người nói gió động, người nói phướn động, hai người cãi nhau không ngã
lẽ. Lục tổ nói: Tâm nhân giả động ! Sở dĩ chúng ta cãi nhau hoài là tại tâm chúng
ta không nhất như, không thấy các pháp vốn là như vậy. Cảnh vật đối với tâm
người đạt đạo giống như mặt gương sáng, có người thì hiện ảnh người, có vật thì
hiện ảnh vật, có cái nào hiện cái nấy rõ ràng không tạp loạn. Đó là do tâm như nên
mọi cảnh đều như. Nếu tâm dấy niệm phân biệt thì thấy người thấy vật sai khác,
rồi tranh chấp nhau sanh vô số khổ đau phiền lụy.
Người thấy tất cả pháp như vậy là người hằng sống với Tri kiến Phật, đó là
ý nghĩa Thập như thị. Nếu tâm nhất như thì cảnh như. Cảnh như do tâm như. Đồng
nghĩa với tâm an thì cảnh cũng an, tâm bất an thì cảnh cũng bất an, đó là một lẽ
thực mà ít người chấp nhận.
3. CHÁNH VĂN :
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
*Đấng Thế Hùng khó lường
Các trời cùng người đời
Tất cả loài chúng sanh
Không ai hiểu được Phật
Trí lực, vô sở úy.
Giải thoát các tam-muội
Các pháp khác của Phật
Không ai so lường được.
Vốn từ vô số Phật
Đầy đủ tu các đạo
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Khó thấy khó rõ được
Trong vô lượng ức kiếp
Tu các đạo đó rồi
Đạo tràng được chứng quả
Ta đều đã thấy biết.
Quả báo lớn như vậy
Các món tánh tướng nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc đó.
GIẢNG :
Phật lặp lại ý trước, chỗ đạt được của Phật, các loài chúng sanh từ trời,
người... không ai có thể hiểu và so lường được. Sở dĩ Ngài được pháp như vậy là
do Ngài tu đủ các pháp mầu sâu xa trong vô lượng kiếp, rồi chứng quả tại đạo
tràng nên mới thấu suốt như vậy. Vì thế tánh, tướng, nghĩa của pháp đó chỉ có
Phật với Phật ở mười phương mới biết được.
4. CHÁNH VĂN :
* Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năng
Các loài chúng sanh khác
Không có ai hiểu được
Trừ các chúng Bồ-tát
Người sức tin bền chặt
Các hàng đệ tử Phật
Từng cúng dường các Phật
Tất cả lậu đã hết
Trụ thân rốt sau này
Các hạng người vậy thảy
Sức họ không kham được.
Giả sử đầy thế gian
Đều như Xá-lợi-phất
Cùng suy chung so lường
Chẳng lường được Phật trí
Chánh sử khắp mười phương
Đều như Xá-lợi-phất
Và các đệ tử khác
Cũng đầy mười phương cõi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.
Bậc Duyên giác trí lanh
Vô lậu thân rốt sau
Cũng đầy mười phương cõi
Số đông như rừng tre,
Hạng này chung một lòng
Trong vô lượng ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳng biết được chút phần
Bồ-tát mới phát tâm
Cúng dường vô số Phật
Lại hay khéo nói pháp
Đông đầy mười phương cõi
Như lúa, mè, tre, lau
Một lòng dùng trí mầu
Trải số kiếp Hằng sa
Thảy đều chung suy lường
Chẳng biết được trí Phật
Hàng bất thối Bồ-tát
Số đông như Hằng sa
Một lòng chung suy cầu
Cũng lại chẳng hiểu được.
GIẢNG :
Pháp mà Phật chứng thì không ngôn ngữ nào có thể diễn tả được, nên nói
“vắng bặt tướng nói năng”. Trong thiền sử Trung Hoa, có thiền sư Đả Địa bên
Ngài luôn luôn có cây gậy, nếu có thiền khách đến tham vấn, bất cứ hỏi câu gì,
Ngài đều cầm gậy đập xuống đất một cái rồi thôi, không nói gì hết. Một hôm có vị
tăng lén lấy cây gậy đem giấu, rồi mới đến thưa: “Bạch Hòa thượng thế nào là
Đạo?” Ngài đưa tay lấy gậy, gậy không có, Ngài há miệng, không nói câu nào !
Thoáng nghe qua, chúng ta rất ngạc nhiên và thắc mắc sao Ngài dốt cho tới không
nói được một câu, hay miệng lưỡi Ngài có tật không nói được. Chính vì Tri kiến
Phật là cái mà ngôn ngữ không thể diễn tả được, nếu diễn tả bằng lời được thì
pháp đó là pháp đối đãi của thế gian. Cho nên, để khai thị pháp tuyệt đối (Tri kiến
Phật), Ngài chỉ đập đất hoặc há miệng mà không nói.
Qua pháp thoại này, tôi bình rằng: “Muốn thấy mặt nước hồ phẳng, trước
khi cá ăn móng.” Cũng vậy, muốn thấy được thể thanh tịnh, bặt tướng nói năng thì
trước khi dấy niệm phát ra ngôn ngữ, mới thấy được cái thể ấy. Vì vừa dấy niệm
có ngôn ngữ là tâm động loạn không thể thấy được. Thế nên, hàng chúng sanh
không ai hiểu nổi Tri kiến Phật, trừ hàng Bồ-tát có lòng tin vững chắc mới có thể
thấu hiểu.
Đệ tử Phật như hàng A-la-hán đối với Tri kiến Phật cũng không kham được.
Giả sử tất cả người ở thế gian này, mỗi người trí tuệ siêu tuyệt bậc nhất như Xá-
lợi-phất, hợp lại để so lường, nghĩ về Tri kiến Phật cũng không thể hiểu được.
Hoặc người ở khắp mười phương thế giới, ai cũng có trí tuệ siêu tuyệt như trí tuệ
của Xá-lợi-phất, và hàng đệ tử khác ở khắp mười phương, chung họp tất cả trí tuệ
đó để suy lường cũng không biết được Tri kiến Phật. Tại sao vậy ? Vì còn so
lường. Trí tuệ Phật là chỗ tuyệt ngôn tuyệt lự, nếu còn đem trí để suy lường, dù trí
có nhiều bao nhiêu cũng không hiểu nổi.
Hàng Duyên giác trí lanh lợi, đầy mười phương hợp lại nhiều như rừng tre,
trải qua thời gian vô lượng kiếp muốn biết trí tuệ Phật cũng không có phần, vì suy
lường nên không biết được.
Cho đến hàng Bồ-tát mới phát tâm ở mười phương số nhiều như lúa mè,
như tre lau dùng hết trí tuệ của mình, trải hằng sa kiếp để suy lường cũng không
biết Trí tuệ Phật. Kế nữa là hàng Bất thối Bồ-tát, nhiều như số cát sông Hằng một
lòng chung suy nghĩ cũng không thể biết Trí tuệ Phật.
Chúng ta thấy, đối với Trí tuệ Phật dù cho bất cứ hạng người nào từ A-lahán
đến Duyên giác, đến Bồ-tát mới phát tâm, đến Bồ-tát bất thối chuyển, nếu còn
dùng trí suy cầu tìm hiểu đều không thể hiểu được. Như vậy, muốn biết Trí tuệ
Phật thì tâm phải nhất như, khi tâm như rồi thì cảnh cũng như mới hợp với Trí tuệ
Phật.
5. CHÁNH VĂN :
*Lại bảo Xá-lợi-phất
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Vô lậu khó nghĩ bàn
Nay ta đã được đủ
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng vậy
Xá-lợi-phất phải biết
Lời Phật nói không khác
Với pháp của Phật nói
Nên sanh sức tin chắc
Pháp của Phật lâu sau
Cần phải nói chân thật
Bảo các chúng Thanh văn
Cùng người cầu Duyên giác
Ta khiến cho thoát khổ
Đến chứng được Niết-bàn
Phật dùng sức phương tiện
Chúng sanh nơi nơi chấp
Dắt đó khiến ra khỏi.
GIẢNG :
Phật nói Pháp sâu xa nhiệm mầu mà Phật đã được, chỉ có Phật biết và mười
phương chư Phật cùng biết thôi. Phật khẳng định lời Ngài nói và lời chư Phật nói
đều giống nhau. Những lời Phật nói ra là lời chân thật, không giả dối, vì vậy nên
tin chắc lời đó. Sở dĩ Ngài nói ba thừa giáo là vì muốn cho những chúng sanh cầu
Thanh văn, Duyên giác thoát khỏi khổ đau được Niết-bàn. Ngài nói ba thừa để dẫn
dắt họ phá mê chấp, đưa họ đến Niết-bàn an lạc, đó là phương tiện chớ không phải
cứu kính.
6. CHÁNH VĂN :
*Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh văn lậu tận A-la-hán, ngài A-nhã
Kiều-trần-như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự
nam cùng cận sự nữ, hạng người phát tâm Thanh văn, Duyên giác đều nghĩ rằng:
“Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này “Pháp
của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không
thể đến được.”
Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến
nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu ?”
GIẢNG :
Bấy giờ toàn chúng khởi nghi: Tại sao hôm nay đức Phật lại tán thán pháp
của Ngài được một cách nhiệt thành và tha thiết ? Khi xưa, Phật dạy hàng Thanh
văn tu pháp Tứ đế để được giải thoát, hàng Duyên giác tu Mười hai nhân duyên để
được Niết-bàn; sao hôm nay Phật nói pháp của Ngài cao siêu bậc nhất, không thể
dùng trí tuệ của hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát suy lường mà hiểu đến được ?
7. CHÁNH VĂN :
*Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng
chưa rõ, liền bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần
khen ngợi pháp phương tiện thứ nhứt nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức
Phật ?
Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng
thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế
Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu ?”
Khi đó ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất là người trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử Phật, nghe Phật
nói như vậy Ngài không hiểu, khởi nghi ngờ. Ngài biết đại chúng cũng nghi ngờ,
nên thưa hỏi lý do gì mà Phật cứ ân cần tán thán phương tiện sâu xa nhiệm mầu
khó hiểu như vậy ? Xin Phật giảng nói.
8. CHÁNH VĂN :
*Đấng Huệ Nhựt Đại Thánh
Lâu mới nói pháp này,
Tự nói pháp mình chứng
Lực, vô úy, tam-muội,
Thiền định, giải thoát thảy
Đều chẳng nghĩ bàn được.
Pháp chứng nơi đạo tràng
Không ai hỏi đến được
Ý con khó lường được
Cũng không ai hay hỏi,
Không hỏi mà tự nói
Khen ngợi đạo mình làm
Các đức Phật chứng được
Trí huệ rất nhiệm mầu.
Hàng vô lậu La-hán
Cùng người cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nghi
Phật cớ chi nói thế ?
Hạng người cầu Duyên giác
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni
Các trời, rồng, quỉ, thần
Và càn-thát-bà thảy
Ngó nhau cưu lòng nghi
Nhìn trông đấng Túc Tôn,
Việc đó là thế nào ?
Xin Phật vì dạy cho
Trong các chúng Thanh văn
Phật nói con hạng nhứt
Nay con nơi trí mình
Nghi lầm không rõ được
Vì là pháp rốt ráo
Vì là đạo Phật làm
Con từ miệng Phật sanh
Chắp tay nhìn trông chờ.
Xin ban tiếng nhiệm mầu
Liền vì nói như thiệt
Các trời, rồng, thần thảy
Số đông như Hằng sa
Bồ-tát cầu thành Phật
Số nhiều có tám muôn
Lại những muôn ức nước
Vua Chuyển Luân Vương đến.
Đều lòng kính chấp tay
Muốn nghe đạo đầy đủ.
GIẢNG :
Sở dĩ ngài Xá-lợi-phất nói “Con từ miệng Phật sanh”, là vì Phật nói pháp,
hàng đệ tử Thanh văn, Duyên giác nhân nghe tiếng pháp của Phật nói, tu mà ngộ
đạo phát sanh trí tuệ. Trí tuệ đó do lời dạy của Phật mà có. Thông thường người
thế gian nhận thân tứ đại là mạng sống, người tu lấy trí tuệ làm mạng sống, vì vậy
nên nói từ miệng Phật sanh ra mạng sống của mình.
Đoạn này lặp lại ý trước, ngài Xá-lợi-phất và đại chúng nghi ngờ pháp mà
Phật vừa ca ngợi tán thán, xin Phật giảng nói vì tất cả đại chúng đều muốn nghe.
9. CHÁNH VĂN :
*Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi thôi ! Chẳng nên nói nữa,
nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”
GIẢNG :
Đọc qua đoạn này, chúng ta thấy có cái gì mâu thuẫn. Tại sao Phật tự khen
ngợi tán thán Trí tuệ Phật đáo để, đến khi ngài Xá-lợi-phất yêu cầu Phật giảng nói,
Phật lại nói: Thôi thôi, nói ra e các ông nghi ngờ kinh sợ. Nếu biết nói ra đệ tử
nghi ngờ thì Ngài đừng nói, tại sao trước nói rồi ngang đây bảo thôi thôi ! Có lạ
không ?
10.CHÁNH VĂN :
*Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Cúi xin nói đó, cúi
xin nói đó. Vì sao ? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức a- tăng-kỳ chúng
sanh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí tuệ sáng suốt, được nghe Phật
dạy chắc có thể kính tin.”
Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Đấng Pháp vương Vô thượng
Xin nói, nguyện đừng lo
Vô lượng chúng hội đây
Có người hay kính tin.
GIẢNG :
Ngài Xá-lợi-phất một lần nữa tha thiết cầu xin Phật vì đại chúng nói pháp
ấy, trong hội cũng có người căn trí mạnh lẹ có thể kính tin.
11. CHÁNH VĂN :
*Đức Phật lại ngăn Xá-lợi-phất: “Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời,
người, a-tu-la đều kinh nghi. Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.”
Khi đó đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Thôi thôi ! Chẳng nên nói
Pháp ta diệu khó nghĩ
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe ắt không kính tin.
GIẢNG :
Lần cầu thỉnh thứ hai của ngài Xá-lợi-phất, cũng bị Phật từ chối với lý do
pháp Phật sâu xa rất khó hiểu, nếu nói ra thì kẻ tăng thượng mạn sẽ không tin rồi
sa đọa.
12. CHÁNH VĂN :
*Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Cúi xin nói đó,
cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn
ức. Đời đời đã từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu
dài an ổn nhiều điều lợi ích.”
Khi đó ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đấng Vô thượng lưỡng túc
Xin nói pháp đệ nhất
Con là trưởng tử Phật
Xin thượng phân biệt nói.
Vô lượng chúng hội đây
Hay kính tin pháp này
Đời đời Phật đã từng
Giáo hóa chúng như thế
Đều một lòng chấp tay
Muốn nghe lãnh lời Phật.
Chúng con nghìn hai trăm
Cùng hạng cầu Phật nọ
Nguyện Phật vì chúng này
Cúi xin phân biệt nói
Chúng đây nghe pháp ấy
Thời sanh lòng vui mừng.
GIẢNG :
Đức Phật được tán thán là Lưỡng Túc Tôn, có nghĩa Phật là bậc có đầy đủ
hai món phước đức và trí tuệ.
Lần thứ ba, ngài Xá-lợi-phất cầu xin Phật giảng nói, vì trong hội chúng có
1250 vị, và tất cả đều phát tâm muốn nghe pháp Phật nói. Sau khi nghe sẽ vui
mừng kính tin chớ không nghi ngờ.
13. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất : “Ông đã ân cần ba phen thưa
thỉnh đâu được chẳng nói, ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông
phân biệt giải nói.”
GIẢNG :
Đây là thuật khéo léo của đức Phật đối với pháp nhiệm mầu khó nói khó tin.
Từ lâu Ngài đã không nói, nay biết đến thời phải nói, nên Ngài hết lòng tán thán ca
ngợi, gợi sự lưu ý cho thính chúng. Nhưng còn ngại thính chúng sinh lòng khinh
mạn coi thường, đợi ngài Xá-lợi-phất thiết tha thưa thỉnh đến ba lần Ngài mới hứa
khả nói. Phật làm như thế để chi ? Để cho lòng thiết tha mong mỏi của người nghe
lên cao tột rồi, khi nói họ mới lưu ý nghe để lãnh hội. Nếu dễ, hỏi tới đâu nói tới
đó, họ xem thường sanh tâm ngạo mạn khó tiến. Hiểu như vậy mới thấy Phật
không mâu thuẫn, không phải bày ra rồi làm khó, mà vì muốn người nghe không
khinh thường, được thể hội. Thật lòng từ vô hạn !
Về sau các thiền sư áp dụng thủ thuật này triệt để. Các Ngài còn bạo hơn,
thiền sinh đến tham vấn, các Ngài hét hoặc đánh chớ không nói. Thậm chí đánh
nhiều lần dồn người hỏi vào chỗ bế tắc, để khi họ nhận ra chỗ các Ngài muốn chỉ
thì đời đời không quên. Điển hình nhất là Sư Thần Quang đến cầu đạo với tổ Đạtma,
Ngài vẫn ngồi xây mặt vào vách mặc cho Thần Quang đứng ngoài tuyết lạnh
tới sáng.
Tuyết đã ngập tới gối, mà Tổ còn cho đó là khổ hạnh cỏn con. Đến khi Sư
Thần Quang chặt một cánh tay dâng lên để tỏ ý chí thiết tha cầu đạo, chừng đó Tổ
mới gật đầu. Điều đó cho thấy hệ thống truyền dạy từ đức Phật cho tới đồ đệ
không khác, chớ không phải người sau ưng làm thế nào thì làm. Chúng ta ngày
nay hiểu được chút chút, gặp người chưa kịp thưa hỏi thì đã tự nói trước, nói thôi
là nói. Vì chưa phải là pháp quí, nên gặp đâu cho đó, thành ra người nghe xem
thường, không nhớ, không tu tập được.
14. CHÁNH VĂN :
*Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam,
cận sự nữ, cả thảy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về.
Vì sao ? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng thượng mạn, chưa được mà
nói đã được, chưa chứng mà cho đã chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại.
Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản.
GIẢNG :
Đến đây, chúng ta lại có thêm một điều nghi vấn nữa. Đức Phật là một bậc
đại từ đại, bi sắp nói pháp nhiệm mầu cao quí, đối với những chúng sanh chưa
được phước duyên nghe, đáng lý khuyên họ ở lại nghe. Nhưng tại sao trong hội
chúng của Phật có năm ngàn người đứng dậy lui ra không nghe, mà Phật im lặng
để cho họ đi, không khuyên không ngăn lại ? Như đã nói ở trên, chính vì đức Phật
muốn cho người tự thấy mình chưa đủ, có tâm tha thiết cần cầu nghe, nên Phật
mới vì những người đó nói. Còn đối với người tự mãn, họ không muốn nghe, họ đi
thì mặc họ, vì nếu có giữ họ ở lại chỉ tăng thêm lòng kiêu mạn, tự họ không được
lợi ích. Ở đây, Phật xử sự tương đối nhẹ nhàng.
Về sau, các Thiền sư dùng nhiều thuật rất ngặt nghèo. Như trường hợp ngài
Thiện Chiêu, hội chúng của Ngài có năm trăm người, Ngài biết trong số này có
nhiều người nghe danh Ngài mà đến, chớ chưa đủ lòng tin đối với Ngài. Nhân
ngày giỗ mẹ, Ngài cho mua một ít rượu thịt về làm một bữa tiệc. Cúng mẹ xong,
Ngài mời Tăng chúng dự tiệc cho vui. Nói xong, Ngài thản nhiên ngồi vào bàn
cầm đũa, toàn chúng không ai dám dự. Sau bữa tiệc đó, chúng bỏ đi hết, chỉ còn
có mười sáu người ở lại. Ngài nói những người còn ở lại là những người có đủ
lòng tin đối với Ngài. Tại sao Ngài dùng thủ thuật quá gắt gao như vậy ? Nếu
người đã hiểu và tin Ngài thì dù Ngài có những hành động bất thường như thế nào,
họ cũng thừa hiểu thừa biết, không phản ứng. Còn đối với người không tin không
hiểu Ngài, nếu thấy Ngài có chút gì hơi dở là họ bất mãn chê chán, họ có ở lại chỉ
dạy cũng không được. Vì vậy, Phật Tổ đối với những người không đủ lòng tin với
pháp mà các Ngài giảng dạy, ai muốn đi các Ngài để cho đi không cầm giữ lại.
15. CHÁNH VĂN :
*Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong chúng ta đây không còn
cành lá, rặt có hột chắc. Xá-lợi-phất ! Những gã tăng thượng mạn như vậy lui về
cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói.”
Ngài Xá-lợi-phất bạch rằng: “Vâng, thưa Thế Tôn con nguyện ưa muốn
nghe.”
GIẢNG :
Khi những kẻ tăng thượng mạn đứng dậy ra về, đức Phật nói đó là điều tốt,
số chúng còn lại có đủ lòng tin thiết tha muốn nghe, đó là hột chắc. Phật vì những
người này mà nói và khuyên họ khéo lắng nghe.
16. CHÁNH VĂN :
*Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp mầu như thế, các đức Phật Như Lai
đến khi đúng thời mới nói, như bông linh thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-
lợi-phất ! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
GIẢNG :
Phật tán thán pháp chư Phật khó gặp khó được, giống như hoa linh thoại
khi nào có điềm lành, như Phật hay Chuyển Luân Thánh Vương ra đời, mới xuất
hiện. Vậy đại chúng khéo nghe và tin thọ, vì lời Phật nói không bao giờ hư dối.
17. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp ý thú khó hiểu. Vì sao ?
Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.
Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức
Phật mới biết được đó. Vì sao ? Các đức Phật Thế Tôn, chỉ do một sự nhân duyên
lớn mà hiện ra nơi đời.
Xá-lợi-phất ! Sao nói rằng các đức Phật Thế Tôn chỉ do một sự nhân duyên
lớn mà hiện ra nơi đời ? Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai Tri
kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ Tri kiến Phật cho
chúng sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ Tri kiến Phật mà
hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo Tri kiến Phật mà hiện ra
nơi đời.
Xá-lợi-phất ! Đó là các đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra
nơi đời.”
GIẢNG :
Tới đây, đức Phật hiển bày cái khó nói, khó hiểu, khó tin. Hàng có trí tuệ
như Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát không thể suy lường mà có thể hiểu, chỉ có
Phật với Phật mới biết được, bởi tâm các Ngài thanh tịnh không phân biệt suy
lường. “Vì một nhân duyên lớn mà hiện ra đời”, đó là tông chỉ không riêng một
đức Phật Thích-ca mà là của tất cả mười phương chư Phật. Các Ngài ra đời để
khai Tri kiến Phật cho chúng sanh, chỉ (thị) Tri kiến Phật cho chúng sanh, khiến
cho chúng sanh ngộ Tri kiến Phật, và hướng dẫn cho chúng sanh nhập Tri kiến
Phật. Tri kiến Phật là cái thấy biết Phật, hay chính là cái trí tuệ Phật mà chư Phật
đã tự chứng. Vì cái thấy biết Phật là cái có sẵn nơi mỗi người, nhưng không ai biết,
nên bản hoài của chư Phật ra đời là, muốn chỉ bày cái mà Phật đã ngộ đã chứng
cho chúng sanh cũng ngộ cũng chứng như Phật.
Thế nào là khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật? Ví dụ: Có một viên ngọc xá-lợi
đựng trong cái hộp bằng vàng, thờ trên bàn, trong ngôi chùa cửa đóng kín. Nhiều
người nghe nói trong chùa có ngọc xá-lợi rất quí, họ khao khát muốn được chiêm
bái. Để hướng dẫn cho họ chiêm bái, trước tiên thầy trụ trì phải đưa họ tới chùa,
mở cửa chùa (khai) cho họ nhìn vô. Tuy cửa chùa đã mở, họ nhìn vào mà vẫn chưa
thấy ngọc xá-lợi. Kế đó thầy đưa tay chỉ viên xá-lợi được đựng trong cái hộp bằng
vàng thờ trên bàn. Khi tay thầy trụ trì chỉ, mắt họ nhìn theo liền thấy cái hộp đựng
ngọc xá-lợi, đó là thị và ngộ. Đứng tại cửa chùa thấy ngọc xá-lợi đựng trong cái
hộp chưa đủ, mà phải đưa họ vào chùa, đi tới bàn thờ ngọc xá-lợi, mở hộp ra,
chính mắt họ nhận ra viên ngọc xá-lợi sáng lấp lánh, đó là “nhập”. Như vậy,
“khai” là bước đầu thì dễ, đến phần “thị” và “ngộ” cũng không khó. Đến phần
“nhập” là phải qua hai ba giai đoạn mới là phần quan trọng.
Tri kiến Phật (trí tuệ Phật) không phải chỉ Phật mới có, mà tất cả chúng
sanh mọi người ai cũng có sẵn, nhưng vì mê (vô minh) nên bây giờ Phật mới dùng
phương tiện khai, rồi từ phương tiện đó Phật mới chỉ cho nhận ra Tri kiến Phật và
sau đó cố gắng tiến tu để nhập Tri kiến Phật của mình. Khai là chỉ cho chúng sanh
thấy vô minh vọng tưởng là cái không thật, chợt hiện chợt mất. Từ cái không thật
đó, đức Phật mới chỉ (thị) “cái chân thật” (Tri kiến Phật) sáng suốt thanh tịnh bất
sanh bất diệt. Nhân đó, mới nhận ra (ngộ) “cái chân thật” có sẵn nơi mình. Tuy đã
nhận ra nó, nhưng vì tập khí nhiều đời nhiều kiếp sâu dày, nên vọng tưởng vẫn còn
dấy khởi, Tri kiến Phật lúc ẩn lúc hiện. Nên phải có thời gian tu tập, công phu viên
mãn thì vô minh vọng tưởng sạch hết, chừng đó Tri kiến Phật hiển hiện tròn sáng
gọi là thành Phật. Vậy tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật tánh, nhưng vì quên (mê)
nên Phật mới dùng phương tiện khai thị ngộ nhập, khiến cho chúng sanh nhận ra
Phật tánh của chính mình để thành Phật như Ngài. Đó là bản hoài của chư Phật
nên nói là vì một đại sự nhân duyên mà các Ngài ra đời.
Kinh Pháp Hoa thuyết minh về Phật thừa cốt chỉ “Tức tâm tức Phật”. Tri
kiến là Tâm, là Giác, là Phật. Nhưng Tri kiến nào tức Phật, còn Tri kiến nào là
chúng sanh ? Tri kiến theo Cầu Danh là Tri kiến chúng sanh. Tri kiến theo Bồ-tát
Văn-thù là Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm, Phật nói rất rõ:
Tri kiến lặp tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn.
“Tri kiến lặp tri tức vô minh bổn” tức là trên thấy biết mà lặp thấy biết là
gốc vô minh. Ví dụ vừa thấy cái đồng hồ liền phân biệt đẹp, xấu, đắt, rẻ... rồi sanh
tâm thích hay chê. Nếu thích thì tìm cách mua sắm, hoặc xin xỏ, hoặc đánh cắp
cho được cái đồng hồ, như thế là đã tạo nghiệp đi trong luân hồi. Đó là Tri kiến
lặp tri là gốc của vô minh. “Tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn” là sao ? Thấy biết mà
không thấy biết tức là Niết-bàn. Ví dụ: Thấy tất cả Tăng Ni đang ngồi nghe giảng,
tôi thấy biết rõ ràng, không dấy niệm phân biệt, tâm an nhiên lặng lẽ. Đó là thấy
biết mà không thấy biết (Tri kiến vô kiến) giống như mặt gương sáng, người đến
thì hiện bóng người, vật đến thì hiện bóng vật, người vật qua rồi thì mặt gương
không bóng, vẫn trong sáng như trước. Cũng vậy, đối với ngoại cảnh, chúng ta vẫn
thấy biết mà tâm không lưu lại hình bóng để phân biệt. Đó là Niết-bàn, đó là trì
kinh Pháp Hoa. Không phải trì kinh Pháp Hoa là để tính bộ mà không hiểu thâm ý
của kinh.
Học đạo mà không thấy đạo, kẹt trên hình tướng không giải thoát chút nào
cả. Trì kinh như thế chưa phải là trì kinh Pháp Hoa. Như vậy, ai cũng có Tri kiến
Phật, chỉ vì người lặp và không lặp cái thấy biết phân biệt, nên kẻ là chúng sanh,
người là Phật.
18. CHÁNH VĂN :
*Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: “Các đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát,
những điều làm ra thường vì một việc: Chỉ đem Tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh
tỏ ngộ thôi.”
Xá-lợi-phất ! Đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói
pháp, không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.
GIẢNG :
Mục đích duy nhất của đức Phật Thích-ca cũng như của chư Phật đời quá
khứ ra đời là làm sao cho chúng sanh tỏ ngộ được Tri kiến Phật, tức là Phật thừa
chứ không có thừa thứ hai hay thứ ba.
19. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.
Xá-lợi-phất ! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện,
các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó
đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều
được chứng “Nhứt thế chủng trí”.
Xá-lợi-phất ! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số
phương tiện, các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp,
vì pháp ấy đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt
ráo đều được chứng “Nhứt thế chủng trí”.
Xá-lợi-phất ! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phật ở
mười phương, các đức Phật Thế Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các
đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí
dụ, mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các
chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng “Nhứt thế chủng trí”.
Xá-lợi-phất ! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-tát, vì muốn đem Tri kiến
Phật mà chỉ cho chúng sanh, vì muốn đem Tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, vì
muốn làm cho chúng sanh chứng vào Tri kiến Phật vậy.
Xá-lợi-phất ! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều
ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bổn tánh kia dùng các món nhân duyên lời
lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp.
Xá-lợi-phất ! Như thế đều vì để chứng được một Phật thừa “Nhứt thế chủng
trí”.
GIẢNG :
Nhứt thế chủng trí là trí Phật, biết tột cùng khắp tất cả pháp trên thế gian
này. Nhất thiết trí là trí của Thanh văn, Duyên giác. Chư Phật quá khứ, chư Phật vị
lai, và Phật hiện tại là đức Thích-ca đều nhắm vào chỗ cứu kính duy nhất là, chỉ
bày Tri kiến Phật cho chúng sanh được tỏ ngộ và chứng nhập để được “Nhứt thế
chủng trí”. Như vậy, chư Phật quá khứ dạy cũng như thế, chư Phật vị lai dạy cũng
như thế, kể cả đức Phật Thích-ca đời hiện tại dạy cũng như thế. Không có con
đường thứ hai thứ ba nào khác. Chỉ có con đường duy nhất là làm sao cho mọi
người nhận ra Tri kiến Phật, và hằng sống được với Tri kiến Phật nơi mình. Tại
sao đức Phật chỉ nhắm có điều đó ? Vì Phật biết mỗi chúng sanh ai cũng có Tri
kiến Phật, nhưng vì mê mới tạo nghiệp đi trong luân hồi lục đạo, thành ra Tri kiến
chúng sanh. Bây giờ nhờ Phật chỉ bày, chúng ta khéo nhận khéo sống thì Tri kiến
chúng sanh trở thành Tri kiến Phật, đó là tu.
20. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà
huống có ba !
Xá-lợi-phất ! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp
trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược. Như thế, Xá-lợiphất,
lúc kiếp loạn trược chúng sanh nhơ nặng, bỏn xẻn, tham lam, ghét ganh, trọn
nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật
thừa, phân biệt nói thành ba.
GIẢNG :
Đoạn này đức Phật xác nhận rõ ràng ý nghĩa không có ba thừa mà chỉ có
một Phật thừa. Sở dĩ Phật nói ba thừa là vì chúng sanh ở trong đời ngũ trược: kiếp
trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược, sanh lòng bỏn
xẻn, tham lam, ganh ghét... Vì vậy mà Phật tạm dùng phương tiện nói ba thừa để
dẹp bỏ những tâm cấu uế đó.
- Kiếp trược: Thời mà tuổi thọ của loài người dưới hai ngàn tuổi, chỉ cho
cõi ta-bà đức Thích-ca đang giáo hóa.
- Phiền não trược: Lòng mọi người chứa chấp nhiều tham lam, sân hận...
- Chúng sanh trược: Con người bám chấp vào sinh mạng mình cho là thật,
rồi sanh cống cao ngã mạn.
- Kiến trược: Kiến chấp một bên, thấy biết lệch lạc tà vạy mà cho là đúng.
- Mạng trược: Chúng sanh vì sự sống mà tạo rất nhiều nghiệp ác.
21. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên giác, mà
không nghe không biết việc của các đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, người
này chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên giác.
Lại nữa Xá-lợi-phất ! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni đó tự cho mình đã được Ala-hán,
là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng thượng mạn. Vì sao ? Nếu có
Tỳ-kheo thiệt chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy,
trừ sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không Phật. Vì sao ? Sau khi Phật diệt độ, những
kinh như thế, người hay thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức
Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.
Xá-lợi-phất ! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các
đức Phật Như Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật
thừa thôi.
GIẢNG :
Phật xác nhận một cách quyết liệt, dù là A-la-hán, Duyên giác ngang đó mà
tự mãn cho là đủ thì người đó không phải là đệ tử của Phật. Người tu chúng ta hiện
tại, đa số mắc phải chứng bệnh tự mãn, tu một thời gian tự thấy rằng mình đã đủ,
nên mặc nhiên an hưởng tứ sự cúng dường một cách sung mãn, mà không lo nghĩ
đến sự tu tiến. Nên tôi thường nói khẳng định rằng: Nếu chưa thành Phật thì không
lúc nào chúng ta ngừng nghỉ tu hành, nếu ngừng nghỉ không tu là rơi vào lỗi tự
mãn, đó là tăng thượng mạn. Dù là Bồ-tát cũng vẫn cố gắng tu hành, đến khi thành
Phật mới thôi. Ai được chút ít cho là đủ, người đó chỉ là hạt lép, là lá vàng úa, gió
thổi qua rơi rụng hết. Nếu là hạt chắc, là thứ thiệt thì tu cho đến khi thành Phật
mới rồi trách nhiệm của mình, chưa thành Phật thì lúc nào cũng phải cố gắng nỗ
lực tu chớ không tự mãn. Nhưng mà nhìn lại thì người tu bây giờ tự mãn không
phải ít. Họ nghĩ rằng đời này tu gieo giống lành, kiếp sau tu nữa, hoặc già yếu rồi
nghỉ ngơi cho thảnh thơi đôi chút, chẳng lẽ suốt đời cặm cụi tu hoài... Nghĩ như
vậy là trái với tinh thần của Phật dạy, nên chưa phải là đệ tử Phật.
Đức Phật đối với những chúng sanh tu mà không muốn thành Phật, chỉ
muốn đời sau sanh ra làm người tốt, có đủ duyên phước thì Phật dạy giữ Năm giới,
đó là Nhân thừa. Lại có người tu không muốn thành Phật, muốn được sung sướng
hưởng phước báo đầy đủ, Phật dạy tu Thập thiện, đó là Thiên thừa. Người không
muốn sanh lên cõi trời cũng không muốn trở lại làm người, Phật dạy tu Tứ đế để
chứng Niết-bàn không còn tái sanh lại nữa, đó là Thanh văn thửa Đến hàng Duyên
giác thì Phật nói Mười hai nhân duyên, hàng Bồ-tát thì nói Sáu pháp Ba-la-mật,
hướng dẫn từ thấp dần dần lên. Tới đây Phật mới nói bản hoài của chư Phật ra đời
là dạy người tu để thành Phật chớ không dạy điều gì khác.
Cũng vậy, hiện tại tôi hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu, là phải biết rõ nơi
mình có “cái chân thật” mà tôi tạm gọi là “ông chủ” hay “bản lai diện mục”, còn ý
niệm nghĩ suy là vọng tưởng không thật. Biết được như vậy rồi thì đi đứng nằm
ngồi, hằng sống với ông chủ, không chạy theo vọng tưởng hư giả. Đó là bản hoài
mà tôi nhắm. Nhưng người tới học đạo có nhiều trình độ. Người già đến thì tôi dạy
niệm Phật cho tâm bớt loạn, để khi nhắm mắt theo Phật về cõi Phật. Nếu là người
trẻ mới vào đạo chưa rõ gì về Thiền tông, mà tâm quá loạn động thì tôi dạy đếm
hơi thở, nhờ đếm hơi thở mà tâm bớt loạn... Đó là những phương tiện tôi đã dùng
làm lợi ích cho người tùy theo trình độ căn cơ của họ. Chưa nói được mục đích mà
tôi nhắm thì phải nói phương tiện, làm sao cho người đến học đều được lợi ích.
"
22. CHÁNH VĂN :
Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
*Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni
Cưu lòng tăng thượng mạn
Cận sự nam ngã mạn
Cận sự nữ chẳng tin,
Hàng bốn chúng như thế
Số kia có năm nghìn
Chẳng tự thấy lỗi mình
Nơi giới có thiếu sót
Tiếc giữ tội quấy mình
Trí nhỏ đó đã ra
Bọn cám tấm trong chúng
Oai đức Phật phải đi
Gã đó kém phước đức
Chẳng kham lãnh pháp này
Chúng nay không cành lá
Chỉ có những hột chắc.
GIẢNG :
Đức Phật nói những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ trong tứ
chúng, có khoảng năm ngàn người là những kẻ kém duyên phước, trí nhỏ hẹp,
thuộc hàng tăng thượng mạn, họ không kham nhận pháp Phật nên bỏ đi. Sau khi
họ bỏ đi, Phật mới nói: Bây giờ trong chúng không còn cám tấm, cành lá úa, chỉ
còn hạt chắc thôi.
23. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất khéo nghe !
Pháp của các Phật được
Vô lượng sức phương tiện
Mà vì chúng sanh nói.
Tâm của chúng sanh nghĩ
Các món đạo ra làm
Bao nhiêu những tánh dục
Nghiệp lành dữ đời trước,
Phật biết hết thế rồi
Dùng các duyên thí dụ
Lời lẽ sức phương tiện
Khiến tất cả vui mừng,
Hoặc là nói Khế kinh,
Cô khởi cùng Bổn sự,
Bổn sanh, Vị tằng hữu,
Cũng nói những Nhân duyên,
Thí dụ và Trùng tụng
Luận nghị cọng chín kinh.
Căn độn ưa pháp nhỏ
Tham chấp nơi sanh tử
Nơi vô lượng đức Phật
Chẳng tu đạo sâu mầu
Bị các khổ não loạn
Vì đó nói Niết-bàn,
Ta bày phương tiện đó
Khiến đều vào huệ Phật.
Chưa từng nói các ông
Sẽ được thành Phật đạo
Sở dĩ chưa từng nói
Vì giờ nói chưa đến,
Nay chính là đến giờ
Quyết định nói Đại thừa.
GIẢNG :
Phật nói cho tất cả hội chúng biết rằng pháp mà Phật được, có sức phương
tiện vô cùng, biết tường tận nhân duyên quả báo của sáu loài chúng sanh. Ngài nói
pháp dùng những phương tiện như:
- Khế kinh: Lời dạy của Phật hợp với căn cơ chúng sanh, bằng thể văn xuôi,
còn gọi là Trường hàng.
- Trùng tụng: Một thể văn thuyết pháp của Phật lặp lại ý của đoạn văn
Trường hàng bằng kệ tụng.
- Bổn sự: Những việc làm, những kiến văn ở đời trước của Phật do Phật
thuật lại.
- Bổn sanh: Phật nhắc lại tiền kiếp của Ngài hay của đệ tử.
- Vị tằng hữu: Việc chưa từng có, khó hiểu, khó tin.
- Nhân duyên: Phật giải về căn bổn của quả báo từ gốc tới ngọn.
- Thí dụ: Dùng một mẩu chuyện để so sánh cho dễ hiểu.
- Cô khởi: Thi văn tự mình xướng lên lúc thuyết pháp.
- Luận nghị: Biện luận sâu rộng, khúc chiết, mạch lạc cho dễ hiểu.
Đó là những thể tài thuyết pháp mà Phật đã dùng hoặc đủ chín phần hoặc
không đủ chín phần trong mỗi bộ kinh. Phật tùy thời tùy cơ mà nói, dẫn dụ chúng
sanh đi từ thấp đến cao, cuối cùng đưa đến Phật thừa là chỗ cứu kính.
24. CHÁNH VĂN :
*Chín bộ pháp của ta
Thuận theo chúng sanh nói
Vào Đại thừa làm gốc
Nên mới nói kinh này
Có Phật tử tâm tịnh
Êm dịu cùng căn lợi
Nơi vô lượng các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hàng Phật tử này
Nói kinh Đại thừa đây
Ta ghi cho người đó
Đời sau thành Phật đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh giới vậy
Hạng này nghe thành Phật
Rất mừng đầy khắp mình,
Phật biết tâm của kia
Nên vì nói Đại thừa,
Thanh văn hoặc Bồ-tát
Nghe ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Đều thành Phật không nghi.
GIẢNG :
Sở dĩ Phật nói chín bộ pháp đó là vì thuận theo căn cơ của chúng sanh mà
nói, chớ bản hoài của Phật là chỉ cho chúng sanh một Phật thừa mà thôi. Nếu ai
nghe Phật thừa này, đem lòng tin và nói cho người khác nghe thì được Phật thọ ký
sau này sẽ thành Phật. Vì tâm họ nhớ nghĩ Phật rất sâu xa, không tự mãn ở những
cấp bậc thấp, quyết định họ sẽ thành Phật.
25. CHÁNH VĂN :
*Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có một thừa pháp
Không hai cũng không ba
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ dùng danh từ giả
Dắt dẫn các chúng sanh
Vì nói trí tuệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thiệt
Hai thứ chẳng phải chân.
Trọn chẳng đem Tiểu thừa
Mà tế độ chúng sanh
Phật tự trụ Đại thừa
Như pháp của mình được
Định, huệ, lực, trang nghiêm
Dùng đây độ chúng sanh.
Tự chứng đạo Vô thượng
Pháp bình đẳng Đại thừa
Nếu dùng Tiểu thừa độ
Nhẫn đến nơi một người
Thời ta đọa san tham
Việc ấy tất không được
Nếu người tin về Phật
Như Lai chẳng dối gạt
Cũng không lòng tham ganh
Dứt ác trong các pháp
Nên Phật ở mười phương
Mà riêng không chỗ sợ.
Ta dùng tướng trang nghiêm
Ánh sáng soi trong đời
Đấng vô lượng chúng trọng
Vì nói thiệt tướng ấn.
GIẢNG :
Đoạn này Phật lặp lại ý chính của chư Phật mười phương ra đời là chỉ nói
một Phật thừa, chứ không có thừa thứ hai hay thứ ba. Tại sao ? Vì quả vị cùng tột
mà Ngài chứng được là quả Phật, nếu để lại ít phần không chỉ dạy rốt ráo, đó là
thiếu lòng từ, tâm còn xan lẩn, sợ người hơn mình. Phật là đấng Đại từ Đại bi,
không xan lẩn, nên cái gì Ngài được, Ngài muốn cho tất cả mọi người đều được
như Ngài. Nếu mọi người chưa được như Ngài thì Ngài chưa mãn nguyện, không
bằng lòng. Vì vậy mà cuối cùng Ngài nói: “Đấng vô lượng chúng trọng, vì nói
thiệt tướng ấn.” Thông thường trong nhà Phật có nêu ra Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn,
hoặc Nhất thật pháp ấn, để làm dấu ấn xác minh coi pháp đó có phải Phật nói
không. Tam pháp ấn là: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tịnh;
Tứ pháp ấn là: vô thường, khổ, không, vô ngã; Nhất thật pháp ấn cũng là Thật
tướng ấn. Ấn là dấu in để ấn chứng. Muốn biết kinh nào là thật của Phật nói hay
không phải của Phật nói, thì phải lấy Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn hay Nhất thật pháp
ấn để làm chỗ ấn chứng. Nhất thật pháp ấn là chỉ cho mỗi chúng sanh đều có Phật
tánh, nếu tu thì sẽ thành Phật. Kinh Pháp Hoa, Phật nói tột chỗ đó nên gọi là “Thật
tướng ấn”.
26. CHÁNH VĂN :
*Xá-lợi-phất ! Nên biết !
Ta vốn lặp thệ nguyện
Muốn cho tất cả chúng
Bằng như ta không khác
Như ta xưa đã nguyện
Nay đã đầy đủ rồi
Độ tất cả chúng sanh
Đều khiến vào Phật đạo
Nếu ta gặp chúng sanh
Dùng Phật đạo dạy cả
Kẻ vô trí rối sai
Mê lầm không nhận lời
Ta rõ chúng sanh đó
Chưa từng tu cội lành
Chấp chặt nơi ngũ dục
Vì si ái sanh khổ
Bởi nhân duyên các dục
Sa vào ba đường dữ
Xoay lăn trong sáu nẻo
Chịu đủ những khổ độc
Thân mọn thọ bào thai
Đời đời tăng trưởng luôn
Người đức mỏng ít phước
Các sự khổ bức ngặt
Vào rừng rậm tà kiến
Hoặc chấp có, chấp không
Nương gá các chấp này
Đầy đủ sáu mươi hai
Chấp nhận pháp hư vọng
Bền chặt không bỏ được
Ngã mạn tự khoe cao
Dua nịnh lòng không thiệt
Trong nghìn muôn ức kiếp
Chẳng nghe danh tự Phật
Cũng chẳng nghe chánh pháp
Người như thế khó độ.
GIẢNG :
Lời thệ nguyện của đức Phật Thích-ca cũng như chư Phật mười phương là
muốn làm sao cho tất cả chúng sanh đều được bằng Phật. Nhưng vì tâm trí chúng
sanh mê mờ rối loạn, tà kiến, tham ưa ngũ dục, không bao giờ tu pháp lành, nên
trôi lăn trong ba đường dữ chịu mọi khổ đau, do đó không bao giờ nghe được danh
hiệu Phật. Những chúng sanh này rất là khó độ.
27. CHÁNH VĂN :
*Cho nên Xá-lợi-phất !
Ta vì bày phương tiện
Nói các đạo dứt khổ
Chỉ cho đó Niết-bàn
Ta dầu nói Niết-bàn
Cũng chẳng phải thiệt diệt
Các pháp từ bổn lai
Tướng thường tự vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau được thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày pháp ba thừa
Tất cả các Thế Tôn
Đều nói đạo Nhứt thừa
Nay trong đại chúng này
Đều nên trừ nghi lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa.
GIẢNG :
Vì hàng chúng sanh khó độ nên Phật mới bày phương tiện dứt các khổ cho
họ được Niết-bàn. Niết-bàn đó là Niết-bàn của Nhị thừa. Tuy nói Niết-bàn, nhưng
chẳng phải thật diệt. Vì:
Các pháp từ bổn lai
Tướng thường tự vắng lặng.
Từ trước chúng ta thường nghe Phật dạy các pháp ở thế gian này là biến
động vô thường, tại sao ở kinh này Phật lại nói “các pháp từ xưa đến nay tướng
thường tự vắng lặng” ? Chữ “tướng” ở đây phải hiểu là “thật tướng”, tức là thể
tánh của các pháp. Chúng ta quán sát thấy các pháp trên thế gian này tướng nó là
biến động, có đó rồi mất đó. Ví dụ như cái đồng hồ, thông thường máy chạy, kim
quay, chúng ta căn cứ trên kim đồng hồ, định ngày giờ mà làm việc. Nếu máy
không chạy kim không quay, thì đồng hồ không xài được. Như vậy, tất cả pháp thế
gian được hữu dụng là do linh động có sự sống, nếu nó bất động coi như là chết vô
dụng. Đó là cái thấy thông thường của thế gian. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, chúng ta
mở chốt đồng hồ ra, để riêng từ bộ phận thì máy không chạy, kim không quay; nếu
ráp các bộ phận ấy lại thì máy đồng hồ chạy, kim đồng hồ quay. Như vậy, các
pháp biến động là do duyên hợp mà có, chớ thực thể của nó vốn không động, nên
nói tự tánh các pháp vốn tịch diệt.
Cũng vậy, tự tâm của mỗi người, khi mắt thấy người thấy cảnh... rồi khởi
niệm nghĩ về người về cảnh đó là động niệm, mà động niệm là tướng duyên hợp
sinh diệt vô thường, đủ duyên thì tạm có, thiếu duyên thì tạm không, không có
thực thể cố định. Như vậy, pháp do duyên mà thành có hay thành không, thì pháp
đó không thật. Còn pháp không do duyên mà thành, đó là cái chân thật.
Vậy, tất cả pháp ở thế gian này, nếu đứng về mặt bản thể mà nhìn, không có
một pháp nào biến động vô thường cả. Sở dĩ thấy các pháp vô thường biến động là
vì chưa thấy tột cùng bản thể của nó, nên theo tình chấp mà thấy có động tịnh, có
vô thường. Nếu thấy tột cùng bản thể của nó thì thấy các pháp nguyên là bất động,
lặng lẽ. Ngay nơi bản thân con người sự sống và sự chết là do cái gì ? Sống là do
duyên, mà chết cũng do duyên. Vậy sống chết là chuyện của duyên; đã là chuyện
của duyên thì không phải là chuyện của mình. Ngay nơi sống chết biết đó là tướng
của duyên thì chúng ta không còn bị sống chết chi phối nữa, sự sống chết đối với
chúng ta rất thường, không quan trọng.
Xưa có thiền sư đọc tới hai câu trên Ngài nghi: Tại sao các pháp từ xưa đến
nay tướng thường vắng lặng ? Ngài ôm ấp thắc mắc mãi trong lòng. Một sáng mùa
xuân nọ, Ngài ngồi trước cửa chùa, bỗng thấy chim hoàng oanh đậu trên cành liễu
hót, Ngài hoát nhiên ngộ đạo, liền đọc tiếp hai câu:
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.
Hợp lại thành bài thơ bốn câu:
Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Xuân đáo bách hoa khai,
Hoàng oanh đề liễu thượng.
Mùa xuân đến thì trăm hoa nở, chim hoàng oanh đậu trên cành liễu cất
tiếng hót. Tất cả pháp, thể vốn không động, khi duyên hợp thì động, xuân sang thì
hoa nở, chim hót. Xuân sang, hoa nở, chim hót là duyên. Cái động đó là động của
duyên. Ngài thấy rõ ngay trong các pháp thể tánh nó vốn lặng lẽ, mà tướng dụng
của nó thì biến động, như hoa nở, chim hót khi xuân đến. Ngộ đạo là thấy cùng tột
bản thể của sự vật, cũng như nhận ra thể tánh của chính mình, đồng thời cũng biết
rõ tướng dụng sinh động của nó không lầm lẫn. Chúng ta vì còn mê nên lầm chấp
tướng dụng của các pháp cho là thật, đó là gốc của khổ đau. Người học đạo, nếu
thấy tột chỗ cứu kính này thì sẽ thành Phật không nghi, còn nếu chấp tướng động
của thân của nghiệp thì vẫn là chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử.
Đoạn này cốt nói rõ mục tiêu của chư Phật, vì thương xót chúng sanh mê
lầm nên mãi chịu khổ. Các Ngài dùng nhiều phương tiện giải bày cho hết khổ.
Chỗ cứu kính mà Phật muốn chỉ là Phật thừa, chớ không có thừa thứ hai thứ ba.
28. CHÁNH VĂN :
*Vô số kiếp đã qua
Vô lượng Phật diệt độ
Trăm nghìn muôn ức Phật
Số nhiều không lường được
Các Thế Tôn như thế
Các món duyên thí dụ
Vô số ức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng
Các đức Thế Tôn đó
Đều nói pháp Nhứt thừa
Độ vô lượng chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Lại các đại Thánh chúa
Biết tất cả thế gian
Trời, người loài quần sanh
Thâm tâm chỗ ưa muốn
Bèn dùng phương tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ nhứt.
GIẢNG :
Đoạn này lặp lại ý đoạn trước. Vô số đức Phật đời quá khứ dùng mọi
phương tiện giáo hóa chúng sanh khiến cho vào Phật đạo.
29. CHÁNH VĂN :
*Nếu có loài chúng sanh
Gặp các Phật quá khứ
Hoặc nghe pháp bố thí
Hoặc trì giới, nhẫn nhục
Tinh tấn, thiền trí thảy
Các món tu phước huệ
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
Sau các Phật diệt độ
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng sanh như thế
Đều đã thành Phật đạo.
GIẢNG :
Nếu có những chúng sanh gặp chư Phật đời quá khứ, được các Ngài dạy tu
Lục độ, những chúng sanh đó hay tu được Lục độ thì họ đã thành Phật. Và sau khi
Phật diệt độ, những chúng sanh có lòng lành dịu, thì cũng đều đã thành Phật đạo.
30. CHÁNH VĂN :
*Các Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá-lợi
Dựng muôn ức thứ tháp
Vàng, bạc và pha lê
Xa cừ cùng mã não
Ngọc mai khôi, lưu ly
Thanh tịnh rộng nghiêm sức
Trau giồi nơi các tháp
Hoặc có dựng miếu đá
Chiên-đàn và trầm thủy
Gỗ mật cùng gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thảy
Hoặc ở trong đồng trống
Chứa đất thành miếu Phật
Nhẫn đến đồng tử giỡn
Nhóm cát thành tháp Phật
Những hạng người như thế
Đều đã thành Phật đạo.
GIẢNG :
Phật quá khứ đã diệt độ, nếu có ai xây tháp bằng vàng, bạc, pha lê... hoặc
xây bằng gỗ, gạch, ngói, bùn, đất, cho đến trẻ con chơi làm tháp Phật để cúng
dường, tất cả những người đó đều đã thành Phật đạo.
31. CHÁNH VĂN :
*Nếu như người vì Phật
Xây dựng các hình tượng
Chạm trổ thành các tướng
Đều đã thành Phật đạo
Hoặc dùng bảy báu làm
Thau, đồng bạch, đồng đỏ
Chất nhôm cùng chì kẽm
Sắt, gỗ cùng với bùn
Hoặc dùng keo, sơn, vải
Nghiêm sức làm tượng Phật
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
Vẽ vời làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Đều đã thành Phật đạo
Nhẫn đến đồng tử giỡn
Hoặc cỏ cây và bút
Hoặc lấy móng tay mình
Mà vẽ làm tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật đạo
Chỉ dạy các Bồ-tát
Độ thoát vô lượng chúng.
GIẢNG :
Nếu các chúng sanh vì Phật mà tạo hình tượng Ngài bằng bảy báu, hoặc
dùng các thứ kim loại, hoặc dùng gỗ, bùn, keo, sơn, vải tạc thành tượng Phật, cho
đến trẻ con dùng ngón tay hay dùng cây cỏ vẽ thành tượng Phật; nhờ tích chứa
công đức, đầy đủ tâm đại bi, nên họ đều đã thành Phật đạo.
32. CHÁNH VĂN :
*Nếu người nơi tháp miếu
Tượng báu và tượng vẽ
Dùng hoa, hương, phan, lọng
Lòng kính mà cúng dường
Hoặc khiến người trỗi nhạc
Đánh trống, thổi sừng ốc
Tiêu địch, cầm, không hầu
Tỳ bà, chụp chả đồng
Các tiếng hay như thế
Đem dùng cúng dường hết
Hoặc người lòng vui mừng
Ca ngâm khen đức Phật
Nhẫn đến một tiếng nhỏ
Đều đã thành Phật đạo.
GIẢNG :
Nếu người ở trước tượng Phật hay tháp miếu Phật mà cúng dường hoa,
hương, phan, lọng, hoặc dùng các loại nhạc cụ trỗi nhạc để cúng dường, hay ca
ngâm khen ngợi Phật đều đã thành Phật đạo.
33. CHÁNH VĂN :
*Nếu người lòng tán loạn
Nhẫn đến dùng một bông
Cúng dường nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc lại chỉ chấp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật
Tự thành đạo Vô thượng
Rộng độ chúng vô số
Vào Vô dư Niết-bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu người lòng tán loạn
Vào nơi trong tháp miếu
Một xưng Nam-mô Phật
Đều đã thành Phật đạo
Nơi các Phật quá khứ
Tại thế, hoặc diệt độ
Có người nghe pháp này
Đều đã thành Phật đạo.
GIẢNG :
Nếu người lòng tán loạn thấy tượng Phật họ lễ lạy, hoặc chỉ chấp tay, giơ
tay, hoặc hơi cúi đầu để cúng dường Phật, thì lần lần thấy vô lượng Phật, tự thành
đạo Vô thượng, độ tất cả chúng sanh vào vô dư Niết-bàn. Hoặc những người lòng
tán loạn vào tháp miếu thờ Phật, niệm Nam-mô Phật đều đã thành Phật đạo.
Đối với chư Phật thời quá khứ, những chúng sanh nào tạo được những
phước duyên như vừa nêu thì đều đã thành Phật đạo. Câu đều đã thành Phật đạo
cốt nhấn mạnh ý nghĩa: Tất cả chúng sanh ai cũng có sẵn Tri kiến Phật, nhưng vì
mê lầm quên đi nên trầm luân trong lục đạo luân hồi. Bây giờ đủ duyên thức tỉnh,
biết quay về thì sớm muộn gì cũng sẽ thành Phật. Vì đã có sẵn hạt giống, biết đem
ra ươm trồng, thế nào rồi cũng thành quả. Đó là nói đối với người ở thời Phật quá
khứ, dù chưa có lòng tin nhưng khi phát lòng tin hướng về Phật thì họ đều đã
thành Phật đạo.
34. CHÁNH VĂN :
*Các Thế Tôn vị lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như Lai đó
Cũng phương tiện nói pháp
Tất cả các Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sanh
Vào trí vô lậu Phật
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật
Các Phật vốn thệ nguyện
Ta tu hành Phật đạo
Khắp muốn cho chúng sanh
Cũng đồng được đạo này
Các Phật đời vị lai
Dầu nói trăm nghìn ức
Vô số các pháp môn
Kỳ thiệt vì Nhứt thừa
Các Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết pháp thường không tánh
Giống Phật theo duyên sanh
Cho nên nói Nhứt thừa.
Pháp đó trụ ngôi pháp
Tướng thế gian thường còn
Nơi đạo tràng biết rồi
Đức Phật phương tiện nói
Hiện tại mười phương Phật
Của trời người cúng dường
Số nhiều như hằng sa
Hiện ra nơi thế gian
Vì an ổn chúng sanh
Cũng nói pháp như thế
Biết vắng bặt thứ nhứt
Bởi dùng sức phương tiện
Dầu bày các món đạo
Kỳ thiệt vì Phật thừa
Biết các hạnh chúng sanh
Thâm tâm nó nghĩ nhớ
Nghiệp quen từ quá khứ
Tánh dục, sức tinh tấn
Và các căn lợi độn
Dùng các món nhân duyên
Thí dụ cùng lời lẽ
Tùy cơ phương tiện nói.
GIẢNG :
Chư Phật đời vị lai nhiều vô số, dùng vô số phương tiện độ chúng sanh,
cũng không ngoài mục đích chỉ cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật, nên nói
rằng: Biết pháp thường không tánh, giống Phật theo duyên sanh, cho nên nói nhất
thừa. Tại sao nói các pháp thế gian thường không tánh ? Tất cả pháp thế gian do
duyên hợp mà có giả tướng, đã là giả tướng do duyên hợp mới có thì không có tự
tánh cố định. Ví dụ cái nhà gồm cột, kèo, đòn tay, gạch ngói... hợp lại tạm gọi là
cái nhà. Nếu chỉ có cột mà không có đòn tay, ngói... thì không thành cái nhà, hoặc
có ngói gạch mà không có kèo cột... cũng không thành cái nhà. Như vậy, cái nhà
là tướng do duyên hợp, nó không có tự thể cố định, nên nói các pháp thường
không tánh. Tại sao nói giống Phật theo duyên sanh ? Duyên sanh ở đây không có
nghĩa do duyên hợp sanh ra giống Phật, mà nơi mỗi chúng sanh đều có sẵn Phật
tánh, nếu được thầy giáo hóa khai ngộ và tự mình tu tỉnh thì Phật tánh sẽ hiển hiện.
Vì vậy nên nói giống Phật theo duyên sanh. Phật vì biết chúng sanh có sẵn giống
Phật, nên Ngài chỉ nói pháp Nhứt thừa để cho chúng sanh tu thành Phật, chớ
không nói thừa nào khác.
Pháp đó trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường còn nghĩa là pháp đó ở đúng
bản vị của nó, tướng thế gian thường trụ. Nếu chúng ta nhìn sự vật theo tướng
nhân duyên hòa hợp thì thấy nó hư giả, chợt có chợt không, nên vô thường, không
có tự thể cố định. Chính tự thể không cố định là cái tướng thường còn không biến
dịch không thay đổi. Ví dụ như nước ở nhiệt độ trung bình thì lỏng, ở nhiệt độ cao
bốc thành hơi, ở 0o thì đông thành khối. Tùy theo duyên mà hình tướng nước có
đổi thay từ lỏng sang cứng hay hơi, nhưng trên thể tánh của nước vẫn là ướt,
không đổi thay, là thường còn. Đa số kinh A-hàm đều đứng trên mặt tướng dụng
mà diễn nói, còn các kinh Đại thừa thì đứng trên bản thể của các pháp mà thuyết
minh. Như vậy, nếu nhìn trên hình tướng thì thấy các pháp đổi thay vô thường.
Nếu nhìn sâu đến thể tánh thì thấy thật tướng của các pháp là thường còn. Tuy
Phật biết thể tánh của các pháp là như vậy, nhưng vì chúng sanh chưa đủ sức thấy
như Phật, nên Ngài phương tiện nói tướng dụng của các pháp là vô thường để dắt
dẫn lần lần họ đi sâu vào bản thể. Hiểu như vậy mới không thấy mâu thuẫn và thấy
rõ điểm đặc biệt của kinh Pháp Hoa: Qui Tam thừa về Nhất thừa.
CHÁNH VĂN :
*Ta nay cũng như vậy
Vì an ổn chúng sanh
Dùng các món pháp môn
Rao bày nơi Phật đạo
Ta dùng sức trí tuệ
Rõ tánh dục chúng sanh
Phương tiện nói các pháp
Đều khiến được vui mừng
Xá-lợi-phất nên biết !
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng sanh
Nghèo cùng không phước huệ
Vào đường hiểm sanh tử
Khổ nối luôn không dứt
Sâu tham nơi ngũ dục
Như trâu “mao” mến đuôi
Do tham ái tự che
Đui mù không thấy biết
Chẳng cầu Phật thế lớn
Cùng pháp dứt sự khổ
Sâu vào các tà kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ
Phật vì chúng sanh này
Mà sanh lòng đại bi.
GIẢNG :
Sau khi Phật thành đạo biết rõ tâm bịnh của chúng sanh, vì muốn cho họ an
ổn nên Ngài nói pháp đúng như chỗ họ muốn, vì vậy tất cả đều được vui mừng.
Phật dùng trí tuệ nhìn thấy chúng sanh lăn lộn trong sáu đường, nghèo phước đức,
nghèo trí tuệ, nên mải đi trên con đường sanh tử hiểm trở không có ngày dừng.
Ngay cả chư thiên ở cõi trời tuy sang quí nhưng đức Phật cũng vẫn thấy đó là hàng
chúng sanh còn chìm trong dục lạc, vẫn còn bị sanh tử vô thường chi phối, nên
Phật nói chưa đủ phước tuệ; nếu đủ phước tuệ thì thoát ly sanh tử, dứt luân hồi.
Nếu còn đi trong vòng luân hồi sanh tử thì khổ này nối tiếp khổ kia, không bao giờ
dứt. Như thai nhi ở trong bụng mẹ êm ấm, khi ra đời bất thần bị nóng lạnh cọ xát
đó là khổ. Lúc còn nhỏ được cha mẹ nuôi dưỡng chu đáo, nhưng thỉnh thoảng
cũng bị ốm đau bức ngặt đó là khổ. Đến tuổi già răng rụng, mắt mờ, tai điếc, bịnh
hoạn thúc bách đó là khổ. Rồi chết đến hơi thở dồn dập bức ngặt là khổ. Đó là một
dòng khổ đuổi nhau từ lúc mở mắt chào đời cho tới ngày nhắm mắt, chung cuộc
của kiếp người, chẳng những chỉ một đời này khổ mà còn tiếp diễn tới nhiều đời
sau, triền miên không dứt. Thế mà mọi người đối với ngũ dục thế gian lại tưởng là
vui... cứ đeo đuổi nắm bắt.
Thế nên ở đây Phật mới nói lòng tham ngũ dục của con người, giống như
con trâu mao mến cái đuôi. Trâu mao có đuôi dài và đẹp đi đâu cũng gác cái đuôi
trên lưng, không để cái đuôi lết dưới đất hay dùng đuôi để đuổi ruồi muỗi, vì sợ dơ
và rụng lông. Để thấy, đó là cái mê mờ của chúng sanh, đã đi trong đường khổ mà
không ý thức được cái khổ, cứ ham thích bám giữ, để rồi chìm sâu trong khổ đau.
Tất cả mọi khổ đau đều từ tham muốn mà có, bao giờ hết tham muốn là hết khổ,
mà người đời cứ nuôi lòng tham muốn nên khổ mãi. Vì vậy đức Phật nói: Tham ái
là cái che lấp, làm cho chúng sanh mờ tối không thấy được lẽ thật. Thí dụ hai bà
mẹ có hai đứa con chơi chung, chúng bất hòa cãi lộn, mỗi bà vì quá thương con
nên không còn biết phải quấy, đứng ra bênh vực con mình cũng cãi lộn nhau.
Người mình thương thì quấy cũng thành phải, người mình ghét thì phải cũng thành
quấy, không mù là gì ?
Tất cả mọi thấy biết của chúng sanh đều theo lòng tham ái của chính mình,
nói và làm theo cái tham ái đó, nên không thấy được lẽ thật. Vì vậy mà Phật nói
chúng sanh đui mù. Bởi đui mù nên càng ngày càng chìm sâu trong tà kiến, bám
lấy khổ mà muốn bỏ khổ. Kinh A-hàm, Phật dạy chúng sanh bị sanh mà cầu sanh,
bị vô thường mà cầu cái vô thường. Tức là thân này bị sanh ra đã khổ, khi sắp già
chết lại muốn đời sau tái sanh mang thân khác. Chính thân này đã vô thường, lại
ham muốn những cái vô thường khác. Chẳng hạn mong có chiếc xe thật tốt để
khỏi đi bộ cho đỡ khổ nhưng khi được rồi, thời gian sau nó hư phải nhọc công sửa
chữa lại càng thêm khổ. Đó là tự thân đã khổ mà muốn lấy khổ để bỏ khổ. Thế nên,
Phật khởi tâm đại bi thương xót chúng sanh tham ái mù tối, mà vì họ nói pháp độ
cho hết khổ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét