Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phần 7



Tu mạn na xa đề
Ða ma la chiên đàn
Trầm thủy và hương quế
Các thứ hương hoa quả.
Hương hoa tu mạn na, hương hoa xà đề, hương đa ma la, mùi hương chiên
đàn, mùi hương trầm thủy, mùi hương cây quế, các thứ hương của hoa, các
thứ mùi hương của trái cây. Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa ngửi, thì sẽ
biết được là mùi hương cây cỏ gì.
Và hương các chúng sinh
Hương người nam người nữ
Người thuyết pháp ở xa
Ngửi hương biết chỗ nào.
Lại biết được mùi hương của chúng sinh, như mùi hương của ngựa, trâu, dê
.v.v... lại biết được mùi hương của người nam người nữ. Vị pháp sư diễn nói
Kinh Pháp Hoa, tuy ở nơi xa mà khi ngửi đến mùi hương, thì biết được mùi
hương ở đâu.
Ðại thế chuyển luân vương
Tiểu chuyển luân và con
Quần thần các cung nhân
Ngửi hương biết chỗ nào.
Chuyển Luân Thánh Vương phân làm bốn loại : Kim luân vương cai trị bốn
thiên hạ, Ngân luân vương cai trị ba thiên hạ, Ðồng luân vương cai trị hai
thiên hạ, Thiết luân vương cai trị một thiên hạ. Kim Luân Vương là đại thế
chuyển luân vương, có một ngàn thái tử, lại có bảy báu :
1). Bánh xe báu.
2). Voi báu.
3). Ngựa báu.
4). Châu báu.
5). Nữ báu.
6). Kho tàng báu.
7). Binh báu.
Còn ba luân kia đều là tiểu chuyển luân vương. Ðại chuyển luân vương, tiểu
chuyển luân vương, ngàn người con, quần thần, cung nhân .v.v... Vị pháp sư
đó, một khi ngửi mùi thì biết được chỗ nào. Do đó, có thể chứng minh lỗ
mũi cũng có công năng của mắt.
Thân mang các châu báu
Và tạng báu trong đất
Chuyển luân vương nữ báu
Ngửi hương biết ở đâu.
Trên thân mang tất cả châu báu, tất cả kho tàng châu báu ẩn tàng dưới đất và
hành tung của chuyển luân thánh vương và nữ báu ở đâu, khi vị pháp sư đó
ngửi mùi hương thì sẽ biết rõ.
Mọi người thân trang sức
Quần áo và chuỗi ngọc
Và các thứ hương xoa
Ngửi hương đều biết rõ.
Những người ở trên trời và ở tại nhân gian, dùng đồ vật để trang sức, như
quần áo, chuỗi ngọc, và các thứ hương xoa. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi
thì sẽ biết thân họ trang sức đồ gì.
Chư thiên đi hoặc ngồi
Ðùa giỡn và thần biến
Người trì kinh pháp này
Ngửi hương đều biết được.
Chư thiên trong ba cõi, hoặc đi, hoặc ngồi thiền, hoặc đùa giỡn, hoặc thân
biến. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì sẽ biết được họ đang làm
gì.
Các cây hoa quả thật
Và dầu tô hương vị
Người trì kinh ở đây
Biết rõ ở chỗ nào.
Hết thảy tất cả cây, hoa, quả thật và mùi hương dầu tô thắp đèn. Vị pháp sư
thọ trì Kinh Pháp Hoa ở nơi đây, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết
được ở chỗ nào.
Nơi núi sâu nguy hiểm
Cây chiên đàn nở hoa
Chúng sinh ở trong đó
Ngửi hương đều biết được.
Ở chỗ thâm sơn cùng cốc rất nguy hiểm, có cây chiên đàn nở hoa rất sum sê
rất thơm tho. Tất cả chúng sinh ở trong thâm sơn làm gì, vị pháp sư đó ngửi
mùi hương thì hoàn toàn biết rõ.
Núi Thiết Vi biển cả
Các chúng sinh trong đất
Người trì kinh ngửi hương
Ðều biết ở chỗ nào.
Núi Thiết Vi và biển cả, và tất cả chúng sinh ở trong đất. Vị pháp sư thọ trì
Kinh Pháp Hoa, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết họ đang ở đâu,
chẳng sai lầm.
Nam nữ A tu la
Và quyến thuộc của họ
Khi đấu tranh vui đùa
Ngửi hương đều biết được.
Nam nữ A tu la đều có tâm thích đấu tranh. Nếu có việc bất như ý thì họ nổi
giận, như phu nhân của Ðế Thích là con gái của vua A tu la, cô ta rất đố kỵ,
thường nổi giận với Ðế Thích, thậm chí phát sinh chiến tranh. Nam nữ A tu
la và quyến thuộc khi đùa giỡn, tranh đấu để làm trò chơi, nổi giận để làm
tiêu khiển, vẫn làm thường xuyên chẳng thấy có gì quái lạ. Vị pháp sư đó,
một khi ngửi mùi hương thì biết được tình hình của họ.
Nơi khoáng dã nguy hiểm
Sư tử voi hổ lang
Bò hoang trâu nước thảy
Ngửi mùi biết chỗ ở.
Ở nơi khoáng dã không có người, hoặc ở nơi nguy hiểm. Hoặc có sư tử, voi,
cọp, sài lang, hoặc bò hoang, trâu nước .v.v... Vị pháp sư đó, một khi ngửi
mùi hương thì biết nơi của chúng ở.
Nếu có người mang thai
Chưa biết trai hay gái
Vô căn và phi nhân
Ngửi hương đều biết được.
Nếu như có người nữ đã mang thai, mà chẳng biết được là trai hay gái, hoặc
là quỷ thai hoặc là quái thai. Vị pháp sư đó vì thọ trì Kinh Pháp Hoa, một
khi ngửi mùi hương thì sẽ biết được rõ ràng, chẳng phán đoán sai lầm.
Bởi nhờ sức ngửi hương
Biết được sự mang thai
Thành tựu chẳng thành tựu
An lạc sinh quý tử.
Vì nhờ sức ngửi hương mà biết được tình hình khi mang thai, thành tựu hay
chẳng thành tựu, ngửi mùi hương thì sẽ biết. Giống như trái cây, chín thì sẽ
rụng xuống, chưa chín thì không thể rụng xuống. Ðây là hiện tượng tự nhiên,
không thể ép buộc để sinh ra thì rất nguy hiểm cho mẹ và con. Hiện tại sự
phá thai rất là nhiều, đây là việc bất nhân đạo nhất. Những người đó đã gieo
trồng xuống nhân quả rất là ác độc.
Thai nhi ở trong bụng mẹ mười tháng mới thành tựu, có thể sinh ra, mẹ con
nhất định bình an. Nếu bảy tháng mà sinh ra thì chẳng thành tựu, đứa bé khó
mà nuôi sống, người mẹ khi sinh con thì rất nguy hiểm. Nếu quy y Tam Bảo,
đọc tụng kinh điển, thì sẽ an lạc sinh ra con có phước báu.
Bởi nhờ sức ngửi hương
Biết nam nữ nghĩ gì
Tâm nhiễm dục si sân
Cũng biết người tu thiện.
Bởi nhờ sức ngửi mùi hương, nên biết được người nam nghĩ gì ? Và biết
được người nữ nghĩ gì ? Chẳng ngoài những sự nghĩ tưởng là nhiễm dục. Vì
ngu si mới nghĩ việc trai gái hoặc sân hận. Các tâm lý như thế, vị pháp sư đó
hoàn toàn biết rõ và cũng biết người nào tu pháp lành.
Trong đất có kho tàng
Vàng bạc các châu báu
Ðồ đồng dùng đựng chứa
Ngửi hương đều biết được.
Lại biết kho tàng châu báu ẩn tàng dưới lòng đất, hoặc là mỏ vàng, mỏ bạc,
hoặc các châu báu. Trong đồ đồng đựng chứa những gì ? Vị pháp sư đó, một
khi ngửi mùi hương thì đều biết được.
Ðủ thứ các chuỗi ngọc
Không biết được giá cả
Ngửi hương biết tốt xấu
Xuất xứ và ở đâu.
Ðủ các thứ chuổi ngọc, chuỗi ngọc dùng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê,
xa cừ, xích châu, mã não) chế thành, thường đeo ở trên cổ, là đồ trang sức.
Lúc Phật còn tại thế, ở Ấn Ðộ nhà quý tộc đều mang, đó là biểu thị sự trang
nghiêm. Các vị thấy đó ! Các vị Bồ Tát trên thân đều có chuỗi ngọc. Trong
Phẩm Phổ Môn có nói : ‘’Bồ Tát Vô Tận Ý, cởi sâu chuỗi quý báu trên cổ,
giá trị trăm ngàn lượng vàng, cúng dường cho Bồ Tát Quán Thế Âm !‘’
Giá trị của chuỗi ngọc, phàm phu chẳng biết được giá cả, chẳng biết là quý,
cũng chẳng biết là chẳng quý, chẳng cách chi biết được giá là bao nhiêu.
Nhưng vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì biết được là quý báu, hay
tầm thường, hạt châu báu sinh sản ở đâu, và bây giờ ở đâu ?
Các thứ hoa trên trời
Mạn đà mạn thù sa
Cây ba lợi chất đa
Ngửi hương đều biết được.
Trên cõi trời Ðao Lợi có rất nhiều cây hoa, như hoa tiểu bạch và hoa tiểu
hồng, hoặc cây thiên thụ vương .v.v... Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi
hương thì hoàn toàn biết được.
Các cung điện trên trời
Thượng trung hạ khác nhau
Các hoa báu trang nghiêm
Ngửi hương đều biết được.
Trên cõi trời Ðao Lợi có rất nhiều cung điện, nhưng phân ra ba hạng, thượng
trung và hạ khác nhau. Bất cứ cung điện gì, dùng thứ báu gì, và các thứ hoa
gì để trang nghiêm. Vị pháp sư đó ngửi mùi hương thì sẽ biết được.
Vườn rừng Thắng Ðiện trời
Các quán Diệu Pháp Ðường
Vui đùa ở trong đó
Ngửi hương đều biết được.
Trong vườn hoa trên trời Ðao Lợi, tất cả cây lớn đều dùng bảy báu trang
nghiêm. Gốc cây dùng ngọc làm thành, lá dùng vàng bạc làm thành, hoa
dùng trân châu làm thành, quả dùng mã não làm thành. Thắng Ðiện trong
vườn là nơi vui đùa của người trời. Các quán và Diệu Pháp Ðường là nơi
luận sự của người trời. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi, thì biết tình hình
người trời đang vui đùa trong đó.
Hoặc chư thiên nghe pháp
Hoặc khi thọ năm dục
Lai vãng đi ngồi nằm
Ngửi hương đều biết được.
Chư thiên thường đến Diệu Pháp Ðường, nghe Thích Ðề Hoàn Nhân giảng
Phật pháp, hoặc khi ở tại Thắng Ðiện hưởng thọ năm dục, hoặc đi, hoặc đến,
hoặc ngồi thiền, hoặc nằm, các thứ tư thế. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi
thì đều biết rõ.
Y phục thiên nữ mặc
Hương hoa quý trang nghiêm
Khi đi dạo du hí
Ngửi hương đều biết được.
Y phục của thiên nữ mặc, vừa nhẹ lại rất đẹp, đều dùng hoa hương quý để
trang nghiêm, hương thơm tỏa khắp, họ chẳng những xinh đẹp mà còn
duyên dáng. Khi họ đi dạo, du hí nhảy múa, khoái lạc vô cùng. Vị pháp sư
đó, một khi ngửi mùi hương, thì hoàn toàn biết được tình hình khi họ du hí.
Như vậy lần lượt lên
Cho đến trời Phạm Thế
Người nhập thiền xuất thiền
Ngửi hương đều biết được.
Như vậy, lần lượt lên cho đến sắc giới trời Phạm Thế, hoặc người nhập thiền
định, hoặc người xuất thiền định. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương,
thì hoàn toàn biết được. Người trên cõi trời đều tu thiền định. Án chiếu theo
sự thô tế sâu cạn của thiền định để quyết định, hoặc thăng đi lên, hoặc đi
xuống. Trời sơ thiền gọi là Ly sinh hỷ lạc địa, tức là lìa khỏi sự khoái lạc của
chúng sinh cõi dục giới, mà sinh ra khoái lạc đặc biệt. Trời nhị thiền gọi là
Ðịnh sinh hỷ lạc địa, ở trong định đắc được sự hỷ lạc không gì sánh bằng.
Ðây là thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn, chẳng đói chẳng khát. Trời
tam thiền là Ly hỷ diệu lạc địa, lìa khỏi cảnh giới nhị thiền, đắc được sự
khoái lạc không thể tả. Trời tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, xả bỏ tâm
niệm khoái lạc, đạt đến chỗ vô vi mà vô bất vi, trong tâm rất thanh tịnh,
chẳng có tạp nhiễm. Ðây là cảnh giới sơ bộ của thiền định, vẫn còn là cảnh
giới của phàm phu, chứ chẳng phải là cảnh giới của Thánh nhân. Nếu tiếp
tục nỗ lực dụng công, thì khi đạt đến trời Ngũ Bất Hoàn, mới nhập vào dòng
Thánh nhân pháp tính, ngược dòng phàm phu lục trần.
Trời Quang Âm Biến Tịnh
Cho đến trời Hữu Ðỉnh
Sơ sinh và đến chết
Ngửi hương đều biết được.
Một số người chỉ biết trời ở trên đầu, mà chẳng biết ngoài cõi trời, lại có cõi
trời khác, trong vũ trụ có vô lượng cõi trời. Trong kinh Phật có nói, tại dục
giới có sáu cõi trời, tại sắc giới có mười tám cõi trời, tại vô sắc giới có bốn
cõi trời, tổng cộng có hai mươi tám cõi trời, đó là nói theo nghĩa hẹp. Nếu
nói theo nghĩa rộng, thì có vô lượng cõi trời. Trong mỗi cõi trời có một
Thiên chúa. Ngoại đạo chỉ biết một Thiên chúa, kỳ thật có vô lượng Thiên
chúa.
Thiên chúa ở trong Phật giáo, bất quá là một vị thần hộ pháp mà thôi, địa vị
rất thấp, thân phận ở trước Phật chỉ có đứng, chứ chẳng có tư cách ngồi. Tại
sao ? Vì ông ta là thần hộ pháp ! Giống như Bồ Tát Vi Ðà, Bồ Tát Già Lam,
tay cầm chùy báu kim cang, đứng ở trước Phật để bảo hộ Phật.
Trời Quang Âm là từng trời thứ sáu của sắc giới. Người trời ở đây dùng ánh
sáng (hào quang) để nói chuyện, đại biểu cho tiếng nói. Trời Biến Tịnh là
từng trời thứ chín của sắc giới, người trời ở cõi này, biến khắp đắc được an
lạc thanh tịnh. Trời Hữu Ðỉnh là từng trời thứ tư của vô sắc giới, cũng là
từng trời thứ hai mươi tám của tam giới, là từng trời cao nhất, gọi là trời Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Tuổi thọ của cõi trời là tám vạn đại kiếp, song
đến lúc đọa lạc thì chiếu theo sự thọ khổ luân hồi. Ngoại đạo cho rằng đây là
cảnh giới cao nhất. Ra khỏi cõi trời này, mới có thể chấm dứt phân đoạn sinh
tử, đến bực vô học thì chứng được tứ quả A La Hán, đoạn sạch kiến tư (thấy,
nghĩ) hai hoặc. Do đó, có câu : ‘’Các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững,
những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa.’’ Ðây là cảnh
giới A La Hán.
Cõi trời mà chúng ta thấy là trời Tứ Thiên Vương. Hướng đông là Trì Quốc
Thiên Vương, hướng tây là Quảng Mục Thiên Vương, hướng nam là Tăng
Trưởng Thiên Vương, hướng bắc là Ða Văn Thiên Vương. Mỗi vị Thiên
vương có tám đại tướng quân, trấn giữ bốn hướng cõi trời Ðao Lợi, phòng
giữ binh A tu la xâm phạm. Bồ Tát hộ pháp Vi Ðà, là một trong ba mươi hai
đại tướng, Ngài ở trong một ngàn vị Phật ở Hiền kiếp, sẽ là vị Phật cuối
cùng, danh hiệu là Lâu Chí Phật.
Thời gian một ngày đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương, thì đồng ở nhân gian
năm mươi năm, tuổi thọ ở cõi trời này là năm trăm tuổi, như vậy tính theo ở
nhân gian, tức là chín trăm hai mươi hai vạn năm ngàn năm. Còn tuổi thọ
của các cõi trời khác cứ theo số này mà nhân lên.
Từ sơ sinh ban đầu đến cõi trời và đến lúc chết, năm tướng suy phát hiện là
ngừng. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết được rất rõ
ràng chẳng có sai lầm.
Các chúng Tỳ Kheo thảy
Với pháp thường tinh tấn
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Và đọc tụng kinh điển.
Tất cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni .v.v... đối với Phật pháp rất dũng mãnh tinh
tấn, tu trì học tập, chẳng có giải đãi, hoặc ngồi thiền, hoặc đi kinh hành, hoặc
đọc tụng kinh điển, rất dụng công chẳng có lười biếng giải đãi, do đó :
‘’Siêng tu giới định huệ,
Diệt trừ tham sân si.’’
Hoặc dưới cây trong rừng
Chuyên tinh tấn ngồi thiền
Người trì kinh ngửi hương
Ðều biết họ ở đâu.
Họ ở dưới cây lớn trong rừng, chuyên nhất tinh tấn ngồi thiền. Vì trong rừng
thanh tịnh, không khí mát mẻ, dễ đắc được tam muội khinh an. Có người hỏi
: ‘’Nhập định và ngủ có gì khác nhau ?‘’ Khi nhập định thì trong tâm biết,
ngồi ngay ngắn, thân chẳng lay động, đầu chẳng cúi chẳng nghiêng. Ðó là
cảnh giới tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. Khi ngủ thì gì cũng
chẳng biết, thậm chí còn ngáy như sấm, tư thế ngược lại. Vị pháp sư thọ trì
Kinh Pháp Hoa, một khi ngửi mùi hương, thì biết họ đang ở đâu, tu trì pháp
môn gì.
Bồ Tát chí vững chắc
Ngồi thiền hoặc đọc tụng
Hoặc vì người nói pháp
Ngửi hương đều biết được.
Bồ Tát phát bồ đề tâm hành Bồ Tát đạo, chí nguyện rất vững chắc, bất cứ
gặp chướng ngại gì cũng chẳng sinh tâm thối chuyển. Bất cứ là ngồi thiền,
hoặc đọc tụng kinh điển, hoặc vì người nói pháp. Vị pháp sư đó một khi
ngửi mùi hương thì biết rõ.
Thế Tôn trong mười phương
Ðược tất cả cung kính
Thương chúng mà nói pháp
Ngửi hương đều biết được.
Trong thế giới mười phương, bất cứ Ðức Thế Tôn ở phương nào, đều được
tất cả chúng sinh cung kính. Vì thương xót chúng sinh, nên Phật vì chúng
sinh mà diễn nói diệu pháp liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui. Vị pháp sư
đó một khi ngửi mùi hương, thì biết được Ðức Phật đó ở phương nào.
Chúng sinh ở trước Phật
Nghe kinh đều hoan hỷ
Như pháp mà tu hành
Ngửi hương đều biết được.
Hết thảy chúng sinh ở trước Phật, nghe Phật diễn nói kinh điển, đều hoan hỷ
nhảy nhót vui mừng. Sau khi nghe kinh rồi, y theo pháp mà tu hành. Vị pháp
sư đó, một khi ngửi mùi đều biết được người nào y theo pháp tu hành. Lỗ
mũi thì có công năng của mắt và tai, thấy được nghe được. Bạn nói có diệu
chăng ? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa diệu không thể tả !
Tuy chưa được vô lậu
Pháp sinh tỷ Bồ Tát
Mà người trì kinh này
Trước được tướng mũi này.
Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, tuy chưa chứng được Bồ Tát vô lậu pháp
sinh tỷ. Vì thọ trì kinh này nên trước hết đắc được tướng mũi này.
Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì
kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một
ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi. Hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở, và
các đồ đắng cay, khi đến căn lưỡi, thì đều biến thành vị thượng diệu như là
cam lồ, chẳng có gì mà không ngon.
Ðức Phật gọi một tiếng Thường Tinh Tấn Bồ Tát ! Nếu người thiện nam,
người thiện nữ, thọ trì bộ Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng kinh này, hoặc
giải nói kinh này, hoặc biên chép kinh này. Y chiếu theo đạo lý của Kinh
Pháp Hoa mà tu hành, thì sẽ chứng được một ngàn hai trăm công đức nơi
lưỡi. Lưỡi chẳng những nói pháp được, mà còn nói diệu pháp viên dung vô
ngại, cho nên công đức của lưỡi rất lớn, đầy đủ viên mãn.
Lưỡi có công đức nói pháp, cũng nói chuyện thị phi tạo tội nghiệp. Nếu
không nói pháp mà nói thị phi, thì có một vạn hai ngàn tội lỗi. Tại sao ? Vì
lưỡi có thể nói dối, nói lời thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng, càng tạo càng
nhiều, tạo thành vô lượng vô biên tội lỗi. Lưỡi tạo nghiệp ác, thì ăn đồ vật
chẳng biết mùi vị, chẳng phân biệt được đắng cay chua mặn ngọt năm vị.
Bất cứ hương vị đồ ăn như thế nào cũng chẳng biết. Nếu lưỡi tạo công đức
lành, thì biết mùi vị của vật ăn ngon hay là dở. Bất cứ là tốt hoặc là xấu,
chẳng màng là vị đắng, hay vị cay, một khi đến căn lưỡi, thì thức ăn thức
uống đều biến thành vị ngon thượng diệu, hương thơm ngon ngọt như là cam
lồ, chẳng có mùi vị không ngon.
Chữ đắng và chữ khổ tuy khác, song nghĩa vẫn là một, do đó có câu :
‘’Ăn khổ trong sự khổ,
Mới là người hơn mọi người khác.’’
Có hai câu thơ hình dung người siêng năng khổ sở học hành :
‘’Thọ tận thập niên hàn song khổ
Nhất cử thành danh thiên hạ tri.’’
Nghĩa là :
Mười năm khổ cực để học hành,
Một khi đỗ đạt thiên hạ đều biết.
Người thời xưa học hành là một người khổ học tại thư phòng, học Tứ Thư,
Ngũ Kinh; ngày cũng học đêm cũng học, chẳng có nghỉ ngơi, chẳng có chơi
lêu lổng với bạn bè, cũng chẳng vui đùa tiêu khiển, do đó có câu :
‘’Tam canh đăng hỏa ngũ canh kê,
Chánh thị nam nhi lập chí thời.’’
Dụng công như thế trải qua mười năm khổ sở lạnh lẽo, học vấn phong phú.
Ðến khi thi cử thì tam nguyên cập đệ, bảng vàng đề danh tiếng trạng nguyên.
Lúc đó, thiên hạ ai ai cũng biết người đó trúng trạng nguyên, sáng lạng tổ
tông. Trước kia chẳng có ai biết là khổ, bây giờ thiên hạ biết là ngọt, do đó
‘’khổ tận cam lai.’’ Nghĩa là hết khổ đến sướng. Trước kia người nghèo thì
học văn, người giàu thì học võ, cho nên mới nói hàn song khổ.
Hoặc dùng căn lưỡi ở trong đại chúng diễn nói pháp thâm sâu vi diệu, khiến
cho tâm của người nghe, đều hoan hỷ sung sướng.
Hoặc dùng căn lưỡi ở trong đại chúng diễn nói pháp thâm sâu vi diệu, tiếng
âm thanh vi diệu đó, nhập vào tâm của người nghe, khiến cho họ sinh tâm
hoan hỷ, sung sướng đến cực điểm, tình chẳng tự chủ được bèn nhảy nhót
lên.
Lại có các Thiên tử Thiên nữ, các vị trời Ðế Thích Phạm Thiên .v.v... nghe
được âm thanh diễn nói pháp vi diệu như thế, lời nói có thứ lớp thì đều đến
nghe.
Lại có tất cả Thiên tử Thiên nữ, lại có trời Ðế Thích, trời Ðại Phạm và các
thiên chủ của các cõi trời khác, họ nghe được âm thanh thâm diệu đó, thì
tâm sinh hoan hỷ. Phàm là vị pháp sư đó, diễn nói trước sau đều có thứ lớp,
phân môn biệt loại, chẳng phải tạp loạn lộn xộn, cho nên họ đều đến nghe
giảng.
Và các rồng, rồng nữ, Dạ Xoa, Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà, Càn Thát Bà nữ, A
Tu La, A Tu La nữ, Ca Lâu Na, Ca Lâu Na nữ, Khẩn Na La, Khẩn Na La
nữ, Ma Hầu La Già, Ma Hầu La Già nữ, vì nghe pháp mà đến gần gũi cung
kính cúng dường.
Lại có rồng và rồng nữ, lại có Dạ Xoa và Dạ Xoa nữ, lại có Càn Thát Bà và
Càn Thát Bà nữ, lại có A tu la và A tu la nữ, lại có Ca Lâu Na và Ca Lâu Na
nữ, lại có Khẩn Na La và Khẩn Na La nữ, lại có Ma Hầu La Già và Ma Hầu
La Già nữ. Những vị trời rồng tám bộ đó, vì nghe vị pháp sư đó diễn nói
Kinh Pháp Hoa, mà đến gần gũi cúng dường vị pháp sư đó.
Và Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, thái tử, quần thần
quyến thuộc, tiểu chuyển luân vương, đại chuyển luân vương, bảy báu, ngàn
người con, quyến thuộc nội ngoại, đều ngồi cung điện đến để nghe pháp.
Lại có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam cư sĩ nữ, ông vua, thái tử, quần thần
quyến thuộc, tiểu chuyển luân vương, đại chuyển luân vương, bảy báu, ngàn
người con, quyến thuộc nội ngoại, thảy đều ngồi cung điện đến để nghe
pháp. Nghe pháp gì ? Nghe diệu pháp của Kinh Pháp Hoa.
Bởi Bồ Tát đó khéo nói pháp, cho nên các Bà la môn, cư sĩ nhân dân trong
nước, suốt đời theo hầu hạ cúng dường.
Vì vị pháp sư đó là Bồ Tát pháp sư, do khéo giải nói Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, cho nên các Bà la môn (tu hạnh thanh tịnh) và cư sĩ (người tại gia tu
đạo), cùng với nhân dân trong nước, họ suốt đời lúc nào cũng hầu hạ và
cúng dường vị Bồ Tát pháp sư đó.
Lại nữa, các vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật, thường ưa thấy
vị pháp sư đó. Vị đó ở đâu, thì chư Phật đều hướng về vị đó nói pháp, vị đó
đều thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra pháp âm thâm sâu vi diệu.
Lại tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Chư Phật bốn bậc Thánh đều
hoan hỷ thấy vị pháp sư đó, bất cứ ở đâu, mười phương chư Phật đều hướng
về chỗ của vị đó nói pháp. Vị pháp sư đó hoàn toàn thọ trì tất cả Phật pháp
của chư Phật nói. Lại có thể nói ra pháp âm thâm sâu vi diệu.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng.
Lúc đó, Ðức Phật bi tâm thiết thiết, muốn tường thuật lại nghĩa lý ở trên, bèn
nói ra bài kệ rằng:
Căn lưỡi người đó tịnh
Trọn chẳng thọ vị dở
Người đó ăn những gì
Ðều biến thành cam lồ.
Vị pháp sư đó, căn lưỡi đắc được thanh tịnh, tự tánh cũng thanh tịnh, chẳng
bao giờ thọ vị dở, còn chuyển được vị dở thành vị thượng diệu. Bất luận là
ăn vật gì, một khi vào căn lưỡi thì đều biến thành diệu vị cam lồ, tức cũng là
diệu vị đề hồ vô thượng.
Dùng tiếng diệu thâm tịnh
Trong đại chúng nói pháp
Dùng nhân duyên ví dụ
Dẫn dắt tâm chúng sinh.
Người nghe đều hoan hỷ
Sắm các thứ cúng dường.
Vị pháp sư đó, dùng lời nói thâm sâu thanh tịnh vi diệu, ở trong đại chúng
diễn nói diệu pháp. Dùng đủ thứ nhân duyên và đủ thứ ví dụ dẫn dắt chúng
sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm thành tựu quả vị Phật. Chúng sinh nghe
pháp đều hoan hỷ, chúng sinh sắm tất cả đồ cúng dường tối thượng, để cúng
dường vị pháp sư đó.
Các trời rồng Dạ Xoa
Và A tu la thảy
Ðều dùng tâm cung kính
Cùng đến để nghe pháp.
Trời rồng tám bộ chúng vốn có tâm đấu tranh, nhưng sau khi quy y Phật rồi,
thì tâm sân hận biến thành tâm từ bi, phát nguyện làm thiện thần hộ pháp.
Họ đều dùng tâm cung kính để nghe vị pháp sư đó nói pháp.
Người đó diễn nói pháp
Hoặc muốn dùng diệu âm
Vang khắp ba ngàn cõi
Tùy ý bèn đến được.
Vị pháp sư đó giải nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, muốn dùng pháp âm thâm
sâu vi diệu, thì sẽ vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chỉ cần quán tưởng
như thế, thì diệu âm sẽ tùy ý đến lỗ tai của hết thảy chúng sinh, trong ba
ngàn đại thiên thế giới.
Vua luân vương lớn nhỏ
Và ngàn con quyến thuộc
Chắp tay tâm cung kính
Thường đến nghe thọ pháp.
Vua đại chuyển luân và vua tiểu chuyển luân, cùng với ngàn người con và
quyến thuộc, đều chắp tay cung kính đến pháp hội để nghe thọ Phật pháp
của vị pháp sư đó giảng. Những người đó nghe vị pháp sư giảng kinh thuyết
pháp, thì cảm thấy hơn là đọc kinh điển, do đó có câu:
‘’Thính quân nhất tịch thoại,
Thắng độc thập niên thư.’’
Nghĩa là :
Nghe một buổi giảng pháp,
Hơn mười năm đọc sách.
Các trời rồng Dạ Xoa
La sát Tỳ xá xà
Cũng dùng tâm hoan hỷ
Thường thích đến cúng dường.
Chư thiên trong tam giới, Long vương trong bốn biển và Dạ Xoa, La sát, Tỳ
xá xà .v.v... Loài quỷ vốn chẳng sinh tâm hoan hỷ, nhưng hiện tại cũng sinh
tâm hoan hỷ, luôn luôn thích muốn đến cúng dường vị pháp sư đó.
Trời Phạm Thiên ma vương
Tự Tại Ðại Tự Tại
Hết thảy các Thiên chúng
Thường đến chỗ người đó.
Trời Ðại Phạm Thiên (Thi Khí) và Ma vương (Ba Tuần) cùng với trời Tự
Tại (trời Tha Hoá Tự Tại), trời Ðại Tự Tại (trời Cứu Kính), hết thảy các
Thiên chúng thường đến chỗ vị pháp sư đó, nghe Phật pháp và cúng dường
pháp sư.
Chư Phật và đệ tử
Nghe người đó nói pháp
Thường nhớ mà bảo hộ
Hoặc có khi hiện thân.
Mười phương chư Phật và hàng đệ tử (Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát),
nghe âm thanh của vị pháp sư đó diễn nói diệu pháp, thì thường nghĩ nhớ vị
pháp sư đó mà bảo vệ đạo tràng, hoặc có khi mười phương chư Phật, và
chúng đệ tử hiện thân để cho vị đó thấy. Ðó là cảm ứng của sự thọ trì Kinh
Pháp Hoa.
Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì
kinh này, hoặc đọc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được tám trăm
công đức nơi thân, được thân thanh tịnh như lưu ly, chúng sinh đều thích
thấy.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu như có người
nam tu hành, và người nữ tu hành, hoặc thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
hoặc đọc kinh này, hoặc tụng kinh này, hoặc giải nói kinh này, hoặc biên
chép kinh này, thì đắc được tám trăm công đức nơi thân, được thân thể thanh
tịnh như lưu ly. Hết thảy chúng sinh đều hoan hỷ thấy vị pháp sư đó.
Vì thân người đó thanh tịnh, cho nên chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế
giới, khi sinh, khi chết, trên trời, dưới địa ngục, tốt xấu, sinh về chỗ lành,
sinh về chỗ dữ, thảy đều hiện ra trong thân người đó.
Vì thân thể vị pháp sư đó thanh tịnh, cho nên chúng sinh trong ba ngàn đại
thiên thế giới, hoặc khi sinh, hoặc khi chết, hoặc ở trên trời, hoặc ở dưới địa
ngục, tướng mạo tốt hay xấu, sinh về chỗ lành hay chỗ ác, thảy đều hiện ra
trong thân thể thanh tịnh, rõ ràng chẳng tạp loạn. Thân thanh tịnh này là một
tấm gương tròn lớn, hiện ra tất cả hình bóng.
Và núi Thiết Vi, núi đại Thiết Vi, núi Di Lâu, núi đại Di Lâu, hết thảy các
núi, và chúng sinh ở trong đó, đều hiện ra trong đó.
Và núi Thiết Vi (ngoài bốn đại châu có núi bao quanh), núi đại Thiết Vi
(ngoài ba ngàn đại thiên thế giới có núi bao quanh), núi Di Lâu và núi đại Di
Lâu, hết thảy các núi, chúng sinh ở trong đó hoàn toàn hiện ra ở trong thân
thanh tịnh. Thân thanh tịnh đó lại giống như máy lôi đạt (radar), bất cứ máy
bay ở đâu bay đến, đều nhìn thấy rất rõ ràng.
Dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, hết thảy cảnh giới và
tất cả chúng sinh, đều hiện ra ở trong đó.
Dưới đến địa ngục vô gián, trên đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ,
hết thảy cảnh giới và hết thảy chúng sinh, hoàn toàn hiện ra ở trong thân
thanh tịnh. Lại giống như máy truyền hình, chỉ cần bấm nút thì hình ảnh sẽ
xuất hiện, người tu đạo mà nghiên cứu minh bạch Phật pháp, thì sẽ có cảnh
giới như thế xuất hiện.
Hoặc hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, đều
hiện ra hình bóng ở trong thân người đó.
Hoặc là hàng Thanh Văn, hoặc là Bích Chi Phật, hoặc là Bồ Tát, hoặc là chư
Phật, ở trong mười phương thế giới thuyết pháp, đều hiện ra hình bóng ở
trong thân thanh tịnh của vị pháp sư đó.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Ðức Phật muốn tường thuật lại nghĩa ở trên vừa nói, bèn dùng kệ
nói ra.
Nếu người trì Pháp Hoa
Ðược thân rất thanh tịnh
Tịnh như là lưu ly
Chúng sinh đều ưa thấy.
Nếu như vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì sẽ được thân thể
rất thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô, giống như lưu ly thanh tịnh sáng chói. Hết
thảy chúng sinh đều hoan hỷ thấy vị pháp sư đó nói pháp.
Lại tịnh như gương sáng
Ðều thấy các hình bóng
Bồ Tát nơi thân tịnh
Ðều thấy toàn thế giới.
Chỉ riêng mình thấy rõ
Người khác chẳng thấy được.
Thân thanh tịnh đó, lại giống như gương sáng, hoàn toàn thấy được tất cả
hình bóng. Hình bóng đến thì hiện, đi thì chẳng có, chẳng lưu ảnh lại. Ở
trong thân thanh tịnh của Bồ Tát, nhìn thấy được hình bóng toàn thế giới.
Cảnh giới đó, chỉ riêng Bồ Tát tự mình thấy rõ, ngoài ra người khác chẳng
thấy đặng.
Trong ba ngàn thế giới
Tất cả hữu vô tình
Trời người A tu la
Ðịa ngục quỷ súc sinh.
Các hình bóng như thế
Ðều hiện ra trong thân.
Ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả chúng sinh và tất cả cảnh
giới như người ở trên trời, người ở nhân gian và A tu la (đây là ba đường
lành), và địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh (đây là ba đường ác). Tất cả hình bóng
trong sáu đường như thế, đều hiện ra ở trong thân thanh tịnh lưu ly của Bồ
Tát, chẳng những rõ ràng mà còn chẳng tạp loạn.
Cung điện của chư Thiên
Cho đến trời Hữu Ðỉnh
Núi Thiết và Di Lâu
Các biển cả sông ngòi
Ðều hiện ra trong thân.
Cung điện của chư Thiên trong ba cõi, cho đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ, núi Thiết Vi và núi Di Lâu, núi đại Du Lâu. Hết thảy tất cả biển
cả sông ngòi, đều hiện ra trong thân thanh tịnh của vị pháp sư trì Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa.
Chư Phật và Thanh Văn
Phật tử Bồ Tát thảy
Hoặc riêng hoặc trong chúng
Nói pháp đều hiện ra.
Mười phương chư Phật và hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát thảy,
hoặc độc thân một người, hoặc ở trong đại chúng, nói pháp giáo hóa chúng
sinh, đều hoàn toàn hiện ra trong thân thanh tịnh như lưu ly. Cảnh giới đó
thật là không thể nghĩ bàn; diệu không thể tả.
Tuy chưa được vô lậu
Và pháp tánh diệu thân
Dùng thân thanh tịnh thường
Tất cả hiện trong đó.
Người đó thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tuy chưa chứng được Thánh quả
vô lậu, và diệu thân pháp tánh. Song, thân thường của cha mẹ sinh ra, mà hết
thảy tất cả đều hiện ra ở trong thân thanh tịnh. Cảnh giới đó chỉ có vị đó mới
biết được, còn người khác chẳng thấu được.
Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, sau khi
Như Lai diệt độ, mà thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói,
hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ ý căn thanh
tịnh đó, cho đến nghe một bài kệ, một câu, mà thông đạt được nghĩa lý vô
lượng vô biên.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu như người nam,
người nữ tu hành, sau khi Phật diệt độ, có ai thọ trì bộ Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa này, hoặc đọc, học tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một
ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ căn ý thanh tịnh đó, cho đến nghe được
dù một bài kệ, hoặc nghe được một câu kinh văn, thì có thể thông đạt được
toàn bộ nghĩa lý kinh văn.
Hiểu nghĩa lý đó rồi, mà có thể diễn nói một câu kinh, một bài kệ, thậm chí
giảng đến một tháng, bốn tháng, cho đến một năm. Các pháp nói ra, tùy theo
nghĩa lý đều hợp với thật tướng, chứ chẳng trái ngược với thật tướng, hoặc
nói kinh sách thế gian, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp làm ăn, thảy đều hợp với
chánh pháp.
Thấu hiểu minh bạch nghĩa lý đó rồi, lại vì chúng sinh diễn nói diệu pháp,
giải thích diệu lý dù một bài kệ, hoặc một câu kinh, mà phát huy được vô
lượng vô biên đạo lý. Một câu kinh văn, một bài kệ, thậm chí giảng đến một
tháng (đại biểu cho pháp một thừa thật tướng), hoặc giảng đến bốn tháng
(đại biểu cho pháp tứ đế tiểu thừa), hoặc giảng đến một năm (đại biểu cho
pháp mười hai nhân duyên). Tuy là một câu pháp, mà khiến cho hợp với tất
cả các pháp. Tất cả pháp nói ra, đều tùy thuận nghĩa lý thú hướng. Ðạo lý
nói ra đều hợp với thật tướng, hợp với đệ nhất nghĩa đế, tuyệt đối chẳng đi
ngược lại nghĩa lý thật tướng.
Hoặc là giảng nói tất cả kinh sách của thế gian, như Tứ Thư Ngũ Kinh, hoặc
lời lẽ trị thế, hoặc sinh sống làm ăn, thảy đều thuận với chánh pháp, chẳng
trái ngược. Tất cả đều chiếu theo bát chánh đạo mà thực hành, dùng bát
chánh đạo làm mô phạm.
Sáu đường chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, tâm nghĩ gì, tâm khởi
làm những gì, và tâm hí luận, thảy đều biết rõ. Tuy chưa được trí huệ vô lậu,
mà căn ý của người đó thanh tịnh như thế. Người đó có suy nghĩ tính toán
nói năng, đều là Phật pháp, chẳng có gì mà chẳng chân thật, cũng là đạo lý ở
trong kinh trước kia Phật đã nói.
Hết thảy sáu đường chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, trong tâm
của họ nghĩ làm gì, khởi lên việc gì, vọng niệm sinh ra, hết thảy mọi hí luận,
vị pháp sư đó đều biết rõ. Vị đó tuy chưa chứng được trí huệ vô lậu, nhưng
thắng ý căn của vị đó đắc được thanh tịnh. Vị pháp sư đó nghĩ gì, tính toán,
nói năng, đều là Phật pháp, diệu pháp, pháp không nghĩ bàn. Tại sao ? Vì vị
đó thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có nghĩ gì và làm gì, đều là chân thật
không hư. Pháp nói ra và sự tu đạo, đều là pháp môn chân thật, đều là đạo lý
trước kia Phật nói. Tuy toàn bộ kinh Phật chưa đọc hết, nhưng đã thấu rõ đại
ý trong kinh. Vì đắc được cảnh giới diệu tam muội.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Ðức Phật muốn tường thuật lại nghĩa lý kinh văn ở trên vừa nói, cho
nên dùng kệ để diễn nói lại.
Người đó ý thanh tịnh
Sáng suốt chẳng vẩn đục
Nhờ căn diệu ý đó
Biết pháp thượng trung hạ.
Căn thắng ý của vị pháp sư đó rất thanh tịnh, chẳng những sáng mà còn suốt
thấu, chẳng có vẩn đục ô uế. Nhờ thắng ý căn vi diệu đó, nên biết Phật pháp
thượng trung hạ, do đó có câu : ‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’
Cho đến nghe bài kệ
Thông đạt vô lượng nghĩa
Thứ lớp như pháp nói
Tháng bốn tháng một năm.
Dù chỉ nghe được một bài kệ, mà thông đạt được vô lượng nghĩa lý. Thứ lớp
như pháp mà giải nói, tuyệt đối chẳng nói pháp lộn xộn, chẳng có đầu đuôi.
Giải nói một bài kệ, hoặc giảng đến một tháng, hoặc giảng đến bốn tháng,
hoặc giảng một năm, đắc được cảnh giới nhạo thuyết vô ngại.
Trong ngoài thế giới đó
Tất cả các chúng sinh
Hoặc trời rồng và người
Chúng Dạ Xoa quỷ thần.
Trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả chúng sinh, hoặc
người ở trên trời, hoặc người ở nhân gian, hoặc các loài rồng, Dạ Xoa, quỷ
thần .v.v...
Tất cả trong sáu đường
Khởi suy nghĩ những gì
Nhờ trì Kinh Pháp Hoa
Ðồng thời đều biết rõ.
Tất cả chúng sinh luân hồi trong sáu đường, nghĩ nhớ những gì. Nhờ thọ trì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên biết rõ tất cả chúng sinh khởi tâm động niệm.
Chúng sinh nào phải làm bò, làm ngựa, chúng sinh nào phải làm cọp, sư tử,
chúng sinh nào phải làm cá, rùa, tôm, cua, chúng sinh nào phải làm gà, vịt,
ngỗng, chim, thì đều biết được, một khi nghĩ, thì biết tiền nhân hậu quả.
Vô số Phật mười phương
Trăm phước tướng trang nghiêm
Vì chúng sinh nói pháp
Khiến họ nghe thọ trì.
Mười phương thế giới có vô số ức chư Phật, vì thuở xưa các Ngài đã từng
trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp gieo trồng tướng tốt, cho nên
có tướng trăm phước trang nghiêm thân. Vì hết thảy chúng sinh diễn nói
diệu pháp, khiến cho họ nghe rồi, thì thọ trì và y theo pháp mà tu hành.
Suy gẫm vô lượng nghĩa
Thuyết pháp cũng vô lượng
Trọn chẳng quên hoặc sai
Do nhờ trì Pháp Hoa.
Có thể từ một đạo lý, mà liên tưởng đến vô lượng đạo lý; từ vô lượng đạo lý,
mà quy về viên ngộ một đạo lý, do đó có câu :
‘’Một gốc tán làm vạn thù,
Vạn thù quy về một gốc.’’
Thuyết pháp cũng vô lượng vô biên, thủy chung chẳng quên Phật pháp, hoặc
giảng sai lầm, tuyệt đối chẳng có chuyện đó xảy ra. Bởi do thọ trì Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa.
Ðều biết tướng các pháp
Theo nghĩa nói thứ lớp
Rõ danh từ lời lẽ
Theo sự biết diễn nói.
Vì có đại trí huệ, nên thông đạt liễu ngộ đạo lý thật tướng của các pháp. Thật
tướng là gì ? Tức là vô tướng : Chẳng có tướng ta, chẳng có tướng người,
chẳng có tướng chúng sinh, chẳng có tướng thọ mạng. Có bốn tướng đó là
phàm phu; chẳng có bốn tướng tức là Thánh nhân. Chẳng có bốn tướng này,
cũng chẳng phải là chẳng có tướng như thật thanh tịnh, chỗ này phải hiểu
cho rõ.
Tùy theo nghĩa kinh mà giảng pháp có thứ lớp, trước sau đều có thứ tự,
khiến cho người nghe dễ hiểu. Thông đạt danh từ giải thích, lời lẽ khéo léo,
đắc được văn tự Bát Nhã, ngôn ngữ tam muội, chiếu theo đạo lý mà mình
liễu ngộ hiểu biết, để vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.
Người đó nói những gì
Ðều là pháp Phật nói
Bởi nhờ nói pháp đó
Nên trước chúng chẳng sợ.
Pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nói những pháp gì, đều là diệu
pháp trước kia Ðức Phật đã nói, bất quá vị đó nói lại nữa mà thôi. Vì vị đó
diễn nói diệu pháp, cho nên ở trước đại chúng chẳng có sợ sệt, mà thao thao
bất tuyệt, vì chúng sinh nói pháp, đầu đầu thị đạo, phân tích rõ ràng, có cảnh
giới hoa trời rải xuống, hoa sen từ dưới đất vọt lên.
Người trì Kinh Pháp Hoa
Ðược căn ý thanh tịnh
Tuy chưa được vô lậu
Trước có tướng như thế.
Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa được căn ý thanh tịnh. Tuy nhiên chưa chứng
được trí huệ vô lậu, nhưng trước hết đắc được tình hình như thế.
Người đó trì kinh này
An trụ nơi hi hữu
Ðược tất cả chúng sinh
Hoan hỷ và thương kính.
Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, an trụ ở nơi hy hữu nhất, được tất cả chúng
sinh hoan hỷ thương mến và cung kính.
Hay dùng ngàn vạn thứ
Lời lẽ rất khéo léo
Ðể phân biệt diễn nói
Bởi trì Kinh Pháp Hoa.
Hay dùng hàng ngàn vạn thứ lời lẽ, ví dụ phương tiện khéo léo, phân tích rõ
ràng để vì chúng sinh giải nói diệu pháp. Tại sao lại có trí huệ như thế ? Vì
thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
---o0o---
Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
Sao lại gọi là ‘’Thường Bất Khinh‘’? Kỳ thật ‘’Thường Bất Khinh‘’ là tên
của một vị Bồ Tát, có phải là danh từ thông dụng của Bồ Tát ? Chẳng phải.
Chỉ bất quá là một biệt danh, tức là một ngoại hiệu. Vì vị Bồ Tát này, một
khi thấy người thì cúi đầu đảnh lễ. Do đó, có những vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni
gán cho Ngài một cái tên gọi là ‘’Thường Bất Khinh.’’ Ðó là trong đời quá
khứ của Ðức Phật Thích Ca khi hành đạo Bồ Tát, gặp người thì năm thể sát
đất đảnh lễ họ, song một số Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni dùng ‘’Thường Bất
Khinh‘’ để gọi Ngài, chứ chẳng phải là danh hiệu vốn có của Bồ Tát đó. Vì
khi Ðức Phật hành Bồ Tát đạo, thì thấy người bèn nói : ‘’Tôi không dám
khinh các vị, vì các vị đều sẽ thành Phật.’’ cho nên được tên là ‘’Thường Bất
Khinh,‘’ thường chẳng khinh khi người khác vậy.
‘’Thường Bất Khinh‘’ lại có thể phân làm bốn thứ giải nói :
1). Bao hàm ý niệm chẳng khinh mạn.
2). Tự đầy đủ trí huệ chẳng khinh địch.
3). Ngoài thân hành hạnh môn cung kính tất cả.
4). Ðối với tất cả cảnh giới đều tất cung tất kính, chẳng có tâm phóng dật,
cho nên nói :
‘’Tất cả là khảo nghiệm,
Xem thử bạn thế nào,
Trước mắt mà chẳng ngộ,
Phải luyện lại từ đầu.’’
Vì Bồ Tát Thường Bất Khinh nhận thức được đủ thứ cảnh giới và sự khảo
nghiệm, nên thực hành hạnh môn Thường Bất Khinh, đây là thuộc về thế
giới tất đàn (bố thí khắp). Thân của Ngài thực hành hạnh bất khinh, cung
hành thực tiễn, đây gọi là vị nhân tất đàn. Miệng của Ngài nói giáo lý bất
khinh, những gì nói ra, đều là pháp môn giáo hóa chẳng khinh người khác,
đây gọi là đối trị tất đàn. Ngài có một pháp nhìn chẳng khinh mạn đối với
người khác, đây gọi là đệ nhất nghĩa tất đàn. Do đó ‘’Thường Bất Khinh‘’
lại bao quát bốn thứ tất đàn này.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại Bồ Tát Ðắc Ðại Thế ! Ông nay nên biết, nếu Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, thọ trì Kinh Pháp Hoa, nếu có người
ác khẩu mắng chưởi phỉ báng, thì sẽ mắc tội báo lớn, như trước đã nói.
Người trì Kinh Pháp Hoa được công đức, cũng như ở trước đã nói, mắt tai
mũi lưỡi đều thanh tịnh.
Ðắc Ðại Thế ! Vào thuở xa xưa, đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng
kỳ, không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp đó
tên là Ly Suy, nước đó tên là Ðại Thành.
Khi Ðức Phật nói xong Phẩm Pháp Sư Công Ðức, thì bắt đầu nói Phẩm
Thường Bất Khinh. Trước hết, Phật bảo đại Bồ Tát Ðắc Ðại Thế, tức cũng là
Bồ Tát Ðại Thế Chí. Vị Bồ Tát này chỉ cần cất chân lên một bước, thì mặt
đất có sáu thứ chấn động, biểu thị uy thế lực mạnh của vị Bồ Tát này. Ðức
Phật nói : ‘’Ðại Thế Chí ! Bây giờ ông nên biết, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đọc tụng, biên chép Kinh Pháp Hoa, nếu như có
người ác khẩu đến mắng chưởi, hoặc phỉ báng họ, thì những người này mắc
tội báo lớn như núi Tu Di, như kinh văn đã nói ở trên. Còn công đức của
người trì Kinh Pháp Hoa, cũng như đã nói ở trong Phẩm Pháp Sư Công Ðức
ở trên, đắc được công đức mắt tai mũi lưỡi thân ý thanh tịnh.
Bồ Tát Ðại Thế Chí ! Vào thuở xa xưa, đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp
A tăng kỳ không thể nghĩ bàn, có một vị Phật hiệu là Uy Âm Vương Như
Lai. Vì vị Phật đó đủ đại uy đức, thậm chí âm thanh của Ngài cũng khiến
cho ba ngàn đại thiên thế giới chấn động, đại chúng đều cung kính lắng nghe
vị Phật đó nói pháp. Mỗi vị Phật đều đầy đủ mười hiệu là Như Lai, ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô
thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’’
Như Lai : Thừa đạo như thật, lai thành chánh giác.
Ứng Cúng : Xứng đáng thọ trời người cúng dường.
Chánh Biến Tri : Chẳng những chánh tri (biết chân chánh) mà còn biến tri
(biết khắp hết thảy), chẳng có gì mà chẳng biết, chẳng có gì mà chẳng thấu.
Minh Hạnh Túc : Trí huệ cũng sung túc, tu hành cũng viên mãn.
Thiện Thệ : Ở nơi tốt lành nhất.
Thế Gian Giải : Băc hiểu rõ thế gian nhất.
Vô thượng Sĩ : Là người có học vấn nhất, có đạo đức nhất trên thế gian.
Ðiều Ngự Trượng Phu : Ðiều ngự ba cõi, là đại trượng phu của tất cả chúng
sinh.
Thiên Nhân Sư : Thầy dẫn đường của trời, người.
Phật : Là ba giác tròn, vạn đức đầy.
Thế Tôn : Bậc tôn kính của thế và xuất thế.
Khi Ðức Phật Uy Âm Vương Như Lai còn ở đời, thì kiếp đó tên là Ly Suy,
tức là lìa khỏi mọi tướng suy, nước tên là Ðại Thành.
Ðức Phật Uy Âm Vương ở trong cõi nước đó, vì các hàng trời, người, A tu
la mà nói pháp. Vì người cầu Thanh Văn nói pháp tứ diệu đế, độ thoát sinh
già bệnh chết, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật nói
pháp mười hai nhân duyên. Vì các Bồ Tát cầu Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, nói pháp sáu Ba la mật, đạt đến trí huệ cứu kính của Phật.
Vào kiếp Ly Suy, trong nước Ðại Thành, vị Phật Uy Âm Vương đó, vì trời,
người, A tu la nói pháp siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si. Vì A tu
la chẳng tu giới, chẳng tu định, cũng chẳng tu huệ, mà chỉ biết tham, sân, si.
Vì tham, sân, si, nên có ngu si mới đọa vào đường A tu la. Nổi giận là bản
lãnh của chúng, vì chúng mất đi giới định huệ. A tu la là tiếng Phạn, dịch là
"chẳng đoan chánh", mặt mũi rất là xấu xí, đây là quả báo của tâm sân hận.
Ðức Phật đó, lại vì người cầu quả vị Thanh Văn nói pháp tứ diệu đế. Tứ diệu
đế là : Khổ, tập, diệt, đạo. Thanh Văn là người nhị thừa, thuộc về tiểu thừa,
vì họ được ít mà cho là đủ, chẳng nghĩ tiến tới cầu đại thừa, cho rằng những
gì làm đã làm xong, lầm rằng trên chẳng có Phật đạo để thành, dưới chẳng
có chúng sinh để độ. Do đó, Phật vì họ nói chân lý tứ diệu đế.
A. Khổ đế : Khổ có vô lượng sự khổ, ba sự khổ (khổ khổ, hoại khổ, hành
khổ), tám thứ khổ (khổ về sinh già bệnh chết, khổ về ái biệt ly, khổ về oán
tắng hội, khổ về cầu bất đắc, khổ về ngũ ấm sí thạnh). Nay lược giải như sau
:
Ba thứ khổ :
1). Khổ khổ : Ví như người nghèo đến cực điểm, lại thêm vào chẳng có nhà
ở, chẳng có quần áo mặc, hoàn cảnh như thế gọi là khổ trong sự khổ.
2). Hoại khổ : Ví như có người rất giàu có, nhưng bị nạn lửa thiêu sạch tài
sản nhà cửa, đó gọi là hoại khổ về giàu có.
3). Hành khổ : Từ nhỏ đến lớn rồi già nua, rồi chết đi, niệm niệm thay đổi
như sóng sau đẩy sóng trước, chẳng khi nào ngừng, nên gọi là hành khổ.
Tám thứ khổ :
1). Khổ về sinh : Khi sinh như rùa lột mai. Cho nên khi đứa bé mới sinh ra,
chỉ kêu khổ ‘’oa oa.‘’
2). Khổ về già : Khi già thì mắt tai mũi lưỡi thân và ý sáu căn, đều chẳng
còn linh mẫn.
3). Khổ về bệnh : Thân tâm đều chẳng được khoẻ, ngồi đứng không yên.
4). Khổ về chết : Chết giống như bò sống lột da, tứ đại phân tán.
5). Khổ vì thương yêu mà phải xa lìa : Những người mình thương yêu đành
phải phân ly, không được đoàn tụ.
6). Khổ vì người mình ghét mà gặp mặt : Người thù địch mà bạn ghét nhất
lại gặp nhau.
7). Khổ về cầu chẳng được : Trong tâm muốn đắc được mà chẳng đắc được.
8). Khổ về năm ấm : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm ấm, như lửa dữ thiêu
đốt con người, khiến cho điên đảo.
B. Tập đế : Tức chiêu cảm.
C. Ðạo đế : Tức là tu vô thượng đạo.
D. Diệt đế : Tức là chứng được sự vui tịch diệt Niết Bàn. Ðó là lược nói về
pháp tứ diệu đế. Phật dạy hàng Thanh Văn dùng pháp tứ đế mà độ sinh già
bệnh chết, đắc được diệu đức Niết Bàn thường lạc ngã tịnh.
Lại vì người tu Bích Chi Phật nói pháp mười hai nhân duyên. Bích Chi Phật
gọi là Duyên Giác. Duyên Giác có hai :
1). Lúc có Phật ra đời, tu pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, nên gọi là
Duyên Giác.
2). Lúc chẳng có Phật ra đời, tu ở trong thâm sơn cùng cốc, mùa xuân quán
hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi mà ngộ đạo, nên gọi là Ðộc Giác.
Mười hai nhân duyên là : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức
duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên
thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên
lão tử, ưu bi khổ não.
Phật vì các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, nên vì các Bồ Tát nói pháp môn sáu Ba la mật. Sáu Ba la mật là pháp
của Bồ Tát tự độ độ tha, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Ba la mật là tiếng
Phạn, dịch là "Ðến bờ kia". Nếu tu sáu Ba la mật, thì từ sinh tử bên này qua
dòng phiền não, đạt đến bờ bên kia cứu kính Niết Bàn.
Ðắc Ðại Thế ! Ðức Phật Uy Âm Vương đó, thọ bốn mươi vạn ức Na do tha
Hằng hà sa số kiếp. Chánh pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của cõi
Diêm Phù Ðề, tượng pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của bốn thiên
hạ. Ðức Phật đó, lợi ích chúng sinh rồi, sau đó mới diệt độ.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Ðại Thế Chí ! (Ðắc Ðại Thế tức là Ðại Thế
Chí) Vị Phật Uy Âm Vương đó, thọ đến bốn mươi vạn ức Na do tha Hằng hà
sa số kiếp. Chánh pháp ở đời, số kiếp như số hạt bụi của cõi Diêm Phù Ðề.
Tượng pháp ở đời, kiếp số như hạt bụi của bốn thiên hạ. Ðức Phật đó, sau
khi lợi ích phổ độ giáo hóa hết thảy chúng sinh, rồi mới vào Niết Bàn.
Sau khi chánh pháp và tượng pháp diệt rồi, ở cõi nước đó, lại có Phật ra đời
cũng hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như thế lần lượt có hai vạn ức đức Phật,
cũng đều cùng một danh hiệu. Sau khi đức Phật Uy Âm Vương đầu tiên diệt
độ rồi, chánh pháp cũng diệt rồi, thì trong thời tượng pháp, hàng Tỳ Kheo
tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có một Bồ Tát Tỳ Kheo tên là
Thường Bất Khinh.
Ðắc Ðại Thế ! Do nhân duyên gì mà tên là Thường Bất Khinh ? Vì vị Tỳ
Kheo đó, bất cứ gặp ai, hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều
lễ lạy khen ngợi mà nói rằng : Ta rất kính các vị, chẳng dám khinh khi. Tại
sao ? Vì các vị đều hành Bồ Tát đạo, đều sẽ thành Phật. Mà vị Tỳ Kheo đó,
chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ lễ lạy, cho đến ở xa thấy bốn chúng,
cũng đều cố đến gần, lễ lạy khen ngợi mà nói rằng : Tôi chẳng dám khinh
các vị, các vị đều sẽ thành Phật.
Sau khi chánh pháp và tượng pháp của Phật Uy Âm Vương diệt rồi, ở trong
cõi nước Ðại Thành đó, lại có Phật ra đời, danh hiệu cũng là Uy Âm Vương
Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Như thế có hai vạn ức vị Phật, lần lượt xuất hiện ở trong nước Ðại Thành.
Những vị Phật đó, danh hiệu đều là Phật Uy Âm Vương. Sau khi Ðức Phật
Uy Âm Vương đầu tiên vào Niết Bàn, kế tiếp chánh pháp cũng diệt luôn, ở
trong thời tượng pháp, hàng Tỳ Kheo cống cao ngã mạn, tranh danh đoạt lợi
có thế lực lớn, coi ai cũng chẳng ra gì. Lúc đó, có một vị Bồ Tát Tỳ Kheo
tên là Thường Bất Khinh.
Phật lại gọi một tiếng : Ðại Thế Chí ! Bởi nhân duyên gì, mà vị Tỳ Kheo đó
có tên là Thường Bất Khinh ? Vì bất cứ Ngài gặp Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư
sĩ nam, cư sĩ nữ, đều đảnh lễ, khen ngợi, vì Ngài muốn hành Bồ Tát đạo, học
Bồ Tát quán chúng sinh, ta, người, đồng một thể, chẳng thấy có tướng ta,
chẳng thấy có tướng người, chẳng thấy có tướng chúng sinh, chẳng thấy có
tướng thọ mạng. Nếu Ngài chấp trước tướng ta, thì chẳng thể nào hướng về
người khác cúi đầu đảnh lễ. Ngài luôn nói rằng: ‘’Tôi rất cung kính các vị !
Tôi tuyệt đối không dám khinh mạn các vị. Vì các vị đều hành Bồ Tát đạo,
các vị sớm sẽ thành Phật.’’ Mà vị Thường Bất Khinh Tỳ Kheo đó, chẳng
chuyên tâm đọc tụng tất cả kinh điển, mà vẫn hành Bồ Tát đạo, tức là mỗi
ngày đều hướng về bốn chúng đệ tử cúi đầu đảnh lễ, cho dù Ngài đến nơi
khác mà thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, cách xa họ rất xa,
Ngài đều đi đến gần họ để lễ lạy khen ngợi nói : ‘’Tôi chẳng dám khinh các
vị, các vị đều sẽ thành Phật.’’
Ở trong bốn chúng, có người sinh tâm sân hận chẳng thanh tịnh, ác khẩu
mắng chưởi nói : Vị Tỳ Kheo vô trí này, từ đâu đến, mà tự nói là tôi chẳng
khinh các vị, mà thọ ký cho chúng ta sẽ được thành Phật. Chúng ta chẳng
nhận lời thọ ký hư vọng như thế. Trải qua nhiều năm như thế, thường bị
mắng chửi mà chẳng sinh tâm sân hận. Thường nói như vầy : Các vị sẽ
thành Phật. Khi nói lời đó, thì mọi người đều dùng gậy ngói đá đánh ném.
Ngài bèn chạy trốn thật xa, mà vẫn lớn tiếng nói : Tôi chẳng dám khinh các
vị, các vị đều sẽ thành Phật. Bởi thường nói lời như thế, cho nên hàng Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn gọi Ngài là Thường
Bất Khinh. Khi vị Tỳ Kheo đó sắp lâm chung, thì ở trong hư không, nghe đủ
hai mươi ngàn vạn ức bài kệ Kinh Pháp Hoa, của đức Phật Uy Âm Vương
nói trước kia. Ngài nghe rồi thọ trì, bèn được căn mắt thanh tịnh, căn tai,
mũi, lưỡi, thân, ý, đều thanh tịnh như đã nói ở trên. Ðược sáu căn thanh tịnh
rồi, thì càng tăng tuổi thọ đến hai trăm vạn ức Na do tha tuổi, rộng vì người
nói Kinh Pháp Hoa này.
Ở trong bốn chúng có hàng Tỳ Kheo tăng thượng mạn, đối với Bồ Tát
Thường Bất Khinh sinh tâm sân hận. Khi Tỳ Kheo Thường Bất Khinh
hướng về họ lễ lạy, thì họ dùng chân đá đầu của Ngài, đó là vì họ ác tâm
chẳng tịnh, tích tụ tham sân si ba độc, cố ý ác khẩu chửi mắng Tỳ Kheo
Thường Bất Khinh. Họ nói : ‘’Ông Tỳ Kheo này thật là quá ngu si ! Ông từ
đâu đến ? Ông chẳng dám khinh chúng ta, lại thọ ký cho chúng ta, nói chúng
ta sẽ thành Phật. Chúng ta chẳng cần ông thọ ký láo khoét như thế. Ông thật
là người hồ đồ.’’
Vị Tỳ Kheo Thường Bất Khinh tu pháp môn nhẫn nhục lễ lạy, khen ngợi
bốn chúng như thế trải qua rất nhiều năm. Tuy Ngài thường bị họ đánh đập
chửi mắng, nhưng Ngài chẳng bao giờ sinh tâm sân hận, Ngài thường nói :
‘’Các vị sẽ thành Phật.’’ Khi nói những lời đó, thì nhiều người dùng gậy,
ngói, đá, đánh ném vào thân thể Ngài. Ngài bèn chạy mau đến chỗ xa, lại lớn
tiếng nói : ‘’Tôi chẳng dám khinh các vị ! Các vị đều sẽ thành Phật !‘’ Bởi
Ngài thường nói câu đó, cho nên hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư
sĩ nữ, tăng thượng mạn bèn gọi Ngài là Thường Bất Khinh.
Vị Bồ Tát Tỳ Kheo Thường Bất Khinh đó, lúc Ngài sắp viên tịch, thì ở trong
hư không, nghe được hai mươi ngàn vạn ức bài kệ Kinh Pháp Hoa, của Phật
Uy Âm Vương nói trước kia. Ngài chẳng những nghe rồi mà còn thọ trì, bèn
được căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn thanh tịnh như đã nói ở trên.
Ngài đắc được sáu căn thanh tịnh rồi, chẳng những chẳng mệnh chung, mà
ngược lại càng tăng thêm tuổi thọ, đến hai trăm vạn ức Na do tha tuổi,
thường thường vì người diễn nói Kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn
khinh khi vị đó, đặt tên là Thường Bất Khinh, thấy vị đó đắc được sức đại
thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, tâm lương thiện. Nghe vị đó nói pháp,
đều tin thọ đi theo. Vị Bồ Tát đó, lại giáo hóa hàng ngàn vạn ức chúng,
khiến cho họ trụ nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng
chung, được gặp hai ngàn ức vị Phật, đều hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh.
Ở trong pháp đó thường nói Kinh Pháp Hoa này. Bởi nhân duyên đó, lại
được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng hiệu là Vân Tự Tại Ðăng Vương. Ở
trong pháp của các đức Phật đó, đều thọ trì đọc tụng, vì bốn chúng nói kinh
điển này, cho nên được mắt thường thanh tịnh, tai mũi lưỡi thân ý các căn
đều thanh tịnh. Ở trong bốn chúng nói pháp tâm chẳng sợ hãi.
Ðắc Ðại Thế ! Ðại Bồ Tát Thường Bất Khinh đó, cúng dường hết thảy các vị
Phật như thế, cung kính tôn trọng khen ngợi, trồng các căn lành. Về sau, lại
gặp ngàn vạn ức đức Phật, cũng ở trong pháp của các vị Phật đó, diễn nói
kinh này, công đức thành tựu sẽ được thành Phật.
Khi Bồ Tát Thường Bất Khinh đắc được sáu căn thanh tịnh, thì thường vì
người diễn nói Kinh Pháp Hoa. Trước kia, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ
nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn, lại có những người đánh đập mắng chưởi
khinh khi Ngài, đặt cho Ngài cái tên là Thường Bất Khinh. Họ thấy Bồ Tát
Thường Bất Khinh có thần thông lớn, lại đọc tụng làu Kinh Pháp Hoa, còn
vì người mà nói Kinh Pháp Hoa, được biện tài vô ngại, lại được thân tâm
lương thiện, chẳng sinh tâm sân hận, có sức nhẫn nhục và sức trí huệ Bát
Nhã. Khi họ nghe vị Bồ Tát Thường Bất Khinh nói Kinh Pháp Hoa, thì họ
đều im lặng tin nhận, đi theo Bồ Tát Thường Bất Khinh cùng nhau tu đạo.
Vị Bồ Tát Thường Bất Khinh giáo hóa hàng ngàn vạn ức chúng sinh, đều
khiến cho họ trụ nơi Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Sau khi đời thứ
nhất mạng chung rồi, thì có hai ngàn ức vị Phật xuất hiện ra đời, đều hiệu là
Nhật Nguyệt Ðăng Minh Phật. Ở trong pháp của hai ngàn ức vị Phật đó, Bồ
Tát Thường Bất Khinh vẫn nói bộ Kinh Pháp Hoa này. Nhờ nhân duyên đó,
lại gặp hai ngàn ức vị Phật xuất hiện ra đời, đều đồng hiệu là Vân Tự Tại
Ðăng Vương Phật. Ở trong pháp của hai ngàn ức Phật Nhật Nguyệt Ðăng
Minh, và hai ngàn ức Phật Vân Tự Tại Ðăng Vương, Bồ Tát Thường Bất
Khinh đời đời kiếp kiếp, đều thọ trì đọc tụng và vì bốn chúng đệ tử rộng nói
bộ Kinh Pháp Hoa này, đắc được mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, các căn thường
thanh tịnh chẳng nhiễm. Ở trong bốn chúng nói pháp tâm chẳng sợ hãi.
Phật lại gọi một tiếng : ‘’Ðắc Ðại Thế ! Vị Bồ Tát Thường Bất Khinh đó, đã
từng cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật như đã nói ở
trên, và ở trước chư Phật gieo trồng các căn lành. Sau đó, lại có ngàn vạn ức
vị Phật ra đời. Ngài cũng ở trong pháp của chư Phật diễn nói bộ Kinh Pháp
Hoa này. Nhờ công đức Ngài diễn nói bộ kinh này thành tựu, cho nên Ngài
được thành Phật.’’
Ðắc Ðại Thế ! Ý ông thế nào ? Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở đó là người
nào vậy ? Chính là thân ta. Nếu trong đời quá khứ, ta chẳng thọ trì đọc tụng
kinh này, chẳng vì người khác diễn nói, thì không thể sớm được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Vì trước kia, ta ở chỗ các đức Phật thọ trì đọc tụng
kinh này, vì người diễn nói, nên sớm được Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Ðắc Ðại Thế ! Lúc đó bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ,
dùng tâm sân hận khinh tiện ta, cho nên trải qua hai trăm ức kiếp thường
chẳng gặp Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng thấy Tăng. Ngàn kiếp ở trong địa
ngục A Tỳ, thọ đại khổ não, hết tội đó rồi, lại gặp Bồ Tát Thường Bất
Khinh, giáo hóa cho họ đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Ðắc Ðại Thế ! Ý ông thế nào ? Bốn chúng thường khinh khi Bồ Tát Thường
Bất Khinh, đâu phải là ai khác, nay ở trong hội này, đó là Bạt Ðà Bà La cả
thảy năm trăm vị Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt cả thảy năm trăm vị Tỳ Kheo, Ni
Tư Phật cả thảy năm trăm vị cư sĩ nam, đều chẳng thối chuyển nơi đạo Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Ðắc Ðại Thế ! Nên biết Kinh Pháp Hoa này, lợi ích rất lớn cho các đại Bồ
Tát, khiến cho đạt đến quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bởi thế,
các đại Bồ Tát sau khi Như Lai diệt độ, thường hay thọ trì, đọc tụng, giải
nói, biên chép, kinh này.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Ðắc Ðại Thế ! Theo ý của ông thấy thì thế nào
? Vị Bồ Tát Thường Bất Khinh là người nào vậy ? Ông ta chính là tiền thân
của ta (Phật Thích Ca Mâu Ni). Nếu như thuở xưa, ta chẳng thọ trì và đọc
tụng Kinh Pháp Hoa này, hoặc chẳng vì người khác giải nói kinh này, thì ta
không thể nào, sớm được thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác. Bởi vì ta thuở xưa ở chỗ các Ðức Phật, hay thọ trì đọc tụng bộ kinh
này, và vì người khác giải nói, cho nên ta sớm được thành tựu Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác.
‘’Ðắc Ðại Thế ! Những vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn
chúng đệ tử, dùng tâm sân hận và khinh khi ta là vô trí, cho nên ở trong hai
trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe được Phật pháp, cũng
chẳng thấy được Tăng. Ngàn kiếp ở trong địa ngục A Tỳ, chịu hành hình
khổ não, sau khi thọ xong tội báo, thì lại đầu thai làm người, gặp Bồ Tát
Thường Bất Khinh để giáo hóa họ, khiến cho họ phát tâm Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
‘’Ðắc Ðại Thế ! Theo ý của ông thế nào ? Bốn chúng thường khinh khi Bồ
Tát Thường Bất Khinh thuở đó là ai vậy ? Chính là Bạt Ðà Bà La cả thảy
năm trăm vị Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt cả thảy năm trăm vị Tỳ Kheo, Ni Tư
Phật cả thảy năm trăm vị cư sĩ nam, đều đang ở trong pháp hội này. Họ đã
đắc được cảnh giới không thối chuyển đạo Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
‘’Ðắc Ðại Thế ! Ông nên biết bộ Kinh Pháp Hoa này, lợi ích hết thảy tất cả
các đại Bồ Tát, hay khiến cho các Ngài đắc được Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, cho nên các đại Bồ Tát, sau khi Như Lai diệt độ, luôn luôn thọ
trì đọc tụng giải nói biên chép bộ Kinh Pháp Hoa này. Lúc ấy, Ðức Phật
muốn tường thuật lại, bèn dùng kệ để nói.’’
Quá khứ có Phật
Hiệu Uy Âm Vương
Thần trí vô lượng
Dẫn dắt tất cả.
Trời người rồng thần
Cùng đến cúng dường
Phật đó diệt rồi
Lúc pháp sắp diệt.
Có một Bồ Tát
Tên Thường Bất Khinh
Khi đó bốn chúng
Chấp trước nơi pháp.
Bồ Tát Bất Khinh
Ði đến chỗ họ
Bèn nói lời rằng:
Tôi chẳng khinh Ngài.
Các Ngài hành đạo
Ðều sẽ thành Phật
Mọi người nghe rồi
Khinh khi mắng chưởi.
Bồ Tát Bất Khinh
Chịu đựng nhẫn nhục
Tội nghiệp hết rồi
Khi sắp lâm chung.
Nghe được kinh này
Sáu căn thanh tịnh
Nhờ sức thần thông
Tăng thêm tuổi thọ.
Lại vì mọi người
Rộng nói kinh này
Những người chấp pháp
Ðều nhờ Bồ Tát.
Giáo hóa thành tựu
Khiến trụ Phật đạo
Bất Khinh mạng chung
Gặp vô số Phật.
Nhờ nói kinh này
Ðược vô lượng phước
Dần đủ công đức
Sớm thành Phật đạo.
Bất Khinh thuở đó
Tức là thân ta.
Ðức Phật nói : ‘’Vô lượng đời trong quá khứ, có một vị Phật ra đời hiệu là
Phật Uy Âm Vương. Thần thông của vị Phật đó vô lượng, trí huệ cũng vô
lượng. Ngài tiếp dẫn tất cả chúng sinh, làm lãnh tụ tất cả chúng sinh, để dẫn
dắt họ sớm thành Phật đạo. Lúc đó, tất cả các trời người và các rồng thần,
cùng đến cúng dường vị Phật đó. Vị Phật đó hoằng dương Phật pháp, trải
qua thời gian lâu dài mới vào Niết Bàn. Sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, khi
tượng pháp sắp diệt, thì có một vị Bồ Tát xuất hiện ra đời tên là ‘’Thường
Bất Khinh,’’ tức là luôn luôn chẳng khinh khi bất cứ ai. Ngài đối với tất cả
chúng sinh như cung kính đối với Phật. Vào lúc pháp sắp diệt hết, thì có
nhiều bốn chúng đệ tử nghiệp chướng thêm nặng, thân tuy xuất gia mà
chẳng tu đạo. Vì họ đều sinh tâm cống cao ngã mạn, tâm tăng thượng mạn,
xem người khác chẳng ra gì. Bởi Phật pháp sắp muốn diệt tận, cho nên tất cả
Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, đều dụng công phu ngoài da, chấp trước nơi pháp,
cho nên sinh tâm tăng thượng mạn.
Lúc đó, Bồ Tát Thường Bất Khinh đến chỗ bốn chúng tăng thượng mạn nói
rằng : ‘’Tôi chẳng dám khinh mạn các vị, vì các vị hiện đang thực hành Bồ
Tát đạo, cho nên tương lai đều sẽ thành Phật‘’. Hàng bốn chúng tăng thượng
mạn nghe những lời đó rồi, thì khinh khi phỉ báng mắng chưởi Ngài. Tuy Bồ
Tát Thường Bất Khinh chịu đựng sự đánh đập mắng chửi, cho đến dùng gậy,
ngói, đá, đánh đập Ngài, song Ngài cũng chẳng sinh tâm sân hận, nhẫn thọ
mọi sự thử thách, luôn cúi đầu đảnh lễ. Sau khi vị Bồ Tát Thường Bất Khinh
trả hết nghiệp cũ, khi lâm chung, thì nghe được đạo lý Kinh Pháp Hoa không
thể nghĩ bàn, đắc được sáu căn thanh tịnh, sáu căn hổ tương dụng với nhau.
Bởi đắc được đại thần thông, đại trí huệ, đại thế đại lực, cho nên tuổi thọ lại
tăng lên rất nhiều. Sau đó, Ngài lại vì hết thảy mọi người rộng nói bộ Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa này.
Ở trên nói về chúng sinh chấp trước pháp, và tăng thượng mạn, thọ hết quả
báo trong địa ngục rồi, lại được đầu thai làm người, được gặp Bồ Tát
Thường Bất Khinh, có đại oai thần lực như thế, nên đều nhờ Bồ Tát giáo hóa
thành tựu, khiến cho họ trụ nơi Phật đạo. Sau khi Bồ Tát Thường Bất Khinh
mạng chung, lại có vô số chư Phật xuất hiện ra đời, mà Bồ Tát Thường Bất
Khinh trong đời đời kiếp kiếp, vẫn diễn nói bộ Kinh Pháp Hoa này, cho nên
Ngài đắc được vô lượng phước báu trang nghiêm, dần dần đầy đủ công đức
Phật đạo, sớm được thành Phật. Ta nói Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở đó là
ai ? Chính là ta (Phật Thích Ca).
Bốn bộ chúng đó
Những người chấp pháp
Nghe Bất Khinh nói
Ông sẽ thành Phật.
Bởi nhân duyên đó
Gặp vô số Phật
Bồ Tát hội này
Chúng năm trăm người.
Và bốn bộ chúng
Thiện nam tín nữ
Nay ở trước ta
Nghe kinh pháp này.
Ta ở đời trước
Khuyên những người đó
Nghe thọ kinh này
Là pháp bậc nhất.
Khai thị dạy người
Khiến trụ Niết Bàn
Ðời đời thọ trì
Kinh điển như thế.
ức ức vạn kiếp
Không thể nghĩ bàn
Nên mới được nghe
Kinh Pháp Hoa này.
ức ức vạn kiếp
Không thể nghĩ bàn
Chư Phật Thế Tôn
Diễn nói kinh này.
Bởi thế hành giả
Sau Phật diệt độ
Nghe được kinh này
Chớ sinh nghi hoặc.
Hãy nên một lòng
Rộng nói kinh này
Ðời đời gặp Phật
Sớm thành Phật đạo.
Bốn chúng phỉ báng chưởi mắng Bồ Tát Thường Bất Khinh, một số người
chấp trước pháp mà sinh tâm tăng thượng mạn, nghe thấy Bồ Tát Thường
Bất Khinh nói họ sẽ thành Phật. Bởi nhờ nhân duyên đó, được thấy vô lượng
vô số chư Phật. Hiện tại Bạt Ðà Bà La năm trăm vị Bồ Tát ở trong pháp hội
này, tức là một trong bốn chúng khinh khi phỉ báng Bồ Tát Thường Bất
Khinh thuở đó, hiện tại các vị đó đã chứng được bất thối chuyển, khéo giữ
giới luật. Và có những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, thuở xưa
tăng thượng mạn, hiện nay họ đều ở trước ta phát tâm đại bồ đề, vì ta thuở
xưa khiến cho họ gieo trồng xuống hạt giống bồ đề, cho nên hiện tại đến
nghe ta nói pháp.
Kiếp trước ta khuyên hết thảy mọi người, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô
thượng đạo. Ta đời đời kiếp kiếp đều giảng bộ Kinh Pháp Hoa này, mà họ
đều đã nghe qua. Kinh Pháp Hoa là bộ kinh diệu bậc nhất, ta khai thị giáo
hóa mọi người, khiến cho họ trụ ở Niết Bàn an vui, chứng được diệu quả
thường lạc ngã tịnh. Ta lại giáo hóa tất cả chúng sinh, đời đời kiếp kiếp, thọ
trì bộ Kinh Pháp Hoa này. Ta cũng đời đời kiếp kiếp, thọ trì bộ Kinh Pháp
Hoa này, thời gian ức ức vạn kiếp chẳng có số lượng, cho đến thời gian
không thể nghĩ bàn, mới nghe được bộ Kinh Pháp Hoa này. Cho đến ức ức
vạn kiếp, và thời gian không thể nghĩ bàn, mười phương ba đời tất cả chư
Phật Thế Tôn, đều luôn luôn nói bộ Kinh Pháp Hoa này. Bởi thế, các vị
những người tu đạo Bồ Tát, sau khi ta diệt độ, nghe được Kinh Pháp Hoa
không thể nghĩ bàn này, thì ngàn vạn đừng sinh tâm nghi hoặc. Các vị phải
chuyên tâm vì tất cả chúng sinh rộng nói bộ kinh này. Các vị đời đời kiếp
kiếp, đều có thể gặp được tất cả chư Phật, sớm thành tựu Phật đạo, thành tựu
bồ đề.
 ---o0o---
Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
Thần là tự tại lực, chẳng tạo làm thêm. Thần ở đây thuộc về bên trong, lực
thuộc bên ngoài. Vì bên trong có thần, nên bên ngoài có lực, nếu chẳng có
thần thì chẳng có lực. Như Lai là một trong mười hiệu của Phật. Như là tĩnh,
lai là động. Như cũng là tịch mặc, lai cũng là năng nhân. Năng nhân tức là
làm được việc nhân từ của Phật. Tịch mặc tức là thành tựu tự tại thần lực của
Phật. Thần lực của Như Lai, tức là thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn
của Phật.
Ví như trong kinh này có nói, Ðức Phật Thích Ca phân thân mười phương,
đó là thần lực của Như Lai. Như Lai Ða Bảo đến pháp hội chứng minh Kinh
Pháp Hoa, đó là thần lực của Như Lai. Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, đó là thần
lực của Như Lai. Phẩm Pháp Sư Công Ðức, sáu căn hổ tương sử dụng, đó là
thần lực của Như Lai. Cho nên, thần lực của Như Lai vô lượng vô biên, nói
theo nghĩa rộng thì, hết thảy tất cả đều là thần lực của Như Lai thành tựu.
Bấy giờ, số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ngàn thế giới, từ dưới đất vọt
lên, đều ở trước đức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của
Phật, mà bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Chúng con đợi sau khi Phật diệt
rồi, chỗ đức Thế Tôn phân thân ở các cõi nước diệt độ rồi, chúng con sẽ
rộng nói kinh này.
Sau khi Ðức Phật nói xong Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh, thì có các vị
đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của ngàn thế giới, từ dưới đất vọt lên cùng đến
ở trước Ðức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của Ðức Thế
Tôn mà nói với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con đợi tương lai, khi
Phật vào Niết Bàn rồi, sau khi phân thân của đức Thế Tôn ở bất cứ cõi nước
nào diệt độ rồi, chúng con sẽ rộng nói bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.’’
Các vị đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, trong quá khứ đều là đệ tử của Ðức
Phật Thích Ca, hiện tại đến hội Pháp Hoa làm ủng hộ chúng, để ủng hộ đạo
tràng.
Tại sao ? Vì chúng con cũng muốn tự mình được chân tịnh đại pháp, thọ trì,
đọc tụng, giải nói, biên chép, cúng dường kinh này.
Vì sao ? Bởi vì chúng con cũng muốn chính mình đắc được chân tịnh đại
pháp này, tức cũng là pháp quyền thật không hai. Chúng con muốn thọ trì,
đọc tụng, giải nói, biên chép và cúng dường truyền bá kinh này.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở trước tất cả đại chúng Văn Thù Sư Lợi, vô lượng
trăm ngàn vạn ức đại Bồ Tát, xưa kia trụ ở thế giới Ta Bà, và các Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, hiện sức
đại thần thông, bày tướng lưỡi rộng dài lên đến cõi trời Ðại Phạm.
Lúc đó, Ðức Thế Tôn ở trước tất cả đại chúng Bồ Tát Văn Thù, vô lượng
trăm ngàn vạn ức các Bồ Tát xưa kia, đều trụ ở thế giới Ta Bà và tất cả Tỳ
Kheo Tỳ Kheo Ni, tất cả cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời rồng tám bộ chúng, người,
và chẳng phải người, hiện ra sức đại thần thông, phô bày tướng lưỡi rộng dài
lên đến sắc giới cõi trời Ðại Phạm.
Tất cả lỗ chân lông, đều phóng ra vô lượng vô số màu sắc quang minh, chiếu
soi khắp mười phương thế giới. Chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới các cây
báu, cũng lại như thế, bày tướng lưỡi rộng dài, phóng ra vô lượng quang
minh.
Trên thân của Phật, mỗi lỗ chân lông đều phóng ra vô lượng vô số màu sắc
quang minh, trong mỗi thứ quang minh, lại hiện ra đủ thứ màu sắc, chói sáng
rực rỡ. Thứ màu sắc quang minh đó, chiếu soi khắp hết thảy mười phương
thế giới. Chư Phật (phân thân của Phật Thích Ca) ngồi trên tòa sư tử dưới
cội bồ đề, cũng bày tướng lưỡi rộng dài như thế. Trên thân của chư Phật,
mỗi lỗ chân lông, cũng phóng ra vô lượng vô biên màu sắc quang minh, hổ
tương chiếu soi.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, và chư Phật ở dưới cây báu, đều hiện thần lực
trọn trăm ngàn năm, sau đó mới nhiếp tướng lưỡi lại, đồng thời phát ra tiếng
cười nói nhỏ nhẹ, và tiếng gảy móng tay. Hai âm thanh đó, vang đến khắp
thế giới của chư Phật trong mười phương, mặt đất đều sáu thứ chấn động.
Ðức Phật Thích Ca và chư Phật ở dưới cội bồ đề, hiện thần lực trọn trăm
ngàn năm, sau đó mới nhiếp tướng lưỡi lại. Mười phương chư Phật đồng
thời phát ra tiếng cười nói nhỏ nhẹ, và tiếng gảy móng tay. Tiếng cười nói
nhỏ nhẹ gọi là ý, tiếng gảy móng tay là âm ý. Nếu người nhập định, lỗ tai kia
gảy móng tay ba cái, thì người đó có thể xuất định.
Hai âm thanh đó, vang truyền khắp thế giới của chư Phật trong mười
phương. Mặt đất của mỗi thế giới đều sáu thứ chấn động. Chấn, hống, kích
(thuộc về tiếng), động, dũng, khởi (thuộc về hình). Trong mỗi thứ chấn
động, lại có ba thứ hiện tượng đó là động, biến động, đẳng biến động. Cộng
lại hết thảy là mười tám thứ chấn động, tức cũng là cảnh giới: Mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý, sáu căn hổ tương sử dụng, biểu thị sáu căn, sáu trần, sáu thức,
mười tám giới.
Chúng sinh ở trong đó, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, nhờ thần lực của
Phật, nên đều thấy thế giới Ta Bà này. Ở dưới vô lượng vô biên trăm ngàn
vạn ức các cây báu, đều có chư Phật ngồi trên tòa sư tử, và thấy đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, với đức Ða Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo
tháp.
Chúng sinh ở trong đó, có chư thiên, loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bàn, A tu
la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, ác quỷ. Nhờ đại oai thần
lực không thể nghĩ bàn của Phật Thích Ca, nên họ đều nhìn thấy thế giới Ta
Bà. Ở dưới vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các cây báu, đều có tòa sư tử,
trên mỗi tòa sư tử đều có Phật ngồi ở đó. Lại thấy Phật Thích Ca Mâu Ni, và
Ðức Ða Bảo Như Lai, đều ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo tháp, nhìn thấy rõ
ràng.
Lại thấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức vị đại Bồ Tát, và hàng bốn
chúng cung, kính vây quanh đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ thấy như vậy
rồi, thảy đều đại hoan hỷ được chưa từng có.
Họ lại thấy vô lượng vô biên đại Bồ Tát, từ dưới đất vọt lên, và tất cả bốn
chúng đều cung kính vây quanh Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi họ nhìn
thấy như vậy rồi, thì thảy đều sinh tâm đại hoan hỷ nói : ‘’Chúng ta chưa bao
giờ thấy qua cảnh giới này, thật là không thể nghĩ bàn.’’
Lúc đó, chư Thiên ở trong hư không lớn tiếng xướng lên rằng : Qua đây vô
lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi nước Ta Bà, trong
đó có vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Hôm nay vì các đại Bồ Tát nói kinh
đại thừa, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ
niệm. Các vị nên thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ lạy cúng dường đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
Lúc đó, chư thiên ở trong hư không lớn tiếng nói : ‘’Xin đại chúng chú ý !
Qua đây có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi
nước tên là Ta Bà. Trong cõi nước đó, có Phật ra đời hiệu là Phật Thích Ca
Mâu Ni. Hiện tại, vì vô lượng vô biên đại Bồ Tát, diễn nói kinh đại thừa tên
là Diệu Pháp Liên Hoa. Vì diệu pháp này thanh tịnh như hoa sen. Hoa sen
sinh ở trong bùn mà chẳng nhiễm, hoa quả đồng thời rất thanh minh thần
Thánh, cho nên lấy hoa sen làm tên kinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vua
trong các kinh. Bộ kinh này, là pháp giáo hóa đại Bồ Tát, bộ kinh này được
mười phương chư Phật hộ niệm. Nếu hay thọ trì bộ kinh này, thì được mười
phương chư Phật hộ niệm, mà đắc được cảnh giới trí huệ như biển. Các vị
đại chúng nên thâm tâm tùy hỷ công đức, cũng nên lễ lạy cúng dường Phật
Thích Ca Mâu Ni, thì chắc chắn có công đức vô lượng.’’
Các chúng sinh đó, nghe tiếng nói ở trong hư không rồi, đều chắp tay hướng
về thế giới Ta Bà mà nói rằng : Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô
Thích Ca Mâu Ni Phật, đem các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, phan lọng, và
các thứ đồ nghiêm thân, châu báu vật quý giá, đều từ xa rải xuống thế giới
Ta Bà.
Các chúng sinh đó, nghe tiếng nói ở trong hư không rồi, đại chúng đều chắp
tay lại hướng về thế giới Ta Bà mà nói rằng : ‘’Nam Mô Thích Ca Mâu Ni
Phật ! Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật !‘’ Sau đó, họ dùng các thứ hoa, các
thứ hương, các thứ chuỗi ngọc, các thứ phan lọng và các thứ mũ hoa, y tốt,
đồ trang sức thân thể, với các châu báu vật quý, từ xa rải xuống thế giới Ta
Bà.
Các thứ vật rải xuống đến từ mười phương, giống như mây tụ lại, biến thành
màn báu, che khắp phía trên các đức Phật. Lúc đó, mười phương thế giới
thông đạt vô ngại như một cõi Phật.
Các thứ vật rải xuống thế giới Ta Bà từ mười phương thế giới đến, giống
như mây tụ lại biến thành màn báu, che khắp phía trên các Ðức Phật ở thế
giới Ta Bà. Lúc đó, mười phương thế giới đều thông đạt vô ngại, hợp thành
một thế giới. Một thế giới và mười phuơng thế giới chẳng có phân biệt,
thông đạt với nhau chẳng có chướng ngại.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng thượng hạnh Bồ Tát : Thần lực của chư
Phật như thế, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Nếu ta dùng thần lực đó,
trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, vì chúc luỹ nói
công đức của kinh này, thì không thể nói hết được.
Lúc đó, Phật Thích Ca Mâu Ni bảo đại Bồ Tát ở trong thượng hạnh Bồ Tát,
cũng có thể nói Phật bảo đại chúng Bồ Tát từ dưới đất vọt lên : ‘’Sức tự tại
thần thông của chư Phật, như sức thần thông vô lượng vô biên không thể
nghĩ bàn vừa nói ở trên. Nếu ta dùng sức thần thông ấy, trong vô lượng vô
biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp thời gian, ta vì tất cả chúng sinh chúc
lũy. Dạy bạn làm việc gì đó là chúc, việc làm chẳng nhàm chẳng mệt mỏi là
chúc lũy. Khiến cho các Ngài truyền bá Kinh Pháp Hoa, giải nói Kinh Pháp
Hoa, công đức đắc được, ta không thể nói hết được.
Tóm lại, hết thảy tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai,
tất cả việc thâm sâu của Như Lai, đều diễn nói hiển bày ở trong kinh này.
Nói tóm lại, hết thảy tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như
Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc thâm sâu của Như Lai, đều
diễn nói ra ở trong Kinh Pháp Hoa, chỉ bày cho các vị. Nói rõ hiển bày ra,
chẳng giống như lúc trước giữ gìn diệu pháp. Hiện tại nói toạc ra hết, vì
muốn cho các vị biết pháp thật tướng của đại thừa.
Bởi thế, sau khi Như Lai diệt rồi, các ông nên một lòng thọ trì, đọc tụng, giải
nói, biên chép, theo như pháp mà tu hành.
Ðức Phật Thích Ca nói : ‘’Vì lẽ đó, cho nên sau khi Như Lai diệt độ rồi, các
ông nên chuyên tâm nhất chí để thọ trì Kinh Pháp Hoa này.’’ Bất cứ là đọc
tụng, hoặc vì người giải nói, hoặc biên chép, đều phải y theo đạo lý nói ở
trong Kinh Pháp Hoa mà tu hành.
Dù ở trong cõi nước nào, nếu có người thọ trì đọc tụng, giải nói biên chép,
theo như trong kinh nói mà tu hành.
Bất cứ cõi nước nào, nếu như có người thọ trì, đọc tụng giải nói, biên chép
kinh này, y chiếu theo đạo lý nói trong Kinh Pháp Hoa mà tu hành, thì có
công đức không thể nghĩ bàn, đắc được cảnh giới sáu căn dụng với nhau.
Hoặc nơi nào có kinh này, hoặc ở trong vườn, hoặc ở trong rừng, hoặc ở
dưới cây, hoặc ở phòng Tăng, hoặc ở nhà cư sĩ, hoặc ở trong Phật điện, hoặc
ở hang núi khoáng dã, đều nên xây tháp cúng dường.
Bộ Kinh Pháp Hoa này ở chỗ nào, bất cứ là ở trong vườn, hoặc ở trong rừng,
hoặc ở dưới gốc cây lớn, hoặc ở trong phòng của chư Tăng ở, hoặc ở trong
nhà của cư sĩ, hoặc ở trong điện Phật, hoặc ở trong hang núi, hoặc ở nơi
khoáng dã, đều nên xây tháp để cúng dường. Tóm lại, phàm là nơi nào có
Kinh Pháp Hoa, đều phải khởi tâm cung kính lễ lạy, hoặc chắp tay, hoặc
đảnh lễ, đó là lễ nghi mà Phật tử nên biết.
Tại sao ? Nên biết nơi đó tức là đạo tràng. Chư Phật từ nơi đó mà đắc được
quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chư Phật từ nơi đó mà chuyển
bánh xe pháp, chư Phật từ nơi đó mà vào Niết Bàn.
Tại sao chỗ nào có Kinh Pháp Hoa, thì nên xây bảo tháp cúng dường ? Nên
biết nơi đó là đạo tràng thành đạo của Như Lai. Mười phương chư Phật từ
Kinh Pháp Hoa, mà đắc được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Mười phương chư Phật từ Kinh Pháp Hoa mà chuyển bánh xe pháp, mười
phương chư Phật từ Kinh Pháp Hoa mà vào Niết Bàn, chứng được thường
lạc ngã tịnh bốn đức Niết Bàn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Ðức Phật từ bi muốn tường thuật lại nghĩa lý ở trên vừa nói, bèn
dùng kệ để nói.
Chư Phật bậc cứu đời
Trụ nơi đại thần thông
Vì khiến chúng sinh vui
Hiện vô lượng thần lực.
Bổn hoài của chư Phật là cứu đời, độ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Chư
Phật trụ ở sức đại thần thông, mới có thể cứu độ chúng sinh, nếu giống như
một số người, thì dùng phương pháp gì để cứu độ chúng sinh ? Vì muốn
khiến cho tất cả chúng sinh, được an vui cứu kính, cho nên mới hiện vô
lượng sức thần thông.
Tướng lưỡi đến Phạm Thiên
Thân phóng vô lượng quang
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này.
Chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài đến cõi trời Phạm Thiên. Thân của chư
Phật phóng ra vô lượng màu sắc quang minh, vì chúng sinh cầu Vô thượng
Phật đạo, mới hiện ra việc ít có như thế.
Tiếng chư Phật cười nói
Và tiếng gảy móng tay
Ðều vang khắp mười phương
Ðất sáu thứ chấn động.
Tiếng chư Phật cười nói nhỏ nhẹ và tiếng gảy móng tay, hai thứ âm thanh
này tuy rất nhỏ, song có thể vang khắp mười phương cõi nước, mặt đất của
các nước đều phát sinh sáu thứ chấn động.
Tiếng cười nói và tiếng khảy móng tay, là cảnh cáo chúng sinh đừng "túy
sinh mộng tử" (sống say chết mộng), phải mau tỉnh ngộ, thọ trì Kinh Pháp
Hoa. Bằng không, thì thời gian chẳng chờ đợi, trong nháy mắt thì vô thường
đã đến. Lãng phí một đời, chẳng biết khi nào mới có cơ hội đọc tụng kinh
này. Cổ đức có nói :
‘’Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay đã nghe;
Thân này đời này không độ,
Còn đợi khi nào mới độ thân này !’’
Sau Phật diệt độ rồi
Vì hay trì kinh này
Chư Phật đều hoan hỷ
Hiện vô lượng thần lực.
Sau khi Phật vào Niết Bàn, vì hay thọ trì Kinh Pháp Hoa này, cho nên mười
phương chư Phật đều sinh tâm hoan hỷ. Do đó, hiện ra vô lượng sức thần
thông.
Bởi chúc lũy kinh này
Khen ngợi người thọ trì
Ở trong vô lượng kiếp
Không thể nói hết được.
Ðức Phật chúc lũy tất cả Bồ Tát, và tất cả chúng sinh phải thọ trì, đọc tụng,
giải nói, biên chép, truyền bá kinh này, khen ngợi người thọ trì Kinh Pháp
Hoa, trải qua vô lượng vô biên cũng khen ngợi chẳng hết được.
Công đức của người đó
Vô biên không cùng tận
Như mười phương hư không
Chẳng biết được bờ mé.
Người thọ trì Kinh Pháp Hoa này, được công đức chẳng có bờ mé, cũng
chẳng cùng tận. Công đức đó vĩnh viễn tồn tại, giống như mười phương hư
không tìm chẳng được bờ mé.
Có người nói : ‘’Tức nhiên hư không chẳng có bờ mé, vậy công đức mà
chúng ta thọ trì Kinh Pháp Hoa đại khái cũng chẳng có !‘’ Bạn hiểu được gì
cũng chẳng có, thì hiểu được gì cũng đều có. Ðây chẳng phải nói tựa như hư
không gì cũng chẳng có, mà là nói tựa như hư không chẳng có bờ mé, là tỉ
dụ vô cùng vô tận. Trong chân không vốn có diệu hữu, bạn nhìn chẳng thấy
diệu hữu thì cho rằng chẳng có. Kỳ thật là có, bất quá bạn chẳng minh bạch
mà thôi.
Người hay trì kinh này
Tức là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Ða Bảo
Và các Phật phân thân.
Lại thấy ta hôm nay
Giáo hóa các Bồ Tát.
Nếu người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì thấy được chân thân của Phật
trong quá khứ, cũng thấy được Phật Ða Bảo đã diệt độ trong quá khứ, và tất
cả Phật phân thân của ta. Lại thấy ta hiện tại ở trong bảo tháp giáo hóa hết
thảy các Bồ Tát.
Người hay trì kinh này
Khiến ta và phân thân
Phật Ða Bảo diệt độ
Hết thảy đều hoan hỷ.
Người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, hay làm cho ta và chư Phật phân thân của
ta, cùng với Phật Ða Bảo diệt độ từ lâu, đều sinh tâm đại hoan hỷ. Bởi vì
người đó tinh tấn đọc tụng, giải nói, biên chép, truyền bá kinh này.
Mười phương Phật hiện tại
Và quá khứ vị lai
Cũng thấy cũng cúng dường
Cũng khiến được hoan hỷ.
Mười phương chư Phật hiện tại, và quá khứ vị lai chư Phật cũng thấy được,
cũng cúng dường, cũng khiến cho chư Phật ba đời, đều được hoan hỷ.
Chư Phật ngồi đạo tràng
Ðắc được pháp bí yếu
Người hay trì kinh này
Chẳng lâu cũng sẽ được.
Mười phương chư Phật ngồi ở bồ đề đạo tràng, ngộ được tạng pháp bí yếu.
Người thọ trì Kinh Pháp Hoa này, tương lai chẳng bao lâu, cũng sẽ đắc được
pháp bí yếu của chư Phật.
Người hay trì kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh từ và lời lẽ
Nhạo thuyết không tận cùng.
Như gió trong hư không
Tất cả chẳng chướng ngại.
Người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, đối với nghĩa lý của chư Phật thuyết pháp,
như danh từ và lời lẽ ở trong kinh, đều đắc được cảnh giới nhạo thuyết vô
ngại biện tài. Giống như gió ở trong hư không, chẳng bị vật gì làm chướng
ngại được.
Sau Như Lai diệt rồi
Hiểu kinh của Phật nói
Nhân duyên và thứ lớp
Theo nghĩa nói như thật.
Sau khi Phật vào Niết Bàn, phải hiểu kinh điển của Phật nói, nhân duyên và
thứ lớp. Tùy thuận nghĩa lý trong kinh, giải nói như thật, không thể làm trái
ngược tâm ý của Phật. Cổ đức có nói :
‘’Y văn giải nghĩa tam thế Phật oan
Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết.’’
Do đó đủ biết, đối với nghĩa của kinh không thể hiểu lầm, phải nên cẩn thận.
Như ánh sáng nhật nguyệt
Phá trừ sự tối tăm
Người đó tại thế gian
Diệt được tối chúng sinh.
Giống như ánh sáng của mặt trời mặt trăng, hay chiếu sáng phá trừ tất cả
những nơi tối tăm. Người thọ trì Kinh Pháp Hoa ở trong thế gian hành đạo,
thì sẽ trừ sạch tâm đen tối của chúng sinh. Ðen tối ở trong tâm là gì ? Tức là
vô minh. Vì vô minh nên ngu si, có ngu si thì có phiền não. Cho nên Phật
pháp là pháp bảo phá vô minh. Phá vô minh rồi thì chẳng còn ngu si, trí huệ
sẽ hiện tiền. Có trí huệ thì hiểu rõ sự lý, mới không làm việc điên đảo. Cho
nên sau khi Ðức Phật đắc đạo dưới cội bồ đề rồi, Ngài bèn nói : ‘’Hết thảy
chúng sinh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, song vì vọng tưởng
chấp trước nên không chứng đắc.’’
Dạy vô lượng Bồ Tát
Rốt ráo trụ một thừa
Cho nên người có trí
Nghe rồi được công đức.
Giáo hóa vô lượng Bồ Tát, khiến cho họ phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo,
rốt ráo trụ ở một thừa, tức là thành Phật. Bởi thế, phàm là người có trí huệ,
nghe được thọ trì Kinh Pháp Hoa, có công đức lợi ích như thế, nên siêng
năng thọ trì.
Sau ta diệt độ rồi
Nên thọ trì kinh này
Người đó trụ Phật đạo
Chắc chắn không còn nghi.
Ðức Phật nói với đại chúng trong pháp hội rằng : ‘’Sau khi ta diệt độ rồi,
mọi người nên thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, kinh này là kinh thành
Phật. Người thọ trì Kinh Pháp Hoa này, thì sẽ trụ ở trong Phật đạo hoàn toàn
chẳng còn nghi ngờ, tương lai chắc chắn sẽ thành Phật.’’
---o0o---
Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
Tại sao phải có Phẩm Chúc Lũy ? Vì kinh điển của Phật nói, là pháp giáo
hóa tất cả chúng sinh. Pháp này phải có người hoằng dương truyền bá mới
có diệu dụng, cho nên Ðức Phật phân phối cho tất cả Bồ Tát, các vị A La
Hán, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, khiến cho họ tương lai phải
truyền bá bộ Kinh Pháp Hoa này.
Tại sao phải truyền bá kinh này ? Vì bộ kinh này là bộ kinh quan trọng nhất,
là bộ kinh thành Phật. Phàm là chúng sinh chẳng có gieo trồng căn lành, thì
khi nghe được một chữ, hoặc một câu, một bài kệ, một phẩm của kinh này,
thì đều gieo trồng căn lành. Chúng sinh đã gieo trồng căn lành, thì bất cứ là
nghe được một chữ, một câu, một bài kệ, một phẩm của kinh này, thì sẽ tăng
trưởng căn lành. Chúng sinh đã tăng trưởng căn lành, mà nghe được một
chữ, một câu, một bài kệ, một phẩm của kinh này, thì sẽ đắc được căn lành
công đức thành thục. Chúng sinh đã thành thục, nghe được một chữ, một
câu, một bài kệ, một phẩm, một bộ của kinh này, thì sẽ đắc được giải thoát,
giải thoát thì sẽ thành Phật.
Bất cứ loài chúng sinh nào, nghe được pháp âm của kinh này, hoặc hiểu
nghĩa lý của kinh này, đều đắc được lợi ích và công đức. Cho nên, kinh này
gọi là Diệu Pháp Liên Hoa, vì có sự diệu như thế nên là vua trong các kinh.
Nói đơn giản, chúc lũy tức là truyền bá, nghĩa là từ nơi này mà truyền bá đến
xứ khác, giống như đạo lý nước từ sông ngòi chảy vào biển cả. Ví như chỗ
này chẳng có kinh Phật, thì có thể đến chỗ khác thỉnh kinh Phật về, để cho
đại chúng đọc tụng. Người biết đạo lý Phật pháp, thì trong sự vô hình có thể
cải ác hướng thiện, đó là truyền bá. Hoặc mọi người phát tâm ấn tống kinh,
truyền bá đến nơi khác, tặng cho mọi người đọc tụng, để có cơ hội hiểu biết
Phật pháp. Công đức đó lớn vô cùng, chắc chắn sẽ khai mở trí huệ, do đó có
câu :
‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’
Mọi người hãy chú ý ! Không thể ấn tống một quyển kinh cho mình dùng,
để mình khai trí huệ, mà là ấn tống kinh điển số nhiều, khiến cho mọi người
đều có cơ hội khai mở trí huệ. Có trí huệ rồi, thì phân biệt được thiện ác,
hiểu rõ thị phi, tuyệt đối chẳng làm việc điên đảo.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca từ pháp tòa đứng dậy, hiện sức đại thần thông,
dùng tay phải rờ đầu vô lượng đại Bồ Tát, mà nói rằng : Ta ở trong vô lượng
trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh
giác khó được này. Nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên một lòng
truyền bá pháp này, khiến cho chúng sinh được nhiều lợi ích của pháp.
Ðức Phật nói Phẩm Thần Lực của Như Lai rồi, bèn nói tiếp Phẩm Chúc Lũy,
bèn từ tòa ngồi đứng dậy hiện ra sức thần thông rất lớn, duỗi tay phải ra rờ
đầu vô lượng vị đại Bồ Tát. Ðó là biểu thị sự gia trì, tưới nước pháp đại trí
huệ. Ðối với các vị đại Bồ Tát mà nói rằng : ‘’Ta ở trong vô lượng trăm
ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác
khó được này. Diệu pháp này là Kinh Pháp Hoa, mà ta đang giảng nói cho
các ông nghe.’’ Phật lại nói : ‘’Hôm nay ta phó chúc cho các ông đại chúng,
các ông nên thọ trì đọc tụng pháp này, rộng vì chúng sinh diễn nói pháp này,
khiến cho khắp tất cả chúng sinh đều nghe biết pháp này.’’
Rờ đầu các vị đại Bồ Tát như thế ba lần, bèn nói rằng : Ta ở trong vô lượng
trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh
giác khó được này. Hôm nay phó chúc cho các ông, các ông nên thọ trì, đọc
tụng, rộng nói pháp này, khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết.
Ðức Phật Thích Ca rờ đầu các vị đại Bồ Tát như thế ba lần, bèn nói như vầy
: ‘’Ta ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu học pháp Vô
thượng chánh đẳng chánh giác khó được này. Hôm nay ta phó chúc cho các
ông đại chúng, các ông nên thọ trì, đọc tụng pháp này, khiến cho khắp tất cả
chúng sinh đều nghe biết pháp này.’’
Tại sao ? Vì Như Lai có đại từ bi, chẳng có san tham, cũng chẳng có sợ hãi,
có thể ban cho chúng sinh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai, trí huệ tự
nhiên. Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sinh. Các ông cũng nên theo
học pháp của Như Lai, chớ sinh tâm san tham.
Vì nhân duyên gì ? Vì Như Lai có tâm đại từ bi (từ hay ban vui, bi hay cứu
khổ), chẳng có san tham không xả, cũng chẳng có sợ hãi. Lại hay bố thí cho
tất cả chúng sinh trí huệ của Phật, tức cũng là trí huệ của bậc Ðại Giác. Trí
huệ của Như Lai tức là đại viên cảnh trí. Trí huệ tự nhiên tức là trí huệ tự
tánh vốn có sẵn. Phật đem hết thảy pháp của Ngài bố thí cho tất cả chúng
sinh, cho nên Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sinh.
Phật lại nói : ‘’Các ông đại chúng nên theo học pháp của Như Lai, ngàn vạn
đừng sinh tâm san tham không xả bỏ.’’ Giống như tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà
Già, trong quá khứ, tôn giả là đại thiện trí thức có năm vị đệ tử, nhưng tôn
giả chẳng nói pháp cho đệ tử nghe, cho nên trồng xuống hạt giống một đời
ngu si. Khi Ðức Phật thu nhận đệ tử, quy định phải niệm bốn câu kệ để làm
phương châm :
Thân miệng ý nghiệp chẳng làm ác,
Ðừng làm tổn hại các hữu tình thế gian,
Chánh niệm quán tri dục cảm không,
Nên xa lìa các sự khổ vô ích.’’
Tôn giả chẳng nhớ đặng. Sau Phật dạy tôn giả niệm hai chữ ‘’Chổi quét‘’,
tôn giả niệm rất lâu mới nhớ được. Phật lại dạy tôn giả niệm hai chữ ‘’Trừ
uế.’’ Lại niệm rất lâu. Một ngày nọ, khi tôn giả quét thì đột nhiên khai ngộ.
Tôn giả quét sạch rác rến dơ bẩn trong tâm, chẳng còn phiền não, sau chứng
được quả vị A La Hán, trở thành vị đại đệ tử "trì nghĩa đệ nhất".
Ở đời vị lai sau này, nếu có người thiện nam, người thiện nữ, tin trí huệ của
Như Lai, thì nên vì họ diễn nói Kinh Pháp Hoa này, khiến cho họ được nghe
biết, vì muốn khiến cho họ đắc được trí huệ của Phật.
Khi ở đời vị lai sau này, như có người nam, người nữ, tu năm giới hành thập
thiện, tin sâu trí huệ của Như Lai, thì ông nên vì họ diễn nói Kinh Pháp Hoa
này, khiến cho họ được nghe Kinh Pháp Hoa, thấu rõ nghĩa lý của Kinh
Pháp Hoa. Vì khiến cho họ đắc được trí huệ của Phật.
Nếu có chúng sinh chẳng tin nhận thọ trì kinh này, thì nên đem pháp thâm
sâu khác của Như Lai, mà khai thị giáo hóa họ, khiến cho họ được lợi ích
sinh tâm hoan hỷ. Nếu các ông làm được như thế, tức là đã báo được ân đức
của chư Phật.
Nếu như có chúng sinh, chẳng những họ chẳng tin Kinh Pháp Hoa, mà họ
cũng chẳng thọ trì pháp môn Kinh Pháp Hoa. Vậy các ông nên đem pháp
thâm sâu khác của Như Lai, mà khai thị cho họ, giáo hóa họ, khiến cho họ
đắc được lợi ích, mà sinh tâm hoan hỷ. Các ông đại chúng làm được như thế,
thì đó là đã báo đáp được ân đức của mười phương chư Phật.
Lúc đó, các vị đại Bồ Tát nghe đức Phật nói như thế rồi, thảy đều đại hoan
hỷ, khắp toàn thân đều thêm cung kính, khom mình cúi đầu, chắp tay hướng
về đức Phật đồng nói rằng : Như lời đức Thế Tôn dạy, chúng con sẽ phụng
hành, xin đức Thế Tôn đừng có lo lắng.
Khi các vị đại Bồ Tát đó nghe Ðức Phật nói như thế rồi, thảy đều đại hoan
hỷ, toàn thân đều hoan hỷ, rất cung kính đức Phật, bèn khom mình cúi đầu
chắp tay hướng về Ðức Phật. Ðại chúng khác miệng cùng lời nói rằng :
‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con xin tuân lời của Ngài dạy, đều y giáo phụng
hành, nhất định chẳng quên, xin Ðức Thế Tôn an tâm, đừng lo láng về
chuyện này.’’
Các vị đại Bồ Tát bạch như thế ba lần, đều cùng nhau nói : Như lời đức Thế
Tôn dạy, chúng con đều sẽ phụng hành, xin đức Thế Tôn đừng có lo lắng.
Các đại chúng Bồ Tát bạch như thế ba lần. Ðại chúng cùng nhau nói rằng :
‘’Ðức Thế Tôn ! Như lời của Ngài dạy, chúng con nhất định y pháp phụng
hành. Xin nguyện Ðức Thế Tôn đừng có lo lắng.’’
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khiến cho các đức Phật phân thân đến
từ mười phương, đều trở về nước của các Ngài mà nói rằng : Các đức Phật
hãy trở về chỗ của mình. Tháp của đức Phật Ða Bảo cũng trở về chỗ cũ.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, khiến cho các Ðức Phật phân thân đến
từ mười phương, đều trở về cõi nước của các Ngài. Tháp của Phật Ða Bảo
đến chứng minh Kinh Pháp Hoa hiện tại, cũng trở về thế giới ở phương
dưới.
Khi nói lời đó, thì vô lượng phân thân chư Phật trong mười phương, ngồi
trên tòa sư tử dưới cây báu, và đức Phật Ða Bảo, cùng với vô biên A tăng kỳ
đại chúng Bồ Tát thượng hạnh, Ngài Xá Lợi Phất, hàng Thanh Văn bốn
chúng, và tất cả thế gian, trời, người, A tu la, nghe lời đức Phật nói, thảy đều
đại hoan hỷ.
Khi Ðức Phật nói lời đó, thì vô lượng phân thân chư Phật trong mười
phương, ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề, và Ðức Phật Ða Bảo, cùng với
vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát thượng hạnh, Xá Lợi Phất và hàng
Thanh Văn bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và tất cả
thế gian trời, người, A tu la, nghe lời Phật nói rồi, thảy đều đại hoan hỷ.
---o0o---
Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
Bồ Tát Dược Vương chuyên tu khổ hạnh. Thứ khổ hạnh này, là thứ khổ
hạnh khó thực hành nhất, một số người chẳng làm được. Vị Bồ Tát này, thuở
xưa danh hiệu là Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến. Theo tên mà suy
nghĩa thì, Ngài và tất cả chúng sinh kết duyên lành, cho nên chúng sinh đều
hoan hỷ gặp Ngài.
Vị Bồ Tát này từng phát tâm đốt thân cúng dường Phật. Sự cúng dường này
chẳng phải một số người làm được. Có người khởi vọng tưởng : ‘’Ngài
chẳng biết đau chăng ?
- ‘’Tôi tin rằng Ngài biết đau, nhưng Ngài nhẫn thọ, kiền thành đem thân thể
cúng dường Phật. Tôi lại tin rằng Ngài chẳng biết đau. Tại sao ? Vì Ngài đã
quên mất thân của mình, tinh thần tập trung quán tưởng, thân thể là do bốn
đại năm uẩn giả hòa hợp huyễn thân mà thôi, chẳng có chỗ nào đáng ưa
thích cho nên chẳng biết đau.
Tóm lại, bất luận là biết đau hay không biết đau, Ngài xả được thân để cúng
Phật, đó là chân cúng dường. Vị Bồ Tát này từ bi nhất, chúng sinh có bệnh
tật, thì Ngài nhất định vì họ giải trừ bệnh khổ, cho nên tất cả chúng sinh đều
hoan hỷ gặp Ngài.
‘’Bổn sự‘’ là nói rõ sự tích tu hành của kiếp trước. Phẩm này nói về tinh
thần của Bồ Tát Dược Vương, vì pháp mà quên mình, cho nên thành tựu
viên thông vô ngại phẩm đức và trí huệ. Phẩm này là phẩm thứ hai mươi ba
trong Kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát
Dược Vương đến thế giới Ta Bà như thế nào ? Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Dược
Vương đó, có bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha sự khổ hạnh khó làm ?
Lành thay đức Thế Tôn ! Xin Ngài hãy nói ra một ít.
Lúc đó, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Ðức Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con ở
trong hội Lăng Nghiêm nghe được Bồ Tát Dược Vương giảng pháp viên
thông, song chẳng hiểu Ngài đến thế giới Ta Bà như thế nào, có nhân duyên
gì ? Xin Ðức Thế Tôn từ bi vì con giải nói.’’
‘’Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Dược Vương đó, phát nguyện cứu hộ tất cả bệnh
tật của tất cả chúng sinh, trong bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp,
nhất định có nhiều sự khổ hạnh khó làm. Xin Ðức Thế Tôn vì đại chúng
trong pháp hội, hãy nói việc của Bồ Tát Dược Vương tu khổ hạnh để cho đại
chúng biết.’’
Chư thiên, rồng, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na
La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người. Lại có các Bồ Tát từ cõi nước
khác đến, và chúng Thanh Văn ở đây nghe được, đều rất hoan hỷ.
Trời rồng tám bộ và quỷ thần. Lại có các vị đại Bồ Tát từ mười phương đến,
và chúng Thanh Văn ở trong pháp hội này, nghe được Bồ Tát Tú Vương
Hoa thỉnh vấn Phật như thế, đều rất hoan hỷ.
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa : Thuở xưa, trải qua vô lượng
số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, có vị Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Ðức Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Ðức Phật đó, có tám mươi ức vị đại Bồ Tát, bảy mươi hai Hằng hà
sa chúng đại Thanh Văn. Ðức Phật đó, thọ mạng bốn vạn hai nghìn kiếp, Bồ
Tát thọ mạng cũng đồng nhau.
Lúc đó, Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng : ‘’Thuở xưa trải qua vô
lượng hằng hà sa số kiếp, có một vị Phật ra đời, hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Ðức Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Vị Phật đó có tám mươi ức đại Bồ
Tát, lại có bảy mươi hai Hằng hà sa số đại Thanh Văn chúng. Vị Phật đó
sống lâu đến bốn vạn hai nghìn kiếp, các vị Bồ Tát trong cõi nước đó, cũng
sống lâu đến như vậy.’’
Nước đó, chẳng có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, cũng
chẳng có các hoạn nạn. Mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng như bàn tay, cây
báu trang nghiêm, màn báu che phía trên. Lại có hoa báu, phan báu, thòng rũ
xuống, bình báu lư hương khắp trong cõi nước đó.
Trong cõi nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, chẳng có người nữ,
đều là người nam. Vì sao ? Vì do hoa sen hóa sinh ra, cho nên thân thể của
họ thanh tịnh. Chẳng có bốn đường ác, cũng chẳng có tám nạn.
Tám nạn là gì ? Tức là:
1). Nạn khổ não.
2). Nạn lửa lớn.
3). Nạn nước lớn.
4). Nạn thú dữ.
5). Nạn đao binh.
6). Nạn loài quỷ.
7). Nạn gông cùm.
8). Nạn trộm cướp.
Lại có thể nói là :
1). Ðịa ngục.
2). Ngạ quỷ.
3). Súc sinh.
4). Sinh về Bắc Câu Lưu Châu (châu này quá sung sướng, chẳng thấy Phật,
chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng).
5). Trời Trường Thọ (trời Vô Tưởng thuộc sắc giới, nơi của ngoại đạo ở).
6). Ðui, điếc, câm ngọng (sáu căn không đủ).
7). Thế trí biện thông (thông minh bị thông minh lừa).
8). Sinh ra trước Phật, hay sau Phật (sinh ra chẳng gặp Phật). Chúng sinh ở
trong cõi đó chẳng có những khổ nạn ấy.
Mặt đất cõi nước đó, bằng phẳng như bàn tay, chẳng có gò, đồi, chỗ lồi lõm.
Tại sao ? Vì chúng sinh trong cõi đó, đều tâm bình khí hòa, cho nên mặt đất
bằng phẳng. Nếu tâm người không bình, thì sẽ hiện ra sơn hà đại địa. Mặt
đất cõi đó chẳng những bằng phẳng, mà đất đều bằng chất lưu ly. Lại có cây
bằng bảy báu, ngay thẳng thành hàng, trang nghiêm cõi nước, lại có màn báu
lọng báu che ở phía trên, còn có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, và có
bình báu, lư hương báu, khắp cõi nước đó, nơi nào cũng có cảnh giới trang
nghiêm như thế.
Bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Từ cây đến đài cách một đường
tên. Dưới các cây báu đó, đều có các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn ngồi. Ở
trên các đài báu, mỗi đài đều có trăm ức chư Thiên diễn tấu âm nhạc, ca
xướng, khen ngợi Phật để cúng dường.
Dùng bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Cây cách đài một đường mũi
tên (một trăm hai mươi bộ). Dưới các cây báu đó, đều có Bồ Tát và hàng
Thanh Văn đang ngồi tĩnh tọa ở đó. Trên mỗi đài báu, đều có hàng trăm ức
chư thiên diễn tấu âm nhạc, ca xướng, tán thán Phật để dâng lên cúng dường.
Bấy giờ, đức Phật đó vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, và các
chúng Bồ Tát, các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ
Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, thích tu khổ hạnh, bèn ở trong pháp
của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu
Phật đạo.
Lúc đó, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh
Hỷ Kiến, các vị đại Bồ Tát, và các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh
Pháp Hoa. Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, hoan hỷ tu khổ
hạnh. Ngài ở trong pháp của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức tinh tấn kinh
hành, chẳng giải đãi, thường ngồi thiền ở dưới gốc cây, chuyên tâm cầu Phật
đạo.
Trọn một vạn hai ngàn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân.
Ðược tam muội đó rồi, thì tâm rất hoan hỷ, bèn nghĩ như vầy : Ta được tam
muội hiện tất cả sắc thân, đều là do nghe Kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng
dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, và Kinh Pháp Hoa.
Ðã trọn một vạn hai nghìn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện nhất thiết
sắc thân, tức cũng là biến hiện được tất cả sắc thân, giáo hóa tất cả chúng
sinh. Tóm lại, thấy người thì biến ra người để giáo hóa họ, thấy chó thì biến
ra chó để giáo hóa. Bất cứ chúng sinh gì, cũng đều biến hiện ra được thân
đồng loại, để giáo hóa độ thoát, khiến cho tất cả chúng sinh liễu sinh thoát
tử, lìa khổ được vui.
Bồ Tát đắc được tam muội hiện nhất thiết sắc thân rồi, thì trong tâm rất hoan
hỷ, bèn nghĩ như vầy : ‘’Ta chứng được chánh định này, đều là do nghe
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên nay ta nên cúng dường Ðức Phật Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Ðức và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đó là nhờ Phật gia trì,
nên khiến cho ta chuyên tâm thọ trì bộ kinh này.’’
Lập tức, nhập vào tam muội đó, ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la,
hoa ma ha mạn đà la, bột hương kiên hắc chiên đàn, đầy khắp ở trong hư
không, như mây giăng bủa, lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn chiên
đàn. Hương đó lục thù giá trị như một thế giới Ta Bà, dùng để cúng dường
đức Phật.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, lập tức nhập vào tam muội Hiện
nhất thiết sắc thân. Ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la (hoa tiểu
bạch) và hoa ma ha mạn đà la (hoa đại bạch). Lại mưa hương bột kiên hắc
chiên đàn, đầy khắp hư không, giống như mây giăng bủa dày đặc. Lại mưa
xuống hương thơm hải thử ngạn chiên đàn. Thứ hương này quý giá vô cùng,
sản xuất tại bờ biển phía bắc Nam Diêm Phù Ðề này. Thứ hương này, nặng
khoảng lục thù (hai mươi bốn thù là một lạng), thì giá trị đồng như giá trị
của một thế giới Ta Bà. Tóm lại, dùng một thế giới Ta Bà (ba ngàn đại thiên
thế giới) mới đổi lấy sáu thù hương hải thử ngạn chiên đàn, dùng thứ hương
này để cúng dường Ðức Phật.
Cúng dường như thế rồi, từ tam muội dậy, bèn tự nghĩ rằng : Tuy ta dùng
thần lực cúng dường đức Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường, bèn thoa
các thứ hương thơm chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất
lực ca, trầm thủy giao hương. Lại uống thiềm bặc, các thứ dầu thơm của hoa.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến dùng các thứ hoa quý và hương
thơm cúng dường Phật rồi, bèn từ tam muội Hiện tất cả sắc thân xuất định,
tự nghĩ như vầy : ‘’Hiện tại tuy ta dùng sức thần thông cúng dường Phật,
song chẳng bằng dùng thân của mình để cúng dường Phật.’’ Lập tức, uống
tất cả các thứ dầu thơm như : Hương chiên đàn, hương huân lục, hương suất
lâu bà, hương tất lực ca, hương trầm thủy, giao hương, khiến cho bên trong
thân thể ngũ tạng lục phủ, đều được thanh tịnh. Lại uống dầu thơm thiềm
bặc, chế tạo từ các thứ hoa, khiến cho thân được thanh tịnh.
Trọn một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng dầu thơm thoa thân, ở trước đức
Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, dùng y báu trời mà quấn vào thân mình,
lại tưới các thứ dầu thơm, dùng sức thần thông nguyện lực mà tự đốt thân,
ánh sáng chiếu soi khắp tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.
Uống các thứ dầu hoa thơm như thế, trải qua một ngàn hai trăm năm rồi, lại
dùng các thứ dầu thơm thoa lên thân mình, ở trước Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Ðức, bèn dùng y báu trời quấn vào thân mình. Lại tưới các thứ dầu
thơm lên y trời, sau đó dùng thần thông nguyện lực, dùng lửa tam muội thiêu
đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp đến tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.
Chư Phật ở trong các cõi nước đó, đồng thời khen ngợi rằng : Lành thay !
Lành thay ! Thiện nam tử ! Ðó mới là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng
dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột,
hương xoa, phan lọng bằng lụa cõi trời, và hương hải thử ngạn chiên đàn,
cúng dường các thứ đồ vật như thế, không thể bằng được, nếu đem đất nước
vợ con bố thí, cũng chẳng bằng được.
Các Ðức Phật ở trong tám mươi ức Hằng hà sa thế giới, thấy Bồ Tát Nhất
Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đốt thân cúng dường Phật như thế, chư Phật bèn
cùng nhau khen ngợi nói : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ðó mới
là chân chánh tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Ðức Phật.’’
Vào đời Tùy, Trí Giả đại sư, một ngày nọ, đọc đến hai câu kinh văn này, thì
hốt nhiên nhập định, đắc được Nhất toàn Ðà la ni (hết thảy kinh điển ở trong
thời gian rất ngắn, hoàn toàn minh bạch hết, thông đạt vô ngại). Lúc đó, Trí
Giả đại sư thấy pháp hội Linh Sơn vẫn còn chưa tan. Phật Thích Ca Mâu Ni
vẫn ngồi trên pháp tòa, đang diễn nói Kinh Pháp Hoa.
Hoặc dùng các thứ hương hoa, chuỗi ngọc, và hương đốt, hương bột, hương
xoa, hoặc dùng lọng báu, và phan báu trời, cùng với hương hải thử ngạn
chiên đàn. Dùng các thứ đồ vật như thế, cúng dường Ðức Phật, công đức
chẳng bằng đốt thân cúng dường. Nếu như, dùng đất nước vợ con để bố thí,
công đức cũng chẳng bằng đốt thân cúng dường. Do đó, đủ biết công đức
đốt thân cúng Phật, không thể nào sánh được.
Thiện nam tử ! Ðó là bố thí bậc nhất, ở trong các sự bố thí, là trên hơn hết, vì
dùng pháp cúng dường các đức Như Lai. Nói lời đó rồi, thảy đều yên lặng.
Thân Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, đốt cháy trải qua một ngàn
hai trăm năm mới cháy hết.
Chư Phật lại đồng thời lại tán thán nói : ‘’Thiện nam tử ! Ông đốt thân bố thí
cúng dường Phật, mới là bố thí bậc nhất. Ở trong tất cả sự bố thí, thì sự bố
thí này là trên hơn hết.’’ Dùng sắc thân để cúng dường Phật tức là nhân
duyên thành tựu pháp thân. Chư Phật khen ngợi Bồ Tát Nhất Thiết Chúng
Sinh Hỷ Kiến rồi, thảy đều yên lặng.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, dùng lửa thật tam muội thiêu đốt
thân mình, trải qua một ngàn hai trăm năm thân mới cháy hết. Tinh thần đốt
thân cúng Phật, thật là vĩ đại nhất. Sau này, cũng có nhiều người thực hành,
như đốt ngón tay cúng Phật, như Lão Hòa Thượng Hư Vân, từng đốt ngón
tay cúng Phật.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, theo như pháp cúng dường rồi. Sau
khi mạng chung, lại sinh vào trong nước của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Ðức, sinh ra trong nhà vua Tịnh Ðức, ngồi kiết già, hốt nhiên hóa sinh,
bèn vì vua cha mà nói kệ rằng :
Vị Bồ Tát đó, sau khi làm xong chân pháp cúng dường như thế rồi, khi mạng
chung, bèn sinh trở lại nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, sinh ra
trong nhà vua Tịnh Ðức, ngồi kiết già hốt nhiên hóa sinh ra một em bé, gọi
ông vua Tịnh Ðức là cha, lập tức vì vua Tịnh Ðức nói bài kệ:
Nay đại vương nên biết!
Con tu hành chốn kia
Lập tức được tam muội
Hiện tất cả sắc thân.
Siêng hành đại tinh tấn
Bỏ sự thương tiếc thân
Cúng dường đức Thế Tôn
Ðể cầu vô thượng trí.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến (tên đời trước của Ngài, đời kế tiếp
cũng là tên của Ngài), nói với vua Tịnh Ðức rằng : ‘’Ðại vương ! Ngài nên
biết, con đã từng tu hành ở chỗ Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức,
chẳng khi nào giải đãi. Nghe Ðức Phật diễn nói Kinh Pháp Hoa, con y theo
đạo lý trong kinh mà tu trì, cho nên lập tức chứng được tam muội hiện tất cả
sắc thân.
Con siêng năng tu hành pháp môn này, dũng mãnh tinh tấn, thân tinh tấn,
tâm tinh tấn. Xả bỏ sự tiếc thương thân mạng, con thành tâm dùng lửa tam
muội thiêu đốt thân con, để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức.
Tại sao phải làm như thế ? Vì muốn cầu vô thượng đạo, tức cũng là trí huệ
của Phật, đại viên cảnh trí.’’
Nói bài kệ đó rồi, bèn bạch vua cha rằng : Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Ðức, hiện nay vẫn còn, trước hết con cúng dường đức Phật rồi, đắc được Ðà
la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, lại nghe Kinh Pháp Hoa này, gồm
có tám trăm ngàn vạn ức Na do tha, chân ca la, tần bà la, a môn bà, bài kệ.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói bài kệ ở trên rồi, lại nói với vua
Tịnh Ðức rằng : ‘’Phụ vương ! Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức hiện
nay, vẫn còn ở trong thế giới này. Trước hết, con cúng dường Ðức Phật đó,
bèn đắc được Ðà la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Tức cũng là
pháp môn bất cứ ngôn ngữ nào chẳng học mà tự hiểu, chẳng thấy mà tự biết.
Con còn nghe Kinh Pháp Hoa, kinh đó gồm có tám ngàn vạn ức Na do tha
(ức số) bài kệ, lại có Chân ca la (số mục thứ mười sáu), Tần bà la (số mục
thứ mười tám), A môn bà (số mục thứ mười hai, tức có khoảng năm mươi
hai thứ đại số mục) bài kệ.’’
Ðại vương ! Nay con sẽ trở lại cúng dường đức Phật đó. Nói rồi bèn ngồi
trên đài bảy báu, thăng lên hư không cao bảy cây đa la, đến chỗ đức Phật rồi,
cúi đầu đảnh lễ, chắp tay lại dùng kệ để khen ngợi đức Phật.
‘’Ðại vương ! Hiện nay con sẽ trở lại chỗ Ðức Phật, để tiếp tục cúng dường
vị Phật đó.’’ Nói xong rồi bèn ngồi lên đài làm bằng bảy báu, từ từ thăng lên
hư không, cao khoảng bảy cây đa la (mỗi cây cao hơn 60 thước). Hướng về
chỗ Ðức Phật, sau khi đến nơi rồi, lập tức năm thể sát đất đảnh lễ Phật, chắp
tay lại dùng kệ để khen ngợi Phật.
Dung nhan rất xinh đẹp
Quang minh chiếu mười phương
Trước con từng cúng dường
Nay trở lại gặp Phật.
Dung nhan của Phật rất xinh đẹp lạ thường, có ba mươi hai tướng đại nhân,
tám mươi vẻ đẹp. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế
giới. Ðời trước con đã từng cúng dường Phật, hiện tại con lại đến gần gũi
Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ đó rồi, bèn bạch đức
Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Ðức Thế Tôn ! Ngài vẫn còn ở đời ư !
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói bài kệ ở trên xong rồi,
lại nói với Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Ðức
Thế Tôn ! Ngài vẫn còn ở đời ư ? Kiếp trước con đã gặp Ngài, đời này lại
gặp Ngài nữa, con và Ðức Thế Tôn còn nhân duyên.’’
Bấy giờ, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức bảo Bồ Tát Nhất Thiết
Chúng Sinh Hỷ Kiến : Thiện nam tử ! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt
tận đã đến, ông nên xếp đặt giường tòa, trong đêm nay ta sẽ vào Niết Bàn.
Lúc đó, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng
Sinh Hỷ Kiến rằng : ‘’Thiện nam tử ! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt
tận đã đến ! Bây giờ ông có thể xếp đặt giường tòa, chuẩn bị sẵn sàng, vào
nửa đêm nay, ta sẽ vào đại bát Niết Bàn.’’
Khi Phật ra đời thì đều vào ban ngày, biểu thị ánh sáng mặt trời chiếu sáng
thế giới. Khi Phật vào Niết Bàn thì đều vào nửa đêm, biểu thị thế giới sẽ
phải đen tối. Chẳng phải nói là, sau khi Phật vào Niết Bàn thì thế giới sẽ đen
tối, mà là nói vào thời mạt pháp, khi Phật pháp diệt rồi, thì tâm con người bị
vô minh che đậy, chẳng có trí huệ quang minh.
Lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng : Thiện nam tử ! Ta
đem Phật pháp phó chúc cho ông, và các Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, cũng đem ba ngàn đại thiên thế giới bảy báu,
các cây báu, đài báu, và cung cấp chư Thiên hầu hạ, thảy đều giao phó cho
ông. Sau khi ta diệt độ, hết thảy xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên truyền
bá, rộng thiết lập cúng dường, nên xây hàng ngàn ngôi tháp. Phật Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Ðức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như thế
rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn.
Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng
Sinh Hỷ Kiến rằng : ‘’Thiện nam tử ! Hết thảy Phật pháp của ta, đều giao
phó chúc cho ông và các vị Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Lại đem ba ngàn đại thiên thế giới bằng bảy báu, lại
có cây báu và đài báu, lại có chư Thiên cung cấp hầu hạ, đều hoàn toàn phó
chúc cho ông. Ông phải hạnh khổ, sau khi ta diệt độ, thiêu hóa được xá lợi,
cũng đều phó chúc cho ông, ông vì ta mà xử lý hậu sự. Nên truyền bá Phật
pháp, lưu rộng xá lợi xây tháp cúng dường, nên xây hàng ngàn bảo tháp làm
nơi cúng dường xá lợi.’’ Phật phó chúc rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào
Niết Bàn.
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy đức Phật diệt độ, thì
rất buồn rầu, thảm não luyến mộ đức Phật, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên
đàn cúng dường thân Phật, để hỏa thiêu thân của Ngài. Sau khi lửa tắt, thu
lấy xá lợi, phân chia ra tám vạn bốn ngàn bình báu, xây tám vạn bốn ngàn
bảo tháp, cao ba thế giới, biểu sát trang nghiêm, thòng rũ các phan lọng, và
treo các linh báu.
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Ðức vào Niết Bàn, thì rất buồn thảm áo não nghĩ rằng : ‘’Tại sao mình
không giữ Phật ở lại đời ? Nếu thỉnh Phật ở lại đời, thì Phật hứa sẽ không
vào Niết Bàn.’’ Ngài luyến mộ nhớ Ðức Phật, không đành lìa khỏi Phật. Sau
khi Phật vào Niết Bàn, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn, loại gỗ quý nhất
để làm giàn thiêu hoá di thể của Phật. Sau khi thiêu hóa xong di thể của Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, thu được rất nhiều xá lợi, phân ra đựng trong
tám vạn bốn ngàn bình báu, lại xây dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp báu,
cúng dường xá lợi ở trong bình báu. Tháp đó cao ba thế giới. Ở trước bảo
tháp có biểu sát rất trang nghiêm, treo tất cả phan lọng và các linh báu, vang
ra âm thanh vi diệu xa gần đều nghe.
Nói đến đây, tôi nhớ tới chuyện của Ngài Ấn Quang đại sư, Ngài ngồi niệm
Phật rồi thị tịch tại núi Linh Nham ở Tô Châu, khi hỏa thiêu thì dùng gỗ
chiên đàn để thiêu di thể. Lúc đó, người tham dự chẳng biết là bao nhiêu. Từ
trên núi xuống dưới chân núi khoảng ba dặm, mà đầy dẫy mọi người đều
đến đưa đám. Sau khi thiêu xong thì lượm được rất nhiều xá lợi năm màu.
Ngài Ấn Quang chẳng những dụng công tu hành, mà còn tinh thông kinh
điển. Ngài tu ở trên núi Phổ Ðà mười tám năm. Trong thời gian đó, Ngài
chuyên tâm duyệt đọc Ðại Tạng Kinh. Khi duyệt đọc thì ngồi ngay thẳng,
cung kính cầm quyển kinh. Khi vào nhà cầu thời cởi y áo giày dép, thay đổi
áo khác giày khác để vào. Trở ra thì mặc vào lại. Vì cung kính như thế, cho
nên đã khai ngộ. Sau khi khai ngộ thì chuyên môn niệm ‘’Nam Mô A Di Ðà
Phật,’’ sáu chữ hồng danh.
Về sau thành lập đạo tràng ở trên núi Linh Nham ở Tô Châu, đề xướng pháp
môn niệm Phật, pháp môn này rất dễ tu trì. Ngài Ấn Quang về mặt học vấn
và đạo đức đều là thượng thừa, chẳng hổ là một bậc cao Tăng. Ðáng tiếc
giọng nói quá nặng (người ở Xiểm Tây Cáp Dương), một số người chẳng
hiểu lời của Ngài nói. Cho nên, Ngài rất ít giảng kinh thuyết pháp. Song,
Ngài dùng văn tự để tuyên dương Phật pháp. Do đó, có câu :
‘’Lời nói khuyên người một thời,
Sách vở khuyên người trăm đời.’’
Do đó, lưu lại văn sao của Ngài Ấn Quang, người sau được ích lợi không ít.
Một năm nọ, Ngài Ấn Quang đến Nam Kinh giảng kinh, cũng có thể người
tin Phật rất ít, mấy ngày đầu còn có người nghe kinh, về sau dần dần giảm
bớt. Cuối cùng chỉ còn một người ngồi ở đó nghe. Ngài Ấn Quang từ pháp
tòa nhìn xuống đạo tràng rộng lớn, mà chỉ có một người nghe kinh, tâm
nghĩ, "một người nghe kinh cũng phải giảng kinh".
Sau khi giảng xong, rời khỏi pháp toà đến trước người đó bèn hỏi : ‘’Cư sĩ !
Ông có hiểu tôi giảng kinh chăng ?‘’
- Người đó đáp : ‘’Tôi chẳng hiểu Ngài giảng cái gì ?‘’
- Ngài Ấn Quang trả lời :‘’Nếu ông không hiểu, sao lại đến nghe kinh ?‘’
- Người đó đáp :‘’Tôi là người quản lý ở đây, đợi khi thầy giảng xong, thì tôi
thu xếp bàn ghế lại.’’
Từ đó, Ngài Ấn Quang phát nguyện, chẳng giảng kinh ở Nam Kinh nữa.
Một năm nọ, Ngài Ấn Quang đến Thượng Hải giảng Kinh A Di Ðà, có đăng
tin tức trên báo, khiến cho người có duyên đến nghe kinh gieo trồng căn
lành, tích tụ công đức. Lần pháp hội đó, rất long trọng trang nghiêm, rất
nhiều người đến nghe kinh đều là tín đồ kiền thành.
Ðương thời, có một nữ cư sĩ (chẳng phải là Phật tử) ở trong mộng thấy có
người mặc áo giáp màu vàng, bảo với cô ta rằng :‘’Con hãy đến Thượng Hải
để nghe Bồ Tát Ðại Thế Chí giảng Kinh A Di Ðà.’’ Cô ta nhớ rất rõ ràng.
Ngày thứ hai sáng sớm xem báo, thì thấy tin tức họ cung thỉnh Ngài Ấn
Quang giảng Kinh A Di Ðà. Cô ta vì tâm háo kỳ, mà đến chỗ đó để cầu kiến
Ngài Ấn Quang. Khi thấy Ngài Ấn Quang thì tự động đảnh lễ, bèn nói với
Ngài Ấn Quang rằng :‘’Con chẳng phải là Phật giáo đồ, vì đêm hôm qua con
nằm mộng thấy, có người bảo con đến chỗ này nghe Bồ Tát Ðại Thế Chí
giảng Kinh A Di Ðà. Xin hỏi Ngài ! Không chừng Ngài là Bồ Tát Ðại Thế
Chí.’’
- Lúc đó, Ngài Ấn Quang dơ tay thị ý :‘’Việc này, con biết, ta biết, đừng nói
cho ai biết.’’ Vị nữ cư sĩ đó, bèn quy y Tam Bảo, cuối cùng vẫn giữ tin này
bí mật, chẳng thố lộ với bất cứ ai. Ba năm sau, khi Ngài Ấn Quang viên tịch
trên núi Linh Nham, thì vị cư sĩ này, mới tuyên bố cảnh giới này ở trước
công chúng. Lúc đó, mọi người mới biết Ngài Ấn Quang là hóa thân của Bồ
Tát Ðại Thế Chí, Bồ Tát thừa nguyện trở lại. Ðời sau, tôn xưng là Tổ Sư thứ
mười ba phái Liên Tông. Tuy nhiên, đệ tử quy y với Ngài khắp thiên hạ,
nhưng chẳng có đệ tử truyền pháp. Tại sao ? Vì Ngài thệ nguyện chẳng lập
chùa, chẳng thu đệ tử xuất gia.
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ rằng : Tuy ta
cúng dường như thế, tâm vẫn cảm thấy chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá
lợi, bèn nói với các Bồ Tát đại đệ tử, và trời rồng Dạ Xoa, hết thảy tất cả đại
chúng, các ông nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta cúng dường xá lợi của Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức.
Lúc đó, vị Bồ Tát đó lại nghĩ rằng :‘’Tuy kiếp trước ta đốt thân cúng dường
Phật, mà tâm vẫn cảm thấy chưa đủ chân thành. Hôm nay phải cúng dường
xá lợi của Phật.’’ Bèn nói với các vị Bồ Tát đại đệ tử và trời rồng tám bộ
chúng rằng :‘’Các ông đại chúng nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta phải cúng
dường xá lợi của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức.’’
Nói lời đó rồi, bèn ở trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm
phước trang nghiêm, trải qua bảy vạn hai ngàn năm, dùng để cúng dường,
khiến cho vô số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng A tăng kỳ người phát tâm
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều khiến cho trụ vào tam muội hiện tất
cả sắc thân.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói xong lời đó rồi, lập tức ở trước
tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm của mình,
trải qua bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường.
Có người hỏi : ‘’Kỳ lạ ! Vị Bồ Tát đó, kiếp trước đốt thân cúng dường trải
qua một ngàn hai trăm năm. Tại sao lần này đốt tay phải trải qua bảy vạn hai
ngàn năm ? Tôi chẳng hiểu đạo lý bên trong, xin Thầy từ bi khai thị.’’
- Nói cho bạn biết ! Vị Bồ Tát đó, kiếp trước dùng sắc thân để cúng Phật, lần
này dùng hóa thân để cúng Phật, muốn thiêu bao lâu cũng được, chẳng có
hạn chế thời gian, bạn hiểu chứ !
Tại sao vị Bồ Tát đó lại đốt cánh tay, để cúng dường Phật xá lợi ? Vì muốn
cảm hóa những chúng sinh chẳng có tâm chân thành, phát khởi tâm chân
thành để cúng dường Phật xá lợi, vì muốn khiến cho vô lượng A tăng kỳ
người phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, do đó mà đốt cánh tay để
làm ảnh hưởng chúng sinh phát tâm bồ đề, đều khiến cho chúng sinh trụ tại
cảnh giới tất cả sắc thân tam muội.
Bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A tu la thảy, đều thấy vị Bồ Tát đó chẳng
còn cánh tay, thì rất buồn rầu bi ai, bèn nói rằng : Bồ Tát Nhất Thiết Chúng
Sinh Hỷ Kiến này, là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt đi
cánh tay, thân chẳng còn đầy đủ.
Lúc đó, các vị đại Bồ Tát, hàng trời người và A tu la, quỷ thần thảy, đều
thấy vị Bồ Tát đó chẳng còn hai cánh tay, thì mọi người đều buồn rầu bi ai,
khác miệng cùng lời nói :‘’Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là
thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, khiến cho chúng ta hiểu Phật pháp,
khiến cho chúng ta tu trì Phật pháp, nhưng Ngài phát nguyện đốt cánh tay
cúng Phật, hiện nay thân tướng chẳng còn đầy đủ.’’
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ
nguyện rằng : Ta xả bỏ cánh tay, tất sẽ được thân sắc vàng của Phật, nếu thật
không hư, thì khiến cho cánh tay của ta hoàn lại như cũ, thệ nguyện vừa
xong, thì cánh tay tự nhiên hoàn lại. Bởi do Bồ Tát đó phước đức trí huệ sâu
dày, nên được như thế.
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ
nguyện rằng :‘’Ta đốt cánh tay cúng Phật, thì tương lai nhất định được thân
sắc vàng tía của Phật. Nếu như là chân thật không hư, thì khiến cho cánh tay
của tôi đót, lập tức khôi phục lại như cũ. Phát nguyện như thế rồi, thì tự
nhiên sinh ra cánh tay mới như ban đầu, chẳng có gì khác biệt. Ðó là nhờ
duyên gì ? Vì Bồ Tát đó có phước đức lớn, trí huệ lớn sâu dày, lại thành thật,
cho nên mới có cảnh giới cảm ứng không thể nghĩ bàn như thế.’’
Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trời mưa xuống hoa
báu, tất cả trời người được chưa từng có.
Lúc đó, ba ngàn đại thiên thế giới đều có sáu thứ chấn động. Trời mưa hoa
báu xuống, tất cả trời người đều cho là việc ít có, từ khi sinh ra chưa từng
gặp qua cảnh giới này.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa : Ý của ông thế nào ? Bồ Tát Nhất
Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đâu phải là ai xa lạ, nay là Bồ Tát Dược Vương
này vậy, vị đó xả thân bố thí như thế, vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha
số lần.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng :‘’Ông cảm thấy khổ hạnh đó như
thế nào ? Ông có biết vị Bồ Tát đó là ai chăng ? Là Bồ Tát Dược Vương này
vậy. Vị Bồ Tát đó xả thân cho Phật, bố thí cho chúng sinh, nhiều vô lượng
trăm ngàn vạn ức Na do tha, số lượng này không thể nói hết được, bất quá,
nay ta chỉ nói vị đó đốt thân và đốt cánh tay cúng dường Phật mà thôi.’’
Tú Vương Hoa ! Nếu có người phát tâm muốn được Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, mà có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân, cúng dường
tháp Phật, còn hơn là người dùng đất nước vợ con, và ba ngàn đại thiên thế
giới, núi rừng sông ngòi, các châu báu, mà cúng dường.
Ðức Phật lại gọi một tiếng :‘’Tú Vương Hoa ! Nếu như có chúng sinh, phát
tâm muốn được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hoặc phát tâm đốt một
ngón tay, hoặc phát tâm đốt một ngón chân, để cúng dường Phật, để cúng
dường tháp của Phật, thì công đức cúng dường đó, hơn là công đức của
người đem đất nước vợ con ra bố thí, cũng hơn công đức dùng ba ngàn đại
thiên thế giới, núi rừng sông ngòi, và các châu báu vật quý đem cúng dường
Phật.’’
Hoặc lại có người, dùng bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới, để cúng
dường Phật và đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, công đức của người đó
đắc được, chẳng bằng thọ trì Kinh Pháp Hoa này, cho đến một bài kệ bốn
câu, thì phước này thắng hơn phước kia.
Ðức Phật lại nói :‘’Nếu như có người dùng bảy báu đầy dẫy ba ngàn đại
thiên thế giới, để cúng dường chư Phật, chư Bồ Tát, chư Bích Chi Phật, các
vị A La Hán, công đức cúng dường bốn bậc Thánh như thế, chẳng bằng thọ
trì một bài kệ bốn câu trong Kinh Pháp Hoa, công đức được thù thắng hơn.
Tóm lại, bất cứ cúng dường bốn bậc Thánh như thế nào, cũng chẳng bằng
công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng Kinh Pháp Hoa.’’
Tú Vương Hoa ! Ví như nước trong sông ngòi, kinh rạch, thì biển là bậc
nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Như Lai nói,
là sâu rộng lớn nhất.
Phật lại nói :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Ví như nước ở trong tất cả sông ngòi,
kinh rạch, thì biển cả là bậc nhất. Bộ kinh này cũng như thế, trong các kinh
điển mười phương chư Phật nói, thì thâm diệu rộng lớn bậc nhất.’’
Lại như : Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười
báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại
như thế, ở trong các kinh là trên hết.
Lại như : Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười
báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Bộ Kinh Pháp Hoa này cũng
lại như thế, ở trong tất cả kinh điển, là trên hơn hết, chẳng có bộ kinh nào
cao hơn. Bộ kinh này là kinh thành Phật, chỉ cần y pháp tu hành, thì có hy
vọng thành Phật.
Lại như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này
cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh pháp, thì kinh này chiếu sáng
nhất.
Lại giống như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng chiếu sáng nhất. Bộ Kinh
Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh điển, thì kinh
này chiếu sáng nhất.
Lại như mặt trời chiếu phá mọi sự tối tăm, kinh này cũng lại như thế, hay
phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện.
Lại giống như mặt trời hay phá trừ tất cả đen tối, Kinh Pháp Hoa cũng như
thế, hay phá trừ tất cả sự đen tối bất thiện. Tóm lại, thọ trì Kinh Pháp Hoa sẽ
đắc được đại trí huệ, quang minh này hay phá trừ đen tối vô minh.
Lại như trong các ông vua, thì vua chuyển luân thánh vương là bậc nhất.
Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh là tôn quý hơn hết.
Lại giống như trong các ông vua, thì địa vị của vua chuyển luân thánh vương
là bậc nhất, chẳng ai có thể sánh. Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, ở trong
các kinh điển là tôn quý hơn hết.
Lại như trời Ðế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba. Kinh này cũng lại như
thế, là vua trong các kinh.
Giống như trời Ðế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba, quản hạt ba mươi hai
cõi trời, Kinh Pháp Hoa cũng như thế, là vua ở trong tất cả kinh điển.
Lại như vua Ðại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Kinh này cũng lại
như thế, là cha của tất cả các bậc hiền Thánh học vô học, và những người
phát tâm Bồ Tát.
Lại như vua Ðại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Vì sao xưng là
cha của tất cả chúng sinh ? Vì thế giới có thành trụ hoại không bốn trung
kiếp (mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp). Ðến thời kỳ kiếp không, thì
Thiên chúng của cõi Sơ thiền, tự nhiên tỵ nạn đến cõi trời Nhị thiền. Ðến
thời kỳ kiếp thành lập, thì Thiên chúng tỵ nạn ở cõi Nhị thiền lại trở về cõi
trời Sơ thiền. Người đầu tiên trở lại là vua Ðại Phạm Thiên. Vì người sau
này càng ngày càng đến nhiều, cho nên vua Ðại Phạm Thiên đối với đại
chúng tuyên bố :‘’Ta là cha của các ngươi, các ngươi phải tôn kính ta, phải
nghe lời ta, không thể làm trái ngược ý chỉ của ta.’’
Bà la môn ở Ấn Ðộ cho rằng : Tổ tiên của họ là từ miệng trời Phạm Thiên
sinh ra, cho nên có thần Thánh ưu việt không thể xâm phạm, đáng hưởng thọ
đặc quyền, cho đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Do đó, ở Ấn Ðộ tạo ra hiện
tượng giai cấp chẳng bình đẳng, đến nay vẫn còn như thế, khiến cho kẻ nô lệ
vĩnh viễn không được đối đãi bình đẳng.
Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, là cha của tất cả bậc hiền Thánh, bậc hữu
học (sơ, nhị, tam quả A La Hán), bậc vô học (tứ quả A La Hán), và những
người phát tâm Bồ Tát tu đạo Bồ Tát.
Lại như, trong tất cả những người phàm phu, Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A
Na Hàm, A La Hán, thì Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh này cũng lại như
thế, ở trong các kinh của Phật nói, hoặc Bồ Tát nói, hoặc Thanh Văn nói, thì
kinh này là bậc nhất.
Lại giống như ở trong tất cả phàm phu, Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na
Hàm, A La Hán, thì Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa cũng như thế.
Ở trong tất cả kinh pháp của chư Phật nói, hoặc kinh điển của Bồ Tát nói,
hoặc kinh điển của hàng Thanh Văn nói, thì kinh này là bậc nhất.
Có người hay thọ trì kinh này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sinh
cũng là bậc nhất.
Nếu như có người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa cũng như thế, ở trong tất cả
chúng sinh là bậc nhất. Bộ kinh này là pháp môn ai ai cũng có thể tu, ai kiền
thành tu trì, thì người đó là bậc nhất. Tu hành phải cước đạp thật địa, cung
hành thực tiễn, không nên cứ tìm tiện nghi, phải thấu rõ việc thiên hạ, không
thể nào không làm mà có thu hoạch. Người xưa nói :
‘’Trồng trọt một phần,
Thì thu hoạch một phần.’’
Dụng công một ngày, thì tiếp cận gần cảnh giới của Phật một dặm đường.
Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh
này cũng lại như thế, là bậc nhất ở trong tất cả kinh pháp.
Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh
Pháp Hoa cũng lại như thế, ở trong tất cả các kinh pháp, thì kinh này là bậc
nhất, cho nên gọi là vua trong các kinh.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng lại như thế, là vua trong các
kinh.
Lại giống như Phật là vua của tất cả các pháp, Kinh Pháp Hoa là vua của tất
cả các kinh. Ðức Phật cử ra những ví dụ đó, để nói rõ tính quan trọng của
Kinh Pháp Hoa, khiến cho người thọ trì Kinh Pháp Hoa, biết được công đức
rộng lớn của Kinh Pháp Hoa, chẳng gì sánh bằng.
Tú Vương Hoa ! Kinh này hay cứu hộ tất cả chúng sinh, kinh này hay khiến
cho tất cả chúng sinh lìa các khổ não, kinh này làm lợi ích rất lớn cho tất cả
chúng sinh, khiến cho họ đều được mãn nguyện.
Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Bộ Kinh Pháp Hoa này
dụng đồ rất rộng lớn, hay cứu độ tất cả chúng sinh lìa khỏi phiền não, hay
khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, lại hay lợi ích cho tất cả chúng
sinh được mãn nguyện. Tóm lại, phàm là người thọ trì Kinh Pháp Hoa, bất
cứ cầu gì cũng được mãn nguyện.’’ Song, phải chánh nguyện chứ chẳng
phải tà nguyện, điểm này phải rõ ràng. Dưới đây sẽ cử ra mười hai điều lợi
ích.
Như hồ nước mát mẻ, hay khiến cho tất cả những người khát khao được hết
khát, như người lạnh được lửa, như người trần truồng được quần áo, như
người buôn bán gặp chủ, như con gặp mẹ, như người qua sông gặp thuyền,
như người bệnh gặp được thuốc, như tối gặp được đèn, như người nghèo gặp
của báu, như dân gặp được vua, như khách buôn gặp được biển, như đuốc
sáng trừ tối tăm.
Công dụng của Kinh Pháp Hoa giống như hồ nước trong sạch mát mẻ, hay
khiến cho người khát giải trừ sự khát uy hiếp. Giống như người lạnh lẽo gặp
được lửa để sưởi ấm. Giống như người trần truồng gặp được quần áo. Trước
khi chưa thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì như là trần truồng; sau khi kiền thành
thọ trì kinh này, thì đồng như được quần áo. Giống như người buôn bán làm
ăn gặp chủ nhân, giống như đứa con mất mẹ đã lâu, bây giờ gặp được mẹ thì
vui mừng không thể tả được, tức cũng là gặp được pháp thân người mẹ.
Giống như muốn đi qua sông mà gặp được thuyền. Kinh Pháp Hoa là thuyền
pháp lớn, đưa chúng sinh qua biển sinh tử, giống như người bệnh tật gặp
thầy thuốc, thuốc vào thì hết bệnh. Chúng ta là người mắc bệnh ba độc, Kinh
Pháp Hoa là thầy thuốc giỏi, hay cứu bệnh khổ phiền não của chúng ta.
Kinh Pháp Hoa giống như chỗ tối tăm có đèn chiếu sáng, chiếu phá vô minh
ở trong tâm, khiến cho trí huệ quang minh hiện tiền. Giống như người nghèo
được bảy báu vô giá; giống như dân gặp được ông vua anh minh nhân từ,
giống như khách buôn được châu báu ở trong biển, giống như đuốc lớn hay
phá trừ tất cả đen tối.
Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, hay khiến cho chúng sinh lìa tất cả sự khổ,
tất cả bệnh khổ, giải thoát tất cả sự trói buộc sinh tử.
Bộ Kinh Pháp Hoa này, có mười hai thứ diệu dụng này, hay khiến cho tất cả
chúng sinh lìa khỏi tất cả sự khổ não, và tất cả mọi bệnh tật, lại hay giải trừ
tất cả sự trói buộc sinh tử của chúng sinh, khiến cho được tự tại.
Nếu người nào được nghe Kinh Pháp Hoa này, hoặc tự biên chép, hoặc
khiến cho người biên chép, thì công đức đắc được, dùng trí huệ của Phật suy
lường, cũng chẳng biết được bờ mé là bao nhiêu.
Nếu như người có căn lành được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa rồi, mà
phát tâm biên chép kinh này, hoặc là tự mình biên chép, hoặc nhờ người
khác biên chép, thì công đức đắc được đều đồng nhau. Công đức này dù
dùng trí huệ của Phật để suy lường là bao nhiêu, cũng chẳng cách chi biết
được bờ mé của công đức.
Nếu biên chép quyển kinh này, mà dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương đốt,
hương bột, hương xoa, phan lọng, y phục, các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các
đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn
dầu bà lợi sư ca, đèn dầu ba ma lợi, để cúng dường, thì công đức đắc được
cũng vô lượng.
Nếu như có người khi biên chép bộ kinh điển này, mà dùng đủ thứ hoa tươi,
hương quý, chuỗi ngọc, để cúng dường kinh này, hoặc dùng các thứ hương
đốt, hương bột, hương xoa, để cúng dường kinh này, hoặc dùng các thứ phan
báu, hoa báu, y phục báu, để cúng dường kinh này. Hoặc dùng các thứ đèn
để cúng dường, nào là đèn dầu tô, đèn dầu, đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm
bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu na bà
ma lợi, công đức đắc được cũng vô lượng vô biên, không thể biết được.
Tú Vương Hoa ! Nếu có người nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược
Vương này, thì cũng đắc được vô lượng vô biên công đức.
Ðức Phật gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Nếu người có căn lành,
dù chỉ nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì cũng đắc được
vô lượng vô biên công đức.’’
Nếu có người nữ, nghe được phẩm bổn sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay
thọ trì, thì khi hết thân nữ này, về sau chẳng thọ lại nữa.
Nếu có người nữ, nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay
thọ trì phẩm này, thì đời vị lai chẳng làm thân người nữ. Song, nếu thích làm
thân nữ thì chẳng có gì để nói.
Nếu sau khi Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe
được kinh này, theo như trong kinh nói mà tu hành, thì sau khi mạng chung,
sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, cõi của đức Phật A Di Ðà, được
chúng đại Bồ Tát vây quanh chỗ ở.
Sau khi Phật vào Niết Bàn, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe
được Kinh Pháp Hoa, mà phát tâm y theo đạo lý trong kinh nói để tu hành,
tức là tu nhẫn nhục, từ bi, pháp không, ba pháp môn. Sau khi mạng chung,
thì sẽ vãng sinh về thế giới An Lạc, tức cũng là thế giới Cực Lạc, được gặp
Phật A Di Ðà, ‘’hoa nở thấy Phật‘’ có Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát
vây quanh chỗ ở.
Sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng bị tham dục làm phiền não, cũng
chẳng bị sân hận ngu si làm phiền não, cũng chẳng bị sự kiêu mạn, đố kỵ,
các cấu, làm phiền não, được thần thông của Bồ Tát, và vô sinh pháp nhẫn.
Người hóa sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng còn bị tham dục làm phiền
não, chẳng còn bị sân hận ngu si làm phiền não, chẳng còn bị ngu si làm
phiền não. Giải trừ ba độc thanh tịnh, tức là thân tâm khinh an. Ba độc này
có mối quan hệ với nhau. Sinh tâm tham dục mà chẳng đắc được, thì bèn
khởi nóng giận. Khi nóng giận thì sẽ mất đi lý trí, tức là ngu si. Trí huệ
chẳng hiện tiền thì chẳng rõ thị phi, chẳng biết thiện ác. Vô minh hiện tiền
thì làm việc điên đảo, tạo thành nghiệp thân khẩu ý chẳng thanh tịnh. Phạm
mười điều ác rồi, thì vĩnh viễn đọa vào ba đường ác trong luân hồi, chẳng có
kỳ hạn thoát khỏi.
Khống chế tham sân si như thế nào ? Thì phải siêng tu giới định huệ, hay giữ
giới luật thì chẳng có tâm tham, hay giữ định lực thì chẳng có tâm sân, hay
học trí huệ thì chẳng ngu si. Ví như một bồn nước đục (vô minh) muốn cho
nó thanh tịnh lắng trong, thì cho vào một chút phèn trắng (giới pháp), đừng
quấy động (định lực), từ từ sẽ lắng xuống và hiện ra thanh tịnh (trí huệ), hay
phản chiếu vạn vật.
Nếu minh bạch nghĩa lý Kinh Pháp Hoa, thì cũng chẳng bị kiêu mạn, đố kỵ,
các cấu bẩn gây phiền não. Nếu người nào có hai thứ tâm lý biến thái này,
thì vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ, chẳng thể được trí huệ. Tu đạo trước hết
phải đừng có tâm cống cao ngã mạn, chẳng có tâm đố kỵ chướng ngại, học
tinh thần từ bi hỷ xả của Bồ Tát.
Trong tâm chẳng có dơ bẩn, thì sẽ đắc được thần thông của Bồ Tát và vô
sinh pháp nhẫn. Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Nói đơn giản là chẳng thấy có
chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn ở nơi tâm.
Nhẫn tức là nhẫn nại, đối diện với cảnh nghịch mà chẳng sinh tâm sân hận.
An trụ trên lý pháp mà chẳng động tâm. An trụ tâm vào chân như thật tướng,
thì cảm thấy chẳng có tơ hào tình niệm của phàm phu, có thể xả bỏ, cũng
chẳng có kiến giải của Thánh nhân, có thể thủ lấy. Lúc đó, cảm thấy mười
pháp giới chẳng có chút pháp sinh, cũng chẳng có chút pháp diệt, chẳng có
sinh diệt, song trên pháp lý đều là như như bất động. Vì như như bất động,
cho nên chẳng có sinh diệt, từ đó thấy tất cả các pháp đều chẳng có sinh diệt.
Thật sự thấy được chân như thật tướng, mới đắc được sự nhẫn đó, mà vĩnh
viễn chẳng bị cảnh bên ngoài làm mê hoặc, giao động tâm.
Tóm lại, buông bỏ được tất cả, chẳng có chấp trước tức là vô sinh pháp
nhẫn. Chứng được vô sinh pháp nhẫn, tức là pháp thân Bồ Tát. Phàm là
người thượng phẩm thượng sinh về thế giới Cực Lạc, một khi đến Tịnh Ðộ
thì lập tức hoa nở thấy Phật, lập tức được vô sinh pháp nhẫn, có đại trí huệ,
có đại thần thông, trợ giúp Phật giáo hóa chúng sinh, khiến cho sớm được lìa
khổ được vui, sinh về Tịnh Ðộ.
Ðắc được nhẫn đó rồi, thì căn mắt thanh tịnh, nhờ căn mắt thanh tịnh, nên
thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các đức Phật Như
Lai.
Ðắc được vô sinh pháp nhẫn rồi, thì căn mắt thanh tịnh, tức cũng là đắc được
pháp nhẫn. Dùng pháp nhãn thanh tịnh, có thể thấy được bảy trăm vạn hai
ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các Ðức Phật.
Lúc đó, các đức Phật cùng nhau khen ngợi nói : Lành thay ! Lành thay !
Thiện nam tử ! Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì đọc
tụng suy gẫm kinh này, vì người khác nói, phước đức đắc được vô lượng vô
biên, lửa không thể thiêu đặng, nước không thể ngập chết đặng, công đức
của ông ngàn đức Phật cùng nói, cũng không hết được.
Lúc đó, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở trong mười phương cõi
nước, đều cùng nhau khen rằng :‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử !
Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì kinh này, đọc tụng
kinh này, tư duy kinh này. Lại vì người khác giải nói kinh này, công đức đắc
được vô lượng vô biên. Lửa lớn không thể thiêu đặng, nước lớn không thể
ngập chết. Công đức của ông dù ngàn vị Phật cùng nhau nói, cũng nói không
hết được.’’
Ông nay đã phá được các ma tặc, dẹp tan quân sinh tử, các oán địch khác
cũng đều tiêu diệt.
Hiện tại ông đã phá trừ được tất cả ma tặc. Ma hay chướng ngại chánh đạo,
hay hại huệ mạng, tặc là sáu tên tặc, tức là sáu căn cướp đi pháp tài. Lại phá
hoại được quân sinh tử, chẳng còn thọ khổ trong luân hồi, còn các oán địch
khác thì thảy đều tiêu diệt, chẳng còn đến nhiễu hại nữa.
Thiện nam tử ! Trăm ngàn các đức Phật dùng sức thần thông cùng bảo hộ
ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai bằng ông, ngoài Như Lai
ra, các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát, trí huệ thiền định,
cũng chẳng có ai bằng ông.
‘’Thiện nam tử ! Trăm ngàn các Ðức Phật, cùng dùng sức đại thần thông,
cùng bảo hộ ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai cao hơn ông.
Trừ Như Lai ra, dù tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến trí huệ và thần
thông của Bồ Tát, cũng chẳng bằng ông được.’’ Tóm lại, địa vị của Bồ Tát
đó đã gần bậc Diệu Giác.
Tú Vương Hoa ! Bồ Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế.
Phật lại gọi một tiếng :‘’Tú Vương Hoa Bồ Tát ! Vị Bồ Tát nghe kinh tu trì
đó, vãng sinh Tịnh Ðộ thành tựu sức công đức trí huệ như thế.’’ Do đó, có
thể biết, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép bộ Kinh Pháp Hoa này, thì có
cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ khen
ngợi, thì người đó, hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen
xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công
đức đắc được như trên đã nói.
Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ tán
thán :‘’Lành thay !’’ Thì người đó hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương
thơm hoa sen xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu
chiên đàn, công đức đắc được như trên đã nói.
Bởi thế, Tú Vương Hoa ! Ta đem Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương
này, phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, trong năm trăm năm sau, hãy rộng
truyền bá khắp cõi Diêm Phù Ðề, đừng khiến cho đoạn tuyệt, đừng để ác ma,
dân ma, chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, hết thảy được phương tiện
đó.
Phật nói :‘’Bởi vì thế, Tú Vương Hoa Bồ Tát ! Ta đem phẩm Bổn Sự của Bồ
Tát Dược Vương này, phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, trong năm trăm
năm sau, ông phải truyền bá phẩm này, lưu truyền ở cõi Diêm Phù Ðề, đừng
khiến cho đoạn tuyệt thất truyền, đừng khiến cho con ma, cháu ma, thần ma,
dân ma, trời, rồng, tám bộ chùng, thảy được phương tiện đó.’’
Tú Vương Hoa ! Ông nên dùng sức thần thông giữ gìn kinh này. Vì sao ? Vì
kinh này là thuốc hay cho những người bệnh ở cõi Diêm Phù Ðề. Nếu người
có bệnh mà được nghe kinh này, thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng
chết.
Phật lại gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Ông nên dùng sức thần
thông để giữ gìn bộ kinh này. Vì sao ? Vì bộ kinh này là thuốc hay, trị được
bệnh của con người ở cõi Diêm Phù Ðề. Người có bệnh si ái, thì kinh này trị
được bệnh si ái. Nếu như có người mắc bệnh mà nghe được Kinh Pháp Hoa,
thì liền tiêu trừ bệnh hoạn, thậm chí không già không chết.’’
Tú Vương Hoa ! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, thì nên dùng hoa
sen xanh, và đựng đầy hương bột cúng dường rải lên trên người đó. Rải lên
rồi, bèn nghĩ rằng : Người này chẳng bao lâu sẽ lấy cỏ ngồi ở Ðạo tràng, phá
các quân ma, thổi pháp loa, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, lìa
khỏi biển sanh già bệnh chết. Bởi thế, người cầu Phật đạo, thấy người thọ trì
kinh điển này, thì nên sinh tâm cung kính như thế.
Phật lại gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Nếu ông thấy có người thọ
trì kinh này, thì nên dùng hoa sen xanh và đựng đầy hương bột cúng dường
rải lên trên họ. Rải rồi thì nghĩ rằng : ‘’Người này chẳng bao lâu nữa sẽ lấy
cỏ làm tòa, ngồi dưới cội bồ đề phá các quân ma, hàng phục ma nữ, thành
Chánh Giác, thổi đại pháp loa, đánh trống pháp lớn, vì tất cả chúng sinh mà
thuyết pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, lìa khỏi biển khổ sanh già bệnh chết.
Bởi thế phàm là người cầu Phật đạo, thấy người thọ trì kinh này, thì nên sinh
tâm cung kính như thế.
Khi đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn
ngàn vị Bồ Tát, đắc được Ðà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh.
Khi Ðức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn
bốn ngàn vị Bồ Tát, đắc được Ðà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh.
Ðức Ða Bảo Như Lai ở trong bảo tháp khen Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Tú Vương Hoa ! Ông thành tựu công đức không thể
nghĩ bàn, mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni việc như thế, lợi ích vô lượng
tất cả chúng sinh.
Ðức Ða Bảo Như Lai ở trong bảo tháp, cũng khen ngợi Bồ Tát Tú Vương
Hoa rằng :‘’Lành thay ! Lành thay ! Tú Vương Hoa ! Ông thành tựu công
đức không thể nghĩ bàn, mới có thể hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni, về việc khổ
hạnh khó hành của Bồ Tát Dược Vương đốt thân, đốt cánh tay, hay lợi ích
vô lượng tất cả chúng sinh.’’
---o0o---
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì ấn tống kinh điển
bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật dạy, phát
tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác
ta, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối cùng
sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực
hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và
toàn thể tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô
danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng,
cùng pháp giới chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm
bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt
ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Nam Mô Hộ Pháp Vi Ðà Tôn Thiên Bồ Tát
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.
 ---o0o---
Tập 05
Quyển 7
Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
Bồ Tát Diệu Âm Ngài có âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn. Tại sao lại có
Diệu Âm ? Vì ở trong quá khứ vô lượng kiếp Ngài đã từng dùng mười vạn
âm nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương. Diệu Âm của Ngài nói pháp,
vĩnh viễn tồn tại lưu giữ ở lỗ tai của chúng sinh. Vì lỗ tai của chúng sinh có
Diệu Âm, nên vĩnh viễn chẳng quên diệu pháp của Bồ Tát Diệu Âm nói. Do
đó gọi là Bồ Tát Diệu Âm.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng quang minh từ nhục kế tướng
đại nhân, và phóng ra tướng hào quang trắng ở giữa chặng mày, chiếu khắp
phương đông, một trăm tám vạn ức na do tha Hằng hà sa, các thế giới của
Phật.
Sau khi nói xong Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì khi sắp nói
Phẩm Bồ Tát Diệu Âm, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, ở trong hội Pháp Hoa
trên núi Linh Thứu, phóng ra đại quang minh từ nhục kế (chỗ cao nhất trên
đỉnh đầu) tướng đại nhân, chiếu sáng hết thảy thế giới. Lại từ giữa chặng
mày, phóng ra tướng hào quang trắng. Nhục kế biểu thị cho quả tròn. Phật
viên mãn quả giác đã đến cực điểm. Hào quang trắng biểu thị cho nhân tròn.
Trung đạo nhân cũng tròn mà quả cũng tròn, nhân quả không hai, tức nhân
tức quả; tức quả tức nhân. Quang minh nhục kế và quang minh trắng, chẳng
những chiếu khắp thế giới mà còn chiếu khắp phương đông, một trăm tám
vạn ức na do tha Hằng hà sa các thế giới của Phật.
Qua số thế giới đó, có một thế giới tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm, nước
đó có vị Phật, hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Có vô lượng vô biên đại
chúng Bồ Tát, cung kính vây quanh, Phật vì họ mà nói pháp.
Qua số thế giới đó rồi, có một thế giới tên là thế giới Tịnh Quang Trang
Nghiêm, ở trong cõi nước đó, có một vị Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí
Phật. Nhân làm của Ngài thanh tịnh như hoa sen. Ngài là vua trong các tinh
tú, trí huệ của Ngài giống như ánh sáng mặt trăng chiếu soi vạn vật.
Phật có biệt hiệu, tức là bổn danh của Phật; Phật còn có thông hiệu tức là
mười hiệu.
Mỗi vị Phật đều có đầy đủ mười hiệu :
1). Như Lai : Thừa đạo như thật, lai thành chánh giác.
2). ứng Cúng : Xứng đáng thọ trời, người cúng dường.
3). Chánh Biến Tri : Tức chánh tri lại biến tri, biết lý chân tục hai đế.
4). Minh Hạnh Túc : Hạnh ba minh chỉ có Phật mới đầy đủ, tức cũng là tu
hành và trí huệ đều viên mãn.
5). Thiện Thệ : Khéo đi đến nơi tốt nhất.
6). Thế gian giải : Các pháp thế gian chỉ có Phật mới hiểu rõ hết.
7). Vô Thượng Sĩ : Phật là đại sĩ trên hơn hết trong thế gian và xuất thế gian,
chẳng có ai sánh bằng.
8). Ðiều ngự trượng phu : Bậc trượng phu điều phục giá ngự chúng sinh
trong ba cõi.
9). Thiên Nhân Sư : Bậc đạo sư của chư thiên và loài người.
10). Phật : Giác hạnh viên mãn, vạn đức trang nghiêm.
Thế Tôn : Tôn kính trong thế gian và xuất thế gian. Ðầy đủ mười hiệu mới
gọi là Thế Tôn.
Vị Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí đó, có vô lượng vô biên đại chúng Bồ Tát
cung kính vây quanh. Vị Phật đó vì các Ngài mà thuyết pháp.
Luồng hào quang trắng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu sáng khắp cõi
nước đó.
Tướng luồng hào quang trắng của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu sáng
khắp hết thảy cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm ở phương đông.
Bấy giờ, ở trong cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm, có một vị Bồ Tát tên
là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các gốc công đức, cúng dường gần gũi vô lượng
trăm ngàn vạn ức các đức Phật, cho nên thành tựu trí huệ thâm sâu.
Lúc đó, ở trong cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ Tát tên là
Diệu Âm, do đó có câu : ‘’Ðông Diệu Âm, Tây Quán Âm.‘’ Nghĩa là :
‘’Phương đông thì có Bồ Tát Diệu Âm, phương tây thì có Bồ Tát Quán Thế
Âm.’’ Bồ Tát Diệu Âm đó, từ lâu xa về trước, đã gieo trồng rất nhiều căn
lành. Lại cúng dường vô lượng ức các Ðức Phật, lại gần gũi vô lượng ức các
Ðức Phật, cho nên thành tựu trí huệ thâm sâu, đắc được mười sáu thứ tam
muội. Tam muội dịch là chánh định chánh thọ, tức cũng hay lìa khỏi định
lực tà loạn. Tam muội có vô lượng, bất quá chỉ cử ra mười sáu thứ để đại
biểu.
Ðược diệu tràng tướng tam muội, pháp hoa tam muội, tịnh đức tam muội, tú
vương hí tam muội, vô duyên tam muội, trí ấn tam muội, giải nhất thiết
chúng sinh ngữ ngôn tam muội, tập nhất thiết công đức tam muội, thanh tịnh
tam muội, thần thông du hí tam muội, trí cự tam muội, trang nghiêm vương
tam muội, tịnh quang minh tam muội, tịnh tạng tam muội, bất cộng tam
muội, nhật toàn tam muội.
1). Diệu tràng tướng tam muội : Chánh định thâm sâu diệu vợi, an trụ bất
động, giống như tràng báu, uy phục tất cả và cũng là thật tướng. Bổn thể của
thật tướng cao hơn tất cả, nhưng vô tướng. Tuy vô tướng, nhưng vô sở bất
tướng, cho nên gọi là diệu tràng tướng tam muội.
2). Pháp hoa tam muội : Tức là nhân quả không hai. Nhân tức là quả, quả tức
là nhân. Nhân quả cùng lúc, cho nên ví như hoa sen. Hoa sen là hoa nở sen
hiện, hoa tàn thì sen thành. Tức là quyền thật không hai. Quyền là quyền xảo
phương tiện, thật là chân thật bất hư, vì thật thí quyền, vì thật pháp mới dùng
pháp quyền xảo phương tiện. Khai quyền hiển thật, khai mở quyền rồi, thì
hiện ra thật. Tức là bổn tích không hai. Bổn là sự lý rất lâu xa về trước, tích
là thật hiện sinh. Vì nhân quả không hai, quyền thực không hai, bổn tích
không hai, cho nên gọi là Pháp hoa tam muội.
Ba hoặc là gì ? Tức là :
A. Kiến tư hoặc : Kiến hoặc là đối cảnh khởi tham ái, cảnh giới đến thì sinh
tâm tham ái. Tư hoặc là mê lý khởi phân biệt, đối với lý luận chẳng minh
bạch, sinh ra tâm phân biệt, càng phân biệt thì càng xa, càng xa thì càng
phân biệt. Kết quả lìa trí huệ căn bản càng ngày càng xa.
B. Trần sa hoặc : Theo tên mà suy nghĩa, hoặc nhiều như bụi, như cát. Song,
Bồ Tát giáo hóa chúng sinh phải có pháp môn nhiều như bụi như cát, mới có
thể viên mãn. Phải ở trong nhiều kiếp tu học vô lượng pháp môn, mới phá
trừ được hoặc này, đắc được đạo chủng trí.
C. Vô minh hoặc : Gặp cảnh giới thì đối với sự cũng mê, mà đối với lý cũng
mê, đó tức là vô minh hoặc. Tóm lại, tức là chẳng hiểu biết, chính mình cũng
chẳng biết tại sao lại nóng giận, chính mình cũng chẳng biết tại sao lại điên
đảo ? Ðó tức là vô minh. Ba hoặc này chẳng thanh tịnh, cho nên gọi là cấu
bẩn, nếu lìa khỏi ba hoặc cấu bẩn, thì sẽ chứng được thanh tịnh tự tại.
4). Tú vương hí tam muội : Tú vương tức là vua trong tinh tú (các vì sao),
tức là mặt trăng. Dùng trí huệ quyền xảo phương tiện, để chiếu căn cơ của
chúng sinh, chẳng dùng thật trí để chiếu lý. Quyền trí giống như mặt trăng,
đáng tròn thì tròn, đáng khuyết thì khuyết, đó là sự xảo diệu, cho nên dùng
trí huệ xảo diệu để làm việc này (hí kịch), có người diễn, có người xem, cho
nên gọi là tú vương hí tam muội.
5). Vô duyên tam muội : Tức là vô duyên đại từ. Chẳng có tâm duyên niệm
tất cả chúng sinh, có ứng tức cảm, như nước hiện ánh trăng. Bất cứ có duyên
hay vô duyên đều độ khắp, chẳng phân biệt thân sơ xa gần, khi gặp thì nét
mặt nhân từ, cho nên gọi là vô duyên tam muội.
6). Trí ấn tam muội : Tức là trí huệ chân thật, ấn tất cả các pháp, tức vọng
mà chân. Tóm lại, trong một niệm đầy đủ ba trí.
Ba trí là gì ? Tức là:
- Nhất thiết trí.
- Ðạo chủng trí.
- Nhất thiết chủng trí.
Nhất thiết trí, là trí huệ của bậc Thanh Văn, đạo chủng trí, là trí huệ của Bồ
Tát, nhất thiết chủng trí, là trí huệ của chư Phật. Ðó là trí ấn tam muội.
7). Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn tam muội : Tức là thấu hiểu tất cả
ngôn ngữ của tất cả chúng sinh. Chẳng những hiểu biết ngôn ngữ của loài
người, mà dù các loại ngôn ngữ của chúng sinh khác, như phi cầm tẩu thú,
thậm chí cỏ cây kim đá vô tình, cũng đều thấu hiểu, chẳng có chướng ngại
về ngôn ngữ. Có ngôn ngữ tam muội đó, cho nên gọi là nhất thiết chúng sinh
ngữ ngôn tam muội.
8). Tập nhất thiết công đức tam muội : Nhất thiết tam muội thì có thể thu
nhập một tam muội. Một tam muội lại có thể thông đạt nhất thiết tam muội.
Trải qua vô lượng kiếp tu hành vạn đức viên mãn đầy đủ, tích tập tất cả công
đức tam muội, cho nên gọi là tập nhất thiết công đức tam muội.
9). Thanh tịnh tam muội : Tức là thanh tịnh sáu căn. Sáu căn thanh tịnh thì
sẽ đắc được sự hổ tương xử dụng tự tại, xa lìa nhiễm trần, chẳng có hoặc cấu
bẩn, cho nên gọi là thanh tịnh tam muội.
10). Thần thông du hí tam muội : Dùng sức thần thông tự tại diệu dụng, hiện
ra các thứ tướng để giáo hóa chúng sinh, du hí nhân gian. Tóm lại, thần
thông biến hóa như là du hí, như huyễn như hóa, phổ nhiếp chúng sinh,
khiến cho chúng sinh đừng chấp trước, cho nên gọi là thần thông du hí tam
muội.
11). Huệ cự tam muội : Huệ là trí huệ, cự là hỏa cự (đuốc lửa). Trí huệ
quang minh như là đuốc lửa, phá trừ đen tối. Tóm lại, tu đạo mới có trí huệ,
trí huệ quang minh chiếu phá đen tối ngu si. Tại sao chúng ta cứ làm những
việc điên đảo ? Là vì ngu si. Cho nên phải siêng tu giới định huệ, mới tiêu
diệt được tham sân si. Chẳng có ba độc thì trí huệ tự nhiên sẽ hiện tiền.
12). Trang nghiêm vương tam muội : Trang nghiêm tự tại, tự tánh tựa như
vương. tự tánh vốn đầy đủ mỹ đức, tất cả đều viên dung vô ngại. Tùy tiện đề
ra một pháp, thì sẽ thống lãnh tất cả các pháp, tức cũng là dùng Phật trang
nghiêm, mà tự mình trang nghiêm, cho nên gọi là trang nghiêm vương tam
muội.
13). Tịnh quang minh tam muội : Tức là ba trí thanh tịnh, viên mãn quang
minh, chiếu tất cả các pháp, tức cũng là tính tịnh quang minh, cho nên gọi là
tịnh quang minh tam muội.
14). Tịnh tạng tam muội : Trong một niệm đắc được thanh tịnh, khéo nhiếp
vạn đức. Tức cũng là tịnh tâm trụ ở Như Lai mật tính, cũng có thể nói là tính
Như Lai tạng hàm tàng tất cả pháp, cho nên gọi là Tịnh Tạng tam muội.
15). Bất cộng tam muội : Tức là bất cộng tam thừa mà cùng một thừa, tức
cũng là Như Lai đại định, cho nên gọi là bất cộng tam muội.
16). Nhật toàn tam muội : Trí huệ thanh tịnh như mặt trời chiếu khắp ba
ngàn đại thiên thế giới, cũng có thể nói, dùng trí huệ chân thật chiếu lý mà
vô sở trụ, tức là chẳng trụ vào cảnh giới chiếu lý, đó gọi là nhật toàn tam
muội.
Ðược hết thảy trăm ngàn vạn ức, Hằng hà sa các đại tam muội như thế.
Vị Bồ Tát Diệu Âm vì ở trong quá khứ vô lượng kiếp, đã từng dùng mười
vạn thứ âm nhạc và tám vạn bốn ngàn cái bát báu, cúng dường đức Như Lai
Vân Lôi Âm Vương, cho nên đắc được trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa các đại
tam muội.
Quang minh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu đến thân Bồ Tát Tú
Vương Hoa, lập tức Ngài bèn bạch với đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí
rằng : Ðức Thế Tôn ! Con phải qua thế giới Ta Bà, để lễ lạy gần gũi, cúng
dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp
vương tử, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Tú Vương Hoa,
Bồ Tát Thượng Hạnh Ý, Bồ Tát Trang Nghiêm Vương, Bồ Tát Dược
Thượng.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong pháp hội Linh Sön, phóng ra quang minh
trên nhục kế và luồng hào quang trắng, chiếu soi thân Bồ Tát Diệu Âm ở
trong thế giới Tịnh Quang ở phương đông. Bồ Tát Diệu Âm bèn bạch với
Ðức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Bây giờ con phải
đi đến thế giới Ta Bà, để lễ lạy cúng dường Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Con
còn muốn gặp Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ
Tát Tú Vương Hoa, Bồ Tát Thượng Hạnh Ý, Bồ Tát Trang Nghiêm Vương,
Bồ Tát Dược Thượng, hết thảy các đại Bồ Tát.’’
Bấy giờ, đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bảo Bồ Tát Diệu Âm rằng: Ông
chớ khinh cõi nước đó, mà sinh ra tư tưởng thấp kém.
Lúc đó, Ðức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bảo Bồ Tát Diệu Âm rằng : ‘’
Con đến thế giới Ta Bà, đừng khinh khi cõi nước đó, càng không nên sinh
tâm hạ liệt, đừng có tư tưởng như thế.’’ Người tu hành, nên nhớ đừng có
cống cao ngã mạn, coi ai cũng chẳng ra gì, đó là quan niệm sai lầm. Tu đạo
phải có tinh thần từ bi hỷ xả.
Thiện nam tử ! Thế giới Ta Bà đó, cao thấp chẳng bằng phẳng, đất đá các
núi, sự dơ bẩn xấu ác đầy dẫy. Thân Phật nhỏ bé, các chúng Bồ Tát thân
hình cũng nhỏ, mà thân ông cao đến bốn vạn hai ngàn do tuần, thân ta cao
sáu trăm tám mươi vạn do tuần. Thân ông đoan chánh bậc nhất, có trăm
ngàn vạn phước tướng, quang minh tốt đẹp đặc biệt, cho nên ông đi qua đó,
đừng khinh khi cõi nước đó, hoặc Phật Bồ Tát và cõi nước, mà sinh tư tưởng
hạ liệt.
Ðức Phật Tịnh Hoa Tú Vương lại gọi một tiếng : ‘’Thiện nam tử ! Thế giới
Ta Bà đó, cao thấp chẳng bằng phẳng, có núi đá đầy dẫy tạp uế ác trược,
chẳng thanh tịnh. Thân Phật ở thế giới đó, cao chỉ một trượng sáu. Thân hình
của tất cả Bồ Tát càng nhỏ hơn. Diệu Âm ! Thân của ông cao đến bốn vạn
hai ngàn do tuần, thân của ta cao đến sáu trăm tám mươi vạn do tuần. Thân
tướng của ông đoan chánh trang nghiêm bậc nhất, có trăm ngàn vạn phước
tướng, thân phóng quang minh thanh tịnh tốt đẹp thù thắng đặc biệt. Cho
nên, ông đến thế giới Ta Bà dễ sinh tâm khinh mạn thì sẽ đọa lạc, cho nên
Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí ba lần nhắc nhở Bồ Tát Diệu Âm, đừng sinh
tâm khinh mạn, tức là Ngài cùng đi với chúng Bồ Tát cũng không thể sinh
tâm hạ liệt.
Lúc đó, Bồ Tát Diệu Âm chẳng lìa khỏi tòa ngồi, thân chẳng lay động, bèn
nhập tam muội, nhờ sức tam muội mà đến núi Kỳ Xa Quật, cách pháp tòa
chẳng bao xa, hóa ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, dùng vàng diêm phù
đàn làm thân, bạc làm lá, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.
Lúc đó, Bồ Tát Diệu Âm chẳng rời khỏi tòa ngồi, thân cũng chẳng lay động,
bèn nhập vào tam muội, nhờ sức tam muội mà đến thế giới Ta Bà núi Kỳ Xa
Quật (núi Linh Thứu), cách pháp tòa của Phật Thích Ca chẳng bao xa, bèn
hóa ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu lớn (đại biểu cho tám vạn bốn ngàn
pháp môn). Những hoa sen đó, đều dùng vàng diêm phù đàn làm thân, dùng
bạc làm lá, dùng kim cang làm nhụy, dùng chân thúc ca bảo làm đài.
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, thấy hoa sen đó, bèn bạch
đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Ðó là nhân duyên gì, mà hiện ra cảnh giới tốt
đẹp như thế ? Có hàng ngàn vạn hoa sen, dùng vàng diêm phù đàn làm thân,
dùng bạc làm lá, dùng kim cang làm nhụy, dùng chân thúc ca bảo làm đài.
Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thấy hoa sen xuất hiện thù thắng như thế,
chẳng biết nhân duyên gì, mới hỏi Ðức Phật : ‘’ Ðức Thế Tôn ! Ðó là nhân
duyên gì, mà hiện ra cảnh giới tốt đẹp như thế ? Có hàng ngàn vạn hoa sen,
thân của hoa sen làm bằng vàng diêm phù đàn, lá thì làm bằng bạc, nhụy thì
làm bằng kim cang, đài thì làm bằng chân thúc ca bảo. Việc đó như thế nào ?
Xin Ðức Thế Tôn từ bi, vì chúng con mà nói nhân duyên đó.’’
Bồ Tát Diệu Âm hiện ra cảnh giới tốt đẹp như thế. Tại sao Bồ Tát Văn Thù
chẳng biết ? Các Ngài đều là Ðẳng giác Bồ Tát, địa vị đồng nhau, thần thông
đồng nhau, chẳng lý nào mà chẳng rõ. Ðó là vì Bồ Tát Văn Thù, đại biểu đại
chúng trong hội Pháp Hoa thưa hỏi, chứ chẳng phải là Ngài không thấu rõ.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng : Ðại
Bồ Tát Diệu Âm đó, từ cõi nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, cùng với
tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát vây quanh, mà đến thế giới Ta Bà này, cúng
dường gần gũi lễ lạy ta, và cũng muốn cúng dường nghe Kinh Pháp Hoa.
Lúc đó, Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng : ‘’Vị Bồ
Tát Diệu Âm đó, là đại Bồ Tát trong chúng Bồ Tát. Ông ta từ phương đông
thế giới Tịnh Quang Trang Nghiêm, cõi nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương
Trí đến đây, thống lãnh tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát, cùng đi đến cõi Ta Bà.
Tại sao ? Vì muốn cúng dường ta, gần gũi ta, lễ lạy ta, và cũng muốn cúng
dường Kinh Pháp Hoa, nghe Kinh Pháp Hoa.’’
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát đó, trồng
căn lành gì, tu công đức gì, mà được sức đại thần thông như thế? Tu hành
tam muội gì? Xin hãy vì chúng con nói tên của tam muội đó. Chúng con
cũng muốn siêng năng tu hành, tu tam muội đó, mới có thể thấy Bồ Tát đó,
sắc tướng lớn nhỏ, uy nghi tấn chỉ.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Diệu
Âm đó, Ngài ở trong đời quá khứ gieo trồng căn lành gì ? Tu hành công đức
gì ? Mà có sức đại thần thông lớn như thế ? Ngài tu trì tam muội gì ? Xin
Ðức Thế Tôn hãy vì chúng con đại chúng, nói ra tên của tam muội đó.
Chúng con đại chúng cũng muốn tu trì pháp môn tam muội đó, đắc được sức
đại thần thông không thể nghĩ bàn như thế rồi, mới có thể thấy sắc thân của
vị Bồ Tát Diệu Âm lớn nhỏ, uy nghi tấn chỉ của Ngài như thế nào‘’?
Xin đức Thế Tôn dùng sức thần thông, khi Bồ Tát đó đến, thì khiến cho con
được thấy.
Bồ Tát Văn Thù lại nói : ‘’Xin Ðức Thế Tôn từ bi, dùng sức thần thông, khi
vị Bồ Tát đó đến pháp hội, thì khiến cho chúng con được thấy.’’
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù : Ðức Như Lai Ða
Bảo diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà khiến cho vị Bồ Tát đó, hiện thân
tướng.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng :
‘’Ðức Ða Bảo Như Lai diệt độ từ lâu đây, sẽ thuận theo yêu cầu của các ông
đại chúng, mà khiến cho Bồ Tát Diệu Âm hiện sắc tướng để cho các ông
thấy.’’
Lúc đó, đức Phật Ða Bảo liền bảo vị Bồ Tát đó : Thiện nam tử ! Ðến đây, Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi muốn thấy thân của ông.
Lúc đó, Ðức Ða Bảo Như Lai bảo Bồ Tát Diệu Âm rằng : ‘’Thiện nam Tử !
Ðến đây, có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi muốn gặp ông.’’
Lúc đó, Bồ Tát Diệu Âm ở cõi nước kia, ẩn thân cùng với tám vạn bốn ngàn
vị Bồ Tát cùng nhau đến, các cõi nước đi qua, đều có sáu thứ chấn động,
thảy đều mưa xuống hoa sen bảy báu, và trăm ngàn thứ nhạc trời, chẳng cổ
động mà tự vang lên.
Lúc đó, Bồ Tát Diệu Âm ở thế giới Tịnh Quang Trang Nghiêm về phương
đông ẩn thân, Ngài thống lãnh tám vạn bốn ngàn chúng Bồ Tát, mọi người
đều cùng nhau đi đến hội Pháp Hoa ở thế giới Ta Bà, nghe Kinh Pháp Hoa.
Các cõi nước mà các Ngài đi qua, đều có sáu thứ chấn động, đều mưa hoa
sen bảy báu. Lại có trăm ngàn thứ nhạc trời, chẳng cần cổ động mà nhạc trời
tự nhiên diễn tấu âm nhạc, rất hay nghe rất êm tai.
Mắt của vị Bồ Tát đó, như hoa sen xanh rộng lớn, ví như trăm ngàn vạn mặt
trăng hợp lại, diện mạo đoan chánh xinh đẹp, thân màu vàng thật, có vô
lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm, uy đức dũng mãnh, quang minh
chiếu sáng, các tướng đầy đủ, thân kiên cố như na la diên.
Vị Bồ Tát Diệu Âm đó, mắt của Ngài rộng lớn như lá hoa sen xanh, sáng
suốt vô cùng, ví như trăm ngàn vạn mặt trăng hợp lại, diện mạo của Ngài
đoan chánh xinh đẹp, càng siêu hơn là cảnh giới này. Thân thể của Ngài màu
vàng tía, có vô lượng công đức trang nghiêm thân. Uy đức của Ngài rất dũng
mãnh, do đó ‘’Có uy đáng sợ, có đức đáng kính.’’ Quang minh chiếu soi tất
cả. Bất cứ là một tướng nào, cũng đều đầy đủ viên mãn trang nghiêm. Thân
của Ngài kiên cố như na la diên (kim cang lực sĩ), vĩnh viễn chẳng hư hoại,
đó là thân tướng thù thắng của Bồ Tát Diệu Âm, chẳng phải các Bồ Tát
khác, có thể sánh bằng Ngài được.
Ngồi trên đài bảy báu thăng lên hư không, cách mặt đất bảy cây đa la, các
chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, đi đến núi Kỳ Xa Quật thế giới Ta Bà.
Bồ Tát Diệu Âm ngồi trên đài hoa sen bảy báu thăng lên hư không, cách mặt
đất bảy cây đa la (mỗi cây đa la cao khoảng sáu chục thước). Tám vạn bốn
ngàn chúng Bồ Tát cung kính vây quanh Ngài bốn phía, cùng đi đến núi Kỳ
Xa Quật thế giới Ta Bà.
Ði đến rồi, bước xuống đài bảy báu, đem chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn lạng
vàng, cầm đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đầu mặt lễ dưới chân Phật,
dâng chuỗi ngọc lên, mà bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Ðức Phật Tịnh Hoa
Tú Vương Trí, hỏi thăm đức Thế Tôn, ít bệnh, ít phiền não, mạnh giỏi, tứ đại
điều hòa chăng! Việc đời nhẫn được chăng, chúng sinh dễ độ chăng, chúng
sinh chẳng nhiều tham dục, sân hận, ngu si, đố kỵ, kiêu mạn chăng, chẳng có
kẻ bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc sa môn, tâm tà kiến bất thiện, chẳng
nhiếp năm tình chăng!
Bồ Tát Diệu Âm đến núi Kỳ Xa Quật rồi, bèn bước xuống đài bảy báu, tay
cầm chuỗi ngọc quý nhất, giá trị trăm ngàn lạng vàng, cúng dường cho Ðức
Phật Thích Ca. Ðến chỗ Ðức Phật rồi, năm thể sát đãt, hướng về Ðức Phật
đảnh lễ, dâng chuỗi ngọc lên, bèn nói với Ðức Phật : ‘’Ðức Thế Tôn ! Thầy
của con là Ðức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có hỏi thăm Ðức Thế Tôn, ít
bệnh, ít phiền não chăng ! Mạnh khỏe chăng ! Ði đứng nằm ngồi có an lạc
chăng ! Ðất nước gió lửa có điều hòa chăng ? Ðối với việc thế gian vẫn nhẫn
nhục được chăng ! Hết thảy chúng sinh có dễ giáo hóa chăng ? Ðại khái
chúng sinh chẳng có nhiều tham dục, sân hận, ngu si, chẳng đố kỵ cũng
chẳng kiêu mạn chăng ! Chẳng có chúng sinh bất hiếu với cha mẹ chăng !
Chẳng có tín đồ chẳng cung kính bậc sa môn chăng‘’! Phàm là gặp bậc sa
môn (Tỳ Kheo Tăng) phải cung kính đảnh lễ. Bất cứ họ tu hành như thế nào,
đều phải cung kính. Vì sao ? Vì họ đắp y cà sa, đại biểu cho Phật pháp, cung
kính y cà sa của họ mặc. Người tại gia không thể phê bình chỉ trích lỗi lầm
của người xuất gia. Nếu không thì gieo trồng xuống nhân đọa địa ngục, lúc
đó hối cải cũng đã muộn. Phàm là Phật giáo đồ, thì phải cung kính Tam Bảo.
Lại hỏi tất cả chúng sinh có tà kiến chăng ? Có tâm chẳng lành chăng ? Tức
là thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia, có thu nhiếp năm tình chăng, chẳng
bị cảnh giới làm lay chuyển chăng (năm tình : Hỷ, nộ, ái, ác, dục).
Ðức Thế Tôn ! Chúng sinh có hàng phục được các ma oán chăng, đức Ða
Bảo Như Lai diệt độ từ lâu, ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng,
lại thăm hỏi đức Ða Bảo Như Lai, an ổn ít phiền não, kham nhẫn trụ lâu
chăng!
Bồ Tát Diệu Âm lại gọi một tiếng : ‘’Ðức Thế Tôn! Hết thảy chúng sinh có
hàng phục được các ma oán chăng ? Ma có bốn thứ :
1). Ngũ ấm ma : Sắc thọ tưởng hành thức năm con ma, hay sinh ra mọi thứ
khổ não.
2). Phiền não ma : Tham sân si mạn nghi năm con ma, hay khiến cho thân
tâm phiền não.
3). Tử ma : Ma hay đoạn mạng căn.
4). Thiên ma : Ma hay đoạn huệ mạng.
Ðức Ða Bảo Như Lai đã diệt độ lâu xa về trước, trụ ở trong bảo tháp, có đến
nghe Kinh Pháp Hoa chăng ? Bồ Tát Diệu Âm tức nhiên nhìn thấy Ða Bảo
Như Lai trụ ở trong bảo tháp, tại sao còn phải hỏi nữa ? Vì Bồ Tát Diệu Âm
đại biểu cho thầy của Ngài (Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí) thăm hỏi Phật
Thích Ca, cho nên mới hỏi như thế, biểu thị lễ nghi. Vì Ðức Ða Bảo Như Lai
đã từng phát nguyện, phàm chỗ nào giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Ngài
nhất định đến trước để nghe pháp, cho nên Bồ Tát Diệu Âm mới hỏi như
thế.
Bồ Tát Diệu Âm thấy tháp bảy báu xuất hiện ở trong hư không, Ngài lại hỏi
Ðức Ða Bảo Như Lai có mạnh giỏi chăng, có an ổn chăng, ít phiền não
chăng, kham nhẫn ở lâu được chăng‘’?
Ðức Thế Tôn ! Nay con muốn thấy thân của đức Phật Ða Bảo, xin đức Thế
Tôn chỉ cho con, để cho con được thấy.
Bồ Tát Diệu Âm lại nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Bây giờ con muốn thấy thân
tướng của Phật Ða Bảo, xin Ðức Thế Tôn từ bi, chỉ thị cho con, để cho con
được thấy Ðức Ða Bảo Như Lai.’’
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Phật Ða Bảo rằng : Bồ Tát Diệu
Âm đây, muốn được thấy thân của Ngài.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca nói với Phật Ða Bảo rằng : ‘’Vị Bồ Tát Diệu Âm
này, muốn thấy Ngài có thể được chăng‘’?
Lúc đó, đức Phật Ða Bảo nói với Bồ Tát Diệu Âm rằng : Lành thay ! Lành
thay ! Ông vì cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghe Kinh Pháp Hoa,
và gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, mà đến nơi này.
Lúc đó, Ðức Phật Ða Bảo bảo Bồ Tát Diệu Âm rằng : ‘’ Lành thay ! Lành
thay ! Ông vì cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghe Kinh Pháp Hoa,
và muốn gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, nên từ cõi Tịnh Hoa Trang Nghiêm ở
phương đông, mà đến hội Pháp Hoa núi Linh Thứu ở Thế giới Ta Bà.’’
Bấy giờ, Bồ Tát Hoa Ðức bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Diệu Âm
đó, trồng căn lành gì, tu công đức gì, mà được thần lực như thế ?
Lúc đó, ở trong pháp hội có vị Bồ Tát hiệu là Bồ Tát Hoa Ðức bạch Phật
rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Diệu Âm đó, trong đời quá khứ Ngài gieo
trồng căn lành gì ? Tu công đức gì ? Mà có sức thần thông như thế ? ‘’
Ðức Phật bảo Bồ Tát Hoa Ðức rằng : Trong quá khứ, có vị Phật hiệu là Vân
Lôi Âm Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Nước đó tên là Hiện
Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên là Hỷ Kiến. Bồ Tát Diệu Âm ở trong một vạn
hai nghìn năm, dùng mười vạn thứ âm nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm
Vương, và dâng lên cúng dường tám vạn bốn ngàn cái bát bằng bảy báu.
Nhờ nhân duyên quả báo đó, nên nay được sinh vào cõi nước của đức Phật
Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần thông như thế.
Ðức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Hoa Ðức rằng : ‘’Ở trong đời quá khứ, có vị
Phật hiệu là Vân Lôi Âm Vương, đầy đủ mười hiệu. Cõi nước của Ngài tên
là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên là Hỷ Kiến.
Bồ Tát Diệu Âm ở chỗ Phật Vân Lôi Âm Vương, trải qua một vạn hai ngàn
năm, dùng mười vạn thứ âm nhạc cúng dường Phật, lại dâng cúng tám vạn
bốn ngàn cái bát bằng bảy báu. Nhờ nhân duyên quả báo đó, nên được sinh
vào cõi nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, mới có sức đại thần thông
như thế.’’
Hoa Ðức ! Ý của ông thế nào ? Thuở đó, Bồ Tát Diệu Âm ở chỗ Ðức Phật
Vân Lôi Âm Vương, cúng dường âm nhạc và dâng cúng bát báu, đâu phải là
người nào khác, nay chính là đại Bồ Tát Diệu Âm này vậy.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Hoa Ðức ! Ý của ông thế nào ? Bồ Tát
Diệu Âm ở chỗ Ðức Phật Vân Lôi Âm Vương cúng dường âm nhạc và dâng
cúng Tam Bảo bát bằng bảy báu. Ông có biết là ai chăng ? Tức là Bồ Tát
Diệu Âm này vậy.’’
Hoa Ðức ! Bồ Tát Diệu Âm đó, đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các
đức Phật, từ lâu đã trồng công đức, lại gặp Hằng hà sa trăm ngàn vạn ức na
do tha các đức Phật.
Ðức Phật Thích Ca lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Hoa Ðức ! Vị Bồ Tát Diệu
Âm này, trong quá khứ đã từng cúng dường vô lượng các Ðức Phật, lại từng
gần gũi vô lượng chư Phât. Từ lâu xa đến nay đã gieo trồng vô lượng gốc
công đức, lại gặp hằng hà sa số trăm ngàn vạn ức na do tha các Ðức Phật.’’
Hoa Ðức ! Ông chỉ thấy thân của Bồ Tát Diệu Âm ở đây, nhưng Bồ Tát đó,
hiện đủ thứ thân ở khắp mọi nơi, để vì các chúng sinh diễn nói kinh điển
này.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Hoa Ðức ! Hiện tại ông chỉ thấy thân
của Bồ Tát Diệu Âm ở trong pháp hội này, song vị Bồ Tát đó thị hiện đủ thứ
thân ở khắp mọi nơi, để vì tất cả chúng sinh diễn nói Kinh Pháp Hoa này.’’
Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Ðế Thích, hoặc hiện thân trời
Tự Tại, hoặc hiện thân trời Ðại Tự Tại, hoặc hiện thân thiên đại tướng quân,
hoặc hiện thân Tỳ Sa Môn Thiên Vương, hoặc hiện thân Chuyển Luân
Thánh Vương, hoặc hiện thân các ông vua nhỏ, hoặc hiện thân trưởng giả,
hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc
hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hoặc hiện thân phụ nữ
tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ Bà la môn, hoặc hiện thân đồng nam, đồng
nữ.
Bồ Tát Diệu Âm đến khắp mọi nơi, vì chúng sinh diễn nói Kinh Pháp Hoa,
mà hiện đủ thứ thân hình. Có khi hiện thân Ðại Phạm Thiên Vương, có khi
hiện thân Ðế Thích, có khi hiện thân trời Tự Tại, có khi hiện thân trời Ðại
Tự Tại, có khi hiện thân thiên đại tướng quân, có khi hiện thân Tỳ Sa Môn,
hoặc hiện thân chuyển luân thánh vương, thân các ông vua nhỏ, thân trưởng
giả, thân cư sĩ, thân tể quan, thân Bà la môn, thân Tỳ Kheo, thân Tỳ Kheo
Ni, thân cư sĩ nam, thân cư sĩ nữ, thân phụ nữ trưởng giả, thân phụ nữ tể
quan, thân phụ nữ Bà la môn, thân đồng nam, thân đồng nữ. Tóm lại, đáng
dùng thân gì độ được, thì hiện thân đó để vì họ nói Kinh Pháp Hoa. Tại sao ?
Vì giống thân phận thì dễ giáo hóa, khiến cho chúng sinh chẳng có tự ti mặc
cảm.
Hoặc hiện thân trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la,
Ma hầu la già, người, chẳng phải người, để diễn nói kinh này.
Bồ Tát Diệu Âm vì diễn nói kinh này, mà tùy theo căn cơ hiện thân hình,
hoặc là hiện ra thân trời rồng tám bộ chúng, hoặc thân người, chẳng phải
người, để diễn nói bộ Kinh Pháp Hoa này, giáo hoá tất cả chúng sinh.
Hoặc trong các địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và nơi các thứ nạn đều cứu giúp,
cho đến nơi hậu cung của vua, cũng biến làm thân nữ, để diễn nói kinh này.
Bồ Tát Diệu Âm ở trong ba cõi, hai mươi lăm hữu, địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh, và chúng sinh đui mù câm điếc chẳng được nghe kinh, Ngài đều dùng
thần thông cứu giúp họ thoát khỏi nơi chướng nạn, để được gặp Tam Bảo,
độ tất cả khổ ách.
Bồ Tát Diệu Âm chẳng những cứu giúp chúng sinh ở trong tam đồ bát nạn,
mà cho đến ở nơi hậu cung của nhà vua, Ngài cũng biến ra thân người nữ, để
vì phi tần cung nga thể nữ, diễn nói Kinh Pháp Hoa, khiến cho họ lìa khổ
được vui, để đời sau có thể chuyển làm thân nam.
Hoa Ðức ! Bồ Tát Diệu Âm đó, hay cứu giúp các chúng sinh ở thế giới Ta
Bà. Bồ Tát Diệu Âm đó, biến hóa thị hiện đủ thứ thân hình như thế, ở tại thế
giới Ta Bà này, để vì các chúng sinh diễn nói Kinh này, nhưng thần thông trí
huệ biến hóa của Ngài, chẳng có tổn hoại giảm bớt.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Vị Bồ Tát Diệu Âm
này, hay cứu giúp hộ hết thảy chúng sinh ở thế giới Ta Bà. Vị Bồ Tát đó, tuy
hiện biến hóa đủ thứ thân hình như thế, để vì tất cả chúng sinh ở thế giới Ta
Bà diễn nói kinh điển này, song thần thông biến hóa trí huệ của Ngài, chẳng
có tổn hoại, cũng chẳng có giảm bớt.’’
Bồ Tát đó, dùng bao nhiêu trí huệ chiếu soi thế giới Ta Bà, khiến cho tất cả
chúng sinh, ai nấy đều biết Phật pháp, ở trong mười phương Hằng hà sa số
thế giới, cũng lại như thế.
Vị Bồ Tát đó, dùng đủ thứ trí huệ quang minh để chiếu soi thế giới Ta Bà,
khiến cho tất cả chúng sinh, ai cũng đều biết về Phật pháp. Chẳng những ở
thế giới Ta Bà là như thế, mà trong mười phương Hằng hà sa số thế giới,
cũng đều như thế. Do đó, đủ biết lòng từ bi của Bồ Tát Diệu Âm rộng lớn vô
biên cỡ nào.
Nếu người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì Ngài liền hiện thân
Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ
được, thì Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng
dùng thân Bồ Tát độ được, thì Ngài liền hiện thân Bồ Tát, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Phật, để vì họ
nói pháp. Tùy nhân duyên đáng được độ, thì Ngài vì họ hiện đủ thứ các thân
hình như thế, cho đến đáng dùng sự diệt độ, mà độ được họ, thì Ngài cũng
thị hiện sự diệt độ.
Nếu như có chúng sinh đáng dùng thân Thanh Văn để độ được họ, thì Ngài
liền hiện thân Thanh Văn để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Bích Chi Phật
để độ được họ, thì Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp.
Ðáng dùng thân Bồ Tát để độ được họ, thì Ngài liền hiện thân Bồ Tát, để vì
họ nói pháp. Chúng sinh đáng dùng thân Phật để độ được họ, thì Ngài liền
hiện thân Phật, để vì họ nói pháp.
Còn có rất nhiều chúng sinh, tùy thuận nhân duyên đáng độ được, thì vì họ
hiện thân để giáo hóa họ, vì họ nói pháp, cho đến dùng thân hình vào Niết
Bàn để độ được họ, thì Ngài thị hiện Niết Bàn để độ họ.
Hoa Ðức ! Ðại Bồ Tát Diệu Âm thành tựu sức đại thần thông trí huệ, việc đó
là như thế.
Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Hoa Ðức ! Vị Ðại Bồ Tát Diệu Âm đó,
thành tựu sức đại thần thông trí huệ, sự thật là cảnh giới như thế.’’
Bấy giờ, Bồ Tát Hoa Ðức bạch Ðức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Diệu
Âm đó, trồng sâu căn lành. Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát đó, trụ vào tam muội
gì, mà có sự biến hiện độ thoát chúng sinh như thế ?
Lúc đó, Bồ Tát Hoa Ðức lại bạch Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát
Diệu Âm đó, trồng căn lành rất là sâu dày. Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Diệu
Âm đó, trụ vào tam muội gì, mà có thần thông biến hiện như thế, có thể biến
hóa hiện thân khắp nơi, để vì chúng sinh nói pháp độ thoát chúng sinh.’’
Ðức Phật bảo Bồ Tát Hoa Ðức : Thiện nam tử ! Tam muội đó tên là hiện
nhất thiết sắc thân. Bồ Tát Diệu Âm trụ vào tam muội đó, hay làm lợi ích vô
lượng chúng sinh như thế.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Hoa Ðức : ‘’Thiện nam tử ! Tam muội đó tên là hiện
nhất thiết sắc thân (chẳng động đạo tràng mà có thể hiện tất cả thân hình
chúng sinh, để vì họ nói pháp). Bồ Tát Diệu Âm trụ ở trong tam muội đó, để
lợi ích vô lượng chúng sinh trong mười phương thế giới.’’
Khi nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm này, thì tám vạn bốn ngàn người cùng đi đến
với Bồ Tát Diệu Âm, thảy đều đắc được tam muội hiện nhất thiết sắc thân.
Vô lượng chúng Bồ Tát ở thế giới Ta Bà này, cũng đắc được tam muội đó,
và đà la ni.
Khi đang nói phẩm Bồ Tát Diệu Âm này, thì tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát
cùng đi đến với Bồ Tát Diệu Âm từ cõi Tịnh Hoa Trang Nghiêm ở phương
đông, thảy đều chứng được hiện nhất thiết sắc thân tam muội. Vô lượng
chúng Bồ Tát ở cõi Ta Bà, cũng đắc được tam muội đó, và pháp môn đà la
ni.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Diệu Âm cúng dường Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, và
tháp của Ðức Phật Ða Bảo rồi, bèn trở về nước của Ngài, đi ngang qua các
cõi nước, đều có sáu thứ chấn động, lại mưa xuống các hoa sen báu, và vang
lên trăm ngàn vạn ức đủ thứ âm nhạc.
Lúc đó, đại Bồ Tát Diệu Âm cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, và tháp của
Phật Ða Bảo rồi, bèn trở về cõi nước Tịnh Hoa Trang Nghiêm ở phương
đông. Các nước đi ngang qua, thảy đều có sáu thứ chấn động, lại mưa xuống
hoa sen báu, và tấu lên trăm ngàn vạn ức các thứ âm nhạc rất long trọng,
biểu thị sự hoan nghênh.
Sau khi về đến nước của Ngài rồi, cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát vây
quanh, đi đến chỗ đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bạch Phật rằng : Ðức
Thế Tôn ! Con đã đến thế giới Ta Bà lợi ích chúng sinh, được gặp Ðức Phật
Thích Ca Mâu Ni, và thấy tháp của Ðức Phật Ða Bảo, lễ lạy cúng dường.
Sau khi Bồ Tát Diệu Âm trở về nước của Ngài rồi, bèn cùng với tám vạn
bốn ngàn vị Bồ Tát vây quanh, đi đến chỗ của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí,
để báo cáo sự việc đã đi qua bèn nói rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con đã đi đến
thế giới Ta Bà, đã làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Chúng con đều gặp Phật
Thích Ca Mâu Ni, và tháp của Ðức Phật Ða Bảo, chúng con đã lễ lạy cúng
dường.’’
Lại gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, và thấy Bồ Tát Dược
Vương, Bồ Tát Ðắc Cần Tinh Tấn Lực, Bồ Tát Dũng Thí .v.v... cũng khiến
cho tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát này, được tam muội hiện nhất thiết sắc thân.
Chúng con lại gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát
Ðắc Cần Tinh Tấn Lực, Bồ Tát Dũng Thí .v..v... các đại Bồ Tát. Cũng khiến
cho tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát cùng đi với con, đều chứng được tam muội
hiện nhất thiết sắc thân.
Khi nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm lai vãng này, thì có bốn vạn hai ngàn vị
Thiên tử, đắc được vô sinh pháp nhẫn. Bồ Tát Hoa Ðức đắc được tam muội
pháp hoa.
Khi Phật nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm vãng lai này, thì bốn vạn hai ngàn vị
Thiên tử ở trong pháp hội, đều chứng được vô sinh pháp nhẫn. Bồ Tát Hoa
Ðức cũng chứng được tam muội pháp hoa.
---o0o---
Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
Phẩm này gọi là Phẩm Phổ Môn, có rất nhiều ý nghĩa. Bây giờ, trước hết
giảng về ‘’Dược châu‘’. Vì ‘’Dược châu’’ cho nên nói là ‘’Phẩm Phổ Môn’’.
‘’Dược’’ gọi là gì ? ‘’Dược’’ tức là cây Dược Vương; ‘’châu’’ là gì ?
‘’Châu’’ tức là châu như ý . Cây Dược Vương lại là gì ? Tức là rất lâu xa về
trước, có một người tiều phu lên núi đốn củi, gánh ra chợ bán, gặp một vị
thầy thuốc. Vị thầy thuốc thấy trong bó củi của ông ta gánh phóng ra hào
quang, do đó bèn mua số củi đó đem về nhà. Về đến nhà mở bó củi ra xem,
thì trong đó có một cây Dược Vương, sau khi ông thầy thuốc được cây Dược
Vương rồi, thì bất cứ bệnh gì, chỉ cần dùng cây Dược Vương gõ nhẹ lên thân
người bệnh, hoặc đánh nhẹ, thì bất cứ bệnh gì cũng khỏi ngay, cứu được rất
nhiều người, do nhân duyên đó mà gọi là ‘’cây Dược Vương’’.
‘’Châu’’ tức là châu như ý. Châu như ý là gì ? Như ý tức là toại tâm như ý,
tức cũng là khiến cho bạn hoan hỉ, mãn nguyện theo yêu cầu của bạn. Bạn
nghĩ muốn ăn gì, thì châu như ý sẽ hiện ra vật ấy, bạn chẳng cần đi mua. Bạn
muốn mặc quần áo gì, thì chỉ cần đối với hạt châu như ý nghĩ đến : ‘’Tôi
muốn một bộ quần áo đẹp nhất, hiếm có trên thế gian’’, thì lúc đó hạt châu
như ý sẽ hiện ra bộ quần áo mà bạn thích. Thậm chí bạn muốn căn nhà, thì
nó cũng có thể hiện ra. Bạn nghĩ : ‘’Tối nay tôi muốn ở trong một căn nhà
lộng lẫy đẹp nhất’’, thì hạt châu như ý sẽ hiện ra căn nhà, ở xong đêm đó rồi,
thì ngày thứ hai căn nhà cũng tự động trở vào trong hạt châu như ý. Bạn
nghĩ muốn ăn gì, thì hạt chây như ý sẽ hiện ra vật đó, cũng chẳng nhiều cũng
chẳng ít, rất vừa vặn. Bạn mặc quần áo cũng chẳng cần sắm tủ đựng quần
áo, chỉ cần thay ra, thì quần áo tự động trở vào trong hạt châu như ý, cho nên
gọi là ‘’như ý’’.
Châu như ý lớn cỡ nào ? Là một hạt châu rất nhỏ, có thể mang trên mình,
chẳng nặng cũng chẳng chiếm mất chỗ, cho nên gọi là như ý, toại tâm như ý,
diệu đến cực điểm. Tóm lại, hạt ‘’châu như ý’’ cũng là Phẩm Phổ Môn Bồ
Tát Quán Thế Âm, cũng là cây Dược Vương. Hạt châu như ý, hay toại tâm
nguyện, chỉ cần bạn trì tụng Phẩm Phổ Môn, thì cầu mong việc gì cũng sẽ
mãn nguyện. Nhưng chẳng phải hôm nay tụng niệm, thì ngày mai có cảm
ứng. Trước hết, phải tạo cơ sở cho vững chắc, cũng như xây nhà lầu, thì
trước hết phải xây nền móng cho tốt, nền móng mà không tốt, thì nhà lầu
cũng chẳng cách chi xây được. ‘’Phẩm Phổ Môn’’ tuy cảm ứng giống như
cây Dược Vương và châu như ý, không thể nghĩ bàn như thế, song trước hết
bạn phải tụng niệm Phẩm Phổ Môn, hằng ngày tụng niệm, tụng niệm đến khi
nào Bồ Tát Quán Thế Âm cho rằng bạn có tâm thành, thì sau đó bạn sẽ được
sở cầu như ý, toại tâm mãn nguyện. Chẳng phải nói lúc bình thường thì
chẳng tụng niệm, đến lúc nghĩ muốn cầu sự cảm ứng, thì lập tức có sự cảm
ứng, mà bình thường phải dụng công tu hành, đến khi đó ‘’Phẩm Phổ Môn’’
giống như cây Dược Vương, như hạt châu như ý, thì sẽ có cảnh giới không
thể nghĩ bàn, bất quá trước hết bạn phải tự mình tụng niệm.
Có người nói : ‘’Trong Phật giáo có nhiều thứ phải học ! Nào là tụng Chú
Lăng Nghiêm, lại tụng Chú Ðại Bi, bây giờ giảng ‘’Phẩm Phổ Môn’’, lại
phải tụng Phẩm Phổ Môn, thật nhiều khoá lễ quá, chúng ta đâu có nhiều thời
gian như thế !’’ Bạn không cần nhiều thời gian, chỉ cần mỗi ngày bớt ngủ
một tiếng đồng hồ, bớt nói chuyện một chút, thì những khóa lễ đó có thể làm
được. Nếu bạn không muốn toại tâm mãn nguyện, nói rằng, tôi chẳng cầu
mong gì, tôi chẳng còn tâm tham, tâm sân, tâm si, thì bạn chẳng cần phải
tụng, như thế thì chẳng có gì để nói. Nếu bạn cảm thấy tương lại, hoặc sẽ
gặp việc gì mà muốn cầu Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc là Phật giúp đỡ, thì
bạn nên học thêm một chút Phật pháp. Phật pháp như biển cả, một giọt bạn
chưa uống đã hiềm nhiều, thì tương lai nhất định nước trong biển cả uống
chẳng hết được, bất quá chỉ cần tận hết sức của bạn, muốn uống bao nhiêu
thì uống bấy nhiêu, Phật pháp thì lấy chẳng hết được, dùng chẳng cạn được,
cho nên hãy tận hết sức của bạn để vận dụng tu học Phật pháp.
Vì ý nghĩa ‘’Dược châu’’, cho nên phải nói Phẩm Phổ Môn này.
Còn có một ý nghĩa nữa, gọi là ‘’Hiển mật’’. ‘’Hiển’’ tức là minh hiển;
‘’mật’’ tức là bí mật. Do đó, khi bạn tụng Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì có lúc sẽ đắc được cảm ứng minh hiển, có lúc sẽ đắc được cảm ứng
bí mật.
Cảm ứng minh hiển, thì ai ai cũng đều nhìn thấy được, ai ai cũng đều biết.
Ví như Bồ Tát Quán Thế Âm cứu chúng sinh, trong Phẩm Phổ Môn có nói :
’’Nếu vào lửa lớn, lửa chẳng cháy được.’’ Trong Kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát
Quán Thế Âm thuật nhĩ căn viên thông cũng nói : ‘’Lửa chẳng cháy được,
tính lửa thật không, tính không thật lửa.’’ Ví như, bạn đang ngồi ở trong nhà,
một lòng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, mà trong sự vô ý lửa nổi lên, lúc đó,
chỉ cần bạn thành tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì nhà cửa kế bên bị
cháy, còn nhà của bạn thì không cháy. Nhưng đó là trong sự vô ý, chứ chẳng
phải là cố ý. Nếu bạn cố ý đốt một chút lửa lên, để thử xem nhà của bạn có
cháy không, thì nhất định sẽ cháy ! Tại sao ? Vì bạn vốn muốn thử nghiệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, là vì bạn tin chẳng chân thật, cho nên mới muốn thử
xem. Ðó cũng giống như có người nọ, có một người bạn, muốn biết người
bạn đó đối với mình có tâm chân thật chăng, có phải là người tốt ‘’gặp vàng
không tham’’ chăng! Do đó, lúc người bạn đến, bèn cố ý đem năm trăm
đồng bạc để dưới đất, chẳng để ý đến. Nếu anh ta là người tốt, thì chẳng lấy
tiền bỏ đi.
Tại sao bạn phải thử bạn của bạn ? Vì bạn chẳng thật sự nhận thức người
bạn của bạn, chẳng biết anh ta có phải là người tốt thật sự không, cho nên
mới thử nghiệm anh ta. Bồ Tát Quán Thế Âm nói ở trong kinh rằng: ‘’Nếu
vào lửa lớn, lửa chẳng cháy được.’’ Nếu một chút chỗ này mà bạn chẳng tin,
thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng chẳng lo việc của bạn. Bạn nhảy xuống biển
tự tử nói :’’Tôi nhảy xuống biển xem thử có được chỗ cạn chăng?’’ Nếu
như, bạn dùng sự thử nghiệm để dò thần thông diệu dụng của Bồ Tát Quán
Thế Âm, thì đó là biểu hiện bạn chẳng có niềm tin đối với Bồ Tát Quán Thế
Âm. Nếu bạn chẳng có niềm tin đối với Bồ Tát, thì Ngài cũng chẳng muốn
lo chuyện của bạn. Bạn nói :’’Tôi không thử nghiệm, thì làm sao biết cứu
kính là thật hay là giả?’’ Bạn biết là thật, thì lại như thế nào ? Bạn không
biết là thật thì lại ra sao ?
Minh hiển thì ai ai cũng đều biết, như nhà lân cận cháy, mà nhà của bạn
không cháy, đó là ‘’hiển’’, mọi người đều biết : ’’Ồ ! Người đó niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm có sự cảm ứng, người đó tin Phật thật là có sự mầu nhiệm’’,
có cảm ứng, đó tức là ‘’hiển’’.
Lại có ‘’bí mật’’. Bí mật là bạn vốn có một tai nạn, hoặc là bạn đáng lẽ phải
rớt xuống nước, bị nước ngập chết, nhưng trong sự vô hình, Bồ Tát Quán
Thế Âm cảm ứng, khiến cho bạn chẳng gặp sự nguy hiểm đó, bí mật làm cho
tai nạn của bạn tiêu trừ, đó gọi là bí mật. Người đó đáng lẽ bị lửa thiêu,
nhưng vì họ tin Bồ Tát Quán Thế Âm, nên Bồ Tát Quán Thế Âm trong sự
yên lặng, làm cho tai nạn tiêu trừ, đó cũng là cảm ứng bí mật. Thậm chí bạn
ngồi máy bay, đáng lẽ bị tai nạn máy bay, bây giờ sự giao thông tuy là thuận
tiện, song số người chết cũng nhiều, nào là máy bay rớt, tai nạn xe lửa, tai
nạn xe hơi, khiến cho nhiều người mất mạng. Ở trong những trường hợp đó,
vì bạn tụng trì Phẩm Phổ Môn, vì bạn niệm Chú Ðại Bi, vì bạn tin Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong sự yên lặng, tức là người đó
chẳng biết, thì Ngài bèn vì bạn hóa hung thành cát tường. Do đó, có câu :
’’Gặp hung hóa cát, gặp nạn hóa tường.’’
Do đó, vì sự ‘’hiển mật’’ cho nên nói ‘’Phẩm Phổ Môn’’ này.
Phẩm Phổ Môn có ‘’Hiển mật viên thông’’, hiển cũng viên thông, mật cũng
viên thông, hiển mật đều viên thông, cho nên công đức của Phẩm Phổ Môn
không thể nghĩ bàn.
Phẩm Phổ Môn này có đủ thứ sự diệu dụng, Chú Ðại Bi cũng có những diệu
dụng đó. Nay tôi kể một câu chuyện có sự cảm ứng. Tại quê hương Ðông
bắc của tôi, có người nông dân làm ruộng, nhà rất giàu có. Mùa thu năm ấy,
ông ta thu hoạch xong, dùng xe chở đồ vật lên thành thị bán. Bán xong
lương thực mang tiền về, trên đường về cách nhà khoảng ba dặm đường, thì
gặp bọn trộm cướp. Ông tài chủ đó, thấy phía trước có trộm cướp, biết làm
sao bây giờ? Chạy trốn chăng? Trốn chẳng thoát bọn chúng, nhưng nếu
không chạy trốn, thì chắc chắn sẽ bị cướp. Do đó, ông ta bèn niệm Chú Ðại
Bi, xe vẫn tiến đi về trước. Ði gần đến bọn cướp, thì đột nhiên nhìn thấy từ
trong bọn cướp, có một người đi đến trước xe của ông ta nói :’’Ông đưa cây
roi đánh ngựa cho tôi, để tôi thế ông chạy xe’’, ông ta cũng để cho người đó
đánh xe ngựa đi, đi qua khỏi bọn cướp mà bọn cướp giống như chẳng thấy
chẳng nghe gì cả, cho nên ông ta chẳng bị cướp bóc. Ðến lúc bọn cướp
chẳng nhìn thấy nữa, thì người đó trả lại cây roi đánh ngựa nói : ’’Bây giờ
ông hãy đi mau đi, chẳng có việc gì đâu!’’ Ông tài chủ nhìn thấy ông ta từ từ
trong bọn cướp đi đến, thì nghĩ chắc ông ta là trộm cướp bèn nói : ’’Ông bạn
! Hôm nay ông cứu tôi, khiến cho tôi chẳng bị trộm cướp, xin hỏi tên họ của
ông? Và ông ở đâu? Ðể tương lai tôi đến nhà ông mà bái tạ!’’ Người đó bèn
nói rằng : ’’Tên của tôi là A Thệ Dựng’’
Các bạn thường niệm Chú Ðại Bi, có phải trong Chú Ðại Bi có một vị hộ
pháp tên là ‘’A Thệ Dựng’’ chăng? Song, lúc ấy ông tài chủ nghĩ : ’’Ai gọi
là A Thệ Dựng? Là ai?’’ Lúc đó ông ta quên mất, quên A Thệ Dựng là một
câu Chú ở trong Chú Ðại Bi, tức cũng là một vị hộ pháp. Ðến khi A Thệ
Dựng đi rồi, nhìn chẳng thấy A Thệ Dựng nữa, ông ta mới nghĩ ra : ’’Ồ !
Ðây chẳng phải là một vị hộ pháp ở trong Chú Ðại Bi chăng?’’ Do đó, bèn
nghĩ muốn đi tìm A Thệ Dựng cũng tìm chẳng thấy, chẳng biết A Thệ Dựng
đã đi đâu? Do đó, đây là một cảnh giới không thể nghĩ bàn ở trong Chú Ðại
Bi. Nếu như ông tài chủ nghĩ : ’’Mình niệm Chú Ðại Bi xem thử có linh
nghiệm chăng?’’ Thì A Thệ Dựng cũng chẳng đến cứu ông ta. Chính vì
chẳng có tâm khảo nghiệm, chỉ một lòng tin tưởng : ’’Mình niệm Chú Ðại
Bi, thì có thể gặp hung hóa cát, gặp nạn biến thành tốt.’’ Quả nhiên được
toại tâm mãn nguyện, chẳng bị bọn cướp trộm cướp.
Bộ Kinh Pháp Hoa này gồm có bảy quyển, hai mươi tám phẩm, phẩm này là
phẩm thứ hai mươi lăm. Phẩm này hiển dương công đức thần thông diệu
dụng của Bồ Tát Quán Thế Âm, cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Ở trước có nói về ‘’Dược châu’’, bây giờ lại nói đến ‘’Nhân pháp’’ (người
và pháp). Nhân pháp là gì ? ‘’Nhân tức là Bồ Tát Quán Thế Âm, ‘’Pháp’’
tức là pháp môn thị hiện trong Phẩm Phổ Môn. Vị Bồ Tát Quán Thế Âm,
Ngài cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai cầu, cho nên nhân vật không thể nghĩ
bàn. Ngài lại nói pháp của phổ môn thị hiện, có cầu tất ứng, vô cảm bất
thông. ‘’Pháp’’ này là pháp không thể nghĩ bàn. Vì không thể nghĩ bàn, cho
nên gọi là diệu pháp. Vì ‘’người’’ này cũng không thể nghĩ bàn, cho nên
cũng gọi là diệu nhân. Tức nhiên là diệu nhân, diệu pháp, nên mới được tên
là ‘’Phổ môn’’. Vì nhân duyên ‘’nhân pháp’’ nên Bồ Tát Quán Thế Âm mới
nói ‘’Phẩm Phổ Môn’’ này.
Ý nghĩa thứ hai tức là ‘’từ bi’’. Vì ‘’từ bi’’, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm
nói ‘’Phẩm Phổ Môn’’ này. Từ là gì? Từ hay ban vui; ‘’bi’’ là gì ? Bi hay
cứu khổ. Bồ Tát Quán Thế Âm cứu chúng sinh bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ
độc, ứng chúng sinh hai thứ cầu. Bảy nạn này, ở trong kinh văn nói rất rõ
ràng tức là : Nạn nước, nạn lửa, nạn gió, nạn gông cùm, nạn gió đen (hắc
phong) .v..v... bảy thứ nạn.
Giải ba thứ độc tức là tham, sân, si ba độc. ứng hai cầu, tức là cầu con trai,
cầu con gái hai thứ cầu.
Chúng sinh đều có ba độc : Tham, sân, si. Nếu người nhiều tham, thường
niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi tham lam. Nếu người
nhiều sân hận, mà thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa
khỏi sân hận. Nếu người nhiều si mê, mà thường niệm cung kính Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi si mê. Tham mà nói ra thì nhiều, sân nói ra
cũng chẳng ít, còn si mê thì không nhiều mà cũng chẳng ít. Nói nó nhiều, thì
cũng chẳng nhiều, mà nói nó ít, cũng chẳng ít. Si mê là gì ? Nói đơn giản tức
là ngu si. Ngu si là gì ? Tức là chẳng có trí huệ, chẳng minh bạch, thấy lý lẽ
chẳng chân thật, cho nên gọi là ngu si. Gặp lý luận chẳng chánh quyết. Căn
cứ vào học thuyết của ông Vương Dương Minh ở Trung Quốc rằng : Người
ngu si, là vì họ chưa có thể ‘’Tri hành hợp nhất’’, nghĩa là chưa có thể ‘’hiểu
biết, thực hành mà làm một’’. Vương Dương Minh nói : Tại sao người đó
không đi làm ? Vì họ chẳng biết, nên họ không (đi) làm, nếu họ biết thì họ sẽ
làm. Vương Dương Minh nói, họ biết rồi mà không làm, thì đó vẫn chẳng
biết chân thật, nếu biết thật sự thì chắc chắn sẽ làm. Vương Dương Minh là
một học giả nổi tiếng của Trung Quốc, học thuyết của ông là :’’Tri hành hợp
nhất’’ : Nếu họ biết thật sự, thì chắc chắn họ sẽ thực hành; họ chẳng biết nên
nọ chẳng thực hành. Nghĩa là họ phải hiểu biết thật sự, thì họ chẳng làm việc
ngu si. Tại sao họ lại làm chuyện ngu si ? Vì họ chẳng hiểu biết. Cho nên, tôi
nói đây là thấy lý lẽ chẳng chân thật.
Thử đưa ra một ví dụ để nói, ví như người ngu si nói : ‘’Hoa đẹp thường
khiến cho tươi mãi mãi, trăng sáng ước gì đêm nào cũng tròn, nguồn nước
dưới đất đều hóa thành rượu, lá rừng đều biến thành tiền.’’ Người tham hoa
thì sinh tâm ngu si nói : ‘’Tôi muốn đóa hoa này, luôn luôn tươi mãi mãi
chẳng phai tàn, muốn đóa hoa đó nở mãi, tươi đẹp mãi.’’ Người nọ tham
trăng tròn, thì nói như vầy : ‘’Mặt trăng sao chẳng tròn mãi mãi ?’’ Tối hôm
qua mặt trăng tròn sáng, nếu đêm nào mặt trăng cũng tròn sáng, thì tốt biết
bao ! Ngày ngày ra ngoài ngắm trăng, ánh trăng chiếu sáng ngời, cũng chẳng
cần bậc đèn diện, lại chẳng tốn tiền, ánh sáng thiên nhiên tốt quá!’’ Ðó
chẳng phải là ngu si chăng ? Mặt trăng có tròn có khuyết, hoa có tươi có tàn,
khi hoa nở thì có hoa tàn, khi trăng tròn thì có trăng khuyết, đó là thiên đạo
tuần hoàn. Người thích uống rượu thì mua để uống, tốn tiền quá ! Nếu nước
các dòng sông đều biến thành rượu, khi nào mình muốn uống rượu, thì
xuống lấy uống, đó chẳng phải là sướng lắm ư !’’ Còn có người tham tiền
nghĩ rằng : ’’Bây giờ tôi phải đi làm kiếm tiền rất khổ cực, nếu như lá cây
đều biến thành tiền, khi nào muốn dùng tiền, thì mình bèn đến lấy chẳng
phải là tiện nghi sao ! Ðó là những việc không bao giờ có, đều là huyễn
tưởng ngu si. Còn có chuyện đơn giản hơn rằng, có người chẳng đi học,
thậm chí chẳng học qua tiểu học, mà anh ta muốn có bằng tiến sĩ. Bạn nói có
lý đó chăng ! Chẳng học tiểu học, thì làm sao có bằng tiến sĩ ! Còn có một
loại người, anh ta vốn chẳng làm ruộng, mà đến mùa thu hoạch thì muốn thu
hoạch mùa màng, đó đều là ngu si. Song, một số người đều phạm phải thứ
vọng tưởng mao bệnh, chẳng nhọc sức mà thu hoạch. Nếu có thứ mao bệnh
đó thì nên sửa đổi.
Bồ Tát Quán Thế Âm Ngài cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai sự mong cầu,
đó là đại bi, và còn lợi lạc cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ
được vui, đó là từ bi. Vì đại từ đại bi, cho nên mới nói Phẩm Phổ Môn Bồ
Tát Quán Thế Âm. Còn một ý nghĩa nữa đó là ‘’phước huệ’’. Phước, sở dĩ
Bồ Tát Quán Thế Âm hay tầm thanh cứu khổ, bất cứ là âm thanh thiện, âm
thanh ác, âm thanh khổ, âm thanh vui .v.v... Ngài đều phân biệt được, là vì
Ngài có trí huệ chân chánh. Trí huệ của Ngài có là từ đâu đến ? Là vì Ngài
bố thí khắp, dùng pháp này thí cho chúng sinh, nên Ngài có phước báu đó,
nên phước đức trang nghiêm. Bởi do phước huệ này, mà nói Phẩm Phổ Môn.
Lại còn có sự ‘’chân ứng’’. Chân là Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ diệu lực chân
thân của Ngài, để cứu độ bảy nạn, giải trừ ba độc, mãn nguyện chúng sinh
hai mong cầu, đó là nhờ diệu lực chân thân. Ngài còn hiện ba mươi hai ứng
hóa thân, đây gọi là ứng thân, dùng để giáo hóa chúng sinh, do đó mà có
‘’chân ứng’’ này.
Nói Phẩm Phổ Môn này còn có ‘’quyền thuật’’. Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ
sức pháp thân, mà ở trong sự yên lặng, tức là trong sự bí mật để lợi ích
chúng sinh, đây gọi là ‘’thật’’. Ngài còn dùng ba mươi hai ứng hóa thân, để
giáo hóa chúng sinh, đây là ‘’quyền’’. Quyền tức là quyền xảo phương tiện,
tức cũng là phương pháp dùng tạm thời, chẳng phải vĩnh viễn. Bởi Bồ Tát
Quán Thế Âm dùng quyền thật, cho nên mới nói Phẩm Phổ Môn này.
Còn có một nhân duyên nữa gọi là ‘’Bổn tích’’. Bổn là gì ? Bổn tức là căn
bổn; tích tức là tông tích. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một pháp thân, mà độ
khắp tất cả chúng sinh là ‘’bổn’’, Ngài dùng ứng hóa thân để giáo hóa cúng
sinh, tức là ‘’tích’’. Pháp thân của Ngài như mặt trăng, tích cũng giống như
‘’mặt trăng chiếu ngàn con sông’’. Do đó, có câu : ’’Ngàn con sông có nước,
đều có bóng của mặt trăng chiếu xuống.’’ Một mặt trăng chiếu xuống mọi
con sông, mà mặt trăng ở trong mọi con sông, đều từ bổn thân của một mặt
trăng hiện ra. Mặt trăng ở trong nước tức là ‘’tích’’. Mặt trăng ở trên trời tức
là ‘’Bổn’’. Ðó là nhân duyên ‘’bổn tích’’ nên nói Phẩm Phổ Môn.
Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một pháp thân, để hiện khắp vào trong tâm của
tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh sửa lỗi lầm làm mới lại, cải ác
hướng thiện, lìa khổ được vui, cứu kính thành Phật. Giảng đến đây, có người
nói : ‘’Sở dĩ tôi không sửa lỗi lầm làm mới lại, nguyên lai là Bồ Tát Quán
Thế Âm chẳng hiện vào trong tâm của tôi, cho nên tôi có lỗi lầm gì, cũng
chẳng muốn sửa đổi.’’ Người hút thuốc thì nghĩ : ‘’Ðại khái Bồ Tát Quán
Thế Âm chẳng gia bị cho tôi, chẳng giúp đỡ tôi.’’ Người thích uống rượu thì
nói : ‘’Tôi muốn học Phật pháp, đáng tiếc tôi chẳng giữ được giới rượu, đó
là lỗi của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng giúp đỡ tôi.’’ Do đó, họ bèn sinh ta
tâm cừu oán nói :’’Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng công bằng, tại sao Ngài giúp
đỡ người khác mà chẳng giúp đỡ tôi ?’’ Ðó thật là ngu si, lại thêm ngu si, đó
là hai ngu si nặng nề. Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng gia bị cho bạn ?
Là vì bạn chẳng nghe Bồ Tát Quán Thế Âm giáo hóa. Khi Bạn nghe danh
hiệu ‘’Bồ Tát Quán Thế Âm’’ thì nên sửa đổi lỗi lầm làm mới lại, nên thanh
tịnh phiền não, ‘’Ngộ dĩ vãng chi bất gián’’, biết việc quá khứ thì đã là quá
khứ. ‘’Tri lai giả chi khả truy’’, tương lai nên đi trên con đường thiện. Song,
bạn hiểu biết mà cố phạm, đó là tội lại thêm tội. Cho nên trách Bồ Tát Quán
Thế Âm chẳng gia bị cho bạn, đó là sai lầm. Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn
đều gia bị cho bạn, nhưng đáng tiếc bạn đã đóng cửa trong tâm của bạn,
chẳng để cho Bồ Tát Quán Thế Âm vào, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ biết than
thở : ’’Ôi ! Chúng sinh này thật là đáng thương xót !’’ Do đó, bạn đừng
trách Bồ Tát Quán Thế Âm, mà nên trách bạn mới đúng.
Ở trên là nói về ‘’Bổn tích’’. Còn có một nhân duyên nữa, tức là ‘’Duyên
liễu’’. ‘’Duyên’’ tức là duyên nhân, ‘’liễu’’ tức là ‘’liễu nhân’’. Liễu nhân là
gì ? Tức là đoạn cái nhân đó đi, cũng có thể nói là thấu rõ nhân của nhân
quả. Chúng ta bây giờ đến nghe kinh nghe pháp, có người đến từ Hoa Thịnh
Ðốn, có người đến từ Tây Nhạ Ðồ (Seatle), có những người bác sĩ, thạc sĩ,
cũng đến nghe Phật pháp. Tại sao những người đó từ xa xôi lại đến đây để
ngồi thiền, nghiên cứu tu học Phật pháp ? Là vì muốn chấm dứt (liễu) cái
nhân này. Nghe kinh tức là hạt giống chấm dứt nhân (liễu nhân). Bạn có
nhân duyên nghe kinh, đó là ‘’duyên’’ nhân. Vì nhân duyên ‘’duyên liễu’’,
cho nên nói Phẩm Phổ Môn.
Còn có một nhân duyên ‘’Trí đoạn’’ nữa. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng trí huệ
của Ngài, trí đức trang nghiêm để giáo hoá chúng sinh, là bậc trí huệ trang
nghiêm. ‘’Trí’’ huệ gọi là đoạn đức, tức là đức hạnh của ‘’trí’’. ‘’Ðoạn’’ là
đoạn đức, tức là đoạn trừ tất cả vô minh. Ðoạn đức ở đây, lại có thể gọi là
phước đức, vì Ngài đoạn sạch vô minh, cho nên có phước đức trang nghiêm
chân chánh, giống tựa như Phật, phước cũng đủ, huệ cũng đủ. Bồ Tát Quán
Thế Âm tuy nhiên là Bồ Tát, nhưng Ngài có phước đức trang nghiêm, cũng
có huệ đức trang nghiêm, cho nên ‘’trí huệ’’ cũng gọi là phước huệ.
Tổng cộng ở trên lại, thì có mười thứ nhân duyên, cho nên nói Phẩm Phổ
Môn này.
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý bèn từ tòa ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên phải,
chắp tay hướng về đức Phật, mà bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát
Quán Thế Âm, do nhân duyên gì, mà được tên là Quán Thế Âm ?
‘’Bấy giờ’’ : Tức là vào lúc đó, lúc đó là lúc nào ? Tức là lúc Bồ Tát Vô Tận
Ý ở trong pháp hội, hỏi nhân duyên tên của Bồ Tát Quán Thế Âm; tức cũng
là lúc nói xong Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Diệu Âm, bây giờ là lúc nói Phẩm
Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm. Có một vị Bồ Tát Vô Tận Ý. Vô Tận Ý là
gì ? Tóm lại có ba ý nghĩ:
Thứ nhất là : ‘’Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu’’. Thế giới thì vô lượng
vô biên, chúng ta đừng cho rằng thế giới tức mắt chúng ta thấy được, tai
nghe được, đó tức là một thứ biên giới. Chẳng phải, thế giới ở đây nhiều vô
lượng vô biên, có thế giới này, có thế giới kia, vô lượng các thế giới; nước
này, nước kia, vô lượng các nước, vô cùng vô tận, cho nên gọi là ‘’Thế giới
biên trần nhiễu nhiễu’’. Nhiễu nhiễu là gì ? Nhiễu tức là nhiễu loạn; nghĩa là
bất định; bất định tức là động. Trần tức là chẳng thanh tịnh. Trên thế giới có
rất nhiều vi trần (hạt bụi), hãy nhìn vào ánh sáng mặt trời chiếu, thì sẽ thấy
vô số hạt bụi, chuyển động lên xuống ở trong hư không. Những hạt bụi này
từ đâu đến ? Nhiều hạt bụi trên thế giới từ đâu đến. Truy cứu nguồn gốc
những hạt bụi này, rất là quan trọng, những hạt bụi đó từ trong tâm của
chúng sinh sinh ra. Tại sao ? Vì trong tâm chúng sinh vọng tưởng quá nhiều.
Vọng tưởng giống như hạt bụi, nhiễu nhiễu chẳng yên, luôn luôn biến động.
Hãy nhìn xem, chúng ta quan sát vọng tưởng nhiều vô kể chẳng biết là bao
nhiêu, có đếm cũng chẳng biết số lượng. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói :
‘’Trong một niệm có chín mươi sát na’’. Sát na là một đoạn thời gian rất
ngắn, mà một sát na có chín trăm lần sinh diệt, cho nên ‘’Thế giới vô biên
trần nhiễu nhiễu’’.
Thế giới này có như thế nào ? Là vì chúng ta chúng sinh y chân khởi vọng,
một niệm vọng tưởng, thì biến thành có sông núi đất đai, nhà cửa phòng ốc,
tất cả thế giới thành lập liên tục, đây cũng gọi là ‘’thế giới vô biên trần liễu
liễu.’’
 Thứ hai là :’’Chúng sinh vô tận nghiệp mang mang’’. Thế giới thì vô
biên, là vì có thế giới, cho nên cũng sinh ra chúng sinh. Chúng sinh là chúng
duyên hòa hợp mà sinh, có rất nhiều thứ nhân duyên hòa hợp mà sinh. Ðại
khái có bốn loài :
 Loài sinh bằng thai.
 Bằng trứng.
 Bằng ẩm thấp.
 Bằng hóa sinh.
Sao lại có thai sinh ? Thai do tình mà có. Thai sinh là do có thứ ái tình, nên
mới có sinh mạng mới. Trứng do tưởng mà sinh. Thấp sinh là nhờ ẩm thấp
mà sinh, nơi đó có sự ẩm thấp thì sẽ sinh ra. Hóa sinh tức biến hóa mà sinh
ra, là tự nhiên có thể biến hóa mà sinh ra, chẳng nương duyên của cha mẹ
mà sinh ra. Nếu nói tỉ mỉ thì có mười hai nhân loài, còn tám loài kia là :
 Loài có sắc.
 Không sắc
 Có tưởng.
 Không tưởng.
 Chẳng có sắc.
 Chẳng phải không có sắc.
 Chẳng có tưởng.
 Chẳng phải không có tưởng.
Có nhiều loài chúng sinh như thế, đáo để là từ đâu ra ? Chúng sinh là từ Phật
tánh mà ra, cho nên mới nói : ’’Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có
thể thành Phật’’. Tuy hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành
Phật, nhưng chẳng phải nói chúng sinh là Phật, chẳng phải nói chẳng tu thì
thành Phật. Nhất định phải dụng công tu hành, tham thiền, học Phật pháp,
như thế thì mới có thể trở về cội nguồn mà thành Phật. Chẳng phải nói
chúng sinh bây giờ là Phật, chẳng cần dụng công tu hành, đó là thứ tà tri tà
kiến ! Mà phải tu hành, học Phật pháp, y giáo phụng hành, mới có thể thành
Phật. Cho nên mới nói chúng sinh là từ Phật tánh sinh ra.
Thứ ba là :’’Ái hà vô để lãng thao thao’’. ‘’Ái hà’’ là chỉ ái tình giữa nam
nữ, chẳng riêng gì nói về ái của con người, mà các loài khác như súc sinh,
cũng chấp mê chẳng ngộ, chấp trước về ái này, nhất là súc sinh càng chẳng
rõ lý, cho nên tâm dâm dục của chúng rất nặng, chúng luôn lúc nào cũng
nghĩ về dâm dục. Nếu thanh tâm quả dục, tự tịnh kỳ ý, cắt ái đoạn dục, thì
cách Phật đạo chẳng xa.
‘’Ái hà’’ (biển ái dục) chẳng có đáy, càng hãm vào thì càng sâu, càng sâu thì
càng đi xuống, chẳng có ‘’đáy’’. ‘’Lãng mang mang’’, thứ sóng này triền
miên không ngừng, giống như sóng nước. Tại sao trong biển lại có sóng ? Là
vì trong tâm chúng sinh có sóng. Trong tâm chúng sinh có sóng, là vì biển ái
có sóng. ‘’Ái’’ này, bạn muốn xé ra cũng xé chẳng đứt, dùng đao bén muốn
chặt đứt ái tình cũng chẳng dễ. Song nếu bạn thật sự có trí huệ, thì đối với đề
này giải quyết chẳng có gì khó, do đó có câu :
’’Kiếm trí huệ chặt đứt tơ tình’’.
Người chẳng có trí huệ, thì bị lún ở trong biển ái, càng lún càng sâu, lún đến
đâu ? Vốn chẳng có đáy. Càng lún càng sâu, càng sâu càng lún, đi xuống
chẳng khi nào chấm dứt, do đó gọi là Vô Tận Ý.
Bởi ba ý nghĩa đó, cho nên Bồ Tát Vô Tận Ý muốn biến vô lượng thế giới
này, thành thế giới Cực Lạc. Muốn giáo hóa vô tận chúng sinh đều thành
Phật, và lấp bằng biển ái không đáy. Do đó, Bồ Tát Vô Tận Ý có tên là Vô
Tận Ý.
Bồ Tát gọi tắc, nếu nói đầy đủ là ‘’Bồ đề tát đỏa’’, là tiếng Phạn, dịch ra là
giác hữu tình, tức cũng là dùng đạo lý giác ngộ, đi giác ngộ tất cả hữu tình,
dùng đạo lý tự giác đó, đi giác ngộ tất cả chúng sinh. Tức là mình giác ngộ
rồi, cũng muốn tìm cách đi giáo hóa kẻ khác cho được giác ngộ, đây gọi là
tự giác giác tha. Bồ Tát từ đâu đến ? Bồ Tát là từ chúng sinh đến. Bồ Tát
vốn cũng là chúng sinh, cũng giống như bạn tôi và họ, hết thảy chúng sinh,
chẳng có gì khác biệt. Bất quá Ngài là một bậc giác ngộ ở trong chúng sinh,
là một bậc giác ngộ ở trong hữu tình. Chúng ta chúng sinh là kẻ mê muội ở
trong chúng sinh, vẫn chưa giác ngộ. Nếu hôm nay bạn giác ngộ, thì hôm
nay là Bồ Tát; nếu ngày mai bạn giác ngộ, thì ngày mai bạn là Bồ Tát. Giác
ngộ cái gì ? Giác ngộ vô minh. Nếu bạn biết nơi đến của vô minh, phá được
vô minh, thì đó là ‘’giác’’. Phá được vô minh rồi, thì pháp tánh cũng tự
nhiên hiện tiền, biển ái cũng sẽ khô cạn, biển ái khô cạn rồi, thì trí huệ sẽ
hiện tiền, đó là giác ngộ. Bồ Tát là giác ngộ hữu tình, cũng là hữu tình giác
ngộ. Bồ Tát còn gọi là chúng sinh ‘’đại đạo tâm’’, đạo tâm của Ngài rất lớn,
còn gọi là ‘’Khai sĩ’’, Ngài khai mở ngu si cho chúng sinh, để hiển hiện Phật
tánh vốn có, đó gọi là Bồ Tát.
‘’Bèn từ tòa ngồi đứng dậy’’ : Ở hội trong hội Pháp Hoa, khi Bồ Tát Vô Tận
Ý nghe Ðức Phật giảng xong Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương rồi, thì
Ngài bèn từ toà ngồi đứng dậy. Tại sao phải đứng dậy ? Bất cứ ở trong đại
hội nào, khi bạn muốn nói thì phải đứng lên, không thể ngồi ở đó dơ tay lên
để hỏi, như thế thì quá tùy tiện. Lúc đó, Bồ Tát Vô Tận Ý muốn nói, chẳng
những Ngài đứng dậy mà cón ‘’hở y bày vai bên phải’’. Tại sao phải để vai
bên phải lộ ra ? Vì biểu thị cung kính, đó là biểu thị thân nghiệp cung kính.
‘’Chắp tay hướng về Ðức Phật’’ : Sau đó Bồ Tát Vô Tận Ý chắp tay lại.
‘’Mà bạch Phật rằng’’. Ðối với Phật mà nói.
Từ ‘’Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý bèn từ tòa ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên
phải, chắp tay hướng về Ðức Phật bạch rằng’’. Ðoạn này là Ngài A Nan biên
khi kết tập kinh điển. Dùng để miêu tả nhân duyên của pháp hội. Bắt đầu từ
‘’Ðức Thế Tôn’’ là lời nói của Bồ Tát Vô Tận Ý.
Bồ Tát Vô Tận Ý gọi một tiếng :’’Ðức Thế Tôn!’’ Thế Tôn là bậc tôn kính
của thế gian và xuất thế gian, thế gian và xuất thế gian, đều tôn kính Ngài
nhất.
‘’Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì, mà được tên là Quán Thế Âm’’?
Bồ Tát Vô Tận Ý gọi một tiếng Ðức Thế Tôn, rồi bèn nói : ’’Bồ Tát Quán
Thế Âm có sức thần thông lớn như thế, từ bi nguyện lực của Ngài lớn như
thế, Ngài có thể cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba độc, ứng hai thứ cầu, mười bốn
vô uý (chẳng sợ hãi), mười chín thuyết pháp, ba mươi hai ứng thân, bởi nhân
duyên gì, mà gọi là ‘’Bồ Tát Quán Thế Âm ?’’ Bởi nhân duyên gì, tức cũng
là hỏi Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong quá khứ tu pháp môn gì, mà được tên là
‘’Quán Thế Âm’’? Ðó là Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý : Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm ngàn
vạn ức chúng sinh, chịu các khổ não, mà nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm, một lòng niệm danh hiệu của Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm, lập
tức quán xem tiếng kêu kia, khiến cho họ đều được giải thoát.
‘’Ðức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý’’: Câu này tôn giả A Nan y chiếu theo văn
pháp, mà ghi vào khi kết tạp kinh điển.
‘’Thiện nam tử’’ : Là Ðức Phật gọi Bồ Tát Vô Tận Ý nói : ‘’Thiện nam tử !
Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh’’. ‘’Nếu có’’ là từ giả thiết,
tức là sẽ có mà chưa có, hiện tại thì chưa có, nhưng tương lai sẽ có. Những
chúng sinh đó bao quát : Thai, noãn, thấp, hóa, có sắc, không sắc, có tưởng,
không tưởng, chẳng có sắc, chẳng không sắc, chẳng có tưởng, chẳng không
tưởng, mười hai loài chúng sinh, đều bao quát ở trong đó. ‘’Chịu các khổ
não’’ : ‘’Chịu’’ là gặp, gánh lấy. ‘’Các’’ là số nhiều. ‘’Khổ não’’ là sự thống
khổ, có bao nhiêu ?
Ðại khái có bốn thứ :
1). Một người thọ một thứ khổ.
2). Một người thọ nhiều thứ khổ.
3). Nhiều người thọ một thứ khổ.
4). Nhiều người thọ nhiều thứ khổ.
Một người thọ một thứ khổ như câm ngọng, chính người đó có khổ sở người
đó biết, cũng không thể nói với họ, do đó có câu : ‘’Câm ngọng ăn huỳnh
liên’’ (người câm khổ sở như ăn quả đắng huỳnh liên).
Một người thọ nhiều thứ khổ, ví như người nọ, bất cứ đi đến đâu cũng gặp
khổ não, chẳng phải thiên tai thì là nhân họa, chẳng phải trộm cướp thì là
nạn lửa. Hết thảy khổ não trên thế gian anh ta đều nếm hết. Một người mà
nếm hết các thứ khổ, đây gọi là một người thọ nhiều thứ khổ.
Nhiều người chịu một thứ khổ, ví như chiến tranh hiện tại ở Việt Nam, khi
tác chiến thì mưa bom đạn lạc, sinh linh lầm than, chết chẳng biết bao nhiêu
người, thật là bi ai. Nhiều người ở trong một nước này, cùng chịu một thứ
khổ, thứ khổ não này gọi là nhiều người thọ một thứ khổ. Còn một thứ nữa,
như bệnh ôn dịch lưu hành, rất nhiều người đều chịu thứ bịnh truyền nhiễm
đó, bệnh như chết sống lại, thứ khổ não đó tuy chưa đến chết, nhưng bệnh tật
rất thống khổ, đó cũng là nhiều người chịu một thứ khổ, còn có rất nhiều khổ
não khác nữa, nói cũng nói chẳng hết. Thế giới này là thế giới khổ não.
Chúng sinh cũng nhiều, khổ não cũng nhiều, cứu kính có bao nhiêu thứ khổ
não ? Căn bản chẳng có số lượng để tính. Tổng quát lại thì có tám vạn bốn
ngàn thứ khổ.
Vậy khi chịu các thứ khổ não thì làm thế nào ? Ai cũng đều có khổ não. Khi
chúng ta chịu khổ não, thì chúng ta đừng quên Bồ Tát Quán Thế Âm.
‘’Nghe danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm’’. ‘’Nghe’’: Là mình vốn chẳng
biết, giống như người Mỹ, cứu kính có bao nhiêu người nghe được danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm ? Tôi tin rằng, toàn nước Mỹ nghe được Quán
Thế Âm Bồ Tát dù một phần trăm cũng chẳng có ! Bạn hãy nghĩ xem, nhiều
người như thế chẳng nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, mà bạn
bây giờ nghe được, nghe cũng tức là minh bạch, biết Bồ Tát Quán Thế Âm
nhĩ căn viên thông, có ba mươi hai ứng thân, thần thông tự tại, đó là ‘’Nghe
Bồ Tát Quán Thế Âm’’.
‘’Một lòng niệm danh hiệu của Ngài’’: Quan trọng nhất là ‘’một lòng’’,
đừng có hai lòng, cũng đừng có ba lòng, càng đừng có bốn lòng, nếu tâm
của bạn càng nhiều, thì tựa như bạn chẳng làm công đức. Nếu tâm mà nhiều
quá thì chẳng tốt. Tại sao ? Vì nhiều tâm thì phân tán, mà phân tán thì chẳng
chuyên nhất, chẳng chuyên nhất thì chẳng linh, chẳng có công hiệu. Nếu bạn
‘’hai lòng niệm danh hiệu’’ thì cũng chẳng linh, ‘’ba lòng xưng danh’’ thì
càng chẳng ích gì.
‘’Bồ Tát Quán Thế Âm’’ : Quán, tức là quán xem. Thế tức là thế gian. Âm là
âm thanh. Bồ Tát quán xem tất cả âm thanh của thế gian. ‘’Lập tức Quán
Âm thanh kia’’ : Lập tức quán sát âm thanh của chúng sinh đó. ‘’Ðều được
giải thoát’’ : Hết thảy tất cả khổ não đều được giải thoát. Giải thoát tức là
khổ não chẳng còn nữa, khổ não chẳng còn nữa thì được an vui. Giải thoát ở
đây tức cũng là đắc được tự tại thật sự, vô câu vô thúc, vô quái vô ngại.
Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa lớn, lửa
chẳng cháy được, do nhờ sức oai thần của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn
trôi, mà xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì liền được vào chỗ cạn.
Ðoạn văn này nói về Bồ Tát Quán Thế Âm cứu nạn lửa và nạn nước hai nạn
trong bảy nạn. ‘’Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm’’ : Trì tức
là niệm. Nếu có, là hiện tại chẳng có, tương lai sẽ có. Nếu như có người trì
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Trì là nghĩ nhớ luôn luôn, tức cũng là tâm
niệm đều chấp trì : ‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát’’. Bất cứ người nào
muốn giải trừ thống khổ bảy nạn, thì trước hết phải luôn luôn cung kính
xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
‘’Dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được’’ : Ðây là nói lúc bình thường
bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, chứ chẳng phải nói đến lúc bị khốn ở trong
lửa lớn, thì mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Chẳng phải nói hôm nay mình
có tai nạn, thì hôm nay mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là :
‘’Khi bình an thì chẳng thắp hương,
Ðến lúc lâm chung thì ôm chân Phật’’.
Lúc nhàn thì một cây hương cũng chẳng đốt, đến lúc sắp chết, thì đến ôm
chân Phật cầu cứu. Lúc đó, tuy bạn đến ôm chân Phật, nhưng Phật cũng
chẳng lý tới bạn. Tại sao ? Vì lúc bình thường bạn chẳng tu hành, đợi khi có
nạn thì đến cầu Phật, đó gọi là vừa đốt hương vừa niệm Phật. Song, còn có
hạng người lúc bình thường họ cũng chẳng đốt hương, cũng chẳng niệm
Phật. Nhưng khi họ có tai nạn, thì Bồ Tát cũng đến cứu họ, cũng khiến cho
họ lìa khổ được vui. Ðây là đạo lý gì ? Bạn nên biết, mỗi người chúng ta đều
có tiền nhân hậu quả, có thể kiếp trước họ đã từng dũng mãnh tinh tấn tu
đạo, siêng năng dụng công niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Thậm chí họ đã từng
tạo đủ thứ công đức, cho nên đời này tuy họ chẳng niệm, là vì họ kiếp trước
đã niệm rồi, đã từng trồng xuống căn lành đó, cho nên đời này họ chẳng
niệm, mà Bồ Tát Quán Thế Âm cũng đến cứu họ, đó là vì sự quan hệ nhân
xa. Nhân, có nhân xa, cũng có nhân gần. Nhân xa là nhân trồng kiếp trước;
nhân gần là nhân trồng đời này.
Hoặc có người nói : ‘’Kiếp trước tôi đã trồng nhân xuống rồi, nên bây giờ
tôi chẳng cần niệm, tương lai tôi có nạn thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng sẽ
đến cứu tôi.’’ Song chẳng bảo đảm, dù bạn hướng về tôi mua bảo hiểm, tôi
cũng chẳng bán. Nếu bạn ngay đời này bắt đầu thành tâm thành ý niệm, thì
tôi có thể làm chứng cho bạn, chắc chắn sẽ được cảm ứng, tương lai bạn có
tai nạn gì, thì Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ đến cứu bạn. Vì bạn chẳng
phải vừa đốt hương vừa niệm Phật, thì tuyệt đối có cảm ứng.
Trước kia có người nọ, một lòng muốn đến Nam Hải núi Phổ Ðà lạy Bồ Tát
Quán Thế Âm. Ðến ngày anh ta quyết định đến núi Phổ Ðà, để lạy Bồ Tát
Quán Thế Âm, vừa mới lên thuyền, thì nhà kế bên cạnh bỗng bị lửa cháy.
Người nhà của anh ta chạy đến báo cáo với anh ta : ‘’Chẳng may rồi ! Anh
phải trở về nhà gấp, đừng đi đến núi Phổ Ðà, nhà bên cạnh đã bị lửa cháy,
anh phải về nhà lo liệu.’’
- Anh ta nói : ‘’Tôi vì muốn lễ lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, nên đã ăn chay ba
năm rồi, bây giờ tôi cũng lên thuyền đi. Nếu nhà bị lửa cháy, thì tôi có
xuống thuyền nó cũng vẫn cháy. Nếu không cháy, thì Bồ Tát Quán Thế Âm
đã bảo hộ tôi, dù tôi không trở về, nó cũng không cháy. Tôi thành tâm như
thế, thì dù nhà có bị lửa cháy, tôi cũng phải đến lễ lạy Bồ Tát Quán Thế
Âm!’’ Anh ta quyết định một lòng đến lễ lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, sau khi
lễ lạy xong trở về nhà, thấy những nhà bên cạnh phải trái đều bị cháy sạch,
mà một mình nhà của anh ta chẳng bị lửa cháy. Do đó, một số người bèn hỏi
anh ta : ‘’Sao những nhà bên cạnh nhà anh đều cháy sạch, mà nhà của anh
chẳng bị lửa cháy.’’ Anh ta nói : ‘’Vì lần này tôi thành tâm lễ lạy Bồ Tát
Quán Thế Âm nhất, khi tôi đi thì gì cũng chẳng màng đến, nó phải cháy thì
để nó cháy, cái gì tôi cũng buông xả hết. Ðó là Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ
cho tôi, nên khiến cho nhà của tôi chẳng bị lửa cháy.’’ Ðó là : ‘’Bằng chứng
thật dù vào trong lửa lớn, lửa không cháy được.’’
‘’Do nhờ sức oai thần của Bồ Tát’’ : Tại sao lửa chẳng cháy được ? Vì Bồ
Tát Quán Thế Âm có sức oai thần, cho nên lửa không cháy được.
‘’Nếu bị nước lớn cuốn trôi’’ : Nếu lúc bình thường bạn cũng niệm danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trong sự vô ý, chẳng phải cố ý muốn thử Bồ
Tát Quán Thế Âm, đi nhảy xuống biển coi thử có linh nghiệm, không chết
chìm chăng ? Nếu bạn còn có tâm thử nghiệm, thì chẳng phải là tin chân
thật, thì tuyệt đối chẳng linh, bạn đi nhảy xuống biển tơ hào chẳng nghi vấn
là muốn ngập chìm chết. Tại sao ? Vì bạn còn tâm thử nghiệm Bồ Tát. Bồ
Tát Quán Thế Âm chẳng phải là học sinh, còn bạn cũng chẳng phải là thầy
giáo, thì tại sao bạn phải thử Bồ Tát Quán Thế Âm ? Vì bạn chẳng tin Bồ
Tát Quán Thế Âm có đại thần thông như thế, cho nên mới muốn thử nghiệm.
Bạn thử nghiệm thì chẳng quan trọng, song sinh mạng của bạn phải hy sinh,
đừng đem mạng sống ra làm trò đùa. ‘’Xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì
liền được vào chỗ cạn’’: Bạn xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm,
trong sự bất tri bất giác, thì sẽ được vào chỗ cạn. Trong biển cả chẳng biết
làm thế nào được vào bờ, đó đều là thần lực của Bồ Tát Quán Thế Âm, cho
nên mới có cảm ứng như thế.
Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì đi tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ,
mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ châu báu, vào trong biển lớn.
Giả sử, có gió đen thổi thuyền của họ, trôi dạt vào nước quỷ La sát. Trong
đó, dù chỉ có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì hết
thảy những người kia, đều được thoát khỏi nạn quỷ La sát, bởi nhân duyên
đó, mà có tên là Quán Thế Âm.
Ðoạn văn này nói về quỷ La sát trong bảy nạn, cũng có thể nói là nạn gió
đen. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì muốn tìm cầu vàng, bạc, lưu ly,
xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu bảy báu. Người thế gian đi tìm
cầu khắp nơi, bạn tranh giành, cho rằng đó là quý báu, kỳ thật đều là vật
ngoài thân. Bạn chẳng minh bạch châu báu chân thật của tự tánh, mà tham
trước châu báu bên ngoài, dù đắc được cũng chẳng có đại tác dụng gì, đối
với trong tự tánh của bạn. Song, một số người đều muốn tìm cầu ‘’vàng’’.
Mỗi quốc gia đều hoan hỉ vàng, cho nên người dân cũng cho rằng đó là một
vật quý báu ít có, nên ngày đêm nghĩ phương pháp để tìm cầu. Cho đến đất
nước xảy ra giao tranh cũng vì vàng. Tại sao con người lại cho rằng vàng
quý trọng như thế ? Là vì nó rất hiếm hoi, vì ít cho nên trân quý. Nếu vàng
mà nhiều như đất, thì con người coi nó cũng chẳng có giá trị gì. Do đó :
‘’Vật hiếm hoi thì quý.’’ Vì ít cho nên ai ai cũng đều hoan hỉ, thậm chí nằm
mộng cũng mộng thấy vàng, có người đến phi châu tìm vàng, có người đến
nước Mỹ để tìm vàng. Trước kia, nghe nói ở Cựu Kim Sơn rất là nhiều vàng,
cho nên chạy đến nước Mỹ, nhất là người Hoa đến nước Mỹ chuyên môn
tìm vàng. Khi vàng ở nước Mỹ khai quật rồi, thì chạy về Á Châu. Nước Mỹ
có Cựu Kim Sơn, còn Á Châu thì có Tân Kim Sơn, rất nhiều người chuyên
môn tìm vàng. Vì người đến Mỹ để tìm vàng, nên bị chết ở trong biển cũng
chẳng biết bao nhiêu người, có thể chết rất nhiều, vì trước kia giao thông
chẳng phương tiện như bây giờ, tin tức cũng chẳng linh thông cho lắm, cho
nên chết rất nhiều người cũng chẳng biết, đó đều là gặp phải nạn gió đen.
Vàng là vật quý báu nhất, bạc là vật quý báu thứ hai. Ngoài ra còn lưu ly,
người Trung Quốc gọi lưu ly là ‘’thanh sắc bảo’’, vật quý màu xanh. Xa cừ
là một loại đá quý, mã não là một loại đá ngọc, thứ đá này giống như não
ngựa, bên trong có đường gân đỏ như huyết, nên gọi là mã não. San hô là
cây san hô, có loại cao hơn ba thước, tôi đã thấy qua loại cao hơn một thước.
San hô là do một loại trùng trong biển biến thành, đó cũng là một thứ hóa
thạch, do trùng biến thành thực vật, giống như cây, chất liệu của nó giống
như đá ngọc, nên rất quý giá.
Ở Trung Quốc có một nhà giàu có, gọi là Thạch Sùng, rất thích so sánh sự
giàu có với người khác. Một ngày nọ, ông ta đến nhà của hoàng thân để phó
yến, nhà này là bà con của hoàng đế. Ðương thời hoàng đế tặng cho một cây
san hô, cao khoảng hơn hai thước. Vì là vật của hoàng đế tặng nên đặc biệt
quý giá. Hoàng thân mời Thạch Sùng đến nhà dùng cơm rồi, bèn đem cây
san hô ra cho thạch Sùng ngắm, ai biết Thạch Sùng dùng tay cầm lên rồi
ném xuống đất vỡ nát. Khiến cho hoàng thân buồn rầu vô cùng mới nói :
‘’Ðó là vật hoàng đế tặng cho tôi, sao anh lại đập vỡ nó, bây giờ tiền bạc đâu
có giá trị gì.’’ Thạch Sùng nói : ’’Anh đừng có buồn, tôi sẽ tặng anh một cây
san hô, ngày mai mời anh đến nhà tôi tùy ý anh lựa, muốn lấy cây nào thì
lấy.’’
Ngày kế tiếp hoàng thân đến nhà Thạch Sùng tham quan, thì ngay phòng
khách chưng đầy cây san hô cao hơn ba thước, hoàng thân thấy tâm bèn nghĩ
: ‘’Ta tuy là hoàng thân, mà chẳng giàu bằng anh Thạch Sùng.’’ Do đó, bèn
lựa một cây san hô rồi từ giã ra về. Kết quả Thạch Sùng cũng vì giàu có mà
bị đấu tranh đến chết. Do đó :
‘’Người vì tài mà chết.
Chim vì ăn mà bỏ mạng’’.
Chúng sinh là điên đảo như thế. Tại sao mà chết ? là vì ‘’ tiền tài’’. Hổ
phách là một thứ khoáng vật trong suốt màu vàng, do mỡ của cây hệ tùng
biến thành. Trân châu là một loại vật chất hình tròn ở trong ngọc trai, trong
suốt óng ánh rất đẹp, gọi là trân châu.
‘’Vào trong biển lớn’’ : Con người vì muốn tìm cầu những báu vật đó, bèn
vào trong biển tìm những châu báu. Ở trong biển nhiều châu báu nhất, nên
vào trong biển mà tìm cầu. ‘’Giả sử có gió đen’’ : Gió đen là gì ? Tức là gió
màu đen, song thứ gió màu đen này, mỗi người cũng đều có. Gì gọi là ‘’gió
màu đen’’? Tức là khi bạn nổi giận, thì sắc mặt của bạn phát đen. Vì con
người nổi giận nên có gió đen, nếu không nổi giận thì chẳng có gió đen.
‘’Biển’’ là gì ? Tức là ‘’biển tánh’’ của chúng ta, biển tánh của tự tánh. ‘’Gió
đen’’ dụ cho vô minh của chúng sinh, ‘’vô minh’’ còn gọi là ‘’phiền não’’.
Nếu bạn sinh phiền não tức là có gió đen. Nếu chẳng có phiền não, thì trong
‘’biển tự tánh’’ của bạn gió yên sóng lặng. Làm thế nào mới tìm cầu được
châu báu ? Là đi vào trong tự tánh phát quật chân báu tự tánh. Khi bạn muốn
phát quật châu báu tự tánh, thì lúc đó sẽ gặp chướng ngại. Vì sao có chướng
ngại ? Là vì đức hạnh của mình chẳng đủ, đức tính chẳng đủ, đạo đức chẳng
đủ, công đức chẳng đủ. Vì chẳng làm công đức, nên đức hạnh cũng chẳng
viên mãn. Ðức hạnh chẳng viên mãn, cho nên mới có gió đen, mới có ma
chướng. Nếu đức của bạn lớn, thì gió đen sẽ biến hóa thành mây cát tường.
Do đó có câu rằng :
‘’Ðạo cao long hổ phục,
Ðức trọng quỷ thần khâm’’.
Nếu người đạo hạnh cao, thì dù rồng thấy bạn cũng khoanh lại. Rồng vốn rất
là lợi hại, nó có thể dời núi lấp biển, nếu rồng dụng thần thông thì núi cũng
sẽ dời đi, biển cũng dời đi, do đó thế lực của rồng rất là lợi hại. Song, nếu
bạn có đạo thì tuy rồng có thần thông quảng đại, cũng chẳng dám thị uy ở
trước mặt bạn, mà lão lão thật thật khoanh lại. Cọp tuy hung dữ nhất, song
nếu bạn thật sự chẳng có nóng giận, thì cọp thấy bạn sẽ thuần phục bạn, cuối
đầu vẫy đuôi, tỏ vẻ hoan nghênh, chẳng làm dữ cắn bạn. Song, bạn phải có
đức hạnh thì mới có cảnh giới này. Nếu chẳng có đạo đức, thì rồng cũng
chẳng khoanh, cọp cũng chẳng nằm.
‘’Ðức trọng quỷ thần khâm’’. Nếu bạn đủ đức hạnh viên mãn, thì dù quỷ
thần gặp bạn, cũng đều cung kính bạn, tôn trọng bạn, hướng về bạn cuối đầu
đảnh lễ. Cho nên quan trọng nhất của con người, là phải có đức hạnh.
‘’Gió đen thổi thuyền của họ trôi dạt vào nước quỷ la sát’’ : Quỷ la sát là
loài quỷ ăn tinh khí, đa số nữ tính, chuyên môn ăn tinh khí của người. Nếu
thuyền bị gió đen trôi dạt vào nước quỷ la sát, nếu trong đó chỉ có một người
phát tâm xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thé Âm, thì tất cả mọi người đó,
thậm chí trăm ngàn vạn ức chúng sinh, đều được thoát khỏi nặn quỷ la sát.
Bởi nhân duyên đó, nên tên của Bồ Tát đó, gọi là Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nói đến ‘’đức hạnh’’, mọi người đều nên chú trọng về đức hạnh, sở dĩ người
khác với cầm thú, là vì có đức hạnh. Nếu chẳng trọng đức hạnh, thì chẳng
nói về đức hạnh, chẳng phân biệt với cầm thú, mà đạo đức là do tu hành thực
tiễn tích thành, bằng không thì vốn chẳng có đạo đức để nói.
Tại quê hương đông bắc, tôi có một người bạn tri kỷ, sao anh ta trở thành
bạn tri kỷ của tôi ? Vì anh ta và tôi là đồng đạo. Khi tôi còn tại gia, đã từng
vì mẫu thân thủ hiếu, còn anh ta cũng thủ hiếu mẹ bên cạnh mộ phần. Chỗ
khác nhau là khi tại gia thì anh ta là kẻ trộm cướp, trước khi thủ hiếu thì anh
ta chuyên môn trộm cướp. Có một lần, anh ta trộm cướp đánh lại với họ,
chẳng may anh ta thất bại và bị thương, vết thương điều trị hơn nửa năm mà
chẳng lành, lúc đó anh ta tỉnh ngộ, bèn nghĩ rằng :’’Do mình làm việc quấy,
cho nên vết thương này chẳng lành.’’ Do đó, bèn quyết tâm phát nguyện :
‘’Nếu vết thương này mà lành lại, thì sau này tôi chẳng làm trộm cướp
nữa’’, và còn đến bên cạnh mộ của cha mẹ thủ hiếu. Anh ta phát nguyện rồi,
quả nhiên chưa được mấy ngày, thì vết thương tự nhiên lành hẳn. Do đó, mà
tiếp tục thủ hiếu. Trong khi thủ hiếu, có rất nhiều chuyện phát sinh. Nay nói
ra một câu chuyện cắt thịt để tế trời.
Khi anh ta thủ hiếu, thì trời mưa cả mấy tháng không ngừng. Anh ta tự nhủ :
‘’Mùa màng ngũ cốc của dân chúng trồng, sắp bị nước mưa ngập lụt chết.’’
Bèn phát tâm vì dân chúng cầu cho trời hết mưa, mà phát nguyện rằng :
‘’Nếu trong vòng ba ngày mà hết mưa, thì tôi sẽ cắt thịt trên thân của mình,
để cúng dường trời Phật.’’ Sau khi anh ta phát nguyện rồi, thì thật là lạ thay,
chưa đến ba ngày thì trời hết mưa. Anh ta bèn thực hành lời hứa của mình,
lấy đao cắt thịt của mình. Anh ta cắt thịt xong, vì đau đớn vô cùng nên bị
hôn mê bất tỉnh, lúc sau mới tỉnh đậy. Lúc đó, có vị huyện trưởng đi ngang
qua đó, nhìn thấy khắp nơi đều có máu tâm nghĩ : Người này cắt thịt của
mình, chẳng biết là để làm gì ? Hay là anh ta bị điên ? Bèn hỏi anh ta thì mới
biết anh ta vì dân chúng cầu cho dừng mưa, cắt thịt dâng cúng trời Phật. Ông
huyện trưởng nghe rồi thì rất hoan hỉ : ‘’Anh thật là người tốt’’! Có ấn tượng
tốt đối với anh ta. Sau đó chẳng biết từ đâu bay đến một con chim nhỏ, con
chim đó kêu rất đặc biệt, kêu rằng: ‘’Làm nhiều công đức, làm nhiều công
đức, làm công đức nhiều thì tốt lắm.’’ Kêu như thế rồi bay đi.
Cho nên vì sao mà tôi cũng chẳng sợ khổ, ban ngày làm việc, chẳng có chút
thời gian xem kinh Phật, còn ban đêm thì vì mọi người giảng kinh. Vì muốn
làm chút bố thí, dùng pháp để bố thí. Ở nước Mỹ, có thể nói là pháp thiếu
thốn nhất, do đó tôi phát nguyện, vì các bạn bố thí Phật pháp, dù khổ nhọc
tôi cũng chẳng đình công.
Nếu lại có người, bị người khác cầm đao làm hại, xưng niệm danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì đao gậy của kẻ kia cầm, bèn gãy ra từng đoạn, mà
được giải thoát.
Ðoạn kinh này nói về nạn đạo gậy. Nếu như có người, khi bị người khác
cầm đao muốn giết hại, nếu người đó xưng niệm danh hiểu của Bồ Tát Quán
Thế Âm thì ‘’đao gậy của kẻ kia cầm’’ : Kẻ kia là chỉ người muốn giết hại
anh ta. Ðao gậy là vũ khí cầm tay, khi muốn chém bạn thì ‘’Bèn gãy ra từng
đoạn’’, khi bạn xưng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên cổ của bạn
cứng hơn cây đao. Bổn lai cây đao cứng hơn cổ của bạn, song bây giờ khi
cây đao dơ lên chặt cổ của bạn, thì tự nhiên gãy ra từng đoạn. Nếu không tin
thì hãy thử xem cái cổ của bạn có cứng như thế chăng ? Cây đao đó sao lại
gãy ra từng đoạn ? Chẳng những gãy ra một đoạn, mà còn gãy ra nhiều đoạn,
thậm chí cây đao đó gãy vụn ra. ‘’Mà được giải thoát’’ : Nhờ thế mà thoát
khỏi nạn đao gậy. Ðạo lý giải thoát được là gì ? Là vì anh ta phát tâm niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm. Có người hoài nghi : ‘’Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm, mà có sự linh cảm như thế chăng?’’ Chẳng những linh cảm như
thế, mà còn linh cảm nhiều hơn việc này ! Chỉ cần bạn thành tâm tin tưởng,
thành tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ có những sự việc phát sinh,
cảm ứng hơn là việc đó.
Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy quỷ Dạ xoa và la sát, muốn
đến làm hại người, mà nghe họ xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm,
thì các ác quỷ đó, còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn họ, huống chi lại làm
hại. Nếu như lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm siềng
xích, trói buộc thân họ, mà xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì
gông cùm siềng xích đều gãy tan, mà được giải thoát.
Ðoạn văn này giải trừ nạn quỷ Dạ xoa, quỷ la sát và giải trừ nạn gông cùm
siềng xích. ‘’Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới’’ : Ba ngàn đại thiên thế
giới là gì ? Vì có chữ ba ngàn, cho nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Thế
giới của chúng ta đây, có một mặt trời mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ
thiên hạ. Một tứ thiên hạ tức là : Nam Thiệm Bộ Châu, Bắc Câu Lư Châu,
Tây Ngưu Hóa Châu, Ðông Thắng Thần Châu, bốn đại bộ châu. Bốn đại bộ
châu này là ‘’một tứ thiên hạ’’, ‘’một’’ là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời,
một mặt trăng, và bốn đại bộ châu. Có một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt
trời, mặt trăng, một ngàn một tứ thiên hạ, đây gọi là một tiểu thiên thế giới.
Một ngàn tiểu thiên thế giới hợp lại, là một trung thên thế giới. Một ngàn
trung thiên thế giới, là một đại thiên thế giới, vì có chữ ba ngàn, cho nên gọi
là ‘’ba ngàn đại thiên thế giới’’.
‘’Trong đó đầy dẫy quỷ Dạ xoa’’ : Trong ba ngàn đại thiên thế giới đó, đều
đầy dẫy quỷ Dạ xoa. Dạ xoa gồm có phi hành Dạ xoa, địa hành Dạ xoa,
không hành Dạ xoa. Những loài quỷ này, chạy đặc biệt rất nhanh, dù hỏa
tiển hiện đại, cũng chạy chẳng bằng chúng, cho nên gọi là quỷ tốc tật, hoặc
là quỷ tiệp tật (quỷ chạy nhanh). La sát tức là quỷ ăn tinh khí, chúng chuyên
môn ăn tinh khí của người. ‘’Muốn đến làm hại người’’ ? Loài quỷ Dạ xoa
và quỷ la sát, đều chuyên môn hại người, đi khắp nơi nhiễu hại người. Ví
như bạn muốn phát bồ đề tâm, thì chúng nhất định chẳng vui vẻ, cho nên cố
ý gây thêm phiền não cho bạn, mà nghĩ ra đủ thứ phương pháp chướng ngại
bạn, khiến cho bạn chẳng thể tu hành, kêu bạn thối đạo tâm. Bổn lai bạn phát
bồ đề tâm rất dũng mãnh, song, chúng kiềm tỏa thân của bạn, dạy bạn tự
nhiên vọng tưởng lên rằng : ‘’Tu để làm cái gì ? Học Phật pháp có ích gì ?
Hay là đừng học Phật pháp, đi đến những nơi khác làm gì cũng rất tự do,
muốn nhảy đầm thì nhảy, muốn nghe âm nhạc thì nghe. Học Phật thì những
thứ đó chẳng thể làm được, nhiều thứ làm chẳng được, lại không thể xem
phim, không thể uống rượu, lại không thể hút thuốc, bạn thấy đó, nhiều thứ
không thể làm, Phật pháp càng học càng chán nãn’’! Ai có những tư tưởng
như thế, tức là quỷ Dạ xoa, la sát đến dạy bạn nghĩ như thế. Có người nghĩ
muốn xuất gia làm hòa thượng, thì chúng dạy bạn nghĩ : ‘’Làm Hòa thượng
khổ quá ! Suốt ngày đến tối phải làm việc, lại ăn chẳng ngon, mặc chẳng
đẹp, khổ hạnh quá, bạn đi làm Hòa thượng có ý nghĩa gì’’? Do đó, bèn thối
đại tâm. Lại có người nghĩ muốn làm Tỳ Kheo ni, thì quỷ Dạ xoa la sát cũng
đến dạy bạn nghĩ: ’’Hay là đi lấy chồng, có chồng thì mỗi ngày đều có
chồng lo, toại tâm mãn dục’’. Tức là chúng muốn cho bạn không thể phát
tâm bồ đề, đó là việc của quỷ Dạ xoa la sát, chuyên môn tổn hại đạo tâm bồ
đề, phá hoại người tu hành. Cho nên nói : ‘’Muốn đến não hại người’’. ‘’Thì
các ác quỷ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn’’ : Một khi niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì tự nhiên phóng ra đại quang minh, quỷ đó muốn nhìn bạn,
cũng nhìn chẳng thấy, vì chúng nhìn bạn tựa như đèn điện chiếu sáng, mắt
cũng mở chẳng ra, cho nên nói ‘’còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn’’.
‘’Huống chi lại làm hại’’ : Chúng mắt cũng mở chẳng lên, lại làm sao mà
làm hại bạn ? Tự nhiên bèn bỏ bạn chạy xa. Do đó, bạn nên luôn luôn niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm thì mới bảo đảm.
‘’Nếu như lại có người’’ : Giả sử lại có người như thế. ‘’Hoặc có tội, hay
không có tội’’ : Bất cứ là có tội, hoặc chẳng có tội. ‘’Gông cùm xiềng xích’’
: Người có tội thì sẽ bị chính phủ bắt đi, tay bị còng, cổ bị gông cùm, người
có tội là chỉ người phạm tội, người chẳng có tội là người bị oan uổng, bị vu
cáo, mình vốn chẳng phạm tội, mà bị chính phủ bắt đi nhốt vào lao tù. Gông
cùm xiềng xích, đều là hình cụ của người phạm tội mang, trói buộc lại. Nếu
bạn lúc đó xưng niệm Nam Mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, thì gông cùm
xiềng xích đều gãy tan. Những hình cụ đó tự nhiên gãy ra. ‘’Ðều được giải
thoát’’: Lập tức bèn được giải thoát, tự do. Gông tự động gãy, cùm tự động
mở. Tóm lại, bất cứ hình cụ gì trên thân của bạn, đều tự nhiên mở ra, những
tình hình như thế tôi thấy qua rất nhiều.
Có một lần, tôi ở chùa Nam Hoa gặp một vị Hòa Thượng, vào thời kỳ Nhật
xâm lược Trung Quốc, vị Hòa Thượng đó bị Nhật bắt đi nhốt vào lao ngục,
tay chân đều bị còng. Ngài ở trong ngục suốt ngày niệm danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm, niệm niệm không ngừng, một đêm nọ, hốt nhiên gông cùm
trên thân của Ngài tự động gãy ra rớt xuống, cửa ngục cũng tự động mở ra,
cho nên Ngài thoát khỏi ngục tù, được tự do giải thoát.
Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy những kẻ oán tặc, có một
người chủ buôn, đem theo các người buôn bán, mang theo rất nhiều châu
báu quý giá, đi qua con đường hiểm, trong đó có một người xướng lên rằng :
Các thiện nam tử ! Chớ có sợ hãi, các ông nên một lòng xưng niệm danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vì vị Bồ Tát đó, hay đem sự vô úy thí cho chúng
sinh. Nếu các ông xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì ở nơi oán tặc nầy, sẽ
được giải thoát. Các người buôn nghe rồi, đều xưng niệm Nam Mô Quán
Thế Âm Bồ Tát, vì xưng niệm danh hiệu của Ngài, nên được giải thoát.
‘’Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới’’ : Nếu như trong ba ngàn đại thiên
cõi nước. ‘’Ðầy dẫy những kẻ oán tặc’’ : Trong ba ngàn đại thiên thế giới,
chỗ nào cũng có oán tặc. Oán tặc là có oan trái với bạn trong quá khứ, cho
nên đời này làm oán tặc, để đến cướp đồ của bạn. ‘’Có một người chủ
buôn’’: Có một người làm chủ buôn bán, đem theo rất nhiều người làm ăn
buôn bán, lại mang theo rất nhiều báu vật quý giá, đi qua nơi có trộm cướp.
Song, trong số người buôn đó, có một người đề nghị nói với đại chúng :
‘’Các vị thiện nam tử, các vị huynh đệ ! Xin mọi người đừng lo âu sợ hãi.
Chúng ta mọi người, hãy nên một lòng niệm danh hiệu Nam Mô Quán Thế
Âm Bồ Tát.
Vì vị Bồ Tát đó, hay đem tinh thần vô úy để bảo hộ hết thảy chúng sinh.
Hiện tại nếu mọi người chúng ta niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm,
thì sẽ thoát khỏi những oán tặc này, mà được giải thoát, và chẳng bị bọn
cướp trộm cướp hoặc giết hại’’. Những người buôn đó nghe rồi, mọi người
đều cùng nhau xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì xưng niệm
danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, quả nhiên thoát khỏi nạn oán tặc, chẳng bị
bọn cướp trộm cướp. Vì đó là cảm ứng không thể nghĩ bàn, cho nên mỗi
người đều nên phát tâm tin chân thành, đừng có hoài nghi.
Vô Tận Ý ! Sức oai thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm, rộng lớn như thế.
Ðức Phật nói xong đạo lý kinh văn ở trên rồi, lại tiếp tục kêu một tiếng : ‘’vô
Tận Ý ! Sức oai thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm rộng lớn vĩ đại như thế,
nói cũng không hết.’’
Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi lòng dâm dục.
Nếu như có loài chúng sinh đặc biệt nhiều lòng dâm dục. Có người một mặt
học Phật, một mặt sinh tâm dâm dục, học Phật pháp càng nhiều, thì tâm dâm
dục của họ càng tăng trưởng, suốt ngày đến tối đều vọng tưởng về dâm dục,
giống như suối nước chảy không ngừng. Ðó là thứ tư tưởng xấu nhất, hành
vi và biểu hiện đê hèn. Vậy thì phải làm thế nào ? Bạn đừng lo lắng, đừng
buồn rầu. Chỉ cần bạn ‘’Thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm’’,
song chỉ tụng niệm Nam Mô Quán Thế Âm thì vẫn chưa đủ, còn phải đem
tâm cung kính chân thành ra, hướng về Bồ Tát Quán Thế Âm lễ bái. Ðảnh lễ
Phật và Bồ Tát là một biểu hiện cung kính nhất. Song một số người chẳng
hiểu đạo lý này, nhất là kẻ ngoại đạo thấy mọi người lạy Phật, thì phê bình
nói những lời mù : ‘’Ðó là tượng gỗ tượng đá, lạy lại có ích gì ?’’ Vì mình
chẳng có trí huệ, chẳng nhìn thấy cảnh giới Phật quang phổ chiếu, ngược lại
sinh đại ngã mạn, thậm chí xem mình còn lớn hơn Phật, cho nên nói hà tất
phải lạy Phật ! Ðó là người ngu si đến cực điểm. Nếu thường hay niệm cung
kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tâm dâm dục của bạn tự nhiên sẽ lìa khỏi. Có
người nói : ‘’Không xong rồi ! Tôi thích dâm dục mà bây giờ không còn thì
làm sao?’’ Nếu bạn thích có dâm dục, thì cũng đừng lo lắng, vẫn có thể có.
Nếu không thích có thì có thể không có. Nếu bạn thích có, thì hà tất niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm ? Cứ giữ nó như thường.
Nếu người nhiều sân hận, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì
sẽ lìa khỏi sân hận.
Sân hận là gì ? Sân hận tức là phiền não, tức cũng là vô minh. Sân hận lợi
hại như lửa. Do đó có câu :
‘’Một đốm lửa nhỏ,
Ðốt sạch rừng công đức.’’
Cổ nhân cũng nói :
’’Ngàn ngày nhặt củi,
Ðốm lửa thiêu sạch.’’
Nghĩa là bạn nhặt củi cả ngàn ngày, song chỉ cần một chút lửa, thì sẽ đốt
sạch đống củi đó. Ðây là hình dung công đức lành mà chúng ta làm hằng
ngày, tuy tu trì nhiều thời, song một khi bạn nóng giận, thì sinh ra lửa vô
minh, đốt sạch công đức đã tích tập từ lâu. Người thích nổi lửa vô minh tức
là A tu la, mỗi người đều có con đường xu hướng. Có người hướng về Phật
đạo, thì tính cách của họ đa số là từ bi, về cõi tiên thì thích thanh nhàn, về
cõi người thì có duyên với người khác, về đường ngạ quỷ thì đa số là tính
giảo hoạt, chẳng chịu thiệt thòi, là người chẳng thành thật, về đường súc sinh
thì lòng tham dục nặng, về đường A tu la thì thích nổi nóng, thứ người này,
động hay chẳng động cũng đều nổi lửa nóng giận. Loại người này phải làm
thế nào ? Có phương pháp gì có thể thay đổi ? Bộ Kinh Pháp Hoa này đã nói
rõ ràng, tức là phải thường niệm : ‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát’’, chỉ
cần niệm luôn luôn đừng gián đoạn. Mỗi khi đến chùa nào, phàm là có cúng
Phật, hoặc cúng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì nên cung kính đãnh lễ. Cũng
đừng hôm nay lễ, ngày mai thì lại không; sáng nay đảnh lễ, tối thì chẳng lạy.
Nếu kiền, thành, hằng, thường kính lễ chư Phật Bồ Tát, thì lâu dần tính nóng
giận của bạn sẽ chẳng còn nữa, cho đến chính bạn cũng chẳng biết sự việc
thế nào ? Nếu bạn không tin, thì tôi sẽ nói ra một sự kinh nghiệm của chính
tôi, để cho các vị mượn làm cảnh.
Trước kia tôi cũng là người rất nóng giận, nói đánh người là đánh người, nói
chưởi người thì chưởi người. Khi tôi mười hai mười ba tuổi thì thích chỉ
huy, bất cứ bạn lớn cỡ nào ở cùng chỗ với tôi, thì phải nghe sự chỉ huy của
tôi, nếu chẳng nghe tôi chỉ huy, thì tôi sẽ đánh ! Chết cũng muốn đánh, đánh
đến khi nào bạn đầu hàng mới thôi, đó là hành vi củ A tu la. Về sau, tôi học
Phật thì mới giác ngộ tính nóng giận là không đúng, bèn sửa lỗi làm mới,
thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên hiện tại làm sư phụ,
cũng phải tu hạnh nhẫn nhục. Có khi đệ tử đến coi thường sư phụ, trước hết
nổi nóng, song tôi đề thanh hạ khí nhẫn nhục, đến khi anh ta từ từ sẽ hiểu là
mình sai quấy. Trước kia, tôi nóng giận với người khác, bây giờ bị đệ tử đến
khi phụ tôi, đây có thể nói là báo ứng. Có người nói : ‘’Ðệ tử nào đến khi
phụ Thầy ?’’ Người khi phụ tôi tức là người đó.
Nếu người nhiều ngu si, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ
lìa khỏi ngu si.
Ở trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si, đây gọi là ba độc. Ba độc
này, đầu độc Phật tánh của con người hôn mê như là ngủ. Tại sao chẳng giác
ngộ, một đời đều sống trong cơn say, chết trong ảo mộng ? Là vì ba độc này.
Tham tức là dâm dục, dâm dục là lợi hại nhất đối với tự tánh, thế mà một số
người cho rằng đó là sự hưởng thụ cao nhất, cho nên cứ làm những hành vi
điên đảo, thứ bụi bặm này càng ngày càng nhiều, vì Phật tánh quang minh
của bạn chẳng hiển hiện, đó là sự lợi hại của tham độc. Sân độc cũng như
tham độc, lợi hại vô cùng.
Bây giờ nói về si độc. ‘’Ngu si’’ là gì ? Tức là cảm thấy mình chẳng ngu si,
đó càng là ngu si. Cho rằng mình là người rất thông minh có trí huệ, thật tế
bạn hỏi họ : ‘’Anh từ đâu đến ? Tương lai anh đi về đâu ?’’ Thì họ chẳng
biết, đến chẳng biết đến, đi chẳng biết đi, bạn nghĩ rằng người như thế là
thông minh nhất chăng ? Song họ chẳng thừa nhận mình là người ngu si. Do
đó :
‘’Danh lợi việc nhỏ ai cũng ham
Sinh tử việc lớn chẳng ai màng.’’
Trên thế giới này, cầu danh cầu lợi tuy là việc nhỏ, song con người suốt
ngày vì nó mà bôn ba lao nhọc, thậm chí đi hại người, giết người cũng vì
‘’lợi’’. Chẳng phải vì lợi, thì là vì ‘’danh’’. Người của các nước trên thế giới
này, nhiều đếm chẳng hết được, song hợp lại mà nói thì chỉ có loại hai
người. Tức là, một là cầu danh, một là cầu lợi. Danh và lợi chi phối làm cho
con người điên đảo, song vẫn chưa tỉnh, từ sinh ra đến chết đi đều hồ đồ. Có
người tham cầu làm quan, có người cầu phát tài, có người cầu con trai con
gái, một đời khát vọng các thứ khoái lạc, song hưởng thụ chẳng bao lâu thì
chết đi. Chết rồi sinh về đâu cũng chẳng biết. Khi sống thì cho mình là bất
phàm, cảm thấy là ngon lành lắm, mình là người có trí huệ rất thông minh,
thậm chí học ở nhà trường năm nào tôi cũng đứng nhất lớp, bất cứ làm việc
gì tôi cũng đứng đầu, cao hơn mọi người, tự cho rằng thông minh khác
thường. Kỳ thật, cho đến mặt mũi của mình cũng chẳng nhận thức được, sự
thông minh của bạn đều là giả, đó là thông minh giả. Nếu bạn có trí huệ thật
sự, thì chẳng cảm thấy mình có trí huệ. Vậy nói là cảm thấy mình ngu si
chăng ? Cũng chẳng cảm thấy mình là ngu si, càng chẳng cảm thấy có trí
huệ. Tuy trên bề mặt nhìn lại, đồng thân thể hình trạng với một số người,
song những tư tưởng quan niệm bạn đều minh bạch. Minh bạch hết thảy tất
cả, như huyễn như hóa. Biết hết thảy tất cả đều giả, thì bạn chẳng tham trước
những vinh hoa phú quý ở trong mộng, tham đồ sắc đẹp, tranh ta người,
tranh đúng sai, tranh hạng nhất, tranh danh đoạt lợi, mà thấy rõ tất cả đều là
vô thường. Cho nên trong Kinh Kim Cang có nói :
’’Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện,
ứng tác như thị quán’’.
Nghĩa là:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như vậy.
Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bọt bóng. Pháp hữu vi là gì ? Tức là tất
cả có hình tướng, có thể nhìn thấy được, đều gọi là pháp hữu vi, tựa như
mộng huyễn bọt nước. Bọt nước ở trong biển, bạn nói là thật hay là giả ?
Nói là thật, nó lại hóa là không, nói là giả mà nó lại có bọt nước. Tuy có bọt
nước, nhưng chẳng thật tại, chẳng có thể tánh chân thật. Bóng cũng là hư
huyễn, lại giống như giọt sương, sáng sớm thì có giọt sương, nhưng khi mặt
trời xuất hiện, thì nó lại tiêu mất. Ðiện cũng là có, song điện quang lửa đá
chuyển nháy mắt thì mất, cũng chẳng chân thật. Nếu quán tưởng tất cả sự vật
như thế, thì có gì để chấp trước ? Chẳng có gì chấp trước, thì mới thật minh
bạch, cũng chẳng tưởng đông nghĩ tây, càng không tưởng nam nghĩ bắc,
buông xả hết tất cả những trần lao vọng tưởng. Buông xả hết được tất cả trần
lao vọng tưởng, thì lúc đó bạn không muốn thành Phật cũng không được,
muốn chẳng có trí huệ cũng không thể được, tự nhiên sẽ có.
Cho nên, khi mình chẳng có trí huệ, thì đừng cho rằng mình có trí huệ. Trí
huệ chẳng phải từ bên ngoài đến, đừng sinh ra tâm kiêu ngạo : ‘’Ở trong tất
cả mọi người, ta là thông minh nhất, đẹp nhất, nổi bậc hơn tất cả mọi người,
chẳng giống mọi người !’’ Nếu bạn có tư tưởng như thế, thì tức là chấp
tướng. Tướng vốn là túi da hôi thối, như mộng huyễn bọt bóng. Bạn suốt
ngày tới tối mặc quần áo đẹp cho nó, ăn đồ ngon, hết lòng vì nó mà hưởng
thụ. Song, đến lúc nó muốn đi, thì nó chẳng màng đến bạn. Có người chuyên
vì túi da hôi thối mà hút thuốt, lại uống rượu, lại ăn thịt. Suốt ngày đến tối
cứ lấp cho cái đáy sâu không đáy này, lấp đầy rồi lại vơi, vơi rồi lại đầy,
vĩnh viễn lấp chẳng đầy, vì mình mà bận tới bận lui.
Tại sao tôi mỗi ngày ăn một bữa ? Là vì sợ phiền não, cho nên ăn ít một
chút, thì bớt đi rất nhiều phiền não. Một số người cho rằng, ăn đồ ngon là
hưởng thụ tốt nhất, tôi thì cho rằng là việc phiền não. Vậy giải thích sao đây
? Nếu ăn nhiều thì trong bụng chẳng thoải mái, mà ăn ít thì lại sinh tâm tham
: ‘’Vì ăn ngon thì lại ăn thêm một chút.’’ Nếu ăn đồ chẳng ngon, thì chẳng
sinh ra tâm tham, bụng cũng chẳng thọ tội, cho nên đây đều là việc phiền
não. Tại sao con người có những phiền não ? Vì mình quá ngu si, mới tham
hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu sung sướng, đủ thứ đâu chẳng
phải là điên đảo ? Bạn tham cái này, cái kia, kết quả lại thế nào ? Ðến lúc
vẫn phải chết như nhau. Khi chết, một chút gì cũng chẳng mang theo được,
đó chẳng phải là ngu si chăng ? Nếu ngu si như thế, thì phải làm thế nào ? Y
chiếu theo Kinh Pháp Hoa : Thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm.
Khi ngu si đi rồi, thì trí huệ sẽ đến. Ai biết được mình ngu si, thì người đó
mới chân chánh nhận thức được mình, đã có trí huệ, thì mới cảm thấy mình
là ngu si, càng chạy càng xa. Mình vốn là ngu si, mà tự cho rằng là thông
minh, đó chẳng phải là ngu si lại thêm ngu si chăng ? Một cái ngu si vốn
chưa đủ, mà biến thành hai cái ngu si. Nếu bây giờ chúng ta không muốn
ngu si, thì phải thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðây là cách
diệu nhất, linh nhất, tuyệt đối diệu không thể tả
Nói về ngu si và trí huệ. Gì là ngu si ? Gì là trí huệ ? Tôi nói về một đạo lý,
mà chắt các vị chẳng tin : ’’Ngu si tức là trí huệ, trí huệ tức là ngu si.’’ Tại
sao lại nói như thế ? Ở trong Kinh Bát nhã có nói :’’Sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc.’’ Cảnh giới này
nói rõ về chân sắc, là từ chân không sinh ra, chân không là từ chân sắc mà
có, cho nên hai mà chẳng hai. Trí huệ và ngu si cũng như đạo lý đó. Nếu bạn
dùng được thì càng ngu si. Ngu si và trí huệ cũng chẳng phải hai, xem thử
bạn có dùng được chăng ? Nếu bạn dùng được, thì ngu si cũng biến thành trí
huệ, nếu chẳng dùng được, thì trí huệ sẽ biến thành ngu si. Nếu bạn thật sự
minh bạch đạo lý này, thì chẳng điên đảo.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có những sức đại oai thần như thế, làm
nhiều sự lợi ích, cho nên chúng sinh thường hay niệm. Nếu có người nữ
muốn cầu con trai, mà lễ lạy cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ sinh
được con trai phúc đức trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, thì sẽ sinh được con
gái đoan chánh xinh đẹp, thuở xưa đã từng trồng gốc công đức, được mọi
người kính mến.
Ðức Phật giảng đoạn kinh ở trên xong rồi, lại gọi một tiếng Bồ Tát Vô Tận
Ý nói :’’Bồ Tát Quán Thế Âm như ở trước có nói, có các thứ sức oai thần
cứu bảy nạn, giải ba độc, Ngài còn có thần thông diệu dụng lợi ích chúng
sinh, cho nên trong tâm chúng sinh thường hay niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm’’. Chỗ này mọi người đều phải đặc biệt chú ý ! ‘’Tâm thường hay
niệm’’ : Chẳng phải miệng niệm mà tâm không niệm. Nếu tâm niệm mà
miệng không niệm cũng được. Tóm lại, phải từ từ, vĩnh viễn nhớ danh hiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm. ‘’Nếu có người nữ muốn cầu con trai’’. Nếu như có
người phụ nữ muốn cầu sinh được một cậu con trai, thì hãy chiếu theo pháp
môn đã nói ở trong Kinh Pháp Hoa, tức là phải lễ lạy và dùng hương hoa trái
cây, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên sẽ được con trai đầy đủ
phước đức trí huệ. Nếu cầu con gái thì sẽ sinh được con gái tướng mạo xinh
đẹp. ‘’Trước đã trồng gốc công đức, được mọi người kính mến. Tại sao lại
có tướng đoan chánh xinh đẹp ? Ðó đều là do đời trước, hoặc đã từng mua
hương hoa, dùng các thứ đồ trang nghiêm, cúng dường chư Phật Bồ Tát, do
công đức cúng dường tích tụ trong quá khứ, cho nên cảm ứng đời đời được
tướng mạo viên mãn trang nghiêm, ai thấy cũng ưa mến.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần như thế. Nếu có chúng
sinh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước chẳng tổn giảm, cho
nên chúng sinh đều hay thọ trì, danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Vô Tận Ý ! Nếu có người thọ trì, sáu mươi hai ức Hằng hà sa danh hiệu các
Bồ Tát, lại suốt đời cúng dường thức ăn uống, quần áo, đồ nằm, thuốc thang.
Ý ông như thế nào ? Người thiện nam, thiện nữ đó, công đức có nhiều chăng
?
Vô Tận Ý nói : Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn !
Ðức Phật nói : Nếu lại có người, thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cho
đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó, bằng nhau
không khác, ở trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể hết được.
Ðức Phật nói xong cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai cầu ở trên rồi, bây giờ
lại nói : ‘’Vô Tận Ý ! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này, có sức oai thần như đã
nói ở trên. Nếu có chúng sinh hay cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, phát tâm
lễ lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước của họ chắc chắn tồn tại, chẳng luống
qua. Vì vậy cho nên, có những chúng sinh hay thọ trì tụng niệm danh hiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm.’’ Nếu trong tâm của bạn thường trì niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì được hết thảy phước báo không thể nghĩ bàn, vi diệu khó
dò.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Vô Tận Ý ! Nếu như có người, thọ trì sáu
mươi hai ức Hằng hà sa số danh hiệu các Bồ Tát. Chẳng những chỉ niệm và
còn suốt đời dùng hương, hoa, đèn, trái cây, hoặc dùng thức ăn uống, quần
áo, đồ nằm, thuốc thang, bốn thứ cúng dường Tam Bảo. Ý của ông Vô Tận
Ý nghĩ như thế nào ? Vị thiện nam tử, thiện nữ đó, đắc được công đức có
nhiều chăng ?’’
Phật hỏi xong rồi, thì Bồ Tát Vô Tận Ý trả lời rằng: ‘’Công đức đó rất
nhiều.’’ Phật nghe Bồ Tát Vô Tận Ý nói rồi bèn nói : ’’Nếu như có người
khác hay niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đừng nói người đó suốt đời
cúng dường, mà dù trong khoảng thời gian rất ngắn, lễ bái cúng dường Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì phước báu của hai người này đồng nhau, trong trăm
ngàn vạn ức kiếp, phước báu đó cũng không hết được.
Vô Tận Ý ! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, được lợi ích phước đức
vô lượng vô biên như thế.
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế Âm vân
du thế giới Ta Bà này như thế nào ? Vì chúng sinh thuyết pháp như thế nào ?
Sức phương tiện việc đó thế nào ?
Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý : Thiện nam tử ! Nếu có những chúng sinh trong
cõi nước, đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện
thân Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được,
thì liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân
Thanh Văn độ được, thì liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người
đáng dùng thân Phạm Vương độ được, thì liền hiện thân Phạm Vương, để vì
họ nói pháp. Người đáng dùng thân Ðế Thích độ được, thì liền hiện thân Ðế
Thích, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Tự Tại độ được, thì liền
hiện thân trời Tự Tại, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Ðại Tự
Tại độ được, thì liền hiện thân trời Ðại Tự Tại, để vì họ nói pháp.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Bồ Tát Vô Tận Ý nói : ‘’Thọ trì danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm, sẽ đắc được phước đức lợi ích chẳng có số lượng, chẳng có
bờ bến như ở trên đã nói.’’
Bồ Tát Vô Tạn Ý nghe Phật nói như thế bèn hỏi Ðức Phật : ‘’Ðức Thế Tôn !
Vị Bồ Tát Quán Thế Âm đó giáo hóa chúng sinh ở thế giới Ta Bà như thế
nào ? Làm thế nào để vì chúng sinh nói pháp? Phương tiện nhân duyên Ngài
giáo hóa việc đó thế nào ?’’
‘’Thế giới Ta Bà’’ là gì ? ‘’Ta Bà’’ là tiếng Phạn, dịch là ‘’kham nhẫn’’, tức
cũng là hay nhẫn nhục, nghĩa là nói thế giới này rất khổ, chẳng dễ gì nhẫn
thọ.
Ðức Phật nghe Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi như thế, bèn trả lời : ‘’Thiện nam tử !
Nếu như có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, đáng dùng thân Phật
độ được họ, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn thị hiện thân Phật, để vì chúng
sinh đó nói pháp.’’
Giảng đến đây có người hỏi : ‘’Bồ Tát Quán Thế Âm là Bồ Tát chẳng thành
Phật, sao có thể hiện thân Phật để vì chúng sinh nói pháp ? Có phải là mạo
xưng Phật chăng ?’’ Chẳng phải. Vì Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong vô lượng
kiếp quá khứ, sớm đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Sau
khi thành Phật, vì chẳng quên chúng sinh, cho nên Ngài lại đến thế giới này
ẩn thân Phật, mà hiện ra thân Bồ Tát để cứu hộ chúng sinh, đây gọi là ẩn lớn
hiện nhỏ. A la Hán là hồi tiểu hướng đại, Bồ Tát Quán Thế Âm là hồi đại
hướng tiểu. Ngài từ thân Phật mà đảo giá từ thuyền, mục đích vì tiếp dẫn
chúng ta tất cả chúng sinh khổ não. Cho nên, Bồ Tát Quán Thế Âm tuy bên
ngoài hiện thân Bồ Tát, nhưng kỳ thật bên trong ẩn hạnh chư Phật, ở bên
trong là hạnh nguyện của chư Phật, hành vi của chư Phật. Sở dĩ Bồ Tát Quán
Thế Âm hóa hiện thân Phật, là để vì chúng sinh nói pháp, chứ chẳng phải là
mạo xưng Phật để lừa gạt chúng sinh.
Tiếp theo Phật lại nói : ‘’Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì
Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp.’’ Bích Chi Phật
nguyên tiếng Phạn là ‘’Bích Chi Ca La’’, dịch ra là ‘’Duyên giác’’. ‘’Duyên
Giác’’ lại phân ra có hai : Khi sinh vào thời có Phật ra đời, thì gọi là Duyên
Giác, khi sinh vào thời chẳng có Phật ra đời, gọi là Ðộc giác. Khi có Phật ra
đời thì tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, Ngài quán sát làm sao lại có vô
minh ? Vô minh rồi sao lại có hành ? Sao lại có thức ? Sao lại có danh sắc ?
Có lục nhập ? Sao lại có xúc ? Sau đó có thọ ? Thọ rồi lại có ái ? Có ái thì có
thủ ? Vì có ‘’hữu’’, tức cũng có ‘’sinh’’ ? Có đời sau, tức cũng có lão tử ?
Suốt ngày quán sát mười hai nhân duyên như thế, biết tất cả đều là khổ,
không, vô thường, vô ngã, cho nên buông xả tất cả, thì sẽ khai ngộ. Do quán
mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, cho nên gọi là ‘’Duyên giác’’. Lúc sinh ra
vào thời không có Phật ra đời, cũng tu mười hai nhân duyên này, và còn
quán mùa xuân trăm hoa đua nở, mùa thu quán lá vàng rơi, quán sát đủ thứ
trạng thái biến hóa tự nhiên, cho nên giác ngộ được sinh, trụ, dị, diệt; thành,
trụ, hoại, không, đủ thứ tình hình chẳng phải một, chẳng phải vô thường,
cũng do đó mà giác ngộ, đây gọi là ‘’Ðộc Giác’’, sự khác biệt giữa Duyên
Giác và Ðộc Giác là, có và không có Phật ra đời, cho nên tên gọi khác.
Bồ Tát Quán Thế Âm vì có ngàn mắt chiếu thấy, ngàn tai nghe được, biết
chúng sinh nào đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì hiện ra thân Bích
Chi Phật, để vì họ nói pháp : ‘’Bạn có biết vô minh từ đâu đến chăng ? Tức
là từ một niệm không giác của bạn mà đến. Vì một niệm không giác, cho
nên trong tính Như Lai tạng của bạn sinh ra vô minh. Có vô minh rồi, tiếp
theo sinh ra ‘’hành’’, .v.v... Ðó là đáng dùng thân Bích Chi Phật, để vì họ
nói pháp, khiến cho họ khai ngộ, sau dó họ mới phát tâm bồ đề, hồi tiểu
hướng đại
‘’Người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì liền hiện thân Thanh Văn
để vì họ nói pháp’’. Thanh Văn gọi là gì ? Thanh Văn cũng là A la hán,
Duyên Giác cũng là A la hán, đây là người nhị thừa. Thanh là âm thanh, văn
là nghe, tức là nghe được âm thanh của Phật mà ngộ đạo. Phật nói âm thanh
gì ? Nói pháp bốn đế, nghe âm thanh này mà ngộ đạo, nên gọi là ‘’Thanh
Văn’’. Pháp bốn đế là khổ, tập, diệt, đạo. Ðức Phật ban đầu vì năm vị Tỳ
Kheo, ba lần chuyển bánh xe pháp bốn đế :
‘’Ðây là khổ, tính bức bách
Ðây là tập, tính chiêu cảm
Ðây là diệt, tính khả chứng
Ðây là đạo, tính khả tu’’.
‘’Ðây là khổ, tính bức bách’’ : Nói sự khổ có tính bức bách mãnh liệt, khiến
cho người thọ chẳng thấu. Khổ: Có khổ khổ, hoại khổ, và hành khổ, còn có
khổ về sinh, già, bệnh chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí
thạnh, tám thứ khổ. Hết thảy những thứ khổ này, bức bách con người; khiến
cho con người suốt ngày phiền não khó chịu. Tất cả mọi vấn đề đều do khổ
mà sinh ra, cho nên nói khổ là tính bức bách.
‘’Ðây là tập tính chiêu cảm’’ : Tập là tập tụ tích lũy, tập tụ những gì lại với
nhau ? Tập tụ phiền não lại với nhau. Tại sao lại có phiền não ? Vì có
‘’khổ’’. Trước hết có khổ, bị khổ đè nén thọ chẳng thấu, thì sinh ra phiền
não, thì sinh nóng giận. Cho nên nói, phiền não là tính chiêu cảm, do tụ tập
mà thành, tức cũng từ ‘’khổ’’ mà có ‘’tập’’.
‘’Ðây là diệt tính khả chứng’’ : Diệt tức là tịch diệt, tịch diệt phiền não vô
minh. Tịch diệt an vui, Niết Bàn diệu quả có thể chứng đắc.
‘’Ðây là đạo tính khả tu’’ : Ðạo này ai ai cũng có thể tu, chẳng có người nào
không thể tu đạo được. Bất cứ ai cũng có thể tu đạo, bất cứ ai cũng có thể
chứng được lý thể Niết Bàn. Ðây là chuyển bánh xe pháp lần thứ nhất.
Ðức Phật chỉ là hiện thân thuyết pháp, vì năm vị Tỳ Kheo nói pháp bốn diệu
đế này, tiếp theo lại nói :
‘’Ðây là khổ, ông nên biết,
Ðây là tập, ông nên đoạn,
Ðây là diệt, ông nên chứng,
Ðây là đạo, ông nên tu.’’
Nghĩa là: ‘’Sự khổ này, chẳng phải chỉ mình ta thành Phật mới biết, ông
cũng nên biết sự khổ này. Ông cũng nên đoạn trừ tập đế, nên cầu chứng Niết
Bàn diệu quả, cũng nên tu hành bồ đề giác đạo này.’’ Ðây là lần thứ hai
chuyển bánh xe pháp.
Phật nói lần thứ ba chuyển bánh xe pháp :
‘’Ðây là khổ, ta đã biết
Ðây là tập, ta đã đoạn
Ðây là diệt, ta đã chứng
Ðây là đạo, ta đã tu.’’
Sự khổ này ta đã biết, tập này ta đã đoạn. Ta biết khổ thì chẳng còn bị khổ
làm mê hoặc, ta đoạn sạch phiền não, tức cũng chẳng còn tập đế. Ðây là diệt
ta đã chứng đắc, ta đã đắc được sự vui tịch diệt thật sự. Ðây là đạo ta đã tu
hành rồi.
Năm vị Tỳ Kheo nghe Phật ba lần diễn nói chuyển bánh xe pháp bốn đế rồi,
lúc đó lập tức khai ngộ. Vì nghe tiếng của Phật mà ngộ đạo, nên gọi là
‘’Thanh Văn’’. Thanh Văn và Duyên Giác lại gọi là ‘’Nhị thừa’’, cũng gọi là
tiểu thừa. Có đại thừa, cũng có tiểu thừa. Ðại là gì ? tiểu là gì ? Vốn chẳng
có đại, cũng chẳng có tiểu, chỉ vì trong tâm chúng sinh có đại, có tiểu. Tâm
lượng vốn tận cùng hư không khắp pháp giới, bất quả phàm phu chúng ta
chẳng thể dùng tính Như Lai tạng của mình vốn có. Có người chỉ dùng một
phần nhỏ, có người dùng một phần lớn, có người dùng toàn bộ. Chư Phật thì
dùng toàn bộ, vì đã trở về cội nguồn cội. Bồ Tát thì dùng một phần lớn, vì
Bồ Tát có đại trí huệ, cho nên xử dụng một phần lớn tính Như Lai tạng vốn
có. Tiểu thừa biết ít nên cũng dùng ít. Do đó, Bồ Tát Quán Thế Âm gặp cơ
duyên, người đáng dùng thân Thanh Văn được độ, thì cũng hiện ra thân
Thanh Văn để vì họ nói pháp bốn Thánh Ðế.
‘’Người đáng dùng thân Phạm Vương độ được họ, thì liền hiện thân Phạm
Vương để vì họ nói pháp’’. Phạm Vương tức là Ðại Phạm Thiên Vương, ông
ta là hoàng đế ở trên trời Ðại Phạm. ‘’Phạm’’ nghĩa là thanh tịnh. Ông ta làm
vua ở trên trời cảm thấy rất tự tại, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng hiện thân Ðại
Phạm Thiên Vương để vì họ nói pháp.
‘’Người đáng dùng thân Ðế Thích độ được, thì liền hiện thân Ðế Thích, để
vì họ nói pháp’’. Ðế Thích, trong Kinh A Di Ðà gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân,
ở trong đạo giáo gọi là Ngọc Hoàng Ðại Ðế. Ðế Thích không chỉ là một, mà
có rất nhiều vị. Cõi trời này mà chúng ta thấy biết gọi là trời Ðao Lợi. Ðế
Thích của trời Ðao Lợi tức cũng là Thiên Chúa mà một số người tín ngưỡng.
Trong chú Lăng Nghiêm có một câu là : Nam Mô Nhân Ðà La Gia, ‘’Nhân
Ðà La Gia’’ cũng là một tên gọi khác của Thiên Chúa. Hết thảy mọi việc
trên trời, đều do vị Ðế Thích này thống lãnh và cai quản, năng lực của ông ta
rất là quảng đại, quyền lực cũng lớn mà thần thông cũng lớn, song ông ta chỉ
ở trên trời, mà tuổi thọ của người trời tương lai cũng có lúc hết. Bồ Tát Quán
Thế Âm nhìn thấy chúng sinh, đáng dùng thân trời Ðế Thích độ được, thì
hóa hiện ra thân Ðế Thích để vì họ nói pháp. Tại sao phải hiện thân Ðế
Thích để nói pháp ? Vì đồng loại thì dễ dàng tiếp thọ sự dạy bảo, giống như
loài người chúng ta cũng thế. Bất cứ hạng người nào, thì dễ làm bạn với
hạng người đó. Người làm ăn thì làm bạn với người làm ăn, người đi học thì
làm bạn với người đi học, người học Phật thì làm bạn với người học Phật,
người đánh bạc thì tìm người đánh bạc làm bạn, kẻ ăn trộm thì làm bạn với
người ăn trộm. Vì quan hệ như thế, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm thường
hóa hiện ra thân đồng loại với chúng sinh, thị hiện phương tiện khiến cho
chúng sinh, dễ dàng tiếp thọ độ hóa. Song, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chỉ
dùng thần thông biến hóa, để hiện thân thuyết pháp, và chẳng nhất định tầm
thanh cứu khổ mới ứng hóa, thậm chí Ngài phân linh để đến thế giới này làm
người, cũng tu học Phật pháp, sau đó mới giáo hóa vô lượng vô biên chúng
sinh. Ví như đối với hạng học sĩ, thì Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân làm một
vị giáo thọ, để vì họ diễn nói Phật pháp khéo dụ, dần dần khiến cho một số
học giả cảm thấy hứng thú đối với Phật pháp, tăng thêm niềm tin, mà phát
tâm quy y, thọ trì một giới, hai giới, năm giới, cho đến mười giới trọng và
bốn mươi tám giới khinh của Bồ Tát, sau đó y chiếu theo pháp môn của Bồ
Tát Quán Thế Âm mà tu hành, lại biến ra một Bồ Tát Quán Thế Âm, lại
thêm một hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Làm sao có thể có ‘’Ngàn trăm ức hóa thân’’? Tức là bạn mô phỏng Ngài,
học tập theo Ngài, thì biến thành hóa thân của Ngài. Do đó, ‘’Pháp chẳng có
pháp cố định’’, pháp này chẳng cố định, chẳng chấp trước. Nếu bạn nghĩ
chấp trước cố định, thử hỏi chính bạn xem cố định có thể không chết chăng ?
Nếu bạn nhất định không chết, thì việc đó cũng đều cố định. Cho nên đạo lý
‘’trăm ngàn ức hóa thân’’, chẳng khó khăn gì, chỉ cần bạn có tâm hằng
thường, có nghị lực học tập Bồ Tát Quán Thế Âm, hoằng dương Phật pháp,
cứu độ chúng sinh, thì bạn cũng là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Có
trăm người học Ngài, thì có trăm hóa thân, chỉ cần có người chịu phỏng theo
Ngài hoằng dương Phật pháp, thì sẽ có vô lượng vô biên hóa thân, đây là nói
về sự, nếu nói về lý tính thì, nếu bạn thành Phật cũng có đầy đủ trăm ngàn
ức hoá thân.
‘’Người đáng dùng thân trời Tự Tại độ được, thì liền hiện thân trời Tự Tại,
để vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân trời Ðại Tự Tại độ được, thì liền hiện
thân trời Ðại Tự Tại, để vì họ nói pháp.’’ Thân trời Tự Tại là gì ? Tức là
thiên ma ngoại đạo. Tôi nói toạt ra cho mọi người biết, thân trời Tự Tại này
tức là Thiên Chúa Giáo, Thiên Chúa cơ đốc giáo. Ðại Tự Tại Thiên Vương
cũng thuộc về loại tôn giáo này. Họ rất cống cao ngã mạn, họ nói chẳng có
Phật, chẳng có Pháp, chẳng có Tăng, hủy báng Tam Bảo, tự cho mình là tối
cao vô thượng. Tại sao lại như thế ? Vì họ quá tự tại, quá khoái lạc, thật là
thân trời Tự Tại ! Song, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng trách loài chúng sinh
này, khi cơ duyên của họ thành thục, thì Ngài cũng giảng giải Phật pháp cho
họ nghe, khiến cho họ chuyển mê thành ngộ, trở về nguồn cội.
Người đáng dùng thân thiên đại tướng quân độ được, thì liền hiện thân thiên
đại tướng quân, để vì họ nói pháp.
‘’Thiên Ðại Tướng Quân’’ này, có hai lối giải thích, một là làm đại tướng
quân ở trên trời, và thứ hai là thiên thần ở trên trời.
Khi họ hưởng hết phước trời, thì chuyển xuống nhân gian làm đại tướng
quân. Bồ Tát Quán Thế Âm biết nhân duyên của họ có thể độ được, thì liền
hiện thân thiên đại tướng quân, để vì họ nói pháp, phá trừ mê hoặc, giác ngộ
vô thường, buông xả tất cả khoái lạc thế gian, phát tâm tu hành, cầu chứng
khoái lạc chân chánh vô thượng.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn độ được, thì liền hiện thân Tỳ Sa Môn, để
vì họ nói pháp.
Tỳ Sa Môn tức là tên của một trong bốn vị Thiên Vương, tức cũng là Thiên
Vương phương bắc Câu Lưu Châu. Bốn đại bộ châu đều có một vị Thiên
Vương, tức là Ðông Thiên Vương, Tây Thiên Vương, Nam Thiên Vương và
Bắc Thiên Vương. Ðáng dùng thân Tỳ Sa Môn độ được, thì Bồ Tát Quán
Thế Âm hiện ra thân Bắc Phương Thiên Vương để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân ông vua nhỏ độ được, thì liền hiện thân ông vua nhỏ,
để vì họ nói pháp.
Thân ông vua nhỏ là chỉ ông vua quản lý một nước, chỉ xưng vua trong một
nước. Người đáng dùng thân ông vua nhỏ độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm
liền hiện thân ông vua nhỏ, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân trưởng giả độ được, thì liền hiện thân trưởng giả, để
vì nọ nói pháp.
‘’Trưởng giả là gì ?’’ Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, phàm là người có
đạo đức, có trí huệ, có danh vọng, quý tộc, niên cao, người trưởng bối,
không có ai mà chẳng mến họ, người vãn bối không có ai mà chẳng cung
kính họ. Tại sao ai ai cũng đều đối tốt với họ ? Vì họ có tâm từ bi, bình
đẳng, nhiệt tâm giúp đỡ mọi người, hết thảy mọi người đều công nhận họ là
‘’trưởng giả’’. Nếu có người đáng dùng thân trưởng giả độ được, thì Bồ Tát
Quán Thế Âm hiện thân trưởng giả giàu có, để vì họ nói pháp. Trong Chú
Ðại Bi có hình tướng đại trượng phu, của Bồ Tát Quán Thế Âm hiện tướng
trưởng giả, có râu dài mấy thước, đoan nhiên chánh tọa, oai phong lẫm liệt,
đó tức là tướng trưởng giả giàu có.
Người đáng dùng thân cư sĩ độ được, thì liền hiện thân cư sĩ, mà vì họ nói
pháp.
‘’Người đáng dùng thân cư sĩ độ được’’, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện
thân cư sĩ, để vì người đó nói pháp. Cư sĩ tức là người cư sĩ tại gia, tức cũng
là người tại gia tin Phật, giữ gìn năm giới, tu mười điều thiện. Năm giới là gì
? Tức là không sát sinh, không trộm cắp, không ta dâm, không nói dối,
không uống rượu. Mười điều lành là gì ? Tức là ngược lại với mười điều ác :
Sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Ý có ba điều ác : Tham, sân, si. Miệng có bốn
điều ác : Nói dối, nói hai chiều, nói thêu dệt, chưởi mắng. Thân có ba điều
ác, ý có ba điều ác, miệng có bốn điều ác, hợp lại là mười điều ác. Chuyển
mười điều ác này thì thành mười điều thiện. Mười điều thiện tức là chẳng sát
sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, chẳng
nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói hai chiều, chẳng chười mắng.
Bạn chẳng làm ác cũng tức là thiện. Làm cư sĩ thì một mặt phải phụng trì
năm giới mười điều lành, một mặt hộ trì Tam Bảo, hộ trì Phật pháp, đề
xướng Phật giáo, khiến cho Phật giáo ngày càng hưng thạnh, đó là trách
nhiệm của mỗi cư sĩ chúng ta, trách nhiệm của người xuất gia là hoằng
dương Phật pháp.
Người đáng dùng thân tể quan độ được, thì liền hiện thân tể quan, để vì họ
nói pháp.
Tể tức là tể hạt vạn hóa, nghĩa là làm tể tướng, hoặc là chức quan lớn khác.
Người đáng dùng thân làm quan độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng
hiện thân làm quan, hoặc thân tể tướng, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà la môn độ được, thì liền hiện thân Bà la môn, để
vì họ nói pháp.
Ðáng dùng thân bàng môn tả đạo ở Ấn Ðộ, chí tu phạm hạnh thanh tịnh Bà
la môn độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn hiện thân ngoại đạo Bà la
môn, để vì chúng sinh nói pháp, khiến cho họ minh bạch Phật pháp, y giáo
phụng hành, tương lai sẽ thành Phật đạo.
Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, độ được,
thì liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, để vì họ nói
pháp.
Tỳ Kheo là tiếng phạn, dịch ra gồm có ba nghĩa :
1). Bố ma : Vì có người xuất gia tu đạo, thọ giới cụ túc, nên quyến thuộc của
ma giảm bới, cho nên khiến cho ma vương sợ hãi.
2). Khất sỉ : Người Tăng sĩ xuất gia, trên khất (xin) pháp của chư Phật để
nuôi pháp thân; dưới khất (xin) thức ăn của chúng sinh, để nuôi dưỡng sắc
thân.
3). Phá phiền não : Xuất gia tu đạo, y giáo phụng hành, sẽ phá trừ vô minh
phiền não, thấy tánh thành Phật, nên gọi là phá phiền não. Tỳ Kheo ni tức là
người nữ xuất gia thọ giới cụ túc. Cư sĩ nam, cư sĩ nữ. Tiếng Phạn gọi là ưu
bà tắc, ưu bà di, nghĩa là cư sĩ nam, cư sĩ nữ gần gũi Tam Bảo, thường đến
chùa lễ Phật, tụng kinh, quét dọn, cúng dường Tam Bảo, làm công đức, làm
phước. Bồ Tát Quán Thế Âm thấy tất cả chúng sinh này, đáng dùng thân Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, độ được, thì liền hiện thân Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, để vì những chúng sinh đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà la môn, độ
được, thì liền hiện thân phụ nữ, để vì họ nói pháp.
Trưởng giả cũng bao quát vợ của trưởng giả, cư sĩ cũng bao quát vợ của cư
sĩ, tể quan cũng bao quát vợ của tể quan, Bà la môn cũng bao quát vợ của Bà
la môn. Trưởng giả cũng có nữ trưởng giả, cư sĩ cũng có nữ cư sĩ, tể quan
cũng có nữ tể quan, Bà la môn cũng có nữ Bà la môn. Do đó, nếu có người
đáng dùng đủ thứ thân phụ nữ độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn hiện ra
thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà la môn, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ, độ được, thì liền hiện thân đồng
nam, đồng nữ, để vì họ nói pháp.
Bồ Tát Vi Ðà trong quá khứ phát nguyện, đời đời kiếp kiếp muốn làm đồng
nam, còn Long Nữ Bồ Tát trong quá khứ, cũng phát nguyện đời đời kiếp
kiếp làm đồng nữ, chẳng muốn kết hôn.
Nói về sinh lý của con người thì, đồng nam đồng nữ tức là chẳng phá hoại
thân thể. Một khi nam nữ khác tính tiếp xúc với nhau, thì thân thể chẳng còn
nguyên vẹn, trên văn pháp Trung Quốc gọi đó là ‘’phá thân’’, tức là thân thể
phá hoại. Nếu không trải qua hành vi tính nam nữ đó, tức là thân thể còn
nguyên vẹn. Ở Trung Quốc, có một thứ công phu đánh chưởng gọi là đồng
tử công, đồng tử công tức cũng là thân thể của họ nhất định phải nguyên
vẹn, chẳng bị phá hoại. Thứ công phu này, một khi luyện thành công, thì đao
chém chẳng đứt, thương đâm chẳng lủng, đao thương chẳng làm gì được.
Tại sao vậy ? Tức là ‘’Nội luyện nhất khẩu khí’’ : Vì bên trong họ nhờ một
luồng chánh khí, chẳng bị sự phá hoại, ‘’Ngoại luyện cân cốt bì’’ : Bên
ngoài thì luyện gân cốt và da thịt. Cho nên hay sinh ra tát dụng lớn như thế.
Trong Phật giáo, thân đồng nam, đồng nữ là thanh tịnh nhất, chẳng có ô
nhiễm, nếu tu đạo hoặc tham thiền, thì sớm sẽ thành tựu, mau khai ngộ, đắc
được thiên nhãn. Do đó, đồng trinh nhập đạo là quý báu nhất. Ðồng nam
thuộc về (quẻ) càn. Càn tức là thuần dương. Ðồng nữ thuộc về (quẻ) khôn,
tức thuộc về thuần âm. Một thuần dương, một thuần âm, cho nên ở trong đạo
giáo mà nói, thì đây là thân thể thanh tịnh nhất. Bồ Tát Quán Thế Âm quán
nhân duyên, nếu người nào đó đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ, tu hành
đắc đạo, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn hiện thân đồng nam, đồng nữ, để vì
họ nói pháp, khiến cho họ phát bồ đề tâm, sớm thành tựu Phật đạo.
Người đáng dùng thân trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la,
Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, độ được, thì liền hiện ra
các thân đó, để vì họ nói pháp.
Rồng có rất nhiều loại, có rồng ở trên trời, có rồng ở trong biển, có rồng giữ
kho tàng. Rồng trên trời làm hộ pháp ở trên trời, rồng trong biển là ở trong
cung rồng làm thủ lãnh cá, rùa, tôm, cua; còn gọi là rồng làm mưa. Rồng giữ
kho tàng, tức là rồng bảo vệ châu báu. Thời xưa có rất nhiều rồng, bây giờ
một số người chẳng nhìn thấy, bèn nói là không có. Kỳ thật, rồng rất nhiều.
Vào thời Lục Tổ Huệ Năng, có một con rồng độc, chuyên môn phun hơi
độc. Ai mà trúng chất độc này, thì sẽ sinh bệnh, thậm chí chẳng trị được mà
chết. Ðương thời, nền đất thiền đường Chùa Nam Hoa, vốn là một đầm rồng
độc, diện tích cái đầm này lớn khoảng một mẫu, chẳng có ai biết đầm rộng
đó sâu bao nhiêu, trong đó lại có một con rồng, con rồng này, chẳng phải là
rồng tốt mà là rồng độc, chuyên môn hại người, nhất là làm cho những
người tu hành ở chùa Nam Hoa thường thường sinh bệnh, không thể tu hành.
Một lần nọ, Lục Tổ Huệ Năng đến đầm đó thì nó hiện thân lớn, chật đầy cái
đầm rộng một mẫu. Lục Tổ nhìn thấy bèn cười nói : ‘’Ê ! Ngươi chỉ có bản
lãnh hiện thân lớn, mà không thể hiện thân nhỏ, nếu chỉ hiện thân lớn, thì
chẳng có bản lãnh bao nhiêu.’’ Con rồng nghe rồi bèn ẩn thân lớn hiện ra
thân nhỏ, dài khoảng một tất, ở trong nước bơi tới bơi lui. Lục Tổ nói : ‘’Ê !
Ngươi có chút bản lãnh, có thể hiện lớn, có thể hiện nhỏ, nhưng không dám
nhảy vào trong bình bát của ta.’’ Lúc đó, con rồng nghe rồi, bèn nhảy vào
trong bình bát của Lục Tổ. Lục Tổ nói : ‘’ Ðây là ngươi tự động vào, nhưng
ra không được’’! Con rồng dùng mọi cách nhảy ra ngoài, nhưng chẳng cách
chi nhảy ra đuợc. Lục Tổ bèn nói với nó : ‘’Ngươi hà tất phải vùng vẫy, sao
đời này ngươi lại biến thành thân rồng ? Vì đời trước ngươi vốn là người tu
hành, cũng có căn lành, từng nghe Phật pháp, bất quá tâm sân của ngươi quá
nặng, tính nóng giận quá lớn, đây là thừa cấp giới hoãn (tu theo đại thừa mà
chẳng giữ giới), cho nên hiện nay ngươi mới đọa làm thân rồng. Ngươi đừng
cho rằng bản lãnh của mình là lớn, có thể biến lớn biến nhỏ, biến có biến
không ! Nhưng bây giờ ngươi đã ở trong bình bát của ta, thì không thể ra
được.’’ Rồng nghe những lời đó rồi, tức cũng bị hàng phục, chẳng thể ra
ngoài được nữa. Do đó, Lục Tổ nói pháp cho nó nghe, nó nghe pháp hiểu rõ
rồi, lập tức thoát khỏi thân rồng. Tro cốt con rồng này, được giữ ở chùa Nam
Hoa rất lâu, về sau vì chiến tranh binh lửa, nên cốt con rồng cũng mất đi. Ðó
là một đoạn nhân duyên Lục Tổ Huệ Năng hàng phục rồng độc ở chùa Nam
Hoa.
Vào đời Ðường ở Trung Quốc, có một thừa tướng tên Ngụy Chưng, ông ta
tuy làm thừa tướng ở nhân gian, mà cũng có thể lên trời làm quan. Ðương
thời, có Tiểu Bạch Long, vì làm mưa sai trật, Ngọc Hoàng kêu y mưa xuống
lượng nước một thốn ba tấc, song y mưa xuống lượng nước một thước ba
thốn, cho nên ruộng nương đều bị ngập lụt, đây là phạm pháp luật trên trời,
trên trời phái Ngụy Chưng đi chém Tiểu Bạch Long. Song, Tiểu Bạch Long
biết tin tức đó, nên trước hết y đi báo mộng cho vua Ðường Thái Tông, nói
với Ðường Thái Tông rằng : ‘’Ngày mai ông hãy cứu tôi, ông cũng là rồng,
mà tôi cũng là rồng, do đó ông hãy cứu mạng rồng này.’’ Ðường Thái Tông
nói : ‘’Ông và tôi đều là rồng, vậy chúng ta là anh em, ông có việc gì tôi nhất
định phải giúp đỡ, tôi nên làm thế nào mới có thể cứu ông ?’’ Rồng nói :
‘’Hôm nay tôi phạm pháp luật ở trên trời, vì mưa xuống sai, ngày mai phải
chịu quả báu chém đầu, mà người chém tôi, chính là thừa tướng Ngụy
Chưng. Ngày mai chỉ cần ông lưu giữ ông ta lại, cần ông ta hầu ông, đừng
sai ông ta làm việc gì cả, như thế thì ông ta chẳng giết được tôi.’’ Vua
Ðường Thái Tông nói : ‘’Cái đó thì dễ ! Ta là hoàng đế, ông ta làm quan cho
tôi, thì ông ta nhất định nghe lời của ta, ông đừng có lo lắng.’’ Do đó, ngày
thứ hai vua Ðường Thái Tông bèn kêu Ngụy Chưng đến đánh cờ. Vua Thái
tông nghĩ : ‘’Ta và ông ấy đánh cờ, thì ông ta không thể lìa khỏi mình được,
chắc chắn chẳng đi chém Tiểu Bạch Long kia’’. Do đó, hai người đánh cờ
với nhau, đánh đến trưa thì thừa tướng Ngụy Chưng bèn ngủ gục. Ðường
Thái Tông rất vui mừng nghĩ : ‘’Ông ta đã ngủ, thì chắc chắn chẳng đi chém
đầu Tiểu Bạch Long, bây giờ chẳng còn lo lắng nữa.’’ Không ngời thừa
tướng Ngụy Chưng ngủ, mà thần thức của ông ta xuất ra đi lên trời, dùng
thượng phương bảo kiếm chém đầu Tiểu Bạch Long. Sau đó lại trở về tiép
tục đánh cờ với vua Ðường Thái Tông, khi đã quá ngọ thì kết thúc ván cờ
đó. Vua Ðường Thái Tông tự nghĩ rằng Tiểu Bạch Long đã nói với mình, chỉ
cần quá ngọ thì thừa tướng Ngụy Chưng chẳng giết y nữa. Do đó, cho rằng :
‘’Mình đã cứu được anh em của mình, đây là việc công đức không nhỏ.’’
Không ngờ đêm hôm đó, Tiểu Bạch Long đến đòi mạng ông ta nói : ‘’Tôi đã
nói chúng ta là anh em, phải cứu tôi mà tại sao ông không cứu tôi ? Ðể cho
tên quan đó giết tôi. Bây giờ tôi phải giết ông để đền mạng cho tôi.’’ Vua
Ðường Thái Tông tỉnh dậy biết Tiểu Bạch Long đến đòi mạng. Ngày thứ hai
bèn thảo luận việc này với Từ Mậu Công, Từ Mậu công nói : ‘’Không quan
trọng, chúng ta đây có hai người Tần Quỳnh và Kính Ðức có thể cản được
nó. Ngài nên dùng hai người này gát bên ngoài cửa, thì Tiểu Bạch Long
chẳng dám đến, Tần Quỳnh là thần tướng mặt vàng, còn Kính Ðức là thần
tướng mặt đen, sắc mặt của y so với dầu hắc bây giờ còn đen hơn, đen đến
nỗi phát quang. Do đó, bèn dùng hai người này giữ cửa, quả nhiên Tiểu
Bạch Long tối chẳng dám đến. Về sau, chẳng cần hai người này gát cửa nữa,
mà chỉ vẽ hình của hai người này dán lên cửa, để gát cửa cho vua Ðường
Thái Tông, thì Tiểu Bạch Long vĩnh viễn chẳng dám đến nữa. Cho nên
người Trung Quốc mỗi lần qua năm thì vẽ hình của Tần Quỳnh và Kính Ðức
dán lên cửa, khiến cho yêu ma quỷ quái chẳng dám vào làm loạn.
Nhân quả của loài rồng là vì chúng ‘’thừa cấp giới hoãn’’ (tu đại thừa mà
chẳng giữ giới), tu hành rất dụng công, nhưng chẳng giữ gìn giới luật. Vì
chúng thừa cấp, cho nên có thần thông biến hóa, lại vì giới hoãn, nên đọa
làm súc sinh. Ðây là lược nói về rồng.
Dạ xoa cũng gọi là Dược Xoa đề, là tiếng phạn, nghĩa là ‘’tiệp tật’’, tức là
chạy nhanh, thậm chí còn nhanh hơn hỏa tiển bây giờ. Loài quỷ này trong
một niệm, có thể đến bất cứ nơi nào chúng nghĩ muốn đến.
Càn thát bà, dịch là hương thần, dùng hương làm thức ăn, thân tỏa ra mùi
hương. Lại dịch là nhạc thần, là thần tấu nhạc của vua Ðế Thích, đội mũ ba
góc, tay cầm ống tiêu, ống sáo, thân màu đỏ, búi tóc phóng ánh sáng màu
lửa ngọn. Ở Tây Vực gọi là người ca xướng là Càn Thác Bà.
A tu la là tiếng phạn, dịch là ‘’phi thiên’’. Vì chúng có phước trời, mà chẳng
có đức trời, tựa như trời mà chẳng phải trời. Lại dịch là ‘’Vô đoan chánh’’,
vì dung mạo của chúng rất xấu xí. Chẳng phải chỉ chúng sinh sinh vào loài A
tu la, thì mới là A tu la, mà trong sáu đường cũng có rất nhiều loài, A tu la
của ngựa rất nặng, do đó có câu ‘’ngựa hại bầy’’. Thứ ngưạ này, sống ở
trong bầy ngựa không đá con này, thì cũng cắn con kia. Tóm lại, y khiến cho
bầy ngựa đồng loại đều chẳng được bình an, có hại cho bầy ngựa, nên gọi là
ngựa hại bầy. Ðó cũng là một loài A tu la. Và bò cũng là A tu la, bạn thấy
trên đầu bò có hai cái sừng dài, hai cái sừng đó dự bị đánh lộn với người. Vì
thuở xưa khi làm A tu la, thì trên đầu thường đội cái mũ che đạn, thân cũng
mặc giáp, cho nên khi chuyển sinh làm bò, thì cũng chẳng quên được tính A
tu la. Chẳng những bò A tu la, mà gà trống cũng là A tu la biến thành. Gà
trống mỗi khi gặp gà trống khác thì muốn đá. Chăng những gà A tu la mà
con dế mèn cũng là A tu la, chúng đá với nhau, cho đến khi có một con chết
mới thôi. Ngoài ra như rắn, chuột, mèo .v.v... phàm là động vật tính tình
thích đấu, thích giết, đều thuộc về A tu la. Chúng sinh chuyển sinh làm A tu
la tướng mạo rất là xấu xí, bất đoan chánh nhất, mỏ dài như là mỏ heo, lỗ
mũi dài như lỗ mũi voi, mắt như mắt bò, tai như tai chuột. Hoặc là thân
người mà đầu heo, hoặc là thân người đầu bò, hoặc thân người đầu ngựa,
hoặc thân người đầu cọp, rất là hung ác. Tuy tướng mạo của nam A tu la rất
xấu xí, nhưng nữ A tu la rất xinh đẹp. Nữ A tu la có thể nói, ai thấy cũng ưa,
cho nên trời Ðế Thích một lần nọ, thấy nữ A tu la xinh đẽp, bèn nói với vua
A tu la cầu hôn, vua A tu la cũng đáp ứng, gả con gái cho trời Ðế Thích.
Tóm lại, A tu la thì thích nóng giận, thích đấu tranh. Người nào thường nóng
giận, thì tương lai đều có thể sinh làm A tu la, cũng có thể hiện tại là A tu la.
Nếu sửa đổi tính nóng giận, tu hạnh nhẫn nhục, thì sẽ thoát khỏi quan hệ với
đường A tu la.

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét