Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phần 6






Mỗi mỗi vị Bồ Tát
Ðem theo các quyến thuộc
Số đông nhiều vô lượng
Như số cát sông Hằng.
Hoặc có đại Bồ Tát
Ðem sáu vạn Hằng sa
Các đại chúng như thế
Một lòng cầu Phật đạo.
Các đại sư đó thảy
Sáu vạn Hằng hà sa
Ðều đến cúng dường Phật
Và hộ trì kinh này.
Mỗi vị đại Bồ Tát mang theo quyến thuộc số nhiều vô lượng, nhiều như số
cát sông Hằng. Hoặc có vị đại Bồ Tát mang theo đệ tử, nhiều như số cát sáu
vạn sông Hằng. Cả đại chúng này đều một lòng một dạ cầu Phật đạo, tức
cũng là cầu chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. A La Hán chỉ chứng
được quả vị Chánh giác, Bồ Tát chứng được quả vị Chánh đẳng, chỉ có Phật
mới chứng được quả vị Vô thượng.
Các vị đại Bồ Tát đại pháp sư này, cùng nhau đến trước Phật, cúng dường
Phật. Lại phát thệ nguyện hộ trì Kinh Pháp Hoa, suốt thuở vi lai cũng chẳng
nghỉ ngơi, quán triệt thủy chung, chẳng bao giờ thay đổi.
Ðem năm vạn Hằng sa
Hoặc số lượng trội hơn
Bốn vạn và ba vạn
Hai vạn đến một vạn.
Một ngàn một trăm thảy
Cho đến một Hằng sa
Nửa và ba bốn phần
Hoặc một phần ức vạn.
Ngàn vạn na do tha
Vạn ức các đệ tử
Cho đến số nửa ức
Số lượng lại hơn trên.
Trăm vạn đến một vạn
Một ngàn và một trăm
Năm mươi và một mươi
Cho đến ba hai một.
Hoặc có vị đại Bồ Tát mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát năm vạn
sông Hằng, hoặc có vị đại Bồ Tát mang theo quyến thuộc nhiều hơn năm
vạn, hoặc có vị đại Bồ Tát mang theo ít hơn năm vạn quyến thuộc, hoặc là
mang theo quyến thuộc nhiều như số cát bốn vạn sông Hằng, hoặc mang
theo quyến thuộc nhiều như số cát ba vạn sông Hằng, hoặc quyến thuộc
nhiều như số cát hai vạn sông Hằng, hoặc mang theo quyến thuộc nhiều như
số cát một vạn sông Hằng, hoặc mang theo quyến thuộc nhiều như số cát
một ngàn sông Hằng, hoặc mang theo quyến thuộc nhiều như số cát một
trăm sông Hằng, cho đến quyến thuộc nhiều như số cát nửa sông Hằng, hoặc
quyến thuộc nhiều như số cát một phần ba sông Hằng, hoặc quyến thuộc
nhiều như số cát một phần tư sông Hằng. Hoặc có vị đại Bồ Tát mang theo
ngàn vạn na do tha quyến thuộc, hoặc mang theo vạn ức quyến thuộc, cho
đến nửa ức quyến thuộc, hoặc nhiều hơn, hoặc ít hơn một chút, chẳng có số
lượng nhất định. Hoặc có vị đại Bồ Tát mang theo một trăm vạn quyến
thuộc, hoặc một vạn quyến thuộc, hoặc một ngàn quyến thuộc, hoặc một
trăm quyến thuộc, hoặc năm mươi quyến thuộc, hoặc mười quyến thuộc,
hoặc ba quyến thuộc, hoặc hai quyến thuộc, hoặc một quyến thuộc.
Đơn độc chẳng quyến thuộc
Ưa thích tu một mình
Đều đến chỗ đức Phật
Số đó lại hơn trên.
Các đại chúng như thế
Nếu ai muốn tính đếm
Trải qua Hằng sa kiếp
Không thể biết hết được.
Có vị đại Bồ Tát chỉ đến một mình, chẳng mang theo quyến thuộc. Tại sao ?
Vì thích tu hành một mình, chẳng muốn thu nhận đệ tử. Hiện tại đều đã đến
trong pháp hội đạo tràng của đức Phật Thích Ca.
Ðại chúng đông như thế, nếu như có ai dùng toán số để tính đếm, thì dù trải
qua số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, cũng không thể biết được số mục
chính xác là bao nhiêu.
Các đại uy đức đó
Chúng Bồ Tát tinh tấn
Ai vì họ nói pháp
Giáo hóa mà thành tựu ?
Từ ai sơ phát tâm
Xưng dương Phật pháp nào
Thọ trì hành kinh gì
Tu tập Phật đạo nào ?
Các Bồ Tát như thế
Thần thông đại trí lực
Bốn phương đất rúng nứt
Ðều từ đất vọt lên.
Có những chúng Bồ Tát có đại uy đức, có chúng Bồ Tát tinh tấn tu hành,
trước nhứt ai vì họ nói pháp ? Ai giáo hóa họ thành tựu đạo nghiệp Bồ Tát ?
Những vị Bồ Tát này, trước hết theo vị pháp sư nào phát tâm nghiên cứu
Phật pháp ? Theo vị pháp sư nào xuất gia tu đạo ? Theo vị pháp sư nào tu
hành lục độ vạn hạnh ? Các Ngài xưng dương Phật pháp nào ? Các Ngài thọ
trì kinh điển gì ? Các Ngài từ tông nào nhập môn ? Các Ngài tu Phật đạo nào
?
Những vị đại Bồ Tát này, do sức thần thông rộng lớn, sức trí huệ cũng lớn,
cho nên đại địa bốn phương đều rúng nứt. Các Ngài đều từ dưới đất vọt lên,
giống như nước vọt lên, cảnh giới này diệu không thể tả.
Thế Tôn con xưa nay
Chưa từng thấy việc này
Xin nói chỗ họ đến
Tên cõi nước họ ở.
Con thường đi các cõi
Chưa từng thấy chúng này
Con ở trong chúng này
Chẳng quen biết một người.
Ðột nhiên từ đất lên
Xin nói rõ nhân duyên.
Bồ Tát Di Lặc lại xưng một tiếng Ðức Thế Tôn ! con từ xưa đến nay chưa
từng thấy qua cảnh giới này. Con xin đức Thế Tôn từ bi nói rõ, những vị đại
Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, các Ngài từ đâu đến ? Cõi nước của các Ngài tu
tên là gì ? Bồ Tát Di Lặc lại nói : Tuy nhiên con thường du hành khắp các
cõi nước, song con chẳng bao giờ thấy những vị đại Bồ Tát này, ở trong
những vị đại Bồ Tát này, con chẳng quen biết một người nào cả. Các Ngài
đột nhiên từ dưới đất vọt lên, khiến cho mọi người kinh ngạc, xin đức Thế
Tôn vì đại chúng nói rõ nhân duyên này.
Nay trong đại hội này
Vô lượng trăm ngàn ức.
Các Bồ Tát này thảy
Ðều muốn biết việc này
Nhân duyên và gốc ngọn
Các chúng Bồ Tát đó.
Vô lượng đức Thế Tôn
Xin nguyện giải chúng nghi.
Hiện tại ở trong đại hội này, có vô lượng trăm ngàn ức vị Bồ Tát đều muốn
biết việc này. Những vị đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, nhân duyên cứu kính
như thế nào ? Hy vọng vô lượng đức Thế Tôn, xin nguyện các Ngài vì đại
chúng mà giải quyết sự nghi vấn này.
Bấy giờ, các phân thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đến từ vô lượng
ngàn vạn ức cõi nước phương khác, ở dưới các cây báu trong tám phương,
đều ngồi kiết già trên tòa sư tử. Thị giả của các đức Phật đó, đều thấy đại
chúng Bồ Tát đó, trong ba ngàn đại thiên thế giới bốn phương, từ dưới đất
vọt lên trụ ở trong hư không. Các vị thị giả đều bạch với Phật của mình rằng
: Ðức Thế Tôn ! Vô lượng vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát đó, từ đâu
đến đây ?
Lúc ấy, vô số vô lượng phân thân hóa Phật Thích Ca Mâu Ni, từ vô lượng
ngàn vạn ức cõi nước khác đến, đều ngồi kiết già trên tòa sư tử dưới các cây
báu. Ngồi kiết già là pháp ngồi tôn quý nhất của Phật Giáo, có thể hàng ma,
có thể nhiếp tâm. Mỗi vị thị giả của Phật, thấy vô lượng chúng đại Bồ Tát
đó, từ bốn phương ba ngàn đại thiên thế giới, từ dưới đất vọt lên, trụ ở trong
hư không, cảm thấy rất kỳ lạ, do đó mỗi vị thị giả đều hỏi với mỗi vị Phật
của mình rằng : ‘’Thế Tôn ! Vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng đại Bồ Tát
đó, từ nơi nào đến đây ?‘’ Chẳng những Bồ Tát Di Lặc và đại chúng trong
pháp hội khởi nghi vấn, mà thị giả của Phật, cũng khởi tâm hoài nghi, cho
nên mới hỏi như thế.
Bấy giờ, các đức Phật đều bảo thị giả rằng : Các thiện nam tử ! Hãy đợi giây
lát, có đại Bồ Tát tên là Di Lặc, được đức Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ
thành Phật, đã hỏi việc đó. Ðức Phật sẽ trả lời, các ông sẽ nhờ đó mà được
nghe.
Lúc đó, các hóa Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, đều bảo thị giả
của mình rằng : ‘’Các thiện nam tử !Dừng gấp vội, hãy đợi một chút nữa, có
vị đại Bồ Tát Di Lặc. Ðức Phật Thích Ca đã thọ ký cho Ngài tương lai sẽ hạ
sinh xuống thành Phật hiệu là Di Lặc. Ngài cũng đã hỏi Phật về việc này,
Phật Thích Ca sẽ đáp. Các ông sẽ minh bạch về việc này.’’
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Di Lặc : Lành thay ! Lành thay ! A
Dật Ða mới có thể hỏi Phật việc lớn như thế. Các ông nên cùng một lòng
mặc áo giáp tinh tấn, phát tâm kiên cố, nay Như Lai muốn hiển phát, diễn
nói mở bày trí tuệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức sư tử
phấn tấn của chư Phật, sức oai mãnh đại thế của chư Phật.
Lúc ấy, đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Di Lặc nói : ‘’Lành thay (trên khế với
ý của Phật) ! Lành thay (dưới hợp với tâm chúng sinh) ! A Dật Ða (Vô Năng
Thắng là tên của Bồ Tát Di Lặc) ! Phật gọi một tiếng A Dật Ða ! Ông có thể
hỏi Phật việc lớn như thế, các ông mọi người nên cùng đồng một lòng, mặc
giáp tinh tấn, đừng giải đãi tán loạn, phải phát tâm kiên cố, đừng thối
chuyển.’’
Sao lại nói là việc lớn ? Vì đây là pháp môn khai cận hiển viễn (mở gần hiểu
xa). Thời Hoa Nghiêm chẳng nói về pháp môn này, thời A Hàm, thời
Phương Ðẳng, thời Bát Nhã, cũng chẳng nói về pháp môn này. Chỉ duy nhất
thời Pháp Hoa, mới nói pháp môn khai quyền hiển thật (mở bày phương tiện
để hiển lộ chân thật). Ðây là pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn, cho nên
nói là việc lớn.
Ðức Phật Thích Ca lại nói : ‘’Hôm nay Như Lai muốn hiển phát diễn nói mở
bày trí huệ của chư Phật.’’ Gì là trí huệ của chư Phật, tức là Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa.
Hôm nay Như Lai muốn hiển phát, diễn nói mở bày sức thần thông tự tại của
chư Phật, sức sư tử phấn tấn của chư Phật, sức oai mãnh đại thế của chư
Phật. Trí huệ là ngã đức, thần thông là lạc đức, sư tử phấn tấn là tịnh đức,
oai mãnh đại thế là thường đức. Vì bốn đức Niết Bàn viên mãn, cho nên ở
trong đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, đều có lợi ích đối với tất cả chúng
sinh, cho nên gọi là lực.
Sức thần thông tự tại là vào nhà từ bi cứu kính, sức sư tử phấn tấn là ngồi tòa
pháp vương cứu kính; sức oai mãnh đại thế là mặc y nhẫn nhục cứu kính.
Ðây là cảnh giới vào nhà Như Lai, ngồi tòa Như Lai, mặc y Như Lai.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Hãy một lòng tinh tấn
Ta muốn nói việc đó
Chớ đừng có nghi hối
Trí Phật không nghĩ bàn.
Nay ông sinh đức tin
Trụ ở trong nhẫn nhục
Pháp chỗ xưa chưa nghe
Nay đều sẽ được nghe.
Lúc đó, Phật Thích Ca nói xong trường hàng rồi, e rằng đại chúng ở trong
pháp hội có chỗ chưa minh bạch, cho nên không ngại nói lại rõ ràng đạo lý
này, bèn dùng kệ để nói lại.
Ðức Phật Thích Ca nói : ‘’Ðại chúng ở trong pháp hội và đại chúng đến từ
mười phương ! Các ông mọi người hãy dũng mãnh tinh tấn, chuyên tâm nhất
ý. Ta sẽ nói việc đó.’’ Việc gì ? Là đại nhân duyên ta thị hiện ra đời, do đó
các ông đại chúng đừng sinh tâm hoài nghi. Trí huệ của ta và mười phương
chư Phật đều không thể nghĩ bàn. Hàng phàm phu tục tử không thể tưởng
tượng được trí huệ của Phật. Trí huệ của Phật chẳng có gì mà không biết,
chẳng có gì mà không rõ. Trí huệ là gì ? Tức là thông suốt các pháp là trí,
đoạn hoặc chứng lý là huệ; cũng có thể nói thông đạt sự tướng hữu vi là trí,
thông đạt lý không vô vi là huệ.
Bây giờ, các ông phải đem tín tâm và sức lực ra, trụ ở trong nhẫn nhục Ba la
mật, tu hành việc lành :
‘’Ðừng làm các việc ác,
Hãy làm các việc lành.’’
Diệu pháp của Kinh Pháp Hoa trước kia các ông chưa nghe qua, chỉ có bây
giờ mới được nghe. Pháp mà ta nói trước kia, đều là pháp môn thiện xảo
phương tiện. Pháp mà hôm nay nói mới là pháp chân thật. Diệu pháp này:
‘’Có thể tị hung hóa cát, có thể lìa khổ được vui.’’
Nay ta an ủi ông
Chớ đừng hoài nghi sợ
Lời Phật nói chẳng sai
Trí huệ không thể lường.
Ðắc được pháp bậc nhất
Thâm sâu không phân biệt
Như vậy nay sẽ nói
Các ông một lòng nghe.
Bây giờ, ta an ủi các ông, đừng sinh tâm hoài nghi sợ sệt. Pháp của ta nói
chân thật không hư. Bây giờ nói về pháp khai quyền hiển thật, khai cận hiển
viễn. Các ông phải sinh tín tâm:
‘’Tín là nguồn đạo mẹ công đức,
Nuôi lớn tất cả các pháp lành.’’
Phật nói lời chân thật, chẳng nói lời hư dối. Trí huệ của Phật không thể nghĩ
bàn. Phật đắc được diệu pháp bậc nhất, như biển cả, sâu không thể dò. Bây
giờ là lúc nên nói, các ông phải tụ tinh hội thần, chuyên tâm nhất ý để nghe.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Bồ Tát Di Lặc : Hôm nay ta ở trong
chúng này nói với các ông : A Dật Ða ! Các chúng đại Bồ Tát đó, vô lượng
vô số A tăng kỳ từ dưới đất vọt lên. Thuở xưa các ông chưa từng thấy, ta ở
tại thế giới Ta Bà này, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi,
bèn giáo hóa chỉ đạo cho các Bồ Tát đó, điều phục tâm của họ, khiến cho họ
phát đạo tâm. Những vị Bồ Tát đó, đều ở dưới thế giới Ta Bà này, trụ ở
trong hư không. Nơi các kinh điển, họ đều đọc tụng thông thuộc, suy gẫm
phân biệt, nghĩ nhớ chân chánh.
Ta ở tại thế giới Ta Bà này, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác
rồi, ta bèn đến giáo hóa chỉ đạo những vị đại Bồ Tát đó, điều phục tâm của
họ, khiến cho họ chẳng còn phiền não, chẳng còn vô minh, chẳng còn kiến
tư hoặc, chẳng còn trần sa hoặc, chẳng còn tập khí, chẳng còn nóng giận,
khiến cho họ đều phát bồ đề tâm, tu Bồ Tát đạo, đó là sở thành tựu của ta
trong quá khứ, họ đều là đệ tử của ta ở trong quá khứ.
Những vị Bồ Tát đó, từ dưới đất vọt lên, họ đều ở dưới cõi Ta Bà, tức cũng
là cõi phương dưới, ở trong hư không cõi nước đó. Cảnh giới này, phàm phu
tục tử chẳng cách chi biết được. Nếu người đắc được ngũ nhãn lục thông, thì
nhìn thấy ở trong hư không có đủ thứ cung điện, đủ thứ lầu các, đều dùng
bảy báu tạo thành. Mỗi tòa cung điện, mỗi tòa lầu các, đều trở thành đạo
tràng thuyết pháp của chư Phật, có các vị đại Bồ Tát ở tại đó nghe pháp, tu
hành, cho nên gọi là pháp giới.
Ðầy khắp hư không đều là nơi đầy dẫy Phật pháp. Ở dưới cõi Ta Bà cách
mười sáu vạn tám ngàn do tuần, là nơi chốn trụ xứ của các vị đại Bồ Tát đó
ở. Ðối với tất cả kinh điển, họ đều đọc tụng thông thuộc, chẳng có gì chướng
ngại, dù một câu một chữ, cũng không thiếu sót được, hoặc quên mất, còn có
thể suy gẫm và phân biệt diệu nghĩa của kinh văn.
A Dật Ða ! Hết thảy các vị thiện nam tử đó, chẳng ưa thích ở nơi chúng nói
nhiều, thường thích ở chỗ yên tĩnh, siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ ngơi,
cũng chẳng ở tại nhân gian, cũng chẳng ở trên trời, thường thích trí huệ thâm
sâu, chẳng có chướng ngại, cũng thường ưa thích pháp của chư Phật, một
lòng tinh tấn cầu trí huệ vô thượng.
Ðức Phật Thích Ca lại gọi một tiếng A Dật Ða ! Những vị thiện nam tử đó
thảy, họ chẳng hoan hỷ ở trong chúng (tam giới). Có năm ấm tức là ở tại
chúng. Bồ Tát chiếu thấy năm uẩn đều không, tức là chẳng thích ở tại chúng.
Tuy nhiên họ vượt ra ngoài tam giới, thấu rõ các pháp, song vẫn nói nhiều.
Họ thích ở chỗ thanh tịnh, tức cũng là đệ nhất nghĩa đế. Họ đối với pháp đệ
nhất nghĩa đế không nói không lời, rất siêng hành tinh tấn, thời khắc đều tu
hành, một chút cũng chẳng giải đãi. Họ nghiên cứu Phật pháp, tu trì Phật
pháp, chẳng khi nào nghỉ ngơi ; ‘’Vì pháp quên mình,’’ vì Phật pháp mà
quên hết tất cả, đó mới là bản sắc học Phật pháp.
Họ cũng chẳng ở tại nhân gian, cũng chẳng ở trên trời, mà ở trong hư không.
Họ thích trí huệ thâm sâu, chẳng có gì chướng ngại, cũng luôn luôn thích tu
hành pháp của chư Phật nói, đối với Phật pháp một lòng tinh tấn, chẳng có
hai niệm, chuyên tâm cầu trí huệ vô thượng của Phật.
Tại sao chúng ta gặp sự việc thì nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng ? Vì có
sự chướng ngại. Chướng ngại có phiền não chướng và sở tri chướng.
Phiền não chướng là gì ? Chấp trước năm uẩn là ta, do vọng kiến ngã chấp
này, dẫn đến sinh ra tất cả phiền não, hay chướng ngại chứng Niết Bàn.
Sở tri chướng là gì ? Chấp trước vào năm uẩn là thật có, sự vọng kiến chấp
pháp này, hay che đậy chướng ngại sự hiểu biết, khiến cho con người chẳng
biết, làm chướng ngại chứng bồ đề.
Lại có bốn thứ chướng :
1). Hoặc chướng : Tham dục, sân hận, ngu si, đó là tư hoặc.
2). Nghiệp chướng : Nghiệp ác tạo ra bởi thân khẩu ý.
3). Báo chướng : Khổ báo, điạ ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ba đường ác.
4). Kiến chướng : Các tà tri tà kiến chướng ngại chánh đạo.
Sáu thứ chướng ở trên, thì sở tri chướng là lợi hại nhất. Nếu không biết thì
chẳng có chướng ngại; nếu biết nhiều thì ngược lại sinh ra chướng ngại, sinh
ra tư tưởng cống cao ngã mạn. Giống như trước kia chưa học Phật pháp, thì
chẳng có chướng ngại, sau khi học Phật pháp được mấy năm, thì cảm thấy
rằng mình hiểu nhiều hơn bất cứ ai, đó là bị sự hiểu biết làm chướng ngại.
Mục đích học Phật pháp là học vô chướng ngại, song ngược lại học ra sự
chướng ngại. Có chướng ngại thì không thể chứng nhập bồ đề chánh đạo. Vì
tự tánh chân như bị che đậy. Người có đại trí huệ thì chẳng có chướng ngại
gì cả. Bất cứ như thế nào cũng đều hoan hỷ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, đức Phật từ bi, sợ đại chúng chẳng minh bạch đạo lý này, cho nên
dùng kệ để thuật lại.
A Dật Ða nên biết !
Các đại Bồ Tát đó
Từ số kiếp đến nay
Tu tập trí của Phật.
Ðều do ta giáo hóa
Khiến phát đại đạo tâm
Họ đều là con ta
Nương trụ thế giới đó.
Thường tu hạnh đầu đà
Ý thích nơi chỗ vắng
Bỏ đại chúng ồn náo
Chẳng ưa thích nói nhiều.
Ðức Phật thuật lại nghĩa lý kinh trường hàng ở trên, gọi một tiếng A Dật Ða
! Các ông nên biết, các đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, họ từ vô lượng kiếp
đến nay, đời đời kiếp kiếp, đều tu học trí huệ của Phật, dũng mãnh tinh tấn,
chẳng khi nào giải đãi.
Các đại Bồ Tát đó, từ ban đầu phát tâm cho đến bây giờ thành đại Bồ Tát,
đều do ta giáo hóa, khiến cho họ phát tâm tu Phật đạo vô thượng. Ðó đều là
những đệ tử thuở xưa ta giáo hóa, hiện tại họ nương trụ trong hư không, ở
dưới cõi Ta Bà. Hiện tại từ dưới đất vọt lên, đến pháp hội làm ảnh hưởng
chúng, ảnh hưởng đại chúng phát bồ đề tâm, tức cũng là trên cầu Phật đạo,
dưới độ chúng sinh.
Những vị đại Bồ Tát đó, đều tu hạnh đầu đà, tức là tu khổ hạnh. Chí nguyện
của họ thích nơi vắng lặng, xa lìa đại chúng ồn náo, tức cũng là xả bỏ phiền
não. Tóm lại, đều bỏ lìa phiền não kiến tư (thấy nghĩ), phiền não trần sa,
phiền não vô minh, họ chẳng thích nói nhiều, giữ sự yên lặng.
Hạnh đầu đà có quy định mười hai hạnh :
1). Y phấn tảo : Lượm vải cũ rách mà người ta bỏ ở đống rác, giặt sạch rồi
may thành y.
2). Chỉ có ba y : Tức là tổ y (25 điều), y bảy điều, y năm điều. Ngoài ba y
này ra, chẳng dùng y nào khác nữa. Hai điều trên là quy định thuộc về y
phục.
3). Thường đi khất thực : Không nhận người khác thỉnh mời, chẳng ăn đồ
vật của Tăng đoàn. Ôm bát đi khất thực, khiến cho chúng sinh gieo trồng
vào ruộng phước.
4). Khất thực có thứ tự : Theo thứ tự từng nhà mà khất thực, chẳng lựa giàu
nghèo, giới hạn là bảy nhà, chẳng khất thực nhiều hơn nữa.
5). Ngày ăn một bữa : Mỗi ngày chỉ dùng một bữa, quá giờ ngọ không ăn.
6). Ăn uống có tiết lượng : Chỉ ăn một bát cơm, chẳng ăn quá no. Ăn ít thì
dục niệm ít, duy trì được sinh mạng là được.
7). Quá ngọ không uống nước có chất bổ : Tuyệt đối không uống sữa bò và
mật đường .v.v...tức là nước trái cây và cà phê cũng cấm luôn. Năm thứ ở
trên là thuộc về sự ăn uống.
8). Ở chỗ A lan nhã : Tức là ở trong thâm sơn cùng cốc, xa lìa sự náo nhiệt,
khiến cho thân tâm thanh tịnh, an tâm mà tu đạo.
9). Ở nghĩa địa : Ở ngoài nghĩa địa, tu quán xương trắng, xa lìa năm dục,
chẳng sinh tâm tham dục.
10). Ở dưới gốc cây : Ðêm ngủ ở dưới gốc cây, song chẳng quá ba đêm, quá
ba đêm thì dọn đi đến nơi khác, để tránh sanh tâm phan duyên.
11). Ở ngoài trời : Ở dưới gốc cây còn có sự che đậy. Nay vì trừ khử tâm
tham nên ở ngoài trời.
12). Thường ngồi không nằm : Bất cứ ở đâu cũng đều ngồi thiền tư thế kiết
già, lưng không đụng chiếu. Năm điều ở trên là thuộc về chỗ ở.
Người tu khổ hạnh thì giữ gìn mười hai điều quy định này, bằng không thì sẽ
sinh tâm tham đối với ăn mặc và chỗ ở, sẽ chướng ngại sự tu đạo. Song,
pháp chẳng nhất định, trước hết phải giữ điều nào trong mười hai điều để tu
hành, song phải triệt để, có trước có sau, từ từ tập quán sẽ thành tự nhiên, sẽ
hoàn thành quy tắc hạnh đầu đà.
Các con như vậy thảy
Tu học đạo pháp ta
Ngày đêm thường tinh tấn
Chỉ vì cầu Phật đạo.
Trụ ở trong hư không
Phương dưới cõi Ta Bà
Sức chí niệm kiên cố
Thường siêng cầu trí huệ.
Nói đủ thứ diệu pháp
Tâm họ chẳng sợ sệt.
Những vị đệ tử này, y giáo phụng hành tu học Phật đạo và Phật pháp do ta
giáo hóa. Họ chỉ vì cầu Phật đạo, cho nên ngày đêm sáu thời dũng mãnh
dụng công, chẳng giải đãi.
Chúng sinh đều có xí đồ cầu tài sắc danh thực thùy năm dục. Cầu chẳng
được thì sinh phiền não, nên dùng ngũ đình tâm quán để khống chế. Ðối với
chúng sinh nhiều tham, thì khiến cho họ tu quán bất tịnh. Quán sát thân này
là túi da hôi thối, chín lỗ thường bài tiết đồ bất tịnh, chẳng có chỗ nào thanh
tịnh. Ðối với chúng sinh nhiều sân hận, thì dạy họ tu quán từ bi. Người có
tâm từ bi thì đối với bất cứ ai cũng chẳng nóng giận. Xem tất cả chúng sinh
như con cái, quán như thế thì sẽ sinh tâm từ bi. Ðối với chúng sinh nhiều si
mê, thì dạy họ tu quán nhân duyên. Quán mười hai nhân duyên thì sẽ ngộ lý
sinh tử lưu chuyển. Ðối với chúng sinh nhiều chướng, thì dạy họ tu quán
niệm Phật, đừng tu pháp môn quán không, quán giả, quán trung, chỉ cần
niệm danh hiệu ‘’Nam Mô A Di Ðà Phật‘’ thì có thể sẽ vãng sinh thế giới
Cực Lạc. Ðối với chúng sinh tán loan, thì dạy họ tu quán sổ tức, đếm hơi
thở, lâu dần thì sẽ khống chế được vọng tưởng tâm viên ý mã, hết tâm tán
loạn. Ðây là quá trình người tu đạo phải tu trì.
Các vị đại Bồ Tát đó, trụ ở phương dưới của cõi Ta Bà, trụ ở trong hư
không. Sức chí niệm của họ rất kiên cố, tuyệt đối chẳng thối chuyển. Tinh
thần tập trung, mặc giáp tinh tấn, cầm kiếm trí huệ, dũng mãnh hướng về
trước. Luôn siêng cầu trí huệ của Phật, nói đủ thứ các diệu pháp không thể
nghĩ bàn. Họ thường hiện sư tử hống, khi nói pháp thì tâm chẳng sợ hãi.
Ta ở thành Già Gia
Ngồi dưới cội bồ đề
Ðắc được tối chánh giác
Chuyển pháp luân vô thượng.
Giáo hóa các Bồ Tát
Khiến họ sơ phát tâm
Nay đều trụ bất thối
Ðều sẽ được thành Phật.
Nay ta nói lời thật
Các ông một lòng tin
Ta từ lâu đến nay
Giáo hóa đại chúng đó.
Ðức Phật Thích Ca nói : ‘’Ta ở nước Ma Kiệt Ðề ngoài thành Già Gia, bên
bờ sông Ni Liên, ngồi dưới cội bồ đề, khi bắt đầu thì ta phát nguyện : "Nếu
ta không khai ngộ, thì vĩnh viễn chẳng đứng dậy khỏi chỗ này". Ngồi đến
đêm thứ bốn mươi chín, thì thấy sao mai mọc ở hướng đông mà ngộ đạo,
chứng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức cũng là thành tựu
Phật đạo.’’
Ðức Phật thấy ngôi sao mai mọc mà ngộ đạo, bèn nói rằng : ‘’Lành thay !
Lành thay ! Lành Thay ! Hết thảy chúng sinh đều có trí huệ đức tướng của
Như Lai, song vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc.’’ Tại sao
chúng ta chẳng thành Phật ? Vì có vọng tưởng. Tại sao chúng ta chẳng thành
Phật ? Vì có sự chấp trước. Vọng tưởng chấp trước này, che đậy chúng sinh
làm cho chẳng đặng thành Phật. Làm thế nào mà Ðức Phật được thành Phật
? Vì Ngài buông xả vọng tưởng chấp trước. Ngài vốn là Thái tử, ở trong
cung hưởng thụ vinh hoa phú quý, tương lai sẽ làm chuyển luân thánh
vương, thống trị bốn thiên hạ, song Ngài bỏ ngôi vua, mà còn bỏ vợ đẹp con
xinh. Ngài cảm thấy sinh già bệnh chết quá khổ, cho nên xuất gia tu đạo, tìm
cầu pháp chấm dứt sinh tử.
Sau khi Phật chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi, trong thời
gian hai mươi mốt ngày ở trong định, Ngài vì pháp thân Ðại sĩ mà nói bộ
Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Ðáng tiếc, hàng tiểu thừa căn
lành chẳng đủ, chẳng minh bạch đạo lý nhất chân pháp giới, do đó : ‘’Có
mắt chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’ Phật vì lòng từ
bi đến vườn Lộc Uyển, vì năm vị Tỳ Kheo nói pháp tứ diệu đế, về sau lại nói
pháp mười hai nhân duyên, sau đó nói pháp lục độ vạn hạnh.
Ban đầu nói Kinh Hoa Nghiêm, song một số người chẳng tiếp thọ được.
Phật lại nói Kinh A Hàm, rồi nói Kinh Phương Ðẳng, rồi nói Kinh Bát Nhã,
cuối cùng nói Kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa là bổn hoài của Phật, vốn
muốn bắt đầu nói Kinh Pháp Hoa, nhưng vì quán sát căn cơ của chúng sinh
chưa được chín mùi, cho nên trước hết nói về quyền giáo (pháp phương
tiện), sau đó nói pháp thật giáo. Hiện tại căn cơ đã thành thục cho nên nói
diệu pháp vô thượng.
Ðương lúc đó, ta giáo hóa vô lượng vị đại Bồ Tát này, khiến cho họ sơ phát
bồ đề đạo tâm. Bây giờ, họ đều trụ ở vị bất thối, hạnh bất thối, niệm bất thối,
họ hoàn toàn sẽ chứng được quả vị Phật.
Trước kia, ta nói pháp phương tiện. Bây giờ ta nói pháp chân thật. Các ông
đại chúng nên chuyên tâm nhất chí để tin nhận pháp của ta nói. Trong vô
lượng kiếp về trước ta đã thành Phật đạo, do đó :
‘’Chẳng sinh mà thị hiện sinh,
Chẳng diệt mà thị hiện diệt.’’
Vốn chẳng sinh mà thị hiện sinh ra, vốn chẳng diệt mà thị hiện diệt độ.
Trong Kinh Phạm Võng có nói : ‘’Ta đến thế giới Ta Bà đã tám nghìn lần.’’
Những vị Bồ Tát này, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đều do ta giáo
hóa khi ta thành Phật trong quá khứ.
A Dật Ða ! Ông hỏi những vị Bồ Tát này từ dưới đất vọt lên, họ phát tâm với
vị Phật nào ? Ai giáo hóa họ ? Họ tu trì pháp gì ? Họ đọc tụng kinh gì ? Họ
tu pháp môn Pháp Hoa, họ tụng Kinh Pháp Hoa, họ đến hộ trì Kinh Pháp
Hoa, họ đến cúng dường Kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc và vô số các vị Bồ Tát khác, đều sinh tâm nghi
hoặc, lạ chưa từng có, bèn nghĩ như vầy : Sao đức Thế Tôn ở trong thời gian
ngắn, mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên A tăng kỳ các đại Bồ Tát như thế,
khiến cho họ trụ Vô thượng chánh đẳng chánh giác ? Bèn bạch đức Phật
rằng :
Lúc đó, đại Bồ Tát Di Lặc và vô số vô lượng các Bồ Tát, thảy đều sinh tâm
nghi hoặc, tại sao lại có việc như thế ? Vì việc này rất là kỳ lạ, chưa từng
thấy qua việc như vầy. Các Ngài đều nghĩ rằng : ‘’Sao lại có chuyện như vậy
? Ðức Thế Tôn trẻ như thế, còn các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên đều già
nua, sao có thể ở trong thời gian ngắn mà giáo hóa nhiều vị Bồ Tát như thế,
khiến cho họ đều trụ quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.’’ Ðây là
nghe việc lạ chưa từng nghe, do đó mới hướng về đức Phật xin khai thị, bèn
bạch Phật nói.
Ðức Thế Tôn ! Khi Như Lai làm thái tử, ra khỏi cung dòng họ Thích, cách
thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Ðạo tràng, đắc được Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm.
Di Lặc Bồ Tát hỏi Ðức Phật : Ðức Thế Tôn ! Như Lai trước kia làm thái tử,
vì cầu đạo giải thoát mới ra khỏi hoàng cung, đến thành Già Gia chẳng bao
xa, ngồi dưới cội bồ đề, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Từ
khi Ngài thành Phật đến nay, bất quá chỉ hơn bốn mươi năm mà thôi.
Ðức Phật mười chín tuổi xuất gia tu đạo. Sáu năm đầu tiên đi khắp nơi tìm
thiện tri thức (ngoại đạo đương thời), chẳng được pháp giải thoát sinh tử.
Ðến núi Tuyết tu khổ hạnh sáu năm, tự tìm pháp giải thoát, mỗi ngày chỉ ăn
một hạt mè để duy trì mạng sống. Lúc đó, cùng tu với Ngài có năm người,
bà con phía mẹ của Ngài hai người, bà con bên phía cha của Ngài ba người.
Trong đó, có ba người chịu không nổi sự tu khổ hạnh, mới bỏ Ðức Phật ra
đi, đến vườn Lộc Uyển tu hành. Vườn này là Thánh địa của ngoại đạo tu
hành đương thời. Còn lại hai người phát tâm cùng tu khổ hạnh với thái tử ở
tại núi Tuyết, cho rằng tu hành thì phải chịu khổ, do đó :
‘’Thọ khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì hết phước.’’
Ôm chặt lấy tông chỉ, chẳng nghĩ gì khác. Chuyên tâm nhất chí để cầu giải
thoát. Giải hoặc nghiệp trói buộc, thoát quả khổ ba cõi.
Sáu năm sau, thân thể của Phật gầy như cây củi. Một ngày nọ, thiên nữ dâng
cúng bát sữa, Ðức Phật thọ cúng dường. Hai vị đồng tu này bèn sinh tâm
nghi, cho rằng Ðức Phật đã sinh tâm thối chuyển, do đó hai người cũng bỏ
Phật ra đi đến vườn Lộc Uyển.
Lúc đó, sau khi Ðức Phật uống bát sữa xong, thì thân thể khôi phục khoẻ
mạnh, mới xuống giòng sông Ni Liên tắm rửa. Sau đó, đến dưới gốc cây bồ
đề tĩnh tọa bốn mươi chín ngày. Vào ngày mồng tám tháng mười hai, khi sao
mai vừa mọc, thì Ngài ngộ đạo, lúc đó Phật vừa đúng ba mươi tuổi.
Sau khi Phật thành đạo, Ngài bèn quán sát nhân duyên, trước hết đến vườn
Lộc Uyển độ năm người cùng tu, tức là năm anh em Kiều Trần Như. Ngài
nói pháp tứ diệu đế, sau khi nghe xong họ lập tức chứng quả A La Hán. Có
bài thơ rằng :
‘’Thập cửu du thành lục khổ hạnh,
Ngũ tuế du lịch tam thập thành,
Thuyết pháp độ sinh ngũ thập tuế,
Thị bát cộng thọ bát thập niên.’’
Nghĩa là :
Mười chín tuổi xuất gia sáu năm khổ hạnh,
Năm năm tầm đạo ba mươi tuổi thành đạo,
Năm mươi năm thuyết pháp độ sinh,
Cả thảy công lại tám mươi năm.
Ðức Thế Tôn ! Sao trong thời gian ngắn mà làm đại Phật sự, dùng thế lực
của Phật, dùng công đức của Phật, để giáo hóa vô lượng đại Bồ Tát như thế,
sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác ?
Bồ Tát Di Lặc lại gọi một tiếng Ðức Thế Tôn ! Ngài thành Phật đến bây giờ,
bất quá chỉ hơn bốn mươi năm, trong thời gian ngắn sao có thể làm đại Phật
sự ? Ðộ rất nhiều Bồ Tát như thế ? Nhờ thế lực của Phật, nhờ công đức của
Phật, mà giáo hóa đại Bồ Tát như thế, họ đều sẽ thành Vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Ðó là đại giáo khai cận hiển viễn (chỉ gần để hiển xa). Ðạo
lý này chẳng phải là cảnh giới của phàm phu thấu hiểu được.
Ðức Phật nói pháp khoảng năm mươi năm, có bài kệ nói rằng :
‘’Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật,
A Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát,
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm,
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.’’
Nghĩa là:
Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày
A Hàm mười hai Phương Ðẳng tám
Hai mươi hai năm nói Bát Nhã
Pháp Hoa Niết Bàn chỉ tám năm.
Ban đầu khi Phật chứng quả dưới cội bồ đề, trong hai mươi mốt ngày, nói bộ
Kinh Hoa Nghiêm. Khi Phật ba mươi mốt tuổi, thì nói Kinh A Hàm khoảng
mười hai năm. Bốn mươi ba tuổi thì bắt đầu nói Kinh Phương Ðẳng, trong
vòng tám năm. Khi Phật năm mươi mốt tuổi, thì bắt đầu nói Kinh Bát Nhã
khoảng hai mươi hai năm. Lúc Phật bảy mươi hai tuổi, thì bắt đầu nói Kinh
Pháp Hoa. Lúc Phật tám mươi tuổi vào ngày rằm tháng hai, trong một ngày
một đêm nói bộ Kinh Ðại Bát Niết Bàn.
Ðức Thế Tôn ! Chúng đại Bồ Tát đó, nếu như có người ở trong ngàn vạn ức
kiếp tính đếm, cũng chẳng hết được, chẳng biết được bờ mé. Những vị Bồ
Tát đó, từ lâu xa đến nay, ở trong vô lượng vô biên chỗ chư Phật, gieo trồng
các căn lành, thành tựu đạo bồ đề, thường tu phạm hạnh.
Bồ Tát Di Lặc lại gọi một tiếng Ðức Thế Tôn ! Nếu như có người ở trong
ngàn vạn ức kiếp, tính đếm số Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, cũng chẳng biết
được cứu kính có bao nhiêu vị Bồ Tát. Những vị đại Bồ Tát đó, từ lâu xa
đến nay, ở chỗ vô lượng vô biên các Ðức Phật, gieo trồng rất nhiều căn lành,
cho nên thành tựu Bồ Tát đạo. Các vị đó thường tu phạm hạnh, tức cũng là
thanh tịnh hạnh.
Ðức Thế Tôn ! Việc như thế, người thế gian khó tin. Ví như có người sắc
đẹp tóc đen, mới hai mươi lăm tuổi, mà chỉ người trăm tuổi, nói đó là con ta,
người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi đó, nói là cha ta, sinh đẻ nuôi dưỡng
chúng ta, việc đó khó tin.
Ðại Bồ Tát lại gọi một tiếng Ðức Thế Tôn ! Việc như thế, người thế gian
không thể tin được. Ví như người mặt mũi xinh đẹp tóc đen, tuổi khoảng hai
mươi lăm, chỉ người già trăm tuổi nói : Người này là con của ta sinh ra.
Người già trăm tuổi đó nhận là sự thật, bèn chỉ người trẻ đó nói : Người này
là cha sinh ra ta, việc như thế làm sao khiến cho người tin ? Thật là khó tin.
Ðức Phật cũng như thế, từ khi đắc đạo đến nay chưa được bao lâu, mà các
đại chúng Bồ Tát đó, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì Phật đạo mà
siêng tu hành tinh tấn, khéo nhập, xuất, trụ, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn
ức tam muội, được đại thần thông, từ lâu tu phạm hạnh, khéo tu tập các pháp
lành theo thứ tự, khéo về vấn đáp, là báu trong loài người, tất cả thế gian rất
là ít có.
Ðức Phật cũng như thế, giống như người thanh niên chỉ người già. Từ khi
Phật thành đạo đến nay, chưa quá hơn bốn mươi năm, những vị đại Bồ Tát
đó, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp về trước, vì cầu Phật đạo mà siêng
tu hành dũng mãnh tinh tấn, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, chẳng giải
đãi. Các Ngài khéo nhập định, khéo xuất định, khéo trụ định. Có thể nhập
chín thứ lớp định, tức bốn thiền định, bốn không định và diệt thọ tưởng định.
Có thể xuất sư tử phấn tấn tam muội, có thể trụ siêu việt tam muội. Ðó là nói
theo giáo lý của tạng giáo và thông giáo. Nếu nói theo giáo lý của biệt giáo,
thì từ sơ địa đến thập địa gọi là khéo nhập. Từ thập địa trở lại bằng con
thuyền từ bi, nhập vào tu việc của hàng phàm phu thì đây gọi là khéo xuất.
Từ diệu giác viên mãn thì gọi là khéo trụ. Nếu nói theo giáo lý viên giáo thì
nhập pháp tánh tam muội gọi là khéo xuất. Vô duyên tam muội gọi là khéo
trụ. Ðó là chiếu theo tạng, thông, biệt, viên, bốn giáo mà nói về tam muội.
Kỳ thật, tam muội có rất nhiều hàng trăm, nghìn, vạn, ức.
Những vị đại Bồ Tát này, đều đắc được đại thần thông, nhậm vận tự tại.
Thần thông có lớn nhỏ khác nhau. Ðại thần thông là thần thông của Bồ Tát,
tiểu thần thông là thần thông của A La Hán, chỉ có mười tám thứ biến hóa.
Trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, hoặc trên thân ra nước, dưới thân ra lửa,
hoặc vào đất như vào nước, vào nước như vào đất, có thể đi đứng nằm ngồi
ở trong hư không biến hóa mà thôi.
Những vị đại Bồ Tát này, từ lâu xa về trước tu hành pháp môn thanh tịnh
hạnh, khéo tu tất cả pháp lành từ cạn vào sâu. Lại khéo léo trả lời những vấn
đề. Ðó là Bồ Tát ở trong người tôn quý nhất, rất ít có ở trong tất cả thế gian.
Hôm nay, đức Thế Tôn mới nói, khi đắc được Phật đạo, thì đầu tiên khiến
cho các Bồ Tát đó phát tâm, giáo hóa chỉ bày, khiến cho họ hướng về Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Hiện tại Ðức Thế Tôn mới nói, khi chứng được Phật đạo, thì trước hết khiến
cho những vị Bồ Tát đó phát bồ đề tâm, giáo hóa chỉ bày dẫn đạo, khiến cho
họ đều hướng về Vô thượng chánh đẳng chánh giác bồ đề đại đạo.
Ðức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, mà có thể làm được việc công đức
lớn. Tuy chúng con tin đức Phật tùy nghi nói pháp, những lời Phật nói ra
chưa từng hư vọng. Những gì Phật biết thảy đều thông đạt, nhưng những vị
mới phát tâm Bồ Tát, sau khi Phật diệt độ, nếu họ nghe lời này thì họ chẳng
tin nhận, mà khởi tâm hủy báng pháp tạo tội nghiệp.
Ðức Thế Tôn ! Ngài thành Phật chưa được bao lâu mà có thể làm được việc
công đức lớn đó. Chúng con mọi người tuy nhiên tin pháp của Phật nói, là
tùy thuận tâm của chúng sinh mà nói tất cả các pháp. Do đó :
‘’Phật nói tất cả pháp
Vì độ tất cả tâm
Nếu chẳng có tất cả tâm
Ðâu dùng tất cả pháp.’’
Lời của Phật nói ra chẳng bao giờ hư vọng. Những gì Phật biết, những gì
Phật giác ngộ, đều thông đạt vô ngại. Song chúng con e rằng, tương lai hàng
Bồ Tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu họ nghe đạo lý này thì họ sẽ
chẳng tin. Tại sao ? Vì Bồ Tát mới phát tâm cho rằng, Ðức Phật tuổi trẻ
không thể độ được Bồ Tát tuổi già. Họ sẽ không tin việc này, bèn sinh tâm
hủy báng pháp, tạo tội nghiệp, tương lai sẽ đọa vào ba đường ác, do đó :
‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo.’’
Tuy vậy, xin đức Thế Tôn hãy giải thích nói, để trừ nghi hoặc của chúng
con, và các thiện nam tử ở đời vị lai, nghe việc này rồi, cũng không còn nghi
hoặc nữa.
Bởi nhân duyên đó, chúng con đại chúng thỉnh cầu Ðức Thế Tôn, xin hãy
giải thích nói, để giải trừ sự nghi hoặc của đại chúng trong pháp hội. Chẳng
những giải trừ sự nghi hoặc của chúng con đại chúng, mà cũng giải trừ sự
nghi hoặc của thiện nam tín nữ ở đời vị lai. Họ nghe được việc này rồi, thì
họ không còn sinh tâm nghi hoặc nữa.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc muốn tường thuật lại đạo lý này, bèn dùng kệ để nói
lại.
Xưa Phật từ dòng thích
Xuất gia gần Già Gia
Ngồi dưới cội bồ đề
Ðến nay chẳng bao lâu.
Các Phật tử đó thảy
Số đông không thể lường
Lâu đã tu Phật đạo
Trụ nơi sức thần thông.
Khéo học Bồ Tát đạo
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Từ dưới đất mọc lên.
Bồ Tát Di Lặc nói : Ðức Phật Thích Ca sinh ra từ dòng dõi Thích Ca, sau đó
xuất gia, ngồi dưới cội bồ đề gần thành Già Gia. Ban đêm thấy sao mai mọc
mà ngộ đạo thành Phật. Từ khi Ðức Thế Tôn thành Phật đến nay, thời gian
rất ngắn, không quá hơn bốn mươi năm.
Vô lượng vị Bồ Tát đó, từ dưới đất vọt lên, đều là con của Phật, số đông vô
lượng, không thể nào dò lường được. Dù trí huệ của Bồ Tát, cũng chẳng
cách chi thấu triệt được cứu kính có bao nhiêu ? Các Ngài từ thuở xa xưa đã
tu hành Phật đạo, cho nên có đại thần thông, biến hóa vô cùng.
Các vị Bồ Tát đó, khéo tu tập lục độ vạn hạnh Bồ Tát đạo, chẳng ô nhiễm
pháp thế gian. Các vị đó tu pháp thanh tịnh xuất thế, giống như hoa sen ở
dưới nước thanh tịnh, ra khỏi bùn mà chẳng nhiễm. Hiện tại, các vị Bồ Tát
từ dưới đất vọt lên, đến pháp hội Linh Sơn, nghe Phật diễn nói Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, đây là cơ hội ngàn vạn ức kiếp khó gặp được.
Ðều khởi tâm cung kính
Trụ ở trước Thế Tôn
Việc đó khó nghĩ bàn
Làm sao khiến người tin ?
Phật đắc đạo gần đây
Mà thành tựu rất nhiều
Xin vì trừ chúng nghi
Như thật phân biệt nói.
Các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, thảy đều sinh tâm cung kính đối với Phật,
trụ ở trước Phật. Việc này thật là không thể nghĩ bàn, làm sao có thể khiến
cho người tin ?
Vì sao khiến cho người không tin ? Vì thời gian Phật đắc được đạo rất gần
đây, mà thành tựu lại nhiều như thế, giáo hóa vô lượng vô biên chúng Bồ
Tát. Hy vọng Ðức Thế Tôn từ bi, vì chúng con đại chúng giải thích nói để
trừ tâm nghi hoặc của đại chúng. Khẩn cầu Ðức Thế Tôn thật thà phân biệt
nói rõ cho chúng con biết.
Ví như người thiếu niên
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ người già là con
Tóc bạc và mặt nhăn.
Nói họ là ta sinh
Con cũng nói người đó
Chính là cha của ta
Cha trẻ mà con già
Khiến đời không thể tin.
Ví như người thiếu niên, mới khoảng hai mươi lăm tuổi, song lại chỉ người
trăm tuổi nói họ là con. Người già đó, tóc thì bạc mặt thì nhăn nhó.
Người thiếu niên đó nói : Người già này là con, do ta sinh ra; người già đó
cũng nói : Người thiếu niên này là cha đẻ của ta. Việc cha trẻ mà con già,
khiến cho tất cả mọi người thế gian không thể tin được.
Thế Tôn cũng như thế
Ðắc đạo chẳng bao lâu
Các Bồ Tát đó thảy
Chí bền chẳng suy nhược.
Vô lượng kiếp đến nay
Luôn hành Bồ Tát đạo
Khéo về nạn vấn đáp
Tâm họ chẳng sợ hãi.
Ðức Thế Tôn cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay, thời gian chẳng bao
lâu, mà có thể giáo hóa Bồ Tát, chí hướng rất vững bền như kim cang, phát
thệ nguyện rất rộng lớn như biển cả. Tâm các vị đó chẳng có chút sợ hãi, ý
chẳng suy nhược.
Các vị Bồ Tát đó từ vô lượng kiếp đến nay, phát tâm Bồ Tát, hành Bồ Tát
đạo, khéo về giải đáp vấn nạn, biện tài vô ngại. Tâm của các vị đó chẳng sợ
hãi, chẳng thọ uy hiếp, đều thành tựu bốn vô sở uý, đó là :
1). Tổng trì vô úy.
2). Tri căn vô úy.
3). Quyết nghi vô úy.
4). Ðáp nạn vô úy.
Tâm nhẫn nhục quyết định
Ðoan chánh có uy đức
Ðược mười phương Phật khen
Khéo hay phân biệt nói.
Chẳng thích ở trong chúng
Thường thích nhập thiền định
Do vì cầu Phật đạo
Trụ hư không phương dưới.
Các Ngài dùng tâm nhẫn nhục để quyết định, dung mạo của các Ngài rất
đoan chánh, đầy đủ ba mươi hai tướng. Uy đức của các Ngài rất trang
nghiêm, khiến cho người cung kính. Mười phương chư Phật cũng khen ngợi
công đức của các Ngài. Các Ngài khéo phân biệt nói tất cả Phật pháp.
Các vị học Phật pháp, phải dùng Phật pháp mới đắc được lợi ích của pháp.
Nếu không, khi cảnh giới đến khảo nghiệm thì hồ đồ. Nếu không nhận thức
được cảnh giới, thì sẽ bị cảnh giới chuyển. Do đó có câu :
‘’Tất cả là khảo nghiệm,
Xem bạn làm thế nào ?
Trước mắt chẳng nhận ra,
Phải luyện lại từ đầu.’’
Bất cứ là cảnh giới thuận, hoặc cảnh giới nghịch, bạn không cần chấp trước
nó. Nếu tâm không động thì có công phu, đã đến trình độ hỏa hầu.
Cảnh giới thuận là gì ? Tức là có người khen ngợi bạn rằng: Vị pháp sư này
giữ gìn giới luật, ngày ăn một bữa, ngủ ngồi, lại chẳng giữ tiền bạc, ngoài ba
y bình bát ra, chẳng có vật gì khác. Bạn nghe những lời khen như thế, trong
tâm rất hân hoan, còn ngọt hơn là ăn mật, đó là bị cảnh giới chuyển.
Cảnh giới nghịch là gì ? Tức là có người phỉ báng bạn rằng: Vị pháp sư này
ham ăn lười làm chẳng tu hành, ngủ suốt ngày chẳng làm việc, nói một cách
khác là nương Phật ăn bám, nương Phật mặc y áo để qua ngày tháng. Bạn
nghe rồi, trong tâm rất khó chịu, còn đắng hơn là ăn hoàng liên, đó là bị cảnh
giới chuyển.
Chướng ngại lớn nhất của việc tu đạo là chẳng nhận thức được cảnh giới,
chẳng có định lực, rất dễ bị cảnh giới chuyển, làm mất đi đạo nghiệp.
Vô lượng đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên chẳng thích ở chỗ náo nhiệt, thích ở
nơi yên tĩnh. Các Ngài luôn luôn ở trong thiền định, đắc được cảnh giới
khinh an, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Vì cầu Phật đạo, cho nên
trụ ở phương dưới ở trong hư không.
Chúng con từ Phật nghe
Việc này nên hết nghi
Xin Phật vì vị lai
Diễn nói khiến họ hiểu.
Nếu ở nơi kinh này
Có người nghi không tin
Tức sẽ đọa đường ác
Nay xin Phật giải nói.
Vô lượng Bồ Tát đó
Sao trong thời gian ngắn
Giáo hóa khiến phát tâm
Trụ vào bậc bất thối ?
Bồ Tát Di Lặc lại nói : Chúng con đại chúng nghe Phật nói diệu pháp Kinh
Pháp Hoa, lại thấy những vị đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên. Vì được thấy
được nghe, cho nên đối với việc này chẳng còn hoài nghi nữa. Xin Ðức Phật
vì Bồ Tát sơ phát tâm ở đời vị lai, mà diễn nói đạo lý này. Vì tín căn của họ
chẳng kiên cố, căn lành chẳng sâu dày.
Nếu như có người đối với Kinh Pháp Hoa không hiểu, mà sinh tâm hoài
nghi, chẳng sinh tâm tín ngưỡng, thì tương lai sẽ đọa vào ba đường ác. Xin
nguyện Ðức Thế Tôn từ bi thương xót chúng sinh ở đời vị lai, mà giải thích
nói nhân duyên này.
Vô lượng vô biên Bồ Tát đó, sao trong thời gian ngắn, mà giáo hóa họ phát
tâm bồ đề, trụ vào bậc bất thối, hạnh bất thối, niệm bất thối.
Vị bất thối : Tức là bậc tu đạo chẳng thối thất, tức cũng là nhập bậc Bồ Tát,
chẳng thối lùi về bậc nhị thừa. Nhập vào bậc thập trụ thì chẳng còn thối lùi
bậc sinh tử.
Hạnh bất thối : Ðối với hạnh pháp tu chẳng thối thất. Tu sáu pháp Ba la mật,
chẳng thối lùi về pháp tứ đế. Nhập vào sơ địa thì hạnh bất thối lợi tha.
Niệm bất thối : Ðối với chánh niệm chẳng thối thất. Từ bát địa trở đi được
vô công dụng trí, niệm niệm nhập vào biển tánh chân như.
---o0o---
Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Mười danh hiệu là gì ? Tức
là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, đủ
mười hiệu này nên gọi là Thế Tôn. Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều
gọi là Như Lai. Như Lai là gì ? Tức là :
‘’Thừa như thật chi đạo,
Lai thành chánh giác.’’
Thừa là trí như như, lai là cảnh như như. Dùng trí như như để quán sát cảnh
như như. Cảnh trí như như, cảnh trí hợp mà làm một. Tóm lại, cũng chẳng
có cảnh, cũng chẳng có trí. Ðạo là nhân, giác là quả. Ðây là cảnh giới nhân
viên quả mãn, cho nên gọi là ‘’Như Lai.’’ Như Lai có hai thân, tức là chân
thân và ứng thân. Chân thân là pháp thân, ứng thân là hóa thân, tuy danh từ
khác nhau, song thể dụng giống nhau. Theo căn cơ chúng sinh mà hiện thân,
để vì chúng sinh nói pháp. Do đó :
‘’Bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến.’’
Ví dụ như : Chân thân cũng như mặt trăng sáng ở trong hư không, ứng thân
giống như bóng mặt trăng ở trong nước. Do đó, có câu :
‘’Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt.’’
Nghĩa là :
‘’Ngàn ao hồ có ngàn mặt trăng hiện vào.’’
Phàm là nơi nào có nước, chỉ cần lắng trong không đục, thì mặt trăng đều
hiện bóng vào. Song, mặt trăng trong nước chẳng đi, mặt trăng trên trời cũng
chẳng đến. Cho nên nói:
"Như Lai chẳng đến chẳng đi".
Tuy Ðức Phật thị hiện đến thế giới này, song cũng chẳng sinh; tuy thị hiện
nhập diệt, cũng chẳng có diệt. Tại sao ? Vì bổn thể của Ngài chẳng động. Ðó
là cảnh giới không sinh mà thị hiện sinh, không diệt mà thị hiện diệt, khiến
cho chúng sinh đừng chấp trước có sinh có diệt. Phật thì không sinh không
diệt, huệ mạng của Phật cũng chẳng có hạn lượng, về thời gian là vô hạn, về
không gian là vô lượng. Như Lai có ba thân, tức là :
1). Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, dịch là "Biến mãn nhất thiết
xứ" (đầy khắp mọi nơi). Trí huệ quang của Ngài chiếu khắp hư không, tận
hư không biến pháp giới. Pháp thân của Phật vô tại vô bất tại. Tại sao ? Vì
pháp thân của Phật không hình không tướng, thuần nhất thanh tịnh, chân
Phật vô hình, cho nên không có chỗ nào mà chẳng phải là pháp thân ở tại
chỗ đó.
Có người khởi vọng tưởng : ‘’Ðại khái nơi chẳng thanh tịnh, thì chẳng có
pháp thân của Phật‘’ ! Nói cho bạn biết ! Pháp thân của Phật chẳng có chỗ
nào mà không có (vô sở bất tại). Thanh tịnh hay không thanh tịnh, là do tâm
phân biệt của phàm phu mà nói. Tại cảnh giới của Phật mà nói, thì không
thanh tịnh cũng biến thành thanh tịnh. Ở trước kinh này có nói về ba lần biến
đất đai, tức là không thanh tịnh biến thành thanh tịnh.
2). Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, dịch là "Tịnh mãn". Tức là các hoặc
đều tịnh, trí huệ viên mãn. Khi Ðức Phật chứng đạo dưới cội bồ đề, thì hiện
thân Lô Xá Na ngàn trượng, để vì pháp thân Ðại sĩ (Bồ Tát) nói Kinh Hoa
Nghiêm. Hàng tiểu thừa thấy Phật chỉ là tướng Tỳ Kheo một trượng sáu, do
đó ‘’Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’ Ðây là
hình dung hàng tiểu thừa chẳng có căn tánh đại thừa. Tuy nhiên ở tại hiện
trường mà giống như kẻ mù kẻ điếc.
Có người hỏi : ‘’Hàng nhị thừa là bậc Thánh nhân, sao chẳng thấy Phật
chẳng nghe pháp; chúng ta là phàm phu, sao lại thấy được Kinh Hoa
Nghiêm‘’ ?
Ðáp : ‘’Vì hàng nhị thừa cơ duyên còn chưa thành thục, cho nên chẳng nghe
pháp đại thừa. Chúng ta gặp được Kinh Hoa Nghiêm, phải cảm kích ân điển
của Bồ Tát Long Thọ. Trong quá khứ chúng ta đã gieo trồng căn lành, kết
pháp duyên với Kinh Hoa Nghiêm, cho nên đời này được nghe kinh điển
này.’’
Sau khi Ðức Phật vào Niết Bàn, khoảng sáu trăm năm sau, Bồ Tát Long Thọ
ra đời ở Ấn Ðộ, Ngài có trí huệ hơn người, bất cứ kinh gì sách gì, qua mắt
rồi thì không bao giờ quên, thuộc lòng như nước chảy. Ngài đọc hết tất cả
kinh sách thế gian, chẳng còn sách gì để đọc, Long Vương thỉnh Ngài xuống
lầu tạng kinh ở dưới Long Cung, để đọc kinh điển đại thừa. Ngài phát hiện
bộ Kinh Hoa Nghiêm, gồm có quyển thượng, trung, hạ ba quyển. Quyển
thượng và quyển trung quá nhiều bài kệ, người thế gian không thể tiếp thọ
được, chỉ có quyển hạ có mười vạn bài kệ. Ngài tốn ba ngày thời gian, mới
đọc xong mười vạn bài kệ và nhớ vào trong não hải, rồi trở về Ấn Ðộ, viết ra
trên lá bối chẳng xót một chữ, trở thành bộ kinh ‘’Không thể nghĩ bàn,’’ lưu
truyền ở nhân gian. Kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta gặp là bộ kinh này. Nhân
duyên của chúng ta thành thục, tương lai khi giảng xong bộ Kinh Pháp Hoa,
thì chúng ta tiếp tục giảng bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tôi ước lượng khoảng
mười năm mới giảng xong bộ Kinh Pháp Giới này.
Nói đến đây lại có người khởi vọng tưởng : ‘’Bồ Tát Long Thọ làm sao mà
xuống Long cung được ? Ngài lặn xuống nước chăng‘’ ? Phàm là người
chứng quả, đều có thần thông, vào đất như vào nước, đi trong nước như đi
trên đất. Ngài đến bờ biển thì nước biển tự nhiên rẽ ra thành đường đi, chân
Ngài chẳng dính nước, bèn đi đến Long cung, bạn nói có diệu chăng ! Bạn
có muốn xuống Long cung tham quan chăng ? Hãy mau ngồi thiền nhập
định, đắc được ngũ nhãn lục thông, thì bất cứ muốn đến đâu, cũng đều toại
tâm như ý, chẳng bị vật gì hạn chế.
3). Thiên Bách ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật, dịch là "Năng nhân tịch
mặc". Nghĩa là thân khẩu ý ba nghiệp, lìa các lỗi ác được vắng lặng. Phật tùy
loại chúng sinh mà hiện thân để giáo hóa. Tóm lại, theo cơ của chúng sinh
mà hiện thân nói pháp, chẳng những ở thế giới này nói pháp, mà còn nói
pháp ở khắp mười phương vô lượng thế giới, để giáo hóa chúng sinh.
Phẩm này là vì giải quyết lòng nghi của chúng mà nói : ‘’Ta thành Phật đến
nay rất là lâu xa, thọ mạng của Như Lai vô lượng A tăng kỳ kiếp.’’ Phẩm
này nói rõ công đức báo thân và trí huệ của Phật, trên thì hợp với thật tướng,
dưới thì khế với chúng sinh.
Bấy giờ, đức Phật bảo các Bồ Tát và tất cả đại chúng : Các thiện nam tử !
Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Lại bảo đại chúng : Các
ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Lại bảo đại chúng : Các ông
nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.
Sau khi Ðức Phật nói xong Phẩm Từ Dưới Ðất Vọt Lên rồi, bèn nói Phẩm
Thọ Lượng của Như Lai. Lúc đó, Phật bảo tất cả Bồ Tát và đại chúng trong
hội Pháp Hoa nói : ‘’Các vị thiện nam tử ! Các ông hãy thanh tịnh tâm của
mình, thu nhiếp ý của mình, chú ý lắng nghe ! Nên tin hiểu lời nói chân thật
của Như Lai.’’ Trước kia nói pháp ba thừa, là tùy phương tiện mà nói, bây
giờ nói pháp một thừa, nên gọi là pháp chân thật.
Ðức Thế Tôn sợ rằng hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trong
pháp hội khởi vọng tưởng chẳng chú ý nghe pháp, cho nên lại nói lần nữa :
‘’Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.’’
Bấy giờ, trong đại chúng Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc làm thượng thủ, chắp tay
bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận
lời của đức Phật nói, bạch ba lần như thế rồi nói : Xin hãy nói đi, chúng con
sẽ tin nhận lời của đức Phật nói.
Lúc đó, trong đại chúng Bồ Tát nghe Phật nói ba lần như thế. Bồ Tát Di Lặc
đại biểu cho đại chúng, hướng về Ðức Phật cung kính chắp tay mà bạch rằng
: ‘’Ðức Thế Tôn ! Xin Ngài hãy vì chúng con mà nói lời chân thật, chúng
con sẽ tin sâu tiếp thọ lời nói của Phật, tuyệt đối chẳng hoài nghi pháp của
Phật nói.’’ Nói như thế ba lần, thì Phật yên lặng chẳng nói (ba lần thỉnh pháp
để biểu thị chí thành khẩn thiết). Bồ Tát Di Lặc lại nói : ‘’Xin Ðức Thế Tôn
hãy vì chúng con mà nói, chúng con nhất định tin nhận lời của Phật nói.’’
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các Bồ Tát ba lần thỉnh không ngừng, bèn bảo
rằng : Các ông hãy lắng nghe, sức thần thông bí mật của Như Lai, tất cả thế
gian trời người và A tu la, đều cho rằng hôm nay đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
lìa bỏ hoàng cung đến thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Ðạo tràng, đắc
được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, Phật biết các vị Bồ Tát ba lần thỉnh pháp không ngừng, bèn nói với
các vị Bồ Tát rằng : ‘’Các ông phải nghe cho kỹ ! Sức thần thông bí mật của
Như Lai.’’ Tất cả thế gian trời người và A tu la đều nói rằng : ‘’Hiện tại Phật
Thích Ca Mâu Ni, lìa khỏi cung điện của vua Tịnh Phạn, đi đến thành Già
Gia chẳng bao xa, ngồi dưới cội bồ đề, chứng được Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.’’
Thiện nam tử ! Thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên
trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Ví như, năm trăm ngàn vạn ức Na do tha
A tăng kỳ, ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người nghiền ra thành bụi,
đi qua phương đông, năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước,
mới để xuống một hạt bụi, cứ theo hướng đông làm như thế, hết số hạt bụi
đó.
Thiện nam tử ! Thật ra ta thành Phật đến nay, đã có vô lượng vô biên trăm
ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Chứ chẳng phải hiện tại mới chứng được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Ví như, có năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ (vô lượng số), ba
ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người đem hết các thế giới đó nghiền ra
thành bụi, đi thẳng về phương đông, qua năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A
tăng kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, để hết số hạt bụi, chẳng còn hạt
bụi nào cả.
Các thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào? Các thế giới đó, có thể suy nghĩ
tính đếm biết được số bao nhiêu chăng?
Các thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào ? Những thế giới như thế có bao
nhiêu ? Các ông có thể suy nghĩ, tính đếm cứu kính có bao nhiêu số mục,
các ông có biết số chắc chắn là bao nhiêu chăng ?
Bồ Tát Di Lặc và hết thảy Bồ Tát, đều bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn !
Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính đếm mà biết được. Tất cả
hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, dùng trí huệ vô lậu, cũng không thể suy
nghĩ biết được số lượng. Chúng con trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này, cũng
chẳng biết được. Ðức Thế Tôn ! Các thế giới như thế vô lượng vô biên.
Bồ Tát Di Lặc và tất cả Bồ Tát đồng thời nói với Phật : ‘’Ðức Thế Tôn !
Những thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính toán mà biết được số
mục, cũng chẳng phải dùng sức tâm của một số người, mà tưởng tượng đến
được. Dù tất cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác, dùng trí huệ vô lậu để suy
nghĩ cũng chẳng biết được số mục. Chúng con hàng Bồ Tát đều trụ ở bậc bất
thối, ở nơi việc này cũng chẳng biết được. Ðức Thế Tôn ! Những thế giới đó
chẳng có số lượng, chẳng có bờ bến, không thể nói, không thể hình dung
được.’’
Bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng Bồ Tát : Các thiện nam tử ! Nay ta phân
minh nói cho các ông nghe, các thế giới đó, hoặc để hạt bụi, hoặc không để,
đều nghiền ra thành bụi hết, một hạt bụi là một kiếp. Từ ta thành Phật đến
nay, còn nhiều hơn số đó, trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Từ đó
đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa, cũng ở nơi
trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước khác, giáo hóa lợi ích chúng
sinh.
Lúc đó, Ðức Phật bảo các đại Bồ Tát ở trong pháp hội rằng : ‘’Các vị thiện
nam tử ! Nay ta sẽ phân minh nói rõ cho các ông nghe. Ði về hướng đông,
trải qua vô lượng thế giới như thế, hoặc để một hạt bụi xuống, hoặc không
để hạt bụi xuống, lại đem tất cả những thế giới đó, đều nghiền ra thành bụi.
Một hạt bụi là một kiếp, từ khi ta thành Phật đến nay, đã trải qua nhiều hơn
số kiếp hạt bụi đó, khoảng trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ đại kiếp.
Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa
chúng sinh, cũng ở những thế giới khác giáo hóa chúng sinh, tại trăm ngàn
vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, giáo hóa lợi ích tất cả chúng sinh.’’
Các thiện nam tử ! Trong khoảng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Ðăng, và còn
nói đức Phật đó vào Niết Bàn. Như thế đều dùng phương tiện phân biệt.
Các vị thiện nam tử ! Từ lúc ban đầu ta thành Phật, đến hiện tại pháp hội
Linh Sơn, trong khoảng giữa này ta đã từng nói qua : ‘’Ta ở vào thời Phật
Nhiên Ðăng, tên là Bồ Tát Thiện Huệ. Sau gặp Phật Nhiên Ðăng thọ ký cho
ta, vào thời kỳ Hiền Kiếp, sẽ được thành Phật hiệu là Phật Thích Ca Mâu
Ni.’’ Ta lại nói : ‘’Phật Nhiên Ðăng nhập Niết Bàn vào thời nào‘’? Những
pháp ta nói đó, thật là pháp phương tiện, vì đối với căn tánh của chúng sinh
mà nói ra nhân duyên đó, sự tích đó. Thật tế thì chẳng phải như thế, chẳng
qua phương tiện phân biệt nói mà thôi. Các ông đừng cho nó là thật.
Các thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng mắt Phật quán
sát, niềm tin và các căn lợi độn của họ, để độ họ. Nơi nơi tự nói danh tự khác
nhau, tuổi tác lớn nhỏ, cũng hiện nói sẽ vào Niết Bàn, lại dùng đủ thứ
phương tiện nói pháp vi diệu, khiến cho chúng sinh phát tâm hoan hỷ.
Các vị thiện nam tử ! Giả sử có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng mắt Phật
để quán sát năm căn của họ, là lợi hay là độn, để thuyết pháp giáo hóa họ.
Nếu người có tín căn mà nghe Phật pháp, thì họ liền tin, chẳng sinh tâm hoài
nghi, giữ quy cụ chẳng phóng dật. Sau khi tin Phật pháp rồi, thì còn phải tinh
tấn nỗ lực tu hành. Bằng không, có tín căn mà chẳng tinh tấn thì đó là ‘’khẩu
đầu thiền.’’ Nói mà chẳng làm thì cũng như không, chẳng ích lợi gì. Phải từ
từ đi đứng nằm ngồi, niệm niệm không quên mới có công hiệu. Những pháp
môn học được, chẳng thiết thực nghiên cứu, chẳng chuyên tâm đọc tụng,
thậm chí một ngày nóng mười ngày lạnh, thì vĩnh viễn chẳng đắc được giải
thoát. Niệm căn bất thối thì mới sinh ra định căn. Có định căn rồi thì mới
sinh huệ căn. Năm căn này đều có mối quan hệ với nhau. Người chẳng có
định căn, khi cảnh giới đến khảo nghiệm thì hồ đồ. Tại sao ? Vì chẳng có
huệ căn, cho nên huệ căn rất là quan trọng. Do năm căn mà sinh ra năm lực,
năm lực trợ giúp thành tựu đạo nghiệp.
Lợi căn là người thông minh, độn căn là người ngu si. Người thông minh thì
không bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới. Cảnh giới ác chuyển
thành cảnh giới thiện, cảnh giới nghịch chuyển thành cảnh giới thuận. Người
ngu si thì ngược lại, việc tốt làm thành việc xấu, việc thiện làm thành việc
ác, cứ làm việc điên đảo. Tại sao lại thông minh ? Vì làm nhiều công đức,
chẳng làm việc thất đức. Tại sao lại ngu si ? Vì chẳng làm việc công đức, cứ
muốn chiếm tiện nghi, chẳng chịu thiệt thòi. Phải hiểu rằng :
‘’Thiệt thòi là chiếm tiện nghi.’’
Ðạo lý này các vị hãy nghiên cứu thì sẽ biết nghĩa của nó.
Lão Tử từng nói qua bài này rằng :
‘’Ðại đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí huệ xuất, hữu đại ngụy.
Lục thân bất hòa, hữu hiếu tử,
Quốc gia hỗn loạn, hữu trung thần.’’
Nghĩa đại khái là : Ðại đạo chẳng còn, thì mới đi giảng về nhân nghĩa.
Người có trí huệ xuất hiện, thì trên thế gian sẽ có việc gian ngụy phát sinh.
Gia đình bất hòa thì mới hiển lộ người con có hiếu. Nước nhà hỗn loạn, thì
mới xuất hiện trung thần. Tục ngữ có câu :
‘’Chẳng có núi cao thì không hiển lộ đất bằng.’’
Khi nước nhà thái bình, thì ai ai cũng đều là người tốt, chẳng phân biệt được
người trung kẻ gian. Khi đất nước đại loạn, thì mới biết rõ trung thần báo
quốc, gian thần bán nước, xưa nay đều rõ ràng.
Phật tùy theo chúng sinh nào độ được, thì thuyết pháp giáo hóa họ, cho nên
nơi nơi chốn chốn, tự nói danh hiệu của mình, hoặc là nói Tỳ Lô Giá Na,
hoặc nói Lô Xá Na, hoặc nói Thích Ca Mâu Ni. Tuy danh hiệu khác nhau,
song đều là một người. Tuổi tác của Phật ở đời, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc
già, hoặc trẻ, đều khác nhau. Lại đối với hàng đệ tử nói : ‘’Hiện tại ta sẽ vào
Niết Bàn.’’ Kỳ thật, Phật cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt, thường ở tại cõi
Thường Tịch Quang thuyết pháp. Lại dùng đủ thứ phương tiện pháp môn,
diễn nói pháp vi diệu không thể nghĩ bàn, khiến cho chúng sinh hoan hỷ.
Các thiện nam tử ! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp tiểu thừa, đức
mỏng, trần cấu nặng, thì vì người đó nói : Ta thiếu niên xuất gia, đắc được
Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nhưng thật ra, ta thành Phật đến nay, rất
là lâu xa, nhưng dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ vào
Phật đạo, mà nói như thế.
Các vị thiện nam tử ! Như Lai quán sát căn cơ của tất cả chúng sinh, để vì họ
nói pháp. Có chúng sinh thích pháp tiểu thừa, thì vì họ nói pháp tiểu thừa.
Có chúng sinh hoan hỷ pháp đại thừa, thì vì họ nói pháp đại thừa. Ðối với
chúng sinh phước mỏng đức cạn, hoặc phiền não cấu nặng, độn căn thì nói :
‘’Ta lúc thiếu niên xuất gia tu đạo, đã chứng quả giác Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.’’ Song, thật ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, đã vượt hơn số
bụi A tăng kỳ kiếp. Nhưng dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để giáo
hóa chúng sinh, khiến cho họ cải tà quy chánh, hồi tiểu hướng đại, phát tâm
bồ đề chứng nhập Phật đạo, cho nên mới nói pháp như thế.
Các thiện nam tử ! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát chúng sinh,
hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật, hoặc thị hiện thân mình,
hoặc thị hiện thân Phật khác, hoặc nói việc của mình, hoặc nói việc của Phật
khác. Những lời nói ra, đều chân thật không hư.
Các vị thiện nam tử ! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát tất cả
chúng sinh, lìa khổ được vui mà nói. Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn
trần lao, cho nên mới nói ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn đối
trị mỗi chứng bệnh. Ðối với chúng sinh tâm tham nặng, thì nói quán pháp
bất tịnh; đối với chúng sinh tâm sân nặng, thì nói quán pháp từ bi; đối với
chúng sinh tâm si nặng, thì nói quán pháp nhân duyên. Tóm lại, theo bệnh
cho thuốc, thì mới có công hiệu. Phật dùng đủ thứ pháp môn, đối trị đủ thứ
tập khí mao bệnh của chúng sinh.
Phật giáo hóa chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật,
dùng thân làm khuôn phép, làm mô phạm cho chúng sinh, hoặc thị hiện thân
mình, hoặc thị hiện thân Phật khác, để làm mô phạm khiến cho chúng sinh
học theo, hoặc nói nhân duyên bổn sinh bổn sự của chư Phật, Bồ Tát, Bích
Chi Phật, A La Hán. Những lời nói ra đều chân thật không hư.
Tại sao ? Vì Như Lai thấy biết tướng ba cõi như thật, chẳng có sinh tử, hoặc
thối lùi, hoặc xuất hiện, cũng chẳng tại thế, hoặc diệt độ, chẳng thật, chẳng
hư, chẳng như, chẳng khác. Chẳng như ba cõi, mà thấy ba cõi. Những sự
việc đó, chỉ có Như Lai mới thấy rõ, chẳng có sai lầm.
Ðây là nguyên nhân gì ? Như Lai dùng tri kiến chân như thật trí, chiếu thấy
tướng của ba cõi chẳng có sinh tử. Tại bổn thân của Phật mà nói, thì chẳng
có sinh, cũng chẳng có diệt, cũng chẳng có thối lùi, cũng chẳng có xuất hiện,
cũng chẳng trụ thế, cũng chẳng diệt độ.
Một số phàm phu, quán tất cả pháp là thật có, hàng nhị thừa quán tất cả pháp
là không tướng, Phật quán tất cả pháp là chẳng thật chẳng hư. Tóm lại, trung
đạo mới là chân không diệu hữu; diệu hữu không ngại chân không. Cũng
chẳng phải như, chẳng phải khác. Sao gọi là chẳng phải như ? Chẳng phải
một. Sao gọi là chẳng phải khác ? Cũng chẳng phải hai. Chẳng giống như
chúng sinh trong ba cõi, thấy ba cõi thì có ba cõi. Tại Phật mà nói, thì chẳng
có sinh tử, chẳng có ba cõi. Những sự việc như thế chỉ có Như Lai mới thấy
rõ chẳng có sai lầm.
Vì chúng sinh có đủ thứ tánh, đủ thứ dục, đủ thứ hạnh, đủ thứ nghĩ nhớ phân
biệt. Phật muốn khiến cho sinh các căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân
duyên, ví dụ lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp, làm các Phật sự, chưa từng tạm phế
bỏ.
Vì hết thảy chúng sinh đều có đủ thứ tập tánh, đủ thứ dục vọng, đủ thứ
nghiệp hành, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt. Phật muốn khiến cho chúng sinh
trồng tất cả căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ ví dụ, đủ thứ
lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp. Làm những Phật sự từ lâu xa đến nay, chưa từng
tạm thời phế bỏ. Tóm lại, ngày ngày làm Phật sự chẳng có ngừng nghỉ.
Chúng sinh là gì ? Phàm là có huyết, có khí, có mạng sống, đều là chúng
sinh, tức cũng là do chúng duyên hòa hợp mà sinh. Phi, tiềm, động, thực,
đều là hữu tình chúng sinh, cây, cỏ, vàng, đá, là vô tình chúng sinh, hữu tình
chúng sinh đang nói pháp, vô tình chúng sinh cũng đang nói pháp, bất quá
chúng ta phàm phu chẳng thấu được mà thôi, bậc Thánh nhân chứng được
ngũ nhãn lục thông, đều biết đều thấy.
Như thế, từ khi ta thành Phật đến nay, rất là lâu xa, thọ mạng vô lượng A
tăng kỳ kiếp, thường trụ bất diệt.
Như ở trên vừa nói, từ khi ta thành Phật đến nay, thời gian rất là lâu xa, tuổi
thọ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, thường trụ ở cõi Thường Tịch Quang
Tịnh Ðộ, cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt. Và chẳng phải chỉ chứng đạo ở
dưới cội bồ đề, nhập diệt tại Sa La song thọ. Ðó bất quá là phương tiện thị
hiện mà thôi.
Các thiện nam tử ! Thuở xưa, ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn
chưa hết, lại tăng thêm. Nay chẳng phải thật diệt độ, mà nói là sẽ diệt độ.
Như Lai dùng phương tiện đó, để giáo hóa chúng sinh.
Các vị thiện nam tử ! Thuở xưa, khi ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến
nay vẫn chưa hết. Còn lâu dài hơn hạt bụi số kiếp đã nói ở trên. Hiện tại ta
muốn vào Niết Bàn, chẳng phải thật diệt độ, chỉ là phương tiện nói pháp, bèn
nói là sẽ diệt độ. Như Lai vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, mà nói như
thế.
Tại sao ? Nếu Phật sống lâu ở đời, thì người đức mỏng chẳng trồng căn lành,
bần cùng hạ tiện tham trước năm dục, vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng.
Tại sao Phật có diệt độ, mà nói là chẳng có diệt độ ? Phật vốn là chẳng sinh
chẳng diệt. Nếu như Phật sống lâu ở đời chẳng vào Niết Bàn, thì người
phước mỏng sinh tâm ỷ lại, chẳng muốn trồng căn lành. Tâm nghĩ : ‘’Phật
còn ở đời, mình từ từ trồng căn lành cũng chưa muộn, còn có nhiều thời
gian.’’ Cho nên, bổn ý của Phật thị hiện Niết Bàn, là khiến cho chúng sinh
sớm trồng căn lành, sớm thành Phật đạo.
Giảng đến đây, tôi nhớ lúc ở đông bắc bên Tàu, đệ tử quy y với tôi thì rất
đông, song đệ tử tu hành thì rất ít. Dạy họ tu hành thì có người nói : ‘’Tôi
chẳng có thời giờ tu, khi về già tu cũng chưa muộn.’’ Sau khi tôi rời khỏi
đông bắc đến Hương Cảng, thì có nhận thư của đệ tử gởi đến nói : ‘’Người
đó bây giờ tu hành, rất là nỗ lực, chẳng giải đãi nữa.’’ Vì sư phụ không có ở
đó, thì họ mới tu hành. Nếu sư phụ ở đó, thì họ chưa chịu tu hành. Sau khi
tôi đến Hương Cảng, cũng có rất nhiều người quy y, song tu hành chẳng
nhận chân. Tôi rời khỏi Hương Cảng đến nước Mỹ, thì lúc này họ mới biết
chẳng có sư phụ, thì phát sinh những việc khó khăn, chẳng cách gì giải quyết
được. Do đó, thơ này thì thỉnh sư phụ trở về, thư kia thì thỉnh sư phụ giúp
đỡ. Tóm lại, ngày ngày gặp mặt, thì chẳng cảm thấy quan trọng, khi không
gặp thì mới biết là quan trọng.
Nguyên nhân Phật chẳng ở lại đời, là vì chúng sinh bần cùng hạ tiện, tham
trước năm dục, chẳng biết chẳng hay, đọa vào trong lưới vọng kiến nhớ
tưởng điên đảo, làm che lấp đi trí huệ quang minh, cứ làm việc điên đảo.
Tại sao người lại bần cùng ? Vì kiếp trước chưa làm việc công đức, cũng
chẳng trồng căn lành, cứ nghĩ muốn chiếm tiện nghi, cho nên đời này chẳng
có phước báo.
Nếu thấy Như Lai thường ở đời chẳng nhập diệt, thì họ sẽ sinh tâm kiêu mạn
phóng túng, mà ôm lòng nhàm chán giải đãi, chẳng sinh tâm khó được gặp
Phật, chẳng sinh tâm cung kính. Do đó, Như Lai dùng phương tiện nói : Tỳ
Kheo nên biết, chư Phật ra đời rất khó được gặp.
Chúng sinh tham luyến năm dục, nếu thấy Phật thường ở đời mà không nhập
diệt, thì họ bèn sinh tâm kiêu mạn phóng túng, chẳng giữ quy cụ. Họ ngày
ngày thấy Phật, thời thời gặp Phật, thì sinh tâm nhàm chán giải đãi, mà
chẳng sinh tâm khó được gặp Phật ở đời, chẳng sinh tâm cung kính Tam
Bảo. Do đó, cho nên Như Lai phương tiện nói : ‘’Này các Tỳ Kheo ! Các
ông nên biết, mười phương chư Phật xuất hiện ra đời, chẳng dễ gì gặp
được.’’
Tại sao ? Vì những người đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức
kiếp, hoặc có gặp Phật, hoặc không gặp Phật. Nhờ việc đó mà ta nói rằng :
Các Tỳ Kheo ! Như Lai khó có thể được gặp, những chúng sinh đó nghe lời
như thế, thì sẽ sinh tâm khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng
đối với Phật, bèn trồng căn lành. Do đó, tuy Như Lai chẳng thật diệt, mà nói
là diệt độ.
Vì sao nói rất khó được gặp Phật ? Vì tất cả những người phước mỏng, trải
qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc có gặp được Phật, hoặc không
gặp được Phật. Vì lẽ đó, cho nên ta mới nói : ‘’Này các Tỳ Kheo ! Như Lai
rất khó gặp được.’’ Những chúng sinh đó, nghe ta nói như thế, thì bèn sinh
tâm khó gặp Phật ra đời, trong tâm bèn luyến mộ Phật, khát ngưỡng Phật,
bèn trồng xuống căn lành. Vì lẽ đó, cho nên Như Lai tuy chẳng phải thật
nhập diệt, mà phương tiện nói là nhập diệt. Kỳ thật, bây giờ Phật vẫn còn ở
tại pháp hội Linh Sơn, diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chưa tan hội. Có
gì chứng minh ? Vào đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư, Ngài tụng Kinh
Pháp Hoa đến Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự, bèn nhập định thấy được
cảnh giới này, do Ngài Huệ Tư Ðại Sư ấn chứng rằng :
- ‘’Phi nhữ mạc thức, phi ngã mạc chứng.’’
Do đó có thể biết, thật có việc đó chứ chẳng hư cấu. Tổ Sư đại đức chẳng
nói dối.
Lại nữa ! Thiện nam tử ! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, vì độ
chúng sinh, đều thật chẳng hư.
Các vị thiện nam tử ! Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều nói pháp như
thế, do đó ‘’Phật Phật đạo đồng.’’ Vì giáo hóa chúng sinh mà nói pháp, đều
chân thật chẳng hư. Trước hết nói pháp ba thừa, đó là vì thật thí quyền; bây
giờ nói pháp một thừa, đó là khai quyền hiển thật. Trước ba sau một, vì khai
ngọn hiển gốc, gốc ngọn chẳng lìa. Ðây là pháp "hết ba về một, hết ngọn về
gốc".
Ví như vị lương y trí huệ thông đạt, biết luyện chế thuốc, khéo chữa lành các
chứng bệnh. Có rất nhiều người con, hoặc mười, hai mươi, cho đến một trăm
người. Vì có duyên sự nên đi xa đến nước khác. Các người con sau này,
uống nhầm thuốc độc, thuốc phát buồn bực điên loạn, lăn lóc trên đất.
Phật vì nói rõ đạo lý này, mới đưa ra ba mươi ví dụ để giải thích. Ví dụ tuy
chẳng phải là chân lý, nhưng có thể nói rõ chân lý, cho nên có kinh ví dụ
truyền bá trên thế gian.
Ví như có vị lương y trí huệ rất thông minh, biết rõ tính thuốc khéo điều trị
tất cả nghi nan tạp chứng. Vị lương y này (đại biểu cho Phật), có rất nhiều
con (đại biểu cho chúng sinh), hoặc mười (thập địa Bồ Tát) người con, hoặc
hai mươi (nhị thừa) người con, cho đến một trăm (đại biểu cho trăm pháp
giới) người con. Vị lương y này, vì có bệnh nhân đặc biệt, nên đi xa đến
nước khác, do đó chẳng cách chi chiếu cứ các người con ở nhà. Các người
con ở nhà đều rất thơ bé, chẳng ai chăm sóc, bèn lấy thuốc độc uống, bị
trúng độc. Trong tâm phiền muộn điên loạn, nằm lăn lóc trên đất, thống khổ
không thể tả.
Bấy giờ, người cha trở về nhà, các người con uống thuốc độc, hoặc có người
mất bản tâm, hoặc có người không mất, ở xa trông thấy cha về, đều rất vui
mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha được bình an trở về. Chúng con ngu si, uống
lầm thuốc độc, xin cha hãy cứu chữa, khiến cho chúng con khỏi bệnh được
sống lâu.
Trong lúc khẩn cấp, thì người cha từ nước khác trở về. Những người con này
đã uống thuốc độc, có người đã mất tri giác, có người còn tỉnh táo, trúng độc
chẳng nặng lắm. Họ ở đằng xa nhìn thấy người cha trở về, ai nấy đều rất
mừng rỡ : ‘’Ba Ba ! Ba được bình an trở về, không việc gì chứ ! Chúng con
anh em quá ngu si, uống thuốc độc mà cứ tưởng là nước đường. Xin ba hãy
tha thứ sự ngu si của chúng con, hãy cứu chữa khiến cho chúng con khỏi
bệnh, để sống lâu trăm tuổi.’’
Người cha thấy các con đau khổ như thế, bèn y theo các phương pháp, tìm
cỏ thuốc tốt, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, đâm giã sàng rồi hòa hợp
cho các người con uống, mà nói rằng : Ðây là thuốc hay, sắc vị thơm ngon
thảy đều đầy đủ, các con hãy uống đi, thì sớm sẽ hết khổ não, chẳng còn bị
bệnh nữa.
Vị lương y đó từ nước ngoài trở về, phát hiện con của mình vì tham ăn mà
trúng độc. Có người bất tỉnh nhơn sự, có người còn tỉnh, song đều rất đau
khổ, thật đáng thương xót. Bèn y chiếu theo các phương pháp tìm cỏ thuốc
giải độc hữu hiệu nhất, có màu sắc dễ nhìn, mùi vị ngon ngọt, cho nên nói là
sắc vị thơm ngon đều đầy đủ, khiến các người con hoan hỷ uống thuốc giải
độc này (Phật pháp). Vị lương y đem thuốc đâm giã rồi sàng lấy bột mịn,
thêm mật ong hòa hợp làm thành viên. Các người con uống rồi bèn giải trừ
độc tố, nhanh chóng khôi phục sức khoẻ.
Về sau người cha nói với các con rằng : ‘’Thuốc rất hay này, sắc cũng thơm,
vị cũng ngon. Các con hãy mau uống vào, thì sẽ giải trừ được đau khổ lập
tức hết bệnh, chẳng còn bị bệnh nữa, thứ thuốc này là vạn linh đan, trị được
bá bệnh, có bệnh thì trị bệnh, không bệnh thì càng khoẻ.’’
Vị lương y đó tức là Phật, các người con tức là tất cả chúng sinh. Nói Phật đi
đến nước khác, hoặc chẳng có Phật ra đời, hoặc đã vào Niết Bàn. Lúc đó,
chúng sinh vì chẳng có trí huệ chân chánh, cho nên chẳng phân biệt được
thức ăn có độc, hay không có độc, thấy là ăn, bèn ăn lầm thuốc độc. Thứ
thuốc độc này, tức là tà kiến của bàng môn tả đạo, nói những đạo lý chẳng
cứu kính. Chúng sinh vô tri nhận lầm thuốc độc, cho là thuốc trường sinh bất
lão. Tại sao phân biệt chẳng rõ ràng ? Vì si mê quá sâu nặng, chẳng cách chi
tự cứu.
Chúng sinh bị si mê quá sâu nặng, khi gặp Phật trở về, bèn cúi đầu đảnh lễ,
thỉnh Phật từ bi thương xót cứu ra khỏi biển khổ. Vì có chúng sinh chịu uống
thuốc, nên trừ sạch chất độc; có chúng sinh chẳng chịu uống thuốc, nên chất
độc vẫn còn tồn tại. Cho nên, học Phật pháp quý tại thực hành, chẳng phải ở
lời nói.
Lương y có thần hiệu ‘’Diệu thủ hồi xuân,’’ bằng ngược lại, ngụ ý tức là kẻ
giết người chẳng thấy máu. Tại sao lại nói như thế ? Vì bác sĩ bây giờ, đa số
dùng bệnh nhân để làm vật thí nghiệm, thành công thì y có tiếng tăm, thất
bại thì bệnh nhân mất mạng.
Bây giờ kể một câu chuyện, tuy là chuyện tiếu, nhưng cũng có tính chất giáo
dục, có thể cảnh giác cho bác sĩ. Một ngày nọ, vua Diêm Vương mắc bệnh,
sai tiểu quỷ đến dương gian mời bác sĩ.
- Tiểu quỷ nói : ‘’Việc này tôi không thể đi‘’!
- Vua Diêm Vương hỏi : ‘’Tại sao‘’?
- Tiểu quỷ nói : ‘’Tôi không biết vị nào là lương y‘’?
- Diêm Vương nói : ‘’Việc này rất đơn giản, mày đến trước cửa bệnh viện,
thấy chỗ nào hồn quỷ ít, tức là lương y, thì hãy mời đến âm gian chữa bệnh
cho ta.’’ Tiểu quỷ vâng lời đến dương gian tìm khắp nơi, cũng chẳng được
lương y. Nhìn trước cửa chỗ chẩn mạch, đều có vô số oan hồn khóc than đòi
đền mạng. Tiểu quỷ thật chẳng có biện pháp, muốn trở về thì lại sợ Diêm
Vương nóng giận, bèn đi về phía trước, phát hiện trước cửa một nhà chẩn
mạch, chỉ có hai oan hồn. Tiểu quỷ bèn mời vị bác sĩ đó đến chỗ Diêm
Vương, để chữa bệnh cho Diêm Vương.
Vị bác sĩ đó đến chỗ Diêm Vương được chiêu đãi rất ân cần, vừa mời thuốc,
vừa mời trà, khiến cho ông ta chẩn mạch tử tế.
Vua Diêm Vương hỏi : ‘’Xin ông hãy chẩn mạch, tôi mắc bệnh gì‘’?
Bác sĩ trả lời : ‘’Không cần phải chẩn mạch, bất cứ bệnh gì, chỉ cần uống
một viên thuốc đặc hiệu, thì sẽ khỏi bệnh.’’
Diêm Vương nghe rồi cảm thấy mạc danh kỳ diệu, tâm nghĩ đâu có lý này,
không chẩn mạch mà uống thuốc, thì chẳng phải là "lang trung" chăng ?
Lang trung tức là bác sĩ giả, chuyên môn gạt những người thôn quê vô tri vô
thức.
- Bèn hỏi : ‘’Bác sĩ làm nghề y đã được bao lâu‘’?
- Bác sĩ nói : ‘’Sáng sớm hôm nay khai trương, thì bị quỷ đại ca mời đến
chữa cho Ngài.’’
Diêm Vương nghe rồi bèn sinh hoài nghi, hỏi tiểu quỷ rằng : ‘’Trước cửa
của ông ta có bao nhiêu oan hồn?‘’
- Tiểu quỷ đáp : ‘’Chỉ có hai, đang ở đó khóc kể, bị ông ta dùng thuốc độc
làm chết, chết rất oan uổng.’’
- Diêm Vương bèn nói với bác sĩ rằng : ‘’Ông không cần trở về dương gian,
hãy ở lại đây để khỏi hại độc người khác chết nữa.’’ Cho nên, vị bác sĩ đó
cũng làm quỷ luôn.
Trong số các người con, ai không mất bản tâm, thấy thuốc hay đó, sắc hương
đều tốt bèn lấy uống, bệnh lành khỏi hẳn. Người mất đi bản tâm, thấy người
cha về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, xin cha chữa bệnh, tuy cũng cho thuốc,
mà chẳng chịu uống.
Trong số các người con, có người phát cuồng, có người tỉnh táo. Những
người con chưa phát cuồng, thuốc hay sắc vị thơm ngon, thì lập tức uống
vào. Chất độc trong người đều tiêu tan hết (tức là kiến tư hoặc, trần sa hoặc,
vô minh hoặc đều phá trừ hết). Những người con trúng độc quá nặng, thấy
người cha trở về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, cũng xin cha chữa bệnh.
Nhưng người cha cho họ thuốc giải độc, mà họ chẳng chịu uống (biết Phật
pháp là thuốc hay, chuyên trị tham sân si phiền não mà chẳng chịu y giáo
phụng hành, giống như những đứa con thơ bé trúng độc, mà chẳng chịu
uống thuốc).
Tại sao ? Vì chất độc vào sâu mất đi bản tâm. Do đó, thuốc hay thơm ngon,
mà cho là không ngon. Người cha bèn nghĩ rằng : Những đứa con này thật
đáng thương, vì trúng độc nên tâm điên đảo. Tuy thấy ta vui, xin ta cứu
chữa, thuốc hay như thế, mà chẳng chịu uống. Nay ta sẽ bày phương tiện,
khiến cho chúng uống thuốc này.
Ðây là đạo lý gì ? Vì trúng độc quá nặng, chất độc đã xâm nhập vào ngũ
tạng lục phủ, cho nên mất đi bản tâm tỉnh táo, biến thành hồ đồ. Ðối với thứ
thuốc hay sắc vị thơm ngon này, mà nói là chẳng ngon chẳng ngọt.
Phật là vị lương y, chuyên trị bệnh nhiệt não của chúng sinh, vì giải trừ khổ
độc của chúng sinh, mà nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, song chúng sinh
chẳng tin, Phật cũng chẳng có biện pháp. Phật bi tâm thiết thiết, khổ khẩu bà
tâm, để giáo hóa chúng sinh: Ðừng tham, đừng sân, đừng si, đây là ba chất
độc hại người, nhưng chúng sinh xem lời vàng ngọc của Phật như gió thoảng
qua tai, qua rồi chẳng lưu lại, thật là cô phụ Phật, Bồ Tát một phen khổ tâm.
Người cha (Phật) thấy những người con trúng độc (chúng sinh), thật là đáng
thương xót. Vì trúng độc (tin pháp của ngoại đạo) quá nặng, cho nên tâm
điên đảo (tà tri tà kiến). Tuy nhiên thấy ta về thì rất vui mừng, xin ta chữa
trị, nhưng ta vì họ lựa cỏ thuốc thượng hạng (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa), mà
họ chẳng chịu uống. Bây giờ, ta bày pháp môn phương tiện, khiến cho
những người con trúng độc quá nặng phát tâm uống thuốc giải độc này.
Bèn nói như vầy : Các con nên biết, nay ta già nua, thời kỳ chết đã đến,
thuốc hay tốt này, nay để ở tại đây, các con có thể lấy uống, đừng có lo lắng
là bệnh không lành. Dạy như thế rồi, lại đến nước khác, sai sứ về nói là cha
của nhà người đã chết.
Người cha từ bi đó, bèn nói với các người con không nghe lời rằng : ‘’Các
con nên biết ta tuổi đã già, thân thể suy yếu, thời kỳ chết đã đến. Ta chế
thuốc hay để lại đây cho các con, các con hãy tùy tiện mà lấy uống, đừng có
lo lắng là bệnh sẽ không lành. Chỉ cần uống vào thì nhất định sẽ khỏi.’’
Dặn dò xong rồi, từ giã các con, lại đi đến nước khác. Chẳng bao lâu, cố ý
sai sứ về nói với các người con : ‘’Cha của các ngươi đã chết ở nước khác.’’
Ðây là pháp phương tiện, khiến cho các người con phản tỉnh, biết người cha
dụng tâm lương khổ.
Bấy giờ, các người con nghe tin cha mất rồi, tâm rất buồn rầu đau khổ, mà
nghĩ như vầy : Nếu cha mình còn sống, thì sẽ thương xót chúng ta, cứu hộ
chúng ta. Nay đã bỏ chúng ta mất ở xứ người, chúng ta cô độc, lại chẳng có
chỗ nương tựa, thường ôm lòng bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, mới biết thuốc
này sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, bệnh độc đều khỏi.
Lúc đó, các người con trúng độc, nghe tin người cha đã chết ở nước khác,
thảy đều buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy : ‘’Nếu như cha mình còn ở
đời, thì sẽ thương yêu chúng ta, cứu hộ chúng ta. Bây giờ, cha đã bỏ chúng
ta đi qua đời ở nước khác. Bây giờ, chúng ta cô độc chẳng có chỗ nương
tựa’’! Vì trong tâm bi cảm đến cực điểm, cho nên đã tỉnh lại, biết rằng khi
cha ở đời, có để lại thuốc hay, đầy đủ sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, tức
thời chất độc giải trừ, thân tâm thanh tịnh, khôi phục lại diệu minh chân tâm
vốn có.
Lúc đó, trừ khử sạch pháp của ngoại đạo, chuyên tâm nhất chí tu học Phật
pháp. Phật pháp là thuốc hay, cũng là phương pháp duy nhất chữa lành tâm
lý triệt để.
Người cha nghe tin con đều đã khỏi bệnh, bèn trở về, khiến cho các người
con gặp lại.
Vị lương y này xử dụng kế này, để khiến cho các người con uống thuốc. Các
người con sau khi uống thuốc vào, thì chất độc được giải trừ, khôi phục lại
sức khoẻ. Người cha ở nước khác nghe tin rất là an ủi, do đó bèn trở về. Các
người con lại thấy mặt cha mừng rỡ vô cùng, bèn phát nguyện từ nay về sau,
nhất định phải nghe lời cha dạy bảo, làm người con hiếu thuận.
Các thiện nam tử ! Ý các ông nghĩ sao ? Có người nào cho rằng, vị lương y
đó phạm tội vọng ngữ chăng ? Không vậy, đức Thế Tôn !
Các vị thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào ? Có ai nói : ‘’Vị lương y đó nói
dối phạm tội vọng ngữ chăng ? ‘’Ðại chúng khác miệng cùng lời đáp :
‘’Không có tội, Ðức Thế Tôn ! Ông ta vì phương tiện dạy con, cho nên mới
nói như thế, chẳng phải nói dối.’’
Ðức Phật nói : Ta cũng như thế, ta thành Phật đến nay, vô lượng vô biên
trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh mà dùng sức
phương tiện, nói là sẽ diệt độ, cũng chẳng có ai có thể nói, ta có lỗi nói dối.
Ðức Phật nói : ‘’Pháp của ta nói cũng như thế. Trước hết nói Kinh A Hàm,
Kinh Phương Ðẳng, Kinh Bát Nhã, cuối cùng nói Kinh Pháp Hoa, tình trạng
cũng giống như vị lương y. Từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô
biên trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Vì phương tiện giáo hóa
chúng sinh, vì thật thí quyền, mới nói với chúng sinh : Ta sẽ diệt độ, song
không ai có thể nói : ‘’Phật nói dối, có lỗi hư vọng.’’ Ta nghĩ rằng, chẳng có
ai có thể nói, ta có lỗi hư vọng không thật !‘’
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, mới nói lại lần
nữa, khiến cho chúng sinh tương lai hiểu rõ ràng, cho nên bèn dùng kệ để
thuật lại.
Ta thành Phật đến nay
Trải qua các kiếp số
Vô lượng trăm ngàn vạn
ức kiếp A tăng kỳ.
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sinh
Khiến vào trong Phật đạo.
Ðức Phật nói : ‘’Từ khi ta chứng quả vị Phật đến nay, trải qua các kiếp số vô
lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ. Ta luôn luôn diễn nói Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, giáo hóa vô số ức chúng sinh, khiến cho họ vào Phật
đạo, chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác.’’
Vô lượng kiếp đến nay
Vì độ hóa chúng sinh
Phương tiện hiện Niết Bàn
Mà thật chẳng diệt độ.
Thường ở đây nói pháp
Ta thường trụ nơi đây
Dùng các sức thần thông
Khiến chúng sinh điên đảo
Tuy gần mà chẳng thấy.
Từ vô lượng kiếp đến nay, vì độ hóa chúng sinh, cho nên phương tiện thị
hiện Niết Bàn. Kỳ thật, ta chẳng có diệt độ, vẫn ở tại thế giới Ta Bà này, vì
chúng sinh nói pháp. Tuy nhiên ta thường trụ ở hội Pháp Hoa trên núi Linh
Thứu, dùng tất cả sức thần thông để vì chúng sinh điên đảo nói pháp. Song,
họ gần mà chẳng thấy thân của ta. Tại sao ? Vì họ bị vô minh che đậy, trí
huệ chẳng hiện tiền, chẳng có pháp nhãn thanh tịnh, cho nên chẳng thấy ta.
Chúng thấy ta diệt độ
Rộng cúng dường xá lợi
Ðều ôm lòng luyến mộ
Mà sinh tâm khát ngưỡng.
Chúng sinh bèn tin phục
Ý chất trực mềm dịu
Một lòng muốn gặp Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng.
Chúng sinh thấy ta diệt độ, đại chúng rộng cúng dường xá lợi (linh cốt), đều
ôm lòng luyến mộ sinh tâm khát ngưỡng. Lúc đó, chúng sinh bèn tin, lại
được điều phục, cá tính chất trực thật thà, tâm ý mềm dịu điều thuận, một
lòng muốn gặp lại Phật, vì cầu Phật pháp, dù xả bỏ thân mạng cũng chẳng
tiếc.
Người xuất gia có đốt liều ở trên đầu, đó là biểu hiện chẳng tiếc thân mạng,
thành khẩn đồng như đốt thân cúng Phật, thành tâm một lòng quy y Tam
Bảo. Khi đốt liều, thì tinh thần tập trung quán tưởng, suốt đời vì Tam Bảo
cống hiến xác thân; vì độ chúng sinh mà hy sinh tất cả. Nếu tập trung tinh
thần quán chiếu như thế, thì đau cũng chẳng biết đau.
Có người hỏi : ‘’Xá lợi là gì ?‘’ Vấn đề này rất có ý nghĩa, nói đơn giản là
‘’linh cốt‘’ cũng gọi là ‘’kiên cố tử’’, tinh thể từ tử thi thiêu ra, giống như
hột xoàn, phát quang óng ánh, cứng chắc như kim cang. Bình thường có màu
trắng, đó là cốt xá lợi, có màu đỏ là thịt xá lợi. Tóm lại, phàm là cao Tăng
đại đức, tu hành đến cảnh giới viên mãn, sau khi viên tịch, thiêu đốt tử thi, từ
cốt tro mà sàng ra xá lợi.
Xá lợi có hai thứ : Một là toàn thân xá lợi, như xá lợi của Phật Ða Bảo. Hai
là vụn thân xá lợi, như xá lợi của Phật Thích Ca. Còn có sinh thân xá lợi, và
pháp thân xá lợi hai thứ. Sinh thân xá lợi là do huân tu giới định huệ, pháp
thân xá lợi là tất cả kinh điển. Cao Tăng đại đức thời xưa tụng kinh, thì từ
trong miệng phun ra xá lợi, chép kinh thì từ ngòi bút nhả ra xá lợi, thật là
không thể nghĩ bàn. Có khi đốt đèn cúng Phật, do đó có câu ‘’đăng hoa báo
hỷ,’’ từ đèn hoa cũng hiện ra xá lợi, chỉ cần thành tâm thì sẽ cảm ứng xá lợi
hiện ra.
Khi ta và chúng Tăng
Cùng ở tại Linh Thứu
Có lúc nói chúng sinh
Thường tại đây chẳng diệt.
Vì dùng sức phương tiện
Hiện có diệt không diệt.
Lúc đó, chúng sinh tâm thành sở chí, bèn có cảnh giới cảm ứng đạo giao. Ta
và tất cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cùng xuất hiện tại pháp hội ở núi Linh Thứu.
Ta thường nói với chúng sinh : ‘’Ta thường ở trên núi Linh Thứu, vì chúng
sinh nói pháp, chứ chưa diệt độ. Vì sức quyền xảo phương tiện, cho nên có
khi thị hiện diệt độ, có khi thị hiện chẳng diệt độ.’’ Do đó : ‘’Sinh mà chưa
sinh, diệt mà chưa diệt,’’ tức là cảnh giới này.
Nước khác có chúng sinh
Ai cung kính tin ưa
Ta lại ở trong họ
Vì nói pháp Vô thượng.
Ở trong cõi nước khác có chúng sinh, họ đều sinh tâm cung kính tin ưa Phật
pháp đại thừa, thì ta ở trong họ để diễn nói pháp vi diệu thâm sâu Vô
thượng, khiến cho họ phát bồ đề tâm, thành tựu quả giác ngộ vô thượng.
Các ông chẳng nghe đây
Cho rằng ta diệt độ
Ta thấy các chúng sinh
Trôi lăn nơi khổ não.
Nên chẳng vì hiện thân
Khiến họ sinh khát ngưỡng
Do tâm họ luyến mộ
Mới hiện thân nói pháp.
Các ông chẳng nghe nói qua đạo lý này, bèn cho rằng ta diệt độ rồi. Kỳ thật,
ta chưa diệt độ. Ta thấy tất cả chúng sinh đều trôi lăn ở trong biển khổ năm
dục, cho nên chẳng hiện thân Phật vì họ nói pháp, khiến cho họ sinh tâm
khát ngưỡng luyến mộ, sau đó lại hiện thân thuyết pháp giáo hóa chúng sinh.
Như thế, khiến cho chúng sinh biết Phật pháp khó nghe, thân người khó
được, mà đề cao cảnh giác, không thể bỏ qua cơ hội. Cho nên :
‘’Thân người khó được nay đã được
Phật pháp khó nghe nay đã nghe
Ðời này chẳng độ thân này
Còn đợi khi nào độ thân này’’!
Khi Phật còn tại thế, cùng chúng đệ tử đi qua làng nọ thuyết pháp, Phật bèn
bốc lên một nắm đất hỏi đệ tử :
- ‘’Các con xem ! Ðất trong tay của ta nhiều, hay là đất ở ngoài đại địa nhiều
?‘’
- Chúng đệ tử đáp : ‘’Ðương nhiên đất đại địa nhiều.’’
- Phật nói : ‘’Ðược thân người như đất trong bàn tay của ta, mất đi thân
người như đất ngoài đại địa.’’
Lúc đó, chúng đệ tử tỉnh ngộ, từ đó về sau, dụng công tu hành, chẳng bao
lâu chứng được quả A La Hán. Thuyết pháp không nhất định ở trên pháp tòa
thuyết pháp, mà tùy thời tùy lúc đều là nơi thuyết pháp.
Sức thần thông như thế
Trong A tăng kỳ kiếp
Thường ở núi Linh Thứu
Và ở các nơi khác.
Tại sao chúng sinh có thể gặp Phật, có chúng sinh không thể gặp Phật ?
Chúng sinh có duyên với Phật, thì tùy thời tùy lúc có thể gặp Phật; chúng
sinh chẳng có duyên với Phật, thì chẳng gặp Phật. Có người nói : ‘’Tôi với
Phật chẳng có duyên, vĩnh viễn chẳng được gặp Phật, vậy phải làm thế nào
?‘’ Bạn phải trồng căn lành, làm nhiều công đức, thì kết duyên với Phật.
Trồng căn lành như thế nào ? Kết duyên với Phật như thế nào ? Tức là cúng
dường Tam Bảo, đó là biện pháp duy nhất. Thời gian lâu thì tự nhiên sẽ kết
duyên với Phật.
Tại sao diệt độ lại nói là chẳng diệt độ; chẳng diệt độ lại nói rằng diệt độ, đó
là đạo lý gì ? Ðối với người chưa khai ngộ mà nói, thì cho rằng diệt độ; đối
với người khai ngộ mà nói, thì chẳng có diệt độ. Vì người khai ngộ chứng
được ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, thường ở một chỗ với Phật, luôn
luôn ở cạnh Phật, cho nên thường gặp Phật. Chưa chứng được cảnh giới này,
thì đương nhiên chẳng nhìn thấy Phật. Phật nói chẳng có diệt độ, là đối với
người khai ngộ mà nói. Tóm lại, đó đều là sức thần thông của Phật biến hiện.
Vì sức thần thông như thế, cho nên trong A tăng kỳ kiếp, thường ở trong hội
Pháp Hoa tại núi Linh Thứu và ở các nơi khác, vì chúng sinh nói nghĩa chân
thật Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, sớm
sinh về cõi Thường Tịch Quang, ở với chư Phật Bồ Tát.
Chúng sinh thấy kiếp tận
Khi lửa lớn thiêu đốt
Ta cõi này an ổn
Trời người thường đầy dẫy.
Vườn rừng những lầu các
Ðủ thứ báu trang nghiêm
Cây báu nhiều hoa quả
Nơi chúng sinh dạo chơi.
Khi chúng sinh thấy kiếp tận, thì phát sinh nạn lửa lớn, thiêu hủy đến cõi Sơ
thiền. Lục dục thiên (trừ cõi trời Ðâu Suất ra, vì là nơi ở của Bồ Tát Bổ Xứ
Phật vị), các nơi khác đều thiêu hủy hết. Trên từ trời Ðại Phạm, dưới đến địa
ngục vô gián, chẳng tồn tại vật gì cả. Phật ở cõi Thường Tịch Quang rất an
ổn, chẳng bị lửa lớn thiêu hủy, chư thiên và loài người đều đầy dẫy ở cõi đó,
vườn rừng lầu các đều trang nghiêm bằng bảy báu, cây báu đơm hoa kết trái
rất sum sê. Ðây là nơi dạo chơi của những chúng sinh đầy đủ căn lành.
Chư Thiên đánh trống trời
Thường tấu các âm nhạc
Mưa hoa mạn đà la
Rải Phật và đại chúng.
Cõi tịnh ta chẳng hủy
Mà chúng thấy thiêu sạch
Lo sợ các khổ não
Như thế đều đầy dẫy.
Chư Thiên trong ba cõi thường đánh trống trời, vì Phật mà tấu âm nhạc.
Trên trời mưa xuống hoa Mạn đà la rất là xinh đẹp, để rải lên Phật và đại
chúng, biểu thị trang nghiêm đạo tràng, chúc mừng pháp hội. Khi cao Tăng
đại đức giảng kinh thuyết pháp, cũng có điềm tốt hoa trời rơi xuống, đất vọt
lên hoa sen. Bất quá, phàm phu chẳng nhìn thấy cảnh giới này mà thôi. Nếu
người chứng được pháp nhãn, thì nhìn thấy rất rõ ràng.
Phật lại nói : ‘’Cõi Tịnh Ðộ của ta vĩnh viễn chẳng bị hủy hoại, mà vọng
kiến của chúng sinh và phiền não kiến, đều bị kiếp lửa thiêu sạch, lo sợ và
tất cả tâm khổ não đều đầy dẫy.’’
Chúng sinh có tội đó
Bởi nhân duyên nghiệp ác
Qua A tăng kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam Bảo.
Những người tu công đức
Tâm nhu hòa chất trực
Thảy đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp.
Những chúng sinh đó có tội, bởi nhân duyên nghiệp ác, dù trải qua số kiếp A
tăng kỳ, cũng chẳng nghe được danh hiệu Phật, cũng chẳng nghe thấy được
Pháp, cũng chẳng nghe được danh từ Tăng. Ở thế giới này, trước khi Phật ra
đời, chẳng có ai biết về Phật pháp, cho nên chẳng nghe tên Tam Bảo. Giống
như Tu Ðạt Ða (Cấp Cô Ðộc) trưởng giả, khi nghe được danh hiệu Phật, thì
toàn thân dựng lông lên. Vì chưa bao giờ nghe đến danh từ Tam Bảo, cho
nên có hiện tượng như thế.
Tất cả những người tu hành, hết thảy những người trồng căn lành, đều có
công đức, tính tình của họ nhu hòa và chất trực. Những người như thế, mới
có thể thấy được thân ta, đang ở tại pháp hội Linh Sơn nói Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa. Phàm là chúng sinh có tội nghiệp, chẳng những chẳng thấy được
thân Phật, mà cho đến tượng Phật cũng chẳng thấy đặng. Nếu có thể thấy
được tượng Phật, thì cũng giảm bớt tội nghiệp. Tóm lại, tu hành có công
đức, mới có thể thấy được Phật, nghe được Pháp, gặp được Tăng.
Có khi vì chúng đó
Nói Phật thọ vô lượng
Người lâu mới thấy Phật
Thì nói Phật khó gặp.
Trí lực ta như thế
Huệ quang chiếu vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp
Do tu lâu mà được.
Hoặc có lúc, vì chúng sinh nói thọ mạng của Phật là vô lượng vô biên. Ðối
với chúng sinh thường gặp Phật, thì nói Phật sống vô lượng. Ðối với chúng
sinh lâu được gặp Phật, thì nói chẳng dễ gì được gặp Phật, khiến cho họ sinh
tâm khát ngưỡng. Trí lực của ta là như thế, trí huệ quang chiếu khắp vô
lượng chúng sinh, trong vô lượng thế giới, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu
vô thượng đạo. Thọ mạng lâu dài vô lượng đại kiếp, đó là quả báo tu thiện
nghiệp lâu dài.
Muốn tuổi thọ lâu dài, thì phải siêng làm thiện nghiệp phóng sinh. Có công
đức đó, mới có thể sống lâu trăm tuổi, nếu giết hại sinh linh, thì tuổi thọ
ngắn ngủi. Trong bài khuyên đời nhân quả ba đời có nói rằng :
‘’Ðời này trường thọ là nhân gì ?
Ðời trước giữ giới sát, nhiều phóng sinh.
Ðời này chết yểu là nhân gì ?
Ðời trước giết hại chúng sinh linh.’’
Các ông người có trí
Chớ nên sinh hoài nghi
Hãy đoạn khiến dứt sạch
Lời Phật thật không hư.
Như lương y phương tiện
Vì trị bệnh cho con
Thật còn mà nói chết
Không thể nói hư vọng.
Các ông đều là người có đại trí huệ, đừng nên sinh hoài nghi đối với lời của
ta nói, nên đoạn sạch tâm hoài nghi, khiến cho nó vĩnh viễn đừng sinh nữa.
Các ông phải tin lời của Phật là chân thật không hư, Phật là bậc Thánh chẳng
nói dối.
Giống như vị lương y, vì cứu bệnh điên cuồng của con, cho nên cố ý nói
mình đã chết, vì khiến cho các con uống thuốc để giải trừ chất độc, đó là
pháp phương tiện, chẳng có ai có thể nói vị lương y đó là người nói dối.
Một số người đều có tâm ỷ lại. Khi Phật còn ở đời, thì cho rằng chẳng cần
nghe pháp. Sau khi Phật vào Niết Bàn, thì mới biết sự quan trọng của việc
nghe pháp, mới bắt đầu học Phật pháp. Pháp của Phật để lại là thuốc hay,
chuyên trị phiền não. Bây giờ, chúng sinh tu giữ giới luật, tham thiền đả tọa,
tụng kinh lạy Phật, trì chú lễ sám, đó là chiếu theo toa thuốc mà uống, có
thuốc đến thì bệnh tiêu trừ. Nếu như nghiên cứu Phật pháp mà chẳng tu
hành, thì đó là khẩu đầu thiền, nói mà chẳng thực hành, thì giống như là
người què. Nếu tu hành mà chẳng minh bạch Phật lý, thì thành là á dương
Tăng, giống như người câm. Người tu hành bây giờ, chẳng chịu hợp tác với
nhau, đều cho rằng pháp môn của mình là chánh tông, pháp môn của người
khác tu chẳng phải là nghĩa chân thật của Phật. Tôi thì cho rằng đều là đệ tử
của Phật, bất cứ pháp môn gì, cũng đều từ kim khẩu của Phật nói ra, đều
khiến cho chúng sinh trừ chấp trước, bỏ tâm tham. Tôi đề xướng thiền, tịnh,
giáo tam tu, như thế mới có thể thành pháp môn giới định huệ tam học.
Ta là cha cõi đời
Cứu những người khổ nạn
Vì phàm phu điên đảo
Thật còn mà nói diệt.
Do bởi thường thấy ta
Mà sinh tâm kiêu ngạo
Phóng dật chấp năm dục
Ðọa trong ba đường ác.
Ðức Phật nói : ‘’Ta là cha của tất cả người thế gian, cho nên phải cứu hộ tất
cả chúng sinh khổ nạn. Vì phàm phu đều có ý nghĩ điên đảo, cho nên mới
nói diệt độ. Thật tế thì ta chẳng diệt độ.’’
Tại sao chúng sinh điên đảo ? Vì vô minh đang làm chủ nhân ông trong nhà,
tống đuổi trí huệ đi, đúng mà nói là không đúng, không đúng mà nói là
đúng. Tóm lại, tự tánh có đại quang minh tạng, thì đen tối sẽ biến thành
quang minh. Tự tánh chẳng có đại quang minh tạng, thì quang minh biến
thành đen tối. Ðại quang minh tạng là gì ? Tức là tướng chân như. Chân như
là gì ? Tức là bổn thể của các pháp, lìa hư vọng là chân thật, thường trụ
chẳng thay đổi, tức cũng là dọc cùng tam tế, ngang khắp mười phương, Phật
tánh tại chư Phật chẳng tăng, tại chúng sinh chẳng giảm. Thật tướng là gì ?
Tức là tướng như thật thanh tịnh. Tóm lại, chẳng có tâm chấp hai bên, chẳng
có tâm bốn tướng tức là thật tướng.
Phật lại nói : ‘’Tại sao ta nói diệt độ ? Vì chúng sinh hằng ngày nhìn thấy ta,
cho nên sinh tâm kiêu ngạo, chẳng y theo pháp tu hành, chẳng giữ quy cụ,
chấp trước vào cảnh giới năm dục, tương lai phải đọa vào trong ba đường
ác.’’
Ta biết rõ chúng sinh
Hành đạo chẳng hành đạo
Tùy chúng sinh độ được
Mà nói đủ thứ pháp.
Tự ý thường nghĩ rằng :
Làm sao khiến chúng sinh
Ðược vào vô thượng đạo
Sớm thành tựu thân Phật.
Ta biết tâm niệm của tất cả chúng sinh, do đó trong kinh có câu :
‘’Tất cả chúng sinh, bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy.’’
Chúng sinh hành đạo chẳng hành đạo, ta hoàn toàn biết hết. Chúng sinh này
đáng dùng thân Phật độ được, thì ta bèn thị hiện thân Phật, để vì họ nói
pháp. Chúng sinh kia đáng dùng thân chúng sinh độ được, thì ta thị hiện thân
chúng sinh, để vì họ nói pháp. Tóm lại, đáng dùng thân gì độ được, thì ta thị
hiện thân đó, mà vì họ nói pháp.
Phật thường quán tưởng, dùng phương pháp gì để giáo hóa chúng sinh,
khiến cho chúng sinh được vào vô thượng đạo ? Khiến cho chúng sinh sớm
thành tựu pháp thân của Phật.
---o0o---
Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
Trước hết, giải thích sơ lược về tên gọi Phẩm Phân Biệt Công Ðức. Phân
biệt là gì ? Phân là phân tích; biệt là khác biệt. Tức là phân biệt công đức có
lớn nhỏ, có nhiều ít. Công đức là gì ? Công là đối với bên ngoài mà nói; đức
là đối bên trong mà nói. Bên ngoài thường lập công, thì bên trong mới có
đức. Công là việc thiện mà bạn thường làm, việc thiện này vốn có thể làm,
cũng có thể không làm. Song, nếu bạn làm việc thiện, thì đó là công đức. Có
công rồi, thì trong tự tánh sinh ra một cảm giác rất vui mừng, có cảm giác
vui mừng đó tức là đức.
Công đức do tích lũy mà thành, từ nhỏ thành lớn, từ ít mà tích tụ thành
nhiều. Do đó :
‘’Núi Thái Sơn là do từng hạt bụi,
Từng hạt bụi tích tụ mà thành;
Biển cả là do từng giọt nước,
Từng giọt nước tích tụ mà thành.’’
Công đức cũng như thế. Bên ngoài lập công, bên trong bồi đức, thì đạo
nghiệp mới có thể thành tựu.
Phẩm này nói về phân biệt công đức, trước khi công đức chưa viên mãn, thì
hãy làm nhiều công đức. Chúng ta nghe rồi, thì phải cố gắng làm công đức
thiện. Tông chỉ của phẩm này, khiến cho chúng ta phân biệt so sánh công
đức thọ trì kinh này, tức cũng là ngày mới lại mới thêm, sức cầu của chúng
ta tiến thêm.
Bấy giờ, đại chúng trong đại hội, nghe Phật nói số kiếp tuổi thọ lâu dài như
thế, thì vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sinh, đều được lợi ích.
Khi Ðức Phật giảng xong Phẩm Như Lai Thọ Lượng, đại chúng trong đại
hội, nghe Phật nói Như Lai thọ lượng kiếp số lâu dài như thế, thì vô lượng
vô biên A tăng kỳ chúng sinh, thảy đều đắc được lợi ích rất lớn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo đại Bồ Tát Di Lặc : A Dật Ða ! Khi ta nói Như
Lai thọ mạng lâu dài như thế, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức, Na do tha
Hằng hà sa chúng sinh, được vô sinh pháp nhẫn.
Lúc đó, Ðức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc : ‘’A Dật Ða (Vô Năng Thắng) !
Khi ta nói thọ mạng của Như Lai lâu dài, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức,
Na do tha Hằng hà sa số chúng sinh, đều chứng được vô sinh pháp nhẫn.’’
Cảnh giới này chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp
diệt. Chứng được tứ quả A La Hán, mới đắc được vô sinh pháp nhẫn, tức
cũng là cảnh giới bất thối chuyển. Hơn nữa, an trụ vào cảnh không sinh
không diệt mà bảo trì bất động, do đó ‘’Như như bất động, liễu liễu thường
minh.’’
Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Ðà la ni. Lại có số
đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo thuyết biện tài
vô ngại. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được
trăm ngàn vạn ức vô lượng toàn Ðà la ni.
Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Ðà la ni. Ðà la ni
dịch là "tổng trì", tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa.
Ðà la ni có bốn ý nghĩa :
1). Pháp Ðà la ni : Ðối với giáo pháp của Phật, văn trì chẳng quên.
2). Nghĩa Ðà la ni : Ðối với nghĩa của các pháp, tổng trì chẳng quên.
3). Chú Ðà la ni : Ðối với Chú tổng trì chẳng quên.
4). Nhẫn đà la ni : An trụ đối với thật tướng của pháp, gọi là nhẫn, trì nhẫn
gọi là nhẫn Ðà la ni.
Lại có số đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo
thuyết biện tài vô ngại. Nhạo thuyết biện tài vô ngại là gì ? Tức là biện luận
với bất cứ ai, cũng đều thắng lợi. Biện luận đều là chánh tri chánh kiến,
khiến cho đối phương tâm phục khẩu phục, chứ chẳng phải là cường từ đoạt
lý.
Bồ Tát thuyết pháp có bốn trí huệ, bốn thứ biện tài vô ngại :
1). Pháp vô ngại biện : Nói pháp thế gian và pháp xuất thế gian, đối với tất
cả danh tướng, chẳng có gì mà không thông đạt, do đó : ‘’Chẳng có gì mà
không biết, chẳng có gì mà không thấu.’’ Tuy thấu rõ các pháp, nhưng chẳng
chấp trước.
2). Nghĩa vô ngại biện : Giải nói nghĩa lý sai biệt của các pháp, thông đạt vô
ngại. Tuy biết các nghĩa mà chẳng chấp trước.
3). Từ vô ngại biện : Ðối với các lời lẽ thông đạt tự tại. Có thể nói một lời,
mà bao hàm vô lượng nghĩa, dùng thế trí phân biệt nói rõ lý này.
4). Nhạo thuyết vô ngại biện : Tùy thuận sở thích của chúng sinh, phương
tiện thiện xảo mà vì họ nói pháp, ‘’Quán cơ thí giáo, vì người nói pháp.’’
Tóm lại, thấy người gì thì nói pháp đó, thấy người có tâm tham, thì nói pháp
bố thí; thấy người có tâm sân, thì nói pháp nhẫn nhục; thấy người có tâm si,
thì nói pháp Bát Nhã. Theo bệnh cho thuốc. Nếu không khế cơ, thì họ chẳng
bao giờ tin.
Lại có đại Bồ Tát, số nhiều như hạt bụi của một thế giới, đều chứng được vô
lượng toàn Ðà la ni. Toàn Ðà la ni là gì ? Tức là tại pháp môn đắc được sức
toàn chuyển tự tại, cũng có thể nói là toàn chuyển không giả, pháp môn
thông đạt vô ngại.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới,
chuyển được pháp luân bất thối. Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của
trung thiên thế giới, chuyển được pháp luân thanh tịnh. Lại có các đại Bồ
Tát, nhiều như số hạt bụi của tiểu thiên thế giới, còn tám đời nữa, sẽ đắc
được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới
(mười ức thế giới) chuyển được bánh xe pháp bất thoát, tức là tinh tấn
hướng về trước, tuyệt đối không lùi về sau.
Thế nào là ba ngàn đại thiện thế giới ? Tức một núi Tu Di, một mặt trời, một
mặt trăng, một bốn đại bộ châu, làm một thế giới. Tích tập một ngàn thế
giới, làm một tiểu thiên thế giới. Tích tập một ngàn tiểu thiên thế giới, làm
một trung thiên thế giới. Tích tập một ngàn trung thiên thế giới, làm một đại
thiên thế giới. Vì nói ba ngàn, cho nên là ba ngàn đại thiên thế giới, chứ
chẳng phải ba đại thiên thế giới.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi trung thiên thế giới (một trăm
vạn thế giới), chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh. Chuyển bánh xe pháp,
tức là nói giáo pháp. Phàm là giảng kinh nói pháp, đều gọi là chuyển bánh
xe pháp, do đó ‘’Pháp luân thường chuyển.’’ Ý nghĩa chuyển bánh xe pháp,
là chuyển pháp tự tâm để di động tâm người khác, giống như chuyển bánh
xe. Cũng có thể nói là hồi chuyển tất cả chúng sinh giới, phá tan tất cả phiền
não. Giống như luân bảo (bánh xe báu) của vua chuyển luân Thánh vương,
hồi chuyển bốn thiên hạ, hàng phục các oán địch.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của tiểu thiên thế giới (một ngàn thế
giới), còn trải qua tám đời nữa (siêu nhập tứ địa, hướng đến ngũ địa, lục
địa... thập địa, đẳng giác, diệu giác) sẽ chứng được quả vị Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ, còn bốn đời nữa, sẽ
được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt
bụi của ba tứ thiên hạ, còn ba đời nữa, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn hai đời
nữa, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát, nhiều
như hạt bụi của một tứ thiên hạ, còn một đời nữa, sẽ được Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ (bốn tứ đại bộ
châu), còn trải qua bốn đời nữa, (siêu nhập bát địa, cửu địa, thập địa, đẳng
giác, diệu giác), sẽ chứng được quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của ba tứ thiên hạ, còn trải qua ba đời
nữa, (thập địa, đẳng giác, diệu giác) sẽ chứng quả vị Phật Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn trải qua hai đời
nữa, sẽ chứng quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một tứ thiên hạ, còn trải qua một
đời nữa, sẽ chứng quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có chúng sinh, nhiều như hạt bụi của tám thế giới, đều phát tâm Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có chúng sinh, nhiều như hạt bụi của tám thế giới, ngay lúc đó, họ đều
phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Người tu học Phật pháp, nhất định phải phát bồ đề tâm, ‘’Thượng cầu Phật
đạo, hạ hóa chúng sinh.’’ (Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng dinh), mới có
thể kết quả bồ đề. Bằng không, giống như hoa nở mà chẳng kết trái. Có
người nói : ‘’Mọi người đều là Phật,’’ song phải tu hành, mới có thẻ thành
Phật. Chỉ nói mà chẳng thực hành, cũng giống như nói món ăn mà chẳng ăn,
hoặc đếm tiền dùm cho người khác, cuối cùng cũng rơi vào không. Có người
nói : ‘’Thức ăn này ngon quá, mùi vị thơm ngon đều có đủ.’’ Nhưng họ
chẳng ăn thì cũng chẳng ích gì. Lại giống như người làm ở ngân hàng, suốt
ngày đếm tiền thế cho người khác. Do đó có câu :
‘’Chung nhật số tha bảo,
Tự vô bán phân tiền,
Ư pháp bất tu hành,
Kỳ quá diệc như thị.’’
Nghĩa là :
Suốt ngày đếm tiền mướn,
Mình chẳng có xu nào;
Với pháp chẳng tu hành,
Lỗi lầm vẫn trơ trơ.
Khi đức Phật nói các vị đại Bồ Tát đó, được đại pháp lợi, thì ở trong hư
không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, dùng để rải lên vô
lượng trăm ngàn vạn ức các đức Phật, ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu,
và rải lên tháp bảy báu tòa sư tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và đức Ða
Bảo Như Lai diệt độ đã lâu, cũng rải lên tất cả các đại Bồ Tát, và bốn bộ
chúng.
Khi Ðức Phật nói các đại Bồ Tát đó, đắc được đại pháp lợi, thì ở trong hư
không mưa xuống hoa tiểu bạch và hoa đại bạch. Dùng hoa quý đó, để rải
lên trên thân của vô lượng trăm ngàn vạn ức các Ðức Phật, ngồi trên tòa sư
tử ở dưới cây báu. Các vị Phật đó, đều là Phật hóa thân của Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni. Hoa đó lại rải trong tháp bảy báu trên tòa sư tử của Phật Thích
Ca Mâu Ni, và Ðức Ða Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu. Hoa đó cũng rải trên
thân của tất cả các đại Bồ Tát và tất cả bốn bộ chúng.
Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, và hương trầm thủy. Ở trong hư không
trống trời tự kêu, âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn thứ y
trời, thòng rũ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi trân châu, chuỗi châu ma ni,
chuỗi châu như ý, khắp cả chín phương. Các lò hương báu đốt lên hương vô
giá, tự nhiên tỏa khắp để cúng dường pháp hội.
Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, hương trầm thủy. Ðồng thời trống trời
ở trong hư không tự kêu lên, âm thanh vi diệu truyền bá sâu xa. Lại mưa
xuớng hàng nghìn thứ y trời, thòng rũ tất cả các thứ chuỗi ngọc trân châu,
chuỗi ma ni, chuỗi như ý, khắp cả thảy chín phương, dùng các lò hương báu
xông đốt hương thơm vô giá tự nhiên xông khắp cùng pháp giới. Tâm hương
đốt lên thì có thể huân ác thành thiện, dùng tâm thành để cúng dường pháp
hội.
Ở phía trên, mỗi vị Phật có các Bồ Tát cầm phan lọng, thứ tự thăng đến trời
Phạm Thiên. Các vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca xướng vô lượng
bài kệ, để khen ngợi các đức Phật.
Chư Phật đến từ mười phương (hóa thân của Phật Thích Ca), ở phía trên của
mỗi vị Phật, đều có các Bồ Tát tay cầm phan báu và lọng báu, thứ tự thăng
đi lên đến trên trời Ðại Phạm. Những vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca
xướng vô lượng bài kệ, để khen ngợi công đức của vô lượng chư Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở vai bên phải, chắp tay cung
kính hướng về đức Phật, mà nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở áo bên mặt, chắp tay lại
cung kính hướng về Ðức Phật, sau đó nói ra bài kệ dưới đây.
Phật nói pháp ít có
Thuở xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có thần lực
Tuổi thọ không thể lường.
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói người được pháp lợi
Vui mừng khắp toàn thân.
Pháp của Phật nói đều là pháp ít có, nhất là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là ít
có trong sự ít có, thuở xưa vốn chưa từng nghe qua pháp vi diệu thâm sâu vô
thượng. Ðức Thế Tôn có sức đại thần thông, tuổi thọ của Phật không thể dò
lường được. Vô số vô lượng con của đấng Pháp Vương, nghe đức Thế Tôn
phân biệt nói công đức của Bồ Tát được pháp lợi, tâm của các Ngài đều vui
mừng khắp toàn thân. Tóm lại, sự vui mừng không cách nào hình dung
được.
Hoặc trụ bậc bất thối
Hoặc được Ðà la ni
Hoặc nhạo thuyết vô ngại
Vạn ức toàn tổng trì.
Hoặc có cõi đại thiên
Số hạt bụi Bồ Tát
Ai nấy đều chuyển được
Bánh xe pháp bất thối.
Sau khi nghe được pháp này, có Bồ Tát trụ ở bậc bất thoái, hoặc có Bồ Tát
được Ðà la ni, hoặc có Bồ Tát chứng được nhạo thuyết vô ngại biện tài, hoặc
có Bồ Tát được vạn ức toàn tổng trì, hoặc có Bồ Tát nhiều như hạt bụi của
đại thiên thế giới, ai nấy đều chuyển được pháp luân bất thối.
Lại có cõi trung thiên
Số hạt bụi Bồ Tát
Ai nấy đều chuyển được
Bánh xe pháp thanh tịnh.
Lại có cõi tiểu thiên
Số hạt bụi Bồ Tát
Chỉ còn tám đời nữa
Sẽ chứng được Phật đạo.
Lại có các Bồ Tát nhiều như hạt bụi của trung thiên thế giới, các Ngài đều
chuyển được đại pháp luân thanh tịnh. Lại có các Bồ Tát nhiều như hạt bụi
của tiểu thiên thế giới, các Ngài còn tám đời nữa, tức cũng là còn tám phẩm
vô minh vi tế chưa đoạn, nếu đoạn sạch thì sẽ chứng được Phật đạo.
Bồ Tát còn bốn mươi hai phần vô minh hoặc, đoạn một phần vô minh hoặc
thì chứng được một phần pháp thân, thăng lên một bậc, đến bậc Ðẳng giác
thì còn có một phần sinh tướng (biến dịch sinh tử) vô minh chưa phá, nếu
phá được thì lập tức đến bậc Diệu giác (Phật vị).
Lại có bốn ba hai
Tứ thiên hạ như vậy
Các hạt bụi Bồ Tát
Theo số đời thành Phật.
Hoặc một tứ thiên hạ
Số hạt bụi Bồ Tát
Chỉ còn một đời nữa
Sẽ thành Nhất thiết trí.
Như thế thảy chúng sinh
Nghe Phật thọ lâu dài
Ðược vô lượng vô lậu
Các quả báo thanh tịnh.
Lại có bốn tứ thiên hạ, ba tứ thiên hạ, hai tứ thiên hạ, số Bồ Tát nhiều như
hạt bụi, tùy theo bốn, ba, hai đời nữa sẽ thành tựu quả vị Phật. Bốn tứ thiên
hạ là bát địa Bồ Tát, các Ngài còn bốn phẩm vi tế sinh tướng vô minh chưa
phá. Ba tứ thiên hạ là cửu địa Bồ Tát, các Ngài còn ba phẩm sinh tướng vô
minh chưa phá. Hai tứ thiên hạ là thập địa Bồ Tát, các Ngài còn hai phẩm
sinh tướng vô minh vi tế chưa phá. Nếu phá sạch thì sẽ thành Phật đạo.
Hoặc có một tứ thiên hạ số hạt bụi Bồ Tát, các Ngài là đẳng giác Bồ Tát, còn
một phẩm sinh tướng vô minh vi tế chưa phá. Nếu phá sạch sẽ lập tức thành
Phật.
Những Bồ Tát vừa nói ở trên, nghe Phật nói tuổi thọ của Như Lai lâu dài,
đều chứng được vô lượng trí huệ vô lậu, đắc được quả vị Phật diệu giác
thanh tịnh.
Lại có tám thế giới
Số hạt bụi chúng sinh
Nghe Phật nói thọ mạng
Ðều phát tâm vô thượng.
Lại có chúng sinh, nhiều như hạt bụi của tám thế giới, nghe Phật nói thọ
mạng của Như Lai lâu dài, đều phát tâm vô thượng, nguyện sẽ chứng đến
quả vị Phật. Tóm lại, hàng phàm phu nghe được Phẩm Thọ Lượng của Như
Lai trong Kinh Pháp Hoa, thì đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Thế Tôn nói vô lượng
Pháp không thể nghĩ bàn
Nhiều chúng được lợi ích
Như hư không vô biên.
Bồ Tát Di Lặc nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Ngài nói vô lượng diệu pháp không thể
nghĩ bàn, có rất nhiều chúng sinh đắc được lợi ích của pháp, giống như hư
không chẳng có bờ bến.’’
Mưa hoa trời mạn đà
Ma ha mạn đà la
Thích Phạm như Hằng sa
Ðến từ vô số cõi.
Từ hư không mưa xuống hoa trời mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la. Lại có
Thích Ðề Hoàn Nhân và Ðại Phạm Thiên Vương, nhiều như số cát sông
Hằng, đến từ vô số cõi Phật.
Mưa chiên đàn trầm thủy
Tấp nập rơi rớt xuống
Như chim bay không xuống
Cúng rải lên chư Phật.
Lại từ hư không mưa xuống hương bột chiên đàn và hương bột trầm thủy,
tấp nập rơi rớt xuống, giống như chim từ không trung bay xuống. Những
hương bột đó rải lên cúng dường các Ðức Phật.
Trống trời trong hư không
Tự nhiên vang diệu âm
Y trời ngàn vạn thứ
Chuyển động rơi rớt xuống.
Trống trời ở trong hư không, tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu, trống trời
chẳng đánh mà tự kêu. Lại có ngàn vạn thứ y trời, xoay chuyển ở trong hư
không, rồi rơi rớt xuống.
Các lò hương báu đẹp
Xông đốt hương vô giá
Tự nhiên tỏa khắp nơi
Cúng dường các Thế Tôn.
Lại có lò hương đẹp làm bằng bảy báu, xông đốt hương quý vô giá, mùi
thơm tỏa khắp pháp giới, để cúng dường các Ðức Phật và Ða Bảo Như Lai.
Chúng đại Bồ Tát đó
Cầm phan lọng bảy báu
Cao đẹp vạn ức thứ
Thứ tự đến Phạm Thiên.
Lại có đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, ai nấy đều cầm phan lọng bảy báu.
Phan lọng này rất cao, tốt đẹp khác thường, có hàng vạn ức thứ, rất có thứ
tự, từ phương dưới mà thăng đến trời Phạm Thiên (cõi sơ thiền sắc giới).
Trước mỗi các đức Phật
Tràng báu treo thắng phan
Cũng dùng ngàn vạn kệ
Ca ngợi các Như Lai.
Ðủ thứ việc như thế
Thuở xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô lượng
Tất cả đều vui mừng.
Ở trước tòa mỗi vị Phật, phát tâm cúng dường, treo tràng báu và phan báu
thù thắng nhất, để làm đồ trang nghiêm. Cũng dùng ngàn vạn bài kệ, để ca
ngợi công đức của các Như Lai, những việc không thể nghĩ bàn như thế,
thuở xưa chưa từng có, nghe Phật nói Phẩm Thọ Lượng của Như Lai, hết
thảy đều sinh tâm vui mừng.
Danh Phật đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sinh
Hết thảy đủ căn lành
Trợ phát tâm vô thượng.
Danh hiệu của Phật, tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều nghe
được. Nhưng chúng sinh có căn lành mới nghe được, bằng không, thì chẳng
nghe được danh hiệu của Phật. Phật dùng từ bi làm bổn hoài, để rộng lợi ích
tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đầy đủ căn lành. Phàm là
người không có căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành; người đã có căn
lành thì khiến cho họ tăng trưởng; người đã tăng trưởng, thì khiến cho họ
thành thục; người đã thành thục thì khiến cho họ được giải thoát. Trợ giúp
chúng sinh phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc, A Dật Da ! Những chúng sinh nào,
nghe thọ mạng của Phật lâu dài như thế, cho đến sinh một niệm tin hiểu, thì
được công đức chẳng có hạn lượng.
Lúc đó, Ðức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc : ‘’A Dật Ða ! Có chúng sinh nhiều
như số cát sông Hằng, mà nghe được thọ mạng của Phật lâu dài như thế, mà
trong một niệm sinh tâm tin hiểu, thì sẽ được công đức công đức chẳng có
hạn lượng.’’
Nếu có người thiện nam, thiện nữ, vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở
trong tám mươi vạn ức Na do tha kiếp, thực hành năm Ba la mật, trì giới Ba
la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, trừ Bát
Nhã Ba la mật ra, đem công đức này, so sánh với công đức ở trên, chẳng
bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến
tính toán ví dụ, cũng không thể biết được.
Nếu như có người thiện nam, người thiện nữ, giữ năm giới, thực hành thập
thiện, họ vì cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở trong tám mươi
vạn ức Na do tha kiếp, tu hành năm Ba la mật (dịch là đến bờ kia). Năm Ba
la mật là gì ? Lược giải như sau :
1). Bố thí Ba la mật : Bố thí có ba thứ : Bố thí tài, bố thí pháp và bố thí vô
uý. Bố thí tài gồm có nội tài và ngoại tài. Nội tài là đầu mắt tủy não; ngoại
tài là đất nước vợ con, thảy đều bố thí cho người cần. Bố thí pháp tức là
giảng kinh thuyết pháp, do đó :
‘’Trong các sự cúng dường,
Cúng dường pháp là hơn hết.’’
Bố thí tài là tu phước, bố thí pháp là tu huệ. Phước huệ song tu, thì công đức
mới viên mãn. Ðức Phật từng trải qua :
‘’Ba A tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt.’’
Có công đức thì mới thành Phật. Nếu như tu phước mà không tu huệ, thì
giống như voi được người trang sức chuỗi ngọc. Tuy trang nghiêm, nhưng
mình chẳng cách gì thọ dụng được. Nếu chỉ tu huệ mà chẳng tu phước, thì
giống như A La Hán ôm bát không, thường thường đi khất thực chẳng được
thức ăn. Tại sao ? Vì thuở xưa chẳng tu công đức bố thí, tức chẳng kết duyên
lành, cho nên đời này thọ quả báo đó. Bố thí vô úy là như có người gặp việc
sợ hãi, thì giúp đỡ họ giải quyết sự khó khăn, khiến cho họ chẳng sợ hãi.
Song, phải dùng tâm từ bi thương xót đi cứu giúp, không thể có tâm xí đồ đi
trợ giúp.
2). Trì giới Ba la mật : Giới là ngừa điều ác, không làm việc quấy. Tức là :
‘’Ðừng làm các việc ác,
Hãy làm các việc lành.’’
Giới luật rất quan trọng ở trong Phật giáo, cho nên người xuất gia cần phải
thọ giới cụ túc, do đó :
‘’Chúng sinh thọ Phật giới,
Tức nhập chư Phật vị,
Vị đồng đại giác dĩ,
Chân thị chư Phật tử.’’
Nghĩa là :
Chúng sinh thọ giới Phật,
Liền vào chư Phật vị,
Tuy chưa được giác ngộ,
Mà thật là Phật tử.
Vào đời Ðường, Ðạo Tuyên luật sư là sơ tổ của luật tông. Ngài tu ở núi
Chung Nam, nghiên cứu luật luận, giữ giới rất nghiêm minh, tơ hào chẳng
cẩu thả, cảm ứng người trời mang thức ăn đến cúng dường. Do đó, đủ thấy
quỷ thần cũng sùng bái, người xuất gia giữ gìn giới luật trong sạch, mà cung
kính đảnh lễ. Ngài Khuy Cơ đại sư (nhị Tổ của Duy Thức tông) nghe Ngài
Ðạo Tuyên luật sư được người trời cúng dường, Ngài muốn thưởng thức
món ăn của người trời mùi vị như thế nào ? Do đó, từ Trường An đến núi
Chung Nam, song quá ngọ chẳng thấy người trời mang thức ăn đến, Ngài
bèn trở về. Trưa ngày thứ hai, người trời mang thức ăn đến, Ngài Ðạo Tuyên
luật sư hỏi : ‘’Sao hôm qua chẳng đến ?‘’
- Người trời nói : ‘’Hôm qua tôi đến ở ngoài cửa, nhìn thấy trong nhà có một
vị nhục thân Bồ Tát phóng hào quang rực rỡ, cho nên tôi không dám vào, do
đó phải trở về.’’
Học Phật pháp nhất định phải thọ giới. Thọ giới rồi phải giữ gìn cẩn thận,
tức cũng là phải giữ quy cụ của Phật giáo, do đó ‘’Vô quy cụ bất thành
phương viên.’’ Nghĩa là : Chẳng có quy cụ thì chẳng thành vuông tròn.
Người cư sĩ tại gia phải thọ năm giới, tám giới, mười giới trọng bốn mươi
tám giới khinh của Bồ Tát giới. Người xuất gia trước hết thọ mười giới Sa
Di, sau đó thọ giới Tỳ Kheo.
Bất cứ là người tại gia, hoặc người xuất gia, thọ giới rồi mà phạm giới, thì
giống như chiếc thuyền ở giữa biển có lỗ thủng, sẽ chìm xuống đáy biển.
Phàm là người thọ giới mà chẳng giữ giới, thì sau khi chết sẽ đọa vào ba
đường ác, do đó có câu :
‘’Ðịa ngục môn tiền tăng đạo đa.’’
Nghĩa là :
Dưới địa ngục rất nhiều ông Tăng ông Ðạo.
Nhất là xuất gia rồi mà chẳng giữ giới luật, tùy tiện chẳng giữ quy cụ, thì
nhất định đến địa ngục thọ khổ, chẳng có gì nghi ngờ.
Người thọ giới nếu trong sự vô ý mà phạm giới, thì tình có thể tha, có thể
khai duyên, do đó có câu : ‘’Khai giá trì phạm.’’ Khai là khai duyên, giá là
giá tội, trì là thọ trì, phạm là phạm giới. Ở đây lại có rất nhiều quy định chi
tiết nhỏ, không thể nói ra.
3). Nhẫn nhục Ba la mật : Tức là những người khác nhẫn không được mà
bạn nhẫn được. Nếu ai ai cũng nhẫn được thì đâu có gì lạ. Ví như, có người
vô duyên vô cớ đến gây sự với bạn, hoặc mắng chưởi bạn, hoặc đánh bạn,
mà bạn chẳng động tâm, chẳng nổi lửa vô minh, chẳng sinh tâm báo thù, vẫn
an nhiên tự tại. Ðến được hỏa hầu như thế, thì mới xứng đáng là người xuất
gia. Bằng không, nói nghe rất hay, tuyệt đối không nóng giận, khi cảnh giới
đến khảo nghiệm, mà lý trí khống chế chẳng đặng, nổi giận lôi đình, làm cho
công đức mình tu hằng ngày, bị lửa vô minh đốt sạch. Cho nên hy vọng các
vị hãy cẩn thận.
4). Tinh tấn Ba la mật : Tức là không giải đãi. Bất cứ là tụng kinh, trì chú,
hoặc tham thiền, lạy Phật, nhất định phải dũng mãnh tinh tấn, không thể một
ngày nóng mười ngày lạnh. Thời xưa, các vị cao Tăng đại đức đều thân tâm
siêng tinh tấn, chứng được tất cả tự tại, chẳng giống như chúng ta giải đãi
lười biếng, chẳng nhận chân tu hành, thì đừng nói đến thân tinh tấn, tâm tinh
tấn, ngày tinh tấn, đêm tinh tấn, thật là cách xa mười vạn tám ngàn dặm.
5). Thiền Ba la mật : Thiền dịch là "tư duy tu", còn dịch là "tĩnh lự", tức là
ngưng bặt mọi vọng tưởng, đừng để cho nó nổi sóng làm gió. Cho nên phải
tham câu : ‘’Niệm Phật là ai ?‘’ Ðây là biện pháp lấy độc trị độc, do đó có
câu :
‘’Vọng tưởng không sinh tức là Thiền.’’
Vọng tưởng như mây trôi, dễ che lấp đi tự tánh ánh sáng mặt trời, tu thiền
định khiến cho tâm thanh tịnh, không sinh vọng tưởng thì bồ đề sẽ hiện tiền.
Tại sao không nói Bát Nhã Ba la mật ? Vì Bát Nhã là mẹ của chư Phật. Nếu
có Bát Nhã thì có cơ hội thành Phật. Hiện tại nói về công đức, chứ chẳng
phải nói về thành Phật, cho nên chẳng nói về Bát Nhã. Bây giờ, người đó tu
năm Ba la mật này, trải qua tám mươi vạn ức Na do tha kiếp thời gian, đắc
được công đức so sánh với công đức nghe Phẩm Thọ Lượng của Như Lai,
mà sinh một tâm niệm tin hiểu, thì không thể nào bằng được, dù một phần
trăm, một phần ngàn, cho đến một phần ngàn vạn ức, cũng không sánh được.
Dù có tính toán, ví dụ để hình dung, cũng chẳng cách chi biết được cứu kính
có bao nhiêu?
Nếu người thiện nam, người thiện nữ, có công đức như thế, mà chẳng đắc
được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì chẳng có lý đó.
Nếu như có người thiện nam, người thiện nữ, có công đức nghe Phẩm Thọ
Lượng của Như Lai, sinh một tâm niệm tin hiểu, mà chẳng đắc được quả vị
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì tuyệt đối chẳng có đạo lý đó. Các vị
chú ý ! Phật là bậc Thánh nhân chẳng nói dối, chúng ta phải tin lời từ kim
khẩu của Phật nói, không thể hủy báng kinh nào đó là kinh giả, chẳng phải
Phật nói, nếu không thì sẽ đọa vào địa ngục cắt lưỡi.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Ðức Phật e rằng đại chúng trong pháp hội không tin đạo lý này, đối
với thọ lượng của Như Lai lâu dài, sinh một tâm niệm tin hiểu, làm sao lại
có công đức lớn như thế ? Vì khiến cho đại chúng giải trừ tâm hoài nghi, bèn
thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, nói ra bằng kệ.
Nếu người cầu Phật huệ
Trong tám mươi vạn ức
Na do tha số kiếp
Tu năm Ba la mật.
Nếu như có người muốn cầu trí huệ vô thượng của Phật, ở trong tám vạn ức
kiếp, tu hành pháp môn năm Ba la mật. Công đức đó, chẳng bằng công đức
sinh một tâm niệm tin hiểu.
Ở trong các kiếp đó
Bố thí cúng dường Phật
Và Duyên Giác đệ tử
Cùng các chúng Bồ Tát.
Ðồ ăn uống hảo hạng
Y tốt và đồ nằm
Chiên đàn làm tịnh xá
Dùng vườn rừng trang nghiêm.
Bố thí như thế thảy
Ðủ thứ đều tốt đẹp
Hết các số kiếp đó
Hồi hướng về Phật đạo.
Trong thời gian dài như thế, bố thí cúng dường cho các Ðức Phật và các
hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thảy, dùng vật ăn thức uống ngon
nhất, quần áo tốt đẹp nhất, thuốc thang hay quý nhất, để cúng dường cho bốn
bậc Thánh. Dùng gỗ chiên đàn để làm tịnh xá, dùng vườn rừng để trang
nghiêm chung quanh, khiến cho thanh tịnh u nhã. Những đồ bố thí này, đều
vi diệu thù thắng, bố thí hết thảy tám mươi vạn ức Na do tha kiếp số, đều hồi
hướng công đức về Phật đạo.
Nếu giữ gìn giới cấm
Thanh tịnh chẳng thiếu sót
Cầu chứng vô thượng đạo
Ðược chư Phật khen ngợi.
Nếu như, lại hay giữ gìn giới cấm thanh tịnh viên mãn, chẳng có chỗ thiếu
sót. Muốn cầu Phật đạo vô thượng, thì nhất định được chư Phật gia trì và
khen ngợi. Giữ giới quan trọng như giữ đầu.
Nếu tu hạnh nhẫn nhục
Trụ nơi chỗ điều nhu
Nếu kẻ ác nhiễu loạn
Mà tâm chẳng lay động.
Có những người đắc pháp
Bị kẻ tăng thượng mạn
Khinh khi làm khổ não
Như thế cũng nhẫn được.
Nếu như tu hành pháp môn nhẫn nhục, trụ ở chỗ điều thuận nhu hòa, tuyệt
đối không sinh lửa vô minh. Nếu có người không biết đạo lý đến nhiễu loạn
bạn, hoặc phỉ báng, hoặc nhục mạ, thậm chí đánh đập, cảnh giới nghịch như
thế đến, thì phải có định lực, đừng để cảnh giới chuyển. Hoặc có Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, bị họ khinh khi nhiễu loạn khổ não, thì đừng sinh tâm sân hận,
xem họ như thiện tri thức khai đạo. Quán như thế, thì tự nhiên sẽ sóng yên
gió lặng, bình an vô sự. Bằng không, nổi trận lôi đình, thì cả hai đều thảm
bại thương đau, tạo thành chuyện cười cho thiên hạ. Cho nên có câu :
‘’Một niệm sân nổi lên,
Trăm vạn chướng ngại đều xảy ra.’’
Nếu lại siêng tinh tấn
Chí niệm thường kiên cố
Trong vô lượng ức kiếp
Một lòng chẳng giải đãi.
Lại trong vô số kiếp
Trụ ở chỗ vắng lặng
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Trừ ngủ thường nhiếp tâm.
Nếu như hay siêng tu tinh tấn Ba la mật, chí niệm kiên cố. Bất cứ gặp khó
khăn gì, nhất định cũng không thối chuyển. Ở trong vô lượng ức kiếp, một
lòng tinh tấn hướng về trước, vĩnh viễn không giải đãi. Lại ở trong vô lượng
ức kiếp, trụ ở chỗ vắng lặng, hoặc là ngồi thiền, hoặc là đi kinh hành, đều
phải nhiếp tâm thu niệm. Trừ sự ngủ nghỉ ra, bình thường phải thu nhiếp tâm
viên ý mã, đừng để chúng rong chạy bên ngoài, huấn luyện chúng giữ gìn
quy cụ.
Vì bởi nhân duyên đó
Hay sinh các thiền định
Tám mươi ức vạn kiếp
An trụ tâm chẳng loạn.
Ðem phước nhất tâm đó
Nguyện cầu vô thượng đạo
Con được Nhất thiết trí
Hết các bờ thiền định.
Nhờ nhân duyên đó, cho nên sinh tất cả thiền định, trải qua thời gian tám
mươi ức vạn kiếp, trụ an ổn ở trong thiền định, khiến cho tâm chẳng tán
loạn, tinh thần tập trung tại một chỗ, tư duy niệm Phật là ai ? Tham đến chỗ
sơn cùng thủy tận, thì sẽ khai ngộ.
Như đem phước nhất tâm tu trì thiền định tam muội, thệ nguyện cầu Phật
đạo vô thượng. Con nguyện đắc được nhất thiết trí, hết tất cả bờ mé thiền
định, tức cũng là đắc được hết thảy thiền định tam muội.
Người đó trong trăm ngàn
Vạn ức vô số kiếp
Tu các công đức đó
Như ở trên vừa nói.
Có thiện nam tín nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Cho đến một niệm tin
Phước đây lại hơn kia.
Nếu có người chẳng có
Tất cả các nghi hoặc
Sinh tâm tin chốc lát
Phước đây đồng phước kia.
Người tu hành đó, trong trăm ngàn vạn ức kiếp tu hành pháp môn năm Ba la
mật, công đức đắc được rất là thù thắng. Nếu như, có người thiện nam,
người thiện nữ, nghe ta nói thọ mạng dài lâu, cho đến sinh một tâm niệm tin
hiểu, thì phước đức này thù thắng hơn công đức tu năm Ba la mật vừa nói ở
trên. Nếu như có người chẳng có tất cả nghi hoặc, trong khoảnh khắc sinh
tâm tin sâu, thì đắc được phước báu, đồng với công đức tám mươi vạn ức
kiếp tu năm Ba la mật.
Hết thảy các Bồ Tát
Vô lượng kiếp hành đạo
Nghe ta nói thọ mạng
Thì tâm sẽ tin nhận.
Những người như thế thảy
Tin thọ kinh điển này
Nguyện con đời vị lai
Sống lâu độ chúng sinh.
Hết thảy các Bồ Tát trong vô lượng kiếp đến nay, tu hành Bồ Tát đạo, gieo
trồng các căn lành. Các vị đó, nghe ta nói thọ mạng của Như Lai, thì sẽ tin
hiểu thọ trì, chẳng sinh tâm hoài nghi. Những người như thế thảy, đều tin thọ
bộ kinh điển này, phát nguyện hy vọng Phật thọ mạng vô lượng, ở đời vị lai
độ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui, đồng lên bờ kia.
Như Thế Tôn hôm nay
Vua trong dòng họ Thích
Ðạo tràng sư tử hống
Thuyết pháp vô sở úy.
Chúng con đời vị lai
Ðược tất cả tôn kính
Khi ngồi nơi đạo tràng
Cũng nói thọ như thế.
Giống như Ðức Thế Tôn hôm nay, là bậc Pháp Vương vô thượng ở trong
dòng họ Thích. Ngồi ở nơi đạo tràng thuyết pháp như sư tử hống, chẳng có
sợ hãi. Trong Chứng Ðạo Ca có nói :
‘’Sư tử hống, vô úy thuyết.
Bách thú văn chi giai lão liệt,
Hương tượng bôn ba thất cước uy,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt.’’
Lúc Phật còn ở đời, thì Ðề Bà Ðạt Ða và vua A Xà Thế liên kết hại Phật, lợi
dụng uy lực của voi say để đạp chết Phật. Khi Phật đến thành Vương Xá
khất thực, thì thả bầy voi say ra, để thực hành quỷ kế của họ. Voi say đó
xông đến ở trước Phật, lúc đó thập phần nguy hiểm, Phật bèn dùng định lực,
cũng chẳng tránh né, duỗi tay hướng ra ngoài, năm ngón tay lập tức biến
thành năm con sư tử, hống lên một tiếng, thì bầy voi nghe tiếng bèn quỳ
xuống. Cảnh giới này cảm động đến các dân chúng, bèn quy y với Ðức Phật.
Ðức Phật lại nói : ‘’Chúng con ở đời vị lai, được tất cả chúng sinh tôn kính,
tương lai thành Phật sẽ ngồi ở tại đạo tràng, nói thọ lượng của Như Lai, cũng
như Ðức Thế Tôn nói pháp.’’
Nếu có người thâm tâm
Thanh tịnh lại chất trực
Ða văn hay tổng trì
Tùy nghĩa giải lời Phật.
Hết thảy người như thế
Nơi kinh này chẳng nghi.
Nếu như có người thâm tâm, một lòng thanh tịnh chẳng cấu nhiễm, chất trực
thật thà, bác học đa văn, nghiên cứu kinh điển, tổng trì chẳng quên. Tùy theo
nghĩa lý mà giải thích lời lẽ của Phật nói. Người đắc được đa văn tam muội,
và tổng trì tam muội như thế, thì đối với Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chẳng có
hoài nghi, một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, truyền bá
kinh này.
Lại nữa, A Dật Ða ! Nếu có người nghe được thọ mạng lâu dài của Phật, mà
hiểu rõ nghĩa lý của lời nói, thì người đó được công đức chẳng có hạn lượng,
hay sinh ra trí huệ vô thượng của Như Lai, hà huống là rộng nghe kinh này.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Ða ! Nếu có chúng sinh nghe được thọ
mạng lâu dài của Phật, mà thấu hiểu nghĩa lý bên trong của lời nói, thì người
đó được công đức chẳng có hạn lượng, hay trợ giúp họ sinh ra trí huệ vô
thượng của Như Lai. Hà huống rộng nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa !
Công đức đắc được không thể nói được.’’
Hoặc dạy người đến nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc
tự mình biên chép, hoặc dạy người biên chép, hoặc dùng hương hoa, anh lạc,
tràng phan, lọng lụa, dầu thơm, đèn, để cúng dường kinh quyển. Công đức
của người đó, vô lượng vô biên, hay sinh ra nhất thiết chủng trí.
Hoặc dạy bảo người thân, bạn bè đến nghe Kinh Pháp Hoa, hoặc tự mình thọ
trì Kinh Pháp Hoa, hoặc dạy người thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoặc tự mình biên
chép Kinh Pháp Hoa, hoặc dạy bảo người biên chép Kinh Pháp Hoa. Hoặc
dùng hoa tươi, hương thơm, anh lạc, tràng báu, phan báu, lọng báu, dầu
thơm, đèn .v.v... để cúng dường Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Công đức của
người đó, vô lượng vô biên, sẽ thành tựu nhất thiết chủng trí của Như Lai.
A Dật Ða ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, nghe ta nói thọ mạng dài
lâu, mà thâm tâm tin hiểu, tức là thấy Phật thường ở tại núi Kỳ Xà Quật,
cùng với các chúng đại Bồ Tát, Thanh Văn, vây quanh nói pháp.
A Dật Ða ! Nếu như có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe ta nói thọ mạng
lâu dài của Như Lai, mà phát tâm tin hiểu, lại hay thấu rõ nghĩa lý bên trong,
tức là thấy được pháp thân của Phật. Tại sao ? Vì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
tức là chân thân của Phật, tức cũng là pháp thân của Phật. Thấy được Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, thì giống như gặp được Phật, đừng cho rằng Phật vào
Niết Bàn thì không thuyết pháp. Phật luôn luôn đều đang nói Kinh Diệu
pháp Liên Hoa. Phật nói Kinh Pháp Hoa trong khoảng thời gian tám năm, từ
khi Phật bảy mươi hai tuổi thì bắt đầu nói Kinh Pháp Hoa. Sau này, đem
kinh văn biên trên lá bối, liên kết lá bối lại dài khoảng tám dặm. Do đó, kinh
này là đại biểu cho chân thân của Phật.
Người này thường thấy Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật (Linh Thứu) và các chúng
đại Bồ Tát Thanh Văn vây quanh Phật, nghe Phật nói Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa.
Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng lưu ly, mặt đất bằng phẳng, vàng diêm
phù đàn dùng làm tám đường, cây báu thẳng hàng, các đền đài lầu các, đều
dùng bảy báu tạo thành, các chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người hay
quán như thế, thì nên biết người đó tin sâu hiểu kinh này.
Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng chất lưu ly, mặt đất bằng phẳng, chẳng
có núi cao, chẳng có biển sâu. Tại sao thế giới có núi cao biển sâu, cao thấp
chẳng bằng phẳng ? Vì tâm người chẳng bằng phẳng, do nghiệp báo cảm
ứng hiện ra. Người chứng quả, tuy nhiên ở tại thế giới này, nhưng thấy
những cảnh giới khác nhau. Họ thấy mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay,
chúng ta phàm phu thấy mặt đất lồi lõm chẳng bằng phẳng.
Tại châu Diêm Phù Ðề có con sông lớn, bờ sông có cây đàn kim, khi lá cây
này rớt xuống sông, thì làm cho cát dưới sông biến thành vàng, ánh sáng rất
sáng đặc biệt, có thể nói là rực rỡ chóa mắt. Dùng vàng này để làm tám con
đường (biểu thị cho bát chánh đạo). Lại có cây bằng bảy báu, thẳng tắp
thành hàng. Hết thảy đền đài lầu gác, đều dùng bảy báu tạo thành. Các
chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu như có người quán tưởng như thế, thọ trì
kinh này, đọc tụng kinh này, thì nên biết người đó tin hiểu sâu xa kinh này.
Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này, mà chẳng hủy
báng, phát tâm tùy hỷ, thì nên biết người đó, đã tin hiểu sâu kinh này, hà
huống là người đọc tụng thọ trì, tức là người đó đầu đội đức Như Lai.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu như có người nghe được Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, mà tin sâu chẳng nghi ngờ, chẳng hủy báng, phát khởi tâm tùy hỷ, thì
nên biết người đó, đã tin hiểu sâu xa. Hà huống, là người hay đọc tụng lại
hay thọ trì, người đó cung kính như đầu đội Ðức Như Lai.
A Dật Ða ! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chẳng cần vì ta mà tạo
dựng chùa tháp, và làm phòng ốc cho Tăng, dùng tứ sự cúng dường chúng
Tăng. Sở dĩ vì sao ? Vì người thiện nam, người thiện nữ đó, thọ trì đọc tụng
kinh điển này, là đã xây dựng tháp, tạo lập phòng ốc cho Tăng, cúng dường
chúng Tăng.
A Dật Ða ! Người thiện nam, người thiện nữ đó, nếu hay thọ trì, đọc tụng
giải nói, biên chép ấn tống kinh này, thì chẳng cần vì ta tạo dựng chùa tháp.
Tại sao ? Vì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là chùa tháp của Phật. Có người
nói : ‘’Vậy kinh điển là chùa tháp thì chẳng cần làm chùa nữa.’’ Tuy nhiên
Phật nói như thế, song phát tâm làm chùa tháp thì rất tốt. Vì tạo tháp để cúng
dường xá lợi của Phật; tạo chùa để cúng dường tượng Phật vàng, biểu thị
cung kính, khiến cho chúng sinh thấy trang nghiêm mà sinh tâm tín ngưỡng,
mới phát tâm bồ đề, do đó mà trồng xuống căn lành.
Cũng chẳng cần vì Tăng mà tạo phòng ốc, cũng chẳng cần cúng dường
Tăng, tứ sự (quần áo, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc thang). Lời có thể nói lại,
nếu chẳng cúng dường tứ sự lên chư Tăng, thì chẳng thể gieo trồng căn lành,
chẳng đắc được công đức, chẳng có công đức thì chẳng có phước báo. Tại
sao nói như thế ? Vì người thiện nam thiện nữ đó thọ trì, đọc tụng kinh này,
thì đồng như đã tạo chùa tháp, tạo phòng xá cho Tăng, cúng dường chúng
Tăng. Ðây là nói về công đức thọ trì kinh điển, so với công đức cúng dường
còn muốn lớn hơn. Nếu không thể thọ trì kinh điển, thì vẫn phải cúng dường
Tam Bảo, nhờ phước lực này mà tăng trưởng căn lành.
Tức là đem Phật xá lợi tạo dựng tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần đến cõi trời
Phạm Thiên. Lại treo các phan lọng, và các linh báu, hoa hương, anh lạc,
hương bột, hương thoa, hương đốt, các thứ âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn
không hầu, đủ thứ kịch múa, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm khen ngợi, tức
là ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, đã từng cúng dường như thế.
Tức là đồng như đem xá lợi của Phật, tạo dựng tháp bằng bảy báu. Tháp đó
dọc cao tam giới, ngang khắp mười phương, nền tháp cao rộng lên trên nhỏ
dần, cao đến cõi trời Phạm Thiên thuộc cõi sắc. Lại treo các phan báu, lọng
báu, linh báu, hoa tươi, hương quý, anh lạc, hương bột, hương thoa, hương
đốt, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, các loại trống, các thứ âm nhạc, đủ
thứ kịch múa, âm thanh ca rất hay, ngâm nga tán thán khen ngợi. Tức là ở
trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, đã từng cúng dường xá lợi như thế.
A Dật Ða ! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nghe được kinh điển này, có
người hay thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, tức là
tạo dụng phòng ốc cho chúng Tăng. Dùng gỗ chiên đàn đỏ, làm các điện
đường ba mươi hai sở, cao khoảng tám cây đa la, cao rộng trang nghiêm tốt
đẹp, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo trụ ở trong đó.
A Dật Ða ! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nào nghe Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, hoặc tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, thì đồng như tạo
lập phòng ốc cho chư Tăng, dùng gỗ chiên đàn đỏ, làm các điện đường ba
mươi hai sở (tạo lập điện đường trong tự tánh). Ðiện đường cao khoảng tám
cây đa la, chẳng những cao rộng mà còn trang nghiêm tốt đẹp, có trăm ngàn
vị Tỳ Kheo trụ ở trong đó.
Lại có vườn rừng ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, hang động ngồi thiền, y
phục thức ăn uống, giường nệm thuốc thang, tất cả dụng cụ âm nhạc đầy dẫy
trong đó. Nhà Tăng lầu các như thế, hàng trăm ngàn vạn ức nhiều vô số.
Dùng những thứ đó, hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ Kheo Tăng.
Lại có vườn rừng, lại có ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, lại có hang động
ngồi thiền rất là đẹp đẽ. Lại có y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc
thang, muốn gì có nấy. Lại có đủ thứ dụng cụ âm nhạc đầy dẫy trong đó.
Nhà Tăng lầu các như thế, nhiều hàng trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên.
Dùng cảnh giới hiện tiền đó, cúng dường cho ta, và tất cả chúng Tỳ Kheo.
Vì lẽ đó mà ta nói, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì đọc tụng, vì
người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, cúng
dường kinh quyển, không cần tạo lập chùa tháp, và tạo phòng ốc chư Tăng,
cúng dường chúng Tăng.
Ðức Phật lại nói, bởi nhân duyên đó, cho nên ta mới nói : ‘’Sau khi Như Lai
diệt độ, nếu có người hay thọ trì đọc tụng bộ Kinh Pháp Hoa này, hoặc vì
người khác giải nói, hoặc tự mình biên chép, cúng dường bộ kinh này, thì
không cần tạo lập chùa tháp, phòng chư Tăng, cúng dường chư Tăng. Vì
công đức thọ trì kinh quyển đã vượt hơn công đức cúng dàng.’’
Huống lại có người hay thọ trì kinh này, và thực hành bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, được công đức tối thắng vô lượng vô
biên. Ví như hư không, đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, vô lượng vô
biên, công đức của người đó, cũng lại như thế, vô lượng vô biên, sớm đắc
được nhất thiết chủng trí.
Hà huống lại có người, chẳng những thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dũng
mãnh tinh tấn, mà còn hay thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ, sáu pháp môn Ba la mật, công đức này rất là thù thắng vô
lượng vô biên, chẳng có biện pháp có thể tính toán là bao nhiêu. Ví như hư
không, chẳng tìm được bờ mé của nó. Ðông tây nam bắc, bốn hướng trên
dưới, mười phương vô lượng vô biên. Công đức của người đó, cũng vô
lượng vô biên như thế, sớm sẽ đắc được quả vị Nhất thiết chủng trí, tức cũng
là quả vị Phật.
Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này, vì người khác nói, hoặc tự biên
chép, hoặc bảo người khác biên chép, lại hay tạo dựng tháp, và tạo lập
phòng ốc chư Tăng, cúng dường khen ngợi chúng Tăng Thanh Văn, cũng
dùng trăm ngàn vạn ức bài pháp khen ngợi, để khen ngợi công đức của Bồ
Tát. Lại vì người khác đủ thứ nhân duyên, tùy nghĩa mà giải nói Kinh Pháp
Hoa này.
Nếu như có người, chẳng những đọc tụng kinh này, thọ trì kinh này, mà còn
vì người khác giải nói kinh này, hoặc tự mình biên chép kinh này, hoặc bảo
người khác biên chép kinh này. Lại hay tạo lập chùa tháp và phòng Tăng,
cúng dàng và khen ngợi đại chúng Thanh Văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức
pháp khen ngợi, để khen ngợi công đức của Bồ Tát. Lại vì người khác đủ
thứ nhân duyên tùy nghĩa lý của kinh, mà giải thích nói Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, đây là pháp môn bố thí.
Nói đến đây tôi nhớ lại một câu chuyện. Thuở xưa, có một vị quan lớn, ông
ta là Phật giáo đồ, rất kiền thành đọc tụng Kinh Pháp Hoa. Kinh này có bảy
quyển, ông ta tụng ba quyển đầu thuộc lòng rất nhanh, chẳng quên một chữ.
Song, đọc tụng bốn quyển sau thì chẳng nhớ, chính ông ta cảm thấy rất kỳ
lạ, suy nghĩ mãi chẳng hiểu. Do đó, bèn đi hỏi thiện tri thức, nguyên nhân
như thế nào ? Vị thiện tri thức đó chứng được túc mạng thông, biết nhân quả
trong quá khứ. Ông ta quán sát nhân duyên ở trong thiền định, biết rõ nhân
duyên của ông quan. Bèn nói với ông quan rằng : ‘’Nhân duyên của ông rất
là đặc biệt, nói ra xin ông đừng sinh phiền não.’’
- Ông quan nói : ‘’Xin Ngài cứ nói thẳng, tốt xấu cũng chẳng sao.’’
- Vị thiện tri thức nói : ‘’Ðời trước của ông là một con bò, do người ta đem
đến chùa phóng sinh, tập tục ở trong chùa đó vào ngày mồng 6 tháng 6, thì
đem đại tạng kinh, và tất cả các kinh khác ra ngoài sân phơi nắng, để cho
kinh khỏi bị mọt ăn. Lúc ấy, con bò phóng sinh đó đi đến chỗ phơi kinh,
dùng lưỡi liếm tới ba quyển đầu của Kinh Pháp Hoa, còn bốn quyển sau
chẳng liếm tới.’’ Bởi nhân duyên đó, mà ông nhớ được ba quyển đầu của
Kinh Pháp Hoa, còn bốn quyển sau chẳng nhớ được. Ông quan nghe rồi thì
chẳng vui, đòi vị thiện tri thức đưa ra bằng chứng. Chẳng có bằng cớ khó
khiến cho người tin.
- Vị thiện tri thức nói : ‘’Ở sau ngôi chùa nọ có ngôi mộ con bò, tức là con
bò phóng sinh đó. Ðương thời, vị hoà thượng trụ trì chùa đó là vị cao Tăng,
biết rõ con bò đó, vì chùa cày ruộng có công đùc, nên được tái sinh làm
người như thế nào, ở tại đâu, đều biên rõ ra giấy chôn đi theo với con bò.
Nếu ông không tin thì hãy đào mộ con bò đó lên thì sẽ biết.’’
Vị quan đó nửa tin nửa ngờ, bèn đến đào mộ con bò đó lên, thì quả nhiên có
tờ giấy trắng, biên rõ hết mọi chi tiết.
- Vị quan đó lại hỏi : ‘’Cứu kính thì nhân duyên gì mà được chuyển sinh làm
người ?
- Vị thiện tri thức nói : ‘’Kiếp trước ông làm bò, có công lao cày ruộng cho
chùa, và có công đức liếm Kinh Pháp Hoa, cho nên đời này được sinh làm
người, còn được làm quan.’’ Vị quan đó mới khoát nhiên đại ngộ tiền nhân
hậu quả tơ hào chẳng sai. Từ đó về sau, trở thành vị đại hộ pháp, cúng
dường Tam Bảo hộ trì Phật giáo.
Do đó đủ thấy, phàm là người làm công quả cho chùa, cống hiến sức lực, thì
đời sau phần đông được chuyển sinh làm người giàu có, có thể làm quan làm
tướng. Các bạn hãy xem ! Một con bò vì chùa mà cày ruộng, đời này được
làm quan, hà huống là người, hiến thân cho Phật, đời sau chẳng cần nói cũng
biết, tuyệt đối chẳng đọa vào ba đường ác.
Lại hay giữ giới thanh tịnh, và nhu hòa ở chung với nhau, nhẫn nhục chẳng
sân hận, ý chí kiên cố, thường thích ngồi thiền, được các thiền định thâm
sâu, dũng mãnh tinh tấn, nhiếp các pháp lành, lợi căn trí huệ, khéo đáp các
vấn nạn.
Lại hay giữ giới thanh tịnh, tức là thanh tịnh cả thân lẫn tâm. Tâm thanh tịnh
tức là trong tâm chẳng có phiền não, sân hận, nhiễm ô. Thân thanh tịnh tức
là chẳng làm những việc phi lý, nhu nhuyến hòa thuận, nhẫn nhục ở với
nhau, chẳng sinh tâm sân hận, ý chí đặc biệt vững chắc, vĩnh viễn chẳng sinh
tâm thối chuyển. Thời gian ngồi thiền rất quý báu, dù một phút một giây
cũng chẳng để trôi qua lãng phí. Tại sao ? Vì chẳng biết giây nào phút nào sẽ
khai ngộ. Nếu không, thì bỏ qua cơ hội khai ngộ. Thường ngồi thiền thì hay
vào cảnh định thâm diệu. Thường tinh tấn thì hay khắc phục mọi khó khăn.
Dũng mãnh tinh tấn tuyệt đối không giải đãi, thì hay nhiếp thọ tất cả pháp
lành. Người lợi căn thì có đại trí huệ, khéo giải đáp các vấn nạn mà đáp trôi
chảy, thì khiến cho người hỏi vừa ý mà sinh tâm hoan hỷ.
A Dật Ða ! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hay thọ
trì đọc tụng kinh này, lại có các ông đức lành như thế, thì nên biết người đó,
đã hướng về đạo tràng, gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi dưới bồ
đề đạo tràng.
A Dật Ða ! Nếu như sau khi ta diệt độ, tất cả các thiện nam, thiện nữ, hay
thọ trì kinh này, đọc tụng kinh này. Lại có công đức lành như thế, thì nên
biết người đó đã hướng về đạo tràng, gần quả vị Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, ngồi dưới bồ đề đạo tràng, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng
sinh.
A Dật Ða ! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chỗ của họ ngồi, hoặc
đứng, hoặc đi, đều nên xây tháp, tất cả trời người, đều nên cúng dường như
tháp của Phật.
A Dật Ða ! Người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, thì chỗ của họ ngồi, hoặc chỗ của họ đứng, hoặc chỗ của họ đi kinh
hành, đều nên xây bảo tháp. Trời người đều nên cúng dường tháp đó, đồng
như cúng dường cung kính tháp của Phật, đều đắc được công đức.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, cho nên nói ra
bài kệ dưới đây.
Nếu sau ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phước vô lượng
Như đã nói ở trên.
Tức là được đầy đủ
Tất cả sự cúng dường
Vì xá lợi xây tháp
Bảy báu rất trang nghiêm.
Nền tháp rất cao rộng
Nhỏ dần đến Phạm Thiên
Linh báu ngàn vạn ức
Gió động vang diệu âm.
Nếu như, sau khi ta diệt độ, có người hay phụng trì Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, thì người đó đắc được công đức vô lượng vô biên, đồng như công đức
đã nói ở trên.
Hay phụng trì Kinh Pháp Hoa, thì đầy đủ tất cả sự cúng dường. Vì cúng
dường xá lợi của Phật, mà xây dựng tháp báu trang nghiêm, đắc được công
đức nhiều chẳng bằng phụng trì Kinh Pháp Hoa.
Nền tháp xây vừa rộng vừa cao, dần dần nhỏ đến cõi trời Phạm Thiên. Các
góc tháp có treo linh báu nhiều hàng nghìn vạn ức, gió thổi làm vang ra âm
thanh vi diệu rất êm tai, khiến cho người nghe sinh chánh niệm, khởi tâm
niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng.
Lại trong vô lượng kiếp
Cúng dường nơi tháp đó
Hoa hương các chuỗi ngọc
Y trời các âm nhạc.
Hương đốt dầu thơm đèn
Thường chiếu sáng quanh tháp
Vào đời ác mạt pháp
Người hay trì kinh này.
Tức như trên đã nói
Ðầy đủ sự cúng dường.
Lại ở trong vô lượng kiếp về trước, cúng dường tháp đó, dùng đủ thứ hoa
tươi, hương thơm, chuỗi ngọc, y trời, âm nhạc, dầu thơm, đèn .v.v... thường
chiếu sáng chung quanh tháp.
Vào đời ác năm trược thời mạt pháp, người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, tức
đầy đủ tất cả mọi sự cúng dường như đã nói ở trên, đắc được tất cả công đức
như trên đã nói.
Nếu hay trì kinh này
Tức như Phật tại thế
Dùng ngưu đầu chiên đàn
Làm nhà Tăng cúng dường.
Gồm ba mươi hai sở
Cao tám cây đa la
Thức ăn ngon y đẹp
Giường nằm đều đầy đủ.
Trăm ngàn chúng ở đó
Vườn rừng các ao tắm
Kinh hành động ngồi thiền
Các thứ đều trang nghiêm.
Nếu như hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì công đức giống như công đức Phật ở
tại thế. Dùng gỗ ngưu đầu chiên đàn để làm nhà Tăng, nhà gồm có ba mươi
hai sở (biểu thị cho ba mươi hai tướng). Tháp cao khoảng tám cây đa la
(biểu thị cho tám mươi vẻ đẹp). Cúng dường thức ăn uống thượng hảo hạng,
quần áo đẹp nhất, giường nệm thuốc thang đều đầy đủ. Có thể cúng dường
cho ngàn vạn ức chúng ở trong đó. Lại có vườn rừng và ao tắm, lại có chỗ đi
kinh hành và có hang động ngồi thiền, hết thảy các thứ trang bị đều thập
toàn thập mỹ, thù thắng trang nghiêm, thật là đạo tràng lý tưởng nhất.
Nếu người tâm tin hiểu
Thọ trì đọc tụng biên
Và cúng dường kinh quyển
Rải hoa thơm hương bột.
Hoa tu mạn chiêm bặc
A đề mục đa già
Ðốt đèn dầu cháy mãi
Người cúng dường như thế.
Ðược công đức vô lượng
Như hư không vô bờ
Phước đó cũng như thế.
Nếu có người đối với Phẩm Thọ Lượng của Như Lai, mà phát tâm tin hiểu,
hoặc tự mình thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, hoặc dạy người
khác biên chép và cúng dường kinh quyển. Rải hoa tươi, hương thơm,
hương bột, dùng hoa duyệt ý, hoa kim sắc, hạt cây vừng chế thành dầu, xông
đốt chỗ có Kinh Pháp Hoa, chiếu sáng bốn phía. Cúng dường như thế, sẽ
được vô lượng công đức, giống như hư không chẳng có bờ bến.
Huống lại trì kinh này
Và bố thí trì giới
Nhẫn nhục thích thiền định
Chẳng sân chẳng chưởi mắng.
Cung kính nơi chùa tháp
Khiêm nhường các Tỳ Kheo
Xa lìa tâm kiêu ngạo
Thường suy gẫm trí huệ.
Có vấn nạn chẳng sân
Tùy thuận làm giải thoát
Nếu làm được hạnh đó
Công đức không thể lường.
Hà huống lại thọ trì Kinh Pháp Hoa, lại hay bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, năm Ba la mật này. Ðối với tất cả chúng sinh chẳng sanh tâm
sân hận, chẳng mắng chưởi chúng sinh, dùng tâm từ bi đối đãi với chúng
sinh.
Gặp chùa cũng cung kính, thấy tháp cũng cung kính, đối với hàng Tỳ Kheo
cũng cung kính khiêm nhường, chẳng có tâm tăng thượng mạn, xa lìa hành
vi cống cao ngã mạn. Luôn luôn suy gẫm trí huệ, không thể suy gẫm ngu si.
Tu hành tức là tu trí huệ, có trí huệ thì tất cả phiền não đều tiêu trừ, đoạn
sạch phiền não thì sẽ được giải thoát.
Nếu có người đến vấn nạn, thì phải hòa nhan duyệt sắc mà vì họ giải đáp,
không được sinh tâm sân hận. Tùy thuận mọi nhân duyên lấy làm giải thoát,
khiến cho họ minh bạch mới thôi. Nếu hay tu hành hạnh môn như thế, thì
công đức đắc được không thể lường được.
Nếu thấy pháp sư đó
Thành tựu đức như thế
Nên dùng hoa trời rải
Y trời che thân họ.
Cúi đầu cung kính lễ
Tâm sinh nghĩ như Phật
Lại nên nghĩ như vầy:
Chẳng lâu đến đạo tràng.
Nếu như thấy vị pháp sư giảng kinh thuyết pháp, tu hành lục độ, vị đó thành
tựu công đức như thế, thì nên rải hoa trời để cúng dường, dùng y trời che
trên thân của vị pháp sư đó. Ðối với vị pháp sư đó, phải đảnh lễ sát đất, sinh
tâm cung kính nghĩ như Phật. Lại nên nghĩ như vầy : Vị pháp sư đó, chẳng
bao lâu sẽ đến dưới cội bồ đề chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh.
Ðược vô lậu vô vi
Rộng lợi các trời người
Chỗ của người đó ở
Hoặc kinh hành ngồi thiền.
Cho đến nói bài kệ
Ðều nên xây dựng tháp
Trang nghiêm khiến tốt đẹp
Dùng các thứ cúng dường.
Phật tử trụ nơi đó
Tức là Phật thọ dụng
Thường ở tại trong đó
Kinh hành và ngồi nằm.
Vị pháp sư đó đã chứng được vô lậu tam muội, diệu pháp vô vi. Vị đó rộng
làm lợi ích cho hàng trời người. Chỗ của vị đó ở, chỗ đi kinh hành, chỗ ngồi
nằm, cho đến chỗ vị đó nói một bài kệ, đều nên xây dựng tháp báu, dùng bảy
báu để trang nghiêm khiến cho tốt đẹp. Dùng đủ thứ đồ cúng, để cúng dường
tháp đó, biểu thị cung kính.
Chỗ của Phật tử đó ở thọ dụng giống như Phật, luôn đi kinh hành và ngồi
nằm ở trong đó, chẳng lìa khỏi đạo tràng.
---o0o---
Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
Tùy hỷ là gì ? Tùy là tùy thuận. Tùy sự, tùy lý, tùy quyền, tùy thật. Hỷ là hỷ
khánh, khánh nhân, khánh quả, khánh hạnh, phụng hành Phật pháp, hoằng
dương Phật pháp. Nói một cách rõ hơn, tùy sự tức là tùy thuận sự tướng; tùy
lý là tùy thuận lý tánh. Lý tức là lý thể thực tướng, bổn tánh của pháp giới.
Bổn tánh pháp giới chẳng ngoài một tâm niệm hiện tiền. Một tâm niệm hiện
tiền, bao quát tánh pháp giới và thể pháp giới. Một tâm niệm hiện tiền, tùy
công đức của pháp giới, cho nên nói tuỳ hỷ công đức.
Bổn thể của Phật tức là lý, lý của Phật cũng tức là pháp thân. Phật xuất hiện
ra đời để giáo hóa tất cả chúng sinh trong mười phương, đó là sự. Do lý mà
tùy sự, do sự mà tùy lý, đây gọi là lý sự không hai. Sự chẳng lìa lý, lý chẳng
rời sự. Nhìn lại là hai, song kỳ thật là một, nhìn lại là một, nhưng lại có thể
phân làm hai. Cho nên nói hai chẳng phải hai, chẳng phải hai mà hai. Hai mà
chẳng phải hai, chẳng phải hai mà hai, tức là lý trung đạo.
Tùy quyền tùy thật công đức, tức là công đức tùy hỷ của Phật nói về quyền,
công đức tùy hỷ của Phật nói về thật. Mình có nhân lành thì mới nghe được
diệu pháp, đây là nhân của sự hỷ khánh mà gặp được diệu pháp này. Sau khi
gặp được diệu pháp mà chuyên tâm tu trì, thì tương lai sẽ đắc được quả bồ
đề.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nếu có
người thiện nam, người thiện nữ, nghe Kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ, thì
đắc được bao nhiêu phước đức ? Bèn nói bài kệ rằng :
Sau khi nói xong Phẩm Phân Biệt Công Ðức, thì lúc đó đại Bồ Tát Di Lặc
bèn bạch với Ðức Phật Thích Ca rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Nếu như có người
thiện nam, người thiện nữ, giữ năm giới hành thập thiện, nghe được Kinh
Pháp Hoa mà tùy hỷ công đức, thì họ đắc được bao nhiêu phước đức ? ‘’Ðại
Bồ Tát Di Lặc lại nói ra bài kệ.
Sau khi Phật diệt độ
Có người nghe kinh này
Mà sinh tâm tùy hỷ
Ðược bao nhiêu công đức ?
Sau khi Ðức Thế Tôn diệt độ, tương lai có người nghe được Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, mà sinh một tâm niệm tùy hỷ, thì người đó đắc được bao nhiêu
phước đức ? Xin Thế Tôn từ bi khai thị.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc : A Dật Ða ! Sau khi Như Lai diệt
độ, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và những người có trí
khác, hoặc già, hoặc trẻ, nghe kinh này mà tùy hỷ. Từ pháp hội ra đi đến nơi
khác.
Lúc đó Ðức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc rằng : ‘’A Dật Ða ! Sau khi Như Lai
vào Niết Bàn rồi, ngoài các hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ,
bốn chúng này ra, như có những người trí huệ, bất cứ là già hoặc trẻ, từ
trong pháp hội nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ rồi, từ trong pháp hội ra đi
đến những nơi khác, vì người khác giải nói nghĩa lý của kinh này, thì sẽ đắc
được phước đức không thể nghĩ bàn.’’
Hoặc tại nhà của chư Tăng ở, hoặc tại chỗ vắng vẻ, hoặc tại thành ấp đường
xá, xóm làng ruộng nương, đem sự nghe của mình mà vì cha mẹ, người thân,
bạn bè, tri thức, tùy sức mà diễn nói, khiến cho họ nghe rồi mà tùy hỷ, lại đi
diễn nói với người khác, người khác nghe rồi cũng tùy hỷ, lại đi diễn nói với
người khác nữa, cứ như thế cho đến người thứ năm mươi.
Hoặc tại chỗ chư Tăng ở, hoặc ở tại chỗ vắng vẻ trong thâm sơn cùng cốc,
hoặc tại thành ấp, đường xá, xóm làng, ruộng nương .v.v... Ðem Phật pháp
mà mình nghe được ở tại pháp hội, vì cha mẹ, người thân, bạn bè, tri thức,
tùy sức hiểu biết của mình, mà vì họ giải nói nghĩa lý của Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, khiến cho họ gieo trồng căn lành, đắc được lợi ích công đức tùy
hỷ.
Những người tùy hỷ kinh điển đó, nghe rồi lại đi giáo hóa người khác, vì họ
giải nói nghĩa lý trong kinh, khiến cho họ nghe rồi lại tùy hỷ, cứ như thế cho
đến người thứ năm mươi, người đó đắc được phước đức nhiều không thể nói
đặng.
A Dật Ða ! Người thiện nam, người thiện nữ, thứ năm mươi đó, tùy hỷ công
đức, nay ta nói ra ông nên lắng nghe.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Ða ! Người thiện nam, người thiện nữ,
thứ năm mươi đó, tùy hỷ công đức, bây giờ ta vì ông mà nói ra. Ông nên tập
trung chú ý nghe.’’
Nếu bốn loài sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế
giới, loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài sinh bằng ẩm ướt, loài
biến hóa sinh ra, hoặc loài có hình, loài không có hình, loài có nghĩ tưởng,
loài không có nghĩ tưởng, loài chẳng có nghĩ tưởng chẳng phải không có
nghĩ tưởng, loài không chân, hai chân, loài bốn chân, nhiều chân, như vậy
hết thảy loài chúng sinh. Có người cầu phước, tùy theo sự ưa muốn của họ,
mà cung cấp cho đầy đủ.
Nếu như có bốn loài sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ
thế giới. Bốn loài là loài sinh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm ướt, bằng biến
hóa sinh ra. Sáu đường chúng sinh là trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ
và địa ngục. Loài sinh bằng trứng thì trứng do tưởng mà sinh ra, loại sinh
bằng thai thì thai do tình mà có, loài sinh bằng ẩm ướt thì nhờ ẩm ướt mà
hợp cảm, loài biến hóa thì nhờ hóa mà ly ứng. Tóm lại, loài sinh bằng trứng,
thai, ẩm ướt, biến hóa, đều là nghiệp quả sở cảm; tình tưởng ly hợp, đều là
nghiệp nhân năng cảm.
Loài sinh bằng thai : Do ái tình mà sinh ra. Loài sinh bằng trứng : Chỉ nhờ
loạn tưởng mà sinh ra. Loài sinh bằng ẩm thấp : Ngửi hương tham vị phối
hợp mà cảm. Loài sinh bằng biến hóa : Chán cũ vui mới, nhờ đó mà ứng.
Ðây là chúng sinh của dục giới. Chúng sinh có hình thuộc về sắc giới; chúng
sinh vô hình thuộc về cõi vô sắc, chúng sinh không thức nhị biên xứ. Vô
tưởng là chúng sinh vô sở hữu xứ. Phi hữu tưởng phi vô tưởng là chúng sinh
phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðây là tên gọi của chín loài chúng sinh.
Loài không chân là loài giun .v.v... Loài hai chân là chó, gà, chim .v.v... Loài
bốn chân là cọp, sư tử .v.v... Loài nhiều chân là rết, cuốn chiếu .v.v... Hết
thảy các loài chúng sinh. Có người vì cầu phước mà tùy thuận sự ưa muốn
của họ, đều cung cấp cho họ đầy đủ, chẳng thiếu món gì.
Mỗi mỗi chúng sinh đều cấp cho đầy cõi Diêm Phù Ðề : Vàng, bạc, lưu ly,
xa cừ mã não, san hô, hổ phách các thứ châu báu, và voi ngựa xe cộ, cung
điện lầu các làm bằng bảy báu .v.v...
Hết thảy chúng sinh đều bố thí đầy Diêm Phù Ðề : Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ,
mã não, san hô, hổ phách hết thảy các thứ châu báu đá quý và voi, ngựa, xe
cộ, cung điện, lầu các, làm bằng bảy báu .v.v... Phàm là những gì chúng sinh
cần, thì vị đại thí chủ đó đều bố thí tất cả, tuyệt đối không có tâm san tham.
Ðại thí chủ đó, bố thí như vậy, mãn tám mươi năm rồi, bèn nghĩ như vầy :
Ta đã bố thí cho chúng sinh những đồ vui thích, tùy ý sự ưa muốn của họ,
nhưng những chúng sinh này đều đã già nua, tuổi đã quá tám mươi, tóc bạc
mặt nhăn, sự chết chẳng còn bao lâu. Ta nên dùng Phật pháp để giáo hóa họ.
Vị đại thí chủ đó, lại bố thí bảy báu, bố thí xe cộ, bố thí cung điện cho chúng
sinh. Người nhân gian đi du hành phải đi bằng xe, thuyền; người trên trời đi
du hành bằng cung điện. Tóm lại, người ở trên trời ngồi ở trong cung điện,
thì có thể đi du hành khắp nơi, tốc độ còn nhanh hơn hỏa tiễn hiện đại. Có
người khởi vọng tưởng : ‘’Cung điện làm sao di động được ?‘’ Cảnh giới
này, đợi khi nào bạn chứng được ngũ nhãn lục thông, thì tự nhiên sẽ biết.
Ðây chẳng phải là việc bí mật, mà là việc bình thường, chỉ cần dụng công tu
hành, nỗ lực tham thiền thì sớm sẽ hiện thực.
Bố thí như thế trải qua tám mươi năm. Vị đại thí chủ đó bèn nghĩ như vầy :
‘’Ta đã bố thí cho chúng sinh những đồ vui thích, đều tùy thuận tâm ý của
họ. Họ muốn gì thì ta bố thí cái đó. Song, những chúng sinh đó đã già nua,
tuổi tác đã hơn tám mươi, tóc bạc mặt nhăn, cái chết chẳng còn bao lâu. Ta
nên dùng Phật pháp để dạy họ, khiến cho họ kịp thời tu hành, thoát khỏi biển
khổ sinh về Tịnh Ðộ.’’
Bèn triệu tập những chúng sinh đó, truyền bá Phật pháp giáo hóa, khiến cho
họ được lợi ích sinh tâm hoan hỷ. Nhất thời đều đắc được đạo Tu Ðà Hoàn,
đạo Tư Ðà Hàm, đạo A Na Hàm, đạo A La Hán, sạch các hữu lậu, nơi thiền
định thâm sâu, đều đắc được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý của ông thế nào ? Vị
đại thí chủ đó, đắc được công đức có nhiều chăng ?
Vị đại thí chủ đó nghĩ rồi, bèn lập tức triệu tập hết thảy chúng sinh lại, tuyên
bố Phật pháp, chỉ dạy giáo hóa họ, khiến cho họ đắc được lợi ích Phật pháp,
sinh tâm hoan hỷ. Những chúng sinh đó, sớm đắc được quả vị A La Hán.
Thời gian chẳng bao lâu, có người chứng được đạo quả Tu Ðà Hoàn (sơ
quả), dịch là "dự lưu", vào dòng Thánh nhân pháp tánh, ngược dòng phàm
phu lục trần, chẳng cùng dòng hợp ô, thân tâm thanh tịnh, chẳng bị cảnh giới
chuyển. Ðã đoạn sạch dục giới tám mươi tám phẩm kiến hoặc. Còn bảy lần
sinh tử, mới chứng được tứ quả vô học vị. Có người chứng được đạo quả Tư
Ðà Hàm (nhị quả), dịch là "nhất lai vãng", còn một lần thọ sinh lên trời và
sinh xuống nhân gian, đã đoạn dục giới tư hoặc sáu phẩm trước. Tại tam giới
có cửu địa, mỗi địa có chín phẩm tư hoặc, cộng thành tám mươi mốt phẩm
tư hoặc. Có người chứng được đạo quả A Na Hàm (tam quả), dịch là "bất
lai", chẳng đến dục giới thọ sinh tử nữa. Ðã đoạn sạch dục giới (ngũ thú tạp
cư địa) tư hoặc ba phẩm sau, còn sắc giới và vô sắc giới bảy mươi hai phẩm
tư tưởng chưa đoạn. Có người chứng được đạo quả A La Hán (tứ quả), dịch
là "sát tặc", tức là giết tặc phiền não. Lại dịch là "ứng Cúng", tức là xứng
đáng thọ nhận trời người cúng dường. Còn có nghĩa nữa là "vô sinh", tức là
chẳng thọ quả báo sinh tử.
Cảnh giới của A La Hán đã đoạn sạch tất cả hữu lậu ba cõi, do đó : ‘’Chư
lậu đã tận, phạm hạnh đã lập, sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu.’’ (Các lậu đã
sạch, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ
thân sau nữa). Ở trong thiền định thâm diệu đều được tự tại.
Lại có đủ tám giải thoát. Tức là xả bỏ tham ái ba cõi, giải thoát khỏi tám thứ
thiền định trói buộc:
1). Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
2). Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
3). Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4). Không vô biên xứ giải thoát.
5). Thức vô biên xứ giải thoát.
6). Vô sở hữu xứ giải thoát.
7). Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8). Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.
Phật nói với Bồ Tát Di Lặc : ‘’Ý của ông như thế nào ? Vị đại thí chủ đó,
đắc được công đức có nhiều chăng ?‘’
Có người hỏi : ‘’Cửu địa là gì ? ‘’Ðáp : Tại dục giới có nhất địa, gọi là ngũ
thú tạp cư địa, tức là trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, thế giới của
năm loài chúng sinh ở lộn lạo. Tại sắc giới có tứ địa.
1). Sắc giới trời sơ thiền, gọi là Ly sinh hỷ lạc địa, vì lìa khỏi dục giới thọ
sinh, cho nên trong tâm cảm thấy vừa hoan hỷ vừa khoái lạc.
2). Sắc giới trời nhị thiền, gọi là Ðịnh sinh hỷ lạc địa. Vì từ trong đînh, sinh
ra một thứ hoan hỷ, chẳng gì sánh bằng, mà được cảnh giới khoái lạc.
3). Sắc giới trời tam thiền, gọi là Ly hỷ diệu lạc địa. Ðã lìa khỏi hoan hỷ thô,
đắc được khoái lạc vi diệu.
4). Sắc giới trời tứ thiền, gọi là Xả niệm thanh tịnh địa. Xả bỏ diệu lạc niệm
đầu của tam thiền, thân tâm thanh tịnh, một bụi trần không nhiễm. Tại vô sắc
giới có tứ địa
1). Không vô biên xứ địa. Tuy cảm giác chẳng có thân, nhưng có tâm thức
tác dụng.
2). Thức vô biên xứ địa, sáu thức trước hoàn toàn diệt tận, chỉ có hai thức
sau tồn tại.
3). Vô sở hữu xứ địa. Chế phục được thức thứ bảy, chỉ còn thức thứ tám tồn
tại.
4). Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa. Ðịnh lực khống chế thức thứ tám, không
thể hoạt động là phi tưởng. Ðịnh lực chẳng đủ, thức thứ tám lại hoạt động là
phi phi tưởng. Bất động tức chẳng có sinh tử, có động thì có sinh tử. Tóm
lại, đem ba cõi vẽ thành cửu địa, làm tiêu chuẩn tiến lên của người tu hành,
dụng công tu hành thành tựu, thì thăng lên một giai đoạn. Vượt quá phạm vi
cửu địa, thì chứng được tứ quả A La Hán, hoặc sơ trụ Bồ Tát, chấm dứt phân
đoạn sinh tử, chưa đoạn được biến dịch sinh tử. Tu đến Ðẳng giác Bồ Tát vị,
thì vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa đoạn. Nếu đoạn sạch thì lập
tức đến Diệu giác quả vị (quả vị Phật). Song, Bồ Tát chẳng muốn đoạn một
phần vô minh cuối cùng. Vì Bồ Tát phát tâm đảo giá từ thuyền, phổ độ
chúng sinh, do đó:
‘’Chúng sinh độ hết, mới chứng bồ đề.’’
Bồ Tát Di Lặc bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Công đức của người đó
rất nhiều, vô lượng vô biên. Nếu vị thí chủ đó, chỉ bố thí tất cả đồ vui thích,
thì công đức đã vô lượng, hà huống khiến cho họ đắc được quả A La Hán.
Bồ Tát Di Lặc nói với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Công đức của vị thí chủ
đó rất nhiều. Vì vị đó chẳng những bố thí tất cả đồ vui thích, mà còn khiến
cho tất cả chúng sinh chứng được tứ quả A La Hán, cho nên nói công đức vô
lượng vô biên.’’
Ðức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Nay ta phân tích rõ cho ông nghe, người đó
đem tất cả đồ vui thích, bố thí cho sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn
ức A tăng kỳ thế giới. Lại khiến cho họ đắc quả A La Hán, công đức của
người đó, chẳng bằng người thứ năm mươi, nghe một bài kệ Kinh Pháp Hoa,
mà tùy hỷ công đức, trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cũng
chẳng bằng một phần, cho đến tính đếm thí dụ, cũng không thể biết được.
Ðức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc : ‘’Bây giờ ta phân tích rõ ràng đạo lý này cho
ông rõ. Vị đại thí chủ đó, đem tất cả đồ vui thích, bố thí cho sáu đường
chúng sinh, trong trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới, lại khiến cho những chúng
sinh đó, đều chứng được quả vị A La Hán, công đức của người đó đắc được,
chẳng bằng người thứ năm mươi, nghe một bài kệ Kinh Pháp Hoa, công đức
tùy hỷ trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cũng chẳng bằng một
phần, cho đến tính toán, ví dụ, để hình dung, cũng chẳng cách chi biết được
cứu kính có bao nhiêu ?‘’
A Dật Ða ! Như người thứ năm mươi đó, lần lượt được nghe Kinh Pháp Hoa
mà tùy hỷ, công đức còn vô lượng vô biên A tăng kỳ, hà huống là người đầu
tiên, ở trong pháp hội nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ. Phước người này, còn
hơn phước người thứ năm mươi, vô lượng vô biên A tăng kỳ, không thể
sánh được.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Ða ! Như người thứ năm mươi đó, lần
lượt nghe được Kinh Pháp Hoa, mà phát tâm tùy hỷ, còn đắc được công đức
vô lượng vô biên A tăng kỳ. Hà huống là người đầu tiên, trực tiếp nghe Kinh
Pháp Hoa ở trong pháp hội, mà phát tâm tùy hỷ, công đức của người này,
đương nhiên phải thù thắng hơn công đức của người gián tiếp nghe Kinh
Pháp Hoa (người thứ năm mươi vô lượng vô biên A tăng kỳ, cũng không thể
so sánh được).’’ Tóm lại, ở trong đạo tràng nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ,
thì công đức không thể nói, không thể nói, tức là dù nói, cũng nói không ra
cứu kính có bao nhiêu.
Lại nữa, A Dật Ða ! Nếu có người vì kinh này, mà đi đến phòng Tăng, hoặc
ngồi, hoặc đứng, nghe trong giây lát, thì nhờ công đức đó, mà tái sinh đời
sau, được voi ngựa, xe cộ, châu báu, kiệu cáng, đồ thượng hạng và cung
điện.
Ðức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Ða ! Nếu như có người, vì ngưỡng mộ
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà đến chỗ chư Tăng ở, hoặc là ngồi, hoặc là
đứng, để nghe Kinh Pháp Hoa trong chốc lát. Do công đức đó, mà tái sinh
đời sau, được sinh vào nhà vua, có đủ voi ngựa, xe cộ, châu báu, kiệu cáng,
hoặc được sinh về cõi trời có cung điện bảy báu.’’
Nếu lại có người, ngồi ở nơi giảng pháp, có người đến mà khuyên bảo, khiến
cho họ ngồi nghe pháp, hoặc phân chia chỗ cho họ ngồi, thì công đức của
người đó, khi chuyển thân khác, sẽ được chỗ ngồi của trời Ðế Thích, hoặc
chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của vua Chuyển luân thánh
vương.
Nếu lại có người, ngồi ở nơi giảng pháp nghe Kinh Pháp Hoa, sau đó lại có
người đến bèn khuyên họ ngồi xuống nghe kinh, hoặc phân chia nửa chỗ của
mình cho họ ngồi, hai người cùng ngồi một chỗ, hoặc nhường chỗ ngồi cho
họ ngồi, thì công đức của người đó, khi tái sinh đời sau, sẽ được chỗ ngồi
của trời Ðế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Thiên Vương hoặc chỗ ngồi của
vua Chuyển Luân Thánh Vương.
Các vị ! Nếu như có người đến Phật Giáo Giảng Ðường nghe kinh, phải
chiêu đãi giúp tìm chỗ ngồi. Nếu có người không có chỗ ngồi, thì hãy chia
nửa chỗ ngồi của mình cho họ ngồi, hoặc là nhường chỗ ngồi của mình cho
họ ngồi, thì tương lai chắc chắn sẽ có phước báu. Tóm lại, phàm là người
đến nghe kinh thì phải chiêu đãi, đừng giống như người gỗ, chẳng đếm xỉa
gì đến họ, khiến cho họ sinh sợ, lần sau họ chẳng dám đến nữa. Phải biết
chiêu đãi khách, là lễ phép chứ chẳng phải phan duyên, điểm này phải chú ý.
A Dật Ða ! Nếu lại có người, nói với người khác rằng : Có kinh tên là Pháp
Hoa, chúng ta có thể cùng nhau đến nghe, người đó nghe lời, bèn đến nghe
trong chốc lát. Công đức của người đó chuyển thân sau, được sinh cùng một
chỗ với Bồ Tát Ðà La Ni, có lợi căn trí huệ.
Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Ða ! Nếu như lại có người, nói với người
khác rằng : Hiện nay có đạo tràng giảng Kinh Pháp Hoa, chúng ta có thể
cùng nhau đi đến nghe. Người đó nghe lời khuyên, đi đến nghe Kinh Pháp
Hoa trong chốc lát. Người khuyên và người nghe kinh đó, đắc được công
đức, khi sinh thân sau sẽ cùng sinh một chỗ với Bồ Tát Ðà La Ni, được trí
huệ sáu căn thông lợi.’’
Hiện tại Phật Giáo Giảng Ðường đang giảng Kinh Pháp Hoa. Các vị có thể
khuyên các người thân bạn bè, khiến cho họ đến nghe kinh. Chẳng những
các vị có công đức, mà người thân bạn bè của quý vị, cũng được công đức,
trồng xuống căn lành, phước báu tương lai không thể hạn lượng.
Trong trăm nghìn vạn đời, chẳng bao giờ bị câm, hơi miệng chẳng hôi thối,
lưỡi thường chẳng có bệnh tật, miệng cũng chẳng có bệnh tật, răng chẳng
dơ, chẳng đen, chẳng vàng, chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le,
chẳng cong. Môi chẳng thòng xuống, cũng chẳng co rút lại, chẳng thô rít,
chẳng ung nhọt, cũng chẳng khuyết xấu, cũng chẳng cong vẹo, chẳng dày
chẳng lớn, cũng chẳng đen xạm, chẳng có các sự đáng chê.
Trong trăm nghìn vạn đời chẳng mắc bệnh câm. Trong miệng chẳng có mùi
hôi, thân chẳng tỏa ra mùi hôi. Người tu hành mà chẳng giảng kinh thuyết
pháp, thì sẽ mắc bệnh câm; người tu hành chẳng giữ gìn giới luật, thì sẽ tỏa
ra mùi hôi thối. Nếu khuyên người khác nghe kinh, thì được công đức lưỡi
chẳng bị bệnh tật, miệng chẳng bị bệnh tật, răng chẳng dơ, chẳng đen, chẳng
vàng, chẳng thưa, chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng cong, rất ngay thẳng
và trắng sạch.
Môi rất đẹp, chẳng thòng xuống, cũng chẳng co rút lại, cũng chẳng thô rít,
cũng chẳng bị nhọt, cũng chẳng khuyết xấu, cũng chẳng cong vẹo, cũng
chẳng dày lớn, cũng chẳng đen xạm, chẳng có chỗ khiến cho người nhàm
chán. Có người môi thì trời bao đất (môi trên thì dài môi dưới thì ngắn),
hoặc đất bao trời (môi trên thì ngắn môi dưới thì dài), đó là do tiền kiếp
thích nói chuyện thị phi mà bị quả báo.
Mũi chẳng dẹp, cũng chẳng cong. Sắc mặt chẳng đen, cũng chẳng dài hẹp,
cũng chẳng cong trũng, chẳng có những tướng khiến cho người thấy chẳng
vui.
Mũi ngay thẳng, cũng chẳng dẹp, cũng chẳng cong. Sắc mặt chẳng đen cũng
chẳng dài hẹp, cũng chẳng trũng ngắn. Chẳng có những tướng khiến cho
người thấy chẳng vui. Muốn khiến cho sáu căn trang nghiêm, thì hãy làm
nhiều công đức lành, đừng làm việc tội ác. Phàm là người có ngũ quan đoan
chánh, thì không cần hỏi mà vẫn biết, nhờ công đức vậy.
Môi lưỡi răng thảy đều tốt đẹp trang nghiêm, mũi thì cao thẳng. Mặt mày
tròn đầy, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, nhân tướng đây đủ. Ðời đời
sinh ra đều gặp Phật, nghe pháp tin nhận lời của Phật dạy.
Ðây là người khuyên người khác đi nghe kinh, và người nghe lời khuyên đi
nghe kinh, đều được môi lưỡi răng tốt đẹp trang nghiêm. Mũi thì cao thẳng,
mặt mày tròn đầy, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, tướng tốt đầy đủ,
đời đời sinh ra nơi nào cũng được thấy Phật, nghe pháp, sinh niềm tin, tiếp
nhận lời Phật dạy, tức là y giáo phụng hành.
A Dật Ða ! Ông xem đó, khuyên một người khiến cho họ đến nghe pháp, mà
được công đức như thế, hà huống là một lòng nghe giảng, đọc tụng, rồi ở
trong đại chúng, vì mọi người phân biệt giải nói pháp tu hành.
Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Ða ! Ông hãy xem, chỉ khuyên một người
đến đạo tràng nghe pháp, mà được công đức nhiều như thế. Hà huống là
chuyên tâm nghe giảng, đọc tụng, ở trong đại chúng lại hay phân biệt vì
người giải thích pháp tu hành, công đức đó càng rộng lớn.’’
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, bằng kệ dưới
đây.
Nếu người trong pháp hội
Ðược nghe kinh điển này
Cho đến một bài kệ
Tùy hỷ với người nói.
Như vậy lần lượt dạy
Ðến người thứ năm mươi
Người cuối cùng được phước
Nay sẽ phân biệt nói.
Nếu như có người, ở trong pháp hội được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
cho đến một bài kệ, mà có sở tâm đắc, tùy hỷ đối với người khác giảng nói
nghĩa lý bài kệ đó. Cứ như thế truyền dạy đến người thứ năm mươi, thì
người đó đắc được phước báu như thế nào ? Nay ta sẽ vì ông mà phân biệt
giải nói, mong rằng các ông hãy lắng nghe.
Như có đại thí chủ
Bố thí vô lượng chúng
Tròn đủ tám mươi năm
Tùy ý muốn của họ.
Thấy họ tướng già nua
Tóc bạc và mặt nhăn
Răng rụng hình khô gầy
Nghĩ họ chết sắp đến.
Lần lượt nói ra, như có vị đại thí chủ, dùng đủ thứ của cải vật chất, để bố thí
cho vô lượng vô số chúng sinh đã hơn tám mươi năm, tùy ý muốn cần dùng
của họ, đều khiến cho họ mãn nguyện.
Vị đại thí chủ đó, thấy những chúng sinh đó đã già nua, tóc bạc mặt nhăn,
răng rụng, hình hài khô gầy. Lại biết họ sống chẳng còn bao lâu, bèn khởi
tâm thương xót, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ sinh tử, đến được bờ Niết
Bàn bốn đức : Thường, lạc, ngã, tịnh.
Nay ta nên dạy họ
Khiến cho được đạo quả
Bèn dùng phương tiện nói
Pháp Niết Bàn chân thật.
Ðời đều chẳng lâu bền
Như bọt nước ngọn lửa
Các ông phải nên biết
Sớm sinh tâm nhàm lìa.
Bây giờ ta phải dạy họ pháp môn tu ra khỏi thế gian, khiến cho họ đều đắc
được đạo quả A La Hán. Lập tức dùng phương tiện, vì họ nói từ sinh tử bờ
bên này, vượt qua dòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Tất cả sự tướng thế gian đều chẳng vững bền, đều hư vọng huyễn hóa chẳng
thật. Giống như bọt nước ngọn lửa đều vô thường. Các ông nên biết đều là
không, đừng tham luyến hồng trần, hãy mau nhàm lìa thế giới Ta Bà, trở về
ngôi nhà tự có sẵn; cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.
Mọi người nghe pháp đó
Ðều đắc A La Hán
Ðầy đủ sáu thần thông
Ba minh tám giải thoát.
Người năm mươi cuối cùng
Nghe bài kệ tùy hỷ
Người này phước hơn kia
Không thể ví dụ được.
Những chúng sinh đó, nghe pháp của vị đại thí chủ đó rồi, bèn phát tâm tu
hành, sau đó hết thảy đều đắc được quả A La Hán.
Họ có đủ sáu thần thông, sáu thần thông là gì ?
1). Thiên nhãn thông : Nhìn thấy được cảnh giới khoái lạc của trời người, lại
thấy được tình hình thọ khổ dưới địa ngục, rõ ràng như xem truyền hình.
2). Thiên nhĩ thông : Chẳng những thấy được hành động của trời người, mà
còn nghe được trời người nói chuyện, giống như nghe máy thu băng.
3). Tha tâm thông : Biết được trong tâm kẻ khác nghĩ việc gì.
4). Túc mạng thông : Quán sát được nhân duyên quá khứ, và nhân quả tương
lai của chính mình và người khác.
5). Thần túc thông : Có thể hành động ở trong định, hoặc đi đứng ở trong hư
không, đến đi tự tại, nhậm vận tự tại, chẳng bị điều kiện hạn chế nào.
6). Lậu tận thông : Tức là quét trừ tất cả phiền não, chẳng có mọi vọng
tưởng. Các lậu đã sạch, chẳng thọ thân sau nữa. Ngoại đạo chỉ có năm thần
thông, mà chẳng có lậu tận thông.
Lại có đủ ba minh và tám giải thoát. Ba minh :
1). Túc mạng minh.
2). Thiên nhãn minh.
3). Lậu tận minh.
Tức cũng là biết tướng sinh tử đời quá khứ của mình, và của người khác; lại
biết tướng sinh tử vị lai của mình, và của kẻ khác; lại biết tướng khổ hiện tại,
trí huệ đoạn sạch tất cả phiền não. Ba minh ở tại Phật là ba đạt, ở tại A La
Hán là ba minh. Trí biết pháp hiển rõ là ba minh. Tám giải thoát đã giải thích
ở trước rồi, chẳng cần nói nữa.
Lần lượt đến người thứ năm mươi, họ chỉ nghe được một bài kệ Kinh Pháp
Hoa, mà tùy hỷ công đức, thì đắc được phước báu, lớn hơn so với vị đại thí
chủ gấp trăm lần. Phước báu đó chẳng cách chi nói hết được, dù dùng ví dụ
để hình dung, cũng chẳng nói được bờ mé của nó.
Lần lượt nghe như vậy
Phước đức còn vô lượng
Hà huống trong pháp hội
Người đầu nghe tùy hỷ.
Lần lượt nghe kinh như thế, còn được vô lượng phước báo, hà huống là
người đầu tiên ở trong pháp hội nghe, mà tùy hỷ công đức, công đức của
người đó càng lớn hơn. Các vị chú ý ! Phàm là nơi nào có giảng kinh thuyết
pháp, mà tùy hỷ tham gia, thì nhất định có phước đức không thể nghĩ bàn.
Nếu khuyên được một người
Dẫn họ nghe Pháp Hoa
Nói kinh này thâm diệu
Ngàn vạn ức khó gặp.
Bèn nghe lời đến nghe
Cho dù nghe chốc lát
Phước báu của người đó
Nay sẽ phân biệt nói.
Nếu như có người dẫn họ đến đạo tràng (chùa) nghe Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, và nói với họ : ‘’Kinh Pháp Hoa là kinh thâm áo vi diệu nhất, trong
trăm nghìn vạn kiếp khó gặp được.’’ Tóm lại, chẳng dễ gì gặp được cơ hội
có người giảng Kinh Pháp Hoa. Cho nên, tôi khuyên các vị phải tùy hỷ nghe
kinh, bất cứ người nào giảng kinh gì, ở trong phạm vi có khả năng, thì phải
tham gia pháp hội, được phước báo chẳng nhỏ. Có cơm có thể không ăn,
nhưng kinh thì không thể không nghe, có tư tưởng như thế, thì mới là tiêu
chuẩn của Phật giáo đồ. Nên nhớ, không thể một bên thì nghe kinh, một bên
thì khởi vọng tưởng, hoặc là ngủ gục, do đó có câu: ‘’Tâm chẳng chú ý, thì
thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe.’’ Pháp sư giảng giải nghĩa kinh
mà chẳng hiểu biết. Tại sao như vậy ? Vì chẳng lọt vào tai.
Người đó nghe lời bèn đến đạo tràng nghe Kinh Pháp Hoa, dù trong thời
gian rất ngắn, mà chuyên tâm nghe giảng, thì người đó đắc được phước báu,
nay ta (Ðức Phật) sẽ phân biệt nói cho ông (Bồ Tát Di Lặc) nghe.
Ðời đời miệng chẳng bệnh
Răng chẳng thưa vàng đen
Môi chẳng dày co thiếu
Chẳng có tướng đáng chê.
Lưỡi chẳng khô đen ngắn
Mũi vừa cao lại thẳng
Trán rộng và bằng phẳng
Mặt mày rất đoan nghiêm.
Khiến người hoan hỷ thấy
Hơi miệng chẳng hôi thối
Thơm như hoa ưu bát
Thường từ trong miệng ra.
Người tùy hỷ nghe Kinh Pháp Hoa, đắc được phước báu đời đời miệng
chẳng có bệnh, răng chẳng thưa, chẳng vàng, chẳng đen, rất ngay thẳng, đều
trắng sạch. Bậc Thánh nhân có bốn mươi cái răng, phàm phu có ba mươi hai
cái, Phật có bốn mươi cái răng. Bồ Tát Hoa Nghiêm (Ðường Chứng Quán
Quốc Sư) có bốn mươi cái răng. Có gì chứng minh Bồ Tát Hoa Nghiêm là
Chứng Quán Sư, còn gọi là Thanh Lương Quốc Sư, Ngài là thầy của bảy vị
vua nhà Ðường. Tướng của Ngài rất trang nghiêm, chẳng những có bốn
mươi cái răng, mà con mắt sáng như sao, ban đêm phóng quang, hai tay dài
quá đầu gối, mắt nhìn một lần mười hàng, thiên sinh dị bẩm (trời sinh khác
thường). Sau khi Ngài viên tịch, thì ở Ấn Ðộ có vị Tăng đã chứng đắc A La
Hán, đến Trung Quốc hoằng dương Phật pháp, tục Phật huệ mạng, đi ngang
qua Thông Lĩnh, đột nhiên thấy có hai đồng tử đằng vân đi qua, vị Tăng đó
dùng thần thông chận hai vị đồng tử lại, mới hỏi họ đang đi đâu ? Và có việc
gì ? Hai vị đồng tử đáp : ‘’Chúng tôi đến Trung Quốc thỉnh răng của Bồ Tát
Hoa Nghiêm về an trí tại Ðiện Văn Thù ở Ấn Ðộ để cúng dường.’’ Vị Tăng
hỏi : ‘’Ai là hóa thân của Bồ Tát Hoa Nghiêm ?‘’ Hai vị đồng tử đáp :
‘’Chứng Quán Quốc Sư.’’ Nói xong hai vị đồng tử đằng vân mà đi.
Vị A La Hán đó đến Trường An, đem việc đó tấu rõ cho vua nghe, cho phép
mở quan tài của Ngài Chứng Quán Quốc Sư, quả nhiên phát hiện thiếu hai
cái răng cửa. Do đó, mọi người đủ biết Ngài Chứng Quán Pháp Sư là hóa
thân của Bồ Tát Hoa Nghiêm, thừa nguyện đến để giáo hóa chúng sinh.
Người tùy hỷ Kinh Pháp Hoa thì môi chẳng dày, cũng chẳng mỏng, vừa đẹp.
Lại chẳng co chẳng thiếu, rất đoan chánh, chẳng có tướng đáng chê. Lưỡi
chẳng khô khan, chẳng đen xạm, chẳng ngắn nhỏ. Mũi vừa cao vừa thẳng,
chẳng cong gãy. Trán thì rộng bằng phẳng. Mặt như trăng rằm, mắt màu
xanh biếc, hoàn toàn trang nghiêm. Ngũ quan của người đó đoan chánh, ai ai
cũng hoan hỷ thấy họ. Trong miệng của người đó, chẳng có hơi hôi thối,
thường tỏa ra hương vị thơm của hoa ưu bát, vì thường đọc tụng Kinh Pháp
Hoa.
Nếu đi đến nhà Tăng
Muốn nghe Kinh Pháp Hoa
Hoan hỷ nghe chốc lát
Nay sẽ nói phước đó.
Sau sinh trong trời người
Ðược voi ngựa xe báu
Châu báu và kiệu cáng
Và ngồi cung điện trời.
Nếu như có người muốn nghe Kinh Pháp Hoa, mà đến chỗ của chư Tăng ở,
dù nghe kinh này trong thời gian chốc lát, mà sinh tâm tùy hỷ, y giáo phụng
hành, nay ta sẽ vì ông nói ra phước báu của họ đắc được. Sau khi người đó
chết đi, chẳng sinh về cõi trời, thì sinh vào cõi người, được voi ngựa xe báu.
Ở cõi trời thì được ở cung điện trời, đắc được phước báu như thế.
Nếu ở nơi giảng pháp
Khuyên người ngồi nghe kinh
Nhờ phước đó nên được
Tòa Thích Phạm chuyển luân.
Hà huống một lòng nghe
Giải nói nghĩa lý kinh
Như lời nói tu hành
Phước đó chẳng hạn lượng.
Nếu như ở chỗ giảng kinh thuyết pháp, mà khuyên họ ngồi xuống nghe kinh,
do nhân duyên đó nên được phước báo, tương lai có thể ngồi ở chỗ ngồi của
trời Ðế Thích, hoặc chỗ ngồi của Ðại Phạm Thiên Vương, hoặc chỗ ngồi của
vua Chuyển Luân Thánh Vương. Hà huống tự mình chuyên tâm nghe kinh,
giải nói được nghĩa lý của Kinh Pháp Hoa, y theo pháp nói trong Kinh Pháp
Hoa mà tu hành, thì được phước báu không thể hạn lượng.
---o0o---
Quyển 6
Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
Pháp sư là gì ? Nói đơn giản là tinh thông Phật pháp, vì người làm thầy.
Pháp sư có năm loại :
1). Thọ trì pháp sư : Ðối với Phật pháp, thọ nơi tâm trì nơi thân, nghiêm cách
thực tiễn.
2). Ðọc kinh pháp sư : Ðối với kinh điển, hằng ngày lấy sự đọc kinh làm sự
tu trì.
3). Tụng kinh pháp sư : Học thuộc kinh điển, hằng ngày lấy sự tụng kinh
làm sự tu trì.
4). Giải nói pháp sư : Vì chúng sinh mà giải thích nghĩa kinh, nói rõ đạo lý,
khiến cho chúng sinh y pháp tu hành.
5). Biên chép pháp sư : Cung kính biên chép kinh điển, hoặc cúng nơi tháp
miếu, khiến cho chúng sinh lễ bái, gieo trồng căn lành, hoặc ấn tống kinh
điển, truyền bá cho đời, khiến cho chúng sinh đọc tụng, chiếu theo nghĩa
kinh mà tu hành. Tay tự biên chép kinh điển mới có công đức không thể
nghĩ bàn.
Ðầy đủ mười đức hạnh sau đây, thì là đại pháp sư :
1). Khéo biết nghĩa của pháp.
2). Rộng tuyên nói được.
3). Trong đại chúng chẳng sợ.
4). Biện tài vô ngại.
5). Khéo nói phương tiện.
6). Pháp tùy đức hạnh.
7). Oai nghi đầy đủ.
8). Dũng mãnh tinh tấn.
9). Thân tâm chẳng mệt.
10). Thành tựu nhẫn nhục.
Công đức là gì ? Hết việc ác là công, đầy việc lành là đức. Tức cũng là tu
công đức có sở đắc. Lại có thể nói, công là chỉ hành vi thiện mà nói; đức là
chỉ tâm lý thiện mà nói. Phẩm này nói rõ về công đức thọ trì, đọc tụng, giải
nói, biên chép, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho sáu căn thanh tịnh, có
công năng hổ dụng sáu căn.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam,
người thiện nữ, thọ trì Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải
nói, hoặc biên chép, thì người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một
ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một ngàn hai
trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công
đức nơi ý, nhờ công đức đó, trang nghiêm sáu căn đều khiến cho thanh tịnh.
Ðức Phật nói xong Phẩm Tùy Hỷ Công Ðức, thì lúc đó, bảo đại Bồ Tát
Thường Tinh Tấn rằng : ‘’Nếu người thiện nam, người thiện nữ, hoặc Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo Ni, thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoặc là đọc tụng, hoặc giải nói,
hoặc biên chép, thì người đó được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai
trăm công đức nơi tai, được tám trăm công đức nơi mũi, được một ngàn hai
trăm công đức nơi lưỡi, được tám trăm công đức nơi thân, được một ngàn
hai trăm công đức nơi ý.’’
Sáu căn của chúng ta, mỗi một căn, đều có một ngàn hai trăm công đức, ở
trước có ba trăm công đức, ở sau có ba trăm công đức, ở bên trái có ba trăm
công đức, ở bên phải có ba trăm công đức, hợp lại có một ngàn hai trăm
công đức. Có người hỏi : ‘’Tức nhiên mỗi một căn có một ngàn hai trăm
công đức, tại sao con mắt chỉ có tám trăm công đức ?‘’ Vì cái thấy của con
mắt chẳng viên mãn, thấy trước mà chẳng thấy sau, thấy bên trái chẳng thấy
bên phải, cho nên chỉ có tám trăm công đức. Lỗ tai có thể nghe được âm
thanh trước sau, bên trái bên phải, chẳng có chướng ngại, đầy đủ viên mãn,
cho nên có một ngàn hai trăm công đức. Lỗ mũi giữa sự hít vào thở ra có
chỗ ngừng nghỉ, cho nên chỉ có tám trăm công đức. Lưỡi nếm mùi vị công
đức đầy đủ viên mãn, cho nên có một ngàn hai trăm công đức. Thân thể có
xúc giác thuận nghịch hai duyên, nghịch thì chẳng thích xúc trần, thuận thì
thích xúc trần. Giữa thuận và nghịch thiếu bốn trăm công đức. Ý thức có tư
tưởng, có phân biệt, đầy đủ viên mãn cho nên có một ngàn hai trăm công
đức.
Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa có sáu ngàn công đức, để trang nghiêm sáu
căn, khiến cho sáu căn đều được thanh tịnh. Mắt thấy rõ, tai thính, mũi ngửi
mùi, lưỡi nếm vị, thân tốt đẹp, ý thông đạt, đắc được phước báu thù thắng.
Phẩm này, dùng Bồ Tát Thường Tinh Tấn làm đương cơ chúng. Nếu muốn
có công đức, thì phải thường tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh
tấn, đêm tinh tấn, thời thời siêng tinh tấn. Nếu chẳng tinh tấn thì chẳng có
công đức, cho nên người tu đạo, phải ngày đêm sáu thời thường tinh tấn.
Người thiện nam, người thiện nữ đó, mắt thịt cha mẹ sinh ra, thấy ba ngàn
đại thiên thế giới, trong ngoài hết thảy núi rừng, sông biển, dưới đến địa
ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, cũng thấy tất cả chúng sinh trong đó,
và nghiệp nhân duyên quả báo, nơi sinh đều thấy đều biết.
Người thiện nam, hoặc người thiện nữ đó, nhờ mắt thanh tịnh của cha mẹ
sinh ra, thấy trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy núi rừng và sông
biển. (Tứ quả A La Hán mới nhìn thấy được ba ngàn đại thiên thế giới. Một
đại thiên thế giới là một cõi Phật. Sơ địa Bồ Tát thấy được một trăm cõi
Phật).
Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, có thể thấy dưới địa ngục A Tỳ. Ðịa ngục
này, là ở tầng dưới nhất địa ngục bát nhiệt. Tại sao gọi là địa ngục vô gián ?
Vì địa ngục này chẳng có không gian, một người cũng đầy chật ních, chẳng
có lỗ trống; một vạn người cũng đầy chật ních.
Vô gián có năm thứ :
1). Thú quả vô gián.
2). Thọ khổ vô gián.
3). Thời vô gián.
4). Mạng vô gián.
5). Thân hình vô gián.
Tóm lại, đọa lạc vào địa ngục vô gián, thì thời gian thọ khổ chẳng có gián
đoạn, trừ khi gặp hào quang của Phật chiếu đến, bằng không, thì chẳng cách
chi có thể ra được.
Có người hỏi : ‘’Phạm tội nghiệp gì thì đọa lạc vào địa ngục này ?‘’ Chúng
sinh phạm đại tội ngũ nghịch, thì sẽ đọa vào địa ngục này. Ngũ nghịch là gì
? Tức là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu (phá hoại
tượng Phật), và phá hòa hợp Tăng. Phạm một tội nghịch, thì sẽ đọa vào địa
ngục vô gián.
Vị pháp sư đó, trên có thể nhìn thấy trời Hữu Ðỉnh (từng trời cao nhất trong
tam giới), tức cũng là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Dùng định lực để
khống chế thức thứ tám. Tựa như hết gọi là phi tưởng, định lực giao động,
thì thức thứ tám tựa như tồn tại, nên gọi là phi phi tưởng. Ngoại đạo cho
rằng, cõi trời này là cảnh giới cao nhất, song chẳng cứu kính, vẫn còn sinh
tử.
Vị pháp sư đó, có thể nhìn thấy địa ngục vô gián, và cõi trời Hữu Ðỉnh, hết
thảy chúng sinh ở trong đó hành động làm gì, nghiệp nhân duyên quả báo,
nơi sinh đều thấy biết rõ ràng. Vị pháp sư đó, tuy chưa chứng được thiên
nhãn thông, nhưng nhờ mắt thịt của cha mẹ sinh ra, mà có thể thấy tất cả
cảnh giới. Ðó là nguyên nhân gì ? Do thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa lý ở trên, bèn dùng kệ để nói ra.
Nếu ở trong đại chúng
Chẳng có tâm sợ sệt
Nói Kinh Pháp Hoa này
Ông lắng nghe công đức.
Nếu như ở trong đại chúng chẳng có tâm sợ sệt, mới có thể giảng giải Kinh
Pháp Hoa cho đại chúng nghe. Nếu sinh tâm sợ sệt, thì không thể nào giảng
được Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Ông phải lắng nghe công
đức của vị pháp sư đó, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nay ta vì ông mà
nói.
Người đó được tám trăm
Công đức mắt thù thắng
Nhờ vậy mà trang nghiêm
Con mắt rất thanh tịnh.
Vị pháp sư đó, đắc được tám trăm công đức nơi mắt, chứng được con mắt
thù thắng, thấy được trong ngoài tất cả ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng cần
có thiên nhãn thông. Vì có công đức này trang nghiêm, cho nên con mắt của
vị đó rất thanh tịnh.
Mắt cha mẹ sinh ra
Thấy được ba ngàn cõi
Trong ngoài núi Di Lâu
Tu Di và Thiết Vi.
Và các núi rừng khác
Nước biển cả sông ngòi.
Mắt thịt do cha mẹ sinh ra, có thể thấy được cảnh giới trong ngoài ba ngàn
đại thiên thế giới. Giống như núi Di Lâu (núi Quang Minh), núi Tu Di (núi
Diệu cao), núi Thiết Vi (núi Vi ở ngoài bốn đại châu) và các núi rừng khác,
nước biển cả sông ngòi, thảy đều nhìn thấy rất rõ ràng.
Dưới đến ngục A Tỳ
Trên đến trời Hữu Ðỉnh
Các chúng sinh trong đó
Hết thảy đều thấy rõ.
Tuy chưa được thiên nhãn
Sức nhục nhãn như thế.
Vì đắc được con mắt thanh tịnh, cho nên dưới có thể nhìn thấu địa ngục vô
gián, trên có thể nhìn thấy cõi trời Hữu Ðỉnh, tất cả chúng sinh trong đó,
từng cử chỉ nói năng hành động, đều thấy rất rõ ràng. Tuy chưa chứng được
thiên nhãn thông, nhưng sức mắt thịt của cha mẹ sinh ra cũng được như thế.
Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì
kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một
ngàn hai trăm công đức nơi tai. Nhờ tai thanh tịnh, nên nghe được tất cả các
thứ tiếng, trong ba ngàn đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến
cõi trời Hữu Ðỉnh, trong đó hết thảy các thứ lời nói âm thanh, đều nghe rõ
hết.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Thường Tinh Tấn ! Nếu như có người thiện nam,
người thiện nữ, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hoặc đọc tụng, hoặc giải
nói, hoặc biên chép, thì người đó đắc được một ngàn hai trăm công đức nơi
tai, nhờ lỗ tai thanh tịnh, mà nghe được tất cả âm thanh, trong ngoài ba ngàn
đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục vô gián, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh,
trong đó hết thảy các thứ âm thanh lời nói, thảy đều nghe được, chẳng những
rõ ràng, mà còn có thể phân biệt được là âm thanh gì.
Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng bò, tiếng xe, tiếng khóc lóc, tiếng vui buồn,
tiếng pháp loa, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói,
tiếng người nam, tiếng người nữ, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp,
tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhân, tiếng
hoan hỷ, tiếng không hoan hỷ.
Giống như tiếng voi rống kêu, tiếng ngựa hí kêu, tiếng bò, tiếng xe, tiếng
khóc lóc, tiếng buồn vui, tiếng pháp loa, tiếng trống pháp, tiếng chuông,
tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng người nam, tiếng người nữ, tiếng đồng
nam, tiếng đồng nữ, tiếng như pháp, tiếng phi pháp, tiếng thống khổ, tiếng
vui vẻ, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhân, tiếng hoan hỷ, tiếng bi ai. Những
thứ tiếng như thế, vị pháp sư đó thụ trì Kinh Pháp Hoa, thảy đều nghe được,
lại có thể phân biệt rõ ràng.
Tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ Xoa, tiếng Càn Thát Bà, tiếng A Tu La, tiếng
Ca Lâu La, tiếng Khẩn Na La, tiếng Ma Hầu La Già, tiếng lửa, tiếng nước,
tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ.
Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, có thể nghe được tiếng ở trên trời. Người
tu hành pháp năm giới và thập thiện, thì sau khi chết sẽ được sinh về cõi trời,
hưởng thọ khoái lạc sung sướng, song phước trời hết, thì phát hiện năm
tướng suy, vẫn phải đọa lạc thọ sinh tử trong luân hồi.
Năm hiện tượng suy là gì ? Tức là :
1). Mũ hoa trên đầu héo úa : Người trời đội cái mũ trên đầu được làm bằng
hoa tươi, vĩnh viễn tươi tốt, thanh tịnh chẳng bụi bặm. Khi sắp hết tuổi thọ,
thì mũ hoa tự nhiên héo úa.
2). Quần áo dơ bẩn : Quần áo của người trời mặc rất sạch sẽ, chẳng cần giặt.
Vì ở trên trời sạch sẽ chẳng có bụi bặm. Khi tuổi thọ sắp hết, thì quần áo tự
nhiên dơ bẩn.
3). Hai nách ra mồ hôi : Vì trên trời mát mẻ, người trời vĩnh viễn chẳng ra
mồ hôi. Khi tuổi thọ sắp hết, thì dưới nách ra mồ hôi.
4). Thân thể tỏa mùi hôi : Thân của người trời thường tỏa mùi thơm, thiện
nhiều thì tỏa mùi thơm nhiều, thiện ít thì tỏa mùi thơm ít, mùi thơm gấp mấy
lần dầu thơm ở nhân gian. Khi tuổi thọ sắp hết thì tỏa ra mùi hôi, như mùi tử
thi, khiến cho người trời khác không dám lại gần.
5). Ngồi chẳng yên : Người trời thường ngồi thiền, chẳng động chỗ ngồi,
cơm áo một khi nghĩ đến là có liền, do đó có câu :
‘’Nghĩ quần áo thì quần áo đến
Nghĩ món ăn thì món ăn đến.’’
Quần áo chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng rộng chẳng chật, vừa với thân thể.
Thức ăn chẳng nhiều chẳng ít, chẳng mặn chẳng lạt hợp với khẩu vị. Nghĩ
muốn đi đến đâu thì sẽ đi đến đó. Vì người trời có thần túc thông, toại tâm
sở dục, chẳng bị gì hạn chế. Nhưng khi tuổi thọ sắp hết, thì chẳng có định
lực, biết đã phát sinh bốn thứ hiện tượng, tâm thần tán loạn, ngồi chẳng yên,
ngồi xuống đứng dậy, bèn đọa lạc vào trong luân hồi, đi thọ sinh tử, hoặc
đọa vào địa ngục, hoặc đầu thai làm người, chẳng nhất định mà tùy theo
nghiệp lực quyết định.
Các bạn đừng cho rằng, sinh về cõi trời là có bảo hiểm, chẳng tu hành ngồi
thiền, như thế thì rất dễ đọa lạc vào ba đường ác. Dù Thích Ðề Hoàn Nhân
(Ky tô giáo xưng là Thượng Ðế, Ðạo giáo xưng là Ngọc Hoàng Ðại Ðế,
Thiên Chúa giáo xưng là Thiên Chúa) cũng không thể tránh khỏi, chiếu theo
nghiệp lực mà đi đầu thai.
Hôm nay, tôi kể một câu chuyện về Thiên Chúa cõi trời Ðao Lợi. Một ngày
nọ phát hiện mình có năm tướng suy, buồn rầu vô hạn, đột nhiên nghĩ tới
Ðức Phật Thích Ca có thể có biện pháp giải cứu. Bèn đến chỗ Ðức Phật nói
rõ lai ý. Ðức Phật nói với ông ta : ‘’Ðịnh nghiệp đã tạo, chẳng cách chi cải
được. Con phải quy y Tam Bảo, rồi đi đầu thai để tiêu nghiệp chướng, rồi
trở về Thiên cung làm Thiên Chúa.’’ Thiên Chúa bèn đến nhân gian đầu thai
làm lừa. Lừa mẹ mang thai rồi sơ ý đạp bể đồ sứ của chủ nhân. Chủ nhân nổi
giận dùng gậy đánh con lừa, do đó mà sẩy thai. Thiên Chúa trở về thiên cung
làm Thiên Chúa. Từ đó về sau kính tin Phật pháp, trở thành thần hộ pháp của
Phật giáo.
Vị pháp sư đó lại nghe được tiếng rồng. Trong quá khứ, rồng tu hành vì
"thừa cấp giới hoãn", cho nên có thần thông, nhưng là súc sinh. Vị pháp sư
đó, nghe đến tiếng người thì biết tiền nhân hậu quả, hoặc quá khứ là thân
rồng, bây giờ là thân người, cũng có thể bây giờ là thân người, vị lai là thân
rồng. Một khi nghe tiếng thì biết tiền nhân hậu quả.
Tiếng Dạ Xoa dịch là "Tiệp tật quỷ", loài quỷ này có ba loại :
1). Ðịa hành Dạ Xoa : Không bay được nhưng chạy rất nhanh.
2). Không hành Dạ Xoa : Bay được.
3). Thiên hành Dạ Xoa : Cũng bay được. Chúng thường làm nhiễu loạn
người. Sau khi chúng quy y Phật rồi, bèn trở thành thần hộ pháp, bảo vệ an
toàn những người tu đạo.
Tiếng Càn Thát Bà : Dịch là "thần ngửi hương", chúng chẳng ăn mặn mà ăn
chay, thích ngửi mùi hương. Khi Trời Ðế Thích có pháp hội lớn, thì đốt
hương ngưu đầu chiên đàn, chúng ngửi hương mà đến Diệu Pháp Ðường, để
diễn tấu âm nhạc, biểu diễn ca múa, khiến cho chư thiên đều hoan hỷ.
Tiếng A tu la : Dịch là "vô đoan chánh". Tướng mạo người nam A tu la, xấu
xí vô cùng, ngũ quan chẳng đoan chánh, cho gọi là vô đoan chánh. Song,
người nữ A tu la rất đẹp, cho nên vợ của Thích Ðề Hoàn Nhân, là con gái
của vua A tu la. Do đó đủ thấy, người nữ A tu la rất đẹp, nếu không thì
Thích Ðề Hoàn Nhân tuyệt đối chẳng cưới người nữ A tu la làm vợ. Chúng
có phước trời, mà chẳng có đức trời, tính tình thích đấu tranh. Vị pháp sư đó,
một khi nghe tiếng thì biết quả báo ba đời.
Tiếng Ca Lâu La : Dịch là "chim cánh vàng". Vì cánh của nó màu vàng,
chuyên ăn rồng.
Tiếng Khẩn Na La : Dịch là "nghi thần", vì trên đầu có một sừng, khiến cho
người hoài nghi, nên gọi là nghi thần. Chúng là thần nhạc của trời Ðế Thích,
diễn tấu nhạc khúc trang nghiêm, khiến cho người nghe, sinh tâm niệm Phật
niệm Pháp niệm Tăng.
Tiếng Ma Hầu La Già : Dịch là "thần mãng xà", còn gọi là "đại phục hành".
Trước khi chúng chưa quy y Phật, thì chuyên phóng khí độc để hại người,
hại súc vật để làm thức ăn. Sau khi quy y Phật rồi, cải tà quy chánh, trở
thành thần hộ pháp.
Ở trên là Thiên long bát bộ, ai nấy đều có nhân quả riêng. Các thứ tiếng đó,
pháp sư giải nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều biết đều thấy rõ ràng.
Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, vị pháp sư đó nghe, thì biết được nhân quả
ba đời. Hoặc ở trong quá khứ đã phát sinh tai nạn gì ? Hoặc hiện tại muốn
phát sinh tai nạn gì ? Hoặc vị lai sẽ phát sinh tai nạn gì ? Biết rất rõ ràng. Vì
đắc được công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa gia trì, nên mới có sức thần thông
như thế.
Tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ, vị pháp sư đó, khi nghe đến
âm thanh của người đó, thì biết kiếp trước là gì ? Hoặc vị lai là gì ? Ðều biết
trước, tơ hào chẳng sai.
Trước khi chúng ta ăn cơm phải niệm :
‘’Phật chế Tỳ Kheo,
Thực tồn ngũ quán,
Tán tâm tạp thoại,
Tín thí nan tiêu.’’
Nghĩa là : ‘’Phật dạy hàng Tỳ Kheo, khi ăn phải quán năm điều, nếu phóng
tâm nói bậy, thì thức ăn của đàn na thí chủ khó tiêu.’’
Năm điều quán tưởng là :
1). Kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nghĩa là : Xem xét công lao bao nhiêu,
thức ăn từ đâu đến !
2). Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Nghĩa là : Tính xem đức hạnh
của mình, có xứng đáng thọ dùng chăng !
3). Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Nghĩa là : Phòng ngừa tâm tạo tội,
tham lam là gốc.
4). Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô. Nghĩa là : Xem thức ăn như
thuốc hay, để cho thân thể khỏi kiệt sức.
5). Vi thành đạo nghiệp, ứng thọ thử thực. Nghĩa là : Quyết thành đạo
nghiệp, mới thọ cơm này. Nếu có sự quán tưởng năm điều này, thì thức ăn
chắc chắn sẽ tiêu hóa. Nếu chẳng quán tưởng năm điều này, thì chắc khó mà
tiêu hóa, do đó có câu :
‘’Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ quán nhược minh kim dịch hóa.’’
Nghĩa là : Nếu ba tâm chẳng rõ, thì dù uống một ly nước của thí chủ, cũng
chẳng tiêu hóa đặng. Nếu minh bạch năm điều quán tưởng này, thì dù một
bữa ăn đáng giá một cân vàng, cũng tiêu hóa dễ dàng. Cho nên người xuất
gia khi ăn cơm trưa, thì phải niệm chú cúng dường.
Người xưa có câu rằng :
‘’Thí chủ nhất lạp mễ
Trọng như Tu Di sơn,
Thực hạ bất liễu đạo
Phi mao đãi giác hoàn.’’
Nghĩa là :
Hột gạo thí chủ cho,
Nặng như núi Tu Di,
Ăn xong chẳng tu đạo,
Mang sừng đội lông trả.
Các vị hãy xem ! Ăn cơm mà chẳng tu hành, thì tội lỗi lớn cỡ nào ! Tương
lai phải biến làm trâu làm ngựa để trả nợ, thật là đáng sợ. Các vị phải nhận
thức rõ ràng quả báo đó, không thể nương Phật mặc y, dựa Phật ăn cơm,
tương lai tội lỗi không thể tưởng tượng được.
Tiếng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ Kheo ni, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích Chi Phật,
tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.
Tiếng Tỳ Kheo : Tỳ Kheo dịch là "khất sĩ", bên ngoài khất thực để (nuôi)
dưỡng sắc thân, bên trong khất pháp để nuôi huệ mạng. Người Trung Quốc
gọi Tỳ Kheo là hòa thượng. Ðời sống của hòa thượng làm những việc mà
người không làm được, nhẫn những việc mà người chẳng nhẫn được, tu
nhẫn nhục Ba la mật, tuyệt đối chẳng nóng giận, thanh tâm quả dục, đời
sống đạm bạc, đối với đời chẳng tranh, đối với người chẳng cầu. Chỉ cầu
giải thoát tự tại, cho nên chẳng tham tiền tài, chẳng kết hôn, chẳng cầu danh
lợi, chẳng ăn thịt, chẳng ngủ nhiều, chẳng luyến ái năm dục, chuyên tâm tu
đạo, thì dễ dàng thành tựu. Do đó, mới nói người xuất gia là làm việc của
bậc trượng phu, chẳng phải một số người làm được.
Tiếng Tỳ Kheo Ni : Người nữ xuất gia tu hành gọi là Ni sư. Tôn giả A Nan
khẩn cầu Ðức Phật cho phái nữ xuất gia tu đạo, nhưng phải giữ tám pháp
kính. Vị pháp sư đó khi nghe tiếng của họ, thì biết nhân quả ba đời, hoặc
trong quá khứ là người xuất gia, hoặc hiện tại là người xuất gia ? Hoặc vị lai
muốn xuất gia ? Thấu rõ tỷ mỉ.
Tiếng Thanh Văn : Các Ngài nghe Phật nói pháp tứ diệu đế mà ngộ đạo, cho
nên gọi là Thanh Văn. Song, các Ngài tự độ mà chẳng độ kẻ khác, tự giác
mà chẳng giác ngộ kẻ khác, tự lợi mà chẳng lợi ích kẻ khác, cho nên làm tự
liễu hán. Tư tưởng của tiểu thừa là chẳng lo việc của kẻ khác, do đó có câu :
‘’Ma ha tát bất quản tha,
Di Ðà Phật các cố các.’’
Ðó là tác phong của người thiểu thừa.
Tiếng Bích Chi Phật : Tức cũng là Duyên Giác, quán sát mười hai nhân
duyên mà giác ngộ, nên gọi là Duyên Giác. Khi có Phật ra đời gọi là Duyên
Giác, lúc Phật không ra đời gọi là Ðộc Giác. Các Ngài ở trong thâm sơn
cùng cốc, nghiên cứu lý vạn vật sinh diệt, mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa
thu quán lá vàng rơi, giác ngộ tất cả là vô thường, chẳng có thầy dạy mà
chứng được chân lý, liễu sinh thoát tử.
Tiếng Bồ Tát : Các Ngài tu lục độ vạn hạnh, hành Bồ Tát đạo, rộng cứu giúp
chúng sinh lìa khổ được vui, mới đảo giá từ thuyền, từ cõi Thường Tịch
Quang mà đến thế giới Ta Bà, để phổ độ chúng sinh, và còn phát đại nguyện
:
"Chúng sinh độ hết mới chứng bồ đề".
Lại nói :
‘’Ðịa ngục chưa trống không,
Thề không thành Phật.’’
Lại nói :
‘’Ta chẳng vào địa ngục thì ai vào ?‘’
Thật là tinh thần vĩ đại biết bao ! Chúng ta là người xuất gia, phải học theo
Bồ Tát Ðịa Tạng, phải có tâm từ bi. Trong Phật giáo có hai câu rằng :
‘’Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.’’
Phải hướng theo con đường này tiến tới, dù gặp gian nan khó khăn, cũng
chẳng hồi đầu, phải đạt đến mục đích, chẳng còn chúng sinh để độ thì
ngừng. Tư tưởng đại thừa là vì người mà chẳng vì mình do đó :
‘’Xả mình cứu người.’’
Có hành vi như thế, thì mới chân chánh là Phật giáo đồ. Bằng không, thì từ
bi là khẩu đầu thiền, nói mà làm chẳng được, đi ngược lại trách nhiệm và
nghĩa vụ của người xuất gia.
Tiếng Phật : Phật là người giác ngộ, vì ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp
trồng tướng tốt, cho nên đắc được ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ
đẹp trang nghiêm thân. Ðức Phật đã viên mãn ba giác, đầy đủ vạn đức, được
hết thảy trời người tôn kính, cho nên gọi là Thế Tôn.
Người xuất gia tu đạo, phải tu phước và tu huệ, không thể thiên lệch. Nếu
chỉ chuyên tu một bên, thì công đức chẳng thể viên mãn, do đó có câu :
‘’Tu phước chẳng tu huệ,
Làm voi mang chuỗi hạt;
Tu huệ chẳng tu phước,
Khất thực ôm bát không.’’
Tu phước như thế nào ? Tức là làm nhiều công đức, cứu tế người khổ nạn.
Tu huệ như thế nào ? Là giảng kinh thuyết pháp, ấn tống kinh điển lưu
truyền.
Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một khi nghe được tiếng này,
thì biết nhân quả ba đời. Hoặc là tiếng Thanh Văn, hoặc là tiếng Bích Chi
Phật, hoặc là tiếng Bồ Tát, hoặc là tiếng Phật. Ðây là tiếng của bốn bậc
Thánh, hoàn toàn biết rõ và còn phân tích rất rõ ràng, tuyệt đối chẳng lầm.
Tóm lại, trong ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả các thứ tiếng trong
ngoài, tuy chưa được thiên nhĩ, dùng tai thường thanh tịnh của cha mẹ sinh
ra, thảy đều nghe biết. Phân biệt các thứ tiếng như vậy, mà chẳng hư nhĩ căn.
Tóm lại, hết thảy tất cả các thứ tiếng trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới.
Vị pháp sư đó, tuy chưa chứng được thiên nhĩ thông, song dùng tai bình
thường thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, đều hoàn toàn nghe biết. Phân biệt các
thứ âm thanh như thế, mà chẳng phá hoại nhĩ căn. Vì chẳng bị thanh trần sở
chuyển, cho nên chẳng hư nhĩ căn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Ðức Phật bi tâm thiết thiết, muốn dùng kệ nói lại nghĩa lý trường
hàng ở trên.
Tai cha mẹ sinh ra
Thanh tịnh chẳng ô nhiễm
Dùng tai thường này nghe
Tiếng ba ngàn thế giới.
Pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dùng tai thịt của cha mẹ sinh ra
rất thanh tịnh, chẳng ô trược cấu uế. Dùng tai bình thường này, nghe các thứ
tiếng trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới rất rõ ràng.
Tiếng voi ngựa xe trâu
Tiếng chuông linh loa trống
Tiếng cầm sắt không hầu
Tiếng ống tiêu ống địch.
Hoặc là tiếng voi, hoặc tiếng ngựa, hoặc tiếng xe, hoặc tiếng trâu. Hết thảy
tiếng chuông, tiếng linh, tiếng loa, tiếng trống, cũng phân biệt được dễ dàng.
Và tiếng cầm (đờn năm dây hoặc bảy dây), tiếng không hầu (đờn hai mươi
ba dây), tiếng ống tiêu (sáo thổi dọc trước có năm lỗ, sau có một lỗ), tiếng
ống địch (sáo thổi ngang có bảy lỗ), đủ thứ tiếng nhạc khí. Vị pháp sư đó,
hoàn toàn đều nghe được, lại phân biệt được rõ ràng là tiếng khí cụ gì.
Tiếng ca hay thanh tịnh
Nghe mà chẳng chấp trước
Tiếng vô số loại người
Nghe thảy đều hiểu rõ.
Tiếng ca thanh tịnh êm tai, nhưng sau khi nghe rồi, chẳng chấp vào tiếng ca.
Bất cứ tiếng ca của loại người nào, vị pháp sư đó đều phân biệt hiểu rõ,
chẳng có ngôn ngữ chướng ngại không thông.
Lại nghe tiếng chư Thiên
Âm thanh ca vi diệu
Và nghe tiếng nam nữ
Tiếng đồng tử đồng nữ.
Vị pháp sư đó, lại nghe được âm thanh của chư Thiên, lại nghe được tiếng ca
vi diệu, lại nghe được tiếng của con trai con gái, lại nghe được tiếng của
đồng nam đồng nữ. Tóm lại, bất cứ là tiếng gì đều nghe được hết, và còn
phân biệt được rất rõ ràng.
Trong núi sông hang hiểm
Tiếng ca lăng tần già
Cộng mệnh các thứ chim
Ðều nghe rõ các tiếng.
Ở trong núi sông hang cốc, có tiếng của chim ca lăng tần già, tiếng hót rất là
êm tai, còn gọi là tiên điểu (tiên của loài chim) phát ra âm thanh rất hay,
chẳng phải một số người có thể nghe được. Chim cộng mệnh có hai cái đầu,
hai cái mỏ, đồng thời ăn uống, đồng thời hót. Tất cả tiếng hót của mọi loài
chim, vị pháp sư đó hoàn toàn nghe được hết.
Các thống khổ địa ngục
Ðủ thứ tiếng rên la
Quỷ đói khát bức bách
Tiếng tìm cầu ăn uống.
Ðịa ngục có địa ngục bát nhiệt, địa ngục bát hàn, mười tám địa ngục .v.v...
Trong địa ngục đủ thứ tiếng khổ sở, vị pháp sư đó đều nghe được. Tiếng ngạ
quỷ đói khát bức bách, tiếng đi khắp nơi tìm cầu ăn uống, vị pháp sư đó đều
nghe được. Ngạ quỷ vì nghiệp lực chiêu cảm, cổ nhỏ như kim, bụng to như
trống, chẳng khi nào ăn no. Tại sao ? Vì thức ăn vào miệng, thì biến thành
lửa than, thấy nước là máu, chẳng uống đặng, cho nên gọi là ngạ quỷ (quỷ
đói). Nguyên nhân gì mà làm quỷ đói ? Vì người đó lúc còn sống, phỉ báng
Tam Bảo, phá hoại Tam Bảo, cho nên chết rồi đọa làm quỷ đói. Tôn giả Mục
Kiền Liên thần thông đệ nhất. Một ngày nọ, Ngài đi tìm mẹ của Ngài sau khi
chết sinh về đâu ? Thì phát hiện mẹ của Ngài đọa làm ngạ quỷ, thân gầy như
cây củi, rất đáng thương xót. Tôn giả mới mang bát cơm đến cho mẹ của
Ngài dùng, bất hạnh cơm lại biến thành lửa than, chẳng cách chi nuốt xuống
được. Tôn giả thấy như vậy đau đớn rơi lệ, đến hỏi Ðức Phật : ‘’Ðó là nhân
duyên gì ?‘’ Phật bảo rằng : ‘’Vì mẹ của ông lúc còng sống, thì chẳng những
chẳng tin Phật pháp, mà còn hủy báng, cho nên phải thọ khổ treo ngược.’’
Phật lại nói : ‘’Vào ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ông nên sắm
trăm thứ vật để cúng dường chư Tăng, thỉnh chư Tăng tụng kinh trì chú.
Nhờ công đức đó, chẳng những mẹ của ông được cứu, mà cha mẹ bảy đời
quá khứ cũng được cứu.’’ Do đó, hàng năm mỗi chùa đều cử hành lễ Vu Lan
(dịch là giải đảo huyền, mở trói treo ngược), siêu độ cha mẹ bảy đời, lìa khổ
được vui.
Các A tu la thảy
Ở ven cạnh bờ biển
Khi chúng cùng nhau nói
Vang ra âm thanh lớn.
Hết thảy A tu la, tính nóng giận rất lớn, chẳng có công phu hàm dưỡng; cho
nên thích đấu tranh. Chúng ở ven cạnh bờ biển, khi cùng nhau nói chuyện,
thì phát ra âm thanh rất lớn. Vì chẳng có tâm từ bi, chỉ có tâm cừu hận.
Người giải nói kinh này
An trụ vào nơi nghe
Nghe xa các tiếng đó
Mà chẳng hư căn tai.
Vị pháp sư giải nói Kinh Pháp Hoa, an trụ nơi từ bi, hay nghe được tất cả
các thứ tiếng rất xa, mà chẳng hư căn tai, vì nhờ công đức thuyết pháp gia
trì.
Trong mười phương thế giới
Tiếng cầm thú kêu la
Người đó hay nói pháp
Hoàn toàn nghe được hết.
Trong mười phương tất cả thế giới, hết thảy loài phi cầm, và tẩu thú tranh
nhau kêu la, vị pháp sư đó nói pháp, đều hoàn toàn nghe được hết mọi thứ
tiếng rất rõ ràng.
Trên các trời Phạm Thiên
Quang Âm và Biến Tịnh
Cho đến trời Hữu Ðỉnh
Lời nói và âm thanh.
Pháp sư ở tại đây
Thảy đều nghe được hết.
Sắc giới trời Ðại Phạm, đã lìa khỏi tâm dâm dục của dục giới, ở đó rất yên
tĩnh lại thanh tịnh. Thiên chủ tên Thi Khí tin sâu chánh pháp. Mỗi khi có
Phật ra đời, thì ông ta đầu tiên đến thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp. Bà la
môn giáo sùng bái trời Phạm Thiên, cho rằng Bà la môn là từ miệng của trời
Phạm Thiên sinh ra, là người tôn quý nhất, xưng là quý tộc. Sát đế lợi (vua
chúa) là từ vai của trời Phạm Thiên sinh ra, cho nên thống trị nhân dân toàn
quốc. Phệ xá (công thương nông) là từ ngực của trời Phạm Thiên sinh ra,
hay sinh sản tất cả vật ứng dụng. Thủ đà (nô lệ) là người hạ tiện nhất, xưng
là tiện tộc, chẳng có tự do tín ngưỡng tôn giáo, chẳng có quyền lực về chính
trị, giáo dục, kinh tế, đối đãi đều bất bình đẳng.
Trời Quang Âm là trời thứ ba của nhị thiền, cõi trời này chẳng những thân
tâm phóng quang thay thế cho lời nói, mà còn phóng trí huệ quang để giáo
hóa chúng sinh. Truyền thuyết nói rằng, tổ tiên của địa cầu là từ Trời Quang
Âm đến. Người ở cõi này thích đi du hành, đến khắp nơi tham quan. Một lần
nọ, đến quả địa cầu (thời kiếp thành) phát hiện một thứ nước như sữa bò rất
ngon ngọt thơm mát, giống như nước cam lồ. Nhất thời, khởi tâm tham mà
uống quá lượng, do đó mà mất đi thần túc thông, không thể trở về trời
Quang Âm, bèn ở lại quả địa cầu trở thành tổ tiên của nhân loại.
Trời Biến Tịnh là trời thứ ba của tam thiền. Cõi trời này, đã đắc được khoái
lạc phổ biến thanh tịnh, tuy nhiên diệu lạc vô cùng nhưng là sự vui hữu lậu.
Một số hành giả cho rằng đó là nơi an thân lập mạng, tham đồ khoái lạc, mà
quên đi ngôi nhà thanh tịnh, dễ bị đọa lạc. Người chân chánh tu hành thì
chẳng ở cõi trời này hưởng thụ, cấp tốc ra khỏi cõi trời này đến trời tứ thiền.
Ðến cõi Trời Hữu Ðỉnh có hai lối, một là con đường chánh : Người tu định
vô lậu thì có thể chẳng đến Trời Quảng Quả mà tiến vào Trời Ngũ Bất Hoàn.
Một lối nữa là đường tà : Người tu định vô tưởng thì có thể đến Trời Vô
Tưởng (Trời Trường Thọ), đây là chỗ của ngoại đạo ở, chẳng phải là chỗ
cứu kính. Tạm thời tịch nhiên bất động, khi định lực nhiếp trì chẳng đủ, thì
tự nhiên sẽ đọa vào trong luân hồi thọ sinh tử. Giống như đạo lý "đá đè cỏ,
băng phủ lên cá".
Chư Phật đấng Ðại Thánh
Giáo hóa các chúng sinh
Ở trong các đại hội
Diễn nói vi diệu pháp.
Người trì Kinh Pháp Hoa
Hoàn toàn đều nghe được.
Mười phương chư Phật là đấng Ðại Thánh, giáo hóa tất cả chúng sinh. Ở
trong tất cả pháp hội diễn nói vi diệu pháp, vì thật thí quyền, khai quyền hiển
thật. Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều hoàn toàn nghe được.
Ba ngàn đại thiên giới
Trong ngoài các thứ tiếng
Dưới đến ngục A Tỳ
Trên đến trời Hữu Ðỉnh
Ðều nghe được tiếng đó
Mà chẳng hư căn tai.
Trong ba ngàn đại thiên thế giới trong và ngoài, hết thảy tất cả thứ tiếng,
dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh. Vị pháp sư đó, đều
nghe được các thứ tiếng đó, mà chẳng hư hoại căn tai.
Vì căn tai thông lợi
Ðều phân biệt biết được
Người trì Pháp Hoa này
Tuy chưa được thiên nhĩ
Dùng tai cha mẹ sinh
Công đức đã như thế.
Vì căn tai của vị pháp sư đó rất thông lợi, cho nên phân biệt biết được. Vị
pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, tuy chưa chứng được thiên nhãn thông,
nhưng dùng tai thịt cha mẹ sinh ra, có thể nghe được tất cả thứ tiếng. Tại sao
? Do công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa.
Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Do
đó có câu :
‘’Thiên nhãn thông phi ngại,
Nhục nhãn ngại phi thông,
Pháp nhãn duy quán tục,
Huệ nhãn liễu chân không,
Phật nhãn như thiên nhật,
Chiếu dị thể hoàn đồng,
Viên minh pháp giới nội,
Vô xứ bất hàm dung.’’
Trời Hữu Ðỉnh là vô sắc giới, cõi trời cao nhất, tức cũng là Trời Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ. Lúc Ðức Phật tu ở tại núi Tuyết, thì vị thầy hướng dẫn
Ngài tu, tu đến cảnh giới cõi trời này, Phật nhận rằng chẳng phải là pháp
thoát khỏi sinh tử, bèn bỏ ông ta ra đi. Tự mình tu khổ hạnh sáu năm, vẫn
chẳng đắc được pháp liễu sinh thoát tử, do đó bỏ tu khổ hạnh đến dưới cội
bồ đề, tĩnh tọa tư duy, đến đêm thứ bốn mươi chín, Ngài nhìn thấy sao mai
mọc mà ngộ đạo, chứng được lý mười hai nhân duyên, là bánh xe của sinh
mạng.
Lời nói âm thanh của chư thiên, vị pháp sư ở tại đây hoàn toàn nghe được,
thậm chí vị trời nói tiếng gì cũng phân biệt được rõ ràng.
Tất cả chúng Tỳ Kheo
Và chúng Tỳ Kheo ni
Hoặc đọc tụng kinh điển
Hoặc vì người khác nói.
Pháp sư ở tại đây
Hoàn toàn đều nghe được.
Tất cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni xuất gia, hoặc đọc tụng kinh điển, hoặc cung
kính biên chép kinh điển. Vị pháp sư đó ở nơi đây, đều hoàn toàn nghe được
họ tu trì pháp môn đó.
Lại có các Bồ Tát
Ðọc tụng kinh pháp này
Hoặc vì người khác nói
Tuyển tập giải nghĩa kinh.
Các âm thanh như thế
Hoàn toàn đều nghe được.
Lại có tất cả Bồ Tát, hoặc đọc kinh này, hoặc tụng kinh này, hoặc vì người
khác giải nói kinh này, hoặc tuyển chọn kinh này, hoặc tập giải nghĩa của
kinh này. Các thứ âm thanh như thế, vị pháp sư đó hoàn toàn đều nghe được
rất rõ ràng.
Tai cũng có căn tai. Vị pháp sư đó dùng tai thường của cha mẹ sinh ra. Vì
giải nói Kinh Pháp Hoa có công đức, chẳng những nghe được tất cả các thứ
tiếng, mà còn biết được tất cả các thứ tiếng.
Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì
kinh này, hoặc đọc tụng giải nói, hoặc biên chép, thì thành tựu tám trăm
công đức nơi mũi. Dùng căn mũi thanh tịnh đó, ngửi được các thứ mùi
hương trong ngoài, trên dưới trong ba ngàn đại thiên thế giới.
Ðức Phật gọi một tiếng Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu như có người thiện
nam, người thiên nữ, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dù là đọc, là tụng, là
giải nói, là biên chép, đều thành tựu tám trăm công đức nơi mũi. Dùng căn
mũi thanh tịnh này, có thể ngửi được tất cả mùi hương trên dưới, trong ngoài
ba ngàn đại thiên thế giới.
Hương thơm của hoa tu mạn na, hương thơm hoa xà đề, hương thơm hoa
mặc lợi, hương thơm hoa thiềm bặc, hương thơm hoa ba la la, hương thơm
hoa sen đỏ, hương thơm hoa sen xanh, hương thơm hoa sen trắng, hương
thơm cây có hoa, hương thơm cây có quả, hương chiên đàn, hương trầm
thủy, hương đa ma la bạt, hương đa già la, và hàng ngàn vạn thứ hương hòa
hợp, hoặc hương bột, hoặc hương viên tròn, hoặc hương xoa. Người trì kinh
này, trụ ở nơi này, đều phân biệt được.
Hương thơm hoa tu mạn na, dịch là "hoa duyệt ý". Hoa này vừa thơm lại vừa
đẹp, hình sắc rất là mỹ lệ, khiến cho tâm người hoan hỷ thích thú, cho nên
được tên này. Lại có mùi hương của hoa xà đề, dịch là "hoa kim tiền", hoa
này màu vàng như là tiền vàng, cho nên được tên này. Lại có mùi hương của
hoa mặc lợi, dịch là "hoa tóc mượt", hoa này có thể chế biến thành hoa tóc
mang trên thân, dùng để trang nghiêm. Hiện tại còn lưu hành ở vườn hoa, để
tặng cho khách, biểu thị sự hoan nghênh; tặng cho người chết là biểu thị
phúng điếu. Lại có mùi hương hoa thiềm bặc, dịch là "hoa kim sắc", hoa nhỏ
mà thơm, theo gió bay đi xa mà hương thơm chẳng tan. Lại có mùi hương ba
la la, dịch là "hoa trọng sinh", vì loài hoa này khi nở qua một lần rồi, thì lại
nở qua một lần nữa, cho nên được tên này. Mùi hương hoa sen đỏ tức là hoa
ba đầu ma. Mùi hương hoa sen xanh tức là hoa ưu bát la. Mùi hương hoa sen
trắng tức là hoa phân đà lợi. Mùi hương của cây có hoa, mùi hương của cây
có quả. Lại có mùi hương của ngưu đầu chiên đàn, mọc ở núi Ngưu Ðầu bên
Ấn Ðộ, cho nên được tên này. Mùi hương như xạ hương, cách bốn mươi
dặm mà có thể ngửi được mùi hương. Tính của nó rất mát mẻ, có thể trị
bệnh, dùng làm thuốc. Lại có mùi hương trầm thủy chiên đàn, vì chất cây
cứng mà nặng như sắc thuộc về kim loại, bỏ vào trong nước thì lập tức chìm
xuống, cho nên được tên này. Lại có mùi hương Ða ma la bạt, dịch là "hoắc
hương", rất thơm có thể dùng làm thuốc. Lại có mùi hương Ða già la, dịch là
"căn hương", rễ của nó rất thơm lạ thường, tụ lâu chẳng tan. Và hàng ngàn
vạn mùi hương hòa hợp, hoặc là hương bột, hoặc hương viên tròn, hoặc
hương xoa. Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều hoàn toàn ngửi
được và phân biệt được là mùi hương gì.
Lại phân biệt biết được mùi hương của chúng sinh, mùi hương của voi, mùi
hương của ngựa, mùi hương của bò dê, mùi hương của con trai, mùi hương
của con gái, mùi hương của đồng tử, mùi hương của đồng nữ và mùi hương
của cỏ cây lùm rừng, hết thảy các mùi hương, hoặc gần hoặc xa, đều ngửi
được, phân biệt chẳng sai lầm.
Lại có thể phân biệt biết được tất cả mùi hương của chúng sinh. Như mùi
hương của voi, mùi hương của ngựa, mùi hương của bò, mùi hương của dê.
Mùi hương của con trai, mùi hương của con gái, mùi hương của đồng tử,
mùi hương của đồng nữ. Và mùi hương của cỏ, mùi hương của cây, mùi
hương của lùm rừng. Bất cứ là gần hay xa, hết thảy tất cả các mùi hương đều
hoàn toàn ngửi được, phân biệt được là mùi hương gì chẳng có sai lầm.
Người trì kinh này, tuy ở nơi đây, mà cũng ngửi được mùi hương của chư
Thiên ở trên trời, mùi hương cây ba lợi chất đa la, mùi hương cây câu tì đà
la, và mùi hương hoa mạn đà la, mùi hương hoa ma ha mạn đà la, mùi
hương hoa mạn thù sa, mùi hương hoa ma ha mạn thù sa, các thứ hương bột
chiên đàn trầm thủy, các thứ hương của các loại hoa. Các mùi hương trời
hòa hợp tỏa ra như thế, chẳng có mùi hương nào mà chẳng ngửi biết được.
Pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tuy nhiên ở tại nhân gian, nhưng
cũng ngửi được mùi hương của chư Thiên. Mùi hương cây ba lợi chất đa la,
dịch là "thiên thụ vương". Ở ngoài thành Hỷ Kiến trời Ðao Lợi, các thiên
chúng nghỉ ở dưới cây này, vì mùi hương thơm ngát mũi, có công hiệu mát
mẻ cho phổi. Mùi hương cây câu tì đà la, dịch là "cây đại du hí", chư thiên
chúng du hí vui đùa ở dưới cây này. Lại có mùi hương hoa mạn đà la, dịch là
"hoa tiểu bạch". Lại có mùi hương hoa ma ha mạn đà la, dịch là "hoa đại
bạch". Lại có mùi hương hoa mạn thù sa, dịch là "hoa tiểu hồng". Lại có mùi
hương hoa ma ha mạn thù sa, dịch là "hoa đại hồng". Lại có mùi hương
ngưu đầu chiên đàn, lại có mùi hương trầm thủy chiên đàn, đủ thứ các hương
bột, đủ thứ mùi hương của các loài hoa. Các thứ hương trời đó hòa hợp lại,
tỏa ra mùi hương. Vị pháp sư đó, chẳng có mùi hương nào mà chẳng ngửi
biết được là mùi hương gì.
Lại ngửi được mùi hương thân của chư Thiên, mùi hương khi Thích Ðề
Hoàn Nhân ở trong Thắng Ðiện, đùa giỡn vui chơi hưởng thụ năm dục, hoặc
mùi hương khi ở trong Diệu Pháp Ðường, vì chư Thiên trời Ðao Lợi thuyết
pháp, hoặc mùi hương khi ở trong vườn dạo chơi, và mùi hương người nam,
người nữ, của các vị trời khác, thảy đều ngửi biết được.
Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, lại ngửi được mùi hương thân
của chư thiên. Chư thiên vì trì giới rất tinh nghiêm, tơ hào chẳng phạm, cho
nên thân tỏa ra mùi hương. Chúng ta người xuất gia tu đạo, nhất định phải
giữ gìn giới luật, thì thân thể tự nhiên sẽ tỏa hương thơm, bằng không thì sẽ
tỏa ra mùi hôi. Mùi hương đại biểu cho điều thiện, mùi hôi đại biểu cho điều
ác. Muốn biết người nào đó có giữ giới không, ngửi mùi thân của họ thì sẽ
biết. Nếu làm việc thiện nhiều thì thơm, còn nếu làm việc ác nhiều thì hôi, tơ
hào chẳng sai lầm. Phàm là người thân thể hôi thì phải mau giữ giới, làm
nhiều công đức, từ từ thân sẽ biến thành thơm, tuyệt đối chẳng dọa người.
Trong quá khứ, có vị Tỳ Kheo Ni tụng đọc chẳng biết bao nhiêu bộ Kinh
Pháp Hoa, về sau miệng của vị đó tỏa ra hương thơm. Ðó là cảnh giới không
thể nghĩ bàn. Tóm lại, kiếp trước là người tu hành thì đời này thân thể chẳng
có mùi hôi.
Thích Ðề Hoàn Nhân là thiên chúa trên cõi trời Ðao Lợi, ông ta quản hạt trời
Tam Thập Tam. Mùi hương khi vui chơi đùa giỡn hưởng thụ năm dục ở tại
Thắng Ðiện, hoặc mùi hương khi vì chư thiên nói pháp ở tại Diệu Pháp
Ðường, hoặc mùi hương khi dạo chơi ở trong tất cả vườn hoa, hoặc mùi
hương của tất cả người nam người nữ chư thiên khác. Vị pháp sư đó, đều
ngửi được các mùi hương đó, và còn phân biệt biết được là mùi hương gì.
Chúng sinh ở cõi dục giới đều có tâm dâm dục, dù lục dục thiên cũng thế,
bất quá tâm dâm dục giảm bớt hơn ở nhân gian mà thôi. Khi đến cõi sắc giới
thì chẳng còn ăn và dâm hai thứ. Cho nên, sắc giới tuy có hình thể mà chẳng
có phân biệt nam nữ, nhưng vẫn có dục niệm về vật chất, cho nên vẫn có lầu
gác cung điện. Khi đến cõi vô sắc giới thì chẳng những chẳng có ăn uống và
dâm dục, tức là hình thể cũng chẳng có, chỉ có tâm thức mà thôi. Do đó, có
thể chứng minh người tu đạo nhất định phải đoạn dục khử ái, mới có thể ra
khỏi tam giới. Chư thiên chưa đoạn dục niệm, cho nên vẫn còn sinh tử.
Như thế, lần lượt đến trời Ðại Phạm. Trên đến trời Hữu Ðỉnh, mùi hương
nơi thân của chư thiên cũng đều ngửi được, mùi hương đốt của chư thiên, và
mùi hương của Thanh Văn, mùi hương của Bích Chi Phật, mùi hương của
Bồ Tát, mùi hương thân của chư Phật, cũng đều ngửi được, và biết ở đâu.
Tuy ngửi được những mùi hương đó, mà căn mũi chẳng hư, chẳng sai lầm.
Nếu muốn phân biệt giải nói cho người khác, thì nhớ nghĩ chẳng quên.
Lần lượt như thế, đến sắc giới trời Ðại Phạm, trên đến trời Hữu Ðỉnh, mùi
hương nơi thân của chư thiên cũng ngửi được. Chẳng những ngửi được, mà
còn phân biệt được rất rõ ràng. Và cũng ngửi được mùi hương xông đốt của
chư thiên. Và mùi hương đốt của Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư
Phật. Bậc Thanh Văn đốt hương Tứ Diệu Ðế, Bích Chi Phật đốt hương mười
hai nhân duyên, Bồ Tát đốt hương lục độ vạn hạnh, chư Phật đốt hương giải
thoát bồ đề. Những mùi hương đó, tuy ở xa (cõi Thường Tịch Quang),
nhưng pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, đều ngửi được mùi hương của bốn
bậc Thánh vừa nói ở trên, và cũng biết được mùi hương đó ở đâu. Tuy ngửi
được mùi hương đó, cũng chẳng tổn hại căn mũi, cũng chẳng phán đoán sai
lầm. Nếu như đem cảnh giới của mình thấy, phân biệt vì người khác nói, thì
sẽ nhớ chẳng quên, nhớ rõ ràng ở trong đầu óc, chẳng có sai lầm.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng.
Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói.
Người đó mũi thanh tịnh
Ở trong thế giới này
Hoặc vật thơm hay hôi
Các thứ đều ngửi được.
Vị pháp sư đó thọ trì Kinh Pháp Hoa, có căn mũi rất thanh tịnh. Ở trong thế
giới này, hoặc là vật thơm, hay là vật hôi thối, các thứ mùi vị đều hoàn toàn
ngửi được, chẳng có sai lầm.
Căn mũi chẳng bị hương trần làm ô nhiễm, thì sẽ có cảnh giới sáu căn hổ
dụng với nhau. Sáu căn dụng với nhau như thế nào ? Tức là con mắt có thể
nghe được, lỗ tai thấy được, lỗ mũi nếm được, lưỡi ngửi được mùi hương,
thân thể biết các pháp, ý thức xúc giác. Ðó là cảnh giới sáu căn dụng với
nhau. Mỗi một căn đều có tác dụng sáu căn, bạn nói có diệu chăng ? Kỳ thật,
một chút cũng chẳng diệu, người tu đạo tu đến hỏa hầu, thì đều sinh ra tác
dụng như thế, chẳng có thần bí gì cả, chỉ bất quá phương diện sinh lý khởi
biến hóa mà thôi.
Một số người chỉ biết mắt thấy hình sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi
nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp. Nếu nói với họ cảnh giới sáu căn hổ
dụng với nhau, thì họ cho rằng là người ngu nói mộng, việc chẳng thể nào
có. Ðến khi họ tu đến cảnh giới này, thì chẳng nói họ cũng biết; cho nên
Phật pháp chẳng phải ở lời nói, mà ở tại thực hành. Ðến lúc đó, thấy mà
chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, ngửi mà chẳng ngửi, nếm mà chẳng nếm,
xúc mà chẳng xúc, duyên mà chẳng duyên. Chẳng bị cảnh giới chuyển, mới
có sự sáu căn hổ tương dụng với nhau.

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét