Ca lâu la tức là đại bàng kim sí điểu, chuyên bắt rồng để ăn. Loài chim này
lớn cỡ nào ? Hai cánh của nó xoè ra rộng ba trăm do tuần. Do tuần là số mục
ở Ấn Ðộ dùng để đo lường, phân làm đại do tuần, trung do tuần, và tiểu do
tuần. Tiểu do tuần có bốn mươi dặm, trung do tuần sáu mươi dặm, đại do
tuần tám mươi dặm. Hai cánh chim đại bàng xoè ra, là ba trăm do tuần, tức
cũng là hai vạn bốn ngàn dặm. Mỗi khi nó xoè cánh ra, thì quạt nước biển rẽ
làm hai, bắt rồng trong biển ăn. Chúng lấy rồng làm thức ăn, lâu dần rồng
con rồng cháu gần như bị tuyệt nòi. Vua rồng chẳng có cách nào khác, bèn
đến gặp Phật để cầu cứu. Phật bèn cho vua rồng tấm y cà sa, mang về chia
cho mỗi con rồng một sợi tơ cột lên thân, thì chim đại bàng chẳng cách chi
ăn được rồng nữa. Vì tấm y cà sa của Phật diệu dụng vô cùng, nên giúp cho
loài rồng thoát khỏi hoạn nạn. Song, lần này chim đại bàng kim sí đến tìm
Ðức Phật nói : ‘’Ngài cứu loài rồng cố nhiên là việc tốt, song loài chim của
tôi đều bị chết đói ! Chúng tôi chỉ có thể ăn rồng, bây giời chẳng có rồng ăn,
chúng tôi biết làm thế nào ?’’ Phật bèn vì chim đại bàng kim sí nói pháp thọ
năm giới. Chim đại bàng nói : ‘’Tôi không sát sinh có thể được, nhưng tôi
chẳng có gì để ăn, chẳng phải là bị chết đói chăng ?’’ Phật nói : ‘’Ngươi
không có chết đói, từ nay về sau mỗi ngày vào giờ ngọ, hết thảy đệ tử của ta
khi ăn cơm, thì đem chút cơm cho nhà ngươi ăn.’’ Cho nên sau này, phàm là
đệ tử của Phật khi ăm cơm trưa, đều có đem chút cơm cúng cho đại bàng
kim sí điểu ăn. Từ đó, chim đại bàng thọ trì năm giới, chẳng sát sinh nữa và
trở thành hộ pháp ở trong Phật giáo, là một bộ trong Thiên Long Bát Bộ.
Về phương diện ăn uống trong Phật giáo, thì sáng sớm là chư thiên ăn, buổi
trưa là Phật dùng, buổi chiều là súc sinh ăn, buổi tối là quỷ ăn. Ngạ quỷ vốn
chẳng tìm được thức ăn, chúng nhìn thấy chúng ta ăn, chúng cũng nghĩ
tưởng ăn, một khi chúng ta ăn vang ra tiếng động khua chén đũa, thì chúng
cướp lấy để ăn, song thức ăn đến miệng chúng thì liền biến thành lửa, đó là
nghiệp báo quá nặng. Song, trong tâm của loài quỷ thì cho rằng, con người
dùng pháp thuật, biến thức ăn thành lửa do chúng cướp được, chẳng cho
chúng ăn, do đó chúng sinh tâm sân hận đánh người, hoặc khiến cho người
sinh bệnh. Cho nên buổi tối người xuất gia không ăn, vì là giờ của loài quỷ
ăn. Sáng sớm là giờ chư thiên ăn, nếu người xuất gia sáng có dùng cháo,
hoặc bánh nướng, thì đem một chút thí cho chư thiên dùng, hoặc cho quỷ mẹ
quỷ con.
La sát quỷ mẹ quỷ con, vốn chuyên môn ăn con nít. Tại sao lại gọi chúng là
quỷ mẹ quỷ con ? Vì chúng thống lãnh một ngàn người con của chúng, đi
khắp nơi tìm bắt con nít để ăn. Có một nhà nọ, vừa mới sinh ra một đứa bé
thì bị chúng bắt đi ăn, cứ như thế dần dần biến thành rất nhiều nhà chẳng còn
con nít. Do đó, có người đến cầu Ðức Phật, hỏi Phật tại sao con nít đều mất
hết chẳng thấy. Phải làm cách nào ? Ðức Phật biết số con nít đều bị chúng
bắt trộm ăn.
Một ngày nọ, Ðức Phật bèn bắt con quỷ út nhất, trong số một ngàn con quỷ
bỏ vào trong bình bát đậy lại. Khi chúng về nhà thì thấy mất đứa con út của
mình, bèn đi khắp nơi tìm cũng chẳng thấy, mới tìm đến chỗ Ðức Phật, thì
nghe tiếng khóc con của chúng ở trong bình bát vang ra. Chúng bèn đến chỗ
bình bát, tìm cách cứu con của chúng ra, song chúng di động bình bát chẳng
nổi, bèn về nhà kêu hết chín trăm chín mươi chín con quỷ con đến, để dùng
sức di động cái bình bát, song cũng di động chẳng nổi, tơ hào cũng chẳng
động đậy, do đó chúng bèn đến cầu Ðức Phật nói : ‘’Tại sao Ngài bắt trộm
con của tôi bỏ vào trong bình bát, mà không trả lại con của tôi ?’’ Ðức Phật
hỏi : ‘’Nhà người có bao nhiêu người con ?’’ Chúng đáp : ‘’Có một ngàn
người con’’. Phật nói : ‘’Ngươi có một ngàn người con, mà bây giờ chỉ mất
đi có một đứa, mà sao ngươi lại cấp tốc như thế ?’’ Chúng nói : ‘’Tuy chỉ
mất một, nhưng tôi cũng chẳng muốn thiếu.’’ Phật nói : ‘’Vậy chứ ngươi bắt
trộm hết thảy những đứa con nít của người ta đem đi ăn, thì ngươi tính sao
?’’ Quỷ nói : ‘’Tôi chẳng phải muốn ăn con nít, nhưng tôi chẳng có gì để ăn
! Nếu tôi không đi bắt trộm con nít để ăn, thì một ngàn đứa con của tôi đây
sẽ bị chết đói.’’ Phật nói : ‘’Từ nay về sau, ngươi đừng bắt trộm con nít để
ăn nữa, ngươi nên quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, đừng sát sinh nữa !
Ngươi nghĩ xem, ngươi có một ngàn người con, mà một người con cũng xả
bỏ chẳng đặng, ta chỉ bắt nhốt một người con của ngươi, mà ngươi buồn rầu
như thế ! Vậy con của mọi người trên thế gian, ngươi bắt trộm ăn, cha mẹ
của họ không buồn rầu chăng ? Ngươi đừng có ích kỷ như thế.’’ Do đó, quỷ
mẹ quỷ con bèn đáp ứng Ðức Phật, quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới. Ðức
Phật bèn kêu hết thảy đệ tử, khi dùng cơm vào giờ trưa, thì đem ít hạt cơm
hoặc chút thức ăn, thí cho quỷ mẹ quỷ con. Cho nên, khi tống thực thì niệm
bài kệ rằng :
‘’Ðại bàng kim sí điểu
Khoáng dã quỷ thần chúng
La sát quỷ tử mẫu
Cam lồ tất sung mãn.’’
Nghĩa là :
Chim đại bàng cánh vàng
Quỷ thần nơi hoang dã
Quỷ mẹ con la sát
Cam lồ đều no đủ.
Cam lồ là ví dụ ăn bất cứ vật gì, đều ngon ngọt như cam lồ, vô luận có bao
nhiêu thì thảy đều no, đó là kệ cúng thí buổi trưa.
Khẩn na la cũng là một trong tám bộ quỷ thần. Chúng cũng là thần âm nhạc
của trời Ðế Thích; trên đầu của chúng có một cái sừng, nên còn có tên gọi là
nghi thần.
Ma hầu la già là gì ? Tức là đại mãng xà, chúng rất hung ác, còn gọi là địa
long. Ở tỉnh Quảng Ðông của Trung Quốc chuyên môn ăn thịt mãng xà, loài
mãng xà này béo mập như heo, song có khi chúng cũng ăn người. Vì người
ăn chúng, nên chúng cũng ăn người.
Vào thời vua Lương Võ Ðế, ông ta là Phật giáo đồ, cung kính phụng sự Tam
Bảo, song hoàng hậu Hi Thị vợ của vua thì ngược lại, chẳng kính Phật,
chẳng kính pháp, chẳng kính tăng. Vì bà ta chẳng tin Tam Bảo, cho nên khi
bà ta chết đi rồi, thì đọa làm đại mãng xà, mà mãng xà đó lại nói được tiếng
người. Do đó, bèn trở về nhờ vua Lương Võ Ðế siêu độ bà ta bèn nói : ‘’Ông
có biết tôi là ai không ? Tôi là vợ của ông hoàng hậu Hi Thị, vì tôi chẳng
kính tin Tam Bảo, cho nên phải đọa làm thân mãng xà.’’ Vua nghe rồi bèn
thỉnh thiền sư Chí Công đến siêu độ bà ta. Bổn lai vị thiền sư này, là người
mà bà ta phản đối nhất khi bà ta còn sống, khi bà ta chết rồi làm thân mãng
xà, thì lại đến đảnh lễ sám hối với thiền sư Chí Công. Do đó, thiền sư Chí
Công bèn tạo bộ ‘’Lương Hoàng Sám’’. ‘’Lương Hoàng’’ tức cũng là Lương
Võ Ðế, ‘’sám’’ là sám hối, để cho vua Lương Võ Ðế lạy bộ sám này, siêu độ
cho vợ của ông ta. Nhờ công đức lạy bộ Lương Hoàng Sám này, mà vợ của
vua Lương Võ Ðế thoát khỏi thân mãng xà, được sinh về cõi trời.
Khi Phật còn tại thế thì Ma hầu la già quy y Tam Bảo, cho nên chúng cũng
là Phật giáo đồ, là hộ pháp.
‘’Người và chẳng phải người’’ : Người là tất cả loài người chúng ta, chẳng
phải người là chỉ tất cả súc sinh. Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn xem chúng sinh
đáng dùng thân trời rồng bát bộ độ được, thì liền hiện ra thân rồng, hoặc
thân Dạ xoa, hoặc thân La sát, hoặc Càn thát bà, hoặc A tu la, hoặc Ca lâu la,
hoặc Khẩn na la, hoặc Ma hầu la già các thứ thân hình, hoặc hiện thân
người, và tất cả thân súc sinh chẳng phải người, để vì chúng sinh đó nói
pháp.
Người đáng dùng thân Thần chấp kim cang độ được, thì liền hiện thân Thần
chấp kim cang, để vì họ nói pháp.
‘’Thần chấp kim cang’’ là hộ pháp của Phật giáo. Lai lịch của Thần Kim
Cang, là một vị chuyển luân thánh vương trong quá khứ lâu xa về trước.
Ngài sinh được một ngàn người con. Làm sao một bà phu nhân mà có thể
sinh được ngàn người con ? Vì tuổi thọ của họ rất lâu dài, tuổi thọ lâu dài,
cho nên có một ngàn người con cũng chẳng lấy làm nhiều, song ông vua
chuyển luân còn cảm thấy chưa đủ, lại cưới thêm một bà thiếp. Bà vợ thứ hai
này sinh được hai người con, do đó tổng cộng có một ngàn lẻ hai người con.
Một ngàn lẻ hai người con này, cùng nhau phát nguyện rằng : ‘’Tương lai
chúng ta tu hành thành tựu, thì chúng ta một ngàn anh em phải theo thứ tự
mà thành Phật, cho dù Chuyển Luân Thánh Vương cũng chẳng làm, mọi
người chúng ta hãy cùng nhau bắt thăm.’’ Ðức Phật Thích Ca bắt trúng thăm
thứ tư. Ngài là vị Phật thứ tư, tương lai vị Phật thứ năm, thứ sáu, đều sẽ lần
lượt ra đời ngàn vị Phật trong kiếp hiền. Một ngàn anh em này đều phát
nguyện thành Phật. Và hai người con của bà phu nhân thứ hai cũng phát
nguyện. Phát nguyện gì ? Một người phát nguyện : ‘’Một ngàn người anh
của chúng tôi đây, bất cứ người anh nào lúc thành Phật, thì tôi sẽ là người
đầu tiên đến thỉnh Ngài thuyết pháp, cung kính cúng dường Tam Bảo’’. Còn
người kia phát nguyện: ‘’Tôi phát nguyện tương lai làm hộ pháp, khi mỗi
người anh của tôi thành Phật, thì tôi sẽ bảo hộ Ngài, hộ pháp của Ngài.’’ Do
đó, Ngài thành vị Kim Cang Hộ Pháp, trong tay thường cầm chày kim cang
để bảo hộ Phật giáo. Mỗi khi có vị Phật ra đời, thì Ngài đến ủng hộ Phật
pháp. Ngoài ra, có một vị Ðại Phạm Thiên Vương, mỗi lần có vị Phật mới ra
đời, thì ông ta là người đầu tiên thỉnh Phật thuyết pháp.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm đó, thành tựu công đức như thế, dùng đủ
thứ thân hình đi khắp trong các cõi nước, để độ thoát tất cả chúng sinh. Bởi
thế các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðại Bồ Tát
Quán Thế Âm đó, ở trong nạn khẩn cấp sợ hãi, Ngài hay ban cho sự không
sợ hãi. Vì thế mà thế giới Ta Bà đều gọi Ngài là bậc thí vô uý.
Khi Ðức Phật nói Bồ Tát Quán Thế Âm dùng đủ thứ hóa thân rồi, lại gọi
một tiếng : ‘’Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu đủ thứ công đức
như ở trên đã nói, Ngài dùng đủ thứ thân hình, đi đến mỗi cõi nước, để độ
thoát hết thảy tất cả chúng sinh; vì nhân duyên đó, cho nên các ông tất cả
chúng sinh, nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm’’, đừng có hai
lòng. Nếu có hai lòng, tức là có tâm hoài nghi. ‘’Một lòng’’ tức là chỉ dùng
một niềm tin, nếu bạn có hai lòng thì chẳng có cảm ứng, chẳng có công đức,
cho nên mới nói : ‘’Nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.’’ Ðại
Bồ Tát Quán Thế Âm là vị đại Bồ Tát, hay ở trong sự sợ hãi nạn khẩn cấp,
bố thí cho bạn sự không sợ hãi, khiến cho bạn không sinh tâm sợ hãi, vì thế
cho nên thế giới Ta Bà này đều gọi Ngài là Bồ Tát bố thí vô úy.
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con xin cúng dường
Bồ Tát Quán Thế Âm, bèn cởi chuỗi ngọc các châu báu nơi cổ, giá trị trăm
ngàn lạng vàng, dâng lên nói rằng : Xin nhân giả hãy nhận sâu chuỗi ngọc
châu báu pháp thí này.
Bồ Tát Vô Tận Ý nghe Ðức Phật nói như thế rồi, cũng muốn cúng dường Bồ
Tát Quán Thế Âm, bèn bạch Ðức Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Nay con nên
cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm có công đức lớn
như thế, sức oai thần không thể nghĩ bàn, cho nên tuy con đã thành Bồ Tát,
nhưng con còn phải tài bồi phước báu ở trước Bồ Tát Quán Thế Âm, con
nên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.’’ Sau khi nói xong rồi, thì Bồ Tát Vô
Tận Ý lập tức cởi sâu chuổi ngọc châu báu nơi cổ, cúng dường Bồ Tát Quán
Thế Âm, cũng chẳng có tơ hào tư lự. Chuỗi ngọc là một loại châu báu rất có
giá trị, thứ chuổi ngọc này bên trong rỗng không, nên có thể bỏ đồ vào,
người xưa thường dùng nó làm đồ trang sức. Sâu chuỗi này giá trị trăm ngàn
lạng vàng, đem dâng lên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm nói : ‘’Xin Nhân
giả hãy nhận sâu chuỗi ngọc châu báu pháp thí này.’’ Nhân giả tức chỉ người
nhân từ có đức, Bồ Tát xưng hô với Bồ Tát thường dùng ‘’nhân giả’’.
Sâu chuỗi ngọc châu báu này, vốn là thuộc về tài thí, tại sao trong kinh văn
Bồ Tát Vô Tận Ý nói là pháp thí ? Trong sự bố thí có tài thí, pháp thí, và vô
úy thí. Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trong tâm
của Ngài chẳng cho rằng, chuỗi ngọc đó là vật đắc tiền, Ngài hoan hỉ thành
tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài chũng chẳng nghĩ là trị giá bao
nhiêu tiền. Song, tại sao trong kinh văn lại nói là : ‘’Giá trị trăm ngàn lạng
vàng?’’ Câu này là tôn giả A Nan thêm vào khi kết tập kinh điển. Ðương
thời, Bồ Tát Vô Tận Ý chẳng nói trị giá bao nhiêu tiền. Ngài dùng chân tâm
để cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, giữa đó đây chẳng có quan niệm về
‘’tiền tài’’, cho nên thuộc về pháp thí. Tuy là tài thí, nhưng cũng biến thành
pháp thí. Ðây là mọi người dùng tâm ấn tâm. Do đó, Ngài yêu cầu Bồ Tát
Quán Thế Âm nhận chuỗi ngọc châu báu pháp cúng dường này.
Lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu thọ nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại
bạch với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng : Nhân giả ! Hãy thương xót chúng tôi,
mà thọ nhận chuỗi ngọc này.
Bồ Tát Vô Tận Ý dùng sau chuỗi ngọc châu báu, cúng dường Bồ Tát Quán
Thế Âm, mà Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận. Tại sao Bồ Tát Quán
Thế Âm chẳng chịu nhận ? Vì Bồ Tát Quán Thế Âm dưới tòa của Ðức Phật
Thích Ca, đang ở trong hội nghe Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Quán Thế Âm chưa
được Ðức Phật hứa khả, nên Ngài biểu thị khách sáo, chẳng chịu nhận sự
cúng dường đó, hơn nữa Ngài cũng chẳng có tâm tham, chẳng giống như
phàm phu bèn nghĩ ? ’’Ồ ! Sâu chuỗi châu báu này quá quý trọng, có người
cho mình, sợ rằng thọ nhận trễ thì họ chẳng cúng dường nữa, thì biết làm sao
?’’ Là vì Ngài chẳng có tâm lý như thế, cho nên chẳng sợ người ta không
cúng dường. Trong tâm của Ngài vốn chẳng có người thí, vật thí, cũng
chẳng có người thọ nhận. Bạn cúng dàng cho tôi và không cúng dường cho
tôi, xem đều rất bình thường. Ðương nhiên trong sự yên lặng, Bồ Tát Vô
Tận Ý là có công đức. Song, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận sự cúng
dường đó, do đó Bồ Tát Vô Tận Ý khẩn cầu. Ngài chẳng giống như một số
người, thật sự chẳng muốn cúng dường : ‘’Bạn không nhận thì tôi chẳng
cúng dường.’’ Cho nên, Bồ Tát Vô Tận Ý lại khẩn cầu Bồ Tát Quán Thế Âm
nói : ‘’Nhân giả ! Hãy thương xót chúng tôi mà thọ nhận sâu chuỗi này.’’
Nghĩa là nói : ‘’Nhân giả ! Bồ Tát đại từ bi, hãy thương xót tôi, thương xót
Vô Tận Ý tôi, và chúng sinh bốn chúng này. Tôi cúng dường Ngài sâu chuỗi
này, chẳng phải vì cầu phước cho chính tôi, mà là vì bốn chúng đệ tử này, và
hết thảy pháp giới chúng sinh, để cúng dường nhân giả. Tôi là đại biểu cho
chúng sinh cúng dường Ngài, cho nên xin Ngài hãy thương xót chúng tôi thọ
nhận sâu chuỗi này.’’ Bốn chúng là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ
nữ. ‘’Chúng tôi’’, tức là hết thảy tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm, nên thương xót Bồ Tát Vô Tận
Ý, và bốn chúng, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na
la, Ma hầu la già, người, và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó.
Bồ Tát Vô Tận Ý nhất định phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, còn Bồ
Tát Quán Thế Âm quyết tâm chẳng thọ nhận sự cúng dường đó bèn nói :
‘’Vật tốt của Ngài, tôi không dám thọ nhận, tôi chẳng có đạo đức gì, Ngài
hãy tự giữ lấy.’’ Bồ Tát Vô Tận Ý nghe Bồ Tát Quán Thế Âm nói như thế,
càng khẩn trương, thậm chí cuối đầu đảnh lễ để khẩn nài Bồ Tát Quán Thế
Âm. Một người chẳng chịu nhận, còn một người nhất định phải cúng dường,
hai bên đều kiên trì. Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca điều giải vấn đề này, bèn
nhìn Bồ Tát Quán Thế Âm, cười và nói : ‘’Bồ Tát Quán Thế Âm, ông nên
thương xót Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng đệ tử, chẳng chỉ vì bốn chúng đệ
tử này, mà còn có trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca Lâu la, Khẩn
na la, Ma hầu la già, người và chẳng phải người. Ông nên thương tất cả
những chúng đó, mà thọ nhận sự cúng dường. Bồ Tát Vô Tận Ý rất thành
tâm khẩn thiết bố thí pháp, thì ông đừng cự tuyệt hảo tâm của ông ấy !’’
Tức thời Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót hàng bốn chúng, và các trời,
rồng, người, và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó, chia làm hai
phần. Một phần dâng lên đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng cúng
tháp của Phật Ða Bảo.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại như thế, đi khắp thế giới
Ta Bà.
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi rằng.
Lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm thấy Ðức Phật điều giải việc này, Ngài cũng
nghe lời Ðức Phật, thương xót bốn chúng đệ tử và trời rồng tám bộ, thọ nhận
sâu chuỗi ngọc châu báu đó. Song, Ngài nhận rồi lại chia ra làm hai phần để
cúng dường. Sâu chuỗi có giá trị đắc tiền mà Ngài cũng chẳng cần, Ngài
dâng một phần lên cúng dường Ðức Phật Thích Ca, một phần dâng cúng
tháp của Ðức Phật Ða Bảo.
Sau đó Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Vô Tận Ý ! Vị Bồ Quán Thế Âm đó,
có các thứ thần thông diệu dụng, thần lực tự tại như đã nói ở trên, hết thảy
chúng sinh đều nên cúng dường ông ta, cung kính ông ta, niệm danh hiệu
ông ta. Vị Bồ Tát Quán Thế Âm hay đi khắp thế giới Ta Bà này, để cứu độ
tất cả chúng sinh’’. Ðức Phật nói xong, thì Bồ Tát Vô Tận Ý lại dùng kệ hỏi
Ðức Phật.
Câu kệ là vì văn trường hàng ở trên, có chỗ nói rất tỉ mỉ, lại có chỗ nói chẳng
tỉ mỉ, cho nên dùng kệ để tường thuật lại. Kệ giống như thơ, phải có cách
thức nhất định, hoặc là một câu sáu chữ, hoặc một câu năm chữ, một câu
bốn chữ, chẳng nhất định, song phải có số chữ nhất định.
Thế Tôn đủ tướng tốt
Nay con xin hỏi Ngài
Vị kia do duyên gì
Tên là Quán Thế Âm ?
Bồ Tát Vô Tận Ý gọi một tiếng : ‘’Ðức Thế Tôn đầy đủ tướng tốt ! Hôm nay
con xin hỏi Bồ Tát Quán Thế Âm, bởi nhân duyên gì mà tên gọi là Quán Thế
Âm ?’’ Vì tướng mạo của Phật viên mãn nhất, đầy đủ ba mươi hai tướng,
tám mươi vẻ đẹp, cho nên gọi là Thế Tôn đủ tướng tốt, tức là đầy đủ chẳng
thiếu chẳng dư. Lại có thể giải thích là phước đầy huệ đủ, nên gọi là Lưỡng
Túc Tôn. Nghĩa là có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, tướng tốt này vi
diệu không thể nghĩ bàn.
Ðấng đầy đủ tướng tốt
Ðáp kệ Vô Tận Ý :
Ông nghe hạnh Quan Âm
Khéo ứng khắp mọi nơi.
Vì Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi Ðức Phật, cho nên Phật cũng dùng kệ để
trả lời.
Ðức Phật nói : ‘’Vô Tận Ý ! Ông có biết việc làm và nhân duyên của Bồ Tát
Quán Thế Âm chăng ? Ông nên chú ý lắng nghe, nay ta sẽ vì ông giải thích
nói. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng thiện xảo phương tiện, quán căn cơ mà vì họ
nói pháp, theo bệnh cho thuốc.’’
‘’Quán căn cơ’’ tức là nhìn xem chúng sinh đó căn tính thế nào ? Thích cái
gì ? Thì Ngài vì họ mà nói pháp. Giống như ở trước đã nói : ‘’Người đáng
dùng thân Phật độ được, thì liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp. Người
đáng dùng thân Ðế Thích độ được, thì liền hiện thân Ðế Thích để vì họ nói
pháp .v.v...’’ Ðây gọi là ‘’khéo ứng khắp mọi nơi’’. Bất cứ căn tính như thế
nào, Ngài liền dùng phương pháp phương tiên khéo léo để độ bạn, phương
pháp này chẳng nhất định. Chẳng nhất định cho nên trong Kinh Kim Cang
có nói :
‘’Là pháp bình đẳng
Chẳng có cao thấp
Chẳng có pháp nhất định’’.
Tức là làm vị pháp sư muốn đi giáo hóa người, cũng phải hiểu nhiều đạo lý
và pháp thế gian, thấy loại người nào thì nói thứ pháp đó. Ví như gặp người
buôn bán thì nói : ‘’Hiện nay bạn buôn bán như thế nào ? Gần đây buôn bán
có đắc không !’’ Gặp người làm công thì nói : ‘’Anh thật là vất vả ! Hôm
nay có ngày nghỉ chăng?’’ Nên vì họ nói đạo lý làm công, họ nghe thì tâm
nghĩ : ‘’Thật tế cũng có người biết mình vất vả, bận rộn !’’ Sau đó mới vì họ
giảng chút Phật pháp, thì họ cảm thấy : ‘’Thật không sai, nguyên lai Phật
pháp là như thế.’’ Gặp người đi học thì hỏi họ : ‘’Anh học về ngành gì ?
Khoa học ? Hóa học, hay văn học .... ?’’ Giống như hôm nay có một số học
sinh đến, Quả tôn giảng cho họ nghe về Phật pháp này, họ nghe rồi rất cao
hứng, và bắt đầu có ấn tượng đối với Phật pháp, ở trong não hải của họ bèn
có ‘’Phật’’. Một khi chữ Phật vào trong não hải của họ, thì ngày càng sẽ tăng
trưởng, tương lai cũng sẽ thành Phật. Ðó là khéo ứng khắp mọi nơi, theo
bệnh cho thuốc, vì người nói pháp. Do đó có câu :
‘’Phương tiện khéo léo độ chúng sinh,
Khéo ở trong trần lao làm Phật sự.’’
Khéo biến tất cả sự việc trong thế gian thành Phật sự.
Hoằng nguyện sâu như biển
Kiếp số không nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Vị Bồ Tát Quán Thế Âm đó, trước kia khi Ngài chưa thành Phật, thì có phát
hoằng nguyện đại từ bi. Hoằng thệ đó lớn cỡ nào ? Sâu rộng như biển cả.
Ngài trải qua đại kiếp không thể nghĩ bàn, tạo công đức không thể nghĩ bàn,
phát nguyện lực không thể nghĩ bàn, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm tất cả hết
thảy, đều vi diệu không thể nghĩ bàn. Ngài đã từng hầu cận rất nhiều hàng
ngàn ức vị Phật, có thể là hàng vạn ức, mặc dù kinh văn chỉ nói là ngàn ức.
Ngài phát nguyện đại từ đại bi như thế, cho nên cảnh giới của Bồ Tát Quán
Thế Âm cao sâu khó dò. Bồ Tát Quán Thế Âm phát nguyên thanh tịnh.
Nguyện thanh tịnh là gì ? Thanh tịnh là chẳng có tư tưởng ích kỷ, là một
người đại công vô tư. Ngài vì chúng sinh mà phát nguyện, hoàn toàn là phát
xuất từ tâm từ bi chân chánh, tâm từ thương chúng sinh.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên và thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Ðức Phật nói : ‘’Hiện tại ta vì ông nói sơ lược về công đức của Bồ Tát Quán
Thế Âm, người có căn lành mới nghe được danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế
Âm.’’ Nếu người chẳng có căn lành, thì cho đến tên của Bồ Tát Quán Thế
Âm cũng chẳng nghe được, huống chi nói đến thấy thân. Thấy thân chẳng
nhất định nói là thấy được nhục thân của Ngài, tức là thấy được hình ảnh của
Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc dùng bùn nắn, hoặc dùng gỗ chạm trỗ, hoặc
dùng đá tạo, cho đến vàng, bạc, đồng, thiết, đúc thành tượng Bồ Tát Quán
Thế Âm. Nếu bạn thấy những tượng nói trên, thì cũng giống như thấy được
nhục thân của Ngài. Chỉ cần trong tâm chúng ta niệm danh hiẹu Bồ Tát
Quán Thế Âm, đừng khởi vọng tưởng, thì sẽ tiêu diệt được tất cả sự khổ
trong các cõi. Các cõi tức là hai mươi lăm cõi trong dục giới, sắc giới, và vô
sắc giới.
Nếu người khởi tâm hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Nhờ sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Giả sử có người khởi tâm hãm hại bạn, ví như bạn bè hợp tác làm ăn với
bạn, khi cùng đi với bạn đến đỉnh núi cao ngàn trượng. Vì anh ta muốn một
mình chiếm đoạt số tiền của bạn, bèn sinh tâm cướp tiền hại mạng xô bạn rớt
xuống chân núi. Lúc đó, chỉ cần bạn thành tâm niệm : ‘’Nam Mô Quán Thế
Âm Bồ Tát’’, thì có thể bình an vô sự. Nếu như xô bạn rớt suống hầm lửa
lớn, thì hầm lửa sẽ biến thành ao nước. Bạn bất tất phải dùng phương pháp
khác, cũng chẳng cần niệm chú gì, chỉ một lòng chuyên niệm Quán Thế Âm
Bồ Tát, thì sẽ có cảm ứng cứu hộ bạn, sự cảm ứng đó không thể nghĩ bàn.
Cho nên chúng ta bất cứ lúc nào, đều nên niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì
tương lai sẽ được Bồ Tát Quán Thế Âm bảo hộ, cảnh giới cảm ứng đó nói
chẳng hết được.
Hoặc trôi dạt biển cả
Rồng cá các nạn quỷ
Nhờ sức niệm Quan Âm
Sóng lớn chẳng ngập chết.
Nếu như bị trôi dạt ở trong biển cả, chẳng thấy bờ bến đâu cả, lúc đó rất là
nguy hiểm. Trong biển lớn thường có rồng độc, cũng có quỷ la sát, hoặc cá
ăn thịt người, lúc đó rất là nguy hiểm. Nếu bạn gặp những nạn đó, thì nên
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tức sóng to cách mấy, cũng chẳng ngập chết bạn
được, trong sự bất tri bất giác, sẽ đưa bạn vào bờ, hoặc tự nhiên trôi dạt vào
chỗ cạn, hoặc gặp thuyền đến vớt lên. Ðó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện
cứu nạn nước. Ở trên là nạn lửa. Song, nếu bạn chẳng niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, thì rất là nguy hiểm.
Giảng đến đây, tôi nhớ lại lúc ở Hồng Kông, có một người đệ tử quy y
chẳng tốt. Chẳng tốt như thế nào ? Ông ta là người đã từng hại người khác,
tên của ông ta là Trương Ngọc Giai, nhà mở tiệm thuốc tây, kiếm được
chẳng biết bao nhiêu là tiền. Tiền của ông ta là từ hại người mà có. Lúc đó,
sau khi Nhật đầu hàng rồi, vì trải qua chiến tranh, nên có bệnh truyền nhiễm
phát sinh, cho nên lúc đó khắp nước Trung Quốc đều có bệnh ôn dịch lưu
hành. Do đó, ông ta và một người giàu khác hợp tác làm ăn, hai người cùng
đi trên một chiếc thuyền ra ngoại quốc, mua thuốc tây về Hồng Kông bán
lại. Thuyền đến giữa biển, thì ông ta xô người bạn xuống biển, người bạn
của ông ta vì chẳng biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên bị chết. Do đó,
ông ta một mình chiếm đoạt hết số tiền vốn.
Trở về kiếm được rất nhiều tiền. Sau ông ta lại làm thuốc giả để kiếm tiền,
do đó mà phát tài. Phát tài rồi sau đó ông ta như thế nào? Ðại khái là quan hệ
oan tương báo, ông ta mắc chứng bệnh ưng thư. Ðương thời, sáu ông bác sĩ
nổi tiếng ở Hồng Kông đều nói rằng, chỉ trong vòng một trăm ngày, thì ông
ta sẽ chết. Do đó, ông ta đăng báo xin cứu mạng nói: "Nếu ai chữa được
bệnh của ông ta, bảo trì được sinh mạng của ông ta, thì ông ta sẽ bỏ ra hai
chục vạn Mỹ Kim". Lúc đó, hai chục vạn Mỹ Kim ở Hồng Kông rất lớn vô
cùng, song cũng chẳng có ai có phương pháp cứu mạng ông ta. Do đó, ông
ta đến chùa lễ Phật.
Một ngày nọ ông ta đến chùa Tây Lạc Viên hỏi tôi làm thế nào mới chữa
được bệnh. Tôi nói với ông ta : ‘’Ông mắc chứng bệnh này, thì nên làm
nhiều việc thiện, cúng dường Tam Bảo gieo trồng công đức. Trước hết ông
phải quy Tam Bảo, như thế thì có thể chứng bệnh của ông sẽ hết.’’ Do đó,
vào ngày 18 tháng 9 âm lịch ông ta quy y với tôi. Quy y rồi, tôi bèn khuyên
ông ta phát tâm làm việc thiện. Ðương thời, người xuất gia từ Trung Quốc
trốn nạn đến Hồng Kông khoảng hai ba ngàn người, nhưng các vị Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo ni, chẳng có đủ quần áo để mặc, cũng chẳng có chỗ đủ để ở. Cho
nên tôi kêu ông ta cúng dường mỗi người xuất gia một xấp vải, và hai chục
đồng Hồng Kông, ông ta chịu đáp ứng. Song, ở Hồng Kông có nhiều vị Hòa
Thượng, nhất là những vị pháp sư già nghe ông Trương Ngọc Giai quy y với
tôi, thì ai nấy đều hiện đại thần thông. Hiện thần thông gì ? Bạn cũng tìm
bạn bè, họ cũng tìm người quen đến nói với ông Trương Ngọc Giai, kêu ông
ta làm công đức ở chùa của họ. Những vị lão pháp sư đó, đều là người có
danh vọng, vì có quyền thế trong Phật giáo, cho nên đi phan duyên với ông
Trương Ngọc Giai, do đó ông ta đến những chùa đó làm công đức, còn tôi
từng kêu ông ta cho mỗi vị pháp sư, đến từ Trung Quốc hai chục đồng Hồng
Kông, nhưng ông ta không cho, chỉ cho có năm đồng và một xấp vải. Vì tôi
đã nói với những người xuất gia đó, là cho hai chục đòng, bây giờ ông ta chỉ
cho mỗi người có năm đồng, biết làm sao ? Do đó, tôi tự đi mượn tiền rất bí
mật, cũng chẳng nói cho ai biết. Mượn được tiền rồi, tôi lại tự cầm phân phát
cho mỗi người thêm mười lăm đồng nữa, cộng lại là hai chục đồng, đó cũng
là để kết duyên với những người xuất gia đó.
Lúc đó, chẳng có vị xuất gia nào biết trong đó có tiền của tôi mượn để cho
họ, cho đến hiện tại cũng chẳng biết. Ðến khi ông Trương Ngọc Giai nuốt
lời, chẳng giữ lời hứa, là vì bị những vị lão pháp sư đó phan duyên, song tôi
cũng chẳng trách ông ta, việc này qua rồi thì thôi. Bổn lai các bác sĩ đều
đoán chắc là ông ta trong vòng một trăm ngày sẽ chết, chẳng nghi ngờ gì
nữa. Trải qua một trăm ngày cũng chẳng chết, do đó những vị lão pháp sư
phan duyên ông ta đều nói : ‘’Ðó là nhờ chúng tôi vì ông mà sám hối’’!
Người khác lại nói : ‘’Ðó là nhờ chúng tôi vì ông mà tụng kinh.’’ Vị pháp sư
khác lại nói : ‘’Ðó là nhờ chúng tôi cầu cho ông ở trước bàn Phật !’’ Mỗi vị
pháp sư đều có công.
Lúc đó tôi chẳng có chút công lao nào, tôi cũng chẳng nói với ông ta lời nào.
Trải qua sáu năm, ông ta cũng chẳng chết. Lúc đó, tôi đang làm chùa ở tại
núi Ðại Tự ở Hồng Kông, xây chùa Từ Hưng. Ngôi chùa này đại khái có thể
ở trên hai trăm người. Ông ta nghe tôi làm chùa, tức nhiên là đệ tử quy y với
tôi, nên sai một người cầm một bao tiền đến cúng cho tôi làm chùa. Số tiền
đó tôi chẳng nhìn qua, cũng chẳng mở ra xem, tôi bèn vứt nó ra ngoài cửa,
tôi nói với người đó rằng : ‘’Số tiền này kiếm được chẳng chánh đáng, chẳng
thanh tịnh, tôi chẳng cần tiền của ông ta như thế, ông hãy mang về trả lại cho
ông ta.’’ Người đó đem tiền về đưa lại cho ông ta, lần này ông ta kêu vị pháp
sư phan duyên ông ta, tên là Ðịnh Tây đến nói lời ngon ngọt và mang tiền
đến. Tôi nói : ‘’Bây giờ công trình làm chùa đã xong, tôi chẳng cần dùng
tiền. Ông ta có tiền thì có thể làm công đức chỗ khác, có rất nhiều chùa,
nhiều pháp sư, ông ta muốn làm gì cũng được.’’ Vị pháp sư đó cũng chẳng
vui vẻ trở về. Qua hai năm sau, vào giữa tháng giêng, tôi tuyên bố với mọi
người : ‘’Ông Trương Ngọc Giai đã quy y với tôi tám năm, tôi vốn đợi ông
ta thực hiện lời hứa. Vì ông ta đã từng phát nguyện cúng hai chục vạn Mỹ
Kim để làm chùa, nhưng cho đến bây giờ ông ta cũng chẳng làm. Tôi chẳng
đợi nữa, về sau ông Trương Ngọc Giai bất cứ có vấn đề gì, tôi cũng chẳng lo
nữa.’’ Nói ra chưa đầy nửa năm, chúng bệnh ung thư của ông ta lại tái phát,
về sau khi gần chết, thì sai người của ông ta đến cầu tôi, vì ông ta đến chùa
khác cầu lạy, làm công đức Phật sự cũng chẳng linh, chẳng có cảm ứng, cho
nên lại đến tìm tôi. Nhưng tôi cũng chẳng lo, tôi nói tôi đã tuyên bố chẳng lo
bất cứ việc gì của ông ta nữa, chẳng được mấy ngày thì ông ta chết. Ðiều lạ
lùng là vị pháp sư Ðịnh Tây, trước kia phan duyên với ông ta cũng sinh bệnh
ung thư, đại khái bệnh hơn một năm thì chết, còn có một vị cư sĩ theo vị
pháp sư đó, giúp cho pháp sư Ðịnh Tây liên lạc với ông Trương Ngọc Giai,
cũng sinh bệnh ung thư mà chết, cho nên ba người họ có thể nói là một thể,
sống thì sống chung với nhau, chết thì cũng cùng một chứng bệnh. Tại sao
ông Trương Ngọc Giai lại chết như thế ? Vì ông ta xô người bạn của mình
xuống biển chết, chắc chắn chết rồi làm oan hồn, cho nên đến khiến cho ông
Trương Ngọc Giai sinh bệnh ung thư.
Bổn lai, ông Trương Ngọc Giai đã quy y Tam Bảo, nếu ông ta chân chánh có
niềm tin, thì ông ta chẳng bị chết, do niềm tin chẳng vững chắc.
Hoặc trên đỉnh Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Nhờ sức niệm Quan Âm
Như mặt trời trên không.
Tu Di là tiếng phạn, dịch là núi Diệu cao, là núi cao nhất trong vũ trụ. Ở đây
nói là trên đỉnh núi Tu Di, chẳng nhất định là chỉ ở trên đỉnh núi Tu Di, mà
là ví dụ sự cao như đỉnh núi Tu Di. Hoặc là bạn đang ở trên đỉnh núi cao như
núi Tu Di, bị người xô rớt xuống, lúc đó nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì ‘’Như mặt trời trên không’’, giống như mặt trời lơ lửng ở trong hư
không, chẳng gây tổn thương cho bạn. Chẳng chỉ nói ở trên đỉnh núi xô rớt
bạn xuống tan xương nát thịt, mà cũng có thể nói là có người ở trên chỗ cao,
khiến bạn trèo lên cây thang, đợi khi bạn đến chỗ cao nhất, thì họ xô cây
thang, lúc đó muốn lên cũng chẳng được, muốn xuống cũng chẳng xong, đó
cũng là việc rất nguy hiểm. Tức cũng là mọi người đối sử tốt với bạn, sau đó
chẳng đối tốt với bạn nữa, để cho bạn từ trên cao rớt xuống. Lúc đó, nếu bạn
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chẳng có vấn đề gì, giống như mặt trời ở
trong hư không chiếu khắp vạn dặm, một chút phiền não cũng chẳng có,
ngược lại rất an nhiên tự tại, rất có định lực, cho nên khen chê đều chẳng
động tâm, đó cũng là biểu thị ‘’Như mặt trời trên không’’ một ý nghĩa riêng
khác.
Hoặc bị người ác đuổi
Ngã xuống núi kim cang
Nhờ sức niệm Quan Âm
Chẳng tổn hại mảy lông.
Người ác là gì ? Tức là người chẳng nói về đạo lý, chuyên môn làm chuyện
giết người, phóng lửa, người man rợ chẳng nói đạo lý : ‘’Anh là tôi, tôi cũng
là tôi. Tiền của anh là của tôi, tiền của tôi thì càng của tôi.’’ Bạn xem đây có
đạo lý chăng ? Ðây gọi là người ác, có quyền lực mà chẳng có công lý, chỉ
dùng thế lực để bức bách người khác, chẳng nói đến công lý, đó tức là người
ác.
Truy đuổi là bạn chạy đến đâu, thì họ cũng đuổi theo bạn đến đó, luôn luôn
xem giữ bạn. Nếu bạn bị người ác truy đuỗi, vì nhất thời bôn ba chẳng cẩn
thận mà rớt xuống núi kim cang sâu vạn dặm, nếu bạn chẳng niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì chắc chắn sẽ mất mạng, thậm chí tan thân nát xương
chẳng tìm được thi thể. Song, nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì dù
cho một sợi lông cũng chẳng tổn thương. Bạn nói có kỳ lạ chăng ! ‘’Núi kim
cang’’ ở đây, là biểu thị vực thẳm vạn trượng, rất cứng chắc như kim cang.
Song nếu bạn gặp trường hợp nguy hiểm như thế, mà niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì chắc chắn sẽ có cảm ứng. Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ đến cứu hộ bạn,
khiến cho bạn gặp hung hóa cát tường, gặp nạn được bình an, nguy hiểm mà
chẳng nguy hiểm.
Hoặc gặp oán tặc vây
Ðều cầm đao làm hại
Nhờ sức niệm Quan Âm
Thảy đều khởi tâm từ.
Ở trên nói về người ác, bây giờ nói về ‘’oán tặc’’, tức là bọn cướp, giết
người phóng lửa, chẳng có việc ác nào mà chẳng làm. Tất cả mọi người mà
chúng ta gặp, đều có quan hệ tiền nhân hậu quả. ‘’Oán tặc’’ tức là người có
oán hận với chúng ta, hoặc là kiếp trước chúng ta ăn cắp đồ vật của người,
hoặc là đã giết người, hoặc đối với người chẳng tốt, cho nên đời này lại gặp
nhau, mới biến thành oán tặc. Do đó, có câu :
‘’Giết người phải đền mạng,
Mắc nợ thì trả tiền’’.
Bạn giết mạng người ta, thì người ta cũng muốn lấy mạng của bạn; bạn cướp
đoạt tài vật của người ta, cho nên phải đền tiền cho người ta. Hết thảy tất cả
đều có mối liên quan với nhau.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từng nói cho mọi người biết rằng : ‘’Tôi đời đời
kiếp kiếp chưa từng ăn trộm đồ vật của người khác, luôn giữ giới trộm cắp.
Có gì để chứng minh ? Tôi đem châu báu giá trị nhất, để ở ngã tư đường,
chẳng nhìn xem đến nó, trải qua ba ngày cũng chẳng bị ai trộm lấy đi. Do
đó, có thể chứng minh lời của tôi nói là chân thật’’. Nhưng vẫn có người
không tin, do đó Ngài đi thử nghiệm, đem châu báu để ở ngã tư đường, nơi
mà mọi người đi qua lại tấp nập. Quả nhiên ba ngày sau, cũng chẳng có ai
trộm lấy.
Do đời đời kiếp kiếp Ngài đều giữ giới trộm cắp thanh tịnh, cho nên có quả
báo như thế. Do đó, nếu bây giờ chúng ta gặp kẻ oán tặc đều phải chấp nhận,
tức là mất vật gì, chịu tổn thất gì cũng đừng buồn rầu, nên chấp nhận, đừng
có oán trời trách người.
Lúc tôi ở chùa Nam Hoa, thì từng gặp việc như vầy : Vào ngày nọ có rất
nhiều kẻ trộm đến cướp chùa Nam Hoa. Bọn chúng đập cửa rất mạnh muốn
tiến vào, nhưng tôi chẳng mở cửa. Bọn cướp phá cửa tung vào, ai nấy đều
cầm thương vây chung quanh tôi, có người còn muốn đánh tôi. Song, lúc đó
tôi chẳng cảm thấy sợ hãi gì cả, rất tự nhiên nói với bọn chúng rằng : ‘’Tại
sao anh muốn đánh tôi ?’’
- Anh ta nói : ‘’Vì ông chẳng mở cửa’’
- Tôi nói : ‘’Nếu anh là tôi, tôi là anh, thì anh có mở cửa không ? Tại sao ?
Vì anh đến đây muốn trộm đồ của tôi, chẳng phải đến tặng đồ cho tôi.’’
- Tôi nói như thế thì anh ta nói : ‘’Hãy mau đem tiền ra !’’
- Lúc đó tôi mặc chiếc y rách có nhiều chỗ vá víu, tôi nói : ‘’Anh nhìn xem,
tôi mặc chiếc y này, có giống như người có tiền chăng ?’’
- Anh ta nhìn rồi hỏi : ‘’Vậy ai có tiền ?’’
- Tôi nói : ‘’Trong chùa này tôi là ông thầy, còn những người khác là đệ tử,
tôi làm ông thầy chẳng có tiền, thì làm đệ tử làm gì có tiền ? Nếu anh không
tin tôi thì có thể vào phòng của tôi xem, nếu anh thấy vật gì đáng giá, là đồ
quý, thì tùy ý anh lấy !’’ Lúc đó ở trong phòng của tôi có hai bửu bối, hai
bửu bối này là hai bửu bối sống, bửu bối sống gì ? Tức là chú Sa di và vị
pháp sư. Hai vị này nghe thấy bọn cướp đến, lúc gõ cửa thì họ đã cuống lên,
thậm chí chẳng đi được nữa, bò dưới đất, bò vào chỗ tôi nói : ‘’Thầy ơi !
Bây giờ biết làm sao ? Tôi sợ quá !’’ Tôi nói : ‘’Không sao, các vị hãy đi
vào trong phòng của tôi, chun xuống giường cây của tôi để trốn.’’ Bây giờ
tôi lại kêu bọn cướp vào phòng của tôi, xem muốn lấy gì thì lấy. Lúc này hai
vị này run lên lập cập, cuối cùng bọn cướp cũng chẳng vào. Lúc đó, có vị
pháp sư thấy tôi và bọn cướp nói chuyện tựa như là bạn bè, cũng từ trong
phòng chạy ra.
Khi ông ta xuất hiện, thì bọn cướp lập tức dùng thương vây ông ta lại muốn
đánh, ông ta sợ quá bèn khóc lên, giống như trẻ con. Lúc đó, trong tâm tôi
cảm thấy buồn bã bèn nói : ‘’Ông ta cũng chẳng có tiền, các ông muốn tiền
thì nói với tôi.’’ Song bọn cướp chẳng đếm xỉa gì đến tôi, mà hướng về ông
ta muốn tiền, ông ta nói : ‘’Vào trong phòng của tôi lấy.’’ Bèn dẫn bọn cướp
vào lấy hơn hai trăm đồng, đó là tiền mà ông ta dành dụm mấy năm nay, bèn
để cho bọn cướp lấy đi. Sang ngày thứ hai ông ta nói với đồ đệ rằng : ‘’Chùa
Nam Hoa có hơn hai trăm người, mà chỉ có vị Pháp sư này chẳng sợ hãi.’’
- Tôi mới nói với họ rằng : ‘’Chẳng phải chỉ mình tôi, mà trong chùa có bốn
vị Hòa Thượng chẳng sợ hãi.’’ Thứ nhất là ai ? Là Lục Tổ Huệ Năng, ngồi
tại đó như như bất động, lão Tăng nhập định như thế. Thứ hai là Ðại Sư
Hám Sơn, ngồi nhập định tựa như tướng của Lão Tăng, chẳng động đậy.
Thứ ba là tổ sư Ðan Ðiền, Ngài chẳng đủ đại định lực như Lục Tổ, và đại sư
Hám Sơn, còn quay đầu lại nhìn bọn cướp. Thứ tư mới đến tôi, cho nên khi
bạn gặp oán tặc, thì cũng đừng sinh tâm sợ hãi. Kết quả bọn cướp đó cũng
chẳng đánh tôi, hoặc phóng thương. Tại sao ? Ðại khái là vì tôi niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm, ban đầu họ đối với tôi rất hung hăng, khi nhìn thấy tôi mặc y
phục rách rưới thì họ nghĩ : ‘’Ông thầy này thật đáng thương’’, tức cũng
khởi tâm từ bi chẳng gây phiền não đến tôi.
Hoặc gặp nạn khổ vua
Muốn hành hình sắp chết
Nhờ sức niệm Quan Âm
Ðao bèn gãy từng đoạn.
Luật vua chẳng nói đến nhân tình. Nếu phạm vào vương pháp, thì phải bị
chém đầu. Song, cũng có kẻ chẳng phạm pháp mà bị dẫn đi chém đầu, là vì
bị người vu cáo, cho nên luật pháp quốc gia có chỗ lợi ích, mà cũng có chỗ
hại. Chỗ lợi ích là nó trừng phạt những kẻ phạm tội, chỗ hại là chẳng phạm
pháp nhưng bị người khác vu cáo, ví như người làm chứng nói : ‘’Ông ta
làm xấu việc đó, chính mắt tôi thấy !’’ Luật sư cũng chẳng màng việc đó ra
sao, bèn xử ông ta phạm tội đem đi chém đầu, nhưng thật ra người đó chẳng
phạm pháp, luật sư chẳng có chánh nghĩa, có người rõ ràng là phạm pháp,
mà có thể biện hộ cho họ vô tội. Có người rõ ràng là vô tội, mà lại chứng
minh là có tội. Bạn nói đi tìm chân lý ở đâu trên thế gian này ? Ở trên thế
gian vốn chẳng có chân lý, chỉ có quyền thế. Vậy muốn tìm chân lý, thì phải
vào trong Phật pháp mà tìm. Cho nên, hoặc có tội, hay không có tội, bị chịu
nạn khổ vua, lúc phải bị chém đầu, mạng sống sắp chấm dứt, lúc đó e rằng
bạn đã ngất xỉu, sợ quá nên quên hết mọi việc. Song nếu bạn nhớ niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì cái đao chém đầu bạn đó, sẽ tự nhiên gãy ra từng
đoạn, đó là chứng minh cái cổ của bạn cứng hơn là kim cang, cho nên đao
mới gãy ra từng đoạn. Nhưng nếu bạn ôm lòng hoài nghi, thì đầu của bạn sẽ
rơi. Vì bạn vốn chẳng có niềm tin đối với Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên
mới muốn thử nghiệm, nên chẳng có cảm ứng. Nếu có niềm tin thì mọi việc
đều có cảm ứng.
Hoặc gông cùm bỏ tù
Tay chân bị xiềng xích
Nhờ sức niệm Quan Âm
Tự nhiên được giải thoát.
Ở tù tức là bắt giam vào ngục, chẳng được tự do. Gông, chẳng những nhốt
bạn vào ngục tù, mà còn gông cùm bạn lại, để cho bạn khỏi trốn đi. Cùm,
tức là cùm hai chân bạn lại, và còn trói tay bạn.
Lúc trước tôi đã có nói, phàm là người có gia đình, thì nên sớm giác ngộ,
đừng để cho ba điều này vây hãm như bị nhốt trong tù. Ba điều gì ? Cha mẹ
như là gông cùm cổ, con cái như là cái cần cần tay, đừng cho rằng có con cái
là đắc ý, một khi bị cần vào tay thì buông xả chẳng đặng. Có vợ thì như là
cái cùm cùm chân, cũng chẳng được tự do giải thoát.
Hôm nay tôi thế một vị đệ tử của tôi, nói chuyện này cho quý vị biết, anh ta
nói : ‘’Con có vay của chính phủ hơn hai ngàn đồng, bây giờ muốn xuất gia
mà hai ngàn đồng này không thể trả, cho nên trước hết phải đi làm công, để
trả hết số tiền này, rồi sau đó mới đi xuất gia.’’ Anh ta nói thật hay giả ? Tôi
chẳng màng đến anh ta, bất quá nói cho mọi người biết, có thể tiền trả xong
rồi, hoặc là có cái cùm cùm chân (cưới vợ) này cũng chẳng nhất định, song
tôi hy vọng chẳng bị cùm vào, có thể làm một vị sư biểu của trời người cho
nước Mỹ. Tôi đem ý này ra nói cho mọi người biết, để mọi người đều phát
tâm chú nguyện cho anh ta thành công, làm lãnh tụ tốt cho Phật giáo nước
Mỹ. Vì nước Mỹ hiện tại rất cần người xuất gia, nếu tất cả mọi người muốn
xuất gia, tôi chẳng màng trước kia họ là người như thế nào, tôi đều rất hoan
hỉ tán thán, chỉ cần sau khi xuất gia rồi, giữ giới luật quy cụ là được. Tôi tận
sức ở tại nước Mỹ này, đào tạo bậc trưởng lão, chính họ trưởng chẳng nổi, vì
chẳng có cơ sở, gốc rễ chưa đâm sâu xuống, song tôi nguyện sẽ tài bồi, Phật
giáo tại nước Mỹ, mỗi người xuất gia đều là một phần của bậc trưởng lão,
thậm chí làm tổ sư của nước Mỹ.
Khi tay chân bị gông cùm mất đi tự do, thì phải làm sao ? Chỉ cần bạn niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên sẽ được giải thoát. Trước kia ở Trung
Quốc, có một vị hòa thượng bị dân mọi rợ bắt đem đi nhốt vào trong phòng
trói cột lại. Thứ dân mọi rợ này rất dã man, chuyên môn bắt người Hán làm
thịt để ăn. Vị Hòa thượng đó, bình thường rất tin tưởng Bồ Tát Quán Thế
Âm, cho nên lúc đó Ngài cũng chẳng sợ hãi, chỉ một lòng niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm. Ngài niệm tới niệm lui, kết quả niệm đến một con cọp. Con cọp
này lại đến phòng giam ông ta, phá tan cái phòng giam, do đó ông ta tự do
chạy đi. Gặp hoàn cảnh nguy hiểm như thế, mà có thể hóa hiểm thành bình
an. Cho nên sự linh cảm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm nói chẳng hết được.
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn làm hại thân người
Nhờ sức niệm Quan Âm
Trở lại hại người đó.
Nguyền rủa ở đây là nói về sự niệm chú để trù rủa. Chú cũng có rất nhiều
loại, nhất là chú của bàng môn tả đạo, họ chỉ cần niệm bảy ngày, thì có thể
người kia sẽ chết. Chú có loại chú hại người, cũng có loại chú lợi người.
Chú bây giờ nói là chú hại người. Các thuốc độc cũng bao quát tất cả các
thuốc độc. Nếu bạn gặp sự trì chú nguyền rủa các thuốc độc, thì nên một
lòng niệm: ‘’Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm’’, tức thì lời nguyền rủa và các
thuốc độc đó, chẳng những không thể hại bạn, mà còn trở lại hại người đó.
Trước kia, có một nơi nọ tại Trung Quốc, có người chuyên môn bói toán rất
linh nghiệm. Tại sao mà họ bói toán linh nghiệm như thế? Vì bên trong của
họ có yêu quái, ma quỷ giúp đở họ. Thứ ma quỷ đó, mỗi năm chỉ cần ăn một
đồng nam và một đồng nữ. Cho nên ông thầy bói đó, mỗi năm đều trộm bắt
một cặp đồng nam và đồng nữ, để cúng tế cho ma quỷ đó. Song, năm đó ông
ta bắt người đồng nữ của gia đình nọ, thường niệm danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm. Khi cô ta bị bắt nhốt vào phòng để chờ ma quỷ đến bắt ăn, thì cô ta
ở đó luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Một lúc sau, ma quỷ
đến gian phòng đó, từ cửa sổ thấy cô ta, thì cặp mắt của ma quỷ phóng ra hai
luồng ánh sáng chiếu đến thân cô ta, song vì miệng cô ta niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, cho nên từ trong miệng của cô ta, cũng phóng ra ánh sáng. Ðột
nhiên cô ta cảm thấy có vật gì rất to lớn, từ trên phòng rớt xuống, cô ta còn
cho rằng là yêu quái muốn đến ăn thịt cô ta, cô ta sợ quá kêu lên, ngay lúc ấy
bên ngoài có lính đi tuần ban đêm nghe tiếng kêu, bèn chạy đến gần thì nghe
tiếng cô gái từ trong phòng kêu lên, bèn phá cửa xông vào, đến cửa phòng
thì thấy thi thể của con mãng xà rất lớn. Con mãng xà to lớn đó tức là Ma
hầu la già.
Kết qủa người bói toán đó, bị cảnh sát bắt đi tra hỏi: "Tại sao ông lại bắt cô
gái này đến đây"?
- Ông ta mới nói : "Tôi có một vị tiên giúp đỡ tôi bói toán cho mọi người, vị
tiên này mỗi năm phải ăn thịt một cặp đồng nam đồng nữ, đã mấy năm qua
tôi đều cúng cho vị tiên đó, cho nên vị tiên đó giúp đỡ tôi bói toán rất linh,
kiếm được rất nhiều tiền". Nói xong cảnh sát bắt ông ta giam vào ngục. Ông
ta bói toán rất linh, song chẳng bói toán được cho mình, kết quả bị luật pháp
trừng phạt chém đầu thị chúng. Câu chuyện như thế, tức là thật sự chứng
minh "Nguyền rủa các thuốc độc, muốn làm hại thân người, nhờ sức niệm
Quán Âm, trở lại hại người đó". Cho nên hại người tức là hại mình.
Câu "Trở lại hại người đó", đương thời ông Tô Ðông Pha từng sửa thành câu
"Hai nhà đều vô hại". Ý của ông ta cho rằng, người trù ẻo và người bị trù ẻo
đều bình an vô sự. Kỳ thật là sai lầm. Tại sao? Trong Phật giáo có nói về
giới sát sinh, phóng sinh, song nếu không trừ khử kẻ ác, thì họ sẽ hại kẻ
lương thiện. Tuy họ trù ẻo dùng thuốc độc muốn hại người, kết quả khiến
cho họ vô sự, đó chẳng phải là cổ lệ chăng? Họ hại chẳng được người này,
lại muốn hại người khác, mà nếu người đó không niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì sẽ bị hại chết. Người hay niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đương
nhiên họ hại chẳng được, nhưng nhiều người chẳng biết niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, cho nên "Hai nhà đều vô sự" là không đúng, "Trở lại hại người đó"
là không sai lầm, khiến cho người ác chịu khổ, họ thọ quả báu là đáng, như
thế về sau, họ chẳng dám hại người nữa.
Hoặc gặp la sát dữ
Rồng độc các loài quỷ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thời chúng chẳng dám hại.
Hoặc là bạn đến rừng núi hoang dã, đi qua nơi chẳng có người ở, gặp quỷ la
sát dữ, loài quỷ này rất hung ác, chúng chuyên môn ăn thịt người. Còn có
rồng độc cũng hại người, chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong hồ,
trong sông, trong kênh, phàm có ai đi qua chỗ cuả chúng, thì chúng phun khí
độc, có thể độc chết người. Có loại rồng độc to lớn, có thể dùng hơi hút luôn
cả người lẫn thuyền vào trong bụng, rất là lợi hại. Còn có rất nhiều loài quỷ.
Quỷ chẳng phải chỉ có một loại, có quỷ giàu, quỷ nghèo. "Quỷ giàu" như
thần thổ địa, thành hoàng, tuy chúng đều là quỷ nhưng đều làm thủ lãnh của
quỷ, làm quỷ vương, đây gọi là "quỷ giàu". "Quỷ nghèo", chẳng có tiền,
hoặc có rất ít, còn có loài quỷ chẳng có gì cả, vậy nói rằng quỷ vẫn dùng tiền
chăng? quỷ vốn chẳng cần tiền, nhưng vì nguyên nhân tập quán ác, cho nên
loài quỷ giàu cũng tham ô, quỷ nghèo cũng tựa như người, suốt ngày đến tối
đều muốn kiếm chút ít tiền. Tuy nhiên bất tất phải dùng tiền, nhưng vì chúng
chấp trước thành tính, biến thành một thứ mê, cho nên ham thích tiền. Chúng
dùng tiền bằng giấy, tại Trung Quốc mọi người thường đốt tiền giấy cho loài
quỷ.
Nếu bạn gặp những loài quỷ la sát, rồng độc, hoặc các quỷ thần, mà bạn
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chúng tự nhiên sẽ bỏ chạy. Vì sao? Vì khi
bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trong miệng sẽ phóng quang, hết thảy tất
cả loài quỷ đều sợ quang (ánh sáng), sẽ không gây thương hại bạn.
Nếu thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Chúng vội bỏ chạy đi.
Thú dữ như lang, sói, hổ, báo, chúng là dã thú chuyên môn ăn thịt người.
Núi rừng ở Mỹ chẳng có cọp, ở Trung Quốc, Ấn Ðộ cọp rất nhiều. Lúc còn
nhỏ, có một lần tôi chạy vào trong núi, đi năm sáu ngày cũng chẳng thấy
người, bèn gặp các thú dữ. Song, rất kỳ quái, cũng chẳng biết tại sao chúng
chẳng ăn thịt tôi. Răng nanh của thú dữ sắc bén như dao, cũng cứng như
thép. Khi bạn gặp những thú dữ bao vây, thì bạn hãy mau niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, chúng chẳng những chẳng dám làm hại bạn, mà ngược lại vội vàng
bỏ chạy. Tại sao phải chạy? Vì Bồ Tát Quán Thế Âm có sự linh cảm như
thế, khiến cho chúng nhìn bạn, thì tự nhiên sẽ sinh tâm sợ hãi, cho nên bỏ
chạy xa lìa bạn.
Rắng độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Nhờ sức niệm Quán Âm
Nghe tiếng bỏ chạy đi.
Rắn độc đa số là màu đen. Bò cạp, nếu người nào bị nó cắn, thì lập tức trúng
độc mà chết đi, đều là có "Khí độc khói lửa đốt", những thứ độc này rất lợi
hại, thậm chí khiến cho người bỏ mạng. Tuy độc hại như thế, nếu bạn niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng nghe bạn niệm : "Nam Mô Ðại Bi Quán Thế
Âm Bồ Tát", thì chúng sẽ ẩn tàng, chạy về chỗ của chúng ở, chẳng dám tác
quái nữa.
Mây sấm sét điện chớp
Tuôn mưa đá mưa rào
Nhờ sức niệm Quán Âm
Liền được trời quang tạnh.
Trên trời thường có mây, sấm sét, điện chớp, hoặc tuôn mưa đá, các thứ tai
nạn. Có khi mưa đá, cục đá lớn gần bằng quả trứng gà, hoặc có cục đá lớn
nặng mấy mươi gam, thậm chí xuống trúng trâu bò, thì trâu bò sẽ chết. Nếu
rớt xuống trúng người, thì chẳng cần nói càng làm cho người chết. Hoặc
tuôn mưa rào, nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chẳng bao lâu những
hiện tượng đó sẽ ngừng, chẳng còn nữa.
Chúng sinh bị khốn cùng
Vô lượng khổ bức bách
Nhờ diệu trí Quán Âm
Hay cứu khổ thế gian.
Chúng sinh tức là chúng duyên hòa hợp mà sinh, hơn nữa chúng sinh có
trăm ngàn vạn thứ loài khác nhau, nên gọi là chúng sinh. Cũng có thể giải
thích nói "chúng sinh" tức là sinh ra quá nhiều. Theo chữ chúng của Trung
Quốc (众), ở trên là chữ tứ, (四bốn), ở dưới là ba chữ người (人), ba người
tụ lại một chỗ nên gọi là "chúng". Ở trong các loài chúng sinh, phiền não
nhất là loài gì? Tức là loài người : Lại phải mặc áo, lại phải ăn cơm, lại phải
làm việc, vô số việc phiền não, song có đủ trí tuệ nhất vẫn là loài người, còn
các loài chúng sinh kia, tuy chẳng có nhiều phiền não, song chúng cũng ngu
si nhất, trí huệ chẳng như người, cho nên phải chịu người sai khiến, chi phối.
Do đó, có câu: "Con người linh nhất của vạn vật", con người thông minh
nhất trong vạn vật, song thông minh nhất có khi cũng làm việc ngu si nhất,
tức là chính mình gây phiền não cho chính mình, chính mình vật lộn với
chính mình, tức là khi bị khốn cùng, thì có vô lượng sự khổ, như chẳng có
cơm ăn là khổ, chẳng có quần áo mặc là khổ, chẳng có nhà ở là khổ, đủ thứ
sự khổ. Suốt ngày vì quần áo, cơm ăn, nhà ở, một đời bận rộn vì kiếm cơm
ăn, thậm chí đi trộm cắp để duy trì mạng sống của mình. Tại sao phải duy trì
mạng sống như thế? Là vì sự khổ bức bách, kết quả càng chiêu lại vô lượng
sự khổ bức bách thân. Bồ Tát Quán Thế Âm có sức trí huệ vi diệu không thể
nghĩ bàn, hay cứu hộ hết thảy sự khổ ở thế gian, cho nên chúng ta làm
người, bất cứ có việc gì không được như ý, không nên ưu sầu khổ não. Bạn
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tất cả mọi vấn đề đều từ từ sẽ giải quyết, chỉ
cần bạn có tâm thành đối với Ngài, thì Bồ Tát sẽ đến trợ giúp bạn.
Ðầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Chẳng cõi nào không hiện.
"Ðầy đủ" là chẳng thiếu. "Sức thần thông" là gì? Thần thông có sáu thứ.
Thứ nhất là thiên nhãn thông. Thiên nhãn có thể nhìnu thấy động tác của chư
thiên ở cõi trời Ðao Lợi, đều nhìn thấy rõ ràng.
Thứ hai là thiên nhĩ thông, nghe được mọi thứ tiếng của người nhân gian, và
chư thiên ở trên trời trong mười phương thế giới.
Thứ ba là tha tâm thông, trong tâm người khác nghĩ gì cũng đều biết hết.
Thứ tư là túc mạng thông, tức nhân quả quá khứ đều biết rõ.
Thứ năm là thần túc thông, còn gọi lày thần cảnh thông, tức có thể bay đi
biến hóa tự tại.
Thứ sáu là lậu tận thông, thần thông này khó đắc được nhất. Tất cả quỷ thần
đều có năm thứ thần thông ở trên, chỉ lậu tận thông là không có.
Bồ Tát Quán Thế Âm đều đầy đủ sáu thứ thần thông, cho nên gọi là đầy đủ
sức thần thông. "Rộng tu trí phương tiện", do chữ "rộng" nên biết rằng Ngài
chẳng những chỉ tu trì một pháp môn, mà còn tu đủ thứ các pháp môn.
Giống như chúng ta bây giờ, chẳng phải chỉ có nghe kinh, mà cũng học Phật
pháp, lại phải học Chú Lăng Nghiêm, Chú Ðại Bi, còn phải lạy đại bi sám
.v.v... phải học tập tinh thần rộng tu trí phương tiện, của Ngài Quán Thế Âm
khi Ngài còn tu hành ở tại nhân điạ.
Trong các cõi nước trong mười phương, chẳng có một nước nào mà Bồ Tát
Quán Thế Âm chẳng đến, nơi nào Ngài cũng đến, cho nên Bồ Tát Quán Thế
Âm đều có duyên với chúng ta tất cả chúng sinh. Chỉ cần ai niệm danh hiệu
của Ngài, thì Ngài sẽ bảo hộ người đó. Còn nếu chẳng niệm danh hiệu của
Ngài, thì đương nhiên Ngài chẳng đếm xỉa tới. Lý do gì? Vì bạn chẳng quan
hệ gì với Ngài. Cho đến danh hiệu của Ngài cũng chẳng biết, cũng chẳng
niệm, Ngài bèn nói: "Họ chẳng muốn làm bạn với mình, mình cũng chẳng
hơi đâu mà lo chuyện của họ". Nếu bạn muốn làm bạn với Ngài, thì phải
niệm "Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm" cho nhiều. Một khi bạn niệm danh
hiệu của Ngài, thì Ngài nói: "Ta lại có thêm một người bạn, tốt lắm, nếu
người bạn mới này có chuyện gì, thì ta phải giúp đỡ họ".
Có người muốn biết làm thế nào để đắc được "thiên nhãn thông"? Có nhiều
phương pháp, nếu bạn chuyên tâm niệm Chú Lăng Nghiêm, cũng sẽ đắc
được thiên nhãn thông, hoặc học Chú Ðại Bi, và bốn mươi hai tay và mắt
của Chú Ðại Bi, cũng sẽ được thiên nhãn, hoặc chẳng ngủ để học Phật pháp,
cũng sẽ đắc được thiên nhãn thông, bất quá phương pháp này rất nguy hiểm,
tôi chẳng muốn họ y chiếu học pháp môn này, taị sao? Chắc các bạn còn nhớ
tôn giả A Na Luật ở trong Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả chuyên môn ngủ, về
sau bị Phật quở, từ đó tôn giả tinh tấn dụng công, chẳng ngủ nữa, trải qua
bảy ngày, mắt của tôn giả bị mù. Phật thương xót tôn giả, bèn dạy Ngài tu
tam muội kim cang chiếu minh, kết quả Ngài đắc được thiên nhãn đệ nhất.
A Na Luật là tiếng Phạn, dịch là "không nghèo". Nguyên lai được tên này
như thế nào ? Trong vô lượng kiếp về trước, Ngài là người mới phát tâm bồ
đề, tuy chưa làm Phật giáo đồ, nhưng đã hiểu rõ đạo lý bố thí, lúc đó Ngài
chỉ là người nông phu làm ruộng, đời sống nghèo nàn khốn khổ. Trong núi
gần nhà của Ngài, có một vị Tỳ Kheo già ở tu, đã chứng được quả Bích Chi
Phật. Vị Tỳ Kheo già đó, mỗi bảy ngày mới xuống núi để đi khất thực một
lần, mỗi lần chỉ khất thực bảy nhà, tuyệt đối không khất thực nhiều nhà, nếu
bảy nhà đều bố thí, thì mới đủ ăn bảy ngày. Nếu một nhà không bố thí, thì
một ngày không có gì ăn.
Một lần nọ, người nhà mang cơm đến cho người nông phu đó vào buổi trưa,
vốn để cho người nông phu làm rồi thì ăn, song thấy vị Tỳ Kheo già nghèo
xuống núi hóa duyên, mà cũng chẳng được vật gì, người nông phu sinh tâm
bố thí nghĩ : Hôm nay ta không ăn cơm, để đem phần cơm này dâng cho vị
Tỳ Kheo già đó đã chứng quả Bích Chi Phật. Vị Tỳ Kheo nhận phần cơm
xong, rất đặc biết hoan hỉ và khen ngợi nói : ''Như thị, như thị ! Ngươi rất
thành tâm cúng dường, công đức này thật là không thể nghĩ bàn''. Sau đó đi
trở về núi.
Sau đó, người nông dân nhìn thấy con thỏ chạy đến chỗ ông ta, đột nhiên
trèo lên lưng của ông ta, và dính trên thân của ông ta, làm thế nào cũng
chẳng rớt xuống. Ông ta lập tức trở về nhà để tìm cách lấy con thỏ xuống.
Nhìn rõ ràng thì vốn là con thỏ bằng vàng. Ông ta chặt một cái chân con thỏ
đi đổi tiền, trở về nhìn thì cái chân bị chặt lại mọc ra như cũ, cho nên từ đó
ông ta giàu có lên. Từ đó về sau, đời đời kiếp kiếp đều giàu có, vĩnh viễn
chẳng nghèo thiếu. Do ông ta cúng dường bữa cơm cho vị Bích Chi Phật,
với tấm lòng thành mà được quả báo như thế, đời đời kiếp kiếp đều "không
nghèo", đó là nguồn gốc tên của Ngài A Na Luật.
Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương có nói : "Cúng dường cho một trăm
người ác, chẳng bằng cúng cho một người thiện. Cúng dường cho một ngàn
người thiện, chẳng bằng cúng cho một người cư sĩ giữ gìn năm giới. Cúng
dường cho một vạn người cư sĩ giữ năm giới, chẳng bằng cúng cho một vị
Sa Di giữ mười giới. Cúng dường cho mười vạn vị Sa Di, chẳng bằng cúng
cho một Tỳ Kheo. Cúng dường cho một trăm vạn vị Tỳ Kheo, cũng chẳng
bằng cúng cho một vị chứng sơ quả Tu Ðà Hoàn. Cúng dường một ngàn vạn
vị Tu Ðà Hoàn, chẳng bằng cúng cho một vị chứng nhị quả Tư Ðà Hàm.
Cúng dường cho một vạn vạn vị Tư Ðà Hàm, chẳng bằng cúng cho một vị
chứng quả A Na Hàm. Cúng dường trăm ngàn vạn vạn vị A Na Hàm, chẳng
bằng cúng dường cho một vị chứng tứ quả A La Hán. Song, bạn lại cúng
dường vô số chẳng cách chi đếm được số vị A La Hán, cũng chẳng bằng
cúng dường một vị 'vô tu vô chứng'. Vô tu vô chứng là gì ? Tức là Phật, tức
cũng là chẳng bằng cúng dường cho một vị Phật. Nhưng cúng dường Hằng
hà sa số chư Phật vẫn không bằng cúng dường cho một vị vô niệm. Vô trụ,
vô tu, vô chứng".
Hôm nay, nói về tôn giả A Na Luật cúng dường một vị Bích Chi Phật, mà
đời đời kiếp kiếp không nghèo và còn rất giàu có, không làm thái tử con vua,
thì cũng làm con trong gia đình giàu có. Cho nên chúng ta muốn đời đời
kiếp kiếp đều không nghèo, thì phải cúng dường Tam Bảo, thì tương lai sẽ
có cơ hội giàu có. Song, khi bạn giàu có, thì lại có vấn đề. Vấn đề gì ? đó là :
"Bần cùng bố thí khó,
Giàu sang học đạo khó".
Tôn giả A Na Luật làm sao mà được giàu có ? Vì Ngài nghèo khổ mà biết bố
thí, hy sinh bữa cơm trưa của mình, đem cúng dường Tam Bảo, do một niệm
chân tâm mà được vô lượng phước báu. Người nghèo chính họ đã không no,
mà còn đem đi bố thí, thì chẳng còn gì để ăn, cho nên nói "bố thí khó". Còn
giàu có thì sao? thì "học đạo khó". Những người giàu có, bạn kêu họ đến học
Phật pháp, thì họ chẳng chịu đến. Ðây là hai điều khó trong hai mươi điều.
Ðủ thứ các đường ác
Ðịa ngục quỷ súc sinh
Khổ sinh già bệnh chết
Dần dần đều dứt hết.
Các đường ác, tức là tất cả những nơi không lành. Ðủ thứ là biểu thị nhiều
thứ, chẳng riêng gì một đường ác, mà có rất nhiều. Tổng cộng lại thì có bốn:
A tu la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục, đây là bốn đường ác. A tu la ở trước đã
giải thích rõ ràng, chúng rất thích đấu tranh, phàm loài chúng sinh nào thích
đấu tranh, đều thuộc về A tu la. Ðịa ngục tạo ra như thế nào? là do nghiệp
chướng của mỗi người chúng ta hình thành. Bạn tạo nghiệp ác gì thì có địa
ngục đó. Ðịa ngục lại phân ra rất nhiều loại, trong kinh Ðiạ Tạng có nói:
"Ðiạ ngục lớn có mười tám, ngoài ra có năm trăm địa ngục nhỏ, và còn có
trăm ngàn vô lượng vô biên điạ ngục khác". Ðịa ngục có phải giống như
ngục tù ở nhân gian chăng? Do người xây nhà tù kiên cố, để có ai phạm tội
thì nhốt vào tù chăng? Chẳng phải, điạ ngục là do nghiệp ác của mỗi người
tạo ra mà hiện ra. Bạn tạo nghiệp ác giết người, thì có điạ ngục giết người
hiện ra; tạo tội ác phóng lửa, thì có địa ngục phóng lửa hiện ra; tạo nghiệp gì
thì có điạ ngục đó, cho nên loại địa ngục cũng chẳng nhất định. Khi nào bạn
trả hết nghiệp, thì điạ ngục chẳng còn nữa, nếu nghiệp chẳng hết thì điạ ngục
vẫn tồn tại.
Lúc tôi còn ở đông bắc bên Trung Quốc, thì có "Ông họ Lưu tay heo", ông ta
có thể nhớ được việc nhân quả ba đời: Ban đầu ông ta là người con có hiếu,
đối xử rất tốt với cha mẹ, về sau thì đầu thai vào trong gia đình giàu có. Cha
của ông ta bốn mươi tuổi mới sinh ông ra, khi ông ta mươì ba tuổi thì cưới
vợ, cô vợ lớn hơn ông ta một hai tuổi. Cha của ông ta tuy đã hơn năm mươi
tuổi, mà dâm dục vẫn chưa dứt, lại hỏi thêm một bà vợ bé, bà vợ bé này với
cô dâu tuổi xấp xỉ nhau. Ông Lưu có vợ chưa đến một hai năm thì sinh con,
và con của ông ta lớn lên được mười ba tuổi, thì ông ta lại hỏi vợ cho người
con. Vợ của người con cũng lớn hơn người con của ông ta vài tuổi. Trong
thời gian đó, cha mẹ của ông đều đã qua đời, chỉ còn lại bà vợ bé của người
cha.
Ông ta thấy bà vợ bé của người cha xinh đẽp, thì coi như là vợ của mình, và
lúc đó đứa con của ông ta lại chết, ông ta thấy cô vợ của con mình tướng
mạo cũng đẹp. Do đó, cô vợ của người con cũng làm vợ của mình. Lúc đó
ông ta chỉ mới khoảng hai mươi tám tuổi. Khi ông ta được bốn mươi tuổi, thì
mới bắt đầu giác ngộ, tự nghĩ rằng: "Ôi ta một đời tạo quá nhiều nghiệp ác,
lấy mẹ của mình làm vợ, lấy con dâu cuả mình làm vợ, tội nghiệp này chẳng
ít". Do đó, ông ta bắt đầu tu, chuyên trì Kinh Kim Cang.
Tụng Kinh Kim Cang hơn mười năm, ông ta vào khoảng hơn năm mươi tuổi
thì chết. Chết rồi đến trước vua Diêm Vương. Vua Diêm Vương là ông vua
quản lý tất cả lũ quỷ trong địa ngục, rất là lợi hại, mặt mày đen sì, chẳng
đếm xỉa gì đến nhân tình, ông ta bị vua Diêm Vương hỏi : ‘’Tại sao ông cứ
tạo những nghiệp ác ? Bây giờ sẽ bỏ ông vào địa ngục chảo dầu sôi, dùng
chảo dầu để chiên ông.’’ Do đó, kêu hai con quỷ đến bắt ông ta bỏ vào chảo
dầu sôi.
Lúc đó, bên cạnh có ông quan tòa nói : ‘’Không thể được.’’ Vua Diêm
vương hỏi : ‘’Tại sao không được?’’ Quan tòa đáp : ‘’Vì ông ta đọc tụng
Kinh Kim Cang, trước hết phải xả Kinh Kim Cang ở trong bụng của ông ta
ra hết, rồi sau đó mới dùng chảo dầu sôi chiên.’’
Do đó, lại kêu ông ta đầu thai làm người, ông ta đầu thai vào một gia đình
nghèo khổ, cha mẹ bán đồ điểm tâm. Ðứa trẻ này từ nhỏ rất tham ăn, nên
bụng trương lên quá to mà chết, chết rồi cha mẹ của anh ta cùng nói rằng:
‘’Tại sao bụng của nó lại to như thế ? Ðáo để trong bụng có vật gì thế ?
Chúng ta hãy mỗ bụng nó ra xem thử’’. Bèn mỗ bụng ra, thì có một vật rất
cứng chắc tựa như đá kim cương, lũ quỷ bèn nói : ‘’Ê ! Bây giờ có thể kêu
ông ta vào cạnh chảo dầu sôi là vừa.’’ Bèn mang ông ta đến gặp vua Diêm
Vương nói : ‘’Bây giờ có thể kêu ông ta đầu thai làm heo.’’ Ông ta lại đầu
thai làm heo, bị người nuôi heo cho ăn mập mạp rồi làm thịt. Sau đó lại trở
về địa ngục để bỏ vào chảo dầu sôi, thì ông ta nói với vua Diêm Vương:
‘’Ông bất tất phải bỏ tôi vào chảo dầu sôi, hãy cho tôi đầu thai đến nhân gian
làm người, ông chừa cho tôi một tay heo để làm chứng minh, tôi sẽ khuyên
người đời đừng tạo tội nghiệp.’’ Vua Diêm Vương nói : ‘’Như thế cũng
tốt.’’ Do đó, để cho ông ta đầu thai làm người họ Lưu. Vì ông ta có dấu tích
heo, cho nên mọi người kêu ông ta là ‘’ông Lưu tay heo.’’ Người đó tôi đã
gặp qua, và còn nói chuyện rất nhiều với ông ta, cho nên mới biết ông ta nhớ
việc của mình rất rõ ràng. Ðây tức là do nhân duyên tạo thành đường ác. Ðịa
ngục là nơi rất nguy hiẻm, hy vọng mọi người đừng tạo nghiệp ác, bằng
không thì quả báo khổ khó tránh khỏi.
Còn có một vị pháp sư tại Hợp Nhĩ Tân, một lần nọ, ông ta mắc một chứng
bịnh trầm kha, cảm thấy mình chết đi, chết rồi thần thức hướng về phía ngã
tư đường chạy, chạy đến cách chùa chẳng bao xa thì đi đầu thai. Ðầu thai
làm gì? Làm heo. Nhìn thấy mình biến thành thân heo, nhưng chẳng chịu bú
sữa nên bị chết đói, chết đói rồi thần thức của ông ta lại trở lại nơi thân của
vị pháp sư đó, bèn tỉnh dậy nói: ‘’Ôi , tôi vừa mới đi đầu thai làm heo!’’
- Người bên cạnh hỏi ông ta rằng: ‘’Ông đến đâu đầu thai làm heo?’’
- Ông ta nói: ‘’Bây giờ bệnh của tôi đã khỏi, tôi sẽ dẫn anh tới nơi đó xem,
nơi đó vừa mới sinh bảy con heo con, tôi là một trong số đó, cố ý không bú
sữa nên mới chết.’’ Bèn dẫn anh ta và các vị pháp sư khác, cùng đi đến chỗ
đó, quả nhiên có gia đình nọ có con heo vừa sinh bảy con heo con, đã chết đi
một con.
Ðó là chính vị pháp sư đó đã trải qua, và tôi cũng đã gặp ông ta. Do đó có
thể thấy, được sinh làm người chẳng phải dễ, chúng ta được thân người rất
khó. Do đó có câu:
‘’Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe
Thiện tri thức khó gặp’’.
Bạn thử tính xem, tại nước Mỹ này có bao nhiêu triệu người, song có bao
nhiêu người được nghe Phật pháp? ‘’Thiện tri thức khó gặp’’: Bạn muốn gặp
một vị thiện tri thức chân chánh hiểu Phật pháp, một vị thầy tốt cũng chẳng
dễ dàng. Có những người làm sư phụ, mà ngay cả chính mình cũng chẳng
hiểu đạo lý, họ giảng đạo lý cũng giảng chẳng đúng.
Ngạ quỷ cũng do nghiệp lực sở cảm, mới bị quả báu làm ngạ quỷ. Về ngạ
quỷ tôi đã từng giải thích rất nhiều lần. Bụng của chúng to như trống, cổ
họng nhỏ như kim, những vật mà chúng ta ăn, khi vào trong miệng chúng,
thì cũng biến thành lửa. Cảnh giới mỗi loài mỗi khác, chư thiên nhìn thấy
nước là lưu ly, chúng ta nhìn thấy nước là nước, cá nhìn thấy nước là nhà
của chúng, là cung điện của chúng, quỷ nhìn thấy nước là lửa. Ðó đều là
nghiệp lực cảm nên, cho nê sự thấy cũng khác nhau. Súc sinh, tôi vừa mới
nói vị pháp sư đó đầu thai làm heo, còn có người đầu thai làm gà, bò, ngựa
.v.v... đó đều là do người làm thành. Những người nào chẳng hiếu thuận với
cha mẹ, chẳng cung kính sư trưởng, thì những người đó tương lai đều có
quan hệ với súc sinh. Và người nào thích ăn thịt, thì cũng rất nguy hiểm,
cũng có mối quan hệ như trên. ‘’Ðủ thứ các đường ác’’ tức cũng là bao quát
bốn đường ác.
Khổ sinh già bệnh chết, nhân sinh có ba thứ khổ, tức là khổ khổ, hoại khổ và
hành khổ. Khổ khổ tức là khổ trong sự khổ, như người nghèo khốn khổ, tức
chẳng có tiền, lại chẳng có cơm ăn, lại chẳng có nhà ở, muốn tìm việc làm
lại tìm chẳng được, thật là khổ trong sự khổ. Khổ trong sự khổ này, khiến
cho con người không thể chịu đựng được.
Vậy người có tiền thì chẳng khổ chăng? Khổ của người có tiền lại càng lớn,
có người nói: ‘’Pháp sư thầy nói đạo lý này tôi chẳng tin’’. Bạn không tin tôi
cũng nói như thế, bạn tin tôi cũng nói như thế. Tại sao? Bạn thấy tiền nhiều,
thì suốt ngày đến tối đều nghĩ rằng:’’Số tiền này bỏ vào ngân hàng nào? Số
tiền kia tôi phải đem đi làm ăn, còn số tiền nọ phải .v.v...’’ Ðếm tới đếm lui,
đếm tới đầu bạc, răng rụng, mắt hoa, tai điết, lúc đó vẫn chưa đếm xong.
Chưa đếm xong thì bạn nói sẽ thế nào? Có vấn đề xảy đến, vì quá nhiều tiền,
suốt ngày đến tối cứ lo đếm tiền, đếm tới đếm lui, bị kẻ trộm biết, tối đến
phá cửa xông vào, ăn cắp hết mang đi, đây gọi là hoại khổ. Thứ khổ này, so
với khổ bần cùng thì lợi hại hơn, vì khổ người nghèo là khổ tập quán, chẳng
cảm thấy khổ như thế nào. Song, người giàu có đột nhiên mất mát đi, thứ
khổ này mới là khó chịu đựng. Nhất là người già, chẳng có tiền, tất cả mọi
sự đều bất như ý, đây gọi là hoại khổ.
Nói như thế thì, người không giàu cũng không nghèo thì chẳng khổ? Vẫn
khổ. Khổ gì? Tức là hành khổ, do từ nhỏ lớn lên rồi già nua, già rồi chết đi,
niệm niệm thay đổi, niệm niệm không ngừng. Tức nhiên chẳng có khổ về
bần cùng, chẳng có khổ về giàu sang, mà có hành khổ. Ba thứ khổ này chẳng
có ai tránh khỏi.
Lại có tám thứ khổ. Ba thứ khổ đã không ít, lại còn thêm tám thứ khổ. Kỳ
thật là thế nào? Tám thứ khổ vẫn chưa nhiều. Sự khổ chẳng phải chỉ có tám,
mà là có hàng ngàn hàng vạn vô lượng sự khổ. Khổ nhất là làm người, làm
súc sinh còn sung sướng hơn làm người nhiều. Làm gì thì không khổ? Làm
Phật thì chẳng khổ. Tại sao nói làm súc sinh thì sung sướng hơn làm người?
Súc sinh thì chẳng lo về cái ăn, cái mặc, chỗ ở, chúng có điều kiện sinh hoạt
thiên nhiên, chẳng lo lắng, bạn nói có phải chăng? Chỉ có làm người là khổ
nhiều nhất. Bây giờ bất tất giảng tám vạn bốn ngàn thứ khổ, cho đến vô
lượng thứ khổ, chỉ nói về tám thứ khổ, đó là: Khổ về sinh, già, bệnh, chết,
thương yêu mà phải xa lìa, ghét mà gặp nhau, cầu mong chẳng được, năm
ấm thiếu đốt. Trong tám thứ khổ này, bạn nói thứ khổ nào khổ nhất? Ðó là
khổ về sinh, nếu chẳng có sinh, thì chẳng có các thứ khổ kia.
Có người hỏi: ‘’Khổ về sinh là khổ như thé nào?’’ Tôi biết bạn chẳng còn
nhớ, đã quên mất khổ về sinh. Do đó, bây giờ tôi nói cho bạn biết: ‘’Sự sinh
này là do tinh cha huyết mẹ kết hợp thành, lại do thân trung ấm đến đầu thai
mà có. Bào thai ở trong bụng mẹ vào tuần lễ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư,
đều chẳng có cảm giác. Nếu lúc đó bà mẹ ăn đồ ăn lạnh, thì bạn cảm thấy
như ở trong núi băng, cảm giác rất khó chịu, nếu bà mẹ ăn đồ ăn nóng, thì
cảm giác như ở trong hầm lửa, nóng vô cùng. Ở trong bụng mẹ thì có những
sự khổ như thế. Và nếu bà mẹ khom lưng, thì thai nhi cảm giác như bị núi đè
rất khó chịu vô cùng. Ðến lúc sinh ra thì mới là khổ nhất, đang lúc sinh thì
giống như hai quả núi đè lên, cho nên khi đứa bé chào đời thì khóc oà lên,
kỳ thật tiếng khóc là do khổ mà ra, cho nên mới kêu: ‘’Khổ quá, khổ quá,
khổ quá’’!
Khi sinh ra thì thống khổ như rùa sống lột mai, song một khi lớn lên thì quên
hết sư thống khổ đó, sau khi trưởng thành rồi bất tri bất giác thì già đi. Sự
khổ của cảnh già nua cũng rất lợi hại. Tuổi già thì tai cũng điếc, họ mắng thì
bạn cũng chẳng nghe. Mắt cũng mờ, nhìn vật gì cũng chẳng rõ ràng. Trước
hết là lỗ tai và con mắt chẳng giúp đỡ bạn, tuy nhiên lưỡi chẳng rụng, nhưng
răng thì rụng. Trước kia tôi gặp cụ già tám chín mươi tuổi, tôi hỏi ông ta:
Ông đã gặp người nào rụng lưỡi chăng? Tại sao răng của ông đều rụng hết?
- Ông ta nói: Không, còn ông đã thấy chưa?
- Tôi nói: Tôi lại càng chẳng thấy qua, ông là người tuổi tác đã cao, mà còn
chưa thấy người nào rụng lưỡi, tôi còn trẻ làm sao có thể gặp chuyện lạ như
thế?
- Tôi lại hỏi ông ta: ‘’Ông có biết vì sao lưỡi chẳng rụng không? Trên thế
gian chẳng có ai rụng lưỡi mà chỉ rụng răng.’’
- Ông ta nói: Ðạo lý gì?
- Tôi nói: Vì răng quá cứng, cho nên rụng, còn lưỡi quá mềm, cho nên chẳng
rụng.
Răng rụng có gì khổ? Răng rụng ăn gì cũng chẳng biết mùi vị, nhai chẳng
nát cắn chẳng đứt, chỉ nuốt vào bụng lại khó tiêu hóa, bạn nói có khổ chăng?
Lúc đó mặt mày nhăn nhó, do đó có câu: ‘’Da gà tóc bạc’’, da thịt rất là sù sì
nhăn nhó, đầu tóc thì bạc phơ. ‘’Tóc trắng’’ này ở nước Mỹ mà nói, thì
chẳng phải là người già, vì người tây phương còn nhỏ khi mới sinh ra, thì tóc
đã màu trắng, đó chẳng phải là trắng bạc của người già, mà khi còn rất rẻ
cũng có tóc trắng. Tóc bạc của người già là do tóc đen mà biến thành trắng,
đen có thể biến thành trắng, trắng thì không thể biến thành đen, song có lúc
cũng có thể. Lúc tôi ở tại Hồng Kông, thì tóc của tôi hoàn toàn bạc hết, vì tôi
làm chùa, làm quá sức, suy nghĩ nhiều, nên đầu tóc bạc phơ. Về sau mọi việc
gì cũng đều buông xả hết, nên tóc đen trở lại. Cho nên việc gì cũng chẳng có
nhất định, bây giờ đầu tóc của tôi chỉ có chút tóc bạc.
Sự khổ về già cũng chẳng dễ gì chịu đụng, nếu bạn không tin thì hãy thử
xem, đợi đến khi bạn già thì sẽ biết, bạn đừng ngại sống đến bảy, tám mươi
tuổi, hoặc tám, chín mươi tuổi, thậm chí một trăm tuổi, thì lúc đó ăn vật gì
cũng chẳng biết mùi vị, lúc đó bạn nghĩ lại: Trước kia có vị thầy nói về sự
khổ của tuổi già, mà mình chẳng tin, bây giờ mình mới biết là thật không
sai. Lúc bấy giờ bạn mới nghĩ đến việc tu đạo, thì đã quá muộn chẳng còn
kịp nữa. Bình đẳng nhất là ‘’khổ về bệnh’’. Bất cứ ai cũng đều có khổ về
bệnh, chẳng có bệnh nặng thì có bệnh nhẹ. Ðau đầu thì đầu chẳng yên vui,
đau chân thì chân chẳng yên ổn, thân đau thì thân chẳng khỏe. Bệnh có rất
nhiều thứ, như có bệnh dạ dày, thì ăn vật gì cũng chẳng thoải mái, nếu bệnh
phổi tì ho không ngừng. Tóm lại, ngũ tạng (tim, gan, tỳ, phổi, thận) này mà
có bệnh thì khổ.
Còn có sự khổ nhất, đó là khổ về ‘’chết’’. Có người nói: ‘’Khổ về chết? Tôi
chẳng biết mùi vị ra sao? Tôi muốn biết trước.’’ Vậy thì bạn hãy thử xem,
chết trước một lần, song chẳng có ai bảo đảm bạn sẽ sống lại, cho nên đừng
nên thử. Chết thì dễ lắm, chết rồi sẽ đi về đâu? Ðây là vấn đề rất quan trọng.
Chết rồi sẽ đọa vào địa ngục? Hay là súc sinh? Hoặc tái sinh làm người?
Vấn đề này chẳng có ai bảo đảm.
Sinh, già, bệnh, chết, đều là khổ. Tại sao Ðức Phật phải đi xuất gia? Cũng vì
cảm thấy sinh, già, bệnh, chết chẳng dễ gì chịu được. Khi Ngài mười chín
tuổi thì, một ngày nọ đi du ngoạn, đi đến cửa hướng đông thì thấy một người
phụ nữ đang sinh đứa bé, bèn hỏi người tùy tùng rằng: Ðó là việc gì?
- Người tùy tùng đáp: Ðó là đang sinh đứa bé.
Thái tử thấy đứa bé đó lớn tiếng khóc la, mà người phụ nữ đó cũng đau khổ
vô cùng, do đó tâm chẳng vui, bèn trở về hoàng cung.
Ngày thứ ba lại đến cửa hướng tây, thì thấy một người bệnh, do đó chẳng
còn hứng thú đi nữa, bèn trở về. Ngày thứ tư đến cửa hướng bắc đi du
ngoạn, thì thấy một người chết, Ngài lại hỏi tùy tùng: Ðó là việc gì? - Tùy
tùng đáp: Người đó đã chết!’’
Ngài lại cảm thấy rất buồn rầu, thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết, ai cũng phải
trải qua, thật là khổ, chẳng có ý nghĩa gì, bèn trở về hoàng cung.
Chính lúc đó lại xuất hiện một vị Sa môn, tức là người xuất gia. Thái tử lại
hỏi: Người đó làm gì thế?
- Tùy tùng mới đến hỏi vị Sa môn: Ông làm gì vậy? - Vị Sa môn nói: Tôi là
người xuất gia, tu Phật đạo, mới có thể lìa khỏi sự khổ sinh, già, bệnh, chết.
Thái tử nghe được sự tu đạo sẽ chấm dứt sinh tử, thì rất phấn khởi lại hỏi vị
Sa môn: Tôi cũng có thể y theo ông tu đạo có được chăng?
- Vị Sa môn trả lời: Ai tu cũng được, bất cứ ai cũng có thể xa lìa sự khổ về
sinh già bệnh chết.
Sau khi Thái tử trở lại hoàng cung, thì nửa đêm cùng với Xa Nặc vượt thành
xuất gia tu hành. Ðức Phật vì cảm thấy sinh già bệnh chết chẳng có ý nghĩa
gì, cũng chẳng biết sinh từ đâu đến ? Cũng chẳng biết chết rồi sẽ đi về đâu.
Cho nên bèn phát tâm xuất gia, đến núi Tuyết tu khổ hạnh sáu năm, vì muốn
tránh khỏi sự khổ sinh già bệnh chết. Ai cũng đều có sinh, nhưng chẳng có ai
tránh khỏi sự chết, mọi người tương lai đều phải chết, có người chết an lành,
có người chết chẳng an lành, có đủ thứ sự chết khác nhau. Có người chết vì
bệnh, có người chết vì đói, có người làm việc nhiều quá lao lực mà chết, có
người chết vì tai nạn, có người bị đá trên núi lăn xuống đè chết, hoặc có
người đánh lộn bị người đánh chết, hoặc chết ngoài chiến trường, hoặc bị
thuốc độc mà chết, hoặc có người tự tử, hoặc có người chẳng muốn chết mà
chết, có người muốn chết lại không chết, cho nên sự chết có đủ thứ sự khác
nhau.
Tuy là chết khác nhau, nhưng quả báo tương lai cũng khác nhau. Ví như
những người chết oan, tức là bị xe cán chết, hoặc bị nước ngập chết, hoặc bị
lửa thiêu chết, ở trong sự vô ý phát sinh tai nạn mà chết đi, thì những người
này thuộc về chết oan. Hồn quỷ của họ vua Diêm Vương chẳng quản, quỷ
cũng chẳng quản. Vậy lúc đó họ rất tự do chăng ? Tuy nói là tự do, song là
con quỷ tự do, chứ chẳng phải người tự do. Người tự do thì có khi cũng
chẳng giữ quy cụ, hà huống là quỷ. Quỷ tự do cũng chẳng giữ quy cụ. Người
chết oan thì muốn bắt quỷ khác thay thế họ. Ví như nơi nào đó trên đường
lộ, từng xảy ra tai nạn chết người, thì nơi đó cứ mỗi năm, hoặc trong vòng ba
năm, lại xảy ra tai nạn chết người nữa. Nguyên nhân gì ? Vì hồn oan quỷ ở
tại nơi đó đợi, nhất định phải làm cho người khác chết để họ đi đầu thai,
bằng không thì họ vĩnh viễn ở đó không thể đi đầu thai.
Nếu người tự tử uống thuốc độc chết, đến địa ngục chịu hình phạt rất là
thống khổ. Hình phạt gì ? Lúc còn sống uống thuốc độ mà chết, thì ở trong
địa ngục phải uống nước cốt sắt nóng, vào trong bụng thì ngũ tạng bên trong
đều bị thiêu đốt, chết đi rồi lại có gió xảo phong trong địa ngục thổi thì lại
sống dậy. Sống dậy rồi lại uống nước cốt sắt nóng, sau đó bị chết di, chết rồi
lại bị gió xảo phong thổi, lại sống dậy, cứ như thế một ngày đêm đều chịu
hình phạt như thế, rất khó mà chịu đựng.
Song, nếu bạn có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì dần dần sinh già bệnh
chết, đủ thứ sự thống khổ đều chẳng còn nữa.
Ðây là nói về bốn thứ khổ về thương mà xa lìa. Thương yêu ai ai cũng biết,
thương yêu cũng có thể nói là ham muốn. Có người ham sắc, có ngườì thích
danh, có người ham tài, cũng có người thích lợi. Ví như có người giàu có,
tính toàn chuyện làm ăn lớn để kiếm tiền song làm ăn thất bại lỗ vốn, mất
tiền. Ðây là người và lợi xa lìa, vốn chẳng muốn xa lìa khỏi tiền bạc, nhưng
tiền chẳng còn nửa, đây cũng là khổ về ái biệt ly. Sắc tức là vấn đề nam nữ,
người nam thương người nữ, người nữ thương người nam, hai bên thương
yêu với nhau, song vì nhân quả kiếp trước gieo trồng chẳng tốt, cho nên sự
thương yêu này chẳng được lâu dài, vào dịp nào đó hai bên sẽ chia ly. Khi
chia ly, nếu chẳng có thương yêu chân chánh thì cũng không sao; còn nếu
một bên chấp trước vào ái tình, thì sẽ rất đau khổ. Ðây là ái biệt ly khổ về
thương yêu sắc đẹp. Còn có ái biệt ly khổ về danh. Danh sao lại có biệt ly ?
Có người nói như vầy : ‘’Danh dự là sinh mạng thứ hai của con người vậy.’’
Cho rằng có danh tốt, tức là sinh mạng thứ hai của mình, song sinh mạng thứ
hai này bị hủy hoại, thì biến thành danh dự quét đất.
Bổn lai chẳng muốn mất danh dự, song chẳng có cách nào hơn, vì nhất thời
làm việc sai lầm, khiến cho danh dự mất đi, đây cũng là một thứ khổ ái biệt
ly về danh. Khổ ái biệt ly rất nhiều. Ví như vợ chồng chẳng phân ly, nhưng
sinh ra đứa con xinh đẹp dễ thương lại thông minh, quý trọng đứa con như
châu báu, song đột nhiên đứa con đó qua đời, lúc đó họ rất đau đớn buồn rầu
không ngui, đó cũng là ái biệt ly khổ. Hoặc có người rất có hiếu với cha mẹ,
rất cung kính thương yêu, vốn chẳng muốn cha mẹ lìa khỏi mình, song
chẳng may cha mẹ qua đời, đó cũng là ái biệt ly khổ.
Tức nhiên biết khổ về ái biệt ly, nhưng đừng chấp trước về ái, đừng đặc
nặng sự thương yêu về một người, mà hãy thương yêu bình đẳng đối với tất
cả chúng sinh, hành Bồ Tát đạo để độ tất cả chúng sinh, đừng nghĩ tưởng
riêng mình, hãy nghĩ tưởng vì chúng sinh, được như thế thì chẳng có khổ về
ái biệt ly.
Sự khổ về ái biệt ly này, có người càng chấp trước về ái tình, chẳng có khổ
mà tự mình đi tìm khổ. Giống như có những chàng thanh niên vừa kết hôn
rồi, suốt ngày đến tối cứ buồn rầu. Buồn về chuyện gì ? Sợ vợ của y đi tìm
bạn trai khác bên ngoài, đó chẳng phải không có khổ mà đi tìm khổ chăng ?
Cũng có những người phụ nữ kết hôn rồi, nhưng người chồng quá đẹp trai,
nên suốt ngày cứ buồn bã sợ chồng của cô ta có bạn gái khác, thậm chí nghĩ
đến thì không thể ăn cơm. Bạn nói đó có phải là quá ngu si chăng ? Còn
những người chẳng thương người mà thương chó, lại có người thương mèo,
coi chó mèo như mạng sống của mình, cho đến đối với tất cả súc sinh hoặc
vật chất đều sinh tâm thương yêu. Khi sinh tâm thương yêu thì cũng rất xảo
diệu, thương chó mà chó chết đi, thương mèo mà mèo cũng mất đi, họ cũng
đau đớn khóc lóc, đó cũng là ái biệt ly khổ. Tóm lại, đối với bất cứ sự vật gì
mà bạn nhìn chẳng thấu, buông xả chẳng đặng, và khi có sự phân ly, khiến
cho bạn chẳng được sở nguyện như ý, thì cảm thấy rất thống khổ, đó đều gọi
là khổ về ái biệt ly.
Có người nói : ‘’Chỉ thương yêu mà có nhiều sự khổ như thế, thì tôi chẳng
thương yêu nữa, về sau tôi bắt đầu ghét.’’ Ghét tức là không thương, có sự
chán ghét, có tâm oán hận, đối với sự vật gì cũng đều chẳng thương yêu, đó
là sai lầm. Vậy nói thương yêu là có khổ, còn nếu không thương yêu ? Cũng
có khổ như nhau, tức là có khổ về ‘’Ghét mà gặp nhau.’’ Trong trường hợp
nào đó, bạn đều cảm thấy rất chán ghét, rất hận những người khác và cũng
chẳng có duyên với bất cứ ai, cảm thấy người nào cũng đều không tốt, cho
nên ai tôi cũng đều chẳng hoan hỉ. Bạn chẳng thương người, cũng chẳng
thương chó, càng chẳng thương mèo, gì cũng đều chẳng thuận mắt, thấy vật
gì cũng đều nổi giận. Do đó, dọn nhà đi đến chỗ khác ở, không ngờ về chỗ
đó rồi, lại gặp những người và vật như ở trên, thậm chí còn tệ hơn hoàn cảnh
ban đầu.
Những sự tình mà bạn chẳng muốn thấy, càng thấy càng chán ghét, thì
những sự tình đó lại càng đến. Rất kỳ lạ, rất kỳ lạ ! Bạn sợ thấy mèo, mà
suốt ngày đều có mèo chạy đến chỗ bạn, đánh nói cũng chẳng chạy. Ghét
chó, vừa mới thương đó, bây giờ lại ghét, bạn càng ghét nó, thì nó càng gần
gũi bạn. Bạn ghét phụ nữ, mà người phụ nữ đó suốt ngày cứ đến tìm bạn.
Bạn chẳng vui vẻ lại muốn dọn nhà, đến nơi khác lại có những người và
hoàn cảnh như thế, còn tệ hơn lúc trước, chẳng có ngày nào vui vẻ thoải mái.
Bạn nói đó có khổ chăng ?
Sự khổ này từ đâu đến ? Vốn từ trong tự tánh của bạn chiêu cảm đến, vì tự
tánh của bạn thiếu định lực. Bạn ở nơi đó chẳng có hòa khí với những người
lân cận, thì dọn đến chỗ khác cũng chẳng hòa khí, đó chẳng phải là người ta
đối với bạn không tốt, mà là chính bạn đối với người không tốt. Vì mình
cảm thấy chẳng có duyên với bất cứ ai, cho nên người khác đối với bạn cũng
chẳng có duyên. Vậy cảm thấy tốt cũng là khổ, cảm thấy không tốt vẫn là
khổ, thì làm cách nào ? Phải hợp với trung đạo, đối với bất cứ việc gì cũng
đừng thái quá, thái quá thì cũng như bất cấp. Sự khổ về ghét mà gặp nhau
này kỳ quái như thế. Bạn càng không thích điều gì, thì điều đó lại đến; bạn
chẳng muốn gặp người uống rượu, mà người đó suốt ngày ở bên cạnh bạn.
Chẳng thích người hút thuốc, mà người hút thuốc cứ đến nhà bạn. Chẳng
thích người đánh bạc, mà người đánh bạc mỗi ngày cứ đến tìm bạn. Tại sao
? Vì bạn có sự oán ghét, cho nên tụ lại một chỗ là khổ. Sự khổ về oán ghét
gặp nhau, và ái biệt ly, đều là vì mình không minh bạch chân chánh về trung
đạo, bị lệch về một bên, lệch về một bên nên mới có khổ. Nếu giữ trung đạo
thì chẳng có khổ.
Tin rằng chẳng có ai nhàm chán oán ghét ‘’tiền bạc’’, song nếu bạn càng
ghét tiền, càng ham nó, thì nó càng không đến. Ham thích mà nó chẳng đến,
tức là ‘’khổ về cầu chẳng được’’.
Vừa mới nói ái là khổ, ghét cũng khổ, trong ái có sở cầu, có sở cầu mà cầu
chẳng được. Có người suốt đời muốn cầu phát tài, song lao lực khổ nhọc, từ
khi biết làm ăn cho đến già, đều muốn phát tài, nhưng đến khi chết cũng
chẳng phát tài, vẫn nghèo sơ nghèo xát, đó là khổ về cầu chẳng được. Có
người cảm thấy làm quan là tốt, do đó bằng mọi cách cầu làm quan, song
cầu suốt đời cuối cùng cũng chẳng được, đó cũng là khổ về cầu chẳng được.
Có người suốt đời cầu danh, song một đời cũng cầu chẳng được. Có người
chẳng có con, thì muốn sinh người con thông minh, xinh đẹp, song cầu tới
cầu lui, cũng cầu chẳng được, đó cũng là khổ về cầu chẳng được. Suốt cuộc
đời không cầu cái này thì cầu cái kia, song chẳng cầu được cái gì cả. Những
người đi học thì mong làm bác sĩ, song quá khứ chẳng tài bồi căn lành học
vấn, nên học đến già mắt chẳng còn thấy, tai chẳng còn nghe được nữa, học
suốt đời cũng chẳng đậu được bác sĩ. Ở Trung Quốc có người tên là Lương
Hạo, học đến tám mươi hai tuổi mới đỗ trạng nguyên, song được trạng
nguyên rồi chẳng bao lâu thì chết, tuy cầu được, nhưng chưa hưởng thụ thì
chết mất, đó cũng là khổ. Cầu cái này chẳng được, cầu cái kia không thành,
tóm lại những gì bạn tham cầu mà chẳng được, đó đều là khổ.
Lại có khổ về năm ấm, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ở trong Tâm Kinh
có nói : ‘’Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không,
không tức là sắc.’’ Nếu bạn nhìn nó đều là không, thì chẳng có khổ. Năm ấm
này thiêu đốt rất là hừng hẫy, là khổ nhất, song ai ai cũng chẳng lìa được
năm ấm này. Bảy thứ khổ ở trên vừa nói là thuộc về cầu khổ; còn sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, này có đủ ở trong tự tánh, luôn luôn đều bên cạnh bạn,
muốn lìa cũng lìa chẳng được, đây gọi là khổ về năm ấm thiêu đốt.
Quán chân quán thanh tịnh
Quán trí huệ rộng lớn
Quán bi và quán từ
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
‘’Quán chân quán thanh tịnh’’: ‘’Quán chân’’ là gì ? Tức là quán chân
không. Chân không tức là chẳng có tướng người, tướng ta, tướng chúng
sinh, tướng thọ mạng, đó gọi là quán chân không. Tuy là chẳng có tướng ta,
chẳng có tướng người, chẳng có tướng chúng sinh, chẳng có tướng thọ
mạng, nhưng cũng chẳng lìa khỏi tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh,
tướng thọ mạng. Do đó, ‘’vô tướng’’ chứ chẳng phải lìa khỏi ta, người,
chúng sinh, thọ mạng, mới không có tướng, mà là ở tại tướng ta, tướng
người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, chẳng có tướng ta, tướng người,
tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, đây gọi là tại tướng mà lìa tướng, tức
cũng như lúc trước tôi thường nói:
‘’Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có,
Tai nghe việc đời tâm chẳng hay.’’
Minh bạch có hình có sắc, mà tại sao bên trong chẳng có ? Là vì chẳng chấp
trước. Ðây là quán không, cũng giống như đại viên cảnh trí.
Trong đại viên cảnh trí, tuy nhiên có vật tất hiện, có tướng tất ứng, có cảnh
giới gì, thì hiện cảnh giới đó, song nó chẳng lưu lại dấu vết. Quán chân
không của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng tức là như vậy.
Quán thanh tịnh : Thanh tịnh là đối với nhiễm ô mà nói. Nhiễm ô là gì ? Có
sự chấp trước tức là mhiễn ô, có sự ái trước cũng là nhiễm ô, có sự tham
trước cũng là nhiễm ô. Thanh tịnh là chẳng có mọi sự tham, sân, si, nếu có
tham sân si thì chẳng thanh tịnh. Ví như sự bố thí, một số người bố thí
thường phạm tư tưởng như vầy : ‘’Người này có chút quan hệ với tôi, anh ta
là bạn thân của tôi, hoặc là ở gần tôi, tôi phải bố thí cho anh ta, giúp đỡ anh
ta.’’ Ða số trước khi bố thí, đều so sánh người xa gần, có quan hệ, sau đó
mới bố thí cho người xa. Ðó là đã có tâm phân biệt xa gần thân sơ, có tâm
chấp trước tướng, thì không thể vô tướng bình đẳng bố thí, đó cũng gọi là
quán bất thanh tịnh.
Bố thí pháp của Bồ Tát Quán Thế Âm, là Ngài chẳng phân biệt ta người,
chẳng phân biệt kẻ thân người lạ, chẳng phân biệt xa gần, chỉ vì bố thí mà bố
thí. Bố thí gồm có bố thí tiền tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Bố thí tài lại có
bố thí nội tài, và bố thí ngoại tài. Ngoại tài là vật ngoài thân, nội tài là vật
trong thân. Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo thì có tài thí, tài thí này hướng bên
ngoài thí xả đất nước, vợ con, đem tất cả đất nước bố thí cho người khác,
đem vợ của mình và con cái của mình, đều bố thí cho chúng sinh, đó mới là
thật bố thí, thật xả bỏ, mới đến tất cả ruộng đất, nhà cửa, sự nghiệp, đều bố
thí cho người có đạo đức, đây gọi là bố thí ngoại tài.
Bố thí nội tài : Tức là đem đàu, mắt, tủy, não, tính mạng của mình bố thí hết.
Trong tâm thường nghĩ : ‘’Nếu có thể đem thân này để cứu tất cả chúng sinh
trên thế giới, thì tôi sẽ đem thân thể này bố thí cống hiến cho thế giới. Cho
đến quả tim của tôi cũng bố thí cho người, sinh mạng cũng bố thí cho người.
Nếu như có người cần cái đầu của tôi, thì tôi chặt cái đầu này xuống để dâng
cho họ.’’
Như Ngài Xa Lợi Phất khi thực hành Bồ Tát đạo, thì có người xin Ngài một
con mắt, Ngài Xá Lợi Phất bèn móc một con mắt ra bố thí cho anh ta, song
anh ta nói : ’’Ông lầm rồi, tôi chẳng muốn con mắt này, mà tôi muốn con
mắt kia.’’ Do đó, Ngài Xá Lợi Phất thối bồ đề tâm. Ngài nghĩ : ‘’Bồ Tát đạo
rất khó thực hành.’’ Ngài chỉ xả bỏ một nửa nội tài, còn nửa kia xả chẳng
được. Nhưng Bồ Tát thì nghĩ như vầy: ‘’Nếu có thể lấy não và cốt tủy của
tôi làm thành thuốc để cứu người, thì tôi cũng nguyện bố thí.’’ Ðây gọi là bố
thí nội tài. Phàm là những gì thuộc về thân thể, trí huệ, tinh thần, đó đều gọi
là nội tài.
Còn có bố thí pháp, tức là thuyết pháp giáo hóa chúng sinh. Sự bố thí này
lớn hơn hết, do đó:
‘’Trong các sự bố thí,
Bố thí pháp là hơn hết.’’
Bố thí pháp là quan trọng nhất. Cho nên hiện tại chúng ta ở tại Phật Giáo
Giảng Ðường này, tuy giảng đường chẳng lớn, nhưng pháp lực cũng không
nhỏ. Ngày thứ năm do Quả Ðịa giảng, ngày thứ sáu do Quả Phổ giảng, ngày
thứ bảy do Quả Toàn giảng, ngày chủ nhật thì bắt đầu giảng Phẩm Phổ Môn.
Phật Giáo Giảng Ðường này, hằng ngày đều bận rộn, vì pháp mà quên mình,
vì Phật pháp mà quên đi thân tâm tính mạng, chẳng lo cho sức khỏe của
mình. Mỗi ngày ai cũng đều làm việc, tôi là pháp sư cũng làm việc như
nhau, tất cả mọi việc tôi đều làm. Mấy ngày nay thân thể hơi đau, tối hôm
qua tôi cũng lười một chút, chẳng đến vì làm việc quá mệt nhọc khổ cực,
song tôi làm khổ cực, lười một chút cũng không sao, vì tôi đã học tập nhiều
năm rồi, nên tôi lười biếng một chút tình còn có thể tha thứ. Song, các vị là
đệ tử thì không thể lười biếng, bất cứ ai giảng kinh cũng đều phải đến nghe.
Nghe pháp tức là biểu hiện hộ trì đạo tràng. Mọi người đến đông thì pháp
hội càng lớn, nếu chẳng có ai đến thì pháp hội càng nhỏ. Do đó, muốn ủng
hộ Phật Giáo Giảng Ðường thì đến nghe giảng kinh.
Trong số các vị có hộ giáo sử, bố giáo sĩ, tuyên giáo sư. Tuyên giáo sư tức
giảng kinh thuyết pháp, bố giáo sĩ là phải đến các nơi truyền bá cho Phật
giáo rộng lớn. Hộ giáo sử tức là tận tâm ủng hộ đạo tràng, khiến cho đạo
tràng ngày càng phát triển, ngày càng phát dương quang đại. Hộ trì đạo tràng
tức là hộ trì Phật giáo, hộ trì Phật giáo tức cũng là hộ trì Phật Pháp Tăng
Tam Bảo. Ðó là trách nhiệm củ mỗi quý vị. Người tây phương đối với Phật
pháp xưa kia, có thể nói là kiến giải tựa như trẻ con, vốn chẳng hiểu Phật
pháp, giống như có những người Mỹ tự xưng là trưởng giả, bậc pháp sư, bây
giờ các vị đều đã biết. Khi hỏi họ Phật giáo là gì, thì họ chẳng biết Phật giáo
là gì ? Bây giờ các bạn đã nghe Kinh Lăng Nghiêm ba tháng rồi, có thể nói
rằng sự hiểu biết về Phật pháp của quý vị chẳng ít. Hiện tại giảng đến bố thí
pháp tức là đem sự hiểu biết về Phật pháp của các bạn, giới thiệu đến với tất
cả chúng sinh, phải đi tuyên truyền đến với mỗi người. Vì hoằng dương Phật
pháp, có thể quên ăn cơm cũng chẳng cảm thấy đói, quên ngủ cũng chẳng
cảm thấy mệt.
Tôi biết quá khứ tôi đã đi tuyên dương Phật pháp, nên đã có sự việc người
nào muốn học Phật pháp, thì dù tôi không ăn cơm, không ngủ, cũng vì họ
giảng giải. Giảng giải cho họ minh bạch rồi, thì trách nhiệm của tôi mới
xong. Tôi hy vọng các bạn cũng y chiếu theo tôi như thế, làm hóa thân của
tôi đi hoằng dương Phật pháp, đi bố thí pháp. Bố thí pháp so với bạn xả bỏ
bao nhiêu tiền vẫn có giá trị hơn. Hiện tại các bạn tích cực học tập Phật
pháp, có mấy người muốn xuất gia, đó thật là việc hiếm có. Ở nước Mỹ có
thể nói là phá kỷ lục.
Nhiều người như thế muốn xuất gia, muốn làm hòa thượng, muốn làm Tỳ
Kheo ni, đó thật là không thể nghĩ bàn. Hiện tại các bạn nên lập cơ sở và quy
cụ cho vững chắc, làm tiền đồ cho Phật giáo nước Mỹ, mỗi người đều phải
gánh lấy trách nhiệm, phải nghĩ như vầy: ‘’Tôi còn hơi thở, thì Phật giáo là
trách nhiệm của tôi.’’ Nếu người khác nói họ cũng muốn gánh một phần
trách nhiệm, như thế thì được, chứ chẳng phải nói tôi gánh trách nhiệm, thì
bạn không thể gánh trách nhiệm. Cho nên nói, trách nhiệm của Phật giáo là
ai ai cũng có phần, đừng thối thác, các bạn nên đứng vững dậy, lấy việc
hoằng dương Phật pháp làm trách nhiệm của mình, đó là điều kiện cơ bản bố
thí pháp.
Ngoài ra còn có bố thí vô úy (bố thí không sợ hãi). Bố thí vô úy như Bồ Tát
Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải trừ ba độc, ứng hai cầu, đều là một trong bố
thí vô úy. Bố thí vô úy tức là người nào đó, có sự sợ hãi kinh hoàng, khi sắp
xả bỏ tính mạng, mà bạn hiện thân vô úy, đem sự vô úy an ủi họ. Hiện thân
vô úy là gì ? Ví như có người ở trong nạn lửa, sắp bị lửa thiêu đốt, vì bị khói
mù dày đặc chẳng biết đông tây nam bắc, đã chẳng biết lối nào thoát khỏi
hầm lửa. Lúc đó bạn chẳng sợ, dấng thân vào trong lửa để cứu họ ra, đó
chẳng phải là việc dễ làm được. Ðây gọi là xả thân mạng để cứu hộ chúng
sinh, tức cũng là bố thí vô úy. Hoặc có người rớt vào trong biển, mắt trông
thấy họ sắp bị chết đuối, bạn cũng chẳng nghĩ đến tính mạng của mình, bèn
nhảy xuống biển vớt người đó lên bờ. Chẳng những nạn nước lửa, mà cho
đến trong đao, binh, pháo lửa, có người bị pháo, hoặc bị giáo thương làm tổn
thương, trong chiến trận rất nguy hiểm, mà bạn cũng chẳng màng thân tâm
tính mạng của mình, xông vào nơi nguy hiểm nhất để cứu người ra, đó gọi là
bố thí vô úy. Tóm lại, tức là lúc người ta sợ hãi, gặp cảnh giới nguy hiểm,
mà bạn có thể dùng tâm từ bi, tâm dũng cảm, phát huy tinh thần đại vô úy,
tinh thần gì cũng chẳng sợ, đi cứu hộ tất cả chúng sinh. Như Ngài Bồ Tát Trì
Ðịa, tuy Ngài chẳng phải trực tiếp tu bố thí vô úy, mà là tu gián tiếp. Tu như
thế nào ? Ngài biết người qua sông thì cần phải có cầu, không có cầu thì
không thể qua sông được, do đó Ngài bèn dùng sức của mình làm chiếc cầu
gỗ, khiến cho người khi qua sông chẳng có nguy hiểm.
Song, tuy có cầu chẳng nguy hiểm nhưng nếu gặp lúc nước lớn dâng lên, thì
cũng rất nguy hiểm. Giống như Hòa thượng Hư Vân từ Cửu Hoa Sơn đi
xuống núi, Ngài nhớ nơi đó vốn có chiếc cầu, bèn y theo như xưa đi đến nơi
đó muốn qua sông, không ngờ chiếc cầu đó sớm đã bị nước lớn làm gãy cầu,
kết quả Ngài bị rớt xuống sông, ở dưới sông trải qua một ngày một đêm, mới
được ông đánh cá kéo lưới lên. Khi kéo lưới ông ta nghĩ: ‘’Ồ ! Lần này nhất
định giàu to, trong lưới có con cá thật to.’’ Không ngờ kéo lưới lên thì nhìn
thấy vốn là một vị hòa thượng, nhưng chẳng còn hơi thở. Ở gần đó có ngôi
chùa nhỏ, ông đánh cá bèn chạy vào trong chùa kêu người xuất gia nói
:’’Hòa thượng! Hòa thượng! Hôm nay tôi kéo lưới lên, thì trong lưới có một
vị hòa thượng, hãy theo tôi đến xem.’’ Người trong chùa nghĩ: ’’Thật là kỳ
lạ, sao trong lưới đánh cá lại có vị hòa thượng ? Ðến nơi xem thì vị hòa
thượng đó chính là hòa thượng Ðức Tịnh. Bèn giúp Ngài làm cho nước trong
bụng trào ra hết, lúc đó Ngài mới sống trở lại, thật là được mạng sống lần
thứ hai.
Sau khi hòa thượng Hư Vân bị nước ngập chìm không chết, Ngài đến Chùa
Cao Mân đả thiền thất, bèn sinh bịnh nặng. Song, thầy phương trượng
Nguyệt Lãng cũng chẳng tha thứ cho Ngài, còn muốn kêu Ngài làm đại lý
phương trượng (chủ trì về khóa thiền thất). Ngài Hư Vân nghĩ : ‘’Tôi bệnh
như thế này, làm sao mà có thể làm đại lý phương trượng?’’ Do đó, Ngài Hư
Vân từ chối, kết quả bị hòa thượng Nguyệt Lãng đánh hương bản. Bạn thấy
đó, Ngài Hư Vân có thể nói là đại thiện tri thức của Trung Quốc, mà ở chùa
Cao Mân khổ chẳng biết bao nhiêu.
Bồ Tát Trì Ðịa chuyên môn làm cầu sửa đường. Lúc Ngài Hư Vân đi đến
Vân Nam, trên đường đi cũng gặp một vị hòa thượng sửa đường, suốt ngày
đến tối cầm sẻn làm đường, cũng chẳng nói chuyện, đó cũng là hóa thân của
Bồ Tát Trì Ðịa. Phàm là trên đường có ngói đá, mảnh chai, Ngài đều lượm
nhặt để một chỗ bên lề đường, khiến cho đường xá tốt lành.
Suốt ngày Ngài khổ công làm như thế, vậy ai trả tiền công cho Ngài ? Chẳng
có ai trả tiền công cho Ngài, bạn nói đó có phải là ngu si chăng ? Song vì
Ngài làm công miễn phí, nên mới tu thành Bồ Tát Trì Ðịa, chứng được cảnh
giới vị bất thối, niệm bất thối, hạnh bất thối, đó tức là tu bố thí vô úy. Pháp
môn bố thí vô úy rất là rộng lớn. Tóm lại, lúc người ta sợ hãi thì bạn hãy làm
bố thí.
Ðây là những ví dụ dễ hiểu, nếu như có người đã mấy ngày chẳng có cơm
ăn, gần chết đói, trong tâm sợ hãi hoang mang nghĩ rằng : ‘’Lần này chắc
sắp chết mất, chẳng có tiền để mua vật gì ăn, đi ăn cắp chăng ? Lại phạm
pháp !’’ Trong lúc tiến lùi đều khó khăn, nếu bạn biết được, thấy họ mặt
mày vàng vọt ốm yếu, đôi chân chẳng còn sức, đi chẳng nổi, lúc đó bạn hỏi
họ : ‘’Anh thế nào rồi ? Có phải bị bệnh chăng ?’’ Họ chắc chắn sẽ nói :
‘’Tôi đã bốn năm ngày chẳng có gì để ăn.’’ Bạn nói : ’’Ðược, để tôi về nhà
lấy đồ ăn cho anh.’’
Người chẳng có quần mặc, chịu khổ về mùa đông lạnh lẽo, thì bạn cho họ ít
đồ để họ mặc; người chẳng có nhà ở, thì bạn cho họ nhà để ở, đây gọi là bố
thí vô úy. Song một hai ngày thì có thể, chứ không thể vĩnh viễn được, ở
Trung Quốc có câu : ‘’Có thể cho một bữa chứ không thể cho trăm bữa.’’
Cho họ một bữa ăn thì có thể, nhưng nếu ngày nào cũng phải cho bạn ăn, thì
không thể được. Vì trên thế giới này, ai ai cũng đều phải đi làm công, không
nên sinh tâm ỷ lại. Nếu bạn sinh ra tư tưởng rằng : ‘’Tôi mong rằng có người
hành Bồ Tát đạo, thì tôi cũng chẳng cần làm việc, đến bữa ăn thì đến nhà có
người tin Phật nói : ’’Hôm nay tôi chẳng có cơm ăn, bạn hãy cho tôi một
chút bố thí vô úy, khiến cho tôi chẳng sợ hãi về việc chẳng có cơm ăn, chẳng
chịu khổ về đói khác.’’ Như thế thì chẳng hợp quy cụ.
Người nào gặp trường hợp bất đắc dĩ, xin người ta giúp đỡ thì được, nhưng
nếu bạn còn hơi thở, thì hãy tự cường bất tức, vì thế giới này mà đem lại
phước lợi, đừng tiêu hao vật chất của thế giới. Có nghĩa là mọi người đều trợ
giúp thế giới này, đừng ỷ lại thế giới này. Trợ giúp cho thế giới như thế nào
? Tức là phải có ích lợi cho người khác, chứ chẳng phải là để cho người khác
làm ích lợi cho mình. Nếu bạn có tâm hy vọng người khác lợi ích cho mình,
thì đó là tâm ỷ lại mà chẳng có tâm tự cường. Mọi người đều nên có tâm tự
cường bất tức, đừng ỷ lại người khác, đó là tông chỉ của tôi.
Quán thanh tịnh tức là sức quán thanh tịnh, tức là mọi phương diện bố thí,
đừng chấp trước về tướng bố thí, đó là quán thanh tịnh, mà chẳng có pháp
nhiễm ô. Bồ Tát Quán Thế Âm bố thí chẳng chấp tướng, đều lìa tất cả tướng,
cho nên thanh tịnh. Nếu chấp trước thì chẳng thanh tịnh.
‘’Quán trí huệ rộng lớn’’: Bồ Tát Quán Thế Âm có sức quán trí huệ rộng
lớn, phổ độ tất cả chúng sinh, giáo hóa chúng sinh.
‘’Quán bi và quán từ’’: Ngài còn có quán bi. Có người hiểu lầm nghĩa kinh
nói: ‘’Bồ Tát Quán Âm cũng thường thường khóc, chẳng hoan hỉ, vì Ngài bi
quan’’. Ðây là sai lầm. Bi ở đây chẳng phải là bi thương, mà nghĩa là thương
xót. Bồ Tát sinh tâm thương xót đối với tất cả chúng sinh. Tâm thương xót là
gì ? Bồ Tát luôn luôn nghĩ rằng : ‘’Người này thật đáng thương ! Tôi phải
dùng các phương pháp để giáo hóa họ, mà họ vẫn không hiểu, vẫn điên điên
đảo đảo.’’ Ngài thương xót chúng sinh như thế, nên gọi là quán bi. Vì Ngài
thương xót chúng sinh đó, cho nên Ngài phải độ chúng sinh đó. Giống như
bạn thấy đứa bé nọ rất là thiên chân hoạt bát, ai thấy cũng thương. Tại sao
được mọi người hoan hỉ ? Vì đứa bé được người thương mến.
Sự thương xót này gọi là quán bi. chứ chẳng phải là Bồ Tát Quán Thế Âm
suốt ngày đến tối chẳng hoan hỉ, thậm chí thường thường khóc lóc rơi lệ bi
ai. Nếu bạn muốn học Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đừng suốt ngày đến tối
khóc lóc sầu muộn mà phải ‘’Rộng sinh hoan hỉ chẳng sinh buồn’’. Quán bi
của Ngài như thế, chứ chẳng phải khóc lóc bi quan, do đó đừng nên hiểu
lầm.
Quán từ, từ hay ban vui, bi hay cứu khổ. Quán bi tức là giải trừ sự thống khổ
của chúng sinh. Quán từ tức là ban cho chúng sinh sự an vui. Sự ban cho
niềm vui này, chẳng phải là sự an vui tạm thời, mà là sự an vui vĩnh cữu, là
sự an vui chân chánh chứ chẳng phải là sự an vui của thế gian. Sự an vui gì ?
Tức là ban cho tất cả các pháp, khiến cho chúng sinh thật sự hiểu biết về
Phật pháp, để không còn làm chuyện điên đảo thống khổ, đây gọi là ban vui.
Việc điên đảo là gì ? Giống như người thích uống rượu, uống say sưa thì
cảm thấy mình tựa như thành thần, đi thì nghiêng qua ngã lại, họ cho rằng
như thế là tốt nhất, tri giác của họ như khúc gỗ, thậm chí gì cũng chẳng biết.
Bạn nói đó chẳng phải là điên đảo chăng ? Một người có chút thông minh,
nếu bị rượu chi phối thì chẳng có việc gì mà chẳng làm, nào là giết người,
phóng lửa.
Có một buổi sáng sớm nọ ở tại bến xe bus, có một gã say rượu xin tôi tiền để
đi mua rượu uống, vì gã chưa uống đủ. Tôi lại nghĩ ra một chuyện, cũng tại
bến xe bus, có một người da đen đi ngang qua chẳng nói gì cả, tôi cũng
chẳng quen anh ta, anh ta cũng chẳng quen tôi, không hiểu tại sao anh ta lại
quỳ xuống lạy tôi, lạy rồi cũng chẳng nói gì, đứng dậy bỏ đi. Người đó
chẳng phải đến lạy để xin tiền, ở trước mặt một đám đông lạy tôi, lạy xong
rồi đi. Cũng chẳng biết anh ta là quỷ hay là thần ? Thật là lạ kỳ, tôi thấy anh
ta chẳng phải say rượu, không biết có phải là một sự linh cảm nên anh ta lạy
tôi. Ða số quỷ thấy tôi thì lạy, và thần thấy tôi cũng lạy. Mà người đó lại
xưng là hắc quỷ cung kính lạy tôi, lạy xong cũng chẳng dám nhìn tôi, bèn bỏ
đi. Tôi nghĩ đại khái là trên thân của anh ta có quỷ.
Uống rượu là như thế, hút thuốc thì càng điên đảo hơn. Tại sao ? Bổn lai
phổi của bạn sạch sẽ, mà làm cho nó do bẩn. Có người nói : ‘’Hòa thượng,
thầy giảng sai rồi, trong phổi của tôi chẳng sạch sẽ.’’ Không sai ! Phổi của
bạn chẳng sạch sẽ. Sự không sạch sẽ này vẫn không sao. Bạn dùng khói đem
vào phổi, xông ướp phổi ngày càng đen, ngày càng nám, song bạn chẳng
thấy nên không biết. Bạn hít vào một hơi khói, thì cũng giống như tấm
gương phủ lên một lớp tro, lại hút một hơi nữa, lại phủ lên một lớp tro. Bổn
lai phổi là sạch sẽ, song bạn muốn xông ướp những lớp bụi tro, đó chẳng
phải là điên đảo chăng ?
Và còn hút nha phiến, á phiện, hút vào thì cảm thấy tinh thần lâng lâng, thậm
chí như đi trên chín tầng mây. Khi hút ghiền rồi, thì khắp thân chẳng an vui,
rất khó chịu. Cho nên tôi hy vọng những người hút thuốt hãy mau bỏ thuốc;
người uống rượi hãy mau bỏ rượu; người siêng năng thì đừng học lười
biếng. Nên làm nhiều việc thiện, làm việc thiện mới có công đức, nếu không
làm thì chẳng có công đức. Công đức là từ việc thiện mà ra, cứ làm việc
thiện thì tự nhiên sẽ có công đức, tự nhiên sẽ chẳng điên đảo nữa. Bạn không
làm công đức, còn sử dụng tiền chẳng đúng chỗ thì đó gọi là điên đảo. Nếu
bạn dùng tiền vào việc hữu dụng, thì đây chẳng phải là điên đảo, cho nên
điên đảo rất là nhiều thứ.
Bồ Tát Quán Thế Âm, hay chỉ rõ hành vi điên đảo của bạn, kêu bạn đừng
điên đảo, khiến cho bạn đắc được an vui thật sự, an vui vĩnh viễn, đây gọi là
từ; bi hay cứu khổ, chẳng phải là cứu khổ tạm thời của bạn, mà là cứu khổ
đời đời kiếp kiếp của bạn. Song, bạn phải sinh niềm tin. Bạn có niềm tin thì
Bồ Tát Quán Thế Âm mới có tâm từ bi. Nếu bạn chẳng có niềm tin, thì quán
từ và quán bi của Bồ Tát Quán Thế Âm với bạn, cũng như nước với lửa,
nước và lửa chẳng dung hợp. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi rất lớn, để đối
đãi bạn mà bạn lạnh lùng như băng chẳng hợp với Ngài.
Băng lạnh tức là chẳng có niềm tin. Nếu bạn có niềm tin, thì càng hợp với
quán từ và quán bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Hợp với nhau thì bạn sẽ lìa
khổ được vui.
Khổ là gì ? Phiền não của con người tức là khổ. Nếu bạn chẳng có phiền não
thì sẽ an vui. Tại sao bạn chẳng an vui ? Vì bạn có phiền não; chẳng có
phiền não tức là an vui. Bồ Tát Quán Thế Âm hay làm cho phiền não của
bạn tiêu trừ, khiến cho bạn đắc được an vui thật sự, đó tức là quán bi và quán
từ.
‘’Thường nguyện thường chiêm ngưỡng’’: Tôi nguyện luôn luôn chiêm
ngưỡng tướng mạo từ bi của Ngài Quán Thế Âm, càng nhìn thì càng sinh
tâm hoan hỉ, sinh tâm cung kính. Lạy đại bi sám là một sự biểu hiện cung
kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu bạn chẳng lạy đại bi sám, thì cũng giống
như người Mỹ chẳng muốn lạy đảnh lễ, cho đến một cái cúi đầu cũng chẳng
cúi, đó gọi là tin Phật gì ? Bạn tin ông Phật đó là Phật gì ? Có người nói :
‘’Tôi tin ông Phật của tôi’’. Nếu bạn tin ông Phật của bạn thì chẳng thể có.
Vì bạn chẳng tìm được ông Phật của bạn, cho nên Phật bên ngoài mà bạn
cũng chẳng biết. Nếu tin ông Phật của mình, thì không thể không lạy Phật.
Lạy là biểu thị sự cung kính nhất, đây gọi là năm thể sát đất, cũng là một thứ
lễ mạo. Bạn chẳng có lễ mạo thì làm sao nói đến tin Phật ?
Trước kia có một vị bác sĩ, khắp nơi ai cũng đều tin ông ta, xem ông ta như
sắp thành Phật. Ông ta bèn kêu họ đừng lễ Phật. Mọi người thì lễ Phật, còn
ông ta thì đứng một bên, giống như khúc gỗ. Tại sao ? Vì tướng ta quá to
lớn. Người không lạy Phật, thứ nhất là ngã mạn, cảm thấy cái ta rất lớn, còn
lớn hơn Phật thì làm sao mà lạy Phật? Vì ông ta cống cao ngã mạn nên thấy
Phật cũng chẳng lễ bái. Như thế thì làm sao mà học Phật, tin Phật ? Căn bản
ông ta chẳng hiểu gì về Phật giáo, song ông ta đi khắp nơi giảng Phật pháp
cho mọi người nghe, đó thật là hại người không ít.
Quang thanh tịnh không dơ
Huệ nhật phá các tối
Hay phục nạn gió lửa
Chiếu sáng khắp thế gian.
Bốn câu kệ này thật diệu không thể tả. Diệu không thể tả như thế nào ? Bốn
câu kệ này hay chữa bệnh mắt. Nếu mắt của người nào bệnh, mà có thể luôn
luôn niệm bốn câu kệ này, thì bệnh mắt sẽ hết. Tuy bệnh mắt hết nhưng bạn
vẫn phải sinh ra trí huệ, thì mới trị hết triệt để. Nếu chẳng sinh ra trí huệ, thì
chỉ hết tạm thời thôi, tương lai sẽ tái phát.
Ở trong quyển Quan Âm Dị Ký có ghi là hay chữa trị bệnh mắt. Vậy cứu
kính thì chữa bệnh mắt như thế nào ? Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn,
đó là nhờ sức thần thông gia bị của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tóm lại, bạn phải
tin kinh văn để ứng dụng vào bất cứ việc gì, thì đều rất linh nghiệm, có hiệu
dụng. Nếu bạn không tin thì chẳng có công hiệu. Cho nên Phật pháp như
biển cả, chỉ có niềm tin mới vào được. Pháp của Phật vô lượng vô biên như
biển cả, chẳng biết lớn cỡ nào, sâu cỡ nào. Nếu bạn có niềm tin, thì Phật sẽ
có thể tiếp dẫn bạn vào.
‘’Không nhơ quang thanh tịnh’’: Không nhơ là gì ? Nhơ la bụi bặm, cũng là
vật không sạch sẽ. Nếu bạn không có những bụi bặm không thanh tịnh, thì tự
nhiên sẽ phóng ra quang minh thanh tịnh. Quang minh thanh tịnh là đối với
bụi bặm mà nói, chẳng có bụi bặm thì sẽ có quang minh thanh tịnh; có bụi
bặm thì chẳng có quang thanh tịnh. Do đó, chẳng có bụi bặm dơ bẩn, thì sẽ
phóng ra quang minh thanh tịnh. Thế nào thì gọi là chẳng có bụi bặm ? Tức
là chẳng còn vọng tưởng. Bạn chẳng còn vọng tưởng thì chẳng có bụi bặm.
Nếu bạn khởi một vọng tưởng thì có một lớp bụi bặm, khởi ba lớp vọng
tưởng thì có ba lớp bụi bặm. Khởi vọng tưởng càng nhiều, thì bụi bặm tích
lũy càng dày. Người tham thiền nói là ‘’Minh tâm kiến tánh’’, minh tâm tức
cũng là chẳng có bụi bặm, kiến tánh tức cũng là thấy được quang minh thanh
tịnh. Bạn chẳng có bụi bặm thì mới thấy được quang minh thanh tịnh. Nếu
có bụi bặm thì chẳng thấy được quang minh thanh tịnh. Cho nên minh tâm
kiến tánh tức là thấy rõ bản tâm mình, thấy được bản tánh mình.
Bản tâm tính tức là trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: ‘’Thường trụ chân tâm,
tính tịnh minh thể’’. Thường trụ chân tâm tức là minh tâm; tính tịnh minh
thể tức là thanh tịnh minh thể, tức cũng là tính Như Lai tạng. Minh tâm kiến
tánh tức cũng là minh bạch tính Như Lai tạng của mình vốn có, đây gọi là
không nhơ.
‘’Huệ nhật phá các tối’’: Huệ nhật là trí huệ như mặt trời, chiếu phá tất cả
chỗ đen tối. Ðen tối là gì ? Ðen tối có rất nhiều, bây giờ nói đen tối ví như:
Bạn chẳng có niềm tin tức là đen tối, bạn chẳng có trí huệ tức la đen tối, bạn
chẳng có tâm nguyện cũng là đen tối, chẳng có tâm thực hành cũng là đen
tối. Và nữa bạn chẳng giữ giới luật tức là đen tối, bạn chẳng tu định lực là
đen tối, bạn chẳng tu huệ là đen tối. Bạn chẳng tu theo con đường giới định
huệ, đó là đi trên con đường đen tối. Bạn y theo giới định huệ tu hành tức là
quang minh. Cho nên ‘’Huệ nhật phá các tối’’, trí huệ mặt trời chiếu phá tất
cả sự đen tối. Bạn muốn nghe Phật pháp, đó tứ là quang minh. Trong tâm
bạn nói: ‘’Tôi nghe đã mấy ngày rồi, cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Vị
pháp sư này ở trên pháp tòa giảng đi giảng lại đều giảng về cái đó, tôi nghe
đã nhiều lần rồi, đều kêu mọi người trừ khử tham sân si, tu giới định huệ, tôi
nghe đã nhàm quá rồi’’. Bạn nghe nhàm rồi, tức là đen tối hiện tiền. Bạn
nghe chẳng nhàm, nói : ‘’Vị pháp sư này giảng càng nghe càng có ý nghĩa,
càng nghe càng có vị đạo, thậm chí tôi nghe tiếng nói và dáng cười của Pháp
sư, sau khi nghe rồi mà pháp sư vẫn ở tại lỗ tai tôi giảng kinh thuyết pháp,
suốt ngày đến tối tôi đều nghe tiếng của pháp sư đang nói pháp bên cạnh
tôi’’. Ðó tức là quang minh. Chẳng thích nghe tức là đen tối.
Giảng đến đây, tôi nhớ ra một câu chuyện : Ở tại Hồng Kông có một vị nữ
cư sĩ đến gặp tôi, sau khi gặp tôi rồi, thì khi cô ta đi đứng nằm ngồi lúc nào
cũng đều thấy tôi đang giảng kinh nói pháp ở đó, song vị nữ cư sĩ này nói
như thế nào ? Cô ta nói : ‘’Vị pháp sư Ðộ Luân này là ma ! Sao tôi luôn luôn
đều thấy ông ta ?’’ Cô ta thường thấy pháp sư thuyết pháp mà nói là ma.
Nếu cô ta thấy ma, chắc cô ta lại cho là Phật. Cho nên người đó thường thấy
tôi, mà cứ nói là thấy ma, lại chưởi mắng, lại muốn đánh, chưa đến mấy
tháng thì vị nữ cư sĩ đó bệnh ung thư chết. Bổn lai tôi muốn cứu cô ta,
nhưng cô nói tôi là ma, nên tôi cũng thương xót mà chẳng giúp được. Hôm
nay tôi nhớ đến chuyện này, cho nên cô ta thấy pháp sư mà nói là ma; nếu
thấy ma thì cô ta lại thế nào ? Do đó, có rất nhiều người thế gian đều nhận
giả làm thật. Thật mà họ cho là giả, khi giả thì họ nói là thật.
Trí huệ của Bồ Tát Quán Thế Âm như ánh sáng mặt trời, chiếu phá moị sự
đen tối. Chiếu phá những đen tối gì ? Bồ Tát Quán Thế Âm tu quán chân
không, chiếu phá đen tối thấy và nghĩ (kiến tư), chứng được đức Bát nhã.
Kiến hoặc là gì ? Tức là mê lý khởi phân biệt. Bồ Tát Quán Thế Âm tu quán
thanh tịnh, phá trừ đen tối trần sa, chứng được đức giải thoát. Bồ Tát Quán
Thế Âm tu quán trí huệ, phá trừ đen tối vô minh, chứng được đức pháp thân.
Ðây gọi là ba đức : Ðức Bát nhã, đức giải thoát, đức pháp thân. Bồ Tát Quán
Thế Âm tu ba quán (quán chân không, quán thanh tịnh, quán trí huệ), mà
chứng được ba đức, đoạn trừ đen tối kiến tư, trần sa và vô minh. Cho nên nói
huệ nhật phá các tối. Huệ ở đây tức là quán, quán tất cả huệ.
‘’Hay phục nạn gió lửa’’ : Bồ Tát Quán Thế Âm hàng phục được ba tai nạn,
đó là nạn nước, gió, lửa. Lửa thiêu hủy đến cõi sơ thiền, nước ngập đến trời
nhị thiền, gió thổi tan trời tam thiền. Tại sao trời sơ thiền bị lửa thiêu hủy ?
Vì người trời ở cõi sơ thiền, vẫn còn có lửa phiền não, cho nên lửa trong tự
tánh của họ dẫn khởi lửa ở thế gian. Lúc đó, trong hư không xuất hiện bảy
mặt trời, thiêu sạch hết tất cả động, thực vật trong đại địa, sau đó thiêu cạn
nước trong biển cả, thiêu sạch hết núi non, chẳng còn tồn tại vật gì.
Nạn lửa lớn như thế trải qua bảy lần, rồi sau đó phát sinh một lần nạn nước
lớn. Nạn nước lớn ngập đến trời nhị thiền. Tại sao ? Vì người trời ở cõi nhị
thiền vẫn còn đầy dẫy nước phiền não, do đó dẫn khởi nạn nước lớn ở thế
gian, sóng dâng lên ngập chìm hết tất cả, chẳng còn nơi đất liền nào tồn tại,
tất cả động vật và thực vật đều chẳng tồn tại.
Trải qua bảy lần nạn nước lớn rồi, thì phát sinh nạn gió lớn. Nạn gió này còn
lợi hại hơn, so với nạn lửa và nước vừa nói ở trên, chẳng những thổi sơn hà
đại địa ở thế gian nát thành bụi, mà còn thổi đến trời tam thiền, khiến cho
trời tam thiền cũng chẳng tồn tại. Có câu kệ nói rằng :
‘’Lục dục chư thiên cụ ngũ suy,
Tam thiền thiên thượng hữu phong tai,
Nhậm quân tu đáo Phi Phi Tưởng,
Bất như tây phương quy khứ lai.’’
Nghĩa là :
‘’Sáu cõi trời dục giới có năm tướng suy,
Trên trời tam thiền có nạn gió,
Cho dù tu đến trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng sinh về cõi tây phương.’’
Năm tướng suy là gì ?
1. Thứ nhất là mũ hoa trên đầu héo úa. Người trời dùng hoa làm mũ đội trên
đầu, thứ hoa này chẳng phải người trồng, mà là tự nhiên sinh ra làm mũ đội.
Ðến khi năm tướng suy hiện ra thì hoa úa phai tàn. Lúc chẳng có năm tướng
suy hiện ra, thì hoa luôn luôn tươi tốt. Khi hoa bắt đầu phai tàn, thì họ biết
tuổi thọ sắp hết.
2. Thứ hai là quần áo dơ bẩn. Quần áo của người trời mặc, chẳng giống như
quần áo thế gian, mỗi tuần phải giặt một lần, hoặc hai tuần phải giặt một lần.
Nếu chẳng giặt thì chẳng sạch. Quần áo của người trời mặc, chẳng cần phải
giặt, vì nó chẳng dơ. Song, đến khi năm tướng suy hiện, quần áo của họ dơ
bẩn, thì họ biết tuổi thọ sắp hết. Giống như người chúng ta, khi hơi thở chưa
tắt mà trên thân có chỗ đã sinh trùng. Bình thường nó chẳng sinh trùng, đến
khi hơi thở sắp chấm dứt, thì trên thân rất nhiều chỗ đều có trùng. Quần áo
của người trời dính bụi cũng là nghiệp báo chiêu cảm. Tại sao trên thế giới
của chúng ta có rất nhiều bụi bặm ? Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, vì
trong tâm của chúng ta quá nhiều vọng tưởng, cho nên bụi trên thế giới cũng
biến thành nhiều. Vọng tưởng của chúng ta như là bụi bặm, chẳng có gì khác
biệt. Do đó, tất cả bụi bặm đều do tâm vọng tưởng của chúng ta tạo thành.
Năm tướng suy của người trời hiện tiền, thì quần áo cũng có bụi bặm.
3. Thứ ba là hai nách ra mồ hôi, thân của người trời chẳng giống như thân
của chúng ta, luôn luôn ra mồ hôi, họ chẳng bao giờ có mồ hôi, song, năm
tướng suy hiện tiền thì hai nách ra mồ hôi.
4. Thứ tư là thân thể hôi hám. Thân của người trời suốt ngày đến tối, đều tỏa
ra mùi hương thơm, chẳng phải họ xoa dầu thơm, mà là tự nhiên tỏa ra mùi
thơm. Khi năm tướng suy hiện tiền, thì trên thân chẳng còn mùi thơm mà tỏa
ra mùi hôi hám.
5. Thứ nămn là chẳng thích ngồi trên tòa nữa. Người trời thật là tự tại, suốt
ngày đến tối đều thích ngồi thiền nhập định, chẳng có việc gì để làm. Khi
năm tướng suy hiện tiền, thì họ ngồi chẳng yên, ngồi một chút lại đứng lên,
đứng lên lại ngồi xuống, cứ đứng lên ngồi xuống như thế, một niệm mất đi
tri giác thì sẽ đọa lạc, người trời hết tuổi thọ.
Ðó là trời lục dục có năm tướng suy hiện, song trời sơ thiền thì có nạn lửa,
trời nhị thiền thì có nạn nước, trời tam thiền thì có nạn gió, vì người trời cõi
tam thiền có gió phiền não, cho nên tiếp xúc với luồng gió thế gian, mà dẫn
đến nạn gió. Từ khi bạn sinh về cõi trời Phi Phi Tüởng, hưởng thọ phước
trời tám vạn đại kiếp, song khi phước trời hết, thì vẫn bị đọa lạc vào nhân
gian, hoặc đọa làm ngạ quỷ, súc sinh, hoặc đọa vào địa ngục, chẳng nhất
định, cho nên rất là nguy hiểm.
Chẳng bằng tu vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, sau đó trở
lại con thuyền từ bi, giống như Bồ Tát Quán Thế Âm đến giáo hóa chúng
sinh.
‘’Chiếu sáng khắp thế gian’’: Trí huệ quang minh của Bồ Tát Quán Thế Âm
chiếu soi khắp thế giới Phàm Thánh Ðồng Cư (thế giới người phàm và
Thánh nhân ở với nhau). Nơi hiện nay chúng ta đang ở gọi là cõi Phàm
Thánh Ðồng Cư, tức là nơi phàm phu và bậc Thánh đều ở. Bồ Tát Quán Thế
Âm tu đại trí đại huệ, lại chiếu soi khắp thế giới Phương Tiện Hữu Dư, tức
là thế giới của hàng nhị thừa ở. Phương tiện tức là thiện xảo phương tiện.
Hữu dư là chỉ thế giới đó, phiền não vẫn chưa đoạn sạch, còn dư thừa. Bồ
Tát Quán Thế Âm đầy đủ đại trí huệ, lại chiếu khắp thế giới Thật Báo Trang
Nghiêm, tức là thế giới Bồ Tát ở. Thế giới của Phật ở là thế giới Thường
Tịch Quang, còn gọi là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ. Ðại trí huệ của Bồ Tát
Quán Thế Âm đều chiếu khắp cõi Thường Tịch Quang, cõi Thật Báo Trang
Nghiêm, cõi Phương Tiện Hữu Dư, cõi Phàm Thánh Ðồng Cư, cho nên nói :
‘’Chiếu sáng khắp thế gian.’’
Bi thế giới lôi chấn
Ý từ diệu mây lớn
Rưới mưa pháp cam lồ
Dập tắt lửa phiền não.
‘’Bi thế giới lôi chấn’’ : Bốn câu kệ này là khen ngợi từ bi của Bồ Tát
Quang Thế âm. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi làm pháp thể của Ngài. Từ
bi pháp thể của Ngài từ đâu sinh ra ? Là từ giữ giới mà sinh ra. Lúc ban đầu
Bồ Tát Quán Thế Âm tu đạo, thì chuyên tu giới luật mà sinh ra đại từ bi rộng
lớn, pháp thể vô duyên đại từ. Thứ pháp thể này âm thanh lớn như là tiếng
sét đánh, đánh thức tất cả chúng sinh, người điết cũng nghe được, người ngu
cũng nghe được. Cho nên câu ‘’Bi thế giới lôi chấn’’ này, là khen ngợi thân
nghiệp của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn.
‘’Ý từ diệu mây lớn’’: Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi bình đẳng, mắt từ
nhìn chúng sinh. Trong bổn kinh cũng nói : ‘’Mắt từ nhìn chúng sinh, biển
phước tụ vô lượng.’’ Bồ Tát Quán Thế Âm tu phước đức vô lượng vô biên
như biển cả. Ý niệm từ bi của Ngài bình đẳng ban vui cho chúng sinh, cảnh
giới không thể nghĩ bàn này, giống như đám mây lớn ở trong hư không.
‘’Rưới mưa pháp cam lồ’’: Rưới nghĩa là mưa xuống, mưa xuống nước pháp
cam lồ. Cam lồ là gì ? Cam lồ tức là thuốc trường sinh bất lão ở trên trời,
tuổi thọ của người trời lâu như thế, là do uống thuốc trường sinh bất lão. Có
người nói : ‘’Người trời cũng uống thuốc, khó trách người bây giờ muốn
khai ngộ cũng uống thuốc.’’ Song, thuốc trên trời là tự nhiên, là ở trên trời
vốn có, chẳng cần trải qua làm bằng tay, uống thứ thuốc bất lão này thì
chẳng già. Mây lớn vi diệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, rưới xuống mưa pháp
cam lồ, rưới xuống thuốc trường sinh bất lão, khiến cho tất cả mọi người lìa
khỏi khổ sinh già bệnh chết.
‘’Dập tắt lửa phiền não’’: Bồ Tát Quán Thế Âm dập tắt hết lửa phiền não
của con người trên thế gian, mỗi người đều có phiền não. Tại sao chẳng
thành Phật ? Vì có phiền não. Tại sao chẳng khai ngộ ? Vì có phiền não. Tại
sao bạn chẳng được giải thoát, chẳng được tự tại thật sự ? Cũng vì bạn có
phiền não. Phiền não tức cũng là chấp trước. Chấp trước tức là một tên khác
của phiền não. Bạn có sự chấp trước thì chẳng được giải thoát, có rất nhiều
phiền não. Vậy chấp trước lại từ đâu đến ? Là từ tâm ích kỷ lợi mình mà
sinh ra. Nếu bạn chẳng có tâm ích kỷ lợi mình, mà đại công vô tư, thì bạn lại
có gì để chấp trước ? Nếu bạn chẳng có tâm ích kỷ, thì chẳng có sự chấp
trước. Chẳng chấp trước thì chẳng có phiền não, chẳng phiền não thì giải
thoát, đắc được giải thoát, thì khai ngộ cũng là thành Phật. Cho nên, phiền
não của chúng ta là một vật tệ nhất. Song, mỗi người đều xả bỏ chẳng đặng
vật tệ hại này, đều muốn đi đứng nàm ngồi với phiền não, lìa chẳng khỏi, có
người nói : ‘’Tôi luôn luôn an vui, đó gọi là chẳng có phiền não.’’ Nếu bạn
thật sự đắc được an vui, thì đương nhiên chẳng có phiền não. Nếu chẳng đắc
được an vui thật sự, thì tức là miễn cưỡng dùng tâm tạo tác để làm sự an vui
này, đó chẳng phải là an vui thật sự, vì phiền não vẫn ẩn tàng ở bên trong.
Một ngày nào đó nó sẽ phát tác, giống như dùng một hòn đá lớn đè lên cỏ,
tuy cỏ chẳng lớn, nhưng tương lai lấy hòn đá ra, thì cỏ sẽ lớn lên tươi tốt.
Trong bốn hoằng thệ nguyện, thì nguyện thứ nhất là : ‘’Chúng sinh thệ
nguyện độ.’’ Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại đến thế giới này ? Là vì :
‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.’’ ‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn’’
: Bồ Tát Quán Thế Âm có phiền não chăng ? Ngài đã đoạn sạch phiền não,
song Ngài lấy phiền não của chúng sinh làm phiền não của mình. Ngài thấy
phiền não của chúng sinh chưa đoạn, nên Ngài dùng đủ thứ pháp môn giáo
hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn trừ phiền não. Phiền não thì
chẳng cùng tận, giống như sóng biển, niệm trước diệt thì niệm sau sinh ra;
niệm sau diệt rồi, thì niệm sau nữa lại sinh, liên tục không ngừng, phiền não
cũng như thế. ‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học’’: Phật pháp có vô lượng
vô biên pháp môn. Có người đọc một bộ kinh, hoặc đọc được hai bộ kinh thì
tự mãn, nói họ đã hiểu Phật pháp. Phật pháp mà họ hiểu, thật là chẳng bằng
một giọt nước trong biển cả. Giống như con kiến ra biển uống nước, uống no
nê đầy bụng rồi nói : ‘’Tôi đã uống cạn hết nước trong biển.’’ Nước ở trong
biển, nó chẳng uống được một giọt. ‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành’’: Chẳng có gì cao hơn Phật đạo, do đó mỗi người nên phát nguyện
thành Phật, không nên coi mình quá nhỏ bé, phải xem mình bổn lai là Phật.
Song, bổn lai là Phật, chứ chẳng phải hiện tại là Phật. Bổn lai ban đầu chúng
ta đều đầy đủ Phật tánh như Phật, không hai không khác. Song, hiện tai
chúng ta vì chẳng biết tu hành, cho nên chẳng có ba thân, bốn trí, năm nhãn,
sáu thông, đại bản lãnh của Phật, đó là bốn thệ nguyện lớn. Bồ Tát Quán Thế
Âm vốn chiếu theo bốn thệ nguyện lớn này, để giáo hóa chúng sinh, cho nên
rưới mưa pháp cam lồ, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được mát mẻ, chẳng
còn phiền não. Ðây gọi là ‘’Dập tắt lửa phiền não.’’
Tranh kiện nơi quan tòa
Trong trận chiến sợ hãi
Nhờ sức niệm Quan Âm
Các oán địch lui tan.
‘’Tranh kiện nơi quan tòa’’. Tranh là đấu tranh. Vào thời mạt pháp là thời
đấu tranh kiên cố. Khi Phật còn tại thế là thời đại chánh pháp, sau khi Phật
diệt độ là thời đại tượng pháp. Sau khi Phật diệt độ trải qua hai ngàn năm, là
thời đại mạt pháp. Thời đại chánh pháp là thiền định kiên cố, ai ai cũng đều
thích tham thiền, tập định, tu định lực. Thời đại chánh pháp một ngàn năm.
Từ khi Phật ra đời đến Phật diệt độ một ngàn năm gọi là thời đại chánh
pháp. Qua thời đại chánh pháp thì đến thời kỳ tượng pháp, thời kỳ này là
chùa chiền kiên cố, ai cũng hoan hỉ phấn khởi làm chùa, tạo tượng Phật, cho
nên trên thế giới có những nước có rất nhiều chùa, thời đại tượng pháp là
một ngàn năm. Qua một ngàn năm rồi, thì đến thời đại mạt pháp, pháp đến
đoạn cuối.
Thời đại mạt pháp gồm có mười ngàn năm, thời kỳ này chẳng phải thiền
định kiên cố, cũng chẳng phải chùa chiền kiên cố, mà là đấu tranh kiên cố.
Nước này với nước khác đấu tranh, nhà với nhà kia đấu tranh, người với
người đấu tranh, súc sinh với súc sinh đấu tranh, quỷ với quỷ đấu tranh,
khắp nơi đều đấu tranh. Tại sao phải đấu tranh. Vì thời đại mạt pháp, con
người chỉ biết đấu tranh. Song, trong thời kỳ mạc pháp cũng có thời đại
chánh pháp. Thời đại tượng pháp cũng có thời đại chánh pháp. Nghĩa là thời
đại mạt pháp, cũng không thể nói là không có sự tham thiền đả tọa. Giống
như hiện tại chúng ta, mỗi người đều bận rộn, hoặc sáng sớm, hoặc buổi tối,
hoặc buổi trưa, tranh thủ tu hành, tham thiền đả tọa, đây cũng là thời đại
chánh pháp, bất quá một phần ít trong thời đại mạt pháp, ít lại càng ít. Cho
nên trong thời đại mạt pháp, chúng ta vẫn giảng kinh thuyết pháp, còn có
người rất bận rộn, thậm chí chẳng ngủ, chẳng ăn để nghe kinh, đây cũng là
chánh pháp trong thời đại mạt pháp. Bây giờ, mọi người đều đề xướng làm
chùa, thành lập đạo tràng, đây cũng là việc làm của thời đại tượng pháp. Cho
nên thời đại mạt pháp cũng có thời đại tượng pháp, cũng có thời đại chánh
pháp. Thời đại tượng pháp cũng có thời đại chánh pháp, cũng có thời đại mạt
pháp. Vì thời đại tượng pháp cũng có người chẳng làm chùa, chẳng tin Phật
pháp, đó cũng giống như mạt pháp. Tại sao thời đại tượng pháp phải làm
chùa ? Làm chùa có thể khiến cho mọi người tụ lại một chỗ để dụng công tu
hành, đây cũng là thời đại chánh pháp. Trong thời đại chánh pháp cũng có
tượng pháp và mạt pháp. Thời đại chánh pháp cũng có người làm chùa,
giống như thời đại tượng pháp. Thời đại chánh pháp cũng chẳng phải ai ai
cũng học Phật pháp, có người học chút chút Phật pháp, sau đó chẳng học
nữa, thì nói chi đến nghiên cứu, đó cũng là mạt pháp ở trong thời đại chánh
pháp. Ở trong mỗi thời kỳ, đều có đủ chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp.
Hiện tại thời đại mạt pháp này là đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể duy
trì Phật pháp, khiến cho Phật pháp trụ lâu ở đời, mỗi ngày tụng trì Chú Lăng
Nghiêm đều có lợi ích rất lớn đối với thế giới. Tại sao ? Vì nếu trên thế giới
chẳng còn ai tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì thế giới này sẽ sớm hủy diệt.
Lúc đó yêu ma quỷ quái, tất cả lị mị vọng lượng đều xuất hiện. Tại sao bây
giờ chúng chẳng dám xuất hiện ? Vì trên thế giới này còn có người tụng trì
Chú Lăng Nghiêm, tu bốn mươi hai tay và mắt của Chú Ðại Bi, tu pháp môn
thiên thủ thiên nhãn, cho nên yêu ma quỷ quái chẳng dám xuất hiện hoành
hành.
Kiện tụng là đến tòa án để nói lý lẽ. Nói lý lẽ phải mời luật sư. Luật sư có
thể nói người có lý lẽ thành người chẳng có lý lẽ. Người chẳng có lý lẽ thì có
thể nói họ thành có lý lẽ. Ðây gọi là điên đảo thị phi. Trước đây mấy tháng,
có một phụ nữ giết chồng, song cô ta giàu có bèn ra điều kiện với luật sư,
nếu luật sư có thể tẩy sạch tội của cô ta, đánh bại ông tòa, thì cô ta sẽ cho
ông ta một số tiền. Vị luật sư đó biết cô ta là người giết chồng, song ở tại tòa
án thì ông ta cường từ đoạt lý, biện luận thế cho cô ta, mà chẳng bắt cô ta
phải đền mạng. Bạn nói như thế có lý lẽ chăng ? Chỉ cần có tiền thì dù giết
người cũng chẳng có tội, đây tức là kiện tụng. Tức nhiên chẳng có tội, chẳng
cần đền mạng, thì thử hỏi trên thế giới này còn có chân lý chăng ? Bổn lai
muốn ra tòa án là để nói lý lẽ, song đến đó thì luật sư vì người biện luận có
lý lẽ thì biến thành chẳng có lý lẽ, chẳng có lý lẽ cũng biến thành có lý lẽ,
chẳng có lý lẽ cũng biến thành có lý lẽ. Bạn nói thế giới này chẳng phải là
thế giới đen tối chăng ?
‘’Nơi quan tòa’’: Quan tòa là nơi nói lý lẽ, xem thử ai phải ai trái. Song, lúc
đó dù bạn đúng mà chẳng có tiền thì cũng thành có tội. Nếu bạn sai mà bạn
có tiền thì cũng thành vô tội. Cho nên trên thế giới này, con người vẫn bị
tiền chi phối, làm cho lương tâm con người mất đi.
‘’Trong trận chiến sợ hãi’’: Khi gặp hoàn cảnh sợ hãi, thì bạn nên niệm danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì ‘’các oán địch lui tan’’, tất cả các oán hận
đều lui tan. Kiện tụng và ở trong trận chiến đấu tranh với nhau, đều do đời
đời kiếp kiếp kết oán quá nhiều, cho nên mới tụ hội lại một chỗ, cùng nhau
trả quả báu.
Song, nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì những quả báo đó đều sẽ
giảm bớt, nặng biến thành nhẹ, nhẹ thì biến thành không có gì cả. Nêu chẳng
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì vấn đề đó sẽ nghiêm trọng, nếu bạn niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì sẽ giảm nhẹ. Do đó, cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế
Âm không thể nghĩ bàn, chẳng phải một số người biết được.
Vào thế chiến thứ hai, ở Thượng Hải có một vị cư sĩ tên là Phí Phàm Cảnh,
bình thường ông ta đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, vào thời kỳ Nhật Bản
chiếm Trung Quốc, thì Thượng Hải thường bị quân Nhật bắn phá thả bom.
Ông ta có cảm giác rằng nhà của ông đang ở sẽ có nguy hiểm, sẽ bị bom
đạn. Do đó, bèn dọn nhà đến nơi khác. Ông ta vừa mới dọn đi thì, nơi đó quả
nhiên bị quân Nhật bắn phá. Nơi mà ông ta mới dọn đến cách bốn năm ngày
sau, ông cũng cảm thấy chẳng an toàn lắm, do đó ông ta lại dọn đến khu Tô
Giới. Ở Thượng Hải có một khu vực của người nước ngoài mượn của Trung
Quốc để ở, cho nên Nhật Bản chẳng dám đến đất Tô Giới để xâm chiếm.
Ông ta dọn đến đất Tô Giới rồi, ông ta lại sợ chỗ này cũng chẳng an toàn, lại
muốn đi. Nhưng chung quanh bên ngoài Tô Giới đều có lưới điện bao bọc,
cho nên ông ta cũng chẳng có cách nào để đi, trong lúc tiến thối lưỡng nan,
không thể quyết định thì gặp một đứa bé nói với ông ta rằng : ‘’Hãy đi mau,
đằng sau có quân Nhật đến’’. Do đó, ông ta nhìn thấy lưới điện có lỗ trống
rộng khoảng hai thước, chỉ vừa đủ một người chun ra. Ông ta thấy cậu bè
chun ra, thì cả nhà ông ta cũng đều chun ra chạy. Sau đó họ nhìn bốn phía
đất Tô Giới đều có quân đội phòng thủ, cảm thấy rất kỳ lạ, chẳng biết sao họ
lại ra được ? Ðến khi ông ta tìm đứa bé, thì chẳng thấy nữa, nhìn lại lưới
điện thì cũng chẳng thấy lỗ trống đó nữa. Ông ta cảm thấy rất kỳ quái, ông ta
bèn đi đến Tô Châu, tai nạn quân đội tác chiến ông ta cũng được bình an vô
sự.
Do đó có thể chứng minh, cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm thật là cao
sâu khó dò, con người chẳng dễ gì hiểu được. Trong những hoàn cảnh đó,
Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ bảo hộ người niệm danh hiệu của Ngài, cho nên
mỗi người chúng ta, nên sinh niềm tin chân thành niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm.
Các oán địch, tức mới vừa nói nước này với nước kia đấu tranh, nhà với nhà
đấu tranh, người với người đấu tranh, quỷ với quỷ đấu tranh, đó đều là do
nghiệp lực của chúng sinh sở cảm, mà tạo thành cục diện như thế. Bây giờ
có rất nhiều nước, song bạn đừng cho rằng trong những nước đó đều là
người. Có những bầy chuộc đi đầu thai làm người mà trở thành một nước,
nhiều ếch nhái cũng đầu thai làm người, và trở thành một nước. Mùa xuân
năm nay, có người đem đến tin tức trong báo nói rằng : Ở Thái Lan có mấy
chục ngàn con ếch nhái tự sát. Tại sao ? Vì nước đó cũng là nước có nhiều
ếch nhái, cho nên chúng tự sát có thể đi đầu thai làm người. Người trong mỗi
nước đều đồng một giống loài, giống loài đó kiếp trước đa số là một loài súc
sinh, cho nên cùng nhau làm dân trong một quốc gia. Mùa xuân năm nay tôi
nói về vấn đề này thì có người hỏi : ‘’Ða số người Mỹ là từ giống gì tái sinh
? Là giống loại gì mà thành một nước ? ‘’Tôi trả lời : ‘’Người và súc sinh
đều có, vì nước Mỹ là do các nước di dân đến, là người và súc sinh tạp nhạp
với nhau.’’ Ðây là sự thật chứ chẳng phải nói đùa. Nếu các bạn mở ngũ
nhãn, thì sẽ biết người của thế giới này, chẳng nhất định là người, mà đủ
loại. Làm sao nhìn thấy được ? Nếu bạn có mắt Phật, khai mở mắt trí huệ,
muốn biết người đời trước là gì ? Ở đời trước làm gì ? Thì bạn có thể nhìn
hình dáng phía sau của người đó, hình dáng kiếp trước đó, đời này vẫn theo
họ. Nếu kiếp trước là người, thì hình dáng là người, nếu là súc sinh thì hình
dáng là súc sinh, nếu là yêu quái thì có hình dáng yêu quái. Chỉ có người
khai mở ngũ nhãn, thì mới có thể nhìn thấy rõ ràng. Nếu người chẳng khai
mở ngũ nhãn, thì chẳng phân biệt được.
Cho nên bạn thấy người đừng cho rằng đó là người. Làm thế nào biết được
những vấn đề đó ? Nếu bạn đắc được thiên nhãn thông thì sẽ biết dễ dàng.
Chỉ cần bạn chân thật dụng công tu hành, thì muốn biết gì cũng đều được.
Còn có nước (chẳng phải là tôi chưởi người) rất nhiều người đều là chuột
biến thành, bất quá, tuy có rất nhiều chuột, nhưng trong nước đó cũng có rất
nhiều người, cũng có rất nhiều quỷ và súc sinh. Tóm lại, mỗi nước đều có
trâu ngựa dê gà chó heo, đủ thứ loại. Con người cũng do những chúng sinh
đó biến thành. Ðạo lý này nói ra thật là vi diệu. Một số người chẳng chứng
thật về việc này cho nên không tin. Muốn chứng thật về việc này, thì phải
cước đạp thật địa dụng công tu hành, đắc được thần thông thì sẽ nói :
‘’Trước kia có một vị pháp sư nói về đạo lý này, thật chẳng sai chút nào, sao
việc vi diệu như thế, Ngài đều có thể nói ra’’, lúc đó bạn sẽ biết.
Tiếng diệu Quán Thế Âm
Tiếng phạm tiếng hải triều
Hơn hẳn tiếng thế gian
Cho nên thường phải niệm.
‘’Tiếng diệu Quán Thế Âm’’: Bài kệ ở trước là: ‘’Quán chân quán thanh
tịnh, quán trí huệ rộng lớn, quán bi và quán từ, thường nguyện thường chiêm
ngưỡng.’’ Tức là nói về chữ ‘’quán’’. Bây giờ là nói về chữ ‘’tiếng’’ (âm).
‘’Tiếng’’ này là tiếng diệu Quán Thế Âm. Tiếng của Quán Thế Âm là tiếng
vi diệu, âm thanh vi diệu này tức là Quán Thế Âm.
‘’Tiếng phạm tiếng hải triều’’: Âm thanh của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng
những vi diệu, mà còn thanh tịnh, như tiếng hải triều. Khi biển đến lúc nhất
đînh, thì sẽ phát sinh hải triều. Tiếng thanh tịnh của Bồ Tát Quán Thế Âm
như tiếng hải triều.
‘’Hơn hẳn tiếng thế gian’’: Âm thanh của Bồ Tát Quán Thế Âm, hơn hẳn
mọi âm thanh của thế gian.
‘’Cho nên thường phải niệm’’: Vì vậy, cho nên chúng ta mỗi người, đều
phải thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.
Niệm niệm chớ sinh nghi
Quán Thế Âm tịnh Thánh
Khi khổ não nạn chết
Hay làm nơi nương tựa.
‘’Niệm niệm chớ sinh nghi’’: Khi chúng ta niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì
đừng bao giờ sinh tâm nghi ngờ, đừng nghĩ như vầy: ‘’Niệm có ích gì? Niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, chẳng phải là chẳng có ý nghĩa gì chăng ?’’ Hằng
ngày niệm Bồ Tát Quán Thế Âm mà bạn sinh tâm hoài nghi. Quan trọng
nhất là đừng sinh tâm nghi ngờ, trong một niệm cũng đừng sinh tâm hoài
nghi, phải sinh niềm tin.
‘’Quán Thế Âm tịnh thánh’’: Bồ Tát Quán Thế Âm là bậc Thánh thanh tịnh.
‘’Khi khổ não nạn chết’’: Khi bạn có khổ não đau đớn, hoặc khi gặp nguy
hiểm sắp chết.
‘’Hay làm chỗ nương tựa’’: Lúc đó Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ bảo hộ bạn.
Bạn có thể đem thân tâm tính mạng giao cho Bồ Tát Quán Thế Âm, thì Ngài
nhất định sẽ trợ giúp bạn.
Ðủ tất cả công đức
Mắt từ trông chúng sinh
Biển phước tụ vô lượng
Cho nên phải đảnh lễ.
‘’Ðủ tất cả công đức’’: Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ tất cả thần thông diệu
dụng, đầy đủ tất cả các thứ công đức, tất cả thần thông diệu dụng không thể
nghĩ bàn đều không thiếu.
‘’Mắt từ trông chúng sinh’’: Bồ Tát Quán Thế Âm đều dùng mắt cha lành
nhìn chúng sinh. Bất cứ chúng sinh có lỗi gì, hoặc chẳng có lỗi lầm, có tội
nghiệp, hoặc chẳng có tội nghiệp, Ngài đều từ bi đến cứu độ như nhau.
‘’Tụ biển phước vô lượng’’: Vì Bồ Tát Quán Thế Âm dùng đại từ bi bình
đẳng phổ độ chúng sinh, cho nên phước báu của Ngài tu lớn như biển cả, vô
lượng vô biên, sâu không thể dò.
‘’Cho nên phải đảnh lễ’’: Vì công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm đều đầy đủ,
cho nên chúng ta mỗi người, đều nên đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ đã giảng xong phần bài kệ. Chúng ta có cơ hội được nghe toàn bộ
Kinh Pháp Hoa, thật là khó được gặp gỡ. Hiện tại đừng nói là nước Mỹ, dù ở
Trung Quốc, cũng chẳng dễ gì được nghe toàn bộ Kinh Pháp Hoa. Ở Hồng
Kông, Ðài Loan có cơ hội này, nhưng cũng rất khó khăn. Hiện tại chúng ta
đang sống an toàn ở nước Mỹ, mà nghe được Bộ Kinh Pháp Hoa này, thật là
may mắn. Bạn đến nghe kinh trong sự vô hình, trợ giúp cho thế giới này.
Chúng ta đang nghe kinh ở đây, mà khắp thế giới đều tràn trề bầu không khí
cát tường. Phàm là nơi nào có pháp hội giảng kinh, thì trời rồng tám bộ
chúng đều đến ủng hộ đạo tràng. Chúng ta có cơ hội này, đều là người có
căn lành lớn. Nếu chẳng có căn lành, muốn đến nghe cũng đến chẳng được.
Khi muốn đến nghe thì chẳng phải ma chướng này sinh, thì ma chướng kia
sinh ra. Tóm lại, khiến cho bạn chẳng thể nào đến nghe kinh được. Hiện tại
chúng ta nghe kinh nghe pháp, công đức này thật là vô lượng vô biên, không
thể hết được. Ðến nghe kinh mỗi người đều có công đức.
Bấy giờ, Bồ Tát Trì Ðịa bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật bạch
rằng : Ðức Thế Tôn ! Nếu có chúng sinh nghe được Phẩm Bồ Tát Quán Thế
Âm này, nghiệp tự tại phổ môn thị hiện sức thần thông, thì nên biết người đó
công đức chẳng ít. Khi đức Phật nói Phẩm Phổ Môn này, thì có tám vạn bốn
ngàn chúng sinh ở trong chúng, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Bấy giờ là lúc đó, tức là sau khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong phần
bài kệ. Bồ Tát Trì Ðịa tức là Bồ Tát Trì Ðịa mà trong Kinh Lăng Nghiêm có
nói đến. Vị Bồ Tát này, ở trong vô lượng kiếp về trước, là một vị chẳng đọc
sách, chẳng biết chữ, nhưng sức lực của Ngài rất lớn. Sức của Ngài chẳng
những mạnh, mà còn vô cùng vô tận. Có đồ vật mà một số người chẳng
khiên nổi, mà Ngài một mình vác nổi, có đồ vật mà một số người gánh
chẳng nổi, mà Ngài gánh nổi, việc mà một số người chẳng làm được, mà
Ngài làm được. Ngài làm gì ? Tức là tu sửa đường bằng phẳng, làm đường,
làm cầu. Có khi xe qua cầu mà qua chẳng được, Ngài bèn giúp họ đẩy xe.
Có người gánh đồ khổ cực, thì Ngài giúp họ gánh đồ. Song, Ngài chẳng đòi
giá cả, chẳng đòi tiền công. Ngài thực hành khổ hạnh như thế rất lâu. Có một
lần nọ, gặp Ðức Phật Phù Xá Lô, Phật hỏi Ngài :
- ‘’Tại sao con phải tu sửa đường bằng phẳng?’’
- Ngài nói : ‘’Con tu sửa đường bằng phẳng, là để cho những người đi được
an toàn.’’
- Phật Phù Xá Lô nói: ‘’Con làm đường bằng phẳng là bỏ gốc theo ngọn,
đây là dụng công phu trên ngọn ngành, chỉ tu hành ở ngoài da.’’
- Phật Phù Xá Lô nói tiếp: ‘’Con muốn tu sửa đường bằng phẳng, thì trước
hết phải tu sửa "đất tâm" cho bằng phẳng. Tại sao đường xá chẳng bằng
phẳng? Thế giới có núi cao, có đất bằng, có biển cả, là vì tâm của con người
chẳng bằng phẳng. Trong tâm của con người có núi cao, cho nên đất chẳng
bằng chẳng. Nếu đất tâm của con bằng phẳng, thì thê giới chẳng có chỗ nào
mà không bằng phẳng.’’ Bồ Tát Trì Ðịa nghe Phật Phù Lô Xá giáo hóa rồi,
bèn tu pháp môn "đất tâm", làm bằng phẳng mảnh đất trong tâm, tu thành
chứng quả, đắc được quả vị Bồ Tát. Do đó, Ngài có tên là ‘’Bồ Tát Trì Ðịa.’’
Bồ Tát, ở trên đã có nói rồi, tức là giác hữu tình, giác ngộ hữu tình chúng
sinh. Cũng là một bậc giác ngộ ở trong chúng sinh. Bồ Tát Trì Ðịa bèn từ tòa
ngồi của Ngài đứng dậy, hướng về Ðức Phật nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Nếu như
có chúng sinh nào nghe được Phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm nghiệp tự tại, phổ
môn thị hiện ba mươi hai ứng thân, bốn vô úy thần thông lực như thế, thì
nên biết công đức của người đó chẳng ít, công đức họ nghe được Phẩm Phổ
Môn không thể hạn lượng.’’ Không ít tức là nhiều, chẳng có số lượng, vô
lượng vô biên. Khi Ðức Phật Thích Ca diễn nói Kinh Pháp Hoa, nói đến
Phẩm Phổ Môn, thì ở trong chúng có tám vạn bốn nghìn chúng sinh, đều
phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là A nậu đa la tam miệu
Tam bồ đề.
‘’Tám vạn bốn nghìn chúng sinh là gì ? Tám vạn bốn nghìn chúng sinh ở
đây, tức cũng là tám vạn bốn nghìn phiền não của chúng ta. Mỗi một phiền
não là một chúng sinh, hơn nữa ở trong thân của mỗi người chúng ta, đều có
tám vạn nghìn vi sinh vật, vi sinh vật tức là vi khuẩn. Trong thân của chúng
ta đều có vi trùng. Con người chúng ta là trùng lớn, ở trong thân trùng lớn
này, có trùng nhỏ, ở trong máu, ở trong thịt, trong ngũ tạng, chẳng biết có
bao nhiêu vi trùng ? Con người chúng ta làm thế nào mà có thể sinh tồn ?
Tức cũng là thân trùng lớn nuôi dưỡng những trùng nhỏ, trùng nhỏ trợ giúp
cho trùng lớn. Bạn cho rằng con người là gì ? Ở trong thân thể có vô lượng
vô biên vi sinh vật (sinh bật nhỏ bé).
Một vi sinh vật là một chúng sinh. Vậy có bao nhiêu vi sinh vật ? Có nhiều
đếm không hết được. Tóm lại, thì có tám vạn bốn nghìn. Kỳ thật, chẳng phải
chỉ tám vạn bốn nghìn, hoặc là mười vạn tám nghìn, cũng chẳng nhất định.
Trong tự tánh của mỗi người chúng ta, đều đầy đủ tám vạn bốn nghìn chúng
sinh. Tám vạn bốn nghìn chúng sinh ở trong pháp hội đó, tức cũng là tám
vạn bốn nghìn thứ niệm ở trong tâm, niệm niệm sinh diệt, niệm niệm chẳng
ngừng, niệm sinh tức là một chúng sinh, niệm diệt cũng là một chúng sinh.
Sinh sinh diệt diệt có tám vạn bốn nghìn chẳng lìa khỏi tự tánh. Tám vạn
bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm vô đẳng đẳng, chẳng có gì có thể bằng
tâm, chẳng có gì có thể sánh với tâm, tức là tâm vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là tiếng phạn. A dịch là vô, nậu đa la dịch là
thượng, tam dịch là chánh, miệu dịch là đẳng, bồ đề dịch là giác, hợp lại là
vô thượng chánh đẳng chánh giác. ‘’Vô thượng’’ là chẳng có gì cao hơn
nữa. ‘’Chánh đẳng’’ là chân chánh đồng với Phật. ‘’Chánh giác’’ là giác ngộ
của Phật. Chân chánh đồng quả vị giác ngộ của Phật, tức cũng là phát tâm
thành Phật. Có tám vạn bốn nghìn chúng sinh phát tâm thành Phật. Phát tâm
thành Phật rồi, sau đó mới đắc được quả vị. Trong pháp hội đó, có tám vạn
bốn nghìn chúng sinh nghe Phẩm Phổ Môn rồi, đều phát tâm vô thượng
chánh đẳng chánh giác, đó là nhân duyên rất thù thắng.
Hiện tại chúng ta đang giảng Phẩm Phổ Môn, ở trong Phật Giáo Giảng
Ðường có hơn hai mươi người đến nghe kinh. Hơn hai mươi người này, mỗi
người đều có tám vạn bốn nghìn chúng sinh, bạn tính xem nó bao nhiêu vạn
chúng sinh ? Nhưng bao nhiêu vạn chúng sinh đó, có phải đều phát tâm vô
thượng chánh đẳng chánh giác ? Tôi tin rằng tuy chẳng phát tâm như thế, đa
số cũng phát tâm muốn thành Phật. Ở trong hội Pháp Hoa này, người nào
nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tương lai đều có phần sẽ thành
Phật. Hiện tại chúng ta nghe được Phẩm Phổ Môn của Bồ Tát Quán Thế
Âm, đều do trong quá khứ đã trồng căn lành, cho nên bây giới cũng có nhân
duyên, để tụ lại một chỗ cùng nghiên cứu Phật pháp, đây là cảnh giới không
thể nghĩ bàn.
A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề là quả vị cao nhất, tức là quả vị Phật,
dịch ra là Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chánh giác là nói người khai
ngộ được chánh giác. Hàng nhị thừa A la Hán đắc được sự khai ngộ chánh
giác, nhưng chưa đắc được chánh đẳng. Bồ Tát thì đắc được chánh đẳng và
chánh giác. Chánh giác nơi Phật cho nên gọi là đẳng giác. Chánh giác là A la
Hán, chánh đẳng là Bồ Tát. Bồ Tát có thể thành chánh đẳng, nhưng không
thể thành vô thượng. A la Hán có thể thành chánh giác, nhưng không thể
thành chánh đẳng. Vì Bồ Tát là Hữu Thượng Sĩ, ở trên Ngài còn có bậc cao
hơn. Phật gọi là Vô Thượng Sĩ, tức là chẳng có gì cao hơn Ngài nữa. Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, tức là viên mãn bồ đề, quy vô sở đắc, đắc
được ba giác tròn, vạn đức đầy, chẳng có gì cao hơn vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Chỉ có Phật mới có tư cách xưng danh hiệu này. Ngoài ra các Bồ
Tát, A la Hán đều không thể sánh được, cho nên đây là quả vị cao nhất. Quả
vị cao nhất này làm thế nào mà thành ? Có phải từ chỗ cao nhất mà thành
chăng ? Chẳng phải. Quả vị tối cao là từ chỗ thấp nhất mà thành. Khi bạn tu
đạo, thì nên nhớ đừng có tâm tự mãn, tâm cống cao ngã mạn, đó tức là từ
chỗ thấp nhất mà thành quả vị cao nhất.
Ngài Lão tử có nói : ‘’Nước khéo lợi ích vạn vật mà chẳng tranh, ở nơi mà
mọi người không thích ở.’’ Nước lợi ích cho tất cả vạn vật mà chẳng tranh.
Vật tức là chỉ phi tiềm động thực, hết thảy tứ sinh (thai noãn thấp hóa), đều
cần nước bồi dưỡng tưới tẩm, song bản thân của nước chẳng bao giờ có tư
tưởng như vầy : ‘’Hết thảy những vạn vật của các vị, đều do tôi lợi ích cho
các vị, do tôi đến trợ giúp các vị.’’ Chẳng tranh gì ? Tức là chẳng kể công,
chẳng tuyên truyền với mọi người rằng : ‘’Việc đó là do tôi làm, công đức
đó là do tôi làm thành, ngôi chùa đó là do tôi làm, cái cầu kia là do tôi xây’’,
chẳng bao giờ có tâm như thế, nó chẳng ích kỷ, chẳng tư lợi, cho nên Lão tử
mới nói, nên học tập giống như nước. Nước khéo lợi ích vạn vật mà chẳng
tranh, chẳng kể công, chẳng tranh danh, chẳng tranh lợi. ‘’Ở nơi mà mọi
người không thích ở’’ : Nước ở chỗ thấp, chẳng ở trên cao. Có người nói :
‘’Sao nước lại chẳng ở trên cao ? Khi trời mưa thì nước từ trên cao mưa
xuống !’’ Không sai, bạn nói rất có lý, trời mưa xuống là từ trên cao mưa
xuống. Vậy nó làm thế nào mà đi lên cao ? Nó từ nơi thấp mà đi lên cao, chứ
chẳng phải nguyên lai là ở trên cao. Nó ở trên cao vẫn phải rơi xuống đất
thấp, ở dưới đất thấp lại chảy vào biền, vào sông, vào suối, vẫn chảy xuống
chỗ thấp, bất quá tạm thời ở trên cao mà thôi. Cho nên nước ở chỗ mà chúng
sinh chẳng thích, ở chỗ mà con người chẳng hoan hỉ. Tại sao người tu đạo
chẳng ở nhà tốt ? Suốt ngày đến tối ở trong sơn động ? Tức cũng là học
giống như nước, ở chỗ thấp. Vì nước ở chỗ mà chúng sinh chẳng thích, nên
hợp với đạo. Bạn muốn thành vô thượng chánh đẳng chánh giác cũng như
thế, cũng phải từ chỗ thấp mà hướng đi lên, chẳng phải từ trên cao mà rớt
xuống, cũng chẳng phải một đời sinh ra, thì được vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Bạn muốn thành Phât, thì trước hết phải làm chúng sinh cho thật
tốt. Làm chúng sinh tốt như thế nào ? Tức là bất cứ làm việc gì, đều phải làm
việc thiện việc lành, chớ đừng làm ác, do đó có câu :
‘’Lựa việc thiện mà theo,
Việc ác thì sửa đổi’’.
Con đường lành thì nên làm, đường chẳng lành thì sửa đổi, phải sửa lỗi làm
mới lại, phải đạo thì tiến tới, trái với đạo thì thối lùi, hợp với đạo thì tiến
bước về trước, chẳng hợp với đạo thì lùi về sau, như thế mới có thể đắc được
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Chỗ diệu của Phẩm Phổ Môn là vô cùng vô tận, chẳng phải thời gian ngắn
mà nói hết được. Tương lai khi nào có cơ hội sẽ nghiên cứu sâu hơn bước
nữa. Thứ bảy này là ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm thành đạo, bây giờ
chúng ta đã giảng xong Phẩm Phổ Môn, Biết được thần thông diệu dụng của
Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đến ngày đó mọi người phát tâm cúng dường Bồ
Tát Quán Thế Âm, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, và lạy đại bi sám cầu
nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hiển hiện diệu dụng không thể nghĩ bàn. Ai có
sở cầu thì có thể âm thầm cầu Ngài gia bị, tin tưởng Ngài, thì nhất định sẽ
khiến cho bạn toại tâm mãn nguyện. Kinh Pháp Hoa là kinh thành Phật, ai
nghe được Kinh Pháp Hoa, thì sẽ có phần thành Phật, cho nên đây là cơ hội
rất khó được gặp.
---o0o---
Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
Ðà la ni dịch là tổng trì, tức là tổng tất cả các pháp, trì vô lượng nghĩa, cũng
có thể nói là nhiếp ba nghiệp (thân khẩu ý) thanh tịnh, giữ sáu căn (mắt tai
mũi lưỡi thân ý). Nhiêp tâm thì có thể nói là nhiếp tâm giữ thân. Nhiếp tâm
thì có thể đắc được tam muội pháp hoa, giữ thân thì có thể đắc được Ðà la ni
pháp hoa.
Làm thế nào có thể nhiếp thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh ? Tức là thân
chẳng phạm giới sát, trộm, dâm ba điều ác, miệng chẳng phạm nói dối, nói
thêu dệt, nói hai lưỡi và chưởi mắng bốn điều ác, ý chẳng phạm tham sân si
ba điều ác. Chẳng phạm mười điều ác này, mà thực hành mười điều thiện,
thì ba nghiệp sẽ thanh tịnh.
Làm thế nào giữ mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn tự tại diệu dụng ? Nếu ba
nghiệp thanh tịnh, thì sáu căn tự nhiên sẽ được thanh tịnh. Thanh tịnh rồi thì
tự nhiên thì sẽ đắc được cảnh giới sáu căn dụng với nhau.
Ðà la ni còn dịch là chú. Chú hay sinh thiện diệt ác, bảo hộ hành giả được
cát tường như ý. Chú cũng giống như chiếu chỉ của hoàng đế, quan dân nhất
định phải tuân lệnh. Lại giống như khẩu lệnh ở trong quân đội, người trong
quân đội đều biết rõ, nếu không thì sẽ bị xử phạt, hoặc có sự nguy hiểm đến
tính mạng.
Phẩm này do Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát dũng Thí, Tỳ Sa Môn Thiên
Vương, Trì Quốc Thiên Vương, mười nữ la sát phát nguyện nói ra các bài
chú, dùng thần lực để trì Kinh Pháp Hoa, khiến cho những pháp sư thọ trì,
đọc tụng, giải nói, biên chép Kinh Pháp Hoa, ở trong đời ác, tâm cung kính.
Bèn nói với Phật, đó là biểu thị miệng cung kính. Người thỉnh pháp nhất
định phải ba nghiệp thanh tịnh, mới biểu thị chân tâm thành ý cung kính.
Bồ Tát Dược Vương nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Nếu như tương lai có người thiện
nam, người thiện nữ, phát tâm thọ trì (thọ nơi tâm, trì nơi thân) Kinh Pháp
Hoa, hoặc là đọc (thuộc lòng) Kinh Pháp Hoa, chẳng những thông đạt nghĩa
lý, mà còn đọc tụng rất nhanh, toàn bộ quyển kinh chẳng sai một chữ, chẳng
sót một câu, đó tức là thuộc lòng. Hoặc cung kính biên chép quyển Kinh
Pháp Hoa, hoặc giảng giải Kinh Pháp Hoa. Pháp sư làm như thế thì đắc được
phước báu bao nhiêu’’?
Ðức Phật bảo Dược Vương : Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, cúng
dường tám vạn ức na do tha Hằng hà sa các đức Phật, thì ý của ông thế nào ?
Phước báu đó đắc được có nhiều chăng ? Rất nhiều, đức Thế Tôn.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Dược Vương rằng : ‘’Ở đời vị lai, nếu có người thiện
nam, người thiện nữ nào cúng dường tám trăm vạn ức na do Hằng hà sa số
các đức Phật, thì ông cảm thấy thế nào ? Họ đắc được phước báu có nhiều
chăng ?’’ Bồ Tát Dược Vương nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Rất nhiều, rất nhiều !
Chẳng cách gì tính đếm được.’’
Ðức Phật nói : Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, hay ở nơi kinh này,
cho đến thọ trì bài kệ bốn câu, đọc tụng hiểu nghĩa, theo như lời trong kinh
nói mà tu hành, thì công đức rất nhiều.
Ðức Phật lại nói với Bồ Tát Dược Vương : ’’Nếu như có người thiện nam,
hoặc người thiện nữ, ở nơi Kinh Pháp Hoa, mà thọ trì một bài kệ bốn câu,
hoặc là đọc tụng, hoặc là thấu hiểu nghĩa lý vì người khác nói, hoặc là y theo
pháp tu hành, thì công đức đắc được nhiều hơn so với công đức của người
cúng dường, tám trăm vạn ức na so tha Hằng ha sa số các Ðức Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Dược Vương bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Con nay
vì người thuyết pháp mà nói chú đà la ni, để bảo hộ họ, bèn nói chú rằng:
Lúc đó, Bồ Tát Dược Vương nghe Ðức Phật nói pháp rồi, bèn bạch với Phật
rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Bây giờ con sẽ vì pháp sư đọc tụng, giảng nói, tu trì
Kinh Pháp Hoa, mà nói chú đà la ni, để bảo hộ vị pháp sư đó, khiến cho thân
tâm họ an ổn, khiến cho họ chuyên tâm giảng giải.’’ Bèn lập tức nói thần
chú. Chú là mật ngữ của chư Phật, hay hàng phục thiên ma ngoại đạo, ác
quỷ tà thần.
Thuở xưa dịch kinh có năm quy định không dịch:
1). Bí mật không dịch : Như lời chú.
2). Tôn trọng không dịch : Như Bát nhã, Bồ Ðề.
3). Thuận cổ không dịch : Như A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
4). Ða hàm không dịch: Như Tỳ Kheo, A la hán.
5). Thử phương vô bất dịch : Như quả Án ma la.
Nguyên nhân chú không dịch, là muốn bảo trì âm phạn, mới có thể thu nhận
được công hiệu của chú, chỉ cần niệm âm vần cho đúng, thì sẽ có cảnh giới
không thể nghĩ bàn, quan hệ về ý nghĩa của chú là chẳng cần biết rõ.
An nhĩ mạn nhĩ, ma nỉ ma ma nỉ, chỉ lệ giá lê đệ, xa mị, sa lý đa vĩ, chiên đế,
mục đế, mục đa lý, sa lý, a vĩ sa lý, tang lý, sa lý, soa duệ, a xoa dụê, a kỳ nị,
chiên đế, sa lý, đa la ni, a lô già bà sa, bả già tỳ xoa nị, nỉ tỳ thế, a tiện đa la
nỉ, lý thế a đàn đa ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ
ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ cát lợi biểu đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng
già niết cù sa nỉ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đa la, mạn đa la xoa dạ đa, bưu
lâu đa, bưu lâu đa kiều xá lược, ác xoa la, ác xoa dã, a bà lô, a ma nhược na
đa dạ.
Ðức Thế Tôn ! Thần chú đà la ni này, là của sáu mươi hai ức Hằng hà sa các
đức Phật nói. Nếu có kẻ nào xâm hủy vị pháp sư này, tức là xâm huỷ các
đức Phật vậy.’’
Bồ Tát Dược Vương nói xong thần chú ở trên rồi, lại bạch với Ðức Phật
rằng : ’’Ðức Thế Tôn ! Thần chú đà la ni này, chẳng phải con nói, mà là của
sáu mươi hai ức các Ðức Phật trong quá khứ nói. Nếu như có kẻ thiên ma
ngoại đạo, ác quỷ tà thần đến xâm hủy vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc
tụng Kinh Pháp Hoa, giải nói Kinh Pháp Hoa, biên chép Kinh Pháp Hoa, thì
tội cũng như xâm hủy sáu mươi hai ức Hằng hà sa số các đức Phật.’’
Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Bồ Tát Dược Vương nói :
Lành thay, lành thay ! Dược Vương, ông vì có tâm thương xót ủng hộ vị
pháp sư đó, mà nói đà la ni này, rất có lợi ích đối với các chúng sinh.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Bồ Tát Dược Vương rằng :
‘’Lành thay, lành thay! Ông có tâm thương xót vì ủng hộ vị pháp sư thọ trì
Kinh Pháp Hoa, mà nói ra thần chú đà la ni này. Thần chú này rất có lợi ích
đối với chúng sinh ở trong tương lai.’’
Bấy giờ, Bồ Tát Dũng Thí bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Con cũng vì
ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, mà nói đà la ni. Nếu vị pháp
sư đó được đà la ni này, thì dạ xoa, hoặc la sát, hoặc phú đơn na, hoặc cát
giá, hoặc cưu bàn trà, hoặc ngạ quỷ, muốn tìm cầu lỗi lầm của người đó, thì
không thể được tiện lợi, bèn ở trước Phật nói chú rằng:
Lúc đó, lại có vị đại Bồ Tát tên là Bồ Tát Dũng Thí bạch với Ðức Phật rằng :
‘’Ðức Thế Tôn ! Con cũng phát tâm ủng hộ vị pháp sư đọc tụng, thọ trì, giải
nói, biên chép Kinh Pháp Hoa, cho nên nói thần chú đà la ni, khiến cho vị
pháp sư đó, đắc được sự bảo hộ của thần chú, thân tâm được yên ổn.’’
Hoặc có dạ xoa, dịch là quỷ tiệp tật; hoặc có la sát, dịch là quỷ ăn người;
hoặc có phú đơn na, dịch là quỷ thối vị; hoặc có cát giá, dịch là khởi tử; hoặc
có cưu bàn trà, dịch là quỷ yểm mị; hoặc có ngạ quỷ .v.v... Những loài quỷ
này, chuyên môn tìm người nhiễu hại. Nếu người thế gian âm nhiều dương ít
(làm nhiều việc ác), thì chúng sẽ đến xâm hại. Nếu người thế gian âm ít
dương nhiều (làm nhiều việc thiện), thì chúng sẽ xa lìa chẳng dám gần gũi,
do đó có câu ‘’tà chẳng thắng chánh’’.
Những ác quỷ đó, tìm chỗ sơ hở của người thọ trì Kinh Pháp Hoa cũng
chẳng có cơ hội tìm được, cho nên chẳng có phương tiện nhiễu hại người thọ
trì Kinh Pháp Hoa.
Bồ Tát Dũng Thí vì ủng hộ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, cho nên ở trước
Ðức Phật nói ra bài chú dưới đây.
Ế lệ, ma nha ế lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ,
y trí, ni vĩ trí ni, chỉ trí ni, niết lệ tê ni, niết lê tê bà để.
Ðức Thế Tôn ! Thần chú đà la ni này, của Hằng hà sa các đức Phật nói, cũng
đều tùy hỉ. Nếu có xâm hủy vị pháp sư đó, tức là xâm hủy chư Phật đó vậy.
Bồ Tát Dũng Thí nói thần chú rồi, lại nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Thần chú đà la
ni này chẳng phải con nói, mà là của Hằng hà sa các đức Phật trong quá khứ
nói. Chẳng những chư Phật nói chú này, mà còn tùy hỉ ủng hộ chú này. Nếu
như có thiên ma ngoại đạo, ác quỷ thần đến xâm hủy vị pháp sư thọ trì Kinh
Pháp Hoa, thì tội cũng như gián tiếp xâm hủy Hằng hà sa số các Ðức Phật.’’
Bấy giờ, Tỳ Sa Môn Thiên Vương hộ đời bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn !
Con cũng vì thương xót chúng sinh, ủng hộ vị pháp sư đó, mà nói đà la ni
này, bèn nói chú rằng:
Bồ Tát Dũng Thí nói công đức trì chú này rồi, thì lúc đó Tỳ Sa Môn Thiên
Vương (một trong bốn vị tứ thiên vương hộ đời, tức là Bắc Phương Ða Văn
Thiên Vương) bèn bạch với Ðức Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con cũng
thương xót hộ niệm chúng sinh, ủng hộ vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa,
mà nói thần chú đà la ni’’, bèn nói chú rằng:
A lê, na lê, na lê, a na lô, na lý, câu na lý.
Ðức Thế Tôn ! Con dùng thần chú này, ủng hộ vị pháp sư, con cũng sẽ tự
ủng hộ người trì kinh này, khiến cho nội trong một trăm do tuần, chẳng có
các sự rủi ro hoạn nạn.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương lại nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con dùng thần chú này,
để ủng hộ vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, và bổn thân con cũng sẽ ủng hộ
người thọ trì Kinh Pháp Hoa này, khiến cho nội trong một trăm do tuần, tứ
phía chẳng có sự rủi ro hoạn nạn.’’
Bấy giờ, Trì Quốc Thiên Vương ở trong hội này, cùng với ngàn vạn ức na
do tha chúng Càn thát bà, cung kính vây quanh, đi đến trước đức Phật, chắp
tay hướng về đức Phật bạch rằng : Ðức Thế Tôn ! Con cũng dùng thần chú
đà la ni, ủng hộ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, bèn nói chú rằng:
Sau khi Tỳ Sa Môn Thiên Vương nói xong lời nguyện ở trên rồi, thì lúc đó
đông phương Trì Quốc Thiên Vương ở trong hội Pháp Hoa, cùng với ngàn
vạn ức na do tha chúng Càn thát bà, cung kính vây quanh đi đến trước chốn
Ðức Phật, chắp tay lại bạch với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con cũng dùng
thần chú đà la ni để ủng hộ người thọ trì Kinh Pháp Hoa.’’ Bèn nói thần chú
rằng:
A già nỉ, già nỉ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đặng kỳ, thường cầu lợi,
phù lâu sa ni, át để.
Ðức Thế Tôn ! Thần chú đà la ni này, của bốn mươi hai ức các đức Phật nói.
Nếu có kẻ nào xâm hại hủy phạm vị pháp sư đó, tức là xâm hại hủy phạm
các đức Phật đó vậy.
Trì Quốc Thiên Vương nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Thần chú đà la ni này, là của
bốn mươi hai ức các Ðức Phật nói. Nếu như thiên ma ngoại đạo, ác quỷ tà
thần, đến xâm hại hủy phạm vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì tội cũng
như xâm phạm hủy hại bốn mươi hai ức các Ðức Phật.’’
Bấy giờ, có các nữ La sát, một tên là Lam Bà, hai tên là Tỳ Lam Bà, ba tên
là Khúc Sỉ, bốn tên là Hoa Sỉ, năm tên là Hắc Sỉ, sáu tên là Ða Phát, bảy tên
là Vô Yểm Túc, tám tên là Trì Anh Lạc, chín tên là Cao Ðế, mười tên là
Ðoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí. Mười nữ la sát đó, cùng với quỷ tử
mẫu và con cái, quyến thuộc của chúng, cùng đến chỗ đức Phật, đồng thanh
hướng về đức Phật bạch rằng:
Lúc đó có mười quỷ la sát.
1). Lam Bà : Dịch là trói buộc.
2). Tỳ Lam Bà : Dịch là cởi trói buộc.
3). Khúc Sỉ : Răng hình uống cong.
4). Hoa Sỉ : Răng hình như hoa.
5). Hắc Sỉ : Răng màu đen.
6). Ða Phát : Chẳng những đầu có nhiều tóc, mà lông trên mình cũng dài như
tóc.
7). Vô yểm Túc : Tham chẳng biết chán, chẳng có khi nào biết đủ.
8). Trì Anh Lạc : Trong tay đều cầm sâu chuỗi, chẳng khi nào bỏ xuống.
9). Cao Ðế.
10). Ðoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí.
Nữ la sát là ác quỷ ăn người. Chúng rất xinh đẹp, mà tính tình rất hung ác,
người định lực không đủ mà gặp chúng, thì sẽ bị mê hoặc, chưa đến một
trăm ngày thì tinh khí sẽ hết, bị chúng ăn thịt. Song, mười vị nữ la sát này,
đã cải tà trở về chánh, làm thiện thần hộ pháp.
Trong tâm của con người có bảy giọt nước ngọt, dưỡng tinh khí thần. Nếu bị
quỷ ăn đi một giọt, thì khiến cho đau đầu, bị quỷ ăn đi ba giọt, thì khiến cho
con người bất tỉnh nhân sự. Nếu bị quỷ ăn đi bảy giọt, thì tinh khí thần sẽ
hết, khiến cho người chết. Một lòng đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì tất cả ác
quỷ tà thần nghe tiếng mà bỏ đi, chẳng dám đến nhiễu loạn.
Trước kia, ở Trung Quốc có vị pháp sư, khi giảng kinh thì có rất nhiều thiện
nam tín nữ đến cúng dàng. Tại sao? Vì nghe pháp sư giảng kinh thì trong sự
vô hình, đắc được vô lượng công đức, và có thể tiêu tai sống lâu, nhất cử
được hai. Có những pháp sư tuy nhiên xuất gia, nhưng mắt chẳng tỏ, không
thể tụng kinh, càng không thể giảng kinh, cho nên đối với tín đồ nói sai lầm
rằng : Tu hành là tu hành, hà tất phải giảng kinh, hà tất phải nghe kinh. Ðó là
người mù, là tư tưởng của ma con ma cháu. Nếu xuất gia tu hành mà chẳng
nghe kinh, thì cũng giống như người đui tu luyện mù, cuối cùng chẳng đắc
được gì cả. Dù có tu đến trần sa kiếp cũng chẳng thành tựu. Ví như nấu cát
chẳng bao giờ thành cơm. Người tu hành mà chẳng học giáo lý, thì tu đi tu
lại vẫn là người hồ đồ, thật là đáng thương xót.
Mười vị nữ la sát và quỷ tử mẫu, cùng với con cái quyến thuộc của chúng,
cùng nhau đến chỗ Ðức Phật, mọi người khác miệng cùng tiếng hướng về
Ðức Phật thưa.
Ðức Thế Tôn ! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh
Pháp Hoa, khiến cho họ được tiêu trừ rủi ro hoạn nạn. Nếu có kẻ nào rình
tìm lỗi lầm của pháp sư, thì khiến cho họ chẳng được tiện lợi, bèn ở trước
đức Phật mà nói chú rằng:
‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con xin nguyện ủng hộ vị pháp sư đọc tụng, giải nói,
biên chép, thọ trì Kinh Pháp Hoa, để khiến cho họ tiêu trừ mọi sự khốn kkhổ
hoạn nạn. Nếu như thiên ma ngoại đạo, ác quỷ ta thần đến tìm lỗi lầm của vị
pháp sư, làm nhiễu loạn vị pháp sư thì chúng con sẽ ủng hộ vị pháp sư,
khiến cho tất cả ma quỷ chẳng tiện lợi đến nhiễu loạn thân tâm của pháp sư,
bèn ở trước Phật nói ra thần chú dưới đây.
Y đề lý, y đề mẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu
ê, lâu ê, lâu ê, lâu ê, đa ê, đa ê, đa ê, đâu ê, nâu ê.
Thà ngồi lên đầu chúng con, chớ đừng não hại vị pháp sư. Nếu dạ xoa, hay
la sát, hoặc ngạ quỷ, phú đơn na, cát giá, tỳ đà la, kiền đà, ô ma lặc già, a bạt
ma la, dạ xoa cát giá, nhân cát giá, hoặc nhiệt não. Hoặc một ngày, hai ngày,
ba ngày, bốn ngày, hoặc đến bảy ngày, hoặc thường nhiệt não. Hoặc hình
nam, hình nữ, hoặc hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, cho đến ở trong
mộng, cũng không cho những loài quỷ đó làm não hại vị pháp sư. Bèn ở
trước đức Phật nói bài kệ rằng:
Mười nữ la sát và quỷ tử mẫu thưa với Ðức Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn !
Chúng con thà để cho những loài quỷ đó ngồi ở trên đầu chúng con, hoặc đại
tiểu tiện lên đầu chúng con, đều có thể nhẫn chịu được, chứ chẳng cho họ đi
nhiễu loạn vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa. Bất luận là dạ xoa, la sát, ngạ
quỷ, phú đơn na, cát già, tỳ đà la (quỷ màu đen), a bạt ma la (quỷ màu xanh),
dạ xoa cát giá, nhân cát giá, nhiệt não. Hoặc là một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, cho đến bảy ngày, hoặc thường nhiệt não,
hoặc có hình quỷ nam, hình quỷ nữ, hình quỷ đồng nam, hình quỷ đồng nữ,
cho đến ở trong mộng, cũng chẳng cho những lũ quỷ đó đến nhiễu hại vị
pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa.’’ Bèn ở trước Ðức Phật nói bài kệ.
Nếu chẳng thuận chú con
Não loạn người nói pháp
Ðầu vỡ làm bảy mảnh
Như nhánh cây a lê.
Như tội giết cha mẹ
Cũng như vạ ép dầu
Cân đấu lường gạt người
Tội Ðiều Ðạt phá Tăng.
Xâm phạm pháp sư đó
Bị tai ương như thế.
Nếu như những lũ ác quỷ đó, chẳng thuận theo thần chú của con, chúng đi
xâm phạm hủy hại vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoặc não loạn vị pháp
sư giải thích nói Kinh Pháp Hoa, thì đầu của chúng tự nhiên sẽ vỡ làm bảy
mảnh, giống như cành cây a lê rớt xuống đất, bị gảy làm thành bảy phần. Lại
như đại tội giết cha, giết mẹ, giết A la Hán, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.
Lại giống như vạ ép dầu, tạo nghiệp sâu nặng. Thời xưa, ở Ấn Ðộ khi ép dầu
thì giã hạt mè ra cho thật nát, cố ý làm cho sinh dòi, đợi khi dòi lớn lên cùng
ép ra làm dầu, chất dầu cũng rất nhiều và vị dầu cũng rất thơm. Hàng ngàn
hàng vạn sinh mạng đều bị ép dầu mà chết. Lại giống như người buôn bán
chẳng có đạo đức, chuyên môn dùng đấu lớn cân nhỏ để lường gạt người,
tương lai chắc chắn sẽ đọa địa ngục, giống như Ðiều Ðạt tức là Ðề Bà Ðạt
Ða, ông ta là phản đồ của Phật giáo, ông ta phạm tội phá hoại Tăng đoàn, lại
phạm tội làm thân Phật chảy máu, lại phạm tội giết A la Hán, lại phạm tội
xúi giục vua A Xà Thế giết cha nhốt mẹ. Tóm lại, phạm tội ngũ nghịch cho
nên bị đọa vào địa ngục lúc còn sống. Nếu có ai xâm phạm hủy hại vị pháp
sư trì Kinh Pháp Hoa, thì sẽ chịu những tai ương như thế.
Các nữ la sát nói kệ đó rồi, bèn bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Chúng
con cũng sẽ ủng hộ, người thọ trì đọc tụng tu hành kinh này, khiến cho họ
được an ổn, xa lìa các sự hoạn nạn, tiêu trừ các thuốc độc.
Mười nữ la sát nói xong bài kệ rồi, lại bạch với Ðức Phật rằng : ‘’Ðức Thế
Tôn ! Chúng con cũng sẽ ủng hộ vị pháp sư thọ trì, đọc tụng, tu hành, biên
chép, giải nói, truyền bá Kinh Pháp Hoa, khiến cho họ được an lạc, thân tâm
khinh an, xa lìa tất cả hoạn nạn, tiêu trừ tất cả thuốc độc, bất cứ chất độc
mạnh nào cũng đều biến thành nước cam lồ.’’
Ðức Phật bảo các nữ la sát rằng : Lành thay, lành thay ! Các ngươi chỉ ủng
hộ người thọ trì danh hiệu Kinh Pháp Hoa, mà phước báu đã không thể
lường được, hà huống là ủng hộ đầy đủ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, và
cúng dường quyển kinh.
Ðức Phật nói với mười nữ la sát rằng: ‘’Lành thay, lành thay! Các ngươi ủng
hộ người trì danh hiệu Kinh Pháp Hoa, mà phước báu đắc được đã không thể
lường, hà huống là các ngươi ủng hộ đầy đủ vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp
Hoa, thì phước báu đắc được càng vô lượng vô biên. Các ngươi lại thành
tâm thành ý dùng hương hoa để cúng dường quyển Kinh Pháp Hoa, phước
báu đắc được cũng không thể nói. Tóm lại, ủng hộ Kinh Pháp Hoa thì có
công đức không thể nghĩ bàn.’’
Hoặc dùng hương hoa chuỗi ngọc, hương bột, hương đốt, hương xoa, phan
lọng, âm nhạc. Ðốt các thứ đèn: Ðèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn
dầu hoa tô ma na, đèn dầu hoa thiềm bặc, đèn dầu hoa bà sư ca, đèn dầu hoa
ưu bát la hoa, hết thảy trăm ngàn thứ cúng dường như thế.
Cúng dường quyển Kinh Pháp Hoa, hoặc dùng các thứ hoa, hoặc dùng các
thứ hương, hoặc dùng chuỗi, hoặc dùng các thứ hương bột, hương hoa,
hương đốt, có khi cúng dường tràng phan, lọng báu, âm nhạc. Có khi đốt các
thứ đèn, hoặc đèn dầu tô, đèn dầu thơm, đèn dầu hoa tô ma na (thiện ý), đèn
dầu hoa thiềm bặc (màu vàng), đèn dầu hoa bà xư ca (hạ sinh), đèn dầu hoa
ưu bát la (linh đan), dùng các thứ hoa, hương, đèn như thế, để cúng dường
quyển Kinh Pháp Hoa, ước có hàng trăm ngàn thứ.
Cao Ðế ! Các ngươi và quyến thuộc, nên ủng hộ vị pháp sư như thế, khi đức
Phật nói Phẩm Ðà La Ni này, thì có sáu vạn tám nghìn người, đắc được vô
sinh pháp nhẫn.
Ðức Phật gọi một tiếng: ‘’Cao Ðế! Các ngươi và quyến thuộc, nên phát tâm
nguyện, chân tâm ủng hộ vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa.’’ Khi Phật nói
xong Phẩm Ðà La Ni này, thì có sáu vạn tám ngàn người đắc được vô sinh
pháp nhẫn. Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Tức là chẳng thấy có chút pháp sinh,
chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm, tức cũng là biết rõ các pháp
vốn là không tịch, an trụ ở hiện cảnh không sinh không diệt, do đó :
‘’Các pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng.’’
---o0o---
Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi
Bảy
Rất lâu xa về trước, vua Diệu Trang Nghiêm là một Tỳ Kheo tu đạo, ngoài
ra còn có ba vị Tỳ Kheo khác, phát tâm tu đạo ở trong rừng sâu. Vì chẳng có
người cúng dường, vì đời sống ưu lự nên ảnh hưởng đến sự tu hành. Trong
đó có một Tỳ Kheo (tiền thân của vua Diệu Trang Nghiêm), phát tâm cúng
dường ba vị Tỳ Kheo, khiến cho họ an tâm tu đạo, chẳng vì cơm áo chỗ ở
mà phân tâm. Do đó, quyết định hoàn tục để đi làm việc kiếm tiền, để cúng
dường ẩm thực, quần áo, thuốc thang, ngọa cụ, các thứ đồ cần dùng hằng
ngày, cho ba vị Tỳ Kheo đó.
Một ngày nọ, Ngài làm việc ở gần cung vua, thấy ông vua đi du tuần rất là
oai phong, trước sau có hộ vệ rất là oai võ. Tâm bèn sinh vọng tưởng :
‘’Kiếp sau ta mà làm vua thì rất là oai phong, ai ai cũng đều cung kính ta !
Lúc đó, ta sẽ cúng dường tất cả các vị Tỳ Kheo.’’ Một niệm đó sinh ra, quả
nhiên đời sau làm vua Diệu Trang Nghiêm, nhưng quên mất lời nguyện làm
hộ pháp.
Sau đó, ba vị Tỳ Kheo đều chứng quả Thánh, dùng pháp nhãn quán sát nhân
duyên hộ pháp, thì biết được vị này là người hộ pháp, do công đức xưa kia
mà tái sinh làm vua. Ông vua đó có tâm từ bi thương dân như con. Song, tin
về tà giáo, trong tâm có tà tri tà kiến. Ba vị Thánh nhân muốn báo ân hộ
pháp xưa kia, nên mới bày cách cứu ông ta ra khỏi biển khổ, mới cùng nhau
tìm cách giải cứu. Một vị phát nguyện làm vợ của ông ta (Tịnh Ðức phu
nhân), hai vị kia phát tâm làm con của ông ta (Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn). Tại
sao ? Vì phải nhờ vợ và con có hiếu, dùng cảm tình để làm sức ảnh hưởng,
mới làm thay đổi được tư tưởng tà tri tà kiến tin ngoại đạo của ông vua.
Phẩm này thuật lại vua Diệu Trang Nghiêm, nhờ sự cảm hóa của hai người
con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược
Thượng), khai mở tri kiến của Phật, đắc được pháp ích, sau đó theo Phật
Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí xuất gia tu đạo, mà chứng được A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề.
Bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng : Về đời xa xưa, trải qua vô lượng
vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm
Tú Vương Hoa Trí Như Lai, ứng Cúng, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cõi nước
tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp
đó, có vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Ðức, có hai
người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn.
Sau khi nói xong Phẩm Ðà La Ni, thì lúc đó Ðức Phật bảo đại chúng trong
hội Pháp Hoa rằng : Vào thuở xa xưa trong quá khứ, trải qua vô lượng vô
biên số kiếp A tăng kỳ không thể nghĩ bàn. Lúc đó, có vị Phật ra đời danh
hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Thừa đạo như thật, lai
thành chánh giác. ứng Cúng, xứng đáng thọ chúng sinh trong chín pháp giới
cúng dường. Chín pháp giới là gì ? Tức là pháp giới của Bồ Tát, pháp giới
của Duyên Giác, pháp giới của Thanh Văn, pháp giới của trời, pháp giới của
loài người, pháp giới của A tu la, pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ
quỷ, pháp giới của địa ngục.
Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu. Ðó là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, có đủ mười danh hiệu này, mới đủ tư
cách xưng là Thế Tôn, tức là Thánh nhân tôn quý nhất của thế và xuất thế.
Vào thời Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, có một cõi nước tên là
Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có
một ông vua tên là Vua Diệu Trang Nghiêm. Phu nhân của vua tên là Tịnh
Ðức phu nhân. Ông vua có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là
Tịnh Nhãn. Tiền thân của bốn người này, trong quá khứ là bốn vị Tỳ Kheo
cùng tu với nhau ở trong rừng sâu.
Hai người con đó, có đại thần lực phước đức trí huệ, từ lâu đã tu hành Bồ
Tát đạo, đó là đàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sàn đề Ba la mật, Tỳ ly gia
Ba la mật, thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ
xả, cho đến ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, đều thấu suốt thông đạt.
Hai người con của Diệu Trang Nghiêm là Tịnh Tạng (Bồ Tát Dược Vương)
và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược Thượng), đều có sức đại thần thông, có thể hiện
mười tám biến. Phước đức trí huệ đầy đủ, từ lâu đã tu đạo Bồ Tát, tức cũng
là pháp môn mười Ba la mật. Ba la mật là gì ? Dịch là đến bờ kia. Tập quán
của Ấn Ðộ là phàm làm việc gì xong đều là Ba la mật. Nay lược giải mười
Ba la mật như sau :
1). Ðàn Ba la mật: Ðàn dịch là bố thí. Bố thí có ba: a. Tài thí.
b. Pháp thí.
c. Vô úy thí.
2). Thi la Ba la mật : Thi là dịch là giới. Giới là mẹ thành Phật. Phạm giới
giống như chiếc thuyền ở giữa biển, phát hiện đáy thuyền có lỗ lủng. Nếu
lập tức tu sửa, thì còn có thể khỏi nguy hiểm. Bằng không thì thuyền sẽ
chìm, người sẽ chết, hối hận đã quá muộn. Tu bổ như thế nào? Tức là làm
nhiều công đức, có tiền thì bố thí tiền, có sức thì bố thí sức, ủng hộ đạo
tràng, do đó có câu: ‘’Lập công chuộc tội’’.
3). Sàn đề Ba la mật : Sàn đề dịch là nhẫn nhục. Việc không nhẫn được cũng
phải nhẫn, không thể chịu đựng được cũng phải chịu, đó là thuốc hay tiêu trừ
tội chướng. Tóm lại, khi nóng giận thì nên nhẫn nhịn, đừng bạo phát, vì
‘’Nhẫn thì an ổn’’.
4). Tỳ ly gia Ba la mật : Tỳ ly gia dịch là tinh tấn. Người học Phật pháp nhất
định phải tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh tấn, đêm tinh tấn.
Tóm lại, dũng mãnh tinh tấn cũng như thuyền đi ngược dòng, không tiến thì
lùi.
5). Thiền Ba la mật: Thiền dịch là tĩnh lự, làm lắng đọng tư tưởng, tức cũng
là ngưng vọng tưởng. Tu đến cảnh giới như như bất động, thì mới đắc được
liễu liễu thường minh. Lúc đó sẽ nhậm vận tự tại, tùy theo ý muốn, chẳng bị
gì hạn chế, đó tức là ‘’Thần thông diệu dụng’’.
6). Bát nhã Ba la mật: Bát nhã dịch là trí huệ. Vì Bát nhã gồm có ba nghĩa,
cho nên không dịch.
A. Văn tự Bát nhã : Tức là tất cả kinh điển.
B. Quán chiếu Bát nhã : Tức là dùng văn tự để quán chiếu tất cả cảnh giới,
mới thấu hiểu được chân thật nghĩa.
C. Thật tướng Bát nhã : Từ văn tự Bát nhã mà phát khởi quán chiếu Bát nhã;
từ quán chiếu Bát nhã mà khế hợp với thật tướng Bát nhã. Ba điều này đều
có mối quan hệ vơi nhau.
7). Phương tiện Ba la mật.
8). Nguyện Ba la mật.
9). Lực Ba la mật.
10). Trí Ba la mật.
Bốn Ba la mật này, đều do Bát nhã phân ra, hợp làm mười pháp môn Ba la
mật, đây là hạnh môn của Bồ Tát tu.
Tu đạo của Bồ Tát thực hành, chẳng những có bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả,
mà còn phải tu bố thí, ái ngữ, lợi hành, và đồng sự, bốn pháp nhiếp, mới là
hành Bồ Tát đạo.
Bốn tâm vô lượng là gì ? Tức là :
1). Từ : Khiến cho tất cả chúng sinh được an vui.
2). Bi : Cứu tất cả khổ nạn của hết thảy chúng sinh.
3). Hỷ : Tức là hoan hỉ, hoan hỉ người ta có được chuyện vui.
4). Xả : Tức là bố thí. Bố thí vật mà người ta cần.
Bốn pháp nhiếp là gì ? Tức là :
1). Bố thí : Người thích tiền tài thì bố thí tiền tài, người thích pháp thì bố thí
pháp.
2). Ái ngữ : Dùng lời diệu dàng thân thiết để an ủi họ.
3). Lợi hành : Khởi thân khẩu ý hành lợi ích chúng sinh.
4). Ðồng sự : Cùng làm việc với họ, khiến cho họ có tâm hướng thiện. Phối
hợp bốn pháp nhiếp và bốn tâm vô lượng mới là hành Bồ Tát đạo.
Lại phải tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tức là:
Bốn niệm xứ
Bốn chánh cần
Bốn như ý túc
Năm căn,
Năm lực
Bảy bồ đề phần
Tám chánh đạo.
Cộng lại là ba mươi bảy phẩm. Ðây là chánh đạo của pháp tiểu thừa, ở trong
đại thừa là pháp trợ đạo, tại Phật thừa cũng chẳng phải là chánh đạo, cũng
chẳng phải là trợ đạo; ngược lại cũng là chánh đạo, cũng là trợ đạo. Vì Phật
thừa là viên giáo, tức là giáo lý viên dung vô ngại, do đó có câu:
‘’Viên mãn bồ đề, quy vô sở đắc’’.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, là hai vị Bồ Tát đều thấu suốt thông đạt mười pháp
Ba la mật, bốn tâm vô lượng, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chẳng có gì
chướng ngại.
Lại đắc được các tịnh tam muội của Bồ Tát, đó là tam muội nhật tinh tú, tam
muội tịnh quang, tam muội tịnh sắc, tam muội tịnh chiếu minh, tam muội
trường trang nghiêm, tam muội đại oai đức tạng. Nơi các tam muội này,
cũng đều thông đạt.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai vị Bồ Tát lại chứng được các thứ tam muội của
Bồ Tát. Tam muội dịch là chánh định chánh thọ.
1). Tịnh tam muội : Tức là viên tịnh ba cấu. Ba cấu là gì ? Tức là tham, sân,
si, hoặc là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Làm cho ba cấu bẩn này
đều thanh tịnh.
2). Tam muội nhật tinh tú : Nhật (mặt trời) ví như thật trí, tinh (ngôi sao) ví
như quyền trí, quyền thật không hai, nên gọi là tam muội nhật tinh tú.
3). Tam muội tịnh quang : Bổn tính thanh tịnh, thì hiện ra vô lượng quang
minh.
4). Tam muội tịnh sắc : Bổn thân thanh tịnh thì hiện tất cả màu sắc.
5). Tam muội tịnh quang minh : Tịnh là thể của tam muội, chiếu sáng là
dụng của tam muội; tức cũng là tự tánh thanh tịnh, chiếu soi tất cả.
6). Tam muội trường quang minh : Dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự
trang nghiêm tam muội.
7). Tam muội đại oai đức tạng : Ðại oai phục chúng, đại đức lợi sinh, tức
cũng là oai đức của thập lực. Hai vị Bồ Tát này, đều hoàn toàn thông đạt bảy
thứ tam muội này.
Bấy giờ, đức Phật đó muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm, và thương xót
chúng sinh, mà nói Kinh Pháp Hoa này.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, muốn dẫn dắt Vua Diệu
Trang Nghiêm vào Phật trí, và vì thương xót tất cả chúng sinh, cho nên
giảng giải chân thật nghĩa của Kinh Pháp Hoa. Kinh này là kinh điển thành
Phật, nên xưng là vua trong các kinh.
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ người mẹ, chắp tay
lại bạch rằng : Xin mẹ hãy đi đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa
Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ bái. Tại sao ? Vì đức
Phật đó, đang ở trong tất cả đại chúng trời người, nói Kinh Pháp Hoa, chúng
ta nên đến đó để nghe.
Lúc đó, hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đến chỗ người mẹ (Tịnh Ðức
phu nhân), chắp tay lại thưa với mẹ rằng : ‘’Chúng con xin thỉnh mẹ đi đến
đạo tràng của Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để nghe kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Chúng con sẽ hầu theo mẹ cùng nhau đi đến chỗ Phật để gần
gũi, cúng dường, lễ bái vị Phật đó. Tại sao ? Vì vị Phật đó bây giờ đang ở
trong đại chúng trời người, diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cơ hội khó
gặp, chúng ta nên đi nghe, không thể bỏ qua cơ hội thành Phật.’’
Người mẹ bảo các người con rằng : Cha của các con tin sâu pháp ngoại đạo
Bà la môn. Các con nên đến thưa với cha, để chúng ta cùng đi với nhau.
Tịnh Ðức phu nhân nói với hai người con : Cha của các con chẳng tin Phật
pháp, mà tin tà pháp trường sinh bất lão, xuất huyễn nhập hóa, tin sâu chấp
trước pháp Ba la môn. Các con nên đến chỗ cha nói rõ tin tức này, để chúng
ta cùng đi đến chốn Phật nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay lại thưa với người mẹ rằng : Chúng con là
con của đấng Pháp Vương, mà sinh vào nhà tà kiến này.
Hai vị vương tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn chắp tay lại, nói với người mẹ
rằng : ‘’Chúng con thuở xưa tu Bồ Tát đạo, đã là con của đấng Pháp Vương,
nhưng lại bất hạnh, sinh vào nhà tà kiến này, chúng con phải sửa đổi trở
thành nhà chánh kiến.’’
Người mẹ bảo các người con rằng : Các con nên thương nghĩ đến cha của
các con, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha của các con mà thấy được,
thì chắc tâm sẽ thanh tịnh, hoặc nghe lời của chúng ta, mà cùng nhau đi đến
chỗ đức Phật.
Tịnh Ðức phu nhân lại nói với hai người con rằng : ‘’Các con nên có tâm
hiếu thuận, thương nghĩ đến cha của các con, trong quá khứ ông ta là hộ
pháp của các con. Bây giờ các con đến độ ông ta thành Phật, ông ta mê tín
ngoại đạo, chẳng chịu tin chánh đạo. Các con nên vì ông ta mà hiện các thứ
thần thông biến hóa, nếu ông ta thấy được chắc tâm của ông ta sẽ thanh tịnh,
sẽ giác ngộ hoặc sẽ nghe tin lời của chúng ta nói, và cùng nhau đi đến chốn
Phật, nghe Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí diễn nói Kinh Pháp
Hoa.’’
Lúc đó, hai người con vì thương nghĩ đến người cha, mà vọt lên hư không
cao khoảng bảy cây đa la, hiện các thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư
không đi đứng nằm ngồi, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra
nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, rồi lại hiện
nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến mất trong hư không, hốt nhiên ở dưới đất, vào đất
như vào nước, đi trên nước như đi trên đất. Hiện các thứ thần thông biến hóa
như thế, khiến cho vua cha tâm được thanh tịnh tin hiểu.
Hai người con của vua Diệu Trang Nghiêm vì nghĩ nhớ đến người cha,
muốn độ cho cha cải tà quy chánh, mới đến chỗ người cha vọt thân lên hư
không, cao khoảng bảy cây đa la (khoảng bốn mươi chín trượng), hiện ra đủ
thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi đứng nằm ngồi rất tự tại. Trên
thân ra nước, dưới thân ra lửa, hoặc dưới thân ra nước, trên thân ra lửa.
Nước lửa cùng nhau hòa hợp, chẳng có xung đột. Hoặc hiện ra thân lớn đầy
khắp hư không. Hoặc thân lớn lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến hóa khó
dò, khiến cho người thấy lấy làm hoan hỉ, được chưa từng có. Thân ở trong
hư không lại biến mất, hốt nhiên lại hiện ra ở dưới đất. Vào đất dễ như vào
nước, đi trên nước như đi trên đất, có thể nói nhậm vận tự tại, tùy theo ý
muốn. Hai vị vương tử hiện ra đủ thứ biến hóa như thế, mục đích là khiến
cho tâm của vua cha được thanh tịnh, sinh tâm hiểu Phật pháp, xả bỏ pháp
ngoại đạo.
Khi ấy, người cha thấy thần lực của các người con như thế, thì tâm đại hoan
hỉ, được chưa từng có, chắp tay lại hướng về các người con nói rằng : Thầy
của các con là ai ? Các con là đệ tử của ai ?
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm thấy hai người con có thần lực như thế,
biến hóa vô cùng, tâm sinh đại hoan hỉ, đắc được cảnh giới áo diệu chưa
từng có. Do đó, bèn chắp hai tay lại hướng về hai người con hỏi : ‘’Thầy của
các con là ai ? Các con là đệ tử của ai.’’
Hai người con bạch rằng : Thưa đại vương ! Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú
Vương Hoa Trí, nay ở dưới cội bồ đề bảy báu, ngồi ở trên pháp tòa, ở trong
tất cả thế gian chúng trời người, diễn nói Kinh Pháp Hoa, là thầy của chúng
con, chúng con là đệ tử.
Hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn nói với vua Diệu Trang Nghiêm
rằng : ‘’Thưa Ðại Vương ! Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đó,
hiện nay đang ngồi ở trên pháp tòa, dưới cội bồ đề bảy báu, vì tất cả thế gian
chúng trời người diễn nói Kinh Pháp Hoa, Ngài là thầy của chúng con,
chúng con là đệ tử của Ngài.’’
Người cha nói với con rằng, nay cha cũng muốn gặp thầy của các con, chúng
ta cùng đi với nhau.
Vua Diệu Tang Nghiêm nói với hai người con rằng : ‘’Hiện nay cha cũng
muốn đi đến gặp thầy của các con. Các con có thần thông như thế, thì thầy
của các con chắc chắn thần thông không thể nghĩ bàn, cha và các con cùng
nhau đi đến chốn Phật, để nghe Kinh Pháp Hoa.’’
Hai người con bèn từ hư không xuống, đến chỗ người mẹ chắp tay thưa với
mẹ rằng : Thưa mẹ ! Phụ vương nay đã tin hiểu, đã phát tâm A nậu đa la tam
miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự, xin mẹ cho phép
chúng con ở nơi đức Phật đó, xuất gia tu đạo.
Hai người con của vua Diệu Trang Nghiêm ở trong hư không hiện mười tám
biến rồi, từ hư không đi xuống đến chỗ Tịnh Ðức phu nhân ở, chắp tay thưa
với người mẹ rằng : ‘’Thưa mẹ ! Cha của chúng con, hiện nay chẳng còn tin
pháp tà tri tà kiến của ngoại đạo nữa, mà tin Phật pháp, hiểu Phật pháp. Hiện
tại cha đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha
làm đại Phật sự. Hy vọng mẹ thấy và nghe rồi, cho phép chúng con anh em
hai người đến chỗ Ðức Phật, theo Phật xuất gia, tu vô thượng đạo.’’
Bấy giờ, hai người con muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn muốn thuật lại ý nghĩa vừa nói ở trên, bèn
dùng kệ để nói.
Xin mẹ cho chúng con
Xuất gia làm Sa môn
Chư Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật tu.
Như hoa ưu đàm bát
Gặp Phật càng khó hơn
Khỏi các nạn cũng khó
Xin cho con xuất gia.
‘’Chúng con anh em hai người, xin mẹ từ bi thương xót, cho chúng con xuất
gia tu đạo làm Sa môn, sau đó sẽ thành Phật đạo. Sa Môn dịch là siêng tức,
tức là siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Chư Phật ra đời chẳng dễ
gì gặp được. Hiện tại có Phật ra đời, chúng con xin đi theo Phật tu học Phật
pháp.
Giống như hoa ưu đàm bát la, ba ngàn năm hoa mới nở một lần, rất khó
được gặp. Gặp được Phật cũng khó như thế. Thoát khỏi các hoạn nạn cũng
rất khó, hy vọng mẹ đáp ứng yêu cầu của các con, cho phép các con xuất gia
tu đạo.’’
Người mẹ nói rằng : Cho các con xuất gia, tại sao ? Vì Phật khó được gặp.
Tịnh Ðức phu nhân nói với hai người con rằng : ‘’Tốt lắm ! Mẹ cho phép
các con xuất gia tu đạo. Tại sao ? Vì Phật chẳng dễ gì gặp được. Mong rằng
sau khi các con xuất gia rồi, ngày đêm tinh tấn tu Bồ Tát đạo.’’
Hai người con bèn thưa với cha mẹ rằng : Lành thay cha mẹ ! Xin cha mẹ đi
đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để gần gũi cúng dường.
Tại sao ? Vì Phật rất khó gặp được.
Hai người con của vua Diệu Trang Nghiêm nói với cha mẹ rằng : ‘’Lành
thay ! Cha mẹ thương yêu chúng con, cho phép chúng con xuất gia tu đạo.
Vì không thể báo ân dưỡng dục của cha mẹ, xin cha mẹ tha thứ tội chưa làm
tròn bổn phận thiếu thảo. Hy vọng cha mẹ đi đến chỗ đạo tràng của Phật Vân
Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để gần gũi, cúng dường Phật. Tại sao ? Vì Phật
ra đời, nếu người chẳng có căn lành, thì chẳng dễ gì được gặp.’’
Như hoa ưu đàm bát la, như rùa một mắt gặp lỗ khúc gỗ nổi, mà chúng con
phước báu đời trước sâu dày, nên sinh ra được gặp Phật pháp, do đó mà cha
mẹ cho chúng con xuất gia tu đạo. Tại sao ? Vì chư Phật rất khó gặp, thời cơ
cũng khó gặp.
Giống như hoa ưu đàm bát la, chẳng dễ gì gặp được lúc nở. Hoa này nở ra là
tàn liền, thời gian rất ngắn, trong chốc lát thì tàn rụng. Lại giống như con rùa
một mắt, ở trong biển cả, muốn tìm lỗ khúc gỗ nổi để nương náu, thật chẳng
dễ gì, khó như mò kim dưới đáy biển. Muốn gặp Phật cũng khó khăn như
thế.
Vì chúng con gieo trồng phước báu trong kiếp trước đặc biệt sâu dày, cho
nên sinh vào thời có Phật ra đời, gặp được Phật, nghe được pháp, may mắn
thay ! Vì vậy, nên cha mẹ cho phép chúng con xuất gia tu đạo. Vì sao ? Vì
chư Phật rất khó gặp, thời cơ khó thấy, đừng để mất cơ hội tốt, phải nắm lấy
cơ hội xuất gia tu hành.
Khi đó, tám vạn bốn ngàn người đi theo vua Diệu Trang Nghiêm, thảy đều
thọ trì Kinh Pháp Hoa này. Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt tam muội
pháp hoa, Bồ Tát Tịnh Tạng thì ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, đã
thông đạt tam muội ly chư ác thú. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, lìa
khỏi các đường ác.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Lúc đó, tám vạn người cung nga thể nữ,
đi theo vua Diệu Trang Nghiêm thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Lúc đó tám vạn bốn ngàn người cung nga
thể nữ đi theo vua Diệu Trang Nghiêm, thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa. Bồ
Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt vô ngại tam muội pháp hoa (pháp quyền
thật không hai). Bồ Tát Tịnh Tạng ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp,
đã thông đạt tam muội ly chư ác thú (bốn đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh, A tu la). Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi các đường ác.
Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, biết được tạng bí mật
của chư Phật. Hai người con khéo dùng sức phương tiện như thế, để giáo
hóa người cha, khiến cho sinh tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp.
Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, tức là chư Phật ở trong
định thuyết pháp, phu nhân cũng thấu hiểu được bảo tàng diệu pháp bí mật
không truyền cuả chư Phật nói. Hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn dùng
phương tiện thiện xảo như thế, để độ hoá người cha cuả các Ngài, khiến cho
chúng sinh tín ngưỡng Phật pháp, hiểu rõ ý của Phật pháp, ưa thích Phật
pháp và nghiên cứu Phật pháp.
Vua Diệu Trang Nghiêm với quần thần quyến thuộc, Tịnh Ðức phu nhân với
tùy tùng thể nữ, và hai người con của vua, cùng với bốn vạn hai nghìn
người, đều tụ lại cùng nhau, đi đến chỗ đức Phật. Ðến rồi, đầu mặt lễ dưới
chân Phật, và nhiễu đức Phật ba vòng, rồi đứng qua một bên.
Vua Diệu Trang Nghiêm với quần thần quyến thuộc cùng nhau đi đến chốn
Phật. Tịnh Ðức phu nhân và cung nga thể nữ cùng quyến thuộc cùng nhau đi
đến chốn Phật. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn và bốn vạn hai ngàn người cùng
nhau đi đến chốn Phật. Sau khi đến chỗ Ðức Phật rồi, đều năm thể sát đất
đảnh lễ Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, sau đó đi nhiễu Phật ba vòng,
biểu thị cung kính, rồi lui về một bên, lắng nghe Phật chỉ dạy.
Bấy giờ, đức Phật đó vì vua Diệu Trang Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hóa,
khiến cho vua được lợi ích hoan hỉ, vua rất vui mừng.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm và phu nhân cởi chuỗi ngọc châu báu nơi
cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, rải lên trên đức Phật, ở trong hư không hóa
thành đài báu bốn trụ. Trong đài có giường báu lớn, giăng bày hàng trăm
ngàn vạn thứ y trời. Trên đó, có đức Phật ngồi kiết già, phóng đại quang
minh.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, vì vua Diệu Trang Nghiêm
nói pháp, chỉ thị giáo hoá, khiến cho vua đắc được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ
và rất vui mừng.
Lúc đó, Vua Diệu Trang Nghiêm và phu nhân Tịnh Ðức cởi xâu chuỗi ngọc
châu báu đang đeo nơi cổ giá trị trăm ngàn lạng vàng rải lên cúng dường
Ðức Phật. Chuỗi ngọc châu báu đó, ở trong hư không hóa thành đài báu bốn
trụ (biểu thị cho tứ hoằng thệ nguyện), ở trong đài báu có giường báu lớn,
trên giường báu bày hàng trăm ngàn vạn thứ y trời, ở trên đó có Phật ngồi
kiết già phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ như vầy : Thân Phật rất ít có, đoan
chánh trang nghiêm đặc thù, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất.
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ như vầy: Thân Phật phóng quang ít có
trong thế gian. Dung mạo của Phật đoan chánh trang nghiêm, vừa thù thắng
vừa tốt đẹp, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất. Phật có ba mươi hai tướng
đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Những tướng trang nghiêm thân đó, do sự tu
hành mà có được, do đó có câu:
"Ba tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt".
Lúc đó, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bảo bốn chúng rằng : Các
ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm, đang chắp tay đứng ở trước ta chăng!
Ông vua này, ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, siêng năng tu tập,
giúp Phật hoằng dương Phật pháp, sẽ được thành Phật hiệu là Sa La Thụ
Vương, cõi nước tên là Ðại Quang, kiếp tên là Ðại Cao Vương.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng rằng : ‘’Các
con có thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay ở trước ta chăng ?
Ông vua này ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, tinh tấn siêng năng
tu tập Phật pháp, giúp Phật hoằng dương chánh pháp, tương lai sẽ chứng
được quả vị Phật, hiệu là Sa La Thụ Vương Phật, cõi nước tên là Ðại Quang,
kiếp tên là Ðại Cao Vương.
Ðức Phật Sa La Thụ Vương đó, có vô lượng chúng Bồ Tát, và vô lượng
hàng Thanh Văn, cõi nước đó bằng phẳng, công đức như thế.
Vị Phật Sa La Thụ Vương đó, có vô lượng đệ tử Bồ Tát, có vô lượng đệ tử
Thanh Văn. Cõi nước Ðại Quang đó bằng phẳng, chẳng có chỗ lồi lõm. Hết
thảy công đức trang nghiêm như thế.
Vua Diệu Trang Nghiêm lập tức đem cõi nước giao cho người em, cùng với
phu nhân, hai người con, và các quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu
đạo.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Vua Diệu Trang Nghiêm sau khi nghe
Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói như thế rồi, thì lập tức xả bỏ
ngôi vua, đem đất nước giao phó cho người em cai trị, cùng phu nhân, Tịnh
Tạng, Tịnh Nhãn, hai người con và các quyến thuộc, xuất gia tu đạo với Phật
Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
Vua xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn ngàn năm, thường siêng năng tinh tấn,
tu hành Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua thời gian đó rồi, đắc được tam
muội nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, bèn thăng lên hư không, cao
khoảng bảy cây đa la, mà bạch với đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Hai người
con của con đây, đã làm việc Phật sự, dùng thần thông biến hóa chuyển hóa
tâm tà của con, khiến cho con an trụ vào trong Phật pháp, được thấy đức Thế
Tôn.
Sau khi Vua Diệu Trang Nghiêm xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn nghìn
năm, thường siêng năng tinh tấn, chẳng giải đãi, dũng mãnh tinh tấn tu hành
Kinh Pháp Hoa. Qua thời gian đó rồi, đắc được tam muội nhất thiết tịnh
công đức trang nghiêm, bèn vọt lên trong hư không cao khoảng bảy cây đa
la (khoảng 49 trượng), bèn nói với Phật rằng : ‘’ Ðức Thế Tôn ! Hai người
con của con đây, trong quá khứ đã làm Phật sự, hai vị đó dùng sức thần
thông chuyển hóa tâm tà của con, khiến cho con được an ổn trụ trong Phật
pháp. Nhờ vậy mà con mới được thấy Ðức Thế Tôn !’’
Hai người con đây là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành
trong quá khứ, lợi ích cho con, mà đến sinh vào nhà con.
Vua Diệu Trang Nghiêm nói với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Hai người con
đây là thiện tri thức của con. Hai vị đó vì muốn phát khởi căn lành của con
trong quá khứ, vì lợi ích cho nên mới đến sinh vào nhà của con. Nếu chẳng
có hai vị đó khuyên hóa, thì con vẫn còn tin pháp tà’’
Bây giờ, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bảo vua Diệu Trang
Nghiêm rằng : Như thế, như thế ! Như lời ông nói. Nếu người thiện nam,
người thiện nữ, gieo trồng căn lành, thì đời đời được gặp thiện tri thức.
Thiện tri thức đó, hay làm Phật sự, khai thị giáo hóa, khiến cho được lợi ích,
sinh tâm hoan hỉ, khiến cho được vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo Vua Diệu Trang Nghiêm
rằng : ‘’Như thế, như thế ! Ðúng như lời ông nói. Nếu như có người thiện
nam, người thiên nữ, vì gieo trồng căn lành, cho nên đời đời kiếp kiếp đều
được gặp thiện tri thức. Bậc thiện tri thức đó, dều hay làm đại Phật sự, khai
thị chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng
sinh, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.’’
Ðại vương nên biết ! Bậc thiện tri thức là đại nhân duyên, hay giáo hóa
khiến cho được gặp Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ bề.
Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói : ‘’Ðại Vương ! Ông nên biết, bậc
thiện tri thức là đại nhân duyên.’’ Thiện tri thức là gì ? Nói đơn giản là giáo
hóa chúng sinh, xa lìa tội lỗi mười điều ác, tu hành pháp thập thiện. Người
học Phật pháp, phải có mắt chọn pháp, phàm là đại công vô tư, tất cả vì
chúng sinh, đó là thiện tri thức. Nếu ích kỷ, chuyên nghĩ về lợi ích cho mình,
đó tức là ác tri thức. Phải gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức, nhận thức
rõ ràng mới không bị họ hại mà được sự lợi ích.
Thiện tri thức hay giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, thấy Phật nghe pháp, phát
tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Thiện Tài đồng tử đi tham vấn năm
mươi ba vị thiện tri thức, đi khắp nơi cầu pháp, làm thế nào phát bồ đề tâm,
làm thế nào hành Bồ Tát đạo, cuối cùng chứng được vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Ðại vương ! Ông có thấy hai người con này chăng ! Hai người con này đã
từng cúng dường, sáu mươi lăm trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng hà sa chư
Phật, gần gũi cung kính, ở chỗ chư Phật thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót
những chúng sinh tà kiến, mà khiến cho họ trụ vào chánh kiến.
‘’Ðại Vương ! Ông có thấy hai người con này của ông chăng ? Hai vị đó
trong quá khứ, đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn vạn ức na do
tha Hằng hà sa các Ðức Phật, gần gũi chư Phật, cung kính chư Phật, ở trong
đạo tràng của chư Phật, đời đời kiếp kiếp đều thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương
xót những chúng sinh có tư tưởng tà kiến, khiến cho họ trụ vào chánh kiến ở
trong Phật pháp.’’
Vua Diệu Trang Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, mà bạch Phật rằng :
Ðức Thế Tôn ! Như Lai rất ít có, do nhờ công đức trí huệ, nên nhục kế ở trên
đỉnh phóng ra quang minh chiếu sang, mắt của Ngài dài và rộng, có màu sắc
xanh biếc, tướng hào quang giữa chặng mày trắng như ngọc kha, răng trắng
vừa đều vừa khít, thường có quang minh, môi màu đỏ tươi như quả tần bà.
Vua Diệu Trang Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, đến trước Ðức Phật Vân
Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bạch rằng: ‘’Ðức Thế Tôn ! Như Lai rất ít có.
Vì có tất cả công đức và nhất thiết trí huệ, cho nên trên đỉnh của Như Lai có
tướng nhục kế, phóng quang minh, chiếu khắp mười phương. Mắt của Như
Lai vừa dài vừa rộng, màu sắc xanh biếc. Giữa chặng mày của Như Lai có
tướng hào quang trắng như ngọc kha. Răng của Như Lai vừa trắng, vừa đều,
vừa khít, thường phóng quang minh. Môi của Như Lai màu đỏ tươi như quả
tần bà.’’
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi vô lượng trăm ngàn vạn ức
công đức của Phật như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại, bạch
Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Chưa từng có vậy, pháp của Như Lai thành tựu
đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh, khiến cho
được an ổn, vui sướng.
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng công đức như
thế rồi, ở trước Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, một lòng chắp tay
bạch Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con chưa bao giờ thấy thân sắc đẹp trang
nghiêm của Như Lai. Pháp của Như Lai nói rất viên mãn, thành tựu đầy đủ
công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Giáo hóa chúng sinh, đừng làm các
điều ác, làm các việc lành, khiến cho chúng sinh được an ổn, vui sướng.’’
Bắt đầu từ nay, con chẳng tùy thuận tâm hành của mình nữa, chẳng sinh tâm
tà kiến, kiêu mạn sân hận điều ác. Nói như thế rồi, bèn lễ Phật lui ra.
Vua Diệu Trang Nghiêm nói : ‘’ Từ nay trở đi, con chẳng tùy thuận vọng
tâm đi làm việc nữa, chẳng theo tâm điên đảo làm việc nữa. Từ nay về sau
chẳng sinh tâm tà kiến, chẳng sinh tâm kiêu mạn, chẳng sinh tâm ngã mạn,
chẳng sinh tâm sân hận. Tóm lại, chẳng sinh tâm ác.’’ Vua Diệu Trang
Nghiêm nói như thế rồi, năm thể lễ Phật sát đất, lễ rồi lui đứng về một bên,
đợi Phật khai thị.
Ðức Phật bảo đại chúng ! Ý của các ông thế nào ? Vua Diệu Trang Nghiêm
đâu phải là ai khác, nay là Bồ Tát Hoa Ðức, còn phu nhân Tịnh Ðức, nay là
Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng, đang ở trước đức Phật. Vì
thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc, nên sinh vào ở
trong nước đó.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với đại chúng trong hội Pháp Hoa rằng :
‘’Trong tâm của đại chúng, các ông như thế nào ? Vua Diệu Trang Nghiêm
mà ta nói đó, các ông có biết là ai chăng ? Tức hiện tại là Bồ Tát Hoa Ðức
này vậy. Còn Tịnh Ðức phu nhân, tức hiện tại là Bồ Tát Quang Chiếu Trang
Nghiêm Tướng đang ở trước Phật vậy, vì thương xót vua Diệu Trang
Nghiêm và tất cả quyến thuộc, cho nên sinh vào ở trong nước đó, để làm vợ
của vua, cảm hóa vua Diệu Trang Nghiêm cải tà quy chánh, tin sâu Phật
pháp, thọ trì Kinh Pháp Hoa.’’
Hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, nay là Bồ Tát Dược Vương và Bồ
Tát Dược Thượng, thành tựu các công đức lớn như thế. Ðã từng ở chỗ vô
lượng trăm ngàn vạn ức các đức Phật, trồng các gốc công đức, thành tựu các
công đức lành không thể nghĩ bàn.
Hai người con của vua là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, các ông có biết là ai
chăng ? Tức là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng này vậy. Bồ
Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng thành tựu các công đức lớn như
thế, thật là không thể nghĩ bàn. Hai vị đó đã từng ở chốn đạo tràng của vô
lượng trăm ngàn vạn ức các Ðức Phật, trồng các căn lành, trồng các gốc
công đức, thành tựu các công đức lành không thể nghĩ bàn.
Nếu có ai biết được danh hiệu của hai vị Bồ Tát này, thì tất cả thế gian chư
thiên, nhân dân, cũng nên lễ bái.
Nếu như có người nào, biết được hoặc nghe được danh hiệu của hai vị Bồ
Tát đó, trì nơi tâm, nhớ mãi không quên, thì tấ cả chư thiên loài người, đều
nên lễ bái Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
Khi đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Vua Diệu Trang Nghiêm, thì có tám vạn
bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc được pháp nhãn thanh
tịnh.
Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương,
thì có tám vạn bốn ngàn người đắc được pháp ích, xa lìa trần lao, thoát khỏi
trần cấu, ở trong các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Quán sát được tất
cả pháp thế gian là vô thường, khổ không, vô ngã. Biết được pháp xuất thế là
thường, lạc, ngã, tịnh.
---o0o---
Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Phổ Hiền tiếng phạn là ‘’Tam mạn đa bạt đà la’’. Tam mạn dịch là Phổ, bạt
đà la dịch là Hiền, do đó :
‘’Thể tính khắp cùng là phổ,
Tùy duyên thành đức là hiền.’’
Lại dịch là Biến Cát, biến (khắp) tức là phổ, cát tức là hiền. Tuy danh từ
khác nhau, nhưng ý nghĩa như nhau. Ðịa vị của Bồ Tát Phổ Hiền chỉ khác
Phật chút chút. Giống như trăng ngày mười bốn so với trăng rằm, chỉ sai một
chút về tròn sáng.
Bồ Tát Phổ Hiền là một trong bốn đại Bồ Tát, địa vị rất cao. Ngài ủng hộ
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói pháp, ở trong hội Hoa Nghiêm thì Ngài là
thuyết pháp chủ. Có Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, phát mười đại nguyện
vương, đó là pháp môn Bồ Tát phải tu.
Trong hội Pháp Hoa, Bồ Tát Phổ Hiền hướng về đại chúng pháp hội nói sau
cùng, khuyên đại chúng phát bồ đề tâm, thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng
Kinh Pháp Hoa, giải nói Kinh Pháp Hoa, biên chép Kinh Pháp Hoa. Tóm lại,
khiến cho đại chúng cúng dường, lễ bái, khen ngợi, ấn tụng, truyền bá Kinh
Pháp Hoa, thì chắc chắn có công đức không thể nghĩ bàn.
Bồ Tát Phổ Hiền tu hành tinh tấn nhất, chẳng những nguyện lớn mà hạnh
cũng lớn. Ðem thân phận và địa vị của Ngài khuyên đại chúng phát tâm ủng
hộ Kinh Pháp Hoa, thì đại chúng chắc chắn sẽ tin lời của Ngài nói mà y pháp
tu hành. Phẩm này là phẩm cuối cùng của Kinh Pháp Hoa, cho nên là Phẩm
Khuyến Phát của Bồ Tát Phổ Hiền thứ hai mươi tám.
Ðã giảng Kinh Pháp Hoa hết mười bốn tháng. Hôm nay (ngày 5 tháng 3 năm
1971) giảng đến phẩm hai mươi tám gần hết.
Tiếp theo là giảng Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, do đó có câu
:
‘’Chẳng đọc Kinh Hoa Nghiêm,
Chẳng biết Phật giàu sang thật.’’
Sự giàu sang của Phật, nằm hết ở trong Kinh Hoa Nghiêm. Kinh đó đạo lý
vô cùng vô tận, hy vọng mọi người đừng bỏ lỡ cơ hội nghe Kinh Hoa
Nghiêm.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, uy đức danh văn, cùng
với các đại Bồ Tát, vô lượng vô biên không thể tính đếm. Từ phương đông
đến, các cõi nước đi qua thảy đều chấn động.
Khi nói Phẩm Khuyết Phát của Bồ Tát Phổ Hiền, thì Bồ Tát Phổ Hiền dùng
sức thần thông tự tại, có uy đức có danh văn. Ngài và các đại Bồ Tát số
nhiều vô lượng vô biên, từ phương đông đến pháp hội Linh Sơn, thế giới Ta
Bà, Nam Diêm Phù Ðề. (Bồ Tát Phổ Hiền nương chân lý mà ở, nên chẳng có
một cõi nước cố định). Tất cả các cõi nước mà Ngài đi qua, thảy đều phát
sinh chấn động, biểu thị sáu căn của tất cả chúng sinh đều thanh tịnh.
Mưa xuống các hoa sen báu, vang lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ âm
nhạc.
Bồ Tát Phổ Hiền và vô lượng các đại Bồ Tát đi ngang qua các cõi nước,
chẳng những có sáu thứ chấn động, mà hư không còn mưa xuống các hoa
sen báu, ở trong hư không còn vang lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ
âm nhạc, rất là êm tai, khiến cho người nghe hoặc thấy được, đều sinh tâm
niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng.
Cùng với vô số các hàng trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la,
Khẩn na la, Ma hầu la già, người và chẳng phải người, hết thảy đều vây
quanh, ai nấy đều hiện sức thần thông oai đức, đến núi Kỳ xà quật ở thế giới
Ta Bà.
Bồ Tát Phổ Hiền cùng với các chúng trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la,
Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và chẳng phải người, hết thảy đại
chúng vây quanh, ai nấy đều hiện ra thần thông oai đức, đến núi Kỳ xà quật
ở thế giới Ta Bà.
Ðến rồi, đại chúng đều đảnh lễ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhiễu bên phải
bảy vòng, bèn bạch Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con ở cõi nước của đức
Phật Bảo Oai Ðức Thượng Vương, xa nghe thế giới Ta Bà này nói Kinh
Pháp Hoa, nên con và vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ Tát cùng
nhau đến nghe.
Bồ Tát Phổ Hiền đến pháp hội Linh Sön, cùng với đại chúng năm thể sát đãt,
đảnh lễ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, và nhiễu bên phải Ðức Phật bảy vòng.
Biểu thị bảy bồ đề phần. Sau đó, bạch với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con
ở trong cõi nước của Ðức Phật Bảo Oai Thượng Vương, xa nghe ở thế giới
Ta Bà nói Kinh Pháp Hoa. Chúng con vô lượng các đại chúng Bồ Tát, cùng
nhau đến pháp hội Linh Sơn để nghe Kinh Pháp Hoa.’’
Xin đức Thế Tôn, hãy vì đại chúng mà nói. Nếu có người thiện nam, người
thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, làm sao có thể được Kinh Pháp Hoa này ?
Bồ Tát Phổ Hiền và vô lượng các Bồ Tát nói : ‘’Xin Ðức Thế Tôn từ bi, hãy
vì chúng con đại chúng mà nói. Nếu như có người thiện nam người thiện nữ,
sau khi Như Lai diệt độ, thì họ làm thế nào có thể được Kinh Pháp Hoa này
? Làm sao được thọ trì Kinh Pháp Hoa này ?
Ðức Phật bảo Bồ Tát Phổ Hiền : Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thành
tựu bốn pháp này, thì sau khi Như Lai diệt độ, sẽ được Kinh Pháp Hoa này.
Ðức Phật Thích Ca nói với Bồ Tát Phổ Hiền : ‘’Phổ Hiền ! Nếu có người
nam làm thiện, người nữ làm thiện, họ thành tựu bốn pháp này, thì sau khi
Như Lai diệt độ, tự nhiên họ sẽ được Kinh Pháp Hoa này.’’
Một là được chư Phật hộ niệm. Hai là đã gieo trồng các gốc công đức. Ba là
vào chánh định tụ. Bốn là phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh. Người thiện
nam, người thiện nữ, thành tựu bốn pháp như thế, thì sau khi Như Lai diệt
độ, sẽ được Kinh Pháp Hoa.
Bốn pháp này tức là :
1). Ðược chư Phật hộ niệm : Làm thế nào mới được chư Phật hộ niệm ? Tức
là phải thọ trì Kinh Pháp Hoa, và tu trì các thứ pháp lành, đây là thường.
2). Trồng các gốc công đức : Tức là gieo trồng các căn lành, tu các pháp
lành, đây là lạc.
3). Vào chánh định tụ : Tức là vào sâu trong chánh định tụ, đây là thật ngã.
4). Phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh, đây là tịnh.
Nếu như người nam tu thiện, người nữ tu thiện, thành tựu được bốn pháp
này, thì sau khi Như Lai diệt độ, chắc chắn sẽ được Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa.
Bốn pháp này, có thể nói là bốn an lạc hạnh, được chư Phật hộ niệm là thân
an lạc hạnh, trồng các gốc công đức là khẩu an lạc hạnh, vào chánh định tụ
là ý an lạc hạnh, phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh là nguyện an lạc hạnh.
Lại có thể nói là được chư Phật hộ niệm, và vào chánh định tụ, hai pháp này
là mặc y Như Lai. Trồng các gốc công đức là ngồi tòa Như Lai. Phát tâm
cứu hộ tất cả chúng sinh là vào nhà Như Lai. Bốn pháp này là khai thị ngộ
nhập vào tri kiến của Phật. Ðược chư Phật hộ niệm là khai mở sự thấy của
Phật; gieo trồng các gốc công đức là mở bày tri kiến của Phật; vào chánh
định tụ là vào tri kiến của Phật; phát tâm cứu hộ tất cả chúng sinh là ngộ tri
kiến của Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Vào đời ác trược
năm trăm năm sau, như có người thọ trì kinh điển này, thì con sẽ bảo hộ
người đó, trừ diệt mọi tai nạn, khiến cho họ được an ổn, làm cho thiên ma
ngoại đạo chẳng được tiện lợi, xâm phạm người đó.
Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền nói với Ðức Phật Thích Ca rằng : ‘’Ðức Thế Tôn !
Vào đời ác năm trược năm trăm năm sau, như có ai thọ trì, đọc tụng giải nói,
biên chép, cúng dường, lễ bái, ủng hộ, ấn tống kinh, truyền bá Kinh Pháp
Hoa, thì con (Bồ Tát Phổ Hiền) phát nguyện bảo hộ người đó, diệt trừ tất cả
tai nạn chẳng cát tường của người đó, khiến cho họ được an ổn, làm cho
thiên ma ngoại đạo, quỷ thần chẳng tìm được cơ hội, chẳng tiện lợi xâm
phạm người thọ trì Kinh Pháp Hoa.’’
Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm đầu tiên là thời kỳ giải thoát kiên cố, ai
ai biết tu hành thì đều được giải thoát. Năm trăm năm kế tiếp, là thời kỳ
thiền định kiên cố, ai ai cũng tu tập thiền định. Năm trăm năm thứ ba là thời
kỳ chùa tháp kiên cố, ai ai cũng xây chùa tạo tháp làm công đức. Năm trăm
năm thứ tư là thời kỳ đa văn kiên cố, ai ai cũng nghiên cứu kinh nghĩa,
nhưng chẳng chú trọng tu hành. Năm trăm năm thứ năm là thời kỳ đấu tranh
kiên cố, người vào thời đại mạt pháp chỉ biết đấu tranh, chẳng biết tu hành.
Tức là chỉ người vào thời kỳ hiện tại này, bạn tranh tôi giành. Tại sao ? Là vì
danh vì lợi.
Nếu ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc có
người bị ma mê hoặc, hoặc dạ xoa, hoặc la sát, cưu bàn trà, tỳ xá xà, cát giá,
phú đơn na, vĩ đà la, hết thảy muốn não hại người, thì chẳng được tiện lợi.
Hoặc là Ma Vương, con trai của ma, con gái của ma, dân ma, người bị ma
mê hoặc mất đi tri giác, tinh thần hoảng hốt, ý chí chẳng tỉnh táo, miệng nói
lảm nhảm, nói những việc quái dị. Hoặc dạ xoa, la sát, cưu bàn trà (quỷ cái
vò), tỳ xá xà (quỷ ăn tinh), cát giá (quỷ ăn tử thi), phú đơn na (quỷ hôi thối),
vĩ đà la (quỷ yểm đảo), những loài quỷ này dùng chú để chi phối người,
khiến cho người đi xâm hủy người khác. Con sẽ khiến cho những thiên ma
ác quỷ đó, chẳng được cơ hội não hại người thọ trì Kinh Pháp Hoa.
Người đó, nếu đi hoặc đứng đọc tụng kinh này, thì lúc đó con sẽ cỡi voi
chúa trắng sáu ngà, cùng với chúng đại Bồ Tát, cùng đi đến chỗ người đó,
mà tự hiện thân, cúng dường bảo hộ an ủi tâm của người đó, và cũng vì cúng
dường Kinh Pháp Hoa.
Bồ Tát Phổ Hiền lại nói : ‘’Nếu người đó, đi hoặc đứng mà tụng Kinh Pháp
Hoa, thì lúc đó con sẽ cỡi voi chúa trắng sáu ngà (sáu ngà đại biểu cho sáu
độ), cùng với tất cả chúng đại Bồ Tát, cùng nhau đi đến chỗ người đó thọ trì
Kinh Pháp Hoa. Tự hiện thân để cúng dường chư Phật và bảo hộ người thọ
trì Kinh Pháp Hoa, dùng tâm khen ngợi an ủu họ, chủ yếu cũng là cúng
dường Kinh Pháp Hoa.’’
Nếu người đó ngồi suy nghĩ về kinh này, thì lúc đó con cũng sẽ cỡi voi chúa
trắng hiện thân ở trước người đó. Nếu người đó ở nơi Kinh Pháp Hoa, có
quên mất một câu, một bài kệ, thì con sẽ chỉ dạy họ, hoặc cùng đọc tụng với
họ, khiến cho họ thông đạt.
‘’Nếu người đó, ngồi một lòng suy nghĩ về chỗ chẳng thấy thân thể của con,
khiến họ sinh tâm đại hoan hỉ, so với trước càng tinh tấn dụng công tu hành.
Vì thấy được thân con, nên liền đắc được tam muội (chánh định), lại đắc
được đà la ni (tổng trì), tên là toàn đà la ni.
Toàn đà la ni do một nghĩa mà minh bạch nhiều nghĩa, do nhiều nghĩa mà
quy về một nghĩa, do đó :
‘’Một làm vô lượng, vô lượng làm một’’.
Có trăm ngàn vạn ức đà la ni, đều thông đạt vô ngại. Lại có pháp âm phương
tiện đà la ni. Người thọ trì Kinh Pháp Hoa, hay đắc được những đà la ni như
đã nói ở trên‘’.
Ðức Thế Tôn ! Nếu đời sau này, vào đời ác trược, năm trăm năm sau, có
hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, thọ trì, đọc tụng, biên
chép, muốn tu tập Kinh Pháp Hoa này, trong hai mươi mốt ngày, một lòng
tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà, cùng với
vô lượng chúng Bồ Tát mà tự vây quanh, dùng tất cả thân mà chúng sinh
thích thấy, để hiện ra ở trước người đó, mà vì họ nói pháp, khai thị giáo hóa,
khiến cho họ được lợi ích, hoan hỉ.
Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng : ‘’ Ðức Thế Tôn ! Nếu như năm trăm
năm sau, vào đời ác năm trược, có hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư
sĩ nữ nào, thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng Kinh Pháp Hoa, hoặc biên chép
Kinh Pháp Hoa. Muốn y theo pháp trong Kinh Pháp Hoa mà tu tập, nội
trong hai mươi mốt ngày, chuyên tâm dũng mãnh tinh tấn, chẳng giải đãi, tu
mãn hai mươi mốt ngày rồi, thì con sẽ voi chúa trắng sáu ngà, cùng với vô
lượng chúng Bồ Tát, tự vây quanh, dùng tất cả thân mà chúng sinh ưa thấy,
để hiện ra ở trước người đó, mà vì họ nói pháp của Kinh Pháp Hoa, khai thị,
giáo hóa họ, khiến cho họ được lợi ích, được hoan hỉ.’’
Tại sao phải nói là hai mươi mốt ngày ? Vì thân thể của con người, sau bảy
ngày thì có tiểu biến hóa (tiểu quang minh). Sau mười bốn ngày thì có trung
biến hóa (trung quang minh). Sau hai mươi mốt ngày thì có đại biến hóa (đại
quang minh). Nếu trì chánh pháp thì đen tối (vô minh) sẽ biến thành quang
minh (trí huệ), do đó : ‘’Một ngọn đèn trừ diệt được ngàn năm đen tối, một
khi khai mở trí huệ thì tiêu diệt được vạn năm ngu si.’’ Vô minh tiêu diệt rồi,
thì trí huệ sẽ hiện tiền. Tu đạo tức là diệt vô minh hiển pháp tính.
Hôm nay kể chuyện về trì tụng, và biên chép Kinh Pháp Hoa.
Trước kia, có một vị pháp sư phát tâm biên chép Kinh Pháp Hoa. Một số
người biên chép kinh này, thì đa số đều dung mực để biên chép kinh, song vị
pháp sư đó dùng máu của chính mình để biên chép kinh. Vì kiền thành đến
cực điểm, nên có cảm ứng, do đó :
‘’Tin thành đến mức, vàng đá cũng tan.’’
Khi pháp sư đó biên xong Kinh Pháp Hoa rồi, thì đến ao nước rửa bút, cảnh
giới bèn hiện ra, nước trong ao sinh ra hoa sen. Cảnh giới này diệu không
thể tả.
Lại có một vị pháp sư, mỗi ngày đều chí thành tụng Kinh Pháp Hoa, chưa
bao giờ gián đoạn. Một ngày nọ, trong chùa có một con bò (chỗ làm ruộng)
đột nhiên chết. Ðêm đó vị pháp sư mộng thấy con bò nói rằng : ‘’Tôi là mẹ
của ông, vì tôi trong đời trước chẳng tin Tam Bảo, chẳng tin nhân quả, cho
nên sau khi chết đi, đọa vào đường súc sinh làm bò, cày ruộng cho chùa để
chuộc tội. Bây giờ, ông kiền thành đọc tụng Kinh Pháp Hoa, tôi đắc được lợi
ích nên thoát khỏi thân bò, được sinh làm người lân cận.’’ Do đó, có thể
thấy, thọ trì Kinh Pháp Hoa có công đức không thể nghĩ bàn.
Con cũng cho chú đà la ni, vì được chú đà la ni, nên chẳng có ai có thể phá
hoại được, cũng chẳng bị người nữ mê hoặc nhiễu loạn, con cũng thường
bảo hộ người đó.
Bồ Tát Phổ Hiền lại nói. ‘’Con cũng cho người thọ trì Kinh Pháp Hoa thần
chú đà la ni này. Vì đắc được đà la ni, nên chẳng bị ai có thể phá hoại được,
cũng chẳng bị người nữ mê hoặc nhiễu loạn. Người thế tục vốn rất thông
minh, song gặp người nữ đẹp thì sẽ hồ đồ, bị cảnh giới chuyển, do đó :
‘’Anh hùng khó qua ải mỹ nhân.’’ Tôi (Bồ Tát Phổ Hiền) phát nguyện
thường hộ trì vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, hiện thân để vì họ nói thần
chú đà la ni này.’’
Xin đức Thế Tôn nghe con nói chú đà la ni này, bèn ở trước đức Phật mà nói
chú rằng :
Bồ Tát Phổ Hiền nói : ‘’Xin Ðức Thế Tôn từ bi cho phép con nói chú này.’’
Ðây là biểu thị tôn trọng, được đồng ý của Phật. Phật yên lặng hứa khả.
‘’Cung thỉnh Ðức Thế Tôn ! Nghe con nói chú đà la ni này, bèn ở trước Phật
nói ra thần chú dưới đây.
A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu
đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba thiên nỉ, tát bà đà la ni, a bà đa ni, tát bà bà
sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết già đà ni, a
tăng kì, tăng già bà già địa, đế lệ a nọa tăng già suất lược, a la đế ba la đế, tát
bà tăng già địa tam ma địa già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát
đõa, lâu đà kiều xá lược, a nậu già địa, tân a tỳ cát lợi địa đế.
Ðức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát nghe được đà la ni này, thì nên biết đó là nhờ
sức thần thông của Phổ Hiền.
Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng: ‘’Ðức Thế Tôn !Nếu như có Bồ Tát được
nghe chú đà la ni này, thì nên biết, đó là nhờ sức thần thông của Bồ Tát Phổ
Hiền mà thành tựu. Thần chú đà la ni này có đủ công đức.’’
Nếu Kinh Pháp Hoa truyền bá ở cõi Diêm Phù Ðề, có người thọ trì, thì nên
nghĩ rằng, đều là nhờ sức oai thần của Phổ Hiền.
Nếu như bộ Kinh Pháp Hoa này mà lưu truyền ở cõi Diêm Phù Ðề (Nam
Thiệm Bộ Châu). Tại sao gọi là Diêm Phù Ðề ? Vì ở Nam Thiệm Bộ Châu
có rừng Diêm Phù Ðề, cây đó kết trái rụng xuống sông, chất nước trái cây
nhiễm vào cát thành màu vàng, ánh sáng màu vàng này rất thù thắng đặc
biệt, sáng hơn màu vàng khác gấp trăm lần, cho nên gọi là màu vàng tía, do
đó mà gọi là Diêm Phù Ðề.
Người ở Diêm Phù Ðề, thọ trì Kinh Pháp Hoa thì nên nghĩ như vầy : ‘’Hiện
tại tôi đang thọ trì Kinh Pháp Hoa, là nhờ sức đại oai đức và đại hạnh
nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền mà thành tựu, bằng không thì tôi chẳng có cơ
hội đọc tụng bộ kinh này.’’
Nếu có người thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giảng giải nghĩa lý của
kinh này, và y theo lời nói trong kinh mà tu hành, thì nên biết người đó thực
hành hạnh của Phổ Hiền, ở chỗ vô lượng vô biên các đức Phật trồng sâu căn
lành, được các đức Như Lai lấy tay rờ đầu.
Nếu như có người thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giải nói nghĩa lý
kinh này, tức là khai ngộ nhập tri kiến của Phật. Nếu y theo pháp mà tu
hành, thì nên biết người đó tu hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền. Người đó đã
ở chỗ mười phương vô lượng chư Phật trồng sâu căn lành, được Chư Phật rờ
đầu thọ ký.
Nếu chỉ biết biên chép, thì người đó sau khi mạng chung, sẽ được sinh về
cõi trời Ðao Lợi, lúc đó có bốn vạn tám ngàn thiên nữ, tấu lên các thứ âm
nhạc đến nghinh tiếp. Người đó bèn đội mũ bảy báu, ở trong các thể nữ vui
cười khoái lạc.
Nếu như có người chỉ biên chép Kinh Pháp Hoa, thì sau khi người đó chết
đi, sẽ được sinh lên cõi trời Ðao Lợi. Lúc đó, có tám vạn bốn nghìn cô thiên
nữ, tấu lên các thứ âm nhạc đến nghinh tiếp người đó, đầu người đó được
đội lên mũ bằng bảy báu tạo thành, và ở trong các thể nữ hưởng thụ vui chơi
khoái lạc.
Hà huống là thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giải nghĩa lý kinh điển,
theo như lời nói trong kinh mà tu hành.
Chỉ biên chép Kinh Pháp Hoa, mà có công đức như thế. Hà huống là thọ trì
đọc tụng Kinh Pháp Hoa, nghĩ nhớ chân chánh, giải thích nghĩa lý trong
kinh, theo như lời trong kinh nói mà tu hành. Công đức đắc được càng
không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
Nếu có người, thọ trì đọc tụng, giải nghĩa lý trong kinh, thì sau khi người đó
chết đi, sẽ được ngàn vị Phật dũi tay rờ đầu, khiến cho họ chẳng sợ hãi,
chẳng đọa vào ba đường ác, bèn được vãng sinh về cõi trời Ðâu Suất, chỗ
của Bồ Tát Di Lặc.
Nếu như có người, hay thọ trì, đọc tụng, giải nói, nghĩa lý của kinh này thì
người đó sau khi mạng chung sẽ được ngàn vị Phật dũi tay rờ đầu thọ ký,
khiến cho họ chẳng sinh tâm sợ hãi, khiến cho họ chẳng đọa lạc vào bốn
đường ác, lập tức được sinh về cõi trời Ðâu Suất nội viện, chỗ của Bồ Tát Di
Lặc. Nội viện này là chỗ ở của các đại Bồ Tát bổ xứ thành Phật sau này. Còn
ngoại viện là chỗ của chư thiên ở.
Bồ Tát Di Lặc có ba mươi hai tướng, có các chúng đại Bồ Tát cùng vây
quanh, lại có trăm ngàn vạn ức thiên nữ, và quyến thuộc cùng sinh ở trong
đó, có các công đức lợi ích như thế.
Bồ Tát Di Lặc tên là A Dật Ða. Di Lặc dịch là Từ Thị, A Dật Ða dịch Vô
Năng Thắng. Ngài là Ðương Lai Hạ sinh Di Lặc Tôn Phật. Hiện tại, Ngài
đang ở trên nội viện cung trời Ðâu Suất, vì chúng sinh thuyết pháp. Ngài có
đủ ba mươi hai tướng đại nhân, và tám mươi vẻ đẹp. Còn có chúng đại Bồ
Tát vây quanh, lại có trăm ngàn vạn ức thiên nữ làm quyến thuộc, sinh ở
trong nội viện, có công đức lợi ích như thế.
Do đó, người có trí nên một lòng biên chép Kinh Pháp Hoa, hoặc khiến
người biên chép, thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, theo như lời nói
trong kinh mà tu hành.
Vì vậy cho nên người có trí, nên một lòng chuyên tâm biên chép Kinh Pháp
Hoa, nếu mình không thể biên chép, thì khiến người khác biên thế, thì có
công đức đồng nhau. Thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, theo như lời nói
trong kinh mà tu hành, thì chắc chắn có vô lượng công đức.
Ðức Thế Tôn ! Con nay dùng sức thần thông để bảo hộ kinh này. Sau khi
Như Lai diệt độ, sẽ rộng truyền bá kinh này ở trong cõi Diêm Phù Ðề, khiến
cho chẳng đoạn tuyệt.
Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng: ‘’Ðức Thế Tôn ! Hiện tại con dùng sức
thần thông để bảo hộ giữ gìn Kinh Pháp Hoa. Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ
rộng truyền bá Kinh Pháp Hoa này khắp cõi Diêm Phù Ðề, chẳng khiến cho
đoạn tuyệt.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen rằng : Lành thay, lành thay ! Phổ
Hiền, ông hộ trì giúp kinh này, khiến cho hết thảy chúng sinh được lợi ích an
lạc. Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, lòng từ bi sâu rộng, từ
lâu xa đến nay, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, hay phát nguyện
thần thông đó, bảo hộ kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông, bảo hộ người thọ
trì danh hiệu của Bồ Tát Phổ Hiền.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca khen ngợi Bồ Tát Phổ Hiền nói : ‘’Lành thay,
lành thay ! Phổ Hiền ! Ông phát tâm bảo hộ trợ giúp Kinh Pháp Hoa, lưu
truyền lâu dài trong thế gian, khiến cho chúng sinh thọ trì Kinh Pháp Hoa
đều được an lạc, đắc được lợi ích, ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ
bàn. Tâm đại từ bi của ông cũng không thể nghĩ bàn. Ông từ lâu xa đến nay,
phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà hay phát nguyện thần thông
đó, bảo hộ Kinh Pháp Hoa, công đức vô lượng. Ta sẽ dùng sức thần thông,
bảo hộ tất cả bất cứ ai thọ trì danh hiệu Bồ Tát Phổ Hiền, khiến cho họ đắc
được công đức không thể nghĩ bàn.’’
Phổ Hiền ! Nếu có người thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, tu tập biên
chép Kinh Pháp Hoa này, thì nên biết người đó, tức thấy được Phật Thích Ca
Mâu Ni, như từ miệng của đức Phật được nghe kinh điển này. Nên biết
người đó, cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni. Nên biết người đó, được Phật
khen lành thay. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy tay rờ
đầu. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy y trùm cho.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói : ‘’ Phổ Hiền ! Nếu như có người thọ trì,
đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, tu tập, biên chép Kinh Pháp Hoa, thì nên biết
người đó thấy được Phật Thích Ca Mâu Ni, như từ miệng của Phật nói, nghe
được bộ kinh này. Nên biết người đó thân tự cúng dường Phật Thích Ca
Mâu Ni. Nên biết người đó được Phật khen ngợi : Lành thay ! Lành thay !
Thiện nam tử, thiện nữ nhân. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca lấy tay
rờ đầu thọ ký. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca lấy y của Phật trùm
cho.’’
Người như thế, chẳng còn tham trước sự vui của thế gian, chẳng thích xem
nghe kinh sách của ngoại đạo nữa, cũng chẳng ưa gần gũi những người đó,
và những kẻ ác như đồ tể, kẻ giết loài súc vật, heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn,
hoặc người buôn bán nữ sắc.
Người như thế, chẳng còn tham luyến sự vui của thế gian nữa, chẳng thích
đọc sách vở ngoại đạo, cũng chẳng xem sách vở của ngoại đạo, chẳng gần
gũi kẻ ngoại đạo, cũng chẳng gần gũi những kẻ ác như đồ tể, người nuôi súc
vật, heo dê gà chó, thợ săn, buôn bán sắc đẹp, đều phải xa lìa, không thể làm
bạn với họ, bằng không thì bị nhiễm lây, sẽ bị họ hại.
Người đó tâm ý chất trực, có sự nghĩ nhớ chân chánh, có phước đức, người
đó chẳng bị ba độc làm não hại, cũng chẳng bị đố kị, ngã mạn, tà mạn, tăng
thượng mạn, làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, hay tu hạnh của Bồ Tát
Phổ Hiền.
Người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, chẳng tham sự vui năm dục của thế
gian, chẳng ưa thích đọc sách vở của ngoại đạo, chẳng gần gũi với kẻ ác.
Tâm của người đó rất chất trực, chẳng có tâm quanh co, có sự nghĩ nhớ chân
chánh, có phước đức. Người đó chẳng bị tham sân si ba độc não hại, cũng
chẳng bị đố kị, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn, làm não hại. Người đó ít
dục vọng, mọi việc đều biết đủ, do đó : ‘’Biết đủ thì an vui’’, hay tu hành
hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
Phổ Hiền ! Nếu sau khi Như Lai vào Niết Bàn, năm trăm năm sau. Nếu có
người nào, thấy người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên nghĩ rằng :
Người đó chẳng bao lâu sẽ ngồi ở đạo tràng, phá các quân ma, được A nậu
đa la tam miệu tam bồ đề, chuyển bánh xe pháp, đánh trống pháp, thổi loa
pháp, mưa pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử, ở trong đại chúng trời người.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni gọi một tiếng : ‘’Phổ Hiền ! Nếu sau khi Như
Lai diệt độ, năm trăm năm sau. Nếu có vị pháp sư thấy được người thọ trì,
đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên nghĩ như vầy : Vị pháp sư đó chẳng bao
lâu, tương lai sẽ ngồi ở Bồ Ðề Ðạo Tràng, phá tan tất cả thiên ma ngoại đạo,
chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chuyển bánh xe pháp, đánh
trống pháp, thổi loa pháp, mưa pháp vũ. Vị pháp sư đó sẽ ngồi trên pháp tòa
sư tử, ở trong đại chúng trời người, thọ trời người cúng dường cung kính lễ
bái thuyết pháp độ sanh.’’
Phổ Hiền ! Nếu ở đời sau, có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì người đó
chẳng còn tham trước y phục, đồ nằm, thức ăn uống, các vật chất. Có
nguyện cầu những gì, thảy đều thành tựu, cũng ở trong hiện đời, đắc được
phước báu.
Phổ Hiền ! Nếu như ở đời sau này, có người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa,
thì chẳng còn tham cầu y phục, đồ nằm, ăn uống và tất cả mọi vật chất.
Những gì người đó nguyện cầu đều thành tựu. Tại sao ? Vì chẳng tham
trước. Chẳng tham trước, có nguyện cầu gì thì sẽ thành tựu. Nếu tham trước
thì dù có cầu gì cũng chẳng thành tựu. Người đó ở trong hiện đời đắc được
phước báo.
Nếu có người khinh khi phỉ báng nói : Ông là người cuồng, làm những việc
vô ích, chẳng có đắc được gì cả. Tội báo như thế, đời đời sẽ không có mắt.
Nếu như có người khinh khi phỉ báng người thọ trì Kinh Pháp Hoa, nói như
vầy : ‘’Ông là người cuồng, ông làm việc đó có ích gì ? Chỉ là lãng phí thời
gian, chẳng có được gì cả.’’ Nếu như người đó phê bình ác ý như thế, thì tội
báo của người đó, đời đời kiếp kiếp chẳng có mắt, thành người mù, vĩnh
viễn chẳng thấy ánh sáng.
Nếu có người cúng dường khen ngợi, thì hiện đời sẽ đắc được quả báo lành.
Nếu như có người, hay cúng dường vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, khen
ngợi vị pháp sư đọc tụng giải nói Kinh Pháp Hoa, thì người đó hiện đời đắc
được quả báo lành.
Nếu lại có người, thấy người thọ trì kinh này, sinh tâm gây tội lỗi, hoặc thật,
hoặc không thật, thì người đó hiện đời mắc bệnh bạch lại.
Nếu như có người, nhìn thấy người thọ trì Kinh Pháp Hoa, mà sinh tâm hủy
báng nói như vầy : ‘’ Tên ác ôn này cầm sâu chuổi, mạo xưng là người thiện,
đừng bao giờ tin ông ta. Ông ta trước kia đã làm nhiều chuyện ác, giết
người, phóng lửa, tội cực ác. Bây giờ lương tâm phát hiện, đọc tụng kinh để
tiêu trừ tội lỗi, đó chẳng phải là chân tu hành, chỉ là trốn tránh hiện thực.’’
Chẳng màn là việc đó thật, hoặc là hư vọng chẳng thật, thì người đó trong
không sinh có, tạo lời bịa đặc sinh không, ở trong hiện đời bị mắc bệnh bạch
lại, tức cũng là bệnh về da. Các vị nhìn xem, những người bệnh đó chẳng
cần hỏi mà cũng có thể biết, họ kiếp trước hoặc đời này, từng phỉ báng
người đọc tụng Kinh Pháp Hoa, cho nên mới bị quả báo như thế.
Nếu khinh khi cười người thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì đời đời răng sẽ thưa
thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ
nhọt máu mủ hôi hám, bụng phình hơi ngắn, các chứng bệnh ác nặng.
Nếu như có người, nhìn thấy người thọ trì Kinh Pháp Hoa, chẳng nói mà
khinh cười, trong tâm nghĩ : ‘’Người này mê tín, tụng kinh lạy kinh có ích gì
! Thật là lãng phí thời gian, hành vi của người ngu.’’ Nên biết người đó, đời
đời kiếp kiếp răng chẳng những thưa thớt, mà còn thiếu hụt. Môi của họ xấu
xí vô cùng, mũi của họ xẹp lép, hai lỗ chầu trời thật là khó coi. Tay chân của
họ cong queo chẳng thẳng, hành động khó khăn. Mắt của họ lé chẳng ngay,
hoặc là hình tam giác, phàm là người mắt như thế, hay thích nói lời giả dối,
quỷ kế đa đoan. Thân thể của họ hôi hám dơ dáy, ung nhọt lở loét, máu mủ
chảy ra hôi hám vô cùng. Bụng phình như trống, hơi thì ngắn. Những bịnh
nặng ác tính như thế, chẳng cách gì chữa được, đó là nghiệp chướng sở cảm.
Do đó Phổ Hiền ! Nếu thấy người thọ trì kinh này, thì nên đứng dậy ra xa
nghinh tiếp, như cung kính Phật.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Vì nhân duyên đó. Phổ Hiền ! Nếu có
người thấy vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoặc là cư sĩ, thì nên lập tức
đứng dậy ra xa nghinh tiếp vị pháp sư đó, giống như cung kính Phật.’’
Khi đức Phật nói Phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát này, thì có vô lượng vô biên
Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, đắc được ngàn vạn ức toàn đà la ni, có
các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, đầy đủ đạo
của Bồ Tát Phổ Hiền.
Khi Ðức Phật nói Phẩm Khuyến Phát của Bồ Tát Phổ Hiền, thì có vô lượng
vô biên Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng, đều đắc được trăm ngàn vạn ức
toàn đà la ni. Lại có các Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế
giới, đều đầy đủ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền thực hành, tức cũng là mười đại
nguyện vương :
1). Lễ kính chư Phật.
2). Xưng tán Như Lai.
3). Quảng tu cúng dường.
4). Sám hối nghiệp chướng.
5). Tùy hỉ công đức.
6). Thỉnh chuyển pháp luân.
7). Thỉnh Phật trụ thế.
8). Thường tùy Phật học.
9). Hằng thuận chúng sinh.
10). Phổ giai hồi hướng.
Khi đức Phật nói kinh này, thì Bồ Tát Phổ Hiền, và hết thảy các Bồ Tát,
Ngài Xá Lợi Phất, và các hàng Thanh Văn, cùng trời, rồng, người và chẳng
phải người, tất cả đại hội, thảy đều đại hoan hỉ, thọ trì lời của đức Phật nói,
làm lễ rồi lui ra.
Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong Kinh Pháp Hoa, thì Bồ Tát Phổ
Hiền và các đại Bồ Tát, tôn giả Xá Lợi Phất và các đại Thanh Văn, cùng với
trời rồng tám bộ chúng, người và chẳng phải người, tất cả đại chúng trong
đại hội thảy đều hoan hỉ, thọ trì lời của Phật nói, y pháp tu hành. Sau khi
nghe xong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đại chúng đảnh lễ Ðức Phật, cảm
tạ Ðức Phật, sau đó đều trở về chỗ của mình ở.
Bộ Kinh Pháp Hoa này bắt đầu giảng từ ngày 10 tháng 1 năm 1970, giảng
đến nay là ngày 9 tháng 4 năm 1971 đã viên mãn.
Ðây là pháp hội đầu tiên ở tây phương, giảng kinh dài như thế. Hy vọng các
vị học bộ kinh này, để đi khắp nơi giáo hóa chúng sinh, chuyển đại pháp
luân, đánh trống pháp lớn, thổi loa pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, khiến cho tất
cả chúng sinh, đều đắc được pháp ích của Kinh Pháp Hoa. Các vị phải gánh
vác trách nhiệm ‘’Tục Phật huệ mạng’’, khiến cho Phật Giáo phát dương
quang đại, khiến cho ai ai cũng đắc được pháp hỉ sung mãn, tức công đức vô
lượng vậy !
(Hết tập 5 trọn bộ)
---o0o---
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì ấn tống kinh điển
bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật dạy, phát
tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác
ta, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối cùng
sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực
hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và
toàn thể tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô
danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng,
cùng pháp giới chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm
bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt
ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Nam Mô Hộ Pháp Vi Ðà Tôn Thiên Bồ Tát
---o0o---
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.
---o0o---
Hết

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét