Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phần 5




Ðoạn văn nầy nói về Ðức Phật trong đời quá khứ, vì cầu vô thượng bồ đề.
Bố thí ngoại tài, nội tài, hết thảy tất cả đều vì cấu pháp mà bố thí. Sau khi
nói xong phẩm Hiện Bảo Tháp, thì Phật lại không hỏi mà nói, bảo các vị Bồ
Tát và trời, người, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ : Ta ở trong vô
lượng kiếp quá khứ, vì cầu diệu lý Kinh Pháp Hoa, mà luôn luôn chưa từng
sinh một niệm lười mỏi giải đãi. Ở trong nhiều kiếp ta thường làm vua, ta
phát nguyện cầu vô thượng bồ đề, tâm chẳng thối chuyển, muốn đầy đủ pháp
môn sáu Ba la mật :
1. Bố thí : Siêng tu pháp môn bố thí, thì tâm chẳng tham lam. Phật đem hết
thảy châu báu như : Ngựa báu, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, trân châu,
mã não, đất nước, thành ấp, thê thiếp, con cái, nô tì, tôi tớ, những gì kẻ khác
cần, Phật đều bố thí hết. Ở trên là thuộc về ngoại tài. Còn có nội tài bố thí
tức là : Ðầu, mắt, tủy, não, xương thịt, tay chân, chẳng có tơ hào thương tiếc
thân thể và tính mạng của mình, vì cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển
khổ mà hành bố thí .
Ðức Phật vì viên mãn sáu Ba la mật, cho nên y báo, chánh báo đều cùng xả
bỏ, không ngoài mục đích cầu sớm chứng quả vị Phật, đó là hành vi thực
hành Bồ Tát đạo chân chánh.
2. Trì giới : Tức là không làm ác ngừa điều quấy, tức cũng là ba điều ác nơi
thân : Sát hại, trộm cắp, tà dâm. Bốn điều ác nơi miệng : Nói dối, nói hai
lưỡi, nói thêu dệt, chưởi mắng.
3. Nhẫn nhục : Khó nhẫn mà nhãn được, dù bị người đánh đập, mắng chưởi
cũng nhẫn được.
4. Tinh tấn : Bất cứ làm gì cũng đều có trước có sau, thân tâm chẳng lười
mới là tinh tấn.
5. Thiền định : Tứ thiền bát định, tức là : Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ
thiền. Ðến cảnh giới sơ thiền, thì hơi thở chẳng còn. Cảnh giới nhị thiền, thì
các mạch máu ngưng lại. Cảnh giới tam thiền, thì niệm cũng ngừng. Cảnh
giới tứ thiền, thì niệm đã dứt. Sơ thiền còn gọi là Ly sinh hỷ lạc địa, cảnh
giới lìa khỏi phiền não mà sinh ra khoái lạc. Nhị thiền là Ðịnh sinh hỷ lạc
địa. Tam thiền là Ly hỷ diệu lạc địa. Tứ thiền là Xả niệm thanh tịnh địa. Bát
định là ngoài tứ thiền ra, còn có: Không vô biên định .v.v.
6. Bát nhã : Phát ra trí huệ chân chánh của tự tánh, đoạn trừ tham sân si ba
độc, thì trí huệ sẽ hiện tiền.
Nghĩa lý sáu Ba la mật rất nhiều. Không sát sinh, không trộm cắp, không tà
dâm, không nói dối, tức là một thứ bố thí Ba la mật. Không nói hai lưỡi, là
trì giới Ba la mật, không chưởi mắng là nhẫn nhục Ba la mật, không nói thêu
dệt là tinh tấn Ba la mật, không tham sân là thiền định Ba la mật, không tà
kiến là Bát Nhã Ba la mật.
Sáu ba la mật còn có ba lối nói : A. Ðối trị. B. Tương sinh. C. Quả báu.
A. Ðối trị :
1. Bố thí đối trị với xan tham.
2. Trì giới đối trị hủy phạm.
3. Nhẫn nhục đối trị sân hận.
4. Tinh tấn đối trị giải đãi.
5. Thiền định đối trị tán loạn.
6. Bát nhã đối trị ngu si.
B. Tương sinh : Trì giới thì gặp chuyện nhục nhã, sẽ nhẫn được, nhẫn được
sẽ tinh tấn được, tinh tấn sẽ điều phục được năm căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, năm căn điều phục rồi, thì nhiếp được vào nơi pháp giới, nhiếp được
vào pháp giới, tức là Bát nhã.
C. Quả báo : Bố thí sẽ được quả báo giàu sang, trì giới sẽ được quả báo các
căn đầy đủ, nhẫn nhục sẽ được quả báo tướng mạo đoan chánh, tinh tấn sẽ
được quả báo thế lực lớn, thiền định sẽ được quả báo sống lâu, Bát nhã sẽ
được quả báo biện tài vô ngại.
Mỗi thứ Ba La Mật lại có mười điều lợi ích : Bố thí Ba la mật :
1. Hàng phục được phiền não xan tham.
2. Xả niệm tương tục, chân chánh hành bố thí.
3. Bình đẳng với tất cả chúng sinh, chẳng khởi tâm phân biệt.
4. Sinh vào nhà giàu sang.
5. Ðời đời kiếp kiếp khởi tâm bố thí.
6. Bốn chúng kính mến.
7. Vào trong chúng không khiếp sợ, người thiện ác chẳng sinh tâm sợ hãi.
8. Danh tốt đồn khắp.
9. Tay chân mềm mại.
10. Gặp được thiện tri thức chân chánh.
‘’Trì giới là không làm ác ngừa việc quấy‘’. Không làm ác là không làm
điều ác nào, ‘’ngừa việc quấy‘’ là làm các điều lành. Ðừng cho rằng việc
lành nhỏ mà không làm, đừng cho rằng điều ác nhỏ mà làm. Phải biết việc
lành to lớn, là do việc lành nhỏ tích lũy mà thành. Do đó, trì giới thanh tịnh
thì được mười điều lợi ích :
1. Viên mãn nhất thiết trí.
2. Vào sở học của Phật lấy giới làm thầy, vì kim cang quang minh bảo giới
là bổn thể của chư Phật.
3. Chẳng hủy báng bậc trí, chẳng những chẳng huỷ báng người có trí huệ,
mà còn khen ngợi, trước hết đừng tranh đệ nhất, phải lão lạo thật thật cung
hành thực tiễn, tâm chân thì việc thật, thì tự nhiên bạn sẽ đệ nhất.
4. Thệ nguyện chẳng thối lùi, phát tâm cầu Phật đạo. Ðầu mắt tủy não, thân
thịt tay chân, cho đến tính mạng vĩnh viễn không thối chuyển nơi bồ đề tâm.
5. An trụ chánh hạnh, chẳng sinh tâm phan duyên, thường lợi ích kẻ khác.
6. Xả bỏ sanh tử : Xả bỏ tất cả để nhận chân tu hành.
7. Mộ niệm Niết Bàn bốn đức.
8. Tâm chẳng hà tiện, tâm chẳng bị tham sân si mạn nghi làm hại.
9. Ðược tam muội thù tháng.
10. Chẳng thiếu tín tài, có tín tâm là một thứ tài báu, mới sinh ra tâm bồ đề.
Nhẫn nhục chẳng dễ gì làm được, cho nên trên chữ nhẫn có cái đao cắm ở
trên chữ tâm (忍), mà đao lại nhọn, đao nhọn đè trên tim (tâm), ‘’nhẫn‘’
giống như đao đâm ở trong tim, đủ thấy chẳng dễ gì nhẫn được. Nếu không
dễ gì nhẫn mà nhẫn được, thì phá được quan ải nhẫn. Lúc đó, sẽ đắc được
nhẫn nhục Ba la mật. Từ bờ sinh tử qua dòng phiền não, đến được bờ Niết
Bàn bên kia. ‘’Nhẫn là báu vô giá, mọi người xử không tốt, nếu hay nhẫn
nhục được, thì mọi việc đều tốt đẹp‘’. Bồ Tát Di Lặc lại có một bài kệ rằng :
‘’Lão quê mặc áo vá
Cơm hẩm no đầy bụng
Áo vá che rét lạnh
Vạn sự hãy tùy duyên.
Có ai mắng lão quê
Lão quê chỉ nói tốt
Có ai đánh lão quê
Lão quê nằm lăn ra.
Khạc nhổ vào mặt lão
Ðể nó tự khô lấy
Ta cũng chẳng nhọc sức
Họ cũng chẳng phiền não.
Ðây là Ba la mật
Tức là báu trong diệu
Nếu làm được như thế
Lo gì đạo chẳng thành‘’.
Nhẫn nhục Ba la mật có mười điều lợi ích :
1. Lửa chẳng thiêu được, vì trong tâm chẳng có lửa sân, lửa bên ngoài chẳng
cách gì làm hại được.
2. Ðao chẳng hại được, vì bên trong chẳng có đao thương vũ khí, và tâm
thương hại, nên đao thương bên ngoài cũng không làm hại được.
3. Ðộc không hại được, do đó có câu :
‘’Dù gặp đao nhọn vẫn ung dung,
Hoặc uống thuốc độc cũng an nhàn‘’.
Cho nên Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma bị ngoại đạo hạ độc sáu lần, mà Ngài chẳng
trúng độc, cũng không chết. Vì trong vô lượng kiếp về trước, Ngài tu hạnh
nhẫn nhục viên mãn. Bên trong chẳng có tâm độc, bên ngoài chẳng hại
được.
4. Nước ngập chẳng chết.
5. Tất cả Thiên Long bát bộ, người, chẳng phải người, đều ủng hộ. Thân
tướng thanh tịnh trang nghiêm, mọi người thấy, tâm đều sinh kính mến.
7. Vĩnh viễn chẳng đọa vào ba đường ác.
8. Ðược sinh cõi Trời Phạm Thiên.
9. Ngày đêm an lạc.
10. Thân tâm thường sinh vui mừng.
Tinh tấn tức chẳng lười biếng giải đãi, ví như khi nghe kinh thì ngủ, khởi
vọng tưởng, hoặc nói chuyện với người khác, đó đều là chẳng tinh tấn. Vậy
thế nào mới là tinh tấn ? Tức là chẳng tham ngủ, chẳng khởi vọng tưởng,
chẳng nói chuyện với kẻ khác, tất cung tất kính, chú ý nghe kinh, mới là tinh
tấn. Hơn nữa ngày đêm sáu thời chẳng có mệt mỏi, luôn luôn niệm Phật,
niệm pháp, niệm tăng, đó là thân tâm tinh tấn. Tinh tấn có mười điều lợi ích
:
1. Họ không triết phục được, vì định lực kiên cố, biện luận với bất cứ ai,
chắc chắn sẽ trăm chiến trăm thắng.
2. Ðược Phật nhiếp hộ.
3. Ðược phi nhân (chẳng phải người) hộ trì, Thiên Long bát bộ, người,
chẳng phải người, đều đến hộ trì.
4. Nghe pháp không quên, một khi lọt qua tai chẳng bao giờ quên.
5. Chưa nghe được nghe, chẳng có cơ hội được nghe pháp thì có thể sẽ được
nghe.
6. Tăng trưởng biện tài, đắc được biện tài vô ngại, hay khiến cho người nghe
pháp hỷ sung mãn.
7. Ðược tánh tam muội.
8. Ít bệnh ít não.
9. Tâm được khinh an.
10. Hoa Lộ Ưu Ba và Hoa Ưu Ðàm Bát (những thứ hoa nầy ba ngàn năm
mới nở một lần), ngày ngày tăng dần. Cho nên người tu phải dũng mãnh tinh
tấn, tinh tấn hóa trùng biến thành rồng.
Thiền na Ba la mật. Thiền na là tiếng Phạn, dịch là "Tư duy tu", tiếng tàu gọi
tắc là thiền. Thông thường tham câu ‘’Niệm Phật là ai ?’’ Gọi là tham thiền,
như dùng máy khoan để khoan lỗ, lại như mèo rình chuột. Chuột đại biểu
cho vô minh của chúng ta. Tham thiền là kéo chân tâm lại, lại như là rồng
giữ hạt châu, thời khắc luôn luôn tự tại tức là quán tự tại, nếu không thể
quán tự tại, tức là đang khởi vọng tưởng. Do đó :
‘’Niệm dấy lên, trăm việc đều có,
Ý niệm ngừng, vạn sự đều không
Tâm ngừng niệm bặc, giàu sang thật
Lòng dục đoạn sạch, là ruộng phước‘’.
Tại sao con người bần cùng ? Vì trong tâm có tham sân si, như hố không
đáy, nếu buông bỏ đặng, không phan duyên bên ngoài, không chấp trước sắc
trần, đó mới là một người giàu sang thật sự.
Nếu đoạn sạch lòng tư dục, thì mới là phước báo thật sự, tham thiền cũng có
mười điều lợi ích :
1. An trụ oai nghi : Tham thiền đến cảnh giới :
"Trên chẳng biết có trời
Dưới chẳng biết có đất".
‘’Không người, không ta, quán tự tại,
Chẳng không, chẳng sắc, thấy Như Lai‘’.
2. Hành từ cảnh giới : Hay từ bi nhiếp thọ giáo hoá tất cả chúng sinh.
3. Chẳng có phiền não.
4. Giữ gìn sáu căn, mắt chẳng chạy theo sắc trần, tai chẳng chạy theo thanh
trần, mũi chẳng chạy theo hương trần, lưỡi chẳng chạy theo vị trần, thân
chẳng chạy theo xúc trần, ý chẳng chạy theo pháp trần. Sáu căn phóng quang
chấn động trời đất, trí huệ quang minh chiếu khắp ba nghìn đại thiên thế
giới.
5. Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Nghĩa là lấy niềm vui của thiền
làm thức ăn, niềm vui của pháp hỷ tràn trề.
6. Lìa khỏi ái dục, tại sao con người có sinh tử ? Vì ái dục chưa đoạn, cho
nên luân hồi ở trong sáu nẻo. Nếu đoạn dục khử ái, thì cửa địa ngục cũng
đóng bít, chẳng đọa vào đường ác nữa. Do đó, có câu:
‘’Nghiệp không nặng không sinh Ta Bà
Ái không dứt không sinh tịnh độ‘’.
7. Tu thiền bất không : Thời khắc luôn luôn tham thiền, thì nhất định sẽ tăng
trưởng huệ mạng, khai mở đại trí huệ.
8. Giải thoát ma nghiệp : Ma chẳng cách gì chướng ngại đạo nghiệp của bạn.
9. An trụ cảnh Phật, an trụ ở cảnh giới của Phật.
10. Giải thoát thành thục, chẳng quái chẳng ngại, được pháp thân thanh tịnh.
Bát Nhã Ba La Mật, ‘’Bát Nhã‘’ là tiếng Phạn, dịch là "Trí huệ". Tại sao hai
chữ không đọc là ‘’Trí huệ‘’? Vì hai chữ ‘’Bát Nhã‘’ nầy, hay hình dung trí
huệ siêu nhiên của Phật, khác với trí huệ mà phàm phu nói, cho nên không
dịch. ‘’Bát Nhã‘’ còn bao hàm ba ý nghĩa:
A. Văn tự Bát nhã : Tất cả kinh điển của Phật nói, đều thuộc về văn tự Bát
nhã.
B. Quán chiếu Bát nhã : Do văn tự Bát nhã, mà khởi quán chiếu Bát nhã,
thâm nhập kinh điển Phật giáo, sau đó sinh ra quán chiếu trí huệ.
C. Do quán chiếu Bát nhã, mà đạt được thật tướng Bát nhã. Thật tướng vốn
là vô tướng, song vô tướng bất tướng, nên gọi là thật tướng, tức cũng là phi
không phi hữu (chẳng không chẳng có).
Văn tự bát nhã tức là có, quán chiếu bát nhã tức là không, nếu từ có mà đạt
đến không, thì từ không đạt đến phi không phi hữu, được như thế thì ngộ
được cảnh giới chân không diệu hữu, cho nên gọi là thật tướng Bát nhã.
Ai có trí huệ tức là Bát nhã, ai không có trí huệ thì ngu si. Nếu ai biết mình
ngu si, thì bắt đầu có trí huệ. Vì tự biết mình ngu si, thì trí huệ quang minh
tất nhiên hiện tiền. Nếu mình tự cho rằng mình đúng, chẳng chịu sửa đổi, thì
đó chẳng có Bát nhã trí huệ.
Bát nhã tức cũng chẳng chấp trước, do đó ‘’Trí quang thường sáng‘’, nếu
chúng ta tu trì Bát nhã, thì chắc chắn cũng đắc được mười điều lợi ích của
Bát nhã:
1. Bố thí chẳng giữ tướng bố thí, chẳng giữ lấy tướng thọ bố thí, chẳng chấp
trước, tức cũng là tam luân thể không. Nghĩa là: Người thí, kẻ nhận, vật bố
thí, đều không. Nếu chẳng chấp trước về người thí và kẻ nhận, thì gọi là
chẳng thủ lấy tướng bố thí. Chúng ta đừng học theo Vua Lương Võ Ðế, ông
ta từng hỏi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma : ‘’Tôi tạo dựng nhiều chùa, làm nhiều cầu, bố
thí cho nhiều tăng chúng, vậy Ngài nói tôi có công đức nhiều bao nhiêu ?’’
Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma vì chẳng thuận nhân tình, nói thật với ông ta rằng :
‘’Chẳng có công đức‘’. Kỳ thật, chẳng có công đức, tức là chẳng có chấp
trước, chẳng chấp trước tức là công đức. Công đức như hư không, không thể
dò lường được.
2. Chẳng y vào giới : Nếu có người cho rằng mình giữ gìn giới luật là giỏi
nhất, mà còn chấp trước thì đó là sai. Vì còn chấp trước vào ngã tướng
(tướng ta). Nếu không chấp trước vào trì giới, có thể không trì mà trì, trì mà
vô tâm, đó mới là chân chánh trì giới.
3. Không trụ vào sức nhẫn : Chẳng chấp trước mình có sức nhẫn nhục, mới
là thật nhẫn. Thật nhẫn thì thì chẳng có tâm hay nhẫn, hay nhẫn mà chẳng
nhẫn, căn bản chẳng cho rằng như thế. Nếu nói ta đang nhẫn nhục, thì giống
như đầu lại thêm đầu. Cho nên chân chánh tu đạo nhẫn nhục, thì phải minh
bạch tướng không của các pháp, đó mới là chân chánh tu đạo.
4. Chẳng lìa thân tâm mà tinh tấn : Thân tâm đều tinh tấn, song cũng đừng
chấp trước mình suốt ngày tinh tấn. Nếu có sự chấp trước, thì chẳng phải là
Bát Nhã tinh tấn. Bát nhã tinh tấn là tinh tấn, mà chẳng chấp vào sự tinh tấn,
chẳng vì tinh tấn mà tinh tấn, quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, hàng phục
được tâm, vẫn phải lìa tướng hàng phục.
5. Thiền vô sở trụ : Tham thiền đến cảnh giới chẳng chấp trước vào đâu, thì
phá được ngã (cái ta), pháp hai chấp, được đại giải thoát, cho nên gọi là Bát
nhã thiền.
6. Ma không thể nhiễu loạn : Ma đến nhiễu loạn, song tâm chẳng giao động,
chẳng mất chánh tri chánh kiến.
7. Lời bàn luận của kẻ khác chẳng động tâm : Ví như người chẳng có trí huệ,
niệm ba ngày danh hiệu A Di Ðà Phật, nghe người khác nói tu mật tông là
tốt nhất, y bèn chạy theo. Nếu tâm không định, thì rất dễ chạy theo lời lẽ của
kẻ khác. Tôi xin kể một câu chuyện : Xưa kia, Ngài Ngưỡng Sơn ở tại một
túp lều tranh dột nát, túp lều tranh dột nát không thể che gió che mưa được.
Lúc bấy giờ, tướng quốc Bùi Hưu nhìn thấy vị tu hành nầy, ở trong một túp
lều tranh dột nát chẳng đành lòng. Do đó, bèn phát tâm đại bồ đề, cúng
dường ba trăm lạng bạc, để tạo dựng một ngôi chùa mới. Tướng quốc Bùi
Hưu đem ba trăm lạng bạc để ở trên đống cỏ ở trước cửa lều tranh rồi bỏ đi.
Ba năm sau, ông ta lại trở lại xem Ngài Ngưỡng Sơn, thì phát giác Ngài
Nhưỡng Sơn vẫn ở túp lều tranh dột nát đó, ông ta nghĩ : ‘’Ðáo để vị Hòa
Thượng nầy dùng ba trăm lạng bạc để làm gì ? Sao chẳng thấy chùa đâu
cả?‘’ Do đó, bèn hỏi Ngài : ‘’Lão Hoà Thượng ! Trước kia tôi cúng cho
Ngài ba trăm lạng bạc, Ngài làm việc gì mà chẳng thấy đem ra làm chùa :
‘’Ngài Ngưỡng Sơn nói : ‘’Trước kia ông để ba trăm lạng bạc ở đâu, thì đến
đó tìm ! ‘’Do đó, tướng quốc Bùi Hưu bèn đến đống cỏ xem lại, thì quả
nhiên ba trăm lạng bạc vẫn còn nằm đó, mới biết lão hòa thượng nầy là một
vị chân tu, kính ngưỡng vô cùng, đích thân thế Ngài làm chùa. Sau đó, đem
con (Hàn Lâm) cho vào chùa xuất gia, có pháp hiệu là Pháp Hải thiền sư.
Còn có câu chuyện nữa : Thuở xưa, có hai vị sư huynh đệ phát tâm cùng tu
hành với nhau, ngày ăn một bữa, chịu khổ chịu cực. Một ngày nọ, hai người
đến núi Ngũ Ðài, lúc đó trời đổ tuyết lớn, nên hai vị tá túc trong một túp lều
dột nát. Vì chẳng có lương thực, cho nên phải chịu đói ba ngày. Lúc đó, vị
sư đệ khởi vọng tưởng : ’’Sư huynh là người xuất thân từ gia đình giàu có,
chưa bao giờ chịu nhịn đói, lần nầy chịu đói với mình ở đây đã ba ngày, thật
đáng thương ! Phải chi có ai đến cúng dường một tô mì nóng, thì tốt biết
bao‘’. Vị đó khởi vọng tưởng như thế, thì thần thổ địa biết được cũng lo
lắng. Vì thấy huynh đệ hai vị chân chánh tu hành nhịn đói đã ba ngày, nếu
không phát tâm đến trợ giúp, thì hai vị có thể sẽ chết đói. Do đó, thần thổ địa
báo mộng cho một cặp vợ chồng ở sau núi, kêu họ đến cúng dường hai vị tu
hành. Sáng sớm ngày thứ hai, thì cặp vợ chồng đó đem hai tô mì lớn đến
cúng cho hai vị. Vị sư đệ gặp cặp vợ chồng đó đến, vui mừng cười lớn tiếng.
Lúc đó, vị sư huynh biết chắt là vị sư đệ khởi vọng tưởng ăn mì, nên bèn
mổi giận nói : "Bây giờ đường ai nấy đi". Tu đạo, nếu đầy đủ công phu, thì
chẳng hướng tâm bên ngoài phan duyên, mọi lời lẽ cũng chẳng làm cho tâm
giao động định lực, mà vị sư huynh đó khống chế được vọng tâm hướng cầu
bên ngoài.
8. Vượt qua dòng sinh tử : Ðạt đến cảnh giới Niết Bàn, lìa bờ sinh tử bên
nầy, mà chứng được thường lạc ngã tịnh, bốn đức Niết Bàn bời bên kia.
9. Tăng trưởng tâm từ bi.
10. Không ưa trụ ở bậc nhị thừa : Chẳng ưa thích trụ ở quả vị hàng nhị thừa,
nguyện đi trên đường đại thừa, hồi tiểu hướng đại, tu pháp đại thừa Bát nhã.
Thuở đó, nhân dân sống lâu vô lượng. Vì cầu pháp mà xả bỏ ngôi vua, giao
phó lại cho thái tử, đánh trống tuyên cáo, cầu pháp khắp bốn phương rằng :
Ai có thể vì ta nói pháp đại thừa, thì ta sẽ suốt đời hầu hạ cung phụng người
đó.
Trong vô lượng kiếp về trước, Ðức Phật làm vua, lúc ấy Ngài hay xả bỏ sinh
mạng tu sáu độ vạn hạnh. Thuở đó nhân dân sống rất lâu. Vì vị vua đó muốn
cầu pháp, cho nên xả bỏ ngôi vua, giao phó ngôi vua lại cho thái tử. Sau đó
đánh trống tuyên bố với nhân dân : ‘’Ta muốn đi khắp bốn phương cầu
pháp, vị nào có đạo đức vì ta nói pháp đại thừa, thì ta suốt đời đem thân nầy
hầu hạ, phụng dưỡng làm tôi tớ cho người đó‘’.
Bấy giờ, có vị tiên nhân đến bạch với vua rằng : Ta có pháp đại thừa tên là
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu không làm trái ý của ta, thì ta sẽ vì nhà
ngươi mà nói. Vua nghe vị tiên nói rất vui mừng hớn hở, bèn đi theo vị tiên
nhân, cung phụng hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu cơm cho đến dùng thân
mà làm giường tòa, thân tâm chẳng biết mệt mỏi, phụng sự như thế trải qua
một ngàn năm, vì cầu pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ, khiến cho vị
thiên nhân chẳng thiếu thốn gì cả.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, có vị tiên nhân đến bạch với vua rằng : ‘’Ta có bộ kinh đại thừa tên
là Diệu Pháp Liên Hoa, nếu nhà vua không trái lời ta dạy, thì ta sẽ vì nhà vua
mà nói.’’ Nhà vua nghe vị tiên Trường Thọ nói rồi, tâm rất vui mừng hớn
hở, lập tức đi theo vị tiên nhân, cung phụng những gì ông ta cần, lại đến núi
hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu cơm, cho đến dùng thân thể của Ngài để
làm giường tòa cho vị tiên, làm như thế mà thân tâm chẳng sinh chút mệt
mỏi nào, cứ làm như vậy trải qua suốt một ngàn năm. Vì kiên thành cầu
pháp, nên chẳng khi nào giải đãi, khiến cho vị tiên nhân chẳng thiếu thốn gì
! Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa lý ở trên, nên dùng kệ để
nói.
Ta nhớ kiếp quá khứ
Vì cầu pháp đại thừa
Tuy làm vua trong đời
Chẳng tham vui năm dục.
Ðánh trống khắp bốn phương
Ai có pháp đại thừa
Nếu vì ta giải nói
Ta sẽ làm tôi tớ.
Bèn có tiên A Tư
Ðến bạch với đại vương:
Ta có pháp vi diệu
Hiếm có ở trong đời.
Nếu mà tu hành được
Ta sẽ vì ngươi nói.
Ta nhớ lại vô lượng kiếp trong quá khứ, vì cầu pháp đại thừa, tuy làm vua
của một nước lớn trong thế gian, song chẳng tham luyến sự vui của năm dục.
Do đó, ta bèn đánh trống khắp bốn phương tuyên bố rằng : ‘’Ai hiểu pháp
đại thừa, nếu vì ta giải thích nói, tuy ta là ông vua, song ta nguyện làm tôi tớ
cho người đó. ‘’Vì Ngài cầu pháp vô thượng, lúc đó có vị thiên A Tư (tiên
trường thọ) đến bạch với vua rằng : ‘’Ta có pháp vi diệu cao thượng nhất,
pháp nầy rất hiếm có trong đời, nếu như Ngài muốn y pháp tu hành, chẳng
trái lời dạy của ta, thì ta sẽ vì ngươi nói diệu pháp đó.’’
Khi vua nghe tiên nói
Trong tâm rất vui mừng.
Lập tức theo tiên nhân
Cung cấp thứ cần dùng
Nhặt củi và hái quả
Theo lời cung kính dâng.
Vì muốn cầu diệu pháp
Thân tâm chẳng mệt mỏi
Khắp vì các chúng sinh
Siêng cầu pháp đại thừa.
Cũng chẳng vì thân mình
Và cầu vui năm dục
Nên làm đại quốc vương
Siêng cầu được pháp này.
Cuối cùng được thành Phật
Nên nay vì ông nói.
Lúc đó, ông vua nghe vị tiên nói, trong tấm rất vui vẻ mừng rỡ, lập tức theo
vị tiên nhân, cung cấp những thứ cần dùng của vị tiên, lên núi hái củi, hái
trái cây, theo thời mà cung kính hầu hạ vị tiên, tại sao phải làm như thế ? Vì
ông vua muốn cầu vô thượng diệu pháp, cho nên thân tâm chẳng giải đãi để
hầu hạ vị tiên. Ðó chẳng phải vì lợi ích cho chính mình, mà là vì muốn minh
bạch tất cả các pháp, sau đó phổ độ tất cả chúng sinh. Cho nên ông vua rất
tinh tấn để cầu pháp đại thừa. Ông vua chẳng vì lợi ích thân tâm của chính
mình, hoặc cầu sự vui của năm dục. Tuy là một ông vua lớn, song vì siêng
cầu pháp mà cuối cùng được diệu pháp vô thượng, cho đến viên mãn vô
thượng bồ đề. Hiện tại ta đem nhân duyên hành Bồ Tát đạo của ta trong quá
khứ, nói ra cho các ông nghe.
Phật bảo các Tỳ Kheo ! Ông vua thuở đó, chính là thân ta, còn vị tiên đó,
nay là Ðề Bà Ðạt Ða vậy.
Sau khi Phật nói xong bài kệ, bảo đại chúng Tỳ Kheo Tỳ kheo Ni, cư sĩ nam
cư sĩ nữ rằng: Ông vua xả bỏ ngôi vua trong vô lượng kiếp quá khứ, để hầu
hạ cung phụng vị tiên A Tư, tức là tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vị
tiên A Tư thuở đó, tức là tiền thân của Ðề Bà Ðạt Ða. Ðề Bà Ðạt Ða là tiếng
Phạn. ‘’Ðề Bà‘’ dịch là "Thiên", ‘’Ðạt Ða‘’ dịch là ‘’Nhiệt‘’, tức là ‘’Thiện
nhiệt‘’. Ðề Bà Ðạt Ða là thiện tri thức của Ðức Phật trong đời quá khứ, cũng
từng làm thầy của Ðức Phật. Ðức Phật từng làm tôi tớ cho Ðề Bà Ðạt Ða,
cuối cùng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðề Bà Ðạt Ða
chuyên môn phản đối Ðức Phật, phá hoại tăng đoàn, lập riêng ra năm pháp:
1. Suốt đời đi khất thực.
2. Suốt đời mặc y phấn tảo.
3. Suốt đời ngồi ngoài trời.
4. Suốt đời không ăn muối.
5. Suốt đời không ăn cá thịt.
Chuyên môn làm ngược lại với Ðức Phật, muốn cao hơn Ðức Phật một bậc.
Có những Tỳ Kheo tham danh háo lợi theo Ðề Bà Ðạt Ða học tập. Ðề Bà
Ðạt Ða cũng từng làm thân Phật chảy máu. Một ngày nọ, Phật đi ngang qua
núi Linh Thứu, Ðề Bà Ðạt Ða ở trên đỉnh núi dùng một tảng đá lớn lăn
xuống núi. Lúc đó, thần hộ pháp cấp tốc đứng dậy dùng bảo chùy đập nát
tảng đá, song có một mảnh đá nhỏ rớt trúng chân Ðức Phật. Ðề Bà Ðạt Ða
đã giết Tỳ Kheo ni Liên Hoa Sắc, một vị đã chứng quả A La Hán, ông ta
dùng bàn tay chưởng một cái làm cho Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc phải qua đời.
Ông ta còn phá hòa hợp tăng, khiến cho chúng Tỳ Kheo bất hòa. Lại xúi vua
A Xà Thế giết cha giết mẹ, cho nên ông ta phạm đủ năm tội nặng. Tuy ông
ta là một vị ác tri thức, chuyên môn phá hoại Ðức Phật, song tương lai ông ta
cũng sẽ thành Phật. Trên thật tế thì, ông ta đã thành Phật trong vô lượng
kiếp.
Do thiện tri thức Ðề Bà Ðạt Ða, mà khiến cho ta đầy đủ sáu Ba la mật, từ bi
hỉ xả, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, được thân màu vàng tía, mười
lực, bốn vô sở úy, bốn pháp nhiếp, mười tám pháp bất cộng, thần thông,
thành Ðẳng chánh giác, rộng độ chúng sinh, đều do thiện tri thức Ðề Bà Ðạt
Ða vậy.
Ðức Phật nói : ‘’Do thiện tri thức Ðề Bà Ðạt Ða đến dạy tôi, cho nên khiến
cho tôi viên mãn sáu Ba la mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí huệ). Bây giờ giải thích về sáu Ba la mật :
Bố thí Ba la mật :
1. Tu bố thí Ba la mật thì giải trừ san tham của mình.
2. Trang nghiêm tự tính bồ đề.
3. Tự lợi lợi tha.
4. Ðời sau được quả lớn, tôn quý giàu có.
Trì giới Ba la mật :
1. Tu các việc thiện, diệt các nghiệp ác.
2. Trang nghiêm bồ đề nhiếp thọ chúng sinh.
3. Thân tâm an lạc.
4. Ðời sau hưởng sự vui Niết Bàn.
Nhẫn nhục Ba la mật :
1. Trang nghiêm bồ đề nhiếp thọ chúng sinh.
2. Ðó đây lìa sợ hãi.
3. Ðời sau chẳng có tâm sân hận, được quyến thuộc hòa thuận, chẳng thọ
phiền não, được vui Niết Bàn.
Tinh tấn Ba la mật :
1. Phá được tâm giải đãi.
2. Trang nghiêm bồ đề nhiếp thọ chúng sinh.
3. Tăng trưởng pháp lành nên lợi mình, chẳng não hại người nên lợi người.
4. Dùng đại lực, được bồ đề.
Thiền định Ba la mật :
1. Trừ tâm tán loạn.
2. Trang nghiêm bồ đề nhiếp thọ chúng sinh.
3. Thân tâm tịch tĩnh nên lợi mình, chẳng não hại chúng sinh nên lợi người.
4. An ổn đắc được rốt ráo Niết bàn.
Bát nhã Ba la mật :
1. Phá vô minh.
2. Trang nghiêm bồ đề nhiếp thọ chúng sinh.
3. Có trí huệ, nên lợi mình. Lại hay giáo hóa chúng sinh nên lợi người.
4. Ðược chân chánh đại trí huệ, trừ trí huệ chướng ngại.
Ðức Phật viên mãn sáu Ba la mật, lại được từ bi hỷ xả, bốn tâm vô lượng.
Từ hay ban vui cho chúng sinh, bi hay cứu khổ chúng sinh, hỷ khiến cho
chúng sinh sinh vui mừng. Xả, khó xả bỏ mà xả bỏ đặng. Phật dùng bốn tâm
vô lượng viên mãn bồ đề. Thành Phật rồi lại dùng bốn tâm vô lượng để giáo
hóa chúng sinh. Phật lại được ba mươi hai tướng đại trượng phu. Tạng giáo
nói rằng do tu giữ giới mà được ba mươi hai tướng, thông giáo nói rằng do
tu bố thí nhẫn nhục mà được ba mươi hai tướng, biệt giáo nói rằng do tu các
pháp không mà thành tựu ba mươi hai tướng, viên giáo nói rằng do thọ ký
mà thành tựu ba mươi hai tướng.
Ở trên là do tạng, thông, biệt, viên giáo, nói về ba mươi hai tướng. Phật lại
được tám mươi vẻ đẹp. Viên mãn báo thân của Phật hiện ra một thứ màu sắc
vàng tía rất thù thắng. Phật có mười lực, bốn vô sở úy. Khi Phật thuyết pháp
thì như tiếng hống của sư tử, chẳng sợ hãi.
Lại có bốn vô sở úy của Bồ Tát :
1. Tổng trì chẳng quên : Nhớ rất rõ ràng hết thảy các pháp, cho nên được
khéo thuyết pháp yếu vô sở úy.
2. Biết hết các pháp : Biết thuốc nào chữa bệnh gì của chúng sinh.
3. Hỏi đáp về pháp vô sở úy.
4. Giải được sự nghi ngờ của chúng sinh, thuyết pháp vô sở úy.
Phật lại dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp thọ chúng sinh :
1. Bố thí.
2. Ái ngữ.
3. Lợi hành: Thân khẩu ý làm việc lành.
4. Ðồng sự : Cùng với chúng sinh làm cùng một việc.
Phật lại đắc được mười tám pháp bất cộng :
1. Thân chẳng lỗi : Từ vô lượng khiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp Phật đều
giữ gìn pháp thân huệ mạng, chẳng có lỗi lầm, thân chẳng phạm giới giết
hại, trộm cắp, tà dâm.
2. Miệng chẳng lỗi : Những gì miệng nói ra đều là diệu pháp thâm sâu vô
thượng.
3. Không quên : Gọi là niệm không lỗi.
4. Chẳng có nghĩ tưởng khác : Chỉ có Phật đời đời kiếp kiếp cầu vô thượng
giác đạo, chẳng có vọng tưởng và dục niệm khác.
5. Vô bất định tâm : Phật chẳng những chẳng có vọng tưởng khác, mà đời
đời kiếp kiếp còn tu thiền định, cho nên có diệu định thâm sâu, tâm chẳng
tán loạn.
6. Vô bất tri kỷ xả tâm : Phật biết hết thảy tất cả các pháp, song chẳng chấp
trước đối với tất cả các pháp, xả bỏ tất cả các pháp, cho nên bất khả đắc.
7. Ý chẳng giảm : Phật đời đời kiếp kiếp nguyện giáo hóa chúng sinh, tiếp
dẫn hữu tình, tâm chẳng thối chuyển.
8. Tinh tấn chẳng giảm : Chỉ có tinh tấn, chẳng khi nào thối lùi.
9. Niệm chẳng giảm : Nhớ pháp của tất cả chư Phật tu ba đời mà chẳng gián
đoạn, luôn luôn chẳng giảm thiểu.
10. Huệ chẳng giảm : Trí huệ càng ngày càng tăng thêm.
11. Giải thoát chẳng giảm : Dần dần đắc được giải thoát, càng ngày càng tự
tại.
12. Giải thoát tri kiến chẳng giảm.
13. Tất cả thân nghiệp tùy trí huệ hành.
14. Tất cả khẩu nghiệp tùy trí huệ hành.
15. Tất cả ý nghiệp tùy trí huệ hành.
16. Trí huệ quá khứ vô chướng.
17. Trí huệ vị lai vô chướng.
18. Trí huệ hiện tại vô chướng.
Mười tám pháp nầy chỉ có Phật mới có. Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn ba
thừa, chẳng có cùng mười tám pháp nầy, nên gọi là mười tám pháp bất cộng.
Ðức Phật lại bảo bốn chúng : Ðề Bà Ðạt Ða qua vô lượng kiếp sau này, sẽ
được thành Phật, hiệu là Thiên Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Thiên Ðạo. Phật
Thiên Vương đó sống lâu ở đời hai mươi trung kiếp. Rộng vì chúng sinh
diễn nói diệu pháp. Chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng, đều đắc được
quả A la hán. Vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên Giác, nhiều chúng sinh
như số cát sông Hằng, phát tâm vô thượng đạo, được vô sinh nhẫn, cho đến
bất thối chuyển.
Ðức Phật lại bảo bốn chúng rằng : Ðề Bà Ðạt Ða từ nay cho đến vô lượng
kiếp vị lai, sẽ được thành Phật, danh hiệu là Thiên Vương Như Lai, ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới
Ngài thành Phật tên là Thiên Ðạo. Phật Thiên Vương đó, trụ ở đời hai mươi
trung kiếp. Thế giới của chúng ta một lần tăng một lần giảm là một kiếp.
Tuổi thọ của con người cứ một trăm năm giảm xuống một tấc. Từ tuổi thọ
con người tám vạn bốn ngàn tuổi, dần dần giảm xuống còn mười tuổi. Từ
mười tuổi lại dần dần tăng lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Một tăng một
giảm là một kiếp. Hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn trung kiếp làm
một đại kiếp.
Trong hai mươi trung kiếp, Phật Thiên Vương vì hết thảy chúng sinh rộng
nói bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Lúc đó, có chúng sinh nhiều như số
cát sông Hằng chứng được quả vị A la Hán, vô lượng vô biên chúng sinh
phát tâm Duyên Giác thừa, có chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng, phát
đạo tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Họ đều đắc được vô sinh nhẫn,
đến cảnh giới bất thối chuyển.
Sau khi Phật Thiên Vương đó vào Niết Bàn, chánh pháp lưu lại ở đời hai
mươi trung kiếp. Toàn thân xá lợi được tạo dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu
mươi do tuần, bề ngang rộng bốn mươi do tuần. Chư thiên nhân dân đều
dùng các thứ hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng
phan, lọng báu, âm nhạc, ca xướng, lễ bái cúng dường tháp báu. Vô lượng
chúng sinh được quả A la hán, vô lượng chúng sinh ngộ Bích Chi Phật, có
nhiều chúng sinh không thể nghĩ bàn phát bồ đề tâm, đến quả vị bất thối
chuyển.
Lúc đó, vị Phật Thiên Vương giáo hóa xong chúng sinh đáng được giáo hóa,
cũng độ xong chúng sinh đáng được độ, viên mãn thệ nguyện của Phật đã
phát, cho nên vào Niết Bàn. Khi Phật tại thế, thì chánh pháp trụ thế hai mươi
trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, thì đem toàn thân xá lợi của Phật an trí vào
trong tháp bảy báu. Tháp cao sáu mươi do tuần (biểu thị cho sáu độ), bề
ngang rộng bốn mươi do tuần (biểu thị cho bốn niệm xứ). Tất cả chư Thiên,
nhân dân, đều dùng các thứ hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục,
anh lạc, tràng phan, lọng báu, âm nhạc, ca xướng, cung kính lễ bái, cung
kính cúng dường tháp bảy báu.
Sau khi Phật Thiên Vương vào Niết Bàn, vẫn có vô lượng chúng sinh chứng
được quả A La Hán. Vô lượng chúng sinh được quả Bích Chi Phật. Có nhiều
chúng sinh không thể nghĩ bàn, phát bồ đề tâm đến quả vị bất thối chuyển.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo ! Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam, người
thiện nữ nào, nghe Kinh Pháp Hoa Phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, mà tâm tin kính
thanh tịnh, chẳng sinh tâm nghi hoặc, thì chẳng đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh, được sinh ở trước mười phương chư Phật, chỗ được sinh về thường
nghe Kinh này. Nếu sinh trong loài người, trên trời, thì được hưởng sự vui
thù thắng vi diệu. Nếu sinh ở trước chư Phật, thì được hoa sen hóa sinh.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : Trong đời vị lai, nếu có người thiện
nam người thiện nữ, tu năm giới làm mười điều lành, nghe được Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa Phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, mà trong tâm chẳng có pháp ô nhiễm,
tâm tin kinh thanh tịnh chẳng hoài nghi. Nếu có ai phê bình Ðề Bà Ðạt Ða là
người ác, đó là sai lầm. Kỳ thật, Ngài thật là một vị đại Bồ Tát, chỉ bất quá
Ngài hiện tướng tôn giả phản diện để giúp Phật độ người. Phải tin rằng
người mà đời đời kiếp kiếp đến phản đối bạn, hoặc là người nhiễu loạn bạn,
đều là đang trợ giúp bạn thành Phật. Ðó cũng giống như ở trong lò đúc rèn
luyện, rèn luyện đến lúc, một chút tập khí mao bệnh đều chẳng còn, tâm tính
nhu hòa. Nếu được như thế thì mới là ‘’Thật tin‘’. Nên coi những oán hận
sân khuể phiền não, sẽ thành chân chánh thiện tri thức của mình, chân chánh
hay sinh tâm cung kính thiện tri thức. Ví như chuông cần phải dùng dùi bằng
gỗ để đánh nó, thì mới phát ra âm thanh. Vàng thật phải dùng lửa để nung
mới thành vàng ròng. Hoa mai phải trải qua một phen rét lạnh mới tỏa
hương thơm ngào ngạt, do đó có câu :
‘’Không trải qua một phen lạnh thấu xương
Sao được hoa mai thơm ngát mũi.’’
Tuy nhiên Ðề Bà Ðạt Ða làm những điều ác, song nếu chúng ta đối với
phẩm nầy, mà chẳng sinh tâm phân biệt, chẳng sinh hoài nghi, tức là chứng
minh chúng ta có : Văn, tư, tu, huệ chân chánh, vĩnh viễn chẳng đọa vào ba
đường ác. Luôn luôn hay cúng dường chư Phật, lại hay gần gũi Tam Bảo,
được nghe diệu pháp vô thượng, và còn được sinh về cõi Phật trong mười
phương, được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức là hoa sen hóa sinh ra,
chín phẩm hoa sen là cha mẹ. Nếu sinh về cõi trời thì cũng được hưởng sự
vui thù thắng vi diệu.
Lúc đó, phương dưới đức Ða Bảo Thế Tôn, có vị Bồ Tát đi theo tên là Trí
Tích, bạch đức Phật Ða Bảo để trở về bổn quốc, thì đức Phật Thích Ca Mâu
Ni bảo Bồ Tát Trí Tích rằng : Thiện nam tử ! Hãy đợi chốc lát, sẽ có Bồ Tát
tên là Văn Thù Sư Lợi, có thể gặp nhau luận bàn về diệu pháp, rồi hãy trở về
bổn quốc.
Lúc đó, phương dưới Phật Ða Bảo có vị thị giả đi theo Ngài, là một vị Bồ
Tát tên là Trí Tích. Ngài nói với Phật Ða Bảo : ‘’Bây giờ con có thể về được
chăng ?’’ Lúc ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Trí Tích rằng : ‘’Thiện
nam tử ! Ông nên đợi một chút nữa, trong pháp hội nầy, sẽ có một vị Bồ Tát
tên là Văn Thù Sư Lợi, sẽ gặp ông cùng nhau đàm luận về đạo lý Kinh Kiệu
Pháp Liên Hoa, sau đó hãy trở về !
Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen báu ngàn cánh, lớn như
bánh xe, những Bồ Tát cùng đến, cũng ngồi trên hoa sen báu, từ biển Long
cung Ta Kiệt La, tự nhiên vọt ra trụ ở trong hư không, đi thẳng đến núi Linh
Thứu. Từ hoa sen bước xuống, đến ở trước Phật, đầu mặt kính lễ dưới chân
hai vị Thế Tôn, làm lễ xong rồi, đến chỗ Bồ Tát Trí Tích cùng nhau thăm
hỏi, bèn ngồi qua một bên. Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng
: Ngài đến Long cung giáo hóa chúng sinh, số được bao nhiêu ? Bồ Tát Văn
Thù Sư Lợi nói : Số nhiều vô lượng, không thể tính kể, chẳng phải miệng
nói được, chẳng phải tâm đo lường được, hãy đợi chốc lát tự nhiên sẽ biết.
Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen báu ngàn cánh, hoa sen
lớn như bánh xe. Những vị Bồ Tát theo Ngài cùng đến pháp hộI, cũng đều
ngồi trên hoa sen báu, từ biển Long cung Ta Kiệt La tự nhiên vọt ra, trụ ở
trong hư không đến thẳng núi Linh Thứu, nơi Phật đang nói pháp, rồi từ hoa
sen bước xuống đến ở trước Phật, năm thể sát đất, cung kính lễ lạy Phật
Thích Ca và Phật Ða Bảo. Lễ lạy xong, lại đến chỗ của Bồ Tát Trí Tích ngồi
cùng nhau hỏi thăm, rồi ngồi qua một bên. Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát văn
Thù : ‘’Thưa Ngài ! Ngài đến cung rồng giáo hóa được bao nhiêu rồng‘’? Bồ
Tát Văn Thù đáp : ‘’Rồng được độ, không thể nào tính kể được, chẳng phải
miệng nói ra được, cũng chẳng phải tâm có thể dò lường được, Ngài hãy đợi
một chút thì sẽ biết rõ.’’
Nói chưa dứt lời, thì có vô số Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu, từ dưới biển vọt
lên, đến núi Linh Thứu, trụ ở trong hư không. Các vị Bồ Tát đó, đều do Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ Tát, đều cùng đàm luận nói sáu Ba
la mật. Họ vốn là hàng Thanh Văn, ở trong hư không nói hạnh Thanh Văn,
nay đều tu hành nghĩa không của đại thừa. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói với
Bồ Tát Trí Tích rằng: Việc giáo hóa ở trong biển là như thế.
Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích nói bài kệ, để khen ngợi rằng:
Ðại trí đức dũng mãnh
Hóa độ vô lượng chúng
Nay trong đại hội này
Ta đều đã thấy hết.
Diễn nói nghĩa thật tướng
Mở bày pháp một thừa
Rộng độ các chúng sinh
Khiến mau thành bồ đề.
Khi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi chưa nói chưa dứt lời, thì đột nhiên có vô số Bồ
Tát đại thừa, ngồi trên hoa sen báu từ dưới biển vọt lên, đến núi Linh Thứu
chỗ của Phật Thích Ca đang nói pháp, hiện ra đủ thứ thần thông diệu dụng,
trụ ở trong hư không. Những vị Bồ Tát đó, đều do Bồ Tát Văn Thù giáo hóa
ở trong biển, ai cũng đầy đủ hạnh Bồ Tát, cùng nhau thảo luận sáu pháp Ba
la mật. Các Ngài vốn chứng quả vị Thanh Văn, song các Ngài đã hồi tiểu
hướng đại, hành Bồ Tát đạo. Cho nên, các Ngài ở trong hư không trước hết
nói pháp Thanh Văn thừa, vì các Ngài chưa vào sâu pháp đại thừa. Như nay
tất cả hàng Thanh Văn thừa và Bồ Tát thừa, đều cùng nhau phát tâm tu hành
nghĩa không của đại thừa, tức là tu hành pháp môn thật tướng của đại thừa.
Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Trí Tích : ‘’Ngài hỏi tôi việc giáo hóa bao
nhiêu chúng sinh ở trong biển, thì việc đó như thế .’’
Bấy giờ Bồ Tát Trí Tích nhìn thấy chúng sinh của Bồ Tát Văn Thù hóa độ,
hiện nay đều tu nghĩa không đại thừa của đại Bồ Tát. Cho nên dùng một bài
kệ để khen ngợi Bồ Tát Văn Thù.
‘’Ngài là một vị tôn giả đầy đủ đại trí huệ, đại công đức, đại dũng mãnh, đại
thù thắng, cho nên giáo hóa được vô lượng vô biên chúng sinh hành Bồ Tát
đạo. Hiện tại tất cả chúng sinh ở trong pháp hội nầy, đề đã nhìn thấy hết.
Ngài hay diễn nói tất cả diệu pháp, khiến cho hết thảy chúng sinh minh bạch
nghĩa lý thật tướng của đại thừa. Ngài lại hay mở bày diệu pháp một thừa,
rộng giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ mau thành tựu diệu quả Vô thượng
bồ đề, là bậc chúng ta đáng kính tin phụng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói : Tôi ở trong biển chỉ thường nói Kinh Pháp
Hoa. Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi : Kinh này thâm sâu vi
diệu, là báu trong các kinh, ít có ở trong đời. Nếu có chúng sinh siêng năng
tinh tấn tu hành kinh này, thì mau được thành Phật chăng ? Bồ Tát Văn Thù
đáp : Có con gái của Long Vương Ta Kiệt La, mới tám tuổi mà trí huệ lanh
lợi, khéo biết các căn hành nghiệp của chúng sinh, được Ðà la ni, hay thọ trì
pháp bí tàng thâm sâu của các đức Phật nói, vào sâu thiền định, thấu hiểu
thông đạt các pháp, trong khoảng sát na phát tâm bồ đề, được chẳng thối
chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy
đủ, trong tâm nhớ pháp, miệng diễn nói pháp vi diệu rộng lớn, từ bi đối với
tất cả chúng sinh, ý chí nhu hòa, đến được bồ đề.
Bồ Tát Văn Thù nói : ‘’Tôi ở trong biển, luôn một lòng diễn nói Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa’’. Bồ Tát Trí Tích nghe rồi tâm sinh hoài nghi bèn hỏi :
‘’Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là một bộ kinh thâm sâu vi diệu không thể nghĩ
bàn, cho nên gọi là bảo bối trong các kinh, rất ít có ở trong thế gian. Nếu có
chúng sinh nghe được kinh nầy, và siêng năng tinh tấn tu hành kinh nầy, thì
người đó chẳng phải sớm có thể thành Phật chăng‘’ ? Bồ Tát Văn Thù đáp :
‘’Ở trong biển có một Long cung, Long Vương của long cung có một người
con gái mới tám tuổi, tuy tuổi nhỏ mà trí huệ rất lanh lợi. Cô ta biết tiền
nhân hậu quả của chúng sinh, cô ta đắc được mười pháp Ðà la ni. (Ðà la ni
dịch là "tổng trì". ‘’Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa.’’ Tức cũng là tổng
trì thân khẩu ý thanh tịnh, thân khẩu ý chẳng phạm nghiệp ác. Pháp của Phật
nói cô ta đều minh bạch). Do đó, tạng bí mật là bí pháp vì đây nói mà kia
chẳng biết, vì kia nói mà đây chẳng biết, đồng nói một pháp nhưng đắc được
nghĩa lý chẳng giống nhau, cho nên gọi là bí tàng. Song Long Nữ tám tuổi
hay thọ trì đọc tụng và đều hiểu rõ tạng bí mật thâm sâu của chư Phật nói.
Cô ta lại vào được thiền định thâm sâu, mà còn thấu rõ thông đạt các pháp,
trong khoảng một sát na phát đại bồ đề tâm, được vĩnh viễn chẳng thối
chuyển, được biện tài vô ngại. Song cô ta thương nhớ tất cả chúng sinh, xem
tất cả chúng sinh như con đỏ, cô ta công đức viên mãn, trong tâm nhớ pháp,
miệng diễn nói pháp vi diệu xâu xa. Cô ta có tâm từ hay ban vui, tâm bi hay
cứu khổ, mà còn khiêm nhường ái hộ tất cả chúng sinh. Chí khí và ý niệm
của cô ta đều rất nhu hòa, sớm thành tựu bồ đề.’’
Bồ Tát Trí Tích nói : Tôi thấy đức Thích Ca Như Lai trong vô lượng kiếp,
làm những việc khó làm, tích lũy công đức, cầu đạo bồ đề chưa từng nghỉ
ngơi. Tôi quán ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến chẳng có nơi nào nhỏ như
hạt cải, mà chẳng phải là nơi Bồ Tát vì chúng sinh xả bỏ thân mạng của, rồi
sau đó mới thành tựu đạo bồ đề, tôi không tin cô Long Nữ này, trong chốc
lát mà được thành Chánh giác.
Bồ Tát Văn Thù nói ra việc Long Nữ sớm thành bồ đề, thì Bồ Tát Trí Tích
bèn sinh nghi hoặc, liền hỏi : ‘’Tôi thấy Phật Thích Ca thành Phật, chẳng
phải là việc dễ dàng. Trong vô lượng kiếp về trước, Ngài làm những việc
khó làm, tích lũy công đức nhỏ như hạt cát, như hạt bụi, như sợi lông. Vì cầu
bồ đề mà chưa từng nghỉ ngơi. Hiện tại tôi quán khắp ba ngàn thế giới,
chẳng có nơi nào nhỏ như hạt cải, như hạt bụi, mà chẳng phải là chỗ xả bỏ
thân mạng của Bồ Tát, vì cứu độ tất cả chúng sinh. Sau đó, độ chúng hết rồi
mới thành Phật đạo. Tôi không tin cô Long Nữ nầy trong khoảng chốc lát,
mà lập tức thành Phật.
Nói chưa xong thì Long Nữ đột nhiên hiện ra ở trước, đầu mặt lễ kính đức
Phật, rồi đứng qua một bên, bèn nói bài kệ khen ngợi rằng:
Thông đạt tướng tội phước
Chiếu khắp mười phương cõi
Pháp thân tịnh vi diệu
Ðủ ba mươi hai tướng.
Và tám mươi vẻ đẹp
Dùng trang nghiêm pháp thân
Chỗ trời người kính ngưỡng
Rồng thần đều cung kính.
Hết thảy loài chúng sinh
Chẳng ai không sùng bái
Lại nghe thành bồ đề
Chỉ Phật chứng biết được.
Con nói pháp đại thừa
Ðộ thoát chúng sinh khổ.
Tong lúc Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Trí Tích đàm luận chưa xong, thì Long
Nữ đột nhiên hiện thân ở trong pháp hội, cung kính đảnh lễ chư Phật Bồ Tát,
rồi lui ngồi về một bên. Sau đó, dùng bài kệ khen ngợi đức Ða Bảo Như Lai
: ‘’Phật thông đạt minh bạch được quả báu tội nghiệp và tướng phước thiện
ác, cho nên tu phước tu huệ, mới đắc được tướng siêu nhiên thành Phật. Vì
thân tâm thanh tịnh, nên trí huệ quang minh chiếu khắp mười phương thế
giới vô cùng vô tận. Pháp thân thanh tịnh vi diệu không thể nghĩ bàn đó, tức
được ba mươi hai tướng đại nhân, đó là vì Phật đã đầy đủ viên mãn sáu độ
Ba la mật. Ðức Phật lại dùng tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm pháp thân.
Là chỗ kính ngưỡng của trời người, hết thảy rồng thần đều cung kính, hết
thảy chúng sinh chẳng có ai mà chẳng sùng bái kính ngưỡng Phật. Tôi lại
nghe cảnh giới thành Phật, chỉ có Phật mới chứng minh được, cho nên hiện
tại con xiển dương giáo lý đại thừa, muốn độ thoát tất cả chúng sinh lìa khỏi
biển khổ sinh tử.
Bấy giờ, Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng : Cô nói chẳng bao lâu cô đắc
được vô thượng đạo, đó là việc khó tin. Vì sao ? Vì thân người nữ dơ bẩn,
chẳng phải pháp khí, sao lại có thể đắc được Vô thượng bồ đề ? Phật đạo lâu
xa, phải trải qua vô lượng kiếp tinh tấn siêng tu khổ hạnh, tu đủ các Ba la
mật, sau đó mới thành. Hơn nữa, thân người nữ có năm điều chướng ngại :
Thứ nhất chẳng được làm Phạm Thiên Vương, thứ hai chẳng được làm Ðế
Thích, thứ ba chẳng được làm ma vương, thứ tư chẳng được làm Chuyển
luân thánh vương, thứ năm không thể thành Phật. Sao thân nữ lại mau được
thành Phật ?
Khi Long Nữ nói xong bài kệ rồi, thì Ngài Xá Lợi Phất bèn nói với Long nữ
rằng : ‘’Cô nói việc sớm được thành Phật, thật là khiến cho người khó tin
được. Tại sao chúng tôi không tin ? Vì cô là thân người nữ, mà thân người
nữ chẳng thanh tịnh, có sự nhơ uế, chẳng phải pháp khí thành Phật. Tại sao
có thể nói cô sớm đắc được bồ đề ? Con đường thành Phật rất là xa vời, do
đó đức Phật Thích Ca ba đại A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp gieo trồng
tướng tốt, chẳng biết trải qua bao nhiêu vô lượng đại kiếp, tinh tấn siêng tu
khổ hạnh, mới được thành tựu Phật đạo. Hà huống thân người nữ có năm
điều chướng ngại.
1. Không thể làm vua Ðại Phạm Thiên, vì thân người nữ chẳng thanh tịnh.
2. Không thể làm Ðế Thích.
3. Không thể làm ma vương.
4. Không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương.
5. Không thể thành Phật.
Thân người nữ có năm điều chướng ngại như thế, sao lại có thể thành Phật ?
Sao lại có thể nói thân người nữ cũng có thể thành Phật ?
Bấy giờ, Long Nữ có một hạt bảo châu, giá trị ba ngàn đại thiên thế giới,
cầm dâng lên đức Phật, đức Phật bèn thọ nhận. Long Nữ bảo Bồ Tát Trí
Tích và tôn giả Xá Lợi Phất rằng : Tôi cúng hạt bảo châu, đức Thế Tôn thọ
nhận, việc đó có mau chăng ?
- Ðáp rằng : Rất mau.
- Long nữ nói : Dùng thần lực của các Ngài để quán sát tôi thành Phật, còn
mau hơn việc đó.
Lúc đó, trong chúng hội đều thấy Long nữ đột nhiên biến thành thân nam,
đầy đủ hạnh Bồ Tát, bèn đi qua phương nam thế giới Vô Cấu, ngồi trên hoa
sen báu thành Ðẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
khắp vì hết thảy chúng sinh trong mười phương, mà diễn nói diệu pháp.
Kỳ thật, tôn giả Xá Lợi Phất ở trong Kinh Duy Ma Cật, đã biết chẳng có
tướng nam nữ khả đắc. Song, tại sao Ngài lại ở trong pháp hội Diệu Pháp
Liên Hoa hoài nghi việc Long nữ thành Phật ? Ðó là vì Ngài muốn vì tất cả
chúng sinh mà thưa hỏi pháp đó, sợ rằng chúng sinh sinh tâm hoài nghi đối
với việc đó, chẳng tin đây là bộ Kinh Pháp Hoa, cho nên Ngài đại biểu
chúng sinh thỉnh pháp. Thật ra, tôn giả Xá Lợi Phất và Bồ Tát Trí Tích, đều
biết rõ chẳng có tướng nam nữ khả đắc, song một số phàm phu thấy thì có
tướng nam nữ phân biệt. Cho nên, tôn giả Xá Lợi Phất cố ý biện luận với
Long nữ, vì tất cả chúng sinh khai quyền hiển thật.
Lúc đó, Long nữ có một hạt bảo châu, giá trị quý hơn ba ngàn đại thiên thế
giới, cô ta tay cầm hạt châu báu cúng dường đức Phật, Phật liền thọ nhận.
Long nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và tôn giả Xá Lợi Phất rằng :
- ‘’Tôi dâng cúng hạt bảo châu lên đức Phật, Phật đã thọ nhận, các Ngài nói
việc đó phát sinh có mau chăng‘’?
- Các Ngài nói : ‘’Rất mau‘’!
- Long nữ nói : ‘’Dùng oai thần lực hai Ngài để quán sát tôi thành Phật, còn
mau hơn so với việc tôi mới cúng dường đức Thế Tôn’’.
Lập tức, ở trong pháp hội đều thấy Long nữ trong khoảng sát na hiện thân
người nam, viên mãn hạnh môn Bồ Tát, lập tức đi về phương nam thế giới
Vô Cấu, ngồi trên tòa hoa sen báu hóa thân thành Phật.
Nếu ai muốn được hoa sen hóa thân, thì chẳng phải là việc dễ dàng, phải đầy
đủ tám nhân duyên :
1. Thậm chí xả bỏ thân mạng cũng đừng nói lỗi lầm và thị phi của kẻ khác.
2. Người biến hóa quy y Tam Bảo, mà còn hóa ra tất cả súc sinh đến quy y
Tam Bảo, hành Bồ Tát đạo.
3. Tất cả việc lành đều để ở trong bồ đề tâm.
4. Tu phạm hạnh thanh tịnh, không tham, không sân, không si để tinh tấn tu
phạm hạnh.
5. Tạo hình tượng Phật để trên tòa sen.
6. Hay trừ ái não của chúng sinh.
7. Ðối với kẻ cống cao nên khiêm nhường.
8. Không làm cho kẻ khác sinh phiền não.
Chánh giác tức là chẳng có vọng tưởng. Lúc đó, Long nữ lập tức thành Phật,
đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, khắp vì tất cả chúng sinh trong
mười phương, diễn nói diệu pháp vô thượng.
Bấy giờ, ở thế giới Ta Bà, hàng Bồ Tát Thanh Văn, Thiên Long bát bộ,
người, chẳng phải người, đều thấy Long Nữ thành Phật, khắp vì chúng hội
trời người ở cõi đó nói pháp, tâm đều hoan hỉ, đều kính lễ Long Nữ. Vô
lượng chúng sinh nghe pháp hiểu rõ tỏ ngộ, được không thối chuyển, vô
lượng chúng sinh được thọ ký thành Phật. Thế giới Vô Cấu có sáu thứ chấn
động. Thế giới Ta Bà có ba ngàn chúng sinh được bất thối chuyển, ba ngàn
chúng sinh phát tâm bồ đề, mà được thọ ký. Bồ Tát Trí Tích và Xá Lợi Phất,
tất cả chúng hội đều yên lặng tin nhận.
Long Nữ đến thế giới Vô Cấu diễn nói diệu pháp, thì ở thế giới Ta Bà rất
nhiều vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ, người, chẳng phải người,
đều nhìn thấy Long Nữ thành Phật. Khắp vì trời người của pháp hội đó nói
pháp. Hết thảy tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, pháp hỉ sung mãn,
mọi người đều kính lễ Long Nữ. Vô lượng vô biên chúng sinh nghe Phật
pháp, thấu triệt hiểu rõ tất cả các pháp, được quả vị bất thối chuyển, còn có
vô lượng chúng sinh được thọ ký thành Phật. Ở thế giới Vô Cấu có sáu thứ
chấn động : Chấn, hống, kích, dũng, động, khởi. Chấn hống kích thuộc về
tiếng; động dũng khởi thuộc về hình. Người tu đạo, tu đến trình độ nào đó,
thì sẽ cảm thấy sáu căn có sáu thứ chấn động nầy. Mỗi sáu thứ chấn động
phân ra làm ba, cho nên có mười tám giới. Tức là phân làm sáu trần, sáu căn,
sáu thức. Lúc đó, ở thế giới Ta Bà có ba ngàn chúng sinh được quả vị bất
thối chuyển, đều phát tâm đại bồ đề, còn được Phật thọ ký. Bồ Tát Trí Tích
và Xá Lợi Phật, tất cả pháp hội đại chúng yên lặng tin nhận thánh nghĩa.
---o0o---
Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
Khuyên trì là gì ? Khuyên là khuyên nói, trì là phụng trì. Tức là bạn có thể
dùng đủ thứ lời lẽ khuyên nói người khác, hoan hỉ đọc tụng bộ Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa nầy, hoặc là hoan hỉ phụng trì bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
nầy, thì chắc chắn sẽ có công đức không thể nghĩ bàn. Nếu không tin thì
đừng ngại hãy thử xem ! Một khi đọc kinh nầy, thì cảm thấy diệu không thể
tả. Muốn không đọc tụng cũng không thể ngưng được. Do đó, hằng ngày
đọc tụng kinh nầy, hằng ngày phụng trì kinh nầy, thì có vô lượng công đức.
Các vị hằng ngày nghe Kinh Pháp Hoa càng có vô lượng công đức. Kinh
Pháp Hoa là vua trong các kinh, là kinh thành Phật. Cho nên, chư Phật, Bồ
Tát, A La Hán, đều khuyên nói mọi người đọc tụng thọ trì bộ Kinh Pháp
Hoa nầy.
Ðây là một phẩm trong hai mươi tám phẩm Kinh Pháp Hoa, phẩm thứ mười
ba, cho nên gọi là Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết, cùng hai vạn
vị Bồ Tát quyến thuộc, cùng nhau đồng đến trước đức Phật phát thệ nguyện
rằng : Xin nguyện đức Thế Tôn, đừng lấy làm lo lắng, sau khi đức Phật diệt
độ, chúng con sẽ phụng trì đọc tụng diễn nói kinh này.
Sau khi Ðức Phật nói xong phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, tiếp theo là Phẩm Khuyên
Trì. Lúc đó, đại Bồ Tát Dược Vương và Ðại Bồ Tát Dược Thượng, cùng với
hai vạn vị Bồ Tát quyến thuộc, cùng nhau đồng đến trước Ðức Phật phát thệ
nguyện rằng : ‘’Chúng con đại chúng xin nguyện đức Thế Tôn yên tâm,
đừng vì việc nầy mà lo lắng. Sau khi Thế Tôn vào Niết Bàn, chúng con đại
chúng sẽ phụng trì đọc tụng bộ Kinh Pháp Hoa nầy, sẽ cung kính cúng
dường bộ Kinh Pháp Hoa nầy‘’.
Trong quá khứ Bồ Tát Dược Vương tên là Tinh Tú Quang. Lúc ấy, có Tỳ
Kheo Nhật Tạng tuyên dương truyền bá chánh pháp. Ông ta đem các thứ
thuốc A lê lặc dâng lên Tỳ Kheo Nhật Tạng, và đại chúng phát nguyện đời
sau, hay trị lành hai bệnh thân, tâm của chúng sinh, đời đời làm lương y,
khéo trị bệnh, có thuốc đến thì bệnh tiêu trừ. Ông ta biết rành tính thuốc
thảo, mộc, kim, thạch, bốn thứ. Như cam thảo thì ngọt, hoàng liên thì đắng.
Tính lạnh trị được bệnh nhiệt, tính nóng trị được bệnh lạnh.
Ðại Nhạo Thuyết Bồ Tát có đủ bốn vô ngại biện :
1. Pháp vô ngại biện : Nói được pháp thế gian và xuất thế gian, đối với tất cả
các danh tướng, chẳng có gì mà không biết. Tuy biết tất cả các pháp, song
chẳng chấp trước các pháp.
2. Nghĩa vô ngại biện : Nói phân biệt được nghĩa của các pháp, thông đạt vô
ngại. Tuy biết nghĩa lý của các pháp, song chẳng chấp trước.
3. Từ vô ngại biện : Trong một lời bao hàm vô lượng nghĩa. Ðối với từng lời
lẽ thông đạt tự tại, viên dung vô ngại.
4. Lạc thuyết vô ngại biện : Tùy thuận sự vui thích của chúng sinh, mà thiện
xảo phương tiện nói Phật pháp, cho nên gọi là Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết.
Chúng sinh đời ác sau này, căn lành dần dần bớt đi, tăng nhiều thượng mạn,
tham lợi cúng dường, tăng trưởng căn chẳng lành, xa lìa giải thoát. Tuy khó
có thể giáo hóa, nhưng chúng con sẽ khởi sức nhẫn nhục lớn, đọc tụng kinh
này, biên chép giải nói, đủ thứ cúng dường, chẳng tiếc thân mạng.
Chúng sinh trong đời ác năm trược chẳng tin Phật, nói Phật pháp cũng chẳng
ai nghe. Tại sao ? Vì căn lành của chúng sinh dần dần giảm bớt đi, cho nên
phước mỏng manh. Tuy nhiên người tăng trưởng căn lành giảm bớt, song
người tăng thượng mạn thì nhiều. Như có người nói : ‘’Các vị có biết tôi là
ai ? Tôi là Phật, chẳng những tôi đã thành Phật, mà mọi người cũng đều là
Phật.’’ Ðó là biểu hiện tăng thượng mạn.
Thứ người đó chẳng biết hổ thẹn, đối với kinh điển của Phật nói, y chẳng
hiểu một bộ kinh nào hết, vậy mà chẳng biết hổ thẹn nói mình là Phật. Thứ
người đó tương lai chắt chắn sẽ đọa vào địa ngục vô gián. Tại sao tự nói
mình là Phật ? Ðó là vì tham đồ lợi ích, tham đồ cúng dường. Như thế thì
tăng thêm căn chẳng lành, vĩnh viễn xa lìa đạo giải thoát. Giải thoát là gì ?
Nói đơn giản là chẳng chấp trước những thứ gì, đắc được cảnh giới vô câu
vô thúc, thân tâm tự tại.
Người tăng thượng mạn tuy khó giáo hóa, song chúng con đại chúng dùng
sức đại nhẫn nhục để giáo hóa, độ thoát họ. Dùng phương pháp gì để độ ?
Hoặc là đọc tụng Kinh Pháp Hoa, hoặc là thuyết giảng Kinh Pháp Hoa, hoặc
là biên chép ấn tống Kinh Pháp Hoa, thậm chí chẳng tiếc thân mạng để cúng
dường Kinh Pháp Hoa.
Thuở xưa, có vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến (tiền thân của Bồ
Tát Dược Vương), Ngài phát tâm đốt thân cúng dường Phật và Kinh Pháp
Hoa. Chư Phật cùng khen ngợi rằng : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam
tử ! Là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai‘’. Trí Giả đại sư
đọc kinh đến chỗ nầy, đột nhiên nhập định. Ở trong định thấy pháp hội trên
núi Linh Thứu chưa tan. Ðức Phật Thích Ca vẫn vì các đại Bồ Tát và hàng
Thanh Văn diễn nói Kinh Pháp Hoa. Cảnh giới đó thật là không thể nghĩ
bàn.
Nhân tạo ra đời ác trược là do tâm trược mà ra. Nếu ai ai cũng thanh tâm quả
dục, chẳng tranh, chẳng tham, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng lợi mình,
chẳng nói dối, thì tâm tự nhiên thanh tịnh, trở thành cõi tịnh độ nhân gian.
Năm trược là gì ? Tức là :
1. Kiếp trược : Tuổi thọ con người vốn là tám vạn bốn ngàn tuổi, song vì
phước cạn mỏng, dần dần giảm bớt mà đi vào kiếp trược. Kiếp trược vốn
chẳng có thể, lấy bốn trược làm thể.
2. Kiến trược : Vì kiến giải của chúng sinh chẳng chân chánh, mê hoặc
chánh kiến, trở thành kiến hoặc, tức cũng là năm lợi sử : Thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cẩm thủ kiến).
3. Phiền não trược : Sáu căn đối với sáu trần, bèn sinh năm độn sử (tham,
sân, si, mạn, nghi) mà có đủ thứ phiền não sinh ra.
4. Chúng sinh trược : Vì ảnh hưởng thọ kiến trược và phièn mão trược, nên
phước báo của chúng sinh càng tổn giảm, còn khổ báo thì dần dần tăng lên,
cho nên gặp nhiều tai họa.
5. Mạng trược : Chúng sinh vì phiền não sinh, nên thân tâm ốm gầy, cho nên
mạng sống ngắn ngủi.
Bấy giờ, năm trăm vị A la hán ở trong chúng, được thọ ký bạch Phật rằng :
Ðức Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ nguyện, ở cõi nước khác rộng nói
kinh này.
Lúc đó, ở trong chúng có năm trăm vị A La Hán đều được Ðức Phật thọ ký,
các Ngài đại chúng cùng hướng Phật nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con năm
trăm A La Hán cũng tự phát thệ nguyện, đến cõi nước khác hoằng dương
Kinh Pháp Hoa, chẳng khi nào lười mỏi‘’.
Lại có bậc hữu học, và vô học hai ngàn người được thọ ký, từ tòa ngồi đứng
dậy, chắp tay hướng về đức Phật phát thệ nguyện nói : Ðức Thế Tôn !
Chúng con cũng sẽ ở cõi nước khác, rộng nói kinh này.
Lại có Tỳ Kheo hữu học (sơ quả, nhị quả, tam quả A La Hán) và các Tỳ
kheo vô học (tứ quả A La Hán), cùng với tám ngàn người đều được Ðức
Phật thọ ký. Ðại chúng cùng nhau từ tòa ngồi đứng dậy, cùng chắp tay
hướng về Ðức Phật, mà phát thệ nguyện rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con
tám ngàn người, cũng đến mười phương cõi nước khác, để rộng nói bộ Kinh
Pháp Hoa nầy chẳng ngừng nghỉ‘’.
Sơ quả A La Hán là kiến đạo vị (bậc thấy đạo). Nhị quả và tam quả A La
Hán là tu đạo vị (bậc tu đạo), cho nên gọi là hữu học vị (bậc hữu học). Tứ
quả A La Hán là chứng đạo vị (bậc chứng đạo), cho nên gọi là vô học vị
(bậc vô học).
Tại sao ? Vì nhiều người ở thế giới Ta Bà tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn,
công đức cạn mỏng, tâm sân hận ô trược siểm khúc chẳng thật.
Tại sao ? Vì người ở thế giới Ta Bà tính tình đa số rất tệ ác. Trong tâm ôm
lòng cống cao ngã mạn, khinh khi mọi người. Công đức của họ vừa cạn vừa
mỏng, tâm của họ sân hận nhất, ô trược nặng nhất, siểm cuống nhất, chẳng
chân thật.
Chúng sinh ở thế giới Ta Bà hay kham nhẫn mọi sự khổ, lấy khổ làm vui,
chẳng biết tu pháp lìa khổ được vui, suốt ngày dụng công trên sự danh lợi,
bạn tranh thì tôi giành, chẳng ngừng nghỉ. Vì khởi hoặc, tạo nghiệp, cho nên
thọ quả báo. Nếu hồi quang phản chiếu, vạn duyên buông bỏ, thì tự nhiên
thoát khỏi luân hồi, do đó :
‘’Biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ .’’
Bấy giờ, dì của đức Phật là Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, với các Tỳ
Kheo Ni hữu học và vô học sáu ngàn người, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, một
lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan đức Thế Tôn, mắt chẳng tạm rời.
Lúc đó, dì của Ðức Phật, cũng là mẹ kế của Ðức Phật, Tỳ Kheo ni Ma Ha Ba
Xà Ba Ðề (Ðại Ái Ðạo), với các vị Tỳ Kheo ni hữu học và vô học, cả thảy là
sáu ngàn người cùng nhau đứng dậy, chuyên tâm chắp tay lại chiêm ngưỡng
tôn nhan của Phật, mắt chẳng tạm rời, tựa như nhập định.
Tỳ Kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, là em gái của Ma Gia phu nhân. Sau theo
Phật xuất gia trở thành Tỳ Kheo ni bậc nhất, tức là người lãnh đạo các Tỳ
Kheo ni. Ðương thời họ muốn xuất gia tu đạo, Phật vốn chẳng cho phép, sau
tôn giả A Nan ba lần thỉnh cầu Ðức Phật, cuối cùng Phật miễn cưỡng đáp
ứng.
Lúc đó, đức Thế Tôn bảo Kiều Ðàm Di rằng : Sao lại buồn rầu mà nhìn Như
Lai ! Có phải trong tâm ngươi cho rằng, ta không nói đến tên ngươi, thọ ký
quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác chăng !
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Kiều Ðàm Di (Tỳ Kheo ni thượng thủ) : ‘’Vì sao
ngươi buồn rầu nhìn ta như thế ? Ở trong tâm ngươi có phải vì ta không nói
đến tên ngươi, thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác‘’ ? Phật hòa
nhan duyệt sắc hỏi, khiến cho hàng đệ tử hòa mục khả thân, tự nhiên khởi
kính.
Kiều Ðàm Di ! Trước ta đã nói tổng quát, tất cả hàng Thanh Văn đều đã thọ
ký. Nay ngươi muốn biết thọ ký chăng ? Ðời vị lai ngươi sẽ làm đại pháp sư,
ở trong sáu vạn tám ngàn các Phật pháp, và sáu ngàn vị Tỳ Kheo ni hữu học
vô học, cũng đều làm pháp sư.
Ðức Phật bảo Kiều Ðàm Di ! Ta ở trước vừa nói tổng quát tất cả hàng Thanh
Văn (nghe tiếng của Phật mà ngộ đạo), đều đã được thọ ký. Bây giờ ngươi
muốn biết thì hãy chú ý nghe. Ở đời vị lai trải qua sáu vạn tám ngàn ở trong
các Phật pháp, ngươi sẽ làm đại pháp sư và sáu nghìn vị Tỳ Kheo ni hữu học
và vô học kia, cũng đều làm pháp sư.
Ðại pháp sư có mười đức :
1. Khéo biết nghĩa của pháp.
2. Hay rộng tuyên nói.
3. Ở trong đại chúng chẳng sợ.
4. Khéo nói phương tiện.
5. Vô đoạn biện tài.
6. Pháp tùy đức hành.
7. Ðầy đủ oai nghi.
8. Dũng mãnh tinh tấn.
9. Thân tâm chẳng mệt.
10. Thành tựu sức nhẫn nhục.
Ðầy đủ mười đức hạnh nầy, mới đủ tư cách xưng là đại pháp sư.
Như thế, ngươi dần dần đầy đủ Bồ Tát đạo, sẽ được thành Phật, hiệu là Nhất
Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Như thế ngươi trải qua sáu vạn tám ngàn ức chư Phật, gần gũi chư Phật,
cúng dường chư Phật, dần dần đầy đủ Bồ Tát đạo. Ðến khi ba giác tròn vạn
đức đầy, thì sẽ thành Phật, hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến Như Lai.
Ðầy đủ mười hiệu, tức là:
Như Lai : Thừa đạo như thật, lai thành chánh giác.
Ứng Cúng : Xứng đáng thọ lãnh sự cúng dường của chín pháp giới.
Chánh Biến Tri : Trí của Phật chiếu soi tất cả các pháp, vừa chánh lại vừa
biến.
Minh Hạnh Túc : Ba minh thuộc về huệ, Năm hạnh thuộc về phước, phước
huệ đều đầy đủ.
Thiện Thệ : Tu chánh đạo, vào Niết Bàn.
Thế Gian Giải : Thế và xuất thế tất cả các tướng đều thấu rõ.
Vô Thượng Sĩ : Tu đến địa vị vô tu vô chứng.
Ðiều Ngự Trượng Phu : Hóa đạo chúng sinh, điều phục chúng sinh.
Thiên Nhân Sư : Làm đại đạo sư của trời người.
Phật: Bậc giác ngộ.
Thế Tôn : Người tôn quý nhất của thế và xuất thế. Ðầy đủ mười danh hiệu
mới xưng là Thế Tôn.
Pháp môn của Bồ Tát tu là lục độ vạn hạnh. Lục độ là gì ? Tức là sáu pháp
Ba la mật đến bờ kia :
1. Bố thí : Gồm có ba thứ. Thứ nhất là tài thí : Dùng của cải tiền bạc cứu tế
người nghèo. Bồ Tát xả bỏ được nội tài (Ðầu mắt tủy não), và ngoại tài (Ðất
nước vợ con), chẳng có gì mà xả bỏ chẳng đặng. Thứ hai là pháp thí : Tức là
giảng kinh thuyết pháp, đem pháp lành mà mình biết, khiến cho mọi người
cũng biết, do đó có câu :
‘’Trong các sự bố thí,
Bố thí pháp là hơn hết.’’
Thứ ba là vô úy thí : Có người gặp nguy hiểm, phải có tinh thần dũng mãnh
cứu người gặp nạn, thoát khỏi cảnh khổ dầu sôi lửa bỏng .
2. Trì giới : Giới là điều răn cấm, ngưng làm ác ngừa việc quấy. Cho nên
người tại gia phải giữ năm giới hoặc tám giới. Sa di phải giữ mười giới, Tỳ
Kheo giữ hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo ni giữ ba trăm bốn tám giới. Dù
tại gia hoặc xuất gia, sau khi thọ giới Bồ Tát, phải hành Bồ Tát đạo, vì người
chẳng vì mình.
3. Nhẫn nhục : Người tu đạo nhất định phải tu nhẫn nhục, nhẫn những gì
người khác không nhẫn được, chịu đựng những điều người khác chịu không
được, như thế mới có thể chứng được vô sinh pháp nhẫn.
4. Tinh tấn : Tức là dũng mãnh hướng về trước, chẳng giải đãi, chẳng phóng
dật, tuyệt đối không lùi bước. Không thể một ngày nóng mười ngày lạnh,
không thể có trước chẳng có sau. Tóm lại, phải có ý chí khiên nhẫn không
lùi bước, mới có sở thành tựu.
5. Thiền định : Tức là tĩnh lự. Nghĩa là ngưng bặc hết mọi tạp niệm lăn xăn,
một niệm không sinh thì trí huệ hiện tiền.
6. Bát nhã : Dịch là "trí huệ". Có trí huệ thì rõ thiện ác, thị phi, trắng đen,
chánh tà, chẳng làm nghiệp ác. Trí huệ từ đâu mà có ? Có hai phương pháp :
Một là tham thiền, phải tham đến khi sơn cùng thủy tận (Núi mòn nước cạn),
thì sẽ có cảnh giới "liễu ám hoa minh". Thứ hai là tụng kinh, do đó có câu :
‘’Thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải‘’. (Vào sâu tạng kinh, trí huệ như
biển).
Kiều Ðàm Di ! Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến đó, và sáu ngàn vị Bồ
Tát, lần lượt thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật lại bảo Kiều Ðàm Di ! Ngươi sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng
Sinh Hỷ Kiến Phật, và sáu ngàn vị Bồ Tát lần lược thọ ký cho nhau. Nghĩa
là vị Bồ Tát thứ nhất thọ ký cho vị Bồ Tát thứ hai, cứ như thế thọ ký cho đến
sáu ngàn vị Bồ Tát, đều chứng quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
A La Hán chứng được Chánh giác, còn Bồ Tát chưa chứng được Chánh
đẳng và vô thượng. Bồ Tát chỉ chứng được Chánh đẳng, chứ chưa chứng
được Vô thượng. Phật đã chứng được Vô thượng, chẳng còn gì cao hơn
Phật.
Bấy giờ, mẹ của La Hầu La là Tỳ Kheo Ni Gia Du Ðà La, nghĩ như vầy :
Ðức Thế Tôn thọ ký, mà riêng chẳng nói đến tên tôi.
Lúc đó, mẹ của tôn giả La Hầu La (Phú chướng) Tỳ Kheo ni Gia Du Ðà La
(Hoa sắc), trong tâm nghĩ rằng : ‘’Ta với Ðức Phật có danh là vợ chồng, tại
sao thọ ký cho hàng Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni, mà riêng tên tôi chẳng đề cập
đến?’’ Trong tâm bà ta nghĩ như vậy, song Phật có trí huệ tha tâm thông, cho
nên biết tư tưởng của bà ta, do đó có câu :
‘’Bao nhiêu tâm tánh của chúng sinh
Như Lai đều biết đều thấy.’’
Tôn giả La Hầu La là con của đức Phật Thích Ca. Xuất gia lúc bảy tuổi, là
một trong mười vị đại đệ tử của Ðức Phật, được xưng là mật hạnh đệ nhất.
Trong quá khứ tôn giả là người tu đạo. Một ngày nọ, đang lúc tọa thiền nghe
tiếng chuột kêu, bèn khởi tâm sân hận đến bít lỗ hang chuột. Sáu ngày sau
mới nghĩ đến chuyện nầy, bèn khởi tâm đại bi thương xót, tâm nghĩ chuột ở
trong hang chẳng phải sẽ chết đói chăng ? Do đó, mới lấy đá ra. Do quả báu
đó, mà sáu năm ở trong bụng mẹ, cho nên gọi là ‘’Phú chướng‘’.
Gia Du Ðà La em gái bà con với Ðức Phật, dung mạo đoan chánh rất xinh
đẹp, xa gần đều nghe danh, cho nên gọi là Hoa sắc. Khi Ðức Phật mười bảy
tuổi, thì kết hôn với cô ta. Một ngày nọ, cô ta cầu con với Ðức Phật. Phật
dùng ngón tay chỉ vào bụng cô ta, thì cô ta thọ thai. Phật xuất gia sáu năm
sau mới sinh La Hầu La. Lúc đó, dòng họ Thích bàn tán xôn xao, cả thành
đều cho rằng Gia Du Ðà La chẳng giữ đạo vợ chồng. Gia Du Ðà La biểu thị
sự thanh bạch ở trước công chúng tuyên bố : ‘’Nếu La Hầu La chẳng phải là
con của thái tử Tất Ðạt Ða, thì nguyện lửa lớn sẽ thiêu hủy mẹ con chúng
tôi, bằng ngược lại thì lửa lớn không thể thiêu đốt mẹ con chúng tôi.’’ Nói
xong lập tức bồng La Hầu La nhảy vào hầm lửa. Hầm lửa lập tức biến thành
ao sen, mẹ con an nhiên ngồi trên hoa sen. Lúc đó, dòng họ Thích biết Gia
Du Ðà La thân thanh bạch như ngọc. Sau khi trải qua sóng gió, về sau mới
được mọi người cung kính. Sau đó, theo Ma Ha Ba Xà Ba Ðề cùng nhau
xuất gia tu đạo làm Tỳ Kheo ni.
Phật bảo Gia Du Ðà La rằng : Ngươi ở đời vị lai, trong trăm ngàn vạn ức các
Phật pháp tu hạnh Bồ Tát, làm đại pháp sư, dần dần đủ Phật đạo, sẽ được
thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Phật đó sống lâu vô
lượng A tăng kỳ kiếp.
Ðức Phật bảo Gia Du Ðà La : Ngươi ở đời vị lai, trong trăm ngàn vạn ức các
Phật pháp, tu lục độ vạn hạnh
tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, tự độ độ tha, làm đại pháp sư, dần dần thành
tựu Phật đạo. Ở trong nước Thiện Lương sẽ được thành Phật hiệu là Cụ Túc
Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Phật đó sống lâu vô
lượng A tăng kỳ kiếp.
Bấy giờ, Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề và Tỳ Kheo Ni Gia Du Đà La,
cùng với quyến thuộc đều rất hoan hỉ, được chưa từng có, bèn ở trước đức
Phật nói bài kệ rằng :
Đấng Đạo sư Thế Tôn
An ổn các trời người
Chúng con nghe thọ ký
Tâm an đã đầy đủ.
Lúc đó, Tỳ Kheo ni Ðại Ái Ðạo và Tỳ kheo ni Hoa Sắc, cùng với quyến
thuộc được Phật thọ ký, đều rất hoan hỉ, được chưa từng có, lập tức ở trước
Phật nói ra bài kệ :
Ðức Thế Tôn ! Ngài là đại Đạo sư của trời người, Ngài hay khiến cho trời
người được an ổn, được an lạc. Chúng con hàng Tỳ Kheo ni, nghe đức Thế
Tôn thọ ký cho chúng con, ai nấy trong tâm đều an ủi chẳng cách gì hình
dung được.
Các Tỳ Kheo ni nói kệ xong, bèn bạch đức Phật nói : Ðức Thế tôn ! Chúng
con cũng ở nơi cõi nước phương khác, rộng nói kinh này.
Các vị Tỳ Kheo ni nói xong rồi, mới bạch với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn !
Chúng con hàng Tỳ Kheo ni, cũng ở nơi nước khác hoằng dương bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, rộng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy‘’.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhìn tám mươi vạn ức Na do tha các vị đại Bồ Tát.
Các vị Bồ Tát đó, đều là chuyển bất thối pháp luân, đắc được các Đà la ni,
bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay mà nghĩ
như vầy : Nếu đức Thế Tôn dạy bảo chúng con thọ trì diễn nói kinh này, thì
chúng con sẽ y theo lời Phật dạy, mà rộng tuyên nói pháp này. Lại nghĩ như
vầy : Nay đức Phật yên lặng, chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào
?
Lúc đó, đức Phật chăm chú nhìn tám vạn ức Na do tha (một trong số mục
lớn nhất của Ấn Ðộ) các vị đại Bồ Tát. Các Ngài đều là: Vị bất thối, niệm
bất thối, hạnh bất thối, chuyển bất thối đại pháp luân, chứng được Đà la ni
(dịch là "tổng trì", tổng tất cả các pháp, trì vô lượng nghĩa). Các vị Bồ Tát
nầy; cùng nhau từ tòa ngồi đứng dậy, đều đi đến trước Ðức Phật, cung kính
một lòng chắp tay. Ðó là biểu thị thân cung kính và tâm cung kính. Các vị
đại Bồ Tát đó, cùng nghĩ như vầy : ‘’Nếu như Ðức Thế Tôn dạy bảo chúng
ta thọ trì diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì chúng ta đại chúng nhất
định tuân theo lời Phật dạy, rộng vì chúng sinh diễn nói diệu pháp nầy.’’
Các vị Bồ Tát đó lại nghĩ như vầy : ‘’Tuy chúng ta cùng nhau phát tâm
nguyện như vậy, song Phật nay lại yên lặng chẳng nói, chẳng thấy Phật dạy
bảo chúng ta. Bây giờ chúng ta phải làm thế nào ? Phát nguyện hoằng dương
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ? Hay là chờ đợi Phật dạy bảo‘’?
Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đó, cung kính thuận theo ý của đức Phật, và muốn
đầy đủ nguyện của mình đã phát ra, bèn ở trước đức Phật làm sư tử hống,
mà phát thệ nguyện rằng : Đức Thế Tôn ! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng
con sẽ đi khắp mười phương thế giới, để khiến cho chúng sinh, thọ trì đọc
tụng biên chép ấn tống giải nói kinh này, theo như pháp mà tu hành, nghĩ
nhớ chân chánh, đó đều là oai lực của đức Phật. Xin nguyện đức Thế Tôn ở
nơi phương khác, trông thấy mà bảo hộ.
Lúc đó, Ðức Phật chẳng nói gì cả, tám mươi vạn ức Na do tha các vị đại Bồ
Tát, vì muốn cung kính tùy thuận tâm ý của Phật, và còn muốn đầy đủ đại
nguyện của mình đã phát ra. Mới cùng nhau ở trước Ðức Phật làm sư tử
hống (tiếng đại vô úy) mà phát thệ nguyện rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Sau khi
Như Lai diệt độ, chúng con đại chúng, sẽ đi đến khắp mười phương thế giới,
khiến cho chúng sinh thọ trì, biên chép, ấn tống, diễn nói, bộ kinh nầy.
Chúng con giảng giải nghĩa lý bộ kinh nầy, khiến cho chúng sinh minh bạch
y chiếu theo nghĩa kinh mà tu hành, luôn thường nghĩ nhớ. Chúng con khiến
cho chúng sinh chẳng quên bộ kinh nầy, đó đều là nhờ đại oai thần lực của
Phật mà thành tựu. Xin nguyện đức Thế Tôn từ bi ở phương khác, trông thấy
Bồ Tát chúng con và chúng sinh, bảo hộ Bồ Tát chúng con và chúng sinh.
Tức thời, các vị Bồ Tát cùng nhau phát ra tiếng, mà nói kệ rằng :
Xin nguyện Phật đừng lo
Sau khi Phật diệt độ
Trong đời ác sợ hãi
Chúng con sẽ rộng nói.
Có những kẻ vô trí
Miệng ác chưởi mắng thảy
Dùng đao gậy đánh đập
Chúng con đều nhẫn nhịn.
Lúc đó, hết thảy các vị đại Bồ Tát cùng nhau phát ra tiếng, khác miệng cùng
lời nói ra bài kệ dưới đây.
Chúng con đại chúng, xin nguyện Ðức Thế Tôn phóng tâm, đừng lo lắng
chẳng có ai hoằng dương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Hiện tại chúng con phát
nguyện hoằng dương bộ kinh nầy. Sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, ở trong đời
ác sợ hãi, chúng con sẽ rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nếu như có người chẳng có trí huệ, làm những hành vi thô bạo, mắng chưởi
hoặc dùng đao gậy đánh người, chúng con sẽ tiếp nhận sự ngược đãi của họ,
chúng con tu pháp môn nhẫn nhục sẽ nhẫn nhịn.
Nếu có người mắng bạn, mà bạn chẳng tiếp nhận (chẳng đếm xỉa gì đến họ),
thì sự mắng chưởi đó sẽ trở về người đó. Giống như có người mang quà tặng
đến cho người nọ, song người nọ chẳng tiếp nhận, thì quà tặng đó trở về
người tặng quà, cũng đồng lý ấy. Lại như có người, ngửa mặt lên trời phun
nước miếng, muốn làm dơ trời, cuối cùng nước miếng rơi vào mặt người đó,
tự thọ lấy hậu quả.
Công phu nhẫn nhục của Bồ Tát Di Lặc tu đã đến nhà, có người nhổ nước
miếng lên mặt của Ngài, song Ngài chẳng phản ứng, cũng chẳng dùng tay
lau chùi, để cho nó khô tự nhiên. Nếu ai ai cũng có công phu hàm dưỡng
như vậy, thì trên thế gian chẳng có sự việc tranh giành phát sinh.
Người thông minh đều có sự tu dưỡng, bị người chưởi mắng thì xem như là
họ ca hát, được như thế thì mọi sự đều thành công, do đó có câu :
‘’Nhẫn phiến khắc phong bình lãng tịnh
Thối nhất bộ hải khoát thiên không‘’.
Nghĩa là :
‘’Nhịn một chút gió yên sóng lặng
Lùi một bước biển êm trời xanh‘’.
Như thế thì tiêu dao tự tại biết bao !
Chẳng những bị chưởi mắng phải nhẫn nhịn, mà dù bị giết bằng đao, bị đánh
bằng gậy, cũng phải nhẫn chịu, đó là tác phong của Bồ Tát. Có người nói :
‘’Tôi là Bồ đề tát đỏa‘’. Song, bị người mắng chưởi thì lửa vô minh nổi dậy
cao đến ba trượng, liều mạng sống chết, đó là Bồ Tát gì ?
Tỳ Kheo trong đời ác
Tà trí tâm siểm khúc
Chưa chứng nói đã chứng
Tâm ngã mạn đầy dẫy.
Hoặc có vị Tỳ kheo
Mặc nạp y chỗ vắng
Tự cho hành chân đạo
Khinh khi người nhân gian.
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni ở trong đời ác năm trược, trong tâm của họ có tư
tưởng tà tri tà kiến, xem mọi người chẳng bằng mình, cảm thấy mình giỏi
hơn người, trong mắt chẳng xem ai ra gì. Loại người có tà trí huệ chẳng có
chánh trí huệ nầy, dạy họ giảng kinh thuyết pháp, thì họ giảng chẳng thông
nói chẳng rõ, song đối với việc rượu chè cờ bạc, thì họ chẳng học mà tự
thông.
Tâm tánh của họ siểm khúc. Siểm là siểm nịnh, thấy người có tiền có thế, thì
sinh tâm phan duyên, nói những lời ngọt ngào, khiến cho họ sinh tâm hoan
hỉ. Tại sao ? Ðó là vì tham đồ danh văn lợi dưỡng. Khúc là quanh co, chẳng
nói lời ngay thẳng với người, nói lời giả dối. Ðó là hành vi của kẻ tiểu nhân,
chẳng phải là tác phong của quân tử.
Có những người tu đạo, chẳng đắc đạo mà nói với mọi người rằng mình đã
chứng đạo, chẳng chứng quả mà nói đã chứng quả, đó là chưa được nói đã
được, chưa chứng nói đã chứng. Phạm đại vọng ngữ thì tương lai chắc chắn
phải đọa vào địa ngục cắt lưỡi.
Người phạm mao bệnh cống cao ngã mạn, chẳng xem ai ra gì cả, ngã mạn
đầy dẫy trong tâm, nói mình là Phật, nói mình khai ngộ, tự mình tuyên
truyền quảng cáo khắp nơi. Tại sao ? Vì tâm phan duyên đang tác quái, hy
vọng có người đến cúng dường.
Hoặc có Tỳ Kheo ở nơi A lan nhã (nơi vắng lặng), mặc y phấn tảo mà tu ở
nơi vắng lặng. Tự nói mình đang tu chân đạo : ‘’Ta là Tăng tu khổ hạnh, ta
là cao Tăng hành đạo‘’, càng khinh khi người giảng Kinh Pháp Hoa.
A lan nhã là nơi chẳng có tiếng ồn ào, là nơi người tu khổ hạnh ở, tức cũng
là nơi cách xa thành thị huyên náo, nơi tĩnh tâm tu hành. Ban đêm họ ngồi
thiền dưới gốc cây chẳng ngủ. Y phấn tảo là y vá, cũng là y phục của người
xuất gia mặc. Người xuất gia phải trừ tâm tham, cho nên chẳng mặc y phục
tốt, thứ y phục nầy dùng vải cũ may thành, rất dễ rách nát. Do đó, chỗ nào
rách thì vá chỗ đó, do đó có câu : ‘’Thiên châm vạn tuyến bổ nạp y‘’. Nghĩa
là ‘’Ngàn đường kim vạn sợi tơ vá y rách‘’. Nạp y còn biểu thị năm tuổi tu
đạo. Còn gọi là y phấn tảo, là y lượm ở trong đống rác, dùng nước giặc sạch
rồi may thành y.
Vì tham trước lợi dưỡng
Nói pháp với cư sĩ
Để người đời cung kính
Như lục thông La Hán.
Người đó ôm lòng ác
Thường nhớ việc thế tục
Giả danh A lan nhã
Chuyên nói lỗi của người.
Những Tỳ Kheo ác có tâm tham đồ lợi dưỡng, vì người tại gia nói pháp. Nói
pháp chẳng phải là chân đạo, song làm giả dạng để được người đời cung
kính, giống như cung kính bậc A La Hán đã chúng lục thông.
Tỳ Kheo ác tính thường ôm lòng ác độc, ác ý hủy báng pháp sư giảng nói
Kinh Pháp Hoa, song ông ta luôn luôn nghĩ nhớ đến việc thế tục, làm thế nào
mới có thể thành tựu danh lợi ? Làm thế nào mới có người cúng dường ?
Cho nên phan duyên khắp nơi, hóa duyên các nơi. Họ mượn danh nghĩa giả,
ở chỗ vắng vẻ. Kỳ thật, họ tham đồ danh văn lợi dưỡng mà thôi. Họ tự cho
rằng họ là thanh cao, mà chuyên môn nói lỗi của người thuyết pháp, đó là
hành vi của vi trùng ở trong thân của sư tử.
Tông chỉ của tôi (Hòa Thượng Tuyên Hóa) là :
‘’Dù chết lạnh chẳng van xin
Dù chết đói chẳng cầu xin
Dù nghèo chết chẳng cầu cạnh.
Tùy duyên mà không đổi,
Không thay đổi mà tùy duyên.
Giữ gìn ba tông chỉ của chúng ta
Xả bỏ thân mạng làm Phật sự
Tạo mạng là việc gốc
Nuôi mạng chân chánh là việc Tăng
Gặp việc thì rõ lý
Rõ lý tức là việc
Giữ gìn tổ sư một mạch tâm truyền.’’
Mà nói như thế này
Các vị Tỳ Kheo đó
Vì tham cầu lợi dưỡng
Nói luận nghị ngoại đạo.
Tự làm kinh điển này
Dối gạt người thế gian
Vì cầu danh cầu lợi
Phân biệt nói kinh này.
Người đó nói kinh nầy : ‘’Những vị Tỳ kheo đó, họ vì tham đồ lợi dưỡng,
cho nên vì chúng sinh nói lý luận của ngoại đạo. Họ tự làm bộ kinh Pháp
Hoa nầy, mục đích là lường gạt người thế gian, vì cầu danh lợi, cho nên
phân biệt để diễn nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Ngoại đạo : Tức là người tu hành, cầu pháp bên ngoài tâm. Lúc Ðức Phật
còn tại thế, ở Ấn Ðộ có sáu thứ ngoại đạo, học thuyết của họ không ngoài
nói về đoạn về thường, bác vô nhân quả, tự nhiên thành tựu. Cho nên hình
thành hai chủ nghĩa lớn : Một là phái hưởng thụ, hai là phái khổ hạnh, song
đều chẳng cứu kính.
Thường ở trong đại chúng
Muốn hủy báng chúng ta
Hướng quốc vương đại thần
Bà la môn cư sĩ.
Và chúng Tỳ Kheo khác
Phỉ báng nói ta ác
Người đó kẻ tà kiến
Nói luận nghị ngoại đạo.
Người đó, thường ở trong đại chúng, vì muốn hủy báng chúng con, nên
thường nói với quốc vương và đại thần, thường nói với hàng Bà la môn, cư
sĩ và chúng Tỳ Kheo khác. Nói cái gì ? Nói vị pháp sư giảng nói Kinh Pháp
Hoa là người tà tri tà kiến, chuyên môn giảng nói luận nghị của ngoại đạo,
chẳng phải là Phật pháp chân chánh.
Chúng sinh vào thời mạc pháp, chẳng có mắt lựa chọn pháp, bạn nói với họ
pháp thật, thì họ cho là giả. Nếu bạn nói pháp giả, thì họ cho là pháp thật, đó
tức là điên đảo. Chẳng phân biệt được rõ ràng thật giả, thiện ác, chánh tà,
trắng đen.
Bà la môn là một trong bốn dòng dõi của Ấn Ðộ, thờ phụng trời Phạm
Thiên, tu hạnh thanh tịnh. Khi nhi đồng đến bảy tuổi, thì ở nhà học tập kinh
điển, đến mười lăm tuổi, thì có thể ra ngoài học giáo lý Bà la môn, đi cầu
học các nơi. Bốn mươi tuổi thì trở về nhà kết hôn, sinh con nối dòng,
‘’Truyền tông tiếp đại‘’, năm mươi tuổi thì vào núi tu đạo.
Vì chúng con kính Phật
Phải nhẫn các việc ác
Họ nói lời khinh khi
Các ông đều là Phật.
Lời khinh mạn như thế
Chúng con đều nhẫn nhịn
Trong đời ác kiếp trược
Có nhiều việc kinh hãi.
Chúng con đại chúng vì cung kính Ðức Phật, dù những người ác gây ra đủ
thứ chuyện ác, song chúng con đều phải nhẫn nhịn, chẳng biện luận với họ,
cũng chẳng để ý đến lời nói phá hoại của họ. Những người đó ít xít cho
nhiều, dùng lời nói tâng bốc nói chúng con : ‘’Các ông đều là Phật‘’. Những
lời nói khinh mạn như thế, chúng ta đều phải nhẫn nhịn. Ở trong đời ác năm
trược có nhiều việc đáng sợ hãi, để nhiễu loạn thân tâm người tu đạo, khiến
cho chẳng thanh tịnh, rất dễ mất đạo tâm.
Ác quỷ nhập thân họ
Mắng chưởi hủy nhục con
Chúng con kính tin Phật
Phải mặc giáp nhẫn nhục.
Do vì nói kinh này
Nhẫn các việc khó đó
Con chẳng tiếc thân mạng
Chỉ tiếc đạo vô thượng.
Vào thời đại mạc pháp, ma mạnh pháp yếu. Ma quỷ nhập vào thân người tác
quái. Có người hỏi : ‘’Ác ma sao có thể nhập vào thân người được‘’? Vì tâm
con người bất chánh, thường sinh tà niệm, cho nên dễ làm cho ma quỷ nhập
vào. Quảng đông có câu rằng : ‘’Quỷ trong thân‘’. Quỷ mà đã nhập vào thân
người rồi, thì người đó chẳng còn làm chủ được nữa, chẳng còn tri giác, bị
ma quỷ chi phối. Ác quỷ lợi dụng miệng của họ nói những lời tiên đoán tựa
như đúng, nhưng là sai, người chẳng có trí huệ rất dễ bị lừa.
Trước kia, tôi có gặp một cô gái bị quỷ nhập. Cô ta nói cô ta là Bồ Tát, tôi
nói với cô ta : ‘’Bồ Tát cái gì cũng biết, sao cô chẳng biết gì hết’’? Cô ta
chẳng có lời nào để nói bèn bỏ đi. Bây giờ rất dễ mạo xưng là thánh nhân, đi
khắp nơi tuyên truyền mình là Phật, là Bồ Tát. Kỳ thật, đó là quỷ trong thân
mình, mà mình chẳng biết mà thôi. Những người tà đó, đi khắp nơi vì chúng
sinh nói pháp giảng đạo, giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lầm vào
đường tà.
Quỷ ở trong thân ác Tỳ Kheo, chuyên môn mắng chưởi hủy nhục chúng con,
nói pháp sư giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là ngoại đạo. Chúng con đại
chúng vì cung kính Phật, tín ngưỡng Phật, cho nên thường mặc áo giáp nhẫn
nhục, để bảo hộ huệ mạng của chúng con. Vì hoằng dương Kinh Pháp Hoa,
lưu truyền ở đời, cho nên vui lòng nhẫn nhịn đủ thứ những việc khó nhẫn. Vì
tuyên nói bộ kinh nầy, mà chúng con chẳng thương tiếc thân mạng của
mình, chỉ muốn bảo hộ bộ kinh nầy, thương tiếc đạo vô thượng.
Chúng con đời vị lại
Hộ trì Phật phó chúc
Thế Tôn sẽ tự biết
Tỳ Kheo đời ác trược.
Chẳng biết Phật phương tiện
Tùy nghi mà nói pháp
Miệng ác còn nhăn nhó
Thường thấy đuổi họ ra.
Xa lìa nơi chùa tháp
Những việc ác như thế
Vì nhớ lời Phật dạy
Nên đều phải nhẫn nhịn.
Chúng con đại chúng ở đời vị lai, giữ gìn lời phó chúc của Phật, hộ trì bộ
Kinh Pháp Hoa nầy. Ðức Thế Tôn ! Ngài chắc chắn sẽ biết, Tỳ Kheo ác ở
trong đời ác năm trược chẳng biết pháp môn phương tiện của Phật nói, mới
thuận theo căn cơ của chúng sinh mà nói tất cả các pháp. Họ dùng miệng ác
hủy báng, biểu tình nhăn nhó, cău mày. Nhiều lần đuổi Tỳ Kheo lánh xa lìa
chùa tháp. Những việc ác như thế, thật làm cho con người khó nhẫn nhịn.
Song chúng con thường nhớ lời Phật dạy, cho nên mọi việc ác, chúng con
đều phải nhẫn nhịn, tuyệt đối chẳng nổi sân với Tỳ Kheo ác.
Các xóm làng thành ấp
Nếu có người cầu pháp
Con đều đến chỗ họ
Nói pháp của Phật nói.
Con là sứ của Phật
Trong chúng đều chẳng sợ
Con sẽ khéo nói pháp
Xin Phật hãy yên lòng.
Con ở trước Thế Tôn
Và chư Phật mười phương
Phát thệ nguyện như thế
Phật tự biết tâm con.
Ở trong các xóm làng thành ấp, nếu có người thỉnh cầu Phật pháp, thì con
đều đến chỗ của họ, để vì họ diễn nói pháp của Phật nói, Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa.
Con là sứ giả của Phật, phàm là việc của Phật, con đều đi làm. Ở trong đại
chúng đạo tràng, vì nói Kinh Pháp Hoa nên con chẳng có sợ hãi. Con sẽ
khéo nói pháp, phân biệt tất cả nghĩa lý thật tướng của các pháp. Xin nguyện
Phật hãy yên lòng, đừng lo lắng việc hoằng dương Kinh Pháp Hoa.
Chúng con ở trước đức Thế Tôn, ở trước mười phương chư Phật phát thệ
nguyện như thế, chắc chắn Phật sẽ biết tâm nguyện của con. Tâm nguyện
của con là bảo hộ thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoằng dương Kinh Pháp Hoa, biên
chép ấn tống Kinh Pháp Hoa, cúng dường Kinh Pháp Hoa, đó là đại tâm
nguyện của chúng con đại chúng.
---o0o---
Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
An lạc hạnh tức cũng là Bồ Tát hạnh, thân tâm của Bồ Tát đều ở nơi đạo bồ
đề và thích hành Bồ Tát đạo. Ở trước, Phẩm Pháp Sư, Phẩm Ðề Bà Ðạt Ða
và Phẩm Khuyên Trì đều rất quan trọng, song phẩm nầy còn quan trọng hơn,
làm sao để được an lạc ? Phải ngồi tòa Như Lai, mặc y Như Lai, vào nhà
Như Lai. Tu an lạc hạnh là con đường Bồ Tát phải đi qua.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử bạch Phật rằng : Ðức
Thế Tôn ! Các vị Bồ Tát đó rất khó có được, vì kính thuận lời Phật dạy, mà
phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác hộ trì đọc tụng diễn nói Kinh Pháp Hoa
này.
Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi là tiếng Phạn, dịch là ‘’Diệu đức‘’ hoặc là ‘’Diệu
cát‘’, vì Bồ Tát nầy ra đời, thì có mười điều cát tường. Ngài tu hạnh Bồ Tát
thì : Chẳng nói dối, chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, giữ giới rất cẩn thận.
Lấy gì để chứng mình Ngài giữ giới chẳng trộm cắp ? Một lần nọ, Ngài nói
với các vị Bồ Tát khác rằng : ‘’Từ khi tôi phát tâm tu hành đến nay, tôi đều
giữ giới trộm cắp, cho nên bây giờ chẳng có ai ăn cắp của tôi bất cứ những
gì. Chẳng những chẳng có ai lấy đồ của tôi, mà dù tôi để vật quý giá ở giữa
đường, cũng chẳng ai đến lấy‘’. Người nghe thì không tin, phải đưa ra bằng
chứng thật tế, chứng minh Ngài Văn Thù nói có thật chăng ? Ngài Văn Thù
đem một hạt châu quý giá, để ở giữa ngã tư đường kỳ hạn ba ngày, để xem
thử có ai đến lấy chăng ? Nơi đó kẻ qua người lại tấp nập. Quả nhiên, ba
ngày sau hạt châu vẫn còn nguyên chỗ cũ. Các vị Bồ Tát mới tin Bồ Tát Văn
Thù Sư Lợi, thuở xưa giữ giới trộm cắp thanh tịnh, cho nên đời nay chẳng có
ai ăn cắp đồ của Ngài.
Bồ Tát Văn Thù có đại trí huệ, từ khi Ngài bắt đầu hành Bồ Tát đạo đến nay,
chuyên tu về Bát Nhã, văn tự Bát nhã, quán chiếu Bát nhã, thật tướng Bát
nhã ba thứ Bát nhã, cho nên được đại trí huệ. Thuở xưa, khi Ðức Phật Thích
Ca chưa thành Phật, cũng từng theo pháp sư Diệu Quang học Phật. Pháp sư
Diệu Quang tức cũng là Bồ Tát Văn Thù. Do đó, người tu hành thọ giới rồi
phải giữ gìn giới luật, nếu không giữ giới luật, thì tương lai thành đạo quả
cũng chẳng chân thật.
‘’Pháp Vương tử‘’, Phật là đấng Pháp Vương, là vua của các pháp. Bồ Tát là
con của đấng Pháp Vương, tức là ‘’Pháp Vương tử‘’. Ðại Bồ Tát Văn Thù
nói với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Hiện tại các vị Bồ Tát đại thệ nguyện ở
trước mặt Ngài, rất khó có được. Các vị đó đều kính trọng thuận theo lời của
Phật dạy, mà phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác thực hành điều mà người
khác làm không được, nhẫn những gì người khác nhẫn không được, ở đời
sau hộ trì đọc tụng diễn nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy.’’
Hiện tại chúng ta đang giảng Kinh Pháp Hoa, chắc chắn có vô số Bồ Tát đến
hộ trì đạo tràng, vì thuở xưa các Ngài từng phát thệ nguyện, muốn hộ trì bộ
kinh nầy. Như Ðức Ða Bảo Như Lai từng phát nguyện, phàm nơi nào có
giảng nói Kinh Pháp Hoa, thì Ngài sẽ đến làm chứng minh.
Ðức Thế Tôn ! Ðại Bồ Tát làm thế nào để diễn nói được kinh này ? Ðức
Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi : Nếu đại Bồ Tát ở trong đời ác trược,
muốn nói kinh này, thì phải an trụ vào bốn pháp. Một là an trụ vào nơi thực
hành, và nơi gần gũi của Bồ Tát, thì có thể vì chúng sinh diễn nói kinh này.
Ðức Thế Tôn ! Hết thảy đại Bồ Tát muốn hoằng dương kinh nầy, trong đời
vị lai đầy dẫy những chuyện ác, ai ai cũng tranh giành, người tranh với
người, nhà nầy tranh với nhà kia, nước nầy tranh với nước nọ, thế giới nầy
tranh với thế giới kia, thậm chí tinh cầu tranh với tinh cầu. Cho nên, loài
người muốn di cư lên mặt trăng, người ở mặt trăng lại muốn xuống trái đất.
Như ở trong đời ác nầy, làm sao có thể nói được Kinh Pháp Hoa ? Phật bảo
Bồ Tát Văn Thù rằng : ‘’Nếu có đại Bồ Tát phát tâm hoằng dương kinh nầy,
ở trong đời ác muốn nói Kinh Pháp Hoa nầy, thì phải an trụ vào bốn pháp :
Một là an trụ vào nơi Bồ Tát thực hành, an trụ vào sáu Ba la mật, hoặc mười
Ba la mật (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương
tiện, nguyện, lực, trí, và thân cận cảnh giới của Bồ Tát, thì mới diễn nói
được kinh nầy.
Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát thực hành ? Nếu đại Bồ Tát
trụ ở sức nhẫn nhục, nhu hòa, khéo thuận chẳng thô bạo, tâm cũng chẳng
kinh sợ. Hơn nữa, nơi các pháp vô sở hành, mà quán các pháp như thật
tướng, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt. Ðó gọi là nơi Bồ Tát thực hành.
Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát gần gũi ? Ðại Bồ Tát chẳng gần gũi nhà vua,
thái tử, đại thần, quan lớn.
Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là nơi đại Bồ Tát thực hành ? Nếu Bồ Tát tu hành
pháp môn nhẫn nhục, trụ ở sức nhẫn nhục, hay nhu hòa khéo thuận, chẳng
thô bạo.
Thuở xưa, khi Ðức Phật Thích Ca làm Tiên Nhân nhẫn nhục, thì bị vua Ca
Lợi chặt đứt chân tay, song Ngài chưa từng sinh một niệm sân hận, tức là
thật sự trụ ở sức nhẫn nhục.
Thực hành hạnh nhẫn nhục phải làm đến cảnh giới ‘’Vô nhẫn‘’, nhẫn mà
chẳng chấp trước, làm đến có cũng như không, thật cũng như hư, mới gọi là
thật nhẫn. Có người mắng bạn, nếu bạn chấp trước nhẫn nhịn họ mắng bạn,
nếu bạn chấp trước nhẫn nhịn họ mắng chưởi, thì đó là có sự chấp trước.
Nếu không chấp trước, thì vốn chẳng có tâm niệm bị người mắng chưởi,
hoàn toàn chẳng có việc gì hết, mới gọi là thật nhẫn. Có người hỏi : Tức là
nhẫn mà không nhẫn, sao Phật Thích Ca lại nhớ, Ngài thuở xưa làm tiên
nhân tu hạnh nhẫn nhục, thì bị vua Ca Lợi chặt tứ chi ? Kỳ thật, Phật là nhớ
mà không nhớ.
Người bị người mắng chưởi thì nổi lửa vô minh, lửa vô minh hay thiêu hủy
sạch rừng công đức. Ðại Bồ Tát tu hạnh nhẫn nhục, phải nhu hòa khéo thuận
chẳng thô bạo, đầy đủ định lực chẳng có sự kinh hãi. Ðại Bồ Tát nơi tất cả
các pháp đều chẳng chấp trước, hành mà chẳng hành, hành sở vô sự, vì Ngài
quán các pháp đều không. Một số người nghe tất cả các pháp không, thì
chẳng tu hành. Bồ Tát biết tất cả pháp không mà vào thật tướng, không hành
không phân biệt, ở trên là nơi thực hành của đại Bồ Tát.
Thế nào là nơi gần gũi của đại Bồ Tát ? Ðại Bồ Tát chẳng cầu xin nơi nhà
vua, thậm chí chẳng qua lại với thái tử, đại thần, quan lớn.
Người tu hành chẳng chủ động phan duyên họ, song nếu họ tự động đến
chùa lễ Phật, thì bạn theo như pháp mà nói pháp. Song không thể bày cách
dẫn dụ kẻ quyền quý đến chùa, nếu không thì cũng là phan duyên. Lục Tổ
Huệ Năng nhiều lần được Võ Tắc Thiên thỉnh vào cung cúng dường, song
Ngài đều từ chối. Tứ Tổ Ðạo Tín cũng nhiều lần được vua Ðường Thái Tông
thỉnh vào cung, nhưng Ngài đều cự tuyệt, đủ thấy các Ngài giữ lời dạy bảo
trong Kinh Pháp Hoa, chẳng phan duyên với kẻ quyền quý.
Chẳng gần gũi với các ngoại đạo, phạm chí, ni kiền tử, và viết sách vở thế
tục, đọc ngâm nga sách ngoại đạo, cùng lộ già gia đà, nghịch lộ già gia đà,
cũng chẳng gần gũi những kẻ hung ác, giễu cợt, đánh đập lẫn nhau, và na la
thảy, các thứ kịch biến hiện. Lại chẳng gần gũi hạng chiên đà la, và kẻ nuôi
heo dê gà chó, săn bắn chài lưới, các luật nghi ác. Những người như thế,
hoặc khi họ đến, thì vì họ nói pháp, đừng mong cầu gì cả.
Lại nữa, đừng gần gũi với những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ,
cầu quả vị Thanh Văn, cũng chẳng thăm hỏi. Nếu ở trong phòng, hoặc đi
kinh hành, hoặc ở trong giảng đường, thì không nên ở chung với họ. Nếu họ
đến, thì tùy nghi nói pháp, đừng mong cầu gì cả.
Ðại Bồ Tát tuyệt đối chẳng gần gũi với kẻ ngoại đạo phám chí (người xuất
gia ngoại đạo), ni kiền tử (là một trong chín mươi sáu phái ngoại đạo, dịch là
"ly hệ", nghĩa là sẽ được giải thoát, mà chưa được giải thoát), viết sách vở
thế tục (biên tiểu thuyết, hoặc kịch hài thế tục, khiến cho người sinh tâm
dâm dục), ngâm nga sách ngoại đạo và lộ già gia đà, dịch là "ác luận", luận
dạy người làm ác (như luận thầy phá trò, thường biểu hiện mình có kiến giải
đặc biệt, cao minh hơn học trò), nghịch lộ già gia đà (luận trái nghịch thường
lý, lý luận đệ tử phản thầy). Cũng chẳng gần gũi các kẻ hung ác, giễu cợt
(chẳng xem phim, hoặc kịch đầy dẫy chuyện chém giết), đánh đập nhau, và
na la (đại lực sĩ) .v.v... các thứ kịch biến hiện (biểu diễn ma thuật), lại chẳng
gần gũi hạng chiên đà la (một trong bốn giai cấp củ Ấn Ðộ :
1. Bà la môn.
2. Sát đế lợi.
3. Phệ xá.
4. Chiên đà la.
Quan niệm giai cấp ở Ấn Ðộ rất nặng, chiên đà la là người địa vị thấp hèn.
Cũng chẳng gần gũi kẻ nuôi heo dê gà, và kẻ săn bắn chài lưới, các luật nghi
ác (mặc trang phục kì dị khiến cho người chú ý). Những người như thế, hoặc
họ đến thì vì họ nói pháp, đừng có ý mong cầu, hoặc tâm phan duyên. Lại
chẳng gần gũi bốn chúng tiểu thừa, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ
nữ .v.v., chẳng thăm hỏi họ vì hạnh môn và chí hướng khác nhau, hoặc ở
trong phòng, hoặc đi kinh hành, hoặc ở trong giảng đường, thì đừng ở chung
với họ. Nếu có người đến, thì vì họ nói pháp, chẳng mong cầu gì cả.
Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi ! Đại Bồ Tát đối với người nữ, chẳng sinh ý niệm
dâm dục, mà vì họ nói pháp, cũng đừng thích thấy. Nếu vào nhà người, thì
chẳng nên nói chuyện cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, cũng đừng gần
gũi với năm hạng người bất nam để kết thân giao. Không nên một mình vào
nhà người. Nếu có nhân duyên phải một mình vào, thì phải một lòng niệm
Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, thì không được hở răng cười, chẳng để ngực
hở hang, cho đến vì pháp còn chẳng gần gũi, hà huống là việc khác.
Ðức Phật nói với Bồ Tát Văn Thù : Ðại Bồ Tát đối với người nữ, không nên
sinh ý niệm dâm dục, cũng đừng ưa thích thấy người nữ, vì thân người nữ
bất tịnh. Nếu :
‘’Mắt thấy sắc đẹp tâm chẳng động,
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay‘’
Có được định lực như thế thì miễn bàn. Nếu có nhân duyên đặc biệt đi vào
nhà người, thì cũng đừng nói chuyện với gái nhỏ gái trinh gái hóa ở một nơi.
Cũng chẳng gần gũi với năm hạng người bất nam :
1. Sinh : Tức là sinh ra chẳng có nam căn, đó là quả báo thuở xưa đồng tính
luyến ái, có người tình mà chẳng có nam căn.
2. Kiện : Tức là có nam căn mà bị cắt đi, hoặc bệnh lở lói cho đến thối nát
chẳng còn nam căn.
3. Ðố : Tức là thấy người nam sinh tâm đố kị, không thể nhân đạo, thấy
người nữ sinh tâm đố kị, biến thành người nữ cũng không thể nhân đạo.
4. Biến : Tức là nam chẳng ra nam, mà nữ chẳng ra nữ. Nam với nam phát
sinh đồng tính luyến ái, nữ với nữ phát sinh đồng tính luyến ái, hoặc hành
dâm dục với người nam, hoặc hành dâm dục với người nữ, cho nên bị quả
báo không thể nhân đạo.
5. Bán : Tức là nửa nguyệt nửa nam (nửa nguyệt là nữ). Năm hạng người
nầy vì tư tưởng chẳng chánh đáng, cho nên sáu căn chẳng đủ. Tuy muốn
xuất gia cũng không được thu nhận. Người hành Bồ Tát đạo không nên kết
thân với năm hạng người nói ở trên. Vì tránh sự hiềm nghi người ta thấy,
nên người xuất gia không thể vô cớ một mình đến nhà cư sĩ. Nếu có nhân
duyên đặc biệt đến nhà người ta, thì phải một lòng niệm Phật, như niệm
Nam Mô A Di Ðà Phật, (tốt nhất là hai người cùng đi).
Nếu nói pháp cho người nữ nghe, thì đừng hở răng cười để tránh cho đối
phương sinh tâm dâm dục, hoặc khiến cho mình khởi ý niệm chẳng trong
sạch. Không hở ngực, cho đến vì người thuyết pháp cũng không nên gần gũi,
hà huống là làm việc khác ? Do đó, người tu Bồ Tát đạo phải tự mình kiểm
điểm. Muốn được giới đức tròn sáng, thì thân tâm tơ hào đừng ô nhiễm.
Không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa di nhỏ bé, cũng không nên cùng
thầy. Thường nên ngồi thiền, ở nơi chỗ vắng nên tu nhiếp tâm mình lại.
Văn Thù Sư Lợi ! Đó gọi là chỗ gần gũi ban đầu.
‘’Không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi‘’. Không thể thích thu nhận đệ tử nhỏ
tuổi. Người tu Bồ Tát đạo, không nên tham cầu đệ tử nhỏ tuổi để sai khiến.
Nếu gặp nhân duyên đặc thù, thì mới có thể thu nhận đệ tử nhỏ tuổi. Vì sao
chẳng thu nhận đệ tử nhỏ tuổi ? Vì sợ chúng còn thơ bé chẳng chịu nghe lời.
Song nếu gặp đệ tử nhỏ tuổi biết nghe lời, thì mới có thể nhận làm đệ tử.
Trong số đệ tử của tôi, có mấy đứa cũng rất còn nhỏ, đã mười hai, mười ba
tuổi, song chúng đều nghe lời dạy dỗ.
Lúc tôi ở tại Ðông Bắc bên Trung Quốc, thì tôi nghe nói có một cậu bé tên là
Trịnh Ðức, mới năm tuổi mà hằng ngày lạy cha mẹ. Tôi nghe rồi sinh tâm hổ
thẹn, tôi mười hai tuổi mới hằng ngày lạy cha lạy mẹ. Cậu bé đó, mới năm
tuổi mà hiểu được lý lẽ, hằng ngày đảnh lễ cung kính cha mẹ. Do đó, tôi
muốn tìm cơ hội để gặp cho được cậu bé đó. Ngày nọ, cơ duyên thành thục,
cậu bé ở tại huyện Ngũ Thường, cách nhà tôi khoảng hơn một trăm dặm
đường. Lúc đó, Trịnh Ðức đã mười hai tuổi, do cậu ta chí hiếu với cha mẹ
mà danh đồn xa gần, rất nhiều kẻ ngoại đạo muốn độ làm đệ tử, song Trịnh
Ðức thường nói với ngoại đạo rằng : Cậu ta trước hết phải phụng dưỡng cha
mẹ, cha mẹ là Phật sống trong nhà, cậu ta không thể bỏ gần cầu xa, muốn
làm xong bổn phận mới tu đạo. Ngoại đạo biện luận chẳng qua được cậu ta,
nên không thể được như nguyện.
Ngày nọ, tôi đến nhà cậu ta, cậu ta ở trong cửa sổ nhìn thấy tôi, bèn nói với
mẹ của cậu ta rằng : ‘’Sư phụ của con đến rồi‘’ ! Mẹ của cậu ta kinh ngạc
hỏi : ‘’Sư phụ nào của con đến‘’ ? Cậu ta đáp : ‘’Bây giờ con có sư phụ
rồi.’’ Lúc đó, tôi mang trên lưng một túi vải đi vào cửa trước, cậu ta lập tức
mời tôi vào nhà. Vào trong nhà, tôi và Trịnh Ðức trò chuyện, tôi hỏi cậu ta
vì sao lạy cha mẹ ? Cậu ta nói chẳng biết lấy gì báo đáp ân dưỡng dục của
cha mẹ, chỉ biết lạy cha mẹ, hy vọng cha mẹ vui lòng, để báo đáp phần nào
công ơn của cha mẹ. Tôi hỏi cậu ta sao mới năm tuổi, mà đã hiểu việc hiếu
thuận cha mẹ như thế ? Trịnh Ðức đáp : ‘’Lấy sự hiếu thuận cha mẹ làm việc
vui.’’ Tôi hỏi cha mẹ của cậu ta rằng, đứa con nầy có từng làm cho ông bà
buồn chăng ? Ông bà đáp : ‘’Vợ chồng chúng tôi cũng chẳng có đức hạnh gì,
có thể tổ tiên có đạo đức, cho nên có được con hiếu cháu hiền ! Từ lời nói
đó, có thể thấy họ cũng là người tu dưỡng, và chẳng tự kheo khoang có đức
hạnh, mà được người con hiếu thuận nầy.
Lát sau, tôi đang chuẩn bị đi về, thì Trịnh Ðức đem giầy của tôi đi dấu,
chẳng để tôi đi, muốn giữ tôi lại dùng bữa cơm. Lúc đó, tôi chẳng có giầy
mang, đành yên lặng nhận lời. Ăn cơm xong, tôi hỏi Trịnh Ðức : ‘’Ðáo để sư
phụ phải thuận theo đệ tử, hay là đệ tử thuận theo sư phụ’’ ? Trịnh Ðức đáp :
‘’Ðương nhiên đệ tử phải nghe theo lời của sư phụ‘’ ! Tôi bèn dạy cậu ta :
‘’Sao con chưa được sự đồng ý của thầy, thì đem đôi giầy của thầy đi giấu ?
Mà ép giữ thầy lại ăn cơm ? Nếu con có ý giữ thầy lại dùng cơm, thì nên
cung kính thỉnh mời chứ đừng dùng thủ đoạn cưỡng ép để giữ thầy lại.’’
Trịnh Ðức nghe rồi lập tức quỳ xuống sám hối.
Ðệ tử nhỏ tuổi mà hiểu biết sự lý như Trịnh Ðức, thì có thể thu nhận làm đệ
tử.
‘’Sa di nhỏ bé‘’, gọi là khu ô Sa di. Thời xưa trong chùa làm lúa, có chim
quạ đến ăn lúa thóc, thì sai chú tiểu Sa di trách nhiệm đuổi quạ, cho nên gọi
là khu ô Sa di (chú tiểu Sa di đuổi quạ), tuổi khoảng từ 8 đến 13 tuổi. Sa di
là tiếng Phạn, dịch là "Tức từ", tức là ngưng làm ác, từ là từ bi. Do đó, có
câu :
‘’Ðừng làm các điều ác,
Hãy làm các điều lành.’’
Người có tâm tham thì toàn làm chuyện ác; người có tâm sân thì thường
nóng giận; người có tâm si thì cứ khởi vọng tưởng. Cho nên, chẳng diệt trừ
được tham sân si, thì giới định huệ không thể hiện tiền.
Thọ giới cụ túc rồi, thì gọi là Sa môn, dịch là "Cần tức", tức là siêng tu giới
định huệ, diệt trừ tham sân si. ‘’Giới‘’ đối trị lòng tham, không thể tham mà
mà không biết chán. ‘’Ðịnh‘’ đối trị tâm sân hận. ‘’Huệ‘’ đối trị tâm ngu si.
Nếu phan duyên tức là ngu si, không phan duyên tức là có trí huệ. Tâm
người nào thanh tịnh, thì thân giống như ở tại đạo tràng thuyết pháp của Ðức
Phật, tức là pháp hội Linh Sơn, cho nên nói :
‘’Một thời thanh tịnh, một thời Linh Sơn.
Thời thời thanh tịnh, thời thời Linh Sơn.’’
‘’Cũng đừng ưa thích cùng thầy‘’ : Cũng đừng ưa thích với trẻ con cùng lạy
một thầy. Nếu đồng môn với trẻ con, thì bạn phải chịu trách nhiệm chiếu cứ
như tình huynh đệ, cho nên đừng ưa thích cùng một thầy. Song, sư phụ thu
nhận trẻ con làm đệ tử thì miễn bàn tới.
‘’Thường thích ngồi thiền’’? Ngồi thiền sẽ sinh định, cho nên phải thường
thích ngồi thiền. Tuy nhiên nói ‘’ngồi thiền‘’, đến khi công phu tương ưng,
thì đi đứng nằm ngồi chẳng lìa khỏi ‘’thiền‘’, như hình với bóng, tức có định
lực. Song, phải đừng chấp trước thì sẽ sinh định lực. ‘’Thiền‘’ tức là thiền
na, dịch là "tư duy tu", cũng gọi là tĩnh lự. Ngồi thiền hay sinh định, có định
lực thì trừ được vọng tưởng.
‘’Ở nơi chỗ vắng‘’ : Nếu công phu đến nhà, thì dù ở đâu cũng có thể ngồi
thiền, và đi đứng nằm ngồi cũng chẳng lìa thiền. Như Chứng Đạo Ca của
Ngài Vĩnh Gia có nói rằng :
‘’Ði cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Nói năng động tĩnh thể an nhiên.
Trong mộng thấy rõ có sáu nẻo,
Giác rồi thảy đều không chẳng có gì‘’.
Nếu chưa có định lực thì nên ‘’ở nơi chỗ vắng‘’ ngồi thiền, ở nơi A lan nhã
tức là nơi yên tĩnh.
‘’Tu nhiếp tâm‘’ : Chúng ta suốt ngày vọng tưởng lăn xăn, hôm nay nghĩ
muốn đến Châu Âu, ngày mai nghĩ muốn đi Châu Á, ngày mốt nghĩ muốn đi
đến Châu Mỹ, cho rằng chẳng cần mua vé máy bay, mà tâm đi du lịch thế
giới, là việc hết sức tiện nghi. Kỳ thật, tốn hao xăng dầu trong tự tánh chẳng
ít, tiêu hao trí huệ Bát nhã không ít. Muốn tu nhiếp tâm mình, thì trước hết
phải khắc chế năm dục : Sắc đẹp, âm thanh, hương thơm, vị ngon, ngủ
nhiều. Trừ khử năm cái : Tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo hối, hoài nghi.
Năm cái là gì ? Giải thích sơ lược như sau :
1. Tham dục : Nếu tham sắc, thanh, hương, vị, xúc, hoặc tham : Tài, sắc,
danh, thực, thùy, thì không nên. Nếu tham: Giới, định, huệ, tham ngồi thiền,
tham thành Phật, thì tốt. Tôi thường tham đệ tử hiếu thuận, nếu ai tham cầu
một vị thầy tốt để theo học Phật pháp, thì đó cũng là tham, song tham học thì
được.
2. Sân hận : Tức là nổi giận, ngàn ngày nhặc củi, một đốm lửa thiêu sạch, do
đó có câu :
‘’Một đốm lửa nhỏ,
Đốt sạch rừng công đức‘’.
3. Hôn trầm : Nếu mệt mỏi thì ngủ, song đừng có tham ngủ, ngủ quá nhiều
thì đầu não hôn trầm, sẽ biến thành ngu si.
4. Trạo hối : Sinh hoài nghi, đối với việc gì cũng
sinh hoài nghi, chẳng tin.
Ðiều năm việc : Ăn, ngủ, thân, hơi thở, tâm.
a. Ðiều ăn : Đối với việc ăn uống phải hợp với trung đạo.
b. Ðiều ngủ : Thời gian ngủ phải có hạn, chẳng quá nhiều cũng chẳng quá ít.
c. Ðiều thân : Ðừng khiến cho thân thể quá nhọc, song phải siêng năng làm
việc phục vụ xã hội.
d. Ðiều hơi thở : Hơi thở chẳng nhanh chẳng chậm.
e. Ðiều tâm : Tâm phải đừng thâm trầm đừng cất lên.
Lại nữa, đại Bồ Tát quán tất cả các pháp không, như thật tướng, không điên
đảo, không lay động, không thối lùi, không chuyển, như hư không, chẳng có
tự tánh. Tất cả ngôn ngữ đạo đoạn, không sanh, không xuất ly, không khởi,
không tên, không tướng, thảy đều không, không lượng, không bờ, không
ngại, không chướng, chỉ nhờ nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh ra, cho
nên nói. Thường thích quán pháp tướng như thế, đó gọi là chỗ gần gũi thứ
hai của đại Bồ Tát.
Ðại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, quán tất cả cảnh giới của mười pháp giới
đều không, mười pháp giới chẳng lìa một tâm niệm, một tâm niệm sinh
mười pháp giới. Mười pháp giới bao quát bốn pháp giới của bậc Thánh và
sáu pháp giới của phàm phu :
1. Pháp giới của Phật : Con người tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn thì
thành Phật. Mình khai ngộ minh bạch tất cả các pháp là tự giác, lại độ kẻ
khác giác ngộ là giác tha. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì thành
Phật, do đó ‘’Ba giác tròn, vạn đức đầy‘’, Phật là bậc đại giác ngộ, biết
những gì mà người không biết, ngộ những gì mà người không ngộ. Tất cả
người thế gian và xuất thế gian đều tôn sùng Phật.
2. Pháp giới của Bồ Tát : Bồ Tát phát nguyện tự lợi lợi tha, tự giác giác tha,
song giác hạnh chưa viên mãn, tu hành sáu độ vạn hạnh.
3. Pháp giới của Duyên Giác : Bậc Duyên Giác tu mười hai nhân duyên mà
ngộ đạo.
Mười hai nhân duyên là:
 Vô minh duyên hành,
 Hành duyên thức,
 Thức duyên danh sắc,
 Danh sắc duyên lục nhập,
 Lục nhập duyên xúc,
 Xúc duyên thọ,
 Thọ duyên ái,
 Ái duyên thủ,
 Thủ duyên hữu,
 Hữu duyên sinh,
Sinh duyên lão tử.
Duyên Giác có hai : Khi có Phật ra đời, tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo
gọi là Duyên Giác, khi không có Phật ra đời, tu trong rừng sâu núi thẳm,
mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, cảm ngộ vạn vật vô
thường mà chứng đạo quả, gọi là Ðộc Giác.
Vô minh tức là phiền não, cũng là ái tình giữa nam nữ. Có ái tình thì phát
sinh hạnh bất tịnh, có hành thì sinh hạt giống, tức là thức. Có hạt giống thì
thành thai, gọi là danh sắc. Có thai rồi sau sinh ra mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
tức là lục nhập. Có lục nhập rồi thì sinh cảm giác, tức là xúc. Có cảm giác
tức có thọ dụng, tức là thọ. Có thọ dụng thì sinh tâm thương, tức là ái. Vì ái
dục mà giữ làm của mình có, tức là hữu. Hữu rồi sau đó có sinh ra đời sau,
có sinh thì có tử, đây là cửa lưu chuyển.
Bậc Duyên Giác quán mười hai nhân duyên đạo lý đến chỗ cứu kính, giác
ngộ :
 Vô minh diệt thì hành diệt
 Hành diệt thì thức diệt
 Thức diệt thì danh sắc diệt
 Danh sắc diệt thì lục nhập diệt
 Lục nhập diệt thì xúc diệt
 Xúc diệt thì thọ diệt
 Thọ diệt thì ái diệt
 Ái diệt thì thủ diệt
 Thủ diệt thì hữu diệt
 Hữu diệt thì sinh diệt
 Sinh diệt thì lão tử diệt.
Đây là cửa hoàn diệt. Duyên Giác Bồ Tát là ban đầu phát tâm Bồ Tát.
4. Pháp giới của Thanh Văn : Thanh Văn tu : Khổ, tập, diệt, đạo, bốn đế mà
ngộ đạo. Khổ có ba thứ khổ, tám thứ khổ, vô lượng thứ khổ. Ba thứ khổ là:
Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Khổ khổ là khổ trong sự khổ, tức là nghèo lại
thêm khốn khổ, đã nghèo sơ nghèo xát lại gặp đử thứ hoạn nạn, khổ lại thêm
khổ. Người giàu sang chẳng có khổ khổ, song tránh không khỏi hoại khổ, bị
kẻ ác đốt nhà, hoặc tán gia bại sản, đó là hoại khổ. Từ kẻ nghèo cho đến kẻ
giàu, cũng không tránh khỏi hành khổ. Hành khổ là từ nhỏ lớn lên rồi già
nua, niệm niệm thay đổi, thân thể từ mạnh khoẻ đến lúc suy tàn.
Tám thứ khổ là : Sinh, già, bệnh, chết, khổ về ái biệt ly, khổ về oán tắng hội,
khổ về cầu bất đắc, khổ về năm ấm xí thạnh. Ðời người ở đời đã là việc khổ,
đến già, bệnh, chết lại càng khổ. Ngoài ra còn có vô lượng thứ khổ.
Bậc Thanh Văn tu pháp bốn đế : Thứ nhất là biết khổ, thứ hai là đoạn tập,
tập tức là các thứ phiền não. Thứ ba là mộ diệt, diệt tức là tịch diệt, chứng
được Niết Bàn. Thứ tư là tu đạo. Ðạo thì phải tu. Lần đầu tiên Ðức Phật
chuyển bánh xe pháp nói về pháp Tứ diệu đế, độ năm vị Tỳ Kheo khiến cho
họ khai ngộ như vừa nói ở trên.
Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, là bốn pháp giới của bậc Thánh. Sáu
pháp giới của phàm phu là trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
5. Pháp giới của trời : Trong sáu pháp giới của phàm phu, thì trời là cao
nhất, người không hiểu Phật pháp thì lầm rằng, sinh về trời là cảnh giới
khoái lạc nhất, kỳ thật trời cũng thuộc về pháp giới phàm phu mà thôi, chưa
thể vượt ra khỏi sáu nẻo luân hồi. Tuổi thọ của cõi trời Phi Phi Tưởng Xứ là
tám vạn đại kiếp, hết tuổi thọ vẫn đọa vào nhân gian, nghiệp thiện thành thục
thì sinh vào đường lành, nghiệp ác thành thục thì sinh vào đường ác.
6. Pháp giới A Tu La : A tu la là tiếng Phạn, dịch là "vô đoan chánh", còn
gọi là "vô tửu", nam A tu la thì xấu xí, còn nữ A tu la thì xinh đẹp. Phàm là
A tu la đều thích đấu tranh. Trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, đều có
A tu la, cho nên trời, người, A tu la gọi là ba đường lành. Súc sinh, ngạ quỷ,
địa ngục, là ba đường ác.
7. Pháp giới của loài người : Trong loài người có những tầng lớp khác nhau,
trên hoàng đế công hầu, dưới đến dân nghèo ăn mày, phân ra sự giàu sang,
nghèo cùng, tốt xấu, đều là nhân quả luân hồi chiêu cảm. Do đó, nhân thế
nào thì quả thế ấy, nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai.
8. Pháp giới súc sinh : Vì ngu si, cho nên bị người chi phối.
9. Pháp giới ngạ quỷ : Tâm sân quá nặng, thích nóng giận.
10. Pháp giới địa ngục : Vì tâm tham, tham mà chẳng biết chán.
‘’Mười pháp giới chẳng lìa một tâm niệm‘’. Nếu thường sinh tham, sân, si,
thì sẽ đọa vào ba đường ác. Nếu tu bốn diệu đế thì chuyển sinh Thanh Văn.
Tu mười hai pháp nhân duyên thì chuyển sinh Duyên Giác. Phát bồ đề tâm
tu sáu độ vạn hạnh, thì tương lai sẽ thành Phật. Trong Kinh Hoa Nghiêm có
câu rằng :
‘’Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Hết thảy do tâm tạo‘’.
Tất cả đều do tâm sinh ra, chữ tâm (心) còn có bài kệ rằng :
‘’Ba chấm bày như sao
Uống cong tợ trăng non
Đội lông từ đây ra
Làm Phật cũng do nó‘’.
Do đó, mười pháp giới chẳng lìa một tâm niệm hiện tiền. Tâm ở tại Phật
quả, thì tương lai sẽ thành Phật, tâm hướng về địa ngục thì sẽ đọa địa ngục,
có thể thấy quả báo ứng nghiệm chẳng sai.
Tất cả tướng vốn là vô tướng. Bồ Tát quán mười pháp giới đều không, từ
trong chân không mà sinh diệu hữu. Diệu hữu phi hữu, chẳng ngại chân
không. Chân không bất không, chẳng ngại diệu hữu. Chân không là tên khác
của thật tướng, thật tướng là ngoài chẳng tham, trong vô sở cầu; trong ngoài
đều không, trong chẳng có sáu căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ngoài chẳng
có sáu trần : Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ở giữa chẳng có sáu thức :
Nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức, tỉ thức, thân thức, ý thức. Quán sáu căn, sáu
trần và sáu thức đều không, mười hai xứ và mười tám giới đều không. Vậy
thì tất cả pháp không, phải chăng một cũng chẳng có ? Chẳng phải, mà là
không vào thật tướng, cho nên diệu không thể tả. Ai thường tham thiền đả
tọa, thì sẽ vào thật tướng, đến lúc bên trong chẳng có sáu căn, bên ngoài
chẳng có sáu trần, ở giữa chẳng có sáu thức, mười tám giới đều không.
Chúng sinh luân hồi ở trong sáu nẻo, một khi không cẩn thận mà sai nhân
quả thì dễ đọa lạc, thậm chí đọa thành dòi trong phân, đừng cười chê dòi
sống ở trong phân là dơ dáy. Kỳ thật, ở trong bụng người cũng đầy dẫy phân
cứt, trong túi da bao bọc vô lượng (tế bào) vi khuẩn mà không biết. Cho nên
nói : ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ‘’, trong thân thể chẳng biết bao
nhiêu là vi khuẩn vi sinh vật. Nếu bạn độ chẳng được chúng thì chúng sẽ độ
bạn.
Ðừng tự làm thông minh, cho rằng giết những vi khuẩn đó là phạm giới. Tôi
có một đệ tử, trước khi thọ giới Bồ Tát bèn hỏi tôi : Mỗi ngày anh ta lái xe đi
đường cán chết trùng kiến, có phạm giới không ? Khi lái xe có thể niệm
‘’Nam Mô A Di Ðà Phật‘’, vì trong sự vô ý hồi hướng cho trùng kiến bị cán
chết, vô ý sát sinh thì chẳng phạm giới.
Trước kia, có một anh quân nhân, ban đầu gặp Phật pháp bèn quy y Tam
Bảo, về sau xuất gia hiệu là Hoằng Khuê, thọ giới tại Chùa Nam Hoa, anh ta
rất lanh lợi. Về sau anh ta đến Hương Cảng, vì sống quen ở trong quân đội,
cho nên không chịu được đời sống thanh khổ. Ở tại Hương Cảng Tân Giới
núi Ðạo Phong, có một tổ chức của Cơ Ðốc Giáo, chuyên môn xúi người
xuất gia hoàn tục, và còn cho người xuất gia ăn ở và tiền xài. Nếu người xuất
gia muốn kết hôn thì họ sẽ lo hết. Hoằng Khuê ở núi Ðạo Phong làm nấu
bếp, một tháng lãnh ba trăm đồng. Khi làm bếp thì giết gà giết vịt, ông ta tự
mình an ủi, vừa giết vừa niệm ‘’Nam Mô A Di Ðà Phật‘’, lâu dần anh ta
loạn thần kinh. Về sau dọn về ở tại Ðông Phổ Ðà, nhiều lần muốn gặp tôi mà
chẳng được, nửa năm sau ông ta tự tử mà chết. Bạn nói, anh ta cứu kính là
đại Bồ Tát hóa thân, dùng thân phạm giới hiển bày quả báo, để cảnh tỉnh
người xuất gia đừng sát sinh chăng ? Hay là tâm đạo xuất gia chẳng kiên cố,
mà sinh tâm thối chuyển hoàn tục ? Ngoài tâm học Phật pháp kiên cố ra, còn
phải giữ cho lâu bền, lâu năm nhiều tháng siêng học Phật pháp. Người
không học Phật pháp, đến khi lâm chung thì chẳng tự chủ được, còn người
tinh tấn học Phật pháp, thì tự biết giờ đi, chẳng bệnh mà qua đời.
Tôi có một đệ tử tên là Lý Dụ Siêu, sau khi quy y tôi rồi, phát nguyện hy
vọng sẽ phát tài, phát tài rồi xây dựng bệnh viện Phật giáo. Lại thường nhờ
tôi xem bói tướng mạng cho anh ta. Tôi nhiều lần từ chối, anh ta vẫn không
chừa. Một ngày nọ, anh ta chuẩn bị đi Nữu Ước (New York), trước khi đi lại
đến nhờ tôi coi vận mạng, tôi ân cần nói với anh ta : ‘’Lần nầy anh đi Nữu
Ước không thể nhờ người xuất gia coi vận mạng. Coi tướng bói quẻ là thuộc
về một trong năm thứ tà mạng, người tu đạo chân chánh không thể làm
chuyện đoán xăm bói quẻ, cho nên nếu anh nhờ người xuất gia coi bói, tức là
làm bẩn phẩm hạnh của người xuất gia.’’ Từ đó về sau anh ta không dám
nhờ xem nữa. Anh ta lại hỏi sao phát nguyện cầu tài, mà không được mãn
nguyện ? Tôi nói : ‘’Ði học cũng phải từ tiểu học lên trung học, rồi lên đại
học, trải qua thời gian dài dụng công mới được tốt nghiệp đại học. Vậy có lẽ
nào không nhọc sức mà được chăng ? Phát nguyện phải có tâm lâu dài, tài
bồi phước huệ, đời đời kiếp kiếp tiếp tục nguyện lực của mình, không thể
hữu thủy vô chung.’’
Học tập Phật pháp còn phải có tâm thành, bất cứ ai phá hoại, khêu chọc ly
gián cũng phải bền chí không đổi, dù xả thân mạng cũng phải hộ trì. Thuở
xưa, Ðức Phật bố thí xả bỏ một nghìn thân mạng, vì thương xót chúng sinh,
chẳng tiếc xả thân cứu cọp đói, lóc thịt cho chim ưng.
‘’Như thật tướng‘’, ‘’Không điên đảo‘’ tức là giữ trung đạo. ‘’Như‘’ tức là
chẳng rơi vào không, chẳng rơi vào có, ‘’Không‘’, ‘’Giả‘’, ‘’Trung‘’ ba đế
như một. Không tức giả, giả tức trung; một giả thì tất cả đều giả, một không
thì tất cả đều không, một trung thì tất cả đều trung. Ba đế như một là
‘’Như‘’. ‘’Thật‘’ tức chẳng phải bảy phương tiện. Bảy phương tiện tức bảy
hiền vị của tiểu thừa, vượt qua quả vị của bảy phương tiện, tức là như thật
tướng.
‘’Không điên đảo‘’ :
Phàm phu có bốn thứ đảo :
- Chẳng phải thường mà cho là thường.
- Chẳng phải vui mà cho là vui.
- Chẳng phải ngã mà cho là ngã.
- Chẳng phải tịnh mà cho là tịnh.
‘’Ðiên đảo‘’ của hàng nhị thừa : Thường cho là vô thường, vui cho là khổ,
ngã cho là chẳng phải ngã, tịnh cho là chẳng phải tịnh; ở trên là điên đảo của
hàng nhị thừa. Bồ Tát cũng có điên đảo, chỉ có Phật là bậc đại giác. Cho nên,
chín pháp giới chúng sinh đều sinh tồn ở trong điên đảo, niệm niệm thay đổi,
có lúc cảm thấy tốt, có khi cảm thấy chẳng tốt. Kỳ thật chẳng có phân chia
tốt và không tốt, tất cả đều từ nghĩ điên đảo mà ra. Nếu hay giữ trung đạo thì
chẳng điên đảo. Học tập Phật pháp tức là muốn không điên đảo, chẳng học
tập Phật pháp thì điên đảo. Giữ quy cụ thì chẳng điên đảo, không giữ quy cụ
là điên đảo. Chúng ta nên tự phản tỉnh, nếu làm những chuyện điên đảo thì
hãy mau sửa đổi !
‘’Bất động‘’ là định, chẳng sợ gì; ngồi thiền mà được như như bất động, thì
chẳng bị cảnh giới chuyển. Ngồi thiền thì dù gặp cọp cũng chẳng sinh tâm
sợ sệt, gát việc sinh tử ra ngoài, xem sinh tử nhất như. Có người nói : ‘’Tôi
chẳng sợ chết, cho nên chẳng cần học Phật pháp để dứt sinh tử, mà tôi thì
chẳng sợ sinh tử, cho nên chẳng cần học Phật pháp.’’ Bạn không sợ sinh tử,
chẳng học Phật pháp, sinh tử chẳng dứt, cho nên chẳng bao giờ chấm dứt
được. Khi ngồi thiền chẳng vì sinh tử làm lay động, tức là định lực. Sinh tử
có hai thứ : Phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử là chỉ
cho phàm phu mà nói. Phàm phu mỗi người đều có phần thân và một đoạn
mạng sống, cho nên gọi là phần đoạn. Hàng nhị thừa chứng quả A la hán rồi,
thì chấm dứt phần đoạn sinh tử, song vẫn còn biến dịch sinh tử, tức là vọng
tưởng niệm niệm vi tế khởi lên chưa đoạn sạch. Phần đoạn là sinh tử trong
ba cõi, biến dịch là sinh tử ngoài ba cõi. A la Hán đã dứt phần đoạn sinh tử,
Bồ Tát đã dứt biến dịch sinh tử.
‘’Không thối‘’, trí bi chẳng thối chuyển, thân tâm tịch diệt chẳng có vọng
tưởng, cho nên có đại trí đại huệ. Tức cũng là liễu tính bình đẳng, chẳng sinh
thối lùi.
‘’Không chuyển‘’, chẳng thọ luân hồi sở chuyển, chẳng lưu chuyển ở trong
sinh tử của phàm phu, cũng chẳng ở trong nhị thừa chuyển phàm làm Thánh.
‘’Như hư không‘’, giống như hư không, Kinh Hoa Nghiêm có nói :
‘’Nếu ai muốn biết cảnh giới của Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không‘’.
Chẳng có một vật gì tức là ‘’hư không‘’, hết thảy mọi vật đều bị hư không
bao hàm. ‘’Như hư không’’ là đại biểu cho danh từ, tuy có danh từ, song
chẳng có tự tánh, đừng có đầu lại thêm đầu, đi khắp nơi tìm hư không.
‘’Chẳng có tự tánh‘’, chẳng có tha tánh, chẳng có cộng tánh, chẳng có nhân
tánh cũng chẳng có quả tánh, tất cả đều không, ngôn ngữ đạo đoạn, tâm
hành xứ diệt. Do đó, có câu :
‘’Miệng muốn nói mà lời đã hết
Tâm muốn duyên mà suy nghĩ chẳng cón nữa‘’.
Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Do đó :
‘’Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán chiếu như thế.’’
Nếu hay ly ngôn tứ cú, tuyệt bách phi, thì vào được cảnh không thể nghĩ
bàn, diệu không thể tả. Minh bạch chỗ diệu bên trong, tức là minh bạch Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu chẳng minh bạch chỗ diệu bên trong, thì đối với
chỗ diệu của kinh nầy, tâm không thể lãnh hội được.
Trong số các vị có những người dụng công, có những người cứ khởi vọng
tưởng. Người khởi vọng tưởng thì hãy thu nhiếp thân tâm, chế tâm lại một
chỗ. Mùa đông năm nay sẽ mở khóa thiền một trăm ngày, mỗi ngày phải
ngồi 21 tiếng, chạy hương, ngồi hương, chẳng nghỉ ngơi, ai không sợ khổ thì
hãy đăng ký ghi tên cho sớm.
‘’Không sinh‘’, chẳng sinh vô minh, chẳng sinh trí huệ, tức chẳng sinh vô
minh, cũng chẳng sinh trí huệ, tức là vào cảnh giới : ‘’Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác.’’ Chẳng có vô minh, chẳng có trí huệ, là bổn lai tự tánh đại
quang minh tạng, cho nên chẳng có chỗ phá, cũng chẳng có chỗ năng phá,
đó là lý thể ‘’Không sinh‘’. Trong cảnh giới nầy : Hành, vị, nhân, quả, thảy
đều chẳng sinh.
‘’Không xuất‘’, tức là không nhập, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng ra chẳng
vào. Bổn thể của Như Lai tu là, đạt đến chỗ cứu kính, cho nên chẳng xuất
chẳng nhập, chẳng có vô minh cũng chẳng có trí huệ đáng nói.
‘’Không khởi‘’, chứng được lý thể như thế, thì khiến cho tất cả phương tiện
quyền pháp đều vắng lặng.
‘’Không tên‘’, chẳng có một tên gọi để đại biểu đạo lý nầy. Từ không điên
đảo, đến không khởi, chẳng có một cái tên nào để gọi, đó là tánh không.
‘’Không tướng‘’, chẳng có bất cứ tướng nào, có thể làm cho nó biểu hiện ra.
Từ điên đảo đến chẳng khởi, chẳng có bất cứ hình tướng nào có thể hình
dung, đó là tướng không.
‘’Thảy đều chẳng có‘’, quán thể khen ngợi trung đạo, chẳng rơi vào không,
chẳng rơi vào có, chẳng có một vật.
‘’Vô lượng‘’, tức là pháp vô số lượng. Pháp có số lượng như là năm ấm :
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; sáu căn, sáu trần, hợp lại gọi là mười hai nhập
(còn gọi là mười hai xứ), thêm vào sáu thức là mười tám giới. Ở trên đây
đều là pháp có số mục. Quán trung đạo là vô số lượng, tức là toàn số mục, là
không thiếu không thừa.
‘’Vô biên‘’, không bờ không bến. Tất cả các pháp trong tiểu thừa đều có
nhất định, cho nên có biên tế. Chẳng có pháp nhất định mới là vô bờ vô bến.
‘’Vô ngại‘’, trung đạo quán trí vào khắp tất cả các pháp, mà chẳng có
chướng ngại.
‘’Không chướng‘’, chẳng có một pháp nào, có thể che đậy chướng ngại
trung đạo quán trí.
‘’Quán tất cả pháp‘’ đến ‘’không chướng‘’, đoạn văn gồm mười chín câu,
‘’quán tất cả pháp‘’ là nêu lên tổng quát, mười tám câu sau, là phân biệt giải
thích thêm. Ðạo lý bên trong là vô cùng vô tận, giảng kinh chỉ là lược thuật
đại khái mà thôi. ‘’Quán tất cả pháp không‘’, mười tám câu kinh văn sau, có
thể y chiếu mười tám (cái) không của Kinh Ðại Bát Nhã để giải thích; lại có
thể dùng tất cả pháp để giải thích. Tất cả pháp như thật tướng, tất cả pháp
không điên đảo, tất cả pháp bất động, tất cả pháp không thối lùi, tất cả pháp
không chuyển, tất cả pháp như hư không, tất cả pháp vô sở hữu, tất cả pháp
ngữ ngôn đạo đoạn, tất cả pháp không sinh, tất cả pháp không xuất, tất cả
pháp không khởi, tất cả pháp không tên, tất cả pháp không tướng, tất cả pháp
thật vô sở hữu, tất cả pháp vô lượng, tất cả pháp vô biên, tất cả pháp không
ngại, tất cả pháp không chướng.
Dùng mười tám (cái) không để giải thích : Như thật tướng là không thứ nhất,
không điên đảo là nội không. Nội không (bên trong) không có sáu nhập :
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đều không, cho đến vô ngã. Không có ngã chấp
là bất động. Bất động là ngoại không; ngoại không (bên ngoài) chẳng có sáu
trần, không bị sáu trần làm giao động. Không thối lùi là nội ngoại không.
Chẳng thối chuyển làm phàm phu, chẳng thối chuyển làm hàng nhị thừa.
‘’Không chuyển‘’ là không không, không hay phá tất cả pháp, tức chẳng có
ngã chấp (chấp cái ta), chẳng có pháp chấp, tức là pháp không, quét tất cả
pháp, lìa tất cả tướng, cho nên không chuyển.
‘’Như hư không‘’, trong Kinh Bát Nhã chuyên nói về lý không. Ngài Tu Bồ
Ðề khéo nói về không, trong hàng đệ tử của Ðức Phật, Ngài là bậc nhất về
giải không, cho nên Ngài tên là ‘’Không sinh‘’. Tuy tên là không sinh, song
cũng chẳng không sinh, sao lại nói là chẳng không sinh ? Có Tu Bồ Ðề rồi,
cho nên nói không sinh lại chẳng không sinh. Tu Bồ Ðề là tiếng Phạn, dịch
là "Không sinh", vì sao được tên như vậy ? Ðó là vì, khi Ngài sinh ra, thì
kho của báu trong nhà vô duyên vô cớ, đột nhiên biến thành không (biến mất
hết), cho nên cha mẹ của Ngài đặc tên cho Ngài là Không Sinh. Cha mẹ của
Ngài thấy kho tàng châu báu trong nhà vô cớ mất đi, bèn đi bói quẻ, thì nói
rằng là điềm cát tường, nhà sinh được quý tử, cho nên Ngài Tu Bồ Ðề còn
có tên là Thiện Cát. Bảy ngày sau, kho báu trong nhà lại hiện ra như cũ, lại
được tên là Thiện Hiện. Tại sao ngày Ngài Tu Bồ Ðề ra đời thì của báu trong
nhà đều không (biến mất hết) ? Vì Ngài đời đời kiếp kiếp nghiên cứu về lý
không, cho nên khi Ngài ra đời, là biểu hiện Bát Nhã không. ‘’Như hư
không‘’ là thái không. ‘’Vô sở hửu tánh‘’ tức là tất kính không, có bài kệ
rằng :
‘’Như Lai thanh lương nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm thủy tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung‘’.
Nghĩa là:
Như Lai như mặt trăng mát mẻ
Thường lơ lửng trên bầu trời
Tâm nước chúng sinh tịnh
Ảnh bồ đề hiện ra.
Các pháp bổn thể chẳng thiếu chẳng dư, cho nên gọi là tất kính không. Nhờ
tất kính không cho nên ‘’chẳng có tự tánh‘’ vậy.
‘’Tất cả ngữ ngôn đạo đoạn‘’, tất cả đều không, chẳng có ngôn ngữ để luận
bàn.
‘’Không sinh‘’ là hữu vi không, pháp hữu vi do nhân duyên hòa hợp mà
sinh, không hòa hợp thì không sinh, cho nên gọi là hữu vi không.
‘’Không xuất‘’ là vô vi không, ‘’vô vi vô khởi diệt, chẳng thật như không
hoa‘’, vô vi tức là xuất ly, xuất ly tất cả pháp, xuất ly đã không, cho nên
‘’không xuất‘’.
‘’Không khởi‘’ là vô thủy không, trong Kinh Ðại Bát Nhã có đề cập đến vô
thủy không, vì ‘’khai thủy‘’ bất khả đắc, cho nên gọi là vô thủy không.
‘’Không tên‘’ là tánh không. ‘’Không tướng‘’ là tướng không. Không tên
không tướng, cũng có thể giải thích là thật vô sở hữu (chẳng có gì cả).
‘’Thật vô sở hữu‘’ là chẳng thể được không.
‘’Vô lượng‘’ là có pháp không, có lượng tức có pháp, có lượng không tức có
pháp không.
‘’Vô biên‘’ là chẳng có pháp không, pháp là biên, chẳng có pháp tức vô
biên.
‘’Không ngại‘’ là hữu pháp vô pháp không, hữu pháp không không, đều rõ
bất khả đắc, cho nên là vô ngại.
‘’Không chướng‘’, tức giáo không, phương ngại giá chướng đều bất khả đắc,
cho nên không chướng.
Ở trên là mười tám (cái) không, Phật thường tu mười tám (cái) không nầy.
Trong Kinh Pháp Hoa có đề cập đến mười tám câu, mới y chiếu mười tám
câu nầy mà nói. Ở trên nói về ‘’Tất cả pháp không‘’ là tổng tướng, ‘’Như
thật tướng‘’ đến ‘’không chướng‘’ mười tám câu là biệt tướng, tất cả tướng
nhờ nhân duyên có, từ điên đảo sinh, cho nên thường thích quán các thứ
pháp tướng ở trên, xem tất cả đều không. Ðây là nơi gần gũi thứ hai của đại
Bồ Tát.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Nếu có Bồ Tát
Ở đời ác sau
Tâm chẳng sợ hãi
Muốn nói kinh này.
Nên vào hành xứ
Và thân cận xứ.
Lúc đó, Phật muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói ra bài kệ : Nếu có Bồ Tát
phát tâm đại bồ đề, ở trong đời ác tương lai chẳng có tâm sợ hãi, muốn nói
Kinh Pháp Hoa, thì nên vào nơi an lạc sở hành của thân, và nơi thân cận.
Thường lìa quốc vương
Và các vương tử.
Ðại thần quan lớn
Kẻ ác chế giễu
Và chiên đà la
Ngoại đạo phạm chí.
Cũng chẳng gần gũi
Kẻ tăng thượng mạn
Tham trước tiểu thừa
Người học tam tạng.
Tỳ Kheo phá giới
Xưng là La Hán
Và Tỳ Kheo ni
Kẻ thích giỡn cười.
Chấp sâu năm dục
Cầu được diệt độ
Các cư sĩ nữ
Ðều chớ gần gũi.
Người tu hành tu Bồ Tát đạo, nên xa lìa quốc vương, vương tử, đại thần,
quan lớn, kẻ hung ác chế giễu, kẻ đồ tể heo bò và tất cả người tu ngoại đạo
và Bà la môn. Cũng đừng gần gũi với kẻ tăng thượng mạn, tham trước tiểu
thừa chẳng phát tâm đại thừa, và học giả tu tam tạng, Tỳ Kheo chẳng giữ
giới luật, hoặc mạo xưng là A la hán. Cũng đừng gần gũi Tỳ Kheo phá giới,
kẻ thích đùa giỡn nói cười, vì họ đều chấp sâu vào sắc, thanh, hương, vị,
xúc, hoặc tài, sắc, danh, thực, thùy, năm dục. Cầu hiện đời được diệt độ,
hàng cư sĩ nữ cũng chớ gần gũi.
Nếu những người đó
Dùng tâm cầu đạo
Ðến chỗ Bồ Tát
Vì nghe Phật đạo.
Bồ Tát bèn dùng
Tâm không sợ hãi
Chẳng mong cầu gì
Vì họ nói pháp.
Nếu những người đó, dùng tâm cầu đạo đến chỗ Bồ Tát tu đạo, muốn cầu
Phật pháp. Bồ Tát nầy bèn dùng tâm không sợ hãi, chẳng ôm lòng mong cầu
gì hết, chẳng tham xí đồ cúng dường mà vì họ nói pháp.
Gái góa gái trinh
Và người bất nam
Ðều chớ gần gũi
Ðể kết thân giao.
Cũng đừng gần gũi
Ðồ tể hàng thịt
Thợ săn chài lưới
Vì lợi giết hại
Bán thịt tự sống
Hoặc buôn gái đẹp
Những người như thế
Chớ nên gần gũi.
‘’Gái góa‘’, tức là đàn bà đã mất chồng, ‘’gái trinh‘’, là gái chưa lấy chồng.
‘’Bất nam‘’ là sinh, kiện, kị, biến, bán, năm loại bất nam. Những người như
thế, đều chớ nên gần gũi kết thân với họ. Cũng đừng gần gũi người đồ tể giết
heo bò và kẻ bán thịt, thợ săn, chài lưới, vì kiếm lợi mà giết hại chúng sinh,
người mua bán các loại thịt để sống, hoặc người mưu sinh buôn gái đẹp.
Những người như thế đều chớ nên gần gũi.
Hung ác đánh nhau
Ðủ thứ đùa giỡn
Các dâm nữ thảy
Ðều chớ gần gũi.
Ðừng ở chỗ vắng
Vì nữ nói pháp
Nếu khi nói pháp
Không được giỡn cười.
Vào xóm khất thực
Dắt một Tỳ Kheo
Nếu không Tỳ Kheo
Một lòng niệm Phật.
Ðó tức gọi là
Hành xứ cận xứ
Dùng hai nơi này
An vui nói pháp.
‘’Hung ác đánh đập‘’, tức là người học tập võ thuật. Ðủ thứ sự đùa giỡn và
người mua bán sắc đẹp, đều chớ gần gũi. Chớ ở nơi đơn độc vắng vẻ vì
người nữ nói pháp. Nếu muốn nói pháp, thì không được cười giỡn. Vào
trong xóm khất thực, phải dắt theo một thầy Tỳ Kheo cùng đi. Nếu không có
Tỳ Kheo cùng đi, thì hãy đoan nhiên cung kính một lòng niệm Phật, như
‘’Nam Mô A Di Ðà Phật‘’ hoặc ‘’Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật‘’.
Ở trên là nơi thực hành và nơi gần gũi của người tu hành Bồ Tát đạo, nhờ
hai nơi nầy mà an vui, vì đại chúng nói pháp.
Lại nữa chẳng tu
Pháp thượng trung hạ
Hữu vi vô vi
Pháp thật chẳng thật.
Cũng chẳng phân biệt
Người nam người nữ
Chẳng đắc các pháp
Chẳng biết chẳng thấy.
Ðó tức gọi là
Chỗ Bồ Tát tu
Tất cả các pháp
Hết thảy đều không.
Chẳng có thường trụ
Cũng chẳng khởi diệt
Ðó gọi bậc trí
Chỗ nên gần gũi.
Ðiên đảo phân biệt
Các pháp có không
Là thật chẳng thật
Là sinh chẳng sinh.
Ở nơi chỗ vắng
Tu nhiếp tâm mình
An trụ chẳng động
Như núi Tu Di.
Quán tất cả pháp
Hết thảy đều không
Giống như hư không
Nên chẳng kiên cố.
Không sinh không xuất
Không động không lùi
Thường trụ một tướng
Ðó gọi cận xứ.
Người tu hành Bồ Tát đạo, chẳng tu hành pháp thượng trung hạ (pháp
thượng là Bồ Tát thừa, trung pháp là Duyên Giác thừa, hạ pháp là Thanh
Văn thừa), pháp hữu vi và pháp vô vi, pháp thật, pháp chẳng thật, đều không
thể tu hành, cũng chẳng phân biệt là nam hay nữ. Nam tức huệ, nữ tức là
định. ‘’Ðịnh‘’ ‘’huệ‘’ như một, cho nên đừng có phân biệt. Vì vô trí cũng vô
đắc, cho nên ‘’chẳng đắc các pháp‘’, càng ‘’không biết không thấy‘’ tất cả
các pháp, đó gọi là chỗ thực hành của Bồ Tát. Tất cả các pháp, hết thảy đều
không, chẳng có thường trụ, tức không thường trụ, tức chẳng chấp trước,
không chấp trước thì được giải thoát. Quán tất cả các pháp không sinh không
diệt, ‘’Ðó gọi bậc trí‘’, chỗ nên gần gũi.
Ðừng điên đảo, thêm vào sự phân biệt có không của các pháp, đây là pháp
thật, kia là pháp giả, đây là có sinh, kia là chẳng sinh. Nên ở chỗ vắng vẻ tu
nhiếp tâm mình, an trụ bất động, đứng vững bất động như núi Tu Di. Yên
lặng quán tất cả các pháp đều chẳng có, giống như hư không, chẳng có tự
thể, cho nên chẳng kiên cố. ‘’Không sinh không xuất‘’, ‘’không động không
lùi‘’, ‘’thường trụ một tướng‘’, thường trụ ở tướng chẳng có chẳng không,
đó gọi là chỗ tu hành của Bồ Tát.
Nếu có Tỳ Kheo
Sau ta diệt độ
Vào hành xứ này
Khi nói kinh này.
Chẳng có sợ hãi
Bồ Tát có khi
Vào nơi yên tĩnh
Nhớ nghĩ chân chánh.
Theo nghĩa quán pháp
Từ thiền định dậy
Vì các quốc vương
Vương tử thần dân.
Bà la môn thảy
Khai thị diễn nói
Kinh Pháp Hoa này
Trong tâm an ổn.
Chẳng có sợ hãi
Văn Thù Sư Lợi !
Ðó gọi Bồ Tát
An trụ sơ pháp.
Hay ở đời sau
Nói Kinh Pháp Hoa.
Nếu có Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, vào chỗ tu hành của Bồ Tát như thế, và
chỗ gần gũi của Bồ Tát, khi diễn nói Kinh Pháp Hoa thì chẳng sợ hãi, cũng
chẳng mong cầu gì cả, ‘’Ðến chỗ vô cầu thì chẳng lo‘’. Có khi Bồ Tát vào
chỗ vắng vẻ, nghĩ nhớ đạo lý Phật pháp chân chánh. Trước khi giảng kinh,
ngồi yên một tiếng đồng hồ, để cho lắng đọng vọng tưởng tạp loạn, ở trong
sự tĩnh lự ngộ ra đạo lý để giảng kinh thuyết pháp. Sau khi xuất định thì vì
các quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, hoặc Bà la môn thảy, khai thị
diễn nói diệu lý vô thượng trong Kinh Pháp Hoa, trong tâm bình ổn an lạc,
chẳng có sợ hãi.
Văn Thù Sư Lợi ! Ông nên biết, Bồ Tát nầy an trụ vào pháp môn sơ bộ, tu
hành như thế thì tương lai vào thời mạc pháp, sẽ có thể diễn nói Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa.
Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi ! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạc pháp,
muốn nói kinh này, thì nên trụ vào an lạc hạnh. Nếu miệng diễn nói, hoặc
đọc tụng kinh này, thì đừng nên nói lỗi của người, và lỗi của kinh điển, cũng
đừng khinh mạn các pháp sư khác, đừng nói tốt xấu thị phi của kẻ khác, đối
với hàng Thanh Văn cũng đừng gọi tên của họ, nói lỗi lầm của họ, cũng
đừng gọi tên khen ngợi tốt, cũng đừng sinh tâm oán hận, vì khéo tu tâm an
lạc như thế. Các người đến nghe pháp chẳng nghịch ý của họ. Nếu họ có vấn
nạn, thì đừng dùng pháp tiểu thừa mà đáp, chỉ dùng pháp đại thừa để giải
thích, khiến cho họ đắc được Nhất thiết chủng trí.
Ðức Phật lại gọi : Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ! Sau khi Như Lai diệt độ, ở đời
mạc pháp muốn nói kinh nầy, thì nên trụ vào an lạc hạnh, nếu miệng tuyên
nói, hoặc đọc tụng kinh nầy, thì đừng nói lỗi lầm của kẻ khác, hoặc lỗi lầm
của kinh điển, cũng đừng khinh mạn kinh điển, hoặc pháp sư khác, như đối
với pháp của pháp sư nói khởi tâm phân biệt, đây như thế nầy, kia như thế
nọ, cũng đừng nói thị phi về kẻ khác. Ðối với hàng Thanh Văn cũng đừng
gọi thẳng tên của họ. Người Mỹ chẳng có phân biệt lớn nhỏ tôn ti, con mà
cứ gọi thẳng tên của cha, đó là cử chỉ chẳng cung kính. Người tại gia không
nên gọi thẳng pháp danh của người xuất gia, gọi pháp hiệu thì được. Như
trong Vạn Phật Thành, pháp danh của người xuất gia là Quả ...., pháp hiệu là
Hằng ...., người tại gia có thể gọi pháp hiệu, như thầy Hằng..... Ðồi với
người xuất gia còn chưa có thể gọi thẳng tên, hà huống đối với sư phụ càng
không nên gọi thẳng tên của thầy. Nếu đệ tử gọi thẳng tôi là Ðộ Luân pháp
sư, hoặc Tuyên Hóa pháp sư, thì đó là cử chỉ bất kính. Nếu như gọi thẳng là
Ðộ Luân, hoặc Tuyên Hóa, thì là hành vi khi thầy diệt tổ. Giữa người xuất
gia với người xuất gia, cũng không thể gọi thẳng pháp danh họ, có thể gọi
pháp hiệu với nhau, chỉ có sư phụ được gọi pháp danh của đệ tử.
Ðối với pháp sư tiểu thừa, đừng gọi tên nói lỗi của họ, cũng đừng khen ngợi
họ. Nếu pháp sư chân chánh có đức hạnh, thì khen ngợi cũng chẳng sao, chỉ
đừng gọi tên của họ. Lại đừng sinh tâm oán hận hiềm khích, nếu như bạn
chẳng có các thứ mao bệnh ở trên, thì trong tâm chẳng có tham sân si, thì tự
nhiên sẽ được an lạc. Ðối với tất cả người đến nghe pháp, chẳng nghịch ý
của họ mà quán căn cơ thí giáo. Nếu họ có vấn nạn thì chớ dùng pháp tiểu
thừa để giải nói, khiến cho họ đắc được Nhất thiết chủng trí.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Bồ Tát thường thích
An ổn nói pháp
Ở chỗ thanh tịnh
Mà thí giường tòa.
Dùng dầu thoa thân
Tắm rửa bụi bặm
Mặc y mới sạch
Trong ngoài đều sạch.
Ngồi yên pháp tòa
Tùy hỏi mà nói
Nếu có Tỳ Kheo
Và Tỳ Kheo ni.
Các cư sĩ nam
Và cư sĩ nữ
Quốc vương vương tử
Quần thần sĩ dân.
Dùng nghĩa vi diệu
Vui vẻ mà nói
Nếu có vấn nạn
Theo nghĩa mà đáp.
Nhân duyên ví dụ
Phân biệt diễn nói
Nhờ phương tiện đó
Khiến họ phát tâm.
Dần dần tăng ích
Vào trong Phật đạo
Trừ tâm lười biếng
Và tưởng giải đãi.
Lìa các ưu não
Từ tâm nói pháp.
Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa ở trên vừa nói, bèn dùng kệ để nói.
Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, thường muốn khiến cho chúng sinh an ổn đạo và an
ổn quả, mà vì họ nói pháp, tức là vào nhà Như Lai. Ở nơi thanh tịnh thì
giường tòa tức là tòa Như Lai. Dùng dầu thơm thoa thân, tức là mặc y Như
Lai. Rửa sạch tất cả bụi bặm, ‘’mặc y mới sạch‘’, tức là mặc y Như Lai,
trong ngoài đều thanh tịnh, bên trong chẳng có vọng tưởng, bên ngoài chẳng
có bụi bặm. Ngồi yên trên tòa Như Lai, tùy theo sự vấn nạn mà nói pháp.
Nếu gặp Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, vương tử,
đại thần và nhân dân, nên dùng nghĩa lý không thể nghĩ bàn, vui vẻ mà vì họ
nói pháp. Nếu có sự vấn nạn thì tùy nghĩa lý đại thừa để trả lời, dùng các thứ
nhân duyên và ví dụ để phân biệt diễn nói. Dùng pháp phương tiện khiến
cho họ phát tâm bồ đề và ngày càng tăng ích, thành tựu Phật đạo. Trừ khử đi
tâm lười biến, và mọi tư tưởng giải đãi, lìa tất cả ưu sầu phiền não, tâm từ bi
vì chúng sinh nói pháp.
Ngày đêm thường nói
Đạo lý vô thượng.
Dùng các nhân duyên
Vô lượng ví dụ
Khai thị chúng sinh
Khiến cho hoan hỉ.
Y phục ngọa cụ
Ẩm thực thuốc thang
Hết thảy các thứ
Chẳng mong cầu gì.
Chỉ một lòng nhớ
Nhân duyên nói pháp
Nguyện thành Phật đạo
Khiến họ cũng thế.
Đó là lợi lớn
An vui cúng dường.
Ngày đêm sáu thời vì chúng sinh nói pháp, dùng tâm từ bi giáo hóa chúng
sinh, diễn nói đạo lý vô thượng trong Phật giáo, chỉ sợ chúng sinh chẳng
hiểu diệu lý, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, vô lượng ví dụ để khai thị,
khiến cho đại chúng đều hoan hỉ. Ðối với y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thuốc
men, các thứ vật chất, chẳng mong cầu gì hết, chỉ một lòng nhớ vì chúng
sinh tùy căn cơ nói pháp, nguyện thành Phật đạo, cũng khiến cho chúng sinh
thành tựu Phật đạo. Nghĩ như thế mới là lợi lớn cho tất cả chúng sinh, cúng
dường an lạc cho chúng sinh.
Sau ta diệt độ
Nếu có Tỳ Kheo.
Thường hay diễn nói
Kinh Pháp Hoa này
Tâm chẳng sân hận
Các não chướng ngại.
Cũng chẳng sầu lo
Và người chưởi mắng
Lại chẳng sợ hãi
Thêm đao gậy thảy.
Cũng chẳng đuổi ra
Vì nhờ nhẫn nhục
Bậc trí như thế
Khéo tu tâm mình.
Thường trụ an lạc
Như ta nói trên
Công đức người đó
Ngàn vạn ức kiếp.
Toán số ví dụ
Nói chẳng hết được.
Sau khi Ðức Phật diệt độ, nếu có Tỳ kheo tức là người xuất gia hành Bồ Tát
đạo, thường hay diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Diễn nói pháp của Kinh
Pháp Hoa, ‘’Tâm chẳng sân hận đố kị‘’, học Phật pháp tức là vì tìm kiếm
chân tâm. Tâm chẳng có đố kị sân hận, tức là lìa các phiền não, cũng chẳng
chướng ngại. Chẳng những mình chẳng có chướng ngại, mà đối với người
khác cũng chẳng có chướng ngại. Nếu bạn trong ngoài đều chẳng có chướng
ngại, thì dù người khác chướng ngại bạn, thì chướng ngại đó cũng chẳng làm
gì được. Cũng chẳng có ‘’kẻ mắng chưởi‘’, vì sao có người mắng chưởi bạn
? Vì bạn thường trách mắng kẻ khác, cho nên kẻ khác cũng mắng chưởi bạn.
Bạn không trách mắng kẻ khác, thì chẳng có ai trách mắng bạn. ‘’Lại chẳng
sợ hãi, thường ung dung, dù ép độc dược vẫn an nhàn‘’. Nhị tổ Thần Quang,
Ngài bị người ta chém đầu, song Ngài vẫn an nhiên bất động, lúc đó nước
(máu) trắng chảy ra, hoàng đế mới biết là giết lầm bậc Thánh nhân, bèn xây
dựng tháp thờ Ngài để kỷ niệm, để tỏ lòng ăn năng hối cải.
‘’Cũng chẳng đuổi ra‘’: Mọi người cùng tụ lại một chỗ để tu hành, nên dung
hợp lại cùng một chỗ, bằng không thì phân tán, cuối cùng sẽ đuổi đi. Nếu
cùng nhau nhẫn nhục hòa hợp vui vẻ, thì chẳng chướng ngại kẻ khác, dù
người khác nổi giận gây sự, bạn cũng chẳng chấp trước, nhẫn được nhường
nhịn được, ‘’cũng chẳng đuổi ra, vì nhờ nhẫn nhục‘’.
‘’Bậc trí như thế‘’ : Bậc có trí huệ sẽ không chấp trước việc nhỏ mà nóng
giận. Họ ‘’khéo tu tâm mình‘’: Trụ vào hạnh an lạc, như đạo lý ở trên đã nói
tu hành Bồ Tát đạo, công đức của người đó, trải qua ‘’ngàn vạn ức kiếp, toán
số ví dụ, nói không kết được.’’
Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi ! Đại Bồ Tát, ở đời mạc pháp sau này, khi pháp
muốn diệt, thì người thọ trì đọc tụng kinh này, đừng ôm lòng đố kị siểm
nịnh, cũng đừng khinh khi mắng chưởi người học Phật đạo, đừng nói thị phi.
Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, người cầu Thanh Văn, người
cầu Bích Chi Phật, người cầu Bồ Tát đạo, đừng làm cho họ sinh phiền não,
khiến cho họ nghi ngờ, nói với họ rằng : Các ngươi cách đạo rất xa, không
khi nào đắc được Nhất thiết chủng trí. Vì sao ? Vì các ngươi là những người
phóng dật, tu đạo thì giải đãi, lại cũng không nên hí luận các pháp, có sự
tranh luận. Nên khởi tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh, với các đức Như
Lai khởi nghĩ như Ðại sư, với các vị đại Bồ Tát trong mười phương, luôn
thành tâm cung kính lễ lạy.
Lại nữa, Bồ Tát Văn Thù và hết thảy đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, vào
thời mạc pháp khi pháp muốn đoạn diệt, thọ mạng của con người đến lúc hai
mươi tuổi, hoặc ba mươi tuổi, thì người hay thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa,
tâm đừng đố kị siểm nịnh, đừng hiềm nghèo trọng giàu, cũng đừng tùy ý
trách mắng người tu Phật đạo, đừng nói thị phi kẻ khác. Nếu Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, người cầu Thanh Văn, người cầu Bích Chi
Phật, người cầu Bồ Tát, không thể đắc tội với họ, khiến cho họ sinh phiền
não, cho đến sinh tâm nghi ngờ và thối chuyển. Ví như nói với họ rằng :
‘’Các người cách đạo rất xa, chẳng khi nào đắc được Nhất thiết chủng trí
(Nhất thiết chủng trí là tục đế, chủng trí là chân đế, chẳng tục chẳng chân là
trung đế). Vì sao ? Vì ngươi là người phóng dật, tu đạo thì giải đãi. Không
thể khinh mạn đối với người mà nói ra lời như thế, lại không thể ở trong
Phật pháp sinh hí luận, có sự tranh luận. Nên khởi tâm thương xót đối với
chúng sinh, với tất cả chư Phật khởi nghĩ như cha lành, với các vị Bồ Tát
khởi nghĩ như thầy tốt, với mười phương các vị Bồ Tát thường thành tâm
cung kính lễ lạy.
Đối với tất cả chúng sinh, nên bình đẳng mà nói pháp, bởi do thuận pháp,
không nên nói nhiều, không nên nói ít, cho đến người ái mến pháp thâm sâu,
cũng không vì họ mà nói nhiều.
Văn Thù Sư Lợi ! Đại Bồ Tát đó, ở đời mạc pháp sau này, lúc pháp muốn
diệt, người thành tựu an lạc hạnh thứ ba, khi nói kinh này, thì không ai có
thể não loạn, được người đồng học tốt, cùng nhau đọc tụng kinh này, cũng
được đại chúng đến nghe nhận, nghe rồi hay trì, trì rồi hay tụng, tụng rồi hay
nói, nói rồi thì sẽ biên chép, hoặc khiến cho người biên chép cúng dường
kinh quyển, cung kính tôn trọng khen ngợi.
Ðối với tất cả chúng sinh, nên từ bi bình đẳng nói pháp, bởi do tùy thuận
pháp, không nên vì chúng sinh nào đó cung kính, thì nói pháp nhiều đối với
chúng sinh đó, còn chúng sinh nào đó chưa thể cung kính, thì nói pháp ít đối
với chúng sinh đó. Cho đến người ưa mến pháp thâm sâu, thì chẳng vì họ
nói pháp nhiều.
Văn Thù Sư Lợi ! Ông nên biết đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, ở đời sau khi
chánh pháp diệt, có thể thành tựu an lạc hạnh thứ ba, khi nói Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, thì tất cả Thiên Long bát bộ đều đến hộ pháp. Hơn nữa, vì trong
đời quá khứ, bạn chẳng gieo trồng nhân não loạn, cho nên hiện tại chẳng có
chúng sinh đến làm não loạn. Ðược bạn đồng học tốt, cùng nhau đọc tụng
kinh nầy, còn được đại chúng đồng đến nghe nhận, nghe kinh rồi lại hay thọ
trì, rồi có thể học thuộc lòng, rồi diễn nói biên chép kinh nầy.
Nếu thỉnh người khác biên chép ấn tống kinh nầy, cúng dường lễ bái kinh
nầy, phải cung kính tôn trọng khen ngợi chư Phật Như Lai, đều đến chứng
minh Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu sinh một phần tâm cung kính thì có
một phần cảm ứng; nếu sinh mười phần tâm cung kính thì có mười phần
cảm ứng. Nên biết, kinh nầy trải qua trăm ngàn vạn kiếp mới gặp được, nếu
chẳng có căn lành lớn, thì khó gặp nhân duyên thù thắng nầy, để học tập
Phật pháp.
Tín chúng đến Phật Giáo Giảng Đường nghe kinh ngày càng đông, bây giờ e
rằng Phật Giáo Giảng Đường nầy chẳng đủ để xử dụng, chúng ta hy vọng
sớm có một giảng đường khác có thể dung chứa bốn, năm trăm người, mọi
người đều thành tâm đến tụng trì Chú Đại Bi, tin rằng sẽ có cảm ứng không
thể nghĩ bàn. Giống như Chùa Phổ Tế ở Núi Phổ Ðà, đại hùng bảo điện xem
có vẻ chẳng lớn mấy, song có khoảng một ngàn người vào trong đại diện
cũng dung nạp được, thậm chí có một vạn người, thì đại điện nầy cũng dung
nạp được, dù mười vạn người, điện nầy cũng có thể dung nạp, có thể nói là
một ‘’Bảo điện‘’ không thể nghĩ bàn. Lần nầy chúng ta thành tâm niệm Chú,
thì sẽ thành tựu một ‘’Bảo đường‘’, bảo đường nầy, có thể nhỏ cũng có thể
lớn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Nếu muốn nói kinh này
Nên bỏ đố sân mạn
Tâm siểm nịnh tà ngụy
Thường tu hạnh chất trực.
Chẳng khinh khi kẻ khác
Cũng chẳng hí luận pháp
Chẳng khiến họ nghi ngờ
Rằng ông không thành Phật.
Bồ Tát đó nói pháp
Thường nhu hòa nhẫn nhục
Từ bi với tất cả
Chẳng sinh tâm giải đãi.
Mười phương đại Bồ Tát
Thương chúng nên hành đạo
Nên sinh tâm cung kính
Ðó là thầy của ta.
Với chư Phật Thế Tôn
Nghĩ là cha vô thượng
Phá được tâm kiêu mạn
Nói pháp chẳng chướng ngại.
Pháp thứ ba như thế
Bậc trí nên một lòng
Thủ hộ an lạc hạnh
Vô lượng chúng cung kính.
Lúc bấy giờ, Phật Thích Ca muốn thuật lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng : Ðại
Bồ tát tu hành Bồ Tát đạo, nếu muốn diễn nói Kinh Pháp Hoa, thì nên xả bỏ
tâm đố kị, sân hận, kiêu mạn, siểm nịnh, khi dối, tà ngụy. Thường tu hạnh
chất trực, do đó có câu : ‘’Trực tâm thị đạo tràng‘’. Không khinh khi kẻ
khác, cũng chẳng hí luận pháp. Ðừng khiến cho kẻ khác sinh tâm nghi ngờ
đối với Phật đạo, không thể nói : ‘’Ngươi tu hành giải đãi như vậy, không
khi nào có thể được thành Phật.’’ Ðại Bồ Tát nói pháp thường nhu hòa nhẫn
nhục, tức là mặc y Như Lai; từ bi đối với tất cả chúng sinh, tức là vào nhà
Như Lai, siêng năng nói pháp, chẳng sinh tâm khinh mạn giải đãi. Mười
phương đại Bồ Tát, vì thương xót chúng sinh nên hành Bồ Tát đạo. Chúng ta
nên sinh tâm cung kính đối với đại Bồ Tát trong mười phương, xem các
Ngài như là thầy tốt của mình. Ðối với chư Phật Thế Tôn nên sinh ý nghĩ là
cha từ bi vô thượng. Phá trừ được tâm kiêu ngạo ngã mạn, thì nói pháp
chẳng có chướng ngại, đây là an lạc hạnh thứ ba.
Bậc có trí huệ, thì nên y theo pháp nầy mà tu hành, một lòng thủ hộ an lạc
hạnh nầy. Vô lượng chúng sinh đều cung kính như đại Bồ Tát tu hành nầy.
Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi ! Ðại Bồ Tát vào đời sau này, khi pháp sắp diệt, có
người nào trì Kinh Pháp Hoa này, đối với người tại gia, hoặc xuất gia, đều
nên sinh tâm đại bi, đối với những người chẳng phải Bồ Tát, cũng nên sinh
tâm đại bi, nên nghĩ như vầy : Người như thế tổn thất rất lớn, đức Như Lai
phương tiện tùy nghi nói pháp, mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng
hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ! Ðại Bồ Tát tu hành Bồ
Tát hạnh, trong tương lai vào thời mạc pháp, khi pháp muốn diệt, có Bồ Tát
thọ trì đọc tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đối với những người tại gia, hoặc
xuất gia, nên sinh tâm đại từ bi, muốn khiến cho tất cả chúng sinh vui vẻ.
Ðối với những người không tin Phật pháp, thậm chí người hủy báng Phật
pháp, đều nên sinh tâm đại bi. Bi hay cứu khổ, cứu những chúng sinh tạo tội,
nên nghĩ như vầy : Người như thế, tổn thất đi rất lớn, đức Như Lai phương
tiện tùy nghi, quán căn cơ thí giáo vì họ nói pháp, gặp người đại thừa thì nói
pháp đại thừa, gặp người tiểu thừa thì nói pháp tiểu thừa, do đó có câu :
‘’Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu rõ.’’
Những người đó tạo tội chẳng tin Phật pháp, chẳng nghe, chẳng biết, chẳng
hay, chẳng hiểu Phật pháp, cũng chẳng hỏi, chẳng sinh niềm tin, lại chẳng
cầu cứu kính giải thoát, cho nên hạng người nầy tổn thất rất lớn.
Người đó tuy chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, khi ta được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ ở đâu, ta cũng dùng thần thông và trí
huệ dẫn dắt họ, khiến cho họ được trụ ở trong pháp này.
Văn Thù Sư Lợi ! Ðại Bồ Tát đó, sau khi Như Lai diệt độ, có ai thành tựu
pháp thứ tư này, khi nói pháp này, thì chẳng có lỗi lầm, thường được Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân
dân, Bà la môn, cư sĩ thảy, cung kính cúng đường, tôn trọng khen ngợi. Chư
thiên vì nghe pháp, nên cũng thường theo hầu vị Bồ Tát đó. Nếu ở trong
xóm làng, thành ấp, rừng vắng, có người đến muốn vấn nạn, thì chư Thiên
ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ, khiến cho người nghe đều được hoan hỉ.
Tại sao ? Vì kinh này nhờ thần lực của tất cả chư Phật, quá khứ hiện tại vị
lai ủng hộ vậy.
Người đó, tuy chẳng hỏi, lại chẳng tin, cũng chẳng hiểu, diệu lý của Kinh
Pháp Hoa. Ðại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo nói : Ta phát nguyện, khi ta chứng
được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ ở đâu, ta đều dùng thần
thông và trí huệ, để tiếp dẫn người chẳng hỏi chẳng tin chẳng hiểu, khiến
cho họ trụ ở trong diệu pháp.
Văn Thù Sư Lợi ! Vị Ðại Bồ Tát đó, sau khi Phật diệt độ, thành tựu an lạc
hạnh thứ tư, thì khi nói pháp chẳng có lỗi lầm, thường được Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà
la môn, và cư sĩ thảy, cúng dường cung kính và tôn trọng khen ngợi. Chư
thiên đều vì nghe pháp, cho nên thường theo hầu vị Bồ Tát đó. Nếu ở trong
xóm làng thành ấp, rừng vắng, có ai đến muốn thưa hỏi, thì chư thiên hộ
pháp thiện thần, vì bảo hộ Bồ Tát. Bồ Tát đó dùng diệu nghĩa đại thừa trả lời
người hỏi, khiến cho tất cả người nghe đều được hoan hỉ. Vì sao ? Vì kinh
nầy nhờ thần lực của tất cả chư Phật, quá khứ hiện tại và vị lai ủng hộ, cho
nên tất cả khó khăn đều tiêu trừ.
Văn Thù Sư Lợi ! Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng cõi nước, cho đến
tên kinh còn không thể nghe được, hà huống là được thấy thọ trì đọc tụng.
Văn Thù Sư Lợi ! Ví như Chuyển luân thánh vương có sức mạnh, muốn
dùng uy thế để hàng phục các nước, song các ông vua nhỏ chẳng thuận theo
mệnh lệnh. Vua chuyển luân bèn đem các thứ binh đi chinh phục. Vua thấy
binh chúng ai chiến đấu có công thì rất hoan hỉ, tùy theo công lao mà ban
thưởng, hoặc ban cho ruộng đất, nhà cửa, xóm làng, thành ấp, hoặc ban cho
quần áo, đồ nghiêm thân, hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng bạc, lưu ly,
xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa, xe cộ, nô tì, nhân dân.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ! Có rất nhiều người trong vô lượng kiếp, chẳng bao
giờ được nghe tên Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Hiện nay có phái Nhật Liên
(Nhật Bản) chỉ tụng ‘’Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh‘’, song họ chẳng
biết kinh văn, hà huống người được thấy thọ trì đọc tụng kinh nầy càng ít có.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ! Ví như vua Chuyển Luân Thánh Vương, sức mạnh
muốn dùng oai đức thế lực hàng phục các nước, mà các ông vua nhỏ chẳng
thuận theo mệnh lệnh, bấy giờ vua Chuyển Luân Thánh Vương bèn đem các
thứ binh để đi chinh phục. Vua Chuyển Luân Thánh Vương thấy binh chúng
ai chiến đấu có công, thì sinh đại hoan hỉ, tùy theo công lao mà ban thưởng,
hoặc dùng đất đai, nhà cửa, xóm làng, thành ấp, hoặc ban cho y phục, đồ
nghiêm thân, hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, xan hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tì, và nhân dân, để ban thưởng.
Vua Chuyển Luân Thánh Vương ban thưởng cho binh chúng ai có công,
hoặc ban cho đất đai nhà cửa. ‘’Ðất đai‘’ dụ cho tam muội, tức là định.
‘’Nhà cửa‘’ dụ cho trí huệ. ‘’Xóm làng‘’ dụ cho quả vị sơ quả và nhị quả.
‘’Thành‘’ dụ cho quả vị tam quả. ‘’Ấp‘’ dụ cho quả vị tứ quả. ‘’Y phục‘’ dụ
cho nhẫn nhục. Bảy báu : Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, xan hô, hổ
phách, dụ cho bảy giác chi, còn gọi là bảy cảnh giới phần. ‘’Voi, ngựa, xe
cộ‘’ đều là biểu thị cho nhị thừa. ‘’Nô tì‘’ biểu thị cho công dụng của thần
thông. ‘’Nhân dân‘’ dụ cho thiện pháp.
Chỉ có hạt minh châu trong búi tóc là không cho thôi. Tại sao ? Vì chỉ có
trên đỉnh của vua mới có hạt minh châu này. Nếu lấy đem cho, thì các quyến
thuộc của vua rất kinh ngạc.
Văn Thù Sư Lợi ! Như Lai cũng lại như thế, nhờ sức thiền định trí huệ, mà
được cõi nước pháp, là vua trong ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu thuận
phục.
Các hiền Thánh của Như Lai cùng chiến đấu với ma, ai có công thì tâm cũng
hoan hỉ. Phật cũng hoan hỉ vì bốn chúng mà nói các kinh, khiến cho họ được
vui mừng, ban cho thiền định giải thoát, căn lực vô lậu các pháp tài, còn ban
cho thành Niết Bàn, nói được diệt độ, dẫn đạo tâm ý, khiến cho chúng sinh
đều hoan hỉ, mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này.
Trong búi tóc của vua Chuyển Luân Thánh Vương có hạt minh châu quý
giá, song không thể đem hạt minh châu ban thưởng cho tướng quân có công.
Vì sao ? Vì chỉ có trong búi tóc của vua Chuyển Luân Thánh Vương mới có
bảo châu nầy. Nếu đem bảo châu thưởng cho tướng quân, thì quyến thuộc
của vua sẽ kinh ngạc.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Văn Thù Sư Lợi ! Nói : ‘’Như Lai cũng lại như
thế, nhờ thiền định tam muội trí huệ không thể nghĩ bàn, được cõi nước vô
thượng pháp, làm Pháp vương trong ba cõi, cõi dục, cõi sắc, và cõi vô sắc.
Chỉ có các ma vương chẳng chịu thuận phục, Như Lai bèn sai các tướng hiền
Thánh chiến đấu với ma, ai chiến đấu thắng lợi có công, thì tâm bèn sinh
hoan hỉ. Phật cũng hoan hỉ vì bốn chúng, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam,
cư sĩ nữ, nói tất cả kinh điển, hoặc nói tam tạng giáo lý Bát nhã, tức cũng là :
Tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, mật, bất định, tám thứ giáo. Vì đại chúng
nói tất cả các kinh, khiến cho chúng sinh hoan hỉ, hoặc ban cho thiền định
giải thoát căn lực vô lậu, ‘’căn‘’ tức là năm căn : Tín, tấn, niệm, định, huệ,
khiến cho năm căn tăng trưởng gọi là năm lực.
‘’Còn ban cho thành Niết Bàn‘’ : ‘’Thành‘’ dùng để bảo vệ kẻ địch, ‘’thành
Niết Bàn‘’ hay kháng cụ ma vương phá hoại Niết Bàn. Nói được diệt độ, dẫn
đạo tâm ý, khiến cho tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. Giữ gìn Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, kinh nầy chính như hạt bảo châu quý giá trong búi tóc của vua
Chuyển Luân Thánh Vương, không thể tùy tiện vì người khác nói.
Văn Thù Sư Lợi ! Như vua chuyển luân thấy các binh chúng, ai có công lớn
thì tâm rất hoan hỉ, bèn đem hạt châu khó tin này, từ lâu để trong búi tóc
chẳng tùy tiện cho người, mà nay đem cho. Như lai cũng lại như thế, là đại
Pháp Vương ở trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, thấy quân
hiền Thánh với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau. Có công lao
lớn diệt trừ ba độc, ra khỏi ba cõi, phá tan lưới ma.
Bấy giờ, Như Lai cũng rất hoan hỉ. Kinh Pháp Hoa này, hay khiến cho
chúng sinh đến Nhất thiết trí. Tất cả thế gian nhiều oán khó tin kinh này,
trước kia chưa từng nói mà nay nói ra.
Ðức Phật lại gọi một tiếng Văn Thù Sư Lợi ! Như vua Chuyển Luân Thánh
Vương, thấy binh chúng trong quân đội ai lập công lớn, thì tâm rất hoan hỉ,
bèn đem hạt bảo châu khó tin nầy, từ lâu cất giấu ở trong búi tóc lấy đem
cho. Ðức Như Lai cũng lại như thế, làm đại Pháp vương ở trong ba cõi, đem
diệu pháp vô thượng giáo hóa tất cả chúng sinh.
‘’Thấy quân Hiền Thánh‘’ : Thấy sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả A La
Hán, hoặc nhị thừa Duyên Giác quân hiền Thánh đánh với ‘’ma năm ấm‘’ :
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mỗi người cùng đánh với ma năm ấm, ma phiền
não, ma chết; đánh thắng những thứ ma nầy, trừ được tham sân si ba độc, thì
vượt ra khỏi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, phá được lưới ma. Lúc đó, Như
Lại thấy người tu nhị thừa hoặc đại thừa có sở thành tựu, thì rất hoan hỉ.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy, hay khiến cho chúng sinh đạt đến bậc Nhất
thiết chủng trí. Tất cả người thế gian nhiều oán khó tin kinh nầy. Hơn bốn
mươi năm trước kia, Như Lai chưa từng nói diệu pháp nầy, nay vì đại chúng
nói diệu pháp thâm sâu vô thượng nầy.
Văn Thù Sư Lợi ! Kinh Pháp Hoa này, là lời nói bậc nhất của các đức Như
Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là thâm sâu nhất, chưa từng ban cho. Như
vua chuyển luân sức mạnh kia, từ lâu giữ hạt minh châu, nay mới đem ra
cho.
Văn Thù Sư Lợi ! Kinh Pháp Hoa này, là tạng bí mật của chư Phật Như Lai.
Ở trong các kinh, thì kinh này là trên hơn hết, giữ gìn từ lâu chưa hề tuyên
nói, cho đến hôm nay, mới nói ra cho các ông nghe.
Ðức Phật lại nói với Bồ Tát Văn Thù : ‘’Kinh Pháp Hoa nầy, là lời nói bậc
nhấc của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, là diệu pháp thâm sâu vô
thượng ở trong tất cả các kinh điển. Cuối cùng ban cho tất cả chúng sinh,
như vua Chuyển Luân Thánh Vương sức mạnh giữ gìn minh châu ở trong
búi tóc, do người nầy lập được công lớn nên mới đem ra cho.
Văn Thù Sư Lợi ! Kinh Pháp Hoa nầy, mới là pháp bất truyền của tất cả chư
Phật mười phương ba đời, đứng đầu ở trong các kinh, từ lâu bảo hộ giữ gìn
không thể tùy tiện nói với mọi người. Do đó, hôm nay mới vì đại chúng diễn
nói kinh nầy, cho nên phải trân tiếc Kinh Pháp Hoa nầy, đừng bao giờ xem
thường‘’.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Thường thật hành nhẫn nhục
Thương xót hết tất cả
Mới nên nói kinh này
Kinh này được Phật khen.
Ai trì tụng kinh này
Ðối với tại, xuất gia
Và chẳng phải Bồ Tát
Nên sinh lòng từ bi.
Những người nào chẳng nghe
Cũng chẳng tin kinh này
Tức tổn thất rất lớn
Khi ta được Phật đạo.
Sẽ dùng các phương tiện
Vì họ nói pháp này
Khiến họ trụ pháp này.
Sau khi Ðức Phật nói xong kinh trường hàng, bèn dùng kệ để nói rõ nghĩa lý
bên trong. Bồ Tát tu hành lục độ vạn hạnh, thì nên luôn luôn thực hành hạnh
nhẫn nhục, nhẫn nhịn những việc mà người khác không nhịn được, thương
xót tất cả chúng sinh mới có thể diễn nói kinh nầy. Kinh nầy là kinh được tất
cả mười phương chư Phật ba đời khen ngợi. Vào thời mạc pháp sau nầy, ai
trì tụng kinh nầy, thì bất luận đối với người tại gia, xuất gia và chẳng phải
Bồ Tát, đều nên sinh tâm từ bi, khiến cho họ lìa khổ được vui. Những ai
chẳng nghe, chẳng tin Kinh Pháp Hoa nầy, thật là tổn thất rất lớn, vì chẳng
tin kinh nầy thì không thể thành Phật. Tương lai khi ta được thành Phật đạo,
thì sẽ dùng sức thiền định, sức trí huệ và các thứ phương tiện, để vì họ nói
kinh nầy, khiến cho tất cả chúng sinh được đượm nhuần pháp vũ, trụ ở trong
pháp nầy.
Ví như vua chuyển luân
Có sức lực mạnh mẽ
Thấy lính đánh có công
Ban thưởng các báu vật.
Voi ngựa các xe cộ
Và đồ dùng nghiêm thân
Cùng đất đai nhà cửa
Xóm làng và thành ấp.
Hoặc ban cho y phục
Ðủ thứ đồ quý báu
Nô tì và của cải
Ðều hoan hỉ ban cho.
Như có tướng tài giỏi
Làm được các việc khó
Vua lấy hạt minh châu
Trong búi tóc đem tặng.
Ví như có vua Chuyển Luân Thánh Vương có uy đức lớn. Trên thế gian có
Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Ðồng Luân Vương, và Thiết Luân
Vương. Kim Luân Vương cai trị bốn đại bộ châu (Ðông Thắng Thần Châu,
Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lư Châu). Ngân Luân
Vương cai trị ba đại bộ châu (Ðông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ
Châu, Tây Ngưu Hóa châu). Ðồng Luân Vương cai trị hai châu (Ðông
Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu). Thiết Luân Vương chỉ cai trị một
châu. Vua Chuyển Luân Thánh Vương có bảy báu hiếm có ở trong thế gian.
Binh lính chiến đấu có công được ban thưởng.
‘’Voi ngựa xe cộ‘’: Dụ cho nhị thừa. ‘’Ðồ nghiêm thân‘’ : Dụ cho pháp môn
tu thân. ‘’Ðất đai nhà cửa‘’ : ‘’Ðất đai‘’ : Dụ cho sức tam muội, ‘’nhà cửa‘’
dụ cho sức trí huệ. ‘’Xóm làng‘’ : Dụ cho tam quả và tứ quả A La Hán. ‘’Y
phục‘’ : Dụ cho pháp môn nhẫn nhục. ‘’Các thứ đồ quý báu‘’ : Tức là vàng,
bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách. ‘’Nô tì‘’ : Dụ cho thần thông,
trong Phật pháp ai vận dụng thần thông, thì như là nô tì. Những vật ở trên
đều hoan hỉ ban cho. ‘’Như có tướng tài giỏi, làm được việc khó làm‘’ : Nếu
như có vị tướng tài giỏi, anh dũng đối địch, đánh đâu thắng đó, làm được
việc khó mà người khác không làm được, thì lúc đó vua Chuyển Luân Thánh
Vương mới lấy hạt bảo châu ở trong búi tóc, đem ra tặng cho tướng quân tài
giỏi.
Phật vốn chẳng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, bây giờ thời cơ chín mùi, cho
nên mới nói bộ kinh nầy.
Như Lai cũng như thế
Là vua của các pháp
Có sức nhẫn nhục lớn
Và bảo tàng trí huệ.
Dùng sức đại từ bi
Theo pháp giáo hóa đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các sự khổ não.
Muốn cầu được giải thoát
Chiến đấu với lũ ma
Vì những chúng sinh đó
Nói ra đủ thứ pháp.
Dùng sức đại phương tiện
Diễn nói các kinh này
Khi đã biết chúng sinh
Ðắc được các lực rồi.
Cuối cùng mới vì nói
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Như vua mở búi tóc
Ban tặng hạt minh châu.
Kinh này rất tôn quí
Trên hết trong các kinh
Ta thường luôn giữ gìn
Chẳng tùy tiện nói ra.
Nay đúng là phải thời
Vì các ông mà nói.
Ðức Phật cũng như vua Chuyển Luân Thánh Vương. Phật là vua của các
pháp, là đấng Pháp Vương, đắc được pháp diệu dụng tự tại vô ngại. ‘’Có sức
nhẫn nhục lớn‘’ : Có uy đức lớn, có bảo tạng đại trí huệ. ‘’Dùng sức đại từ
bi‘’ : Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ. ‘’Theo pháp giáo hóa đời‘’ : Y theo
pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, quán căn cơ mà thí giáo, đáng dùng thân
Phật độ được, thì hiện thân Phật mà vì họ nói pháp, đáng dùng thân Bồ Tát
được độ, thì hiện thân Bồ Tát mà vì họ thuyết pháp. Phật là vì người nói
pháp, theo bệnh cho thuốc. Ví như người thích ăn ngon thì nói về ăn, song
những gì nói ra là thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Người xuất gia
ngày ăn một bữa, đều lấy pháp làm món ăn. ‘’Thấy tất cả mọi người‘’ : Ðối
với tài, sắc, danh, thực, thùy, năm dục có sự chấp trước, thì lo được lo mất.
‘’Chịu các sự khổ não, muốn cầu được giải thoát.’’: Chịu tất cả sự khổ não
muốn cầu giải thoát, thì phải chiến đấu với lũ ma, nào là ma phiền não, ma
ngũ ấm, ma nghiệp chướng, ma ngu si, ma tâm tham, ma tâm sân, ma tâm si,
ma tâm kiêu mạn, ma tâm nghi ngờ tác chiến, điều phục các ma chướng.
Phật vì chúng sinh chấp trước ma, mà nói các thứ pháp, dùng đại phương
tiện. Như Bồ Tát Ðịa Tạng, vì độ chúng sinh mà vào địa ngục, để vì chúng
sinh nói pháp. Ngài nói : ‘’Ta chẳng vào địa ngục thì ai vào địa ngục.’’ Tinh
thần như vậy thật là vĩ đại. ‘’Nói ra các kinh nầy.’’ Nói Kinh Phương Ðẳng,
Kinh Bát Nhã .v.v. ‘’Khi đã biết chúng sinh, đắc được các lực rồi.’’ Cuối
cùng mới vì nói Kinh Pháp Hoa. Ðây cũng giống như vua Chuyển Luân
Thánh Vương, mở búi tóc lấy hạt minh câu ra, ban tặng cho tướng quân có
công lớn. ‘’Kinh nầy rất tôn quý‘’ : Kinh nầy là kinh chí tôn chí quý, đứng
đầu trong các kinh, là ‘’Vua trong các kinh‘’. ‘’Ta thường giữ gìn luôn‘’ :
Phật luôn luôn giữ gìn kinh nầy. ‘’Chẳng tùy tiện nói ra, nay đúng là phải
thời, vì các ông mà nói‘’ : Bây giờ nên vì đại chúng mà nói ra kinh nầy.
Hiện tại cũng có người nói Kinh Lăng Nghiêm là kinh giả tạo, chẳng phải
Phật nói ra. Nếu ai nhận lầm mắt cá là hạt chậu, thì chẳng biết thật giả, lấy
thật làm giả, cuối cùng chẳng thể được chỗ diệu ở trong kinh. Hội Phật Giáo
chúng ta trước hết giảng về Kinh Lăng Nghiêm, sau đó giảng Kinh Pháp
Hoa, kế tiếp sẽ giảng Kinh Hoa Nghiêm, ba bộ kinh nầy ai ai cũng phải đọc
tụng. Tất cả do tâm tạo, nghe kinh nghe pháp, mà có sự bổ ích tức là chân
kinh. Kinh điển mà chúng ta giảng, đều là kinh điển thượng thừa chân thật.
Sau khi ta diệt độ
Ai mong cầu Phật đạo.
Muốn được sự an ổn
Nên diễn nói kinh này
Và phải nên gần gũi
Bốn pháp như đã nói.
Ai đọc tụng kinh này
Thường chẳng có ưu não
Nhan sắc rất tươi thắm
Chẳng sinh nhà bần cùng.
Chẳng làm kẻ nô tì
Chúng sinh đều ưa thấy
Như kính mộ hiền Thánh
Chư thiên các đồng tử.
Cũng nghe sự sai khiến
Ðao gậy chẳng hại được
Ðộc cũng không thể hại
Nếu người ác mắng chưởi.
Thì miệng chẳng mở đặng
Du hành chẳng sợ sệt
Như loài sư tử chúa
Trí huệ quang chiếu sáng
Như mặt trời chiếu khắp.
Sau khi Phật vào Niết Bàn, Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, muốn được an ổn thì
giải nói kinh nầy, nên thực hành thân an lạc hạnh, khẩu an lạc hạnh, ý an lạc
hạnh, nguyện an lạc hạnh, bốn pháp. Người đọc tụng kinh nầy, thì thường
chẳng có ưu não, chẳng có các bệnh khổ, cho nên người đó sắc mặt tươi
sáng. Thấy người đó hồng quang đầy mặt, thì sẽ biết họ trí huệ sung mãn,
cho nên hiện khí cát tường. Chẳng sinh nhà bần cùng, chẳng làm nô tì ti tiện,
bị người sai khiến, còn tướng mạo thì tròn trịa, chúng sinh ưa thấy, như kính
mộ hiền Thánh, cho đến các đồng tử trên trời cũng nghe bạn sai khiến. Ðao
gậy cũng chẳng hại được thân họ, độc dược cũng chẳng hại đặng. Nếu ai
muốn mắng chưởi bạn, thì miệng người đó chẳng mở ra được. Du hành thì
chẳng sợ hãi gì cả, như chúa loài sư tử. Trí huệ quang chiếu khắp pháp giới,
như mặt trời chiếu soi.
Nếu như ở trong mộng
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các đức Như Lai
Ngồi trên tòa sư tử.
Các đại chúng Tỳ Kheo
Vây quanh diễn nói pháp
Lại thấy các rồng thần
Và A tu la thảy.
Nhiều như cát sông Hằng
Ðều cung kính chắp tay
Tự thấy chính thân mình
Vì chúng sinh nói pháp.
Lại thấy các đức Phật
Thân tướng sắc vàng tía
Phóng vô lượng quang minh
Chiếu khắp hết tất cả.
Dùng phạm âm thanh tịnh
Diễn nói thảy các pháp
Phật lại vì bốn chúng
Nói diệu pháp vô lượng.
Thảy đều thấy thân mình
Chắp tay khen ngợi Phật
Nghe pháp đều hoan hỉ
Mà dùng để cúng dường.
Ðắc được Ðà la ni
Chứng được trí bất thối
Phật biết tâm người ấy
Vào sâu nơi Phật đạo.
Tức là được thọ ký
Thành Chánh đẳng chánh giác
Các ông thiện nam tử !
Sẽ ở đời vị lai.
Ðược vô lượng trí huệ
Ðược thành tựu Phật đạo
Cõi nước rất nghiêm tịnh
Rộng lớn chẳng sánh được.
Cũng có đủ bốn chúng
Ðều chắp tay nghe pháp
Lại thấy chính thân mình
Ở trong nơi núi rừng.
Tu tập các pháp lành
Chứng được các thật tướng
Vào sâu nơi thiền định
Thấy chư Phật mười phương.
Nếu ở trong giấc mộng, cũng thấy cảnh giới cát tường, thấy chư Phật ngồi
trên tòa sư tử nói pháp. Lại thấy trời, rồng, A tu la, thảy tám bộ, nhiều như
số cát sông Hằng đều cung kính chắp tay. Tự thấy thân mình vì tất cả chúng
sinh nói pháp. Lại thấy chư Phật thân hiện màu vàng tía, phóng ra vô lượng
quang minh chiếu khắp tất cả, dùng phạm âm thanh tịnh diễn nói các pháp.
Âm thanh của người nói pháp cũng rất quan trọng, phải thanh tịnh rõ ràng,
đó là do quả báo thuở xưa tu vô thượng căn mà đắc được quả báo. Phật vì
bốn chúng mà nói các pháp vô thượng. Người đều thấy thân mình chắp tay
khen ngợi Phật nói pháp. Người nhiều căn lành thì đều nằm mộng như thế.
Nghe pháp hoan hỉ để cúng dường Phật. Ðắc được pháp môn tổng trì, tổng
tất cả các pháp, trì vô lượng nghĩa, chứng được trí huệ bất thối. Phật biết tâm
của người ấy vào sâu trong Phật đạo, tức là thọ ký thành Chánh đẳng chánh
giác. Các ông thiện nam tử, ở trong đời vị lai sau nầy, sẽ được vô lượng trí
huệ, được thành Phật đạo, cõi nước nghiêm tịnh, rộng lớn chẳng gì sánh
bằng. Cũng có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng chắp
tay để nghe pháp. Lại thấy thân mình ở trong núi rừng thanh vắng, tu tập
thiền định chứng được cảnh giới thật tướng diệu hữu, tức là cảnh giới
‘’Hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời‘’. Ở trong thiền định thấy mười
phương chư Phật, nghe kinh nghe pháp.
Chư Phật thân sắc vàng
Tướng trăm phước trang nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt đó.
Lại mộng làm Pháp vương
Bỏ cung điện quyến thuộc
Và năm dục thượng diệu
Ði thẳng đến Ðạo tràng.
Ở dưới cội bồ đề
Ngồi trên tòa sư tử
Cầu đạo quá bảy ngày
Ðắc được trí chư Phật.
Thành vô thượng đạo rồi
Bèn chuyển bánh xe pháp
Vì bốn chúng nói pháp
Qua ngàn vạn ức kiếp.
Nói diệu pháp vô lậu
Ðộ vô lượng chúng sinh
Sau sẽ vào Niết Bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu đời ác sau này
Nói pháp bậc nhất này
Người đó được lợi lớn
Như công đức ở trên.
Người đó ở trong mộng thấy Phật phóng kim quang, ba mươi hai tướng và
tám mươi vẻ đẹp vi diệu thanh tịnh trang nghiêm. Ở trước chư Phật nghe
pháp và vì người nói pháp, thường được những giấc mộng tốt như thế. Lại
mộng thấy mình làm vua, xả bỏ tam cung lục viện thê thiếp; tài, sắc, danh,
thực, thùy, và sắc, thanh, hương, vị, xúc. Ði đến Ðạo tràng ngồi trên tòa sư
tử dưới cội bồ đề, cầu đạo quá bảy ngày, thì được trí của chư Phật, thành vô
thượng đạo. Tám tướng thành đạo, chuyển đại pháp luân, vì Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng mà nói pháp. Trong mộng qua ngàn
vạn ức kiếp, nói diệu pháp vô lậu, độ vô lượng chúng sinh, sau sẽ vào Niết
Bàn, như củi hết lửa tắc. Nếu trong đời ác tương lai, ai nói Kinh Pháp Hoa
nầy, thì người đó sẽ được lợi ích rất lớn.
Hết tập 3
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì ấn tống kinh điển
bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật dạy, phát
tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác
ta, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối cùng
sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực
hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và
toàn thể tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô
danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng,
cùng pháp giới chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm
bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt
ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Nam Mô Hộ Pháp Vi Ðà Tôn Thiên Bồ Tát
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.
---o0o---
Tập 04
Quyển 5
Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chia làm bảy quyển, tổng cộng có hai mươi tám
phẩm. Mười bốn phẩm trước, là nói về nhân của một thừa. Mười bốn phẩm
sau là nói về quả của một thừa. Cũng có thể nói mười bốn phẩm trước là
khai quyền hiển thật (Mở bày phương tiện, để hiện ra tướng chân thật), mười
bốn phẩm sau là khai cận hiển viễn (Mở bày gần để biết xa), đều nói pháp
tối thượng thừa.
Phẩm này thuật lại vô lượng vô biên đại Bồ Tát, trụ ở trong hư không, ở thế
giới phương dưới, các Ngài từ dưới đất vọt lên. Tại sao ? Vì muốn cúng
dường Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì phải hộ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Ðó là những pháp thân Ðại Sĩ (đại Bồ Tát) ở trong quá khứ, đã từng làm đệ
tử của đức Phật Thích Ca. Bây giờ, các Ngài đều đến hoằng dương Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.
Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đến từ các cõi nước phương khác, số nhiều hơn số
cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đều đứng dậy chắp tay làm lễ, mà
bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Xin Ngài lóng nghe, sau khi Phật diệt
độ, chúng con sẽ ở tại thế giới Ta Bà này, siêng năng tinh tấn, hộ trì đọc
tụng, biên chép cúng dường kinh điển này, sẽ ở cõi này mà vì chúng sinh
rộng nói kinh này.
Lúc đó, tức cũng là sau khi nói xong Phẩm An Lạc Hạnh, chính là lúc phải
nói phẩm ‘’Từ dưới đất vọt lên‘’, tức là vào lúc có rất nhiều các vị đại Bồ
Tát, đến từ các cõi nước phương khác, số đông vô lượng nhiều hơn số cát
tám sông Hằng. Các Ngài đến gặp đức Phật Ða Bảo và Phật Thích Ca.
Những vị đại Bồ Tát này, ở trong đại chúng cùng nhau đứng dậy, cung kính
chắp tay mà bạch Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Xin Ngài nghe chúng con
phát nguyện, sau khi Phật diệt độ, chúng con nhất định tu hành ở tại thế giới
Ta Bà này, siêng năng tinh tấn hộ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng Kinh Pháp
Hoa, biên chép Kinh Pháp Hoa, cúng dường Kinh Pháp Hoa. Chúng con ở
trong cõi nước này, rộng vì tất cả chúng sinh, diễn nói đạo lý chân thật của
Kinh Pháp Hoa, khiến cho tất cả chúng sinh gieo trồng căn lành, sớm thành
tựu quả vị Phật.
Bấy giờ, đức Phật bảo các chúng đại Bồ Tát : Thôi đi ! Thiện nam tử !
Không cần các ông hộ trì kinh này, tại sao ? Vì thế giới Ta Bà của ta đây, đã
có các đại Bồ Tát nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị Bồ Tát đều có
quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Hết thảy những người đó,
sau khi ta diệt độ, sẽ hộ trì, đọc tụng, rộng nói kinh này.
Lúc đó, đức Phật bảo các vị đại Bồ Tát số đông nhiều như số cát tám sông
Hằng, đến từ các phương khác rằng : ‘’Thôi đi ! Không cần đâu. Thiện nam
tử ! Các ông đừng phát nguyện đến hộ trì Kinh Pháp Hoa.’’ Tại sao lại nói
vậy ? Vì Ðức Phật Thích Ca muốn khiến cho đệ tử của mình, gieo trồng
nhiều căn lành, làm nhiều công đức. Lại nói tiếp : ‘’Vì thế giới Ta Bà của ta
đây, đã có các đại Bồ Tát, đông nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị
Bồ Tát đều có quyến thuộc (đệ tử) đông nhiều như số cát sáu vạn sông
Hằng. Hết thảy những người đó sớm đã phát nguyện, sau khi ta diệt độ sẽ hộ
trì, đọc tụng, biên chép, rộng nói bộ Kinh Pháp Hoa này.
Khi đức Phật nói như thế, thì ba ngàn đại thiên thế giới Ta Bà, mặt đất rúng
nứt, và trong sự rúng nứt đó, có vô lượng ngàn vạn ức đại Bồ Tát đồng thời
vọt lên, các vị Bồ Tát đó, thân đều màu vàng, đủ ba mươi hai tướng, có vô
lượng quang minh. Các vị Bồ Tát đó, đều trụ ở trong hư không, ở dưới cõi
Ta Bà.
Khi Ðức Phật Thích Ca nói những lời như thế, thì tại thế giới Ta Bà ba ngàn
đại thiên thế giới, tất cả đất đai đều chấn động nứt ra, trong sự đất nứt ra có
vô lượng ngàn vạn ức đại Bồ Tát đồng thời vọt lên. Những vị đại Bồ Tát đó,
đều là đệ tử của Ðức Phật Thích Ca giáo hóa ở trong quá khứ.
Các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, thân đều màu vàng tía, đầy đủ ba mươi hai
tướng đại nhân, lại có vô lượng quang minh. Các Ngài đều trụ ở trong hư
không, ở dưới cõi Ta Bà.
Các vị Bồ Tát đó, nghe tiếng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói diệu
pháp, bèn từ phương dưới mà đến, mỗi vị Bồ Tát đều là đạo sư của đại
chúng, ai nấy đều mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông
Hằng, có vị mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát năm vạn, bốn vạn, ba
vạn, hai vạn, một vạn sông Hằng.
Chỗ ở của các vị Bồ Tát đó, tuy nhiên cách thế giới của chúng ta ở rất xa,
xong pháp âm của Ðức Phật Thích Ca diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
các Ngài đều nghe được rất rõ ràng, cho nên từ phương dưới mà đến pháp
hội Linh Sơn. Các Ngài đều là đạo sư giáo hóa chúng sinh, làm sư biểu của
chúng sinh. Ðều là thủ lãnh của đại chúng.
Mỗi vị Bồ Tát đều mang theo quyến thuộc (đệ tử theo Bồ Tát học Phật pháp)
đến pháp hội. Có vị Bồ Tát đem theo quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn
sông Hằng, hoặc có vị mang theo quyến thuộc nhiều như số cát năm vạn,
bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn, sông Hằng.
Hoặc có vị chỉ mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát một sông Hằng, nửa
sông Hằng, một phần tư, cho đến một phần ngàn vạn ức Na do tha. Lại có vị
mang theo ngàn vạn ức Na do tha quyến thuộc, hoặc là ức vạn quyến thuộc,
hoặc ngàn vạn, trăm vạn, cho đến một vạn, hoặc một ngàn, một trăm, cho
đến mười, hoặc có vị chỉ mang theo năm, bốn, ba, hai, một vị đệ tử.
Có vị Bồ Tát mang theo ngàn vạn ức Na do tha quyến thuộc, hoặc ức vạn
quyến thuộc, hoặc mang theo ngàn vạn quyến thuộc, hoặc mang theo trăm
vạn quyến thuộc, cho đến một vạn quyến thuộc, hoặc có vị mang theo một
ngàn quyến thuộc, hoặc mang theo một trăm quyến thuộc, cho đến mười
quyến thuộc, hoặc mang theo năm vị đệ tử, hoặc mang theo bốn vị đệ tử,
hoặc ba, hai, một vị đệ tử. Những số mục này chẳng nhất định. Theo biểu
pháp mà giảng, thì năm là đại biểu cho năm uẩn, bốn đại biểu cho bốn đế, ba
đại biểu cho ba độc, hai đại biểu cho hai đức (trí huệ), một đại biểu cho một
thật đạo (chân như, chân lý tuyệt đối).
Lại có vị Bồ Tát sống một mình, ưa thích hạnh xa lìa thế gian, hết thảy như
thế vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm, ví dụ, biết được số lượng.
Có vị Bồ Tát phát nguyện chẳng thu nhận đệ tử, tự mình sống một mình, tu
hành ở trong rừng sâu núi thẳm, xa lìa sự ồn ào thế gian, đó là ‘’ưa thích
hạnh xa lìa‘’, tức cũng là tu hạnh đầu đà (khổ hạnh). Hết thảy như thế nhiều
vô lượng vô biên, chẳng cách chi tính đếm, ví dụ để biết được số lượng
chính xác.
Các vị Bồ Tát đó, từ dưới đất vọt lên rồi, đều đến chỗ tháp bảy báu trong hư
không, của đức Ða Bảo Như Lai, và đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ðến rồi, ai nấy đều hướng về hai đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Phật, và đến dưới các cây báu chỗ của chư Phật, ngồi trên tòa sư tử cũng đều
làm lễ, nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay cung kính, dùng đủ thứ pháp khen
ngợi của các Bồ Tát để khen ngợi, rồi lui về một bên chiêm ngưỡng hai đức
Thế Tôn.
Vô lượng vô biên những vị đại Bồ Tát đó, sau khi từ dưới đất vọt lên rồi,
mỗi vị Bồ Tát đều đến chỗ tháp bảy báu trong hư không, của đức Ða Bảo
Như Lai và đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ðến rồi, ai nấy đều hướng về hai đức Thế Tôn, đảnh lễ năm thể sát đất, thân
tâm cung kính. Lại đến dưới cây báu trước tòa sư tử, của chư Phật đến từ
mười phương cuối đầu đảnh lễ. Nhiễu bên phải ba vòng, biểu thị cung kính.
Sau đó, chắp tay lại cung kính chiêm ngưỡng tôn nhan của chư Phật, dùng
những lời khen ngợi của các Bồ Tát để khen ngợi :
‘’Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả‘’.
Nghĩa là:
Trên trời nhân gian không ai bằng Phật
Mười phương thế giới không ai sánh bằng
Hết thảy thế gian ta thấy hết
Tất cả không ai như đức Phật.
Chúng ta mỗi ngày niệm :
‘’Phật A Di Ðà Phật thân sắc vàng
Tướng tốt chói sáng không ai bằng
Hào quang trắng chuyển động như Tu Di
Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển
Trong quang minh có vô số hoá Phật
Hóa Bồ Tát chúng cũng nhiều vô biên
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh
Chín phẩm sen vàng lên bờ giác‘’.
Ðó là pháp khen ngợi Phật. Những vị Bồ Tát đó, sau khi đảnh lễ khen ngợi
rồi, bèn lui về một bên, chuyên tâm chiêm ngưỡng đức Ða Bảo Như Lai và
Phật Thích Ca, mắt chẳng tạm rời.
Các vị đại Bồ Tát từ khi mới vọt lên, dùng đủ thứ pháp của các Bồ Tát, để
khen ngợi Phật, thời gian như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp.
Những vị đại Bồ Tát đó, bắt đầu từ dưới đất vọt lên, bèn dùng đủ thứ pháp
khen ngợi của Bồ Tát, để khen ngợi đức Ða Bảo Như Lai, đức Phật Thích
Ca và các đức Phật từ mười phương đến. Khen ngợi Phật như thế, trải qua
thời gian năm mươi tiểu kiếp.
Tiểu kiếp là gì ? Tuổi thọ của con người bắt đầu từ mười tuổi, mỗi một trăm
năm thì tăng một tuổi, thân cao thêm một tất, tăng đến tám vạn bốn ngàn
tuổi thì ngừng (một tăng). Sau đó lại giảm xuống, cũng mỗi một trăm năm
thì giảm một tuổi, thân cao cũng giảm xuống một tấc, giảm xuống còn mười
tuổi thì ngừng (một giảm), do đó ‘’Một tăng một giảm là một kiếp‘’.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn ngồi yên lặng, bốn chúng cũng đều
yên lặng. Thời gian năm mươi tiểu kiếp rất dài, nhưng nhờ thần lực của
Phật, khiến cho đại chúng cảm thấy như chỉ nửa ngày.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca vẫn ngồi yên lặng trong thời gian năm mươi tiểu
kiếp, chưa từng nói pháp gì. Trong hội này có người hoài nghi : ‘’Ðức Phật
Thích Ca thọ chỉ tám mươi năm, nói pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh
hơn ba trăm hội, cuối cùng nói Kinh Pháp Hoa, từ khi bắt đầu cho đến cuối
chỉ nói tám năm. Tại sao ở trong kinh văn nói : Ðức Phật Thích Ca diễn nói
Kinh Pháp Hoa trải qua năm mươi tiểu kiếp ? Chẳng có căn cứ gì cả ! Thật
khiến cho mọi người khó tin.’’
Trong Kinh Duy Ma Cật có ghi rằng : ‘’Ông Duy Ma Cật ở trong một căn
nhà nhỏ, diện tích chiều dài chiều rộng chẳng quá một trượng. Song, có thể
dung nạp được ba vạn hai ngàn tòa sư tử. Mỗi tòa sư tử cao khoảng tám vạn
do tuần (một do tuần khoảng bốn mươi dặm). Nhà một trượng vuông làm
sao có thể dung nạp được ba vạn hai nghìn tòa sư tử cao lớn như thế ? Ðó là
cảnh giới trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, viên dung vô ngại. Chẳng
qua phàm phu chẳng minh bạch đạo lý này. Nếu minh bạch được, thì năm
mươi tiểu kiếp, bất quá chỉ một niệm mà thôi. Nếu chẳng minh bạch thì tức
là năm mươi tiểu kiếp. Do đó :
‘’Năm mươi tiểu kiếp tức một niệm,
Một niệm tức năm mươi tiểu kiếp.’’
Năm mươi tiểu kiếp cũng chẳng phải là thời gian dài, một niệm cũng chẳng
phải là thời gian ngắn. Tóm lại, đừng chấp trước, không nên có tâm phân
biệt.
Bây giờ tôi kể một câu chuyện để cho mọi người nghe. Cao Phong Diệu
Thiền Sư khi ngồi thiền, thì đến chỗ ven đỉnh núi mà ngồi thiền. Tại sao lại
ngồi thiền ở chỗ nguy hiểm như thế ? Vì khi Ngài ngồi thiền, thì luôn luôn
nhập mộng, chướng ngại sự tu hành. Cho nên, Ngài phát nguyện đến ven
đỉnh núi ngồi thiền. Nếu mà ngủ gục, thì sẽ rớt xuống núi tan xương nát thịt,
tức cũng là đề cao cảnh giác cho đừng ham ngủ. Một ngày trôi qua chẳng
ngủ. Tại sao ? Vì chẳng dám ngủ, nếu mà ngủ thì sẽ rớt xuống vực thẳm, kết
liễu tánh mạng. Vì sinh tồn cho nên không dám ngủ. Song, đến ngày thứ tám
thì chịu hết nổi, mới ngủ trong lúc ngồi thiền, thân thể bèn nghiêng về phía
trước rớt xuống vực thẳm ngàn trượng, trong tâm Ngài nghĩ lần này chắc
chắn chẳng còn tánh mạng. Do đó, bèn buông bỏ thân tâm, chết thì chết !
Chẳng cần lo, ngủ bao lâu thì cứ ngủ !
Thân thể Ngài Cao Phong Diệu Thiền Sư rớt đến nửa đường, thì Bồ Tát Vi
Ðà đến hộ pháp, Bồ Tát Vi Ðà đỡ Ngài ở trong hư không nâng Ngài đi lên.
Ngài cảm thấy thân thể của mình lơ lửng thăng đi lên, cuối cùng đến được
nơi an toàn. Ngài mới hỏi ở trong hư không rằng : ‘’Vị thiện Thần nào đó
đến hộ pháp tôi ?‘’
- Bồ Tát Vi Ðà nói : ‘’Hộ Pháp Vi Ðà.’’
Ngài nghe tiếng của Bồ Tát Vi Ðà thì bèn sinh tâm kiêu ngạo. Trong tâm
nghĩ : - ‘’Ta cảm ứng được Bồ Tát Vi Ðà đến hộ pháp, đại khái người tinh
tấn tu hành như ta trên thế giới này chắc chắn chẳng bao nhiêu.’’ Do đó, mới
hỏi Bồ Tát Vi Ðà rằng :
- ‘’Bồ Tát Vi Ðà ! Trên thế giới này, người tu hành dũng mãnh tinh tấn như
ta có được bao nhiêu‘’?
- Bồ Tát Vi Ðà nói : ‘’Người tu hành như thế nhiều như lông bò. Ông sinh
tâm cống cao ngã mạn như thế, trong tám vạn đại kiếp tới ta cũng chẳng hộ
pháp cho ông’’! Nói rồi bèn bỏ đi.
Lúc đó, Ngài Cao Phong Diệu Thiền Sư sinh tâm hổ thẹn rơi lệ, bèn nghĩ :
‘’Bồ Tát vi Ðà chẳng hộ pháp cho ta, ta cũng phải tham thiền đả tọa, tu hành
đạo nghiệp. Do đó, phấn chấn tinh thần bắt đầu ngồi thiền. Ngồi chẳng bao
lâu, nhịn ngủ chẳng đặng lại ngủ gục nữa. Do đó, lại rớt xuống vực thẳm
nữa. Ngài nghĩ : Lần này chẳng còn hy vọng nữa, tính mạng cũng chấm dứt.
Trong lúc đó lại có hộ pháp Vi Ðà đến đỡ Ngài, nâng đem lên trên núi. Ngài
lại hỏi ở trong hư không rằng : ‘’Vị hộ pháp nào vậy’’?
- Bồ Tát vi Ðà nói : ‘’Hộ pháp Vi Ðà.’’
Ngài Cao Phong Diệu Thiền Sư nghe nói lại nổi giận nói : ‘’Lão Vi Ðà, ông
nói trong tám vạn đại kiếp chẳng hộ pháp tôi, tại sao bây giờ lại đến cứu tôi
? Chẳng phải ông đã phạm giới nói dối chăng‘’? Bồ Tát Vi Ðà nói : ‘’Vì ông
khóc sinh tâm sám hối rất kiền thành, mà còn chân thật, cho nên vượt hơn
thời gian tám vạn đại kiếp. Tức đã vượt quá thời gian thì tôi phải đến hộ
pháp ông.’’ Do đó có thể thấy, một niệm sám hối, có thể vượt quá tám vạn
đại kiếp. Cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn.
Ðức Phật Thích Ca ở trong năm mươi tiểu kiếp chẳng nói, bốn chúng Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ cũng chẳng nói. Thời gian năm mươi
tiểu kiếp đó tuy rất dài, song vì nhờ thần lực của Phật nên khiến cho đại
chúng cảm thấy giống như chỉ thời gian nữa ngày. Tóm lại, tuy trong nửa
ngày có thể đã trải qua năm mươi tiểu kiếp; tuy năm mươi tiểu kiếp, mà
giống như nửa ngày.
Bấy giờ, bốn chúng cũng nhờ thần lực của đức Phật, cho nên thấy các vị Bồ
Tát, của vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước, đầy khắp hư không.
Lúc đó, bốn chúng cũng nhờ thần lực của Ðức Phật, nên nhìn thấy các vị đại
Bồ Tát từ dưới đất vọt lên đầy khắp hư không của vô lượng trăm ngàn vạn
ức cõi nước. Cứu kính đông nhiều bao nhiêu ? Chẳng ai biết được.
Bây giờ nói về thời gian. Trong kinh nói : ‘’Một ngày một đêm ở cõi trời Tứ
Thiên Vương, là năm mươi năm ở tại nhân gian. Một ngày một đêm ở cõi
trời Ðao Lợi, là một trăm năm ở tại nhân gian.
Một ngày một đêm ở cõi trời Dạ Ma, là hai trăm năm ở tại nhân gian. Mỗi
từng trời cao hơn, thì thời gian gấp bội lên. Tuổi thọ của chư thiên ở cõi trời
Tứ Thiên Vương là năm trăm tuổi, ở cõi trời Ðao Lợi là một ngàn tuổi, ở cõi
trời Dạ Ma là hai ngàn tuổi. Mỗi từng trời cao hơn thì tuổi thọ gấp bội lên.
Khi Ðức Phật còn tại thế, thì có một vị ngoại đạo hỏi tôn giả Ca chiên Diên
rằng : ‘’Tôi không tin có đời sau, nếu có đời sau, thì tại sao con người sau
khi chết, chẳng về báo cáo sự chịu khổ như thế nào‘’?
- Tôn giả đáp : ‘’Giống như người phạm tội, bị nhốt vào tù thì làm sao mà
trở về‘’?
- Ngoại đạo lại hỏi : ‘’Người sinh về cõi trời, tại sao chẳng trở về báo cáo sự
hưởng thụ như thế nào‘’?
- Tôn giả đáp : ‘’Ngày đầu tiên họ sinh về cõi trời, phải sắp xếp chỗ ở, ngày
thứ hai lại phải nghỉ ngơi, ngày thứ ba trở về báo tin, thì ở nhân gian đã quá
mấy trăm năm, làm sao mà bạn thấy được’’? Lúc đó ngoại đạo chẳng có lời
lẽ gì để nói, cáo từ đi về.
Trong chúng Bồ Tát đó, có bốn vị đạo sư, một tên là Thượng Hạnh, hai tên
là Vô Biên Hạnh, ba tên là Tịnh Hạnh, bốn tên là An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ
Tát này là thượng thủ, là thầy xướng đạo ở trong chúng.
Ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng đại Bồ Tát, có bốn vị đại đạo sư.
Vị đạo sư thứ nhất tên là Thượng Hạnh, vị đạo sư thứ hai tên là Vô Biên
Hạnh, vị đạo sư thứ ba tên là Tịnh Hạnh, vị đạo sư thứ tư tên là An Lập
Hạnh. Vì các Ngài tu hạnh môn cao thượng nhất, vô biên nhất, thanh tịnh
nhất, an ổn nhất. Bốn vị đạo sư này là thủ lãnh ở trong những vị đại Bồ Tát
đó, là thầy xướng đạo của họ.
Ở trước đại chúng, ai nấy đều chắp tay nhìn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà
hỏi thăm rằng : Ðức Thế Tôn ít bệnh, ít phiền não, an lạc hạnh chăng !
Những người đáng độ có dễ giáo hóa chăng ! Không khiến cho đức Thế Tôn
mệt nhọc chăng !
Bốn vị đạo sư Bồ Tát đó, ở trước đại chúng ai nấy đều chắp tay lại, nhìn tôn
nhan của đức Phật Thích Ca mà hỏi thăm rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Hiện tại
Ngài khỏe chăng ? Chẳng có phiền não chăng ? Ðối với bốn hạnh an lạc
(thân an lạc hạnh, khẩu an lạc hạnh, ý an lạc hạnh, nguyện an lạc hạnh) được
an lạc chăng ! Những chúng sinh đáng hóa độ, có dễ giáo hóa chăng ? Chẳng
có chướng ngại gì chăng ! Chẳng khiến cho đức Thế Tôn mệt nhọc chăng‘’!
Thân an lạc hạnh : Tức là thân phải xa lìa mười việc sau đây :
1). Giàu sang quyền thế.
2). Thần nhân tà pháp.
3). Hung hiểm giỡn cười.
4). Kẻ chiên đà la.
5). Chúng nhị thừa.
6). Dục niệm.
7). Năm thứ người bất nam.
8). Nơi nguy hại.
9). Việc chê bai nghi ngờ.
10). Nuôi dưỡng Sa di nhỏ tuổi.
Khẩu an lạc hạnh : Tức là miệng nên xa lìa bốn thứ lời nói :
1). Không nên nói lỗi của người và kinh điển.
2). Không khinh mạn kẻ khác.
3). Không khen ngợi kẻ khác, cũng chẳng hủy báng kẻ khác.
4). Chẳng sinh tâm bi hận.
Ý an lạc hạnh : Tức là ý nên xa lìa bốn thứ lỗi :
1). Ðố kỵ xiểm nịnh.
2). Khinh khi mắng chưởi.
3). Dùng đại hạnh mắng chưởi người tiểu hạnh. 4). Cạnh tranh.
Nguyện an lạc hạnh : Là đối với chúng sinh chẳng nghe, chẳng biết, chẳng
hay Kinh Pháp Hoa, thì khởi tâm từ bi. Ta muốn được Vô thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác, dùng sức thần thông và trí huệ, để dẫn dắt chúng sinh vào
trong pháp này.
Bấy giờ, bốn vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng :
Thế Tôn an lạc
Ít bệnh ít não
Giáo hóa chúng sinh
Ðược chẳng mệt nhọc.
Và các chúng sinh
Thọ hóa dễ chăng
Chẳng khiến Thế Tôn
Sinh mỏi nhọc chăng !
Lúc đó, Bồ Tát Thượng Hạnh, Bồ Tát Vô Biên Hạnh, Bồ Tát Tịnh Hạnh, Bồ
Tát An Lập Hạnh, bốn vị Bồ Tát này, dùng kệ để hỏi thăm tình trạng của
Ðức Phật Thích Ca, tức cũng là vấn an.
Ðức Thế Tôn ! Ngài an lạc chăng ! Cũng chẳng có bệnh tật, cũng chẳng có
phiền não. Giáo hóa chúng sinh chắc chắn rất an nhàn, chẳng có cảm giác
mệt mỏi ! Lại nữa, tất cả chúng sinh dễ thọ sự giáo hóa chăng ! Chẳng có
khó khăn gì chăng ? Họ chẳng khiến cho đức Thế Tôn sinh mỏi nhọc chăng
?
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong chúng đại Bồ Tát, nói như vầy : Như thế, như
thế ! Các thiện nam tử, Như Lai an lạc, ít bệnh, ít phiền não, hết thảy các
chúng sinh dễ hóa độ, chẳng có mệt nhọc. Tại sao ? Vì các chúng sinh đó,
đời đời kiếp kiếp đến nay, luôn luôn thọ sự giáo hóa của ta, ở trong quá khứ,
họ cũng cung kính tôn trọng các đức Phật, gieo trồng các căn lành.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca ở trong vô lượng đại chúng Bồ Tát nói như vầy :
‘’Là như thế ! Là như thế ! Các vị thiện nam tử ! Như Lai rất an lạc, cũng
chẳng có bệnh tật, cũng chẳng có phiền não. Hết thảy tất cả chúng sinh, đều
rất dễ dàng giáo hóa độ thoát. Vì họ nỗ lực tu hành, tinh tấn dũng mãnh, cho
nên ta chẳng cảm thấy mệt nhọc. Ðây là nguyên nhân gì ? Vì hết thảy chúng
sinh ở trong quá khứ, đời đời kiếp kiếp cho đến hiện tại, luôn luôn thọ sự
giáo hóa của ta, họ cũng cung kính chư Phật, tôn trọng chư Phật, gieo trồng
vô lượng vô biên căn lành.
Những chúng sinh đó, từ khi thấy thân ta, nghe lời của ta nói, thì đều tin
nhận vào trí huệ của Như Lai. Những người trước kia tu tập tiểu thừa, nay ta
cũng khiến cho họ được nghe kinh này, mà vào trí huệ của Phật.
Ðức Phật Thích Ca lại nói : ‘’Hiện tại những chúng sinh mà ta đã giáo hóa,
từ khi họ thấy thân ta, nghe tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo của ta
nói rồi, thì họ lập tức sinh niềm tin, thọ giáo phụng hành, cho nên họ đã
chứng quả A La Hán, đã chứng quả vị Duyên Giác, đã chứng quả vị Bồ Tát.
(A La Hán phân ra: Sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả. Bồ Tát phân ra: Thập
tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Ðẳng giác, năm mươi
mốt quả vị). Chứng được năm mươi mốt quả vị pháp thân đại sĩ, sau đó vào
trí huệ của Phật, chứng được quả vị Diệu Giác’’.
‘’Vào trí huệ của Như Lai, trừ những người trước kia tu tập tiểu thừa, không
ở trong đó. Hiện tại những người học pháp nhị thừa (tứ đế, mười hai nhân
duyên), nay ta cũng khiến cho họ được nghe Kinh Pháp Hoa này, khiến cho
họ hồi tiểu hướng đại, phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo, cũng được trí huệ
của Như Lai‘’.
Kinh Pháp Hoa là con đường tắc tu hành thành Phật, cho nên phải nỗ lực
nghiên cứu, đọc tụng, biên chép, ấn tống, cúng dường, hộ trì kinh này, y theo
pháp mà tu hành, thì công đức vô lượng.
Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng :
Lành thay lành thay !
Ðại hùng Thế Tôn
Hết thảy chúng sinh
Dễ dàng hóa độ.
Nghe được chư Phật
Trí huệ sâu xa
Nghe rồi tin hành
Chúng con tùy hỉ.
Lúc đó, các vị đại Bồ Tát lại dùng kệ để khen ngợi đức Phật Thích Ca: Tốt
lắm ! Tốt lắm ! Phật là đại Thánh Hùng của thế và xuất thế gian, bậc tôn quý
nhất của thế và xuất thế gian. Hết thảy chúng sinh rất dễ tiếp thọ Phật hóa
độ. Họ đều nghe được trí huệ sâu xa của chư Phật, sau khi nghe rồi thì tin
nhận tu hành. Chúng con hết thảy Bồ Tát cũng tùy hỉ công đức đó, cũng
nguyện y theo pháp của Phật dạy mà tu hành.
Khi ấy, đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ Tát thượng thủ rằng : Lành
thay, lành thay ! Thiện nam tử, các ông ở trước Như Lai phát tâm tùy hỉ.
Khi các vị đại Bồ Tát khen ngợi đức Phật Thích Ca rồi, thì đức Phật cũng
khen ngợi các vị đại Bồ Tát, đó là cùng nhau khen ngợi. Tuy nhiên, Bồ Tát
có thể tùy hỉ khen ngợi đức Phật, song Phật không thể tùy tiện khen ngợi Bồ
Tát.
Ðức Phật nói : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Các vị thiện nam tử ! Các ông ở
trước Như Lai phát tâm tùy hỉ, khen ngợi Phật nói Kinh Pháp Hoa, công đức
vô lượng, lại đến núi Linh Thứu pháp hội Linh Sơn nghe Kinh Pháp Hoa‘’.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc và tám ngàn chúng Bồ Tát, nhiều như số cát sông
Hằng, đều nghĩ như vầy : Chúng ta từ xưa đến nay, chẳng thấy chẳng nghe
các chúng đại Bồ Tát như thế, từ dưới đất vọt lên, ở trước đức Thế Tôn chắp
tay cúng dường, thăm hỏi đức Như Lai.
Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc và chúng đại Bồ Tát nhiều như số cát tám ngàn sông
Hằng, đều nghĩ như vầy : ‘’Chúng ta từ xưa đến nay, chưa từng thấy qua
nhiều vị đại Bồ Tát như thế, rất là kỳ lạ; cũng chưa từng nghe qua có nhiều
vị đại Bồ Tát như thế, ở trong tâm của các Ngài có chỗ chưa minh bạch. Cứu
kính những vị đại Bồ Tát này từ đâu đến ? Sao chúng ta lại chẳng biết ?
Khi ấy, đại Bồ Tát Di Lặc biết tâm niệm của các vị Bồ Tát, nhiều như số cát
tám ngàn sông Hằng, cũng muốn tự mình hiểu rõ điều nghi này, bèn chắp
tay hướng về đức Phật, dùng kệ hỏi rằng :
Lúc đó, đại Bồ Tát Di Lặc biết trong tâm của các vị Bồ Tát, nhiều như số cát
tám ngàn sông Hằng có chỗ nghi vấn, và chính Ngài cũng muốn minh bạch
điều nghi vấn này. Do đó, Ngài bèn chắp tay đi đến trước Phật, hướng về
Phật thỉnh pháp, dùng kệ để hỏi rằng.
Vô lượng ngàn vạn ức
Các đại chúng Bồ Tát
Xưa kia chưa từng thấy
Nguyện đức Thế Tôn nói.
Họ từ nơi nào đến
Do bởi nhân duyên gì ?
Thân lớn đại thần thông
Trí huệ không nghĩ bàn.
Chí niệm rất kiên cố
Có sức nhẫn nhục lớn
Chỗ chúng sinh ưa thấy
Từ xứ nào mà đến ?
Vô lượng đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, có hơn ngàn vạn ức. Các đại chúng
Bồ Tát tại pháp hội, thuở xưa chưa từng thấy cũng chẳng nghe qua. Chúng
con xin nguyện đức Thế Tôn, vì chúng con nói nhân duyên này.
Vô lượng vị đại Bồ Tát này từ đâu đến đây ? Các Ngài tụ tập tại pháp hội,
cứu kính có nhân duyên gì ? Các Ngài đều hiện thân lớn, có sức thần thông
lớn. Trí huệ của các Ngài không thể nghĩ bàn.
Vô lượng đại Bồ Tát này chí nguyện, niệm lực chắc chắn rất kiên cố. Giới
định huệ ba học của các Ngài chắc chắn kiên cố chẳng hoại. Các Ngài có sức
đại bố thí, sức đại nhẫn nhục, sức đại trì giới, sức đại tinh tấn, sức đại thiền
định, sức đại trí huệ. Chúng sinh đều hoan hỉ thấy các Ngài, nghe các Ngài
nói pháp. Song, chúng con đại chúng chẳng biết các Ngài từ đâu đến ? Xin
đức Thế Tôn từ bi khai thị cho đại chúng rõ.

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét