Lúc đó, ông nội của các Ngài là Chuyển Luân Thánh Vương, dẫn một trăm
vị đại thần và trăm ngàn vạn ức nhân dân, đều cùng vây quanh để đi đến đạo
tràng nơi Phật thành đạo, để gần gũi Phật Ðại Thông Trí Thắng, cúng dường
cung kính, tôn trọng ngợi khen Phật. Ðến chốn Phật rồi, tất cả đều năm thể
sát đất, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi một lòng chấp
tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Sau đó, dùng bài kệ để tán thán Phật.
Thế Tôn oai đức lớn
Vì cứu độ chúng sinh
Trong vô lượng ức kiếp
Nay mới được thành Phật.
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp.
Thân thể và tay chân
Vắng lặng yên chẳng động
Tâm Phật thường lặng lẽ
Chưa từng có tán loạn.
Rốt ráo hằng tịch diệt
An trụ pháp vô lậu
Ngày nay thấy Thế Tôn
An ổn thành Phật đạo.
Chúng con được lợi lành
Rất hớn hở vui mừng
Chúng sinh thường khổ não
Ðui mù không đạo sư.
Chẳng biết đạo dứt khổ
Không biết cầu giải thoát
Ngày đêm thêm nẻo ác
Tổn giảm chúng chư thiên.
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe tên Phật
Nay Phật được vô thượng
Ðạo an ổn vô lậu.
Chúng con và trời người
Vì được lợi lành lớn
Cho nên đều cuối đầu
Quy mạng đấng Vô Thượng.
Ðức Thế Tôn là bậc có đại oai đức nhất trong thế gian, vì cứu độ tất cả sáu
nẻo chúng sinh chịu khổ trong mười phương, mà trải qua vô lượng ức kiếp
trang nghiêm vạn hạnh, mới được thành Phật đạo, đầy đủ viên mãn thệ
nguyện đã phát ra từ trước. Cho nên, nói: Nếu ai chân chánh muốn phát tâm
tu đạo, thì phải phát đại thệ nguyện. Mười phương chư Phật thành tựu Phật
quả, đều phát thệ nguyện vô thượng và tâm bồ đề rộng lớn, tại sao chúng ta
ở trong sự tu đạo chịu khổ chẳng được ? Hoặc sinh tâm thối chuyển ? Vì
chúng ta chẳng thật sự đem chân tâm ra để tu đạo, chưa từng phát tâm thệ
nguyện kim cang kiên cố Ba la mật.
Phật là bậc cát tường thù thắng nhất, vô thượng nhất, rất hiếm có trên thế
gian. Phật hay nhập vào thiền định thâm sâu, như thế trải qua mười tiểu kiếp
thời gian lâu dài, song thân thể tay chân của Phật vẫn vắng lặng an nhiên
chẳng động, tâm của Ngài xa lìa tất cả điên đảo mộng tưởng, chẳng có ô
nhiễm một chút bụi, cho nên chẳng tán loạn.
Phật rốt ráo đắc được viên giác vĩnh hằng, an trụ ở trong thường tịch quang,
lấy pháp vô lậu, mở bày hàng nhị thừa. Như hôm nay chúng con được thấy
Ðức Thế Tôn an ổn thành tựu Phật đạo, vì đắc được lợi ích tốt lành, cho nên
chúng con biểu lộ vui mừng hớn hở.
Tất cả sáu nẻo chúng sinh thường chịu các sự thống khổ bức bách, như
người mù, mất đi đạo sư dẫn dắt, chẳng biết con đường lìa khổ, chẳng biết
làm thế nào để ra khỏi sinh tử luân hồi, cứ tạo tội nghiệp chồng chất. Chúng
sinh điên đảo trầm luân ở trong đường ác, bị vô minh che lấp đi trí huệ Phật
tính, tội nghiệp chướng ngại, cho nên chẳng nghe được hồng danh của Ðức
Phật.
Như nay Phật đắc được vô thượng, Phật đạo an ổn, chúng con và tất cả trời
người như tối có đèn, đều được lợi ích rất lớn, cho nên chúng con năm thể
sát đất, cuối đầu đảnh lể, một lòng quy mạng đấng Thế Tôn Vô Thượng.
Khi chúng ta một lòng quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tức là bắt đầu học
tập Phật pháp, trước hết phải khử trừ ‘’ngã tướng‘’. Ví như phải xả mình vì
người, chẳng tồn tâm tổn người lợi mình .v.v. Tất cả phiền não đều do chấp
trước vào ngã tướng (tướng ta) tham dục mà khởi, song phải làm cho được
chẳng còn có tướng ta, thật không dễ dàng. Cho nên, chúng ta phải đem thân
tâm tính mạng quy y Tam Bảo, nương theo pháp của Phật nói mà tu hành,
thì nhất định phải xả bỏ ngã chap, và ba độc tham sân si phiền não, được vô
vi khoái lạc tự tại hằng thường, chẳng còn thọ thân sau nữa.
Bấy giờ, mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi, bèn thỉnh cầu đức
Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, đều thưa rằng : Ðức Thế Tôn thuyết pháp
được nhiều sự an ổn, thương xót lợi ích các trời người, lại nói kệ rằng.
Khi mười sáu vị vương tử khen ngợi Ðức Phật rồi, các Ngài lại thỉnh Phật
chuyển bánh xe diệu pháp. Chuyển bánh xe pháp như thế nào ? Diễn nói bốn
diệu đế, mười hai nhân duyên, cho đến sáu độ Ba la mật kinh điển giáo
nghĩa, giải nói nghĩa lý Phật pháp, đều là chuyển bánh xe pháp; còn có nhiều
phương tiện lìa khổ được vui, tứ thiền bát định .v.v. Chuyển bánh xe pháp
như hộ trì Tam bảo, khen ngợi Tam Bảo, tuyên dương Phật pháp, khuyên
người khác tín ngưỡng Phật giáo .v.v., đó đều là chuyển bánh xe pháp lợi ích
chúng sinh.
Mười sáu vị đồng tử lại dị khẩu đồng âm nói: ‘’Ðức Thế Tôn ! Thỉnh Ngài
vì chúng con nói Phật pháp vô thượng, khiến cho chúng con tất cả chúng
sinh được an ổn, xin Ngài thương xót và lợi ích tất cả trời người.’’ Lại nói kệ
khen ngợi Phật.
Thế Tôn chẳng ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Ðược trí huệ vô thượng
Xin vì thế gian nói.
Ðộ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sinh
Vì phân biệt hiển bày
Khiến được trí huệ Phật.
Nếu chúng con thành Phật
Chúng sinh cũng như thế
Thế Tôn biết chúng sinh
Nghĩ gì trong thâm tâm.
Cũng biết họ nguyện gì
Lại biết sức trí huệ
Ưa muốn và tu phước
Nghiệp tạo ra đời trước.
Thế Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượng.
Phật là đấng Thánh hùng xuất thế gian. Chúa Ðại hùng thế gian không thể
sánh với đại Thánh Tôn ! Ba A Tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng ruộng
phước, vạn đức trang nghiêm tướng tốt, đầy đủ oai nghi. Phật là đại Thánh
hùng vô thượng của thế gian, cho nên xưng là ‘’Thiên thượng thiên hạ, duy
ngã độc tôn‘’. Vì Phật trong ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, trong trăm kiếp
vun bồi tướng tốt trang nghiêm viên mãn, Phật đắc được trí huệ vô thượng,
cho nên Phật vì tất cả chúng sinh thế gian nói ra pháp vi diệu, khiến cho
chúng con xa lìa biển khổ, sớm lên bờ giác ngộ. Vì nhân duyên của mười hai
loài chúng sinh, đều hiển bày khác nhau, khiến cho chúng con đắc được trí
huệ vô thượng, Phật quả bồ đề.
Nếu chúng con đều thành Phật đạo, thì tất cả sáu nẻo chúng sinh thảy đều
như thế. Ðức Thế Tôn biết rõ tâm của tất cả chúng sinh, nghĩ gì và nguyện
gì, Phật biết hết sức trí huệ của họ có bao nhiêu, nghĩ muốn được bao nhiêu
thiện lạc, tích tập bao nhiêu phước đức, tạo bao nhiêu tội nghiệp, cho nên
Phật đều biết đều thấy, nên Phật chuyển bánh xe pháp.
Phật bảo các Tỳ Kheo ! Khi đức Phật Ðại Thông Trí Thắng được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm vạn
ức thế giới của chư Phật, có sáu thứ chấn động. Trong các cõi nước đó, chỗ
tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu đến, mà nay đều sáng
rực rỡ. Chúng sinh ở trong đó đều thấy nhau, đều nói rằng : Trong đây tại
sao bỗng sinh ra chúng sinh ? Và cung điện của chư Thiên, cho đến cung
điện của Phạm thiên, trong các cõi đó, đều có sáu thứ chấn động. Quang
minh chiếu khắp đầy các thế giới, sáng hơn ánh sáng của chư Thiên.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo rằng: ‘’Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng
được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Cháng Giác, thì trong mười phương, mỗi
phương đều có năm trăm vạn ức thế giới của chư Phật, đều hiện sáu thứ chấn
động.
Lúc đó, trong tất cả cõi nước đó, phàm là chỗ nào tối tăm, ánh sáng mặt trời
mặt trăng không thể chiếu đến được, thì nay đều xuất hiện ánh sáng. Chúng
sinh ở đây thấy rõ được tất cả, họ bèn nói rằng: ‘’Chúng sinh từ đâu đến’’?
(kì thật trước kia họ sống trong bóng tối, có cũng chẳng thấy, cho nên nói
chẳng có chúng sinh tồn tại. Bây giờ, bỗng có ánh sáng, mới thấy có chúng
sinh khác).
Lại nữa, ở trong phạm vi những cõi nước đó, tất cả Thiên cung cho đến cung
điện của Phạm thiên, đều hiện sáu thứ chấn động, được quang minh chiếu
khắp, đầy các thế giới. Quang minh đó sáng hơn tất cả quang minh của chư
Thiên, hơn ánh sáng của mặt trời mặt trăng mấy ngàn vạn lần.
Bấy giờ, ở phương đông năm trăm vạn ức cõi nước, các cung điện của cõi
trời Phạm thiên, có ánh sáng chiếu sáng gấp bội hơn ánh sáng thường. Các
vị Phạm Thiên Vương đều nghĩ : Hôm nay ánh sáng chiếu đến cung điện, từ
xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà hiện tướng nầy ? Lúc đó, các Phạm
Thiên Vương đều đi đến với nhau cùng bàn về việc nầy. Khi đó, trong chúng
có một vị Phạm Thiên Vương, tên là Cứu Nhất Thiết, vì các chúng Phạm
Thiên mà nói kệ rằng.
Khi đó, ở phương đông các cung điện của trời Phạm Thiên, trong năm trăm
vạn ức cõi nước, đều được ánh sáng chiếu sáng, ánh sáng đó hơn ánh sáng
thường gấp ngàn vạn lần.
Lúc đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương đều sinh ra hoài nghi : ‘’Như hôm
nay cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy, từ xưa chưa từng có, bởi nhân
duyên gì mà nay hiện ra tướng điềm lành nầy’’?
Do đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều tự tìm đến cùng nhau, thảo luận
về việc ánh sáng chiếu đến cung điện. Lúc đó, trong chúng trời Phạm Thiên
Vương, có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Cứu Nhất Thiết, vì tất cả
chúng Phạm Thiên mà nói ra bài kệ.
Các cung điện chúng ta
Ánh sánh xưa chưa có
Ðây là nhân duyên gì ?
Thảy đều cùng nhau tìm.
Là trời đại đức sinh
Hay Phật hiện ra đời ?
Mà ánh sáng lớn nầy
Chiếu khắp trong mười phương.
Các cung điện của chúng ta được ánh sáng chiếu đến, đây là ánh sáng không
thể nghĩ bàn chưa từng có. Ðây là nhân duyên gì ? Chúng ta đều cùng nhau
đi tìm ánh sáng nầy từ đâu đến ? Theo ý của tôi thì, đây có thể là một vị đại
đức Thánh nhân ra đời, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời, nên mới có ánh
sáng như thế, chiếu khắp mười phương thế giới.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức các cõi nước, cùng
với cung điện, ai nấy đều dùng túi y đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến
hướng tây để tìm tướng ánh sáng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như
Lai, ngồi trên tòa sư tử, tại đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư Thiên, Long
vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... đều
cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử, thỉnh đức Phật chuyển
bánh xe pháp.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương
đông, đều mang theo cung điện của họ cùng bay đi. Phàm là người trời đều
có thể bay đi tự tại, chẳng những như thế, mà họ còn có thể mang theo cung
điện của họ cùng đi, rất thuận tiên tự tại, và họ còn dùng túi đựng đầy các
hoa trời, đồng đi đến phương tây, để tìm nguồn gốc tướng ánh sáng đó, thấy
đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử tại đạo tràng dưới cội
Bồ đề.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thác Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu
La Già, người và chẳng phải người .v.v... đều cùng nhau đến cung kính vây
quanh Ðức Phật. Họ lại thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh Phật chuyển
bánh xe pháp.
Tức thời, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ đức Phật, nhiễu trăm
ngàn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật, hoa rải xuống nhiều như núi
Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cây bồ đề đó cao mười do
tuần, cúng dường hoa xong, ai nấy đều đem cung điện dâng lên đức Phật đó,
mà bạch rằng : Xin đức Phật thương xót lợi ích cho chúng con, cung điện
dâng cúng đây, xin đức Phật hãy nhận để ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh
nói bài kệ rằng.
Thế tôn rất ít có
Khó có thể gặp được
Ðủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả.
Ðại sư của trời người
Thương xót nơi thế gian
Các chúng sinh mười phương
Khắp đều được lợi ích.
Chúng con đều đến từ
Năm trăm vạn ức cõi
Xả bỏ vui thiền định
Vì cúng dường đức Phật.
Chúng con phước đời trước
Cung điện rất tốt đẹp
Nay dâng lên Thế Tôn
Cúi xin thương nhận ở.
Khi đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều đảnh lễ dưới chân đức Phật,
cung kính đi nhiễu chung quanh Ðức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời
của họ rải ở trên thân Ðức Phật, hoa rải ra nhiều như núi Tu Di, lại dùng hoa
trời để cúng dường cây Bồ đề của Phật. Cây Bồ đề đó cao mười do tuần,
cúng dường như thế rồi, các vị Ðại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều đem
cung điện mà họ ưa thích nhất, để dâng cúng Ðức Phật.
Sau đó nói: ‘’Chư Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích cho chúng con
mà nhận cung điện của chúng con dâng cúng.’’ Nói xong rồi, tất cả vị Phạm
Thiên Vương đều quỳ xuống ở trước Phật, một lòng đồng tiếng, nói kệ.
Ðức Thế Tôn ! Ngài là đấng Thánh Tôn ít có nhất trên đời, rất khó gặp nhất,
Phật đầy đủ vô lượng công đức nên thành Phật. Chúng ta tất cả chúng sinh,
cũng phải đầy đủ vô lượng công đức, mới có cơ hội gặp được Phật. Phật hay
cứu hộ tất cả chúng sinh, Ngài là đạo sư của trời người, Phật hay từ bi
thương xót tất cả chúng sinh thế gian, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh.
Chúng con tất cả các Phạm Thiên Vương, từ năm vạn ức cõi nước đến đây,
vì muốn tìm ánh sáng nầy, cho nên bỏ sự vui thiền định thâm sâu. Nếu người
tu đạo, một ngày chẳng chứng được cảnh giới vui thiền định, thì thái độ đều
cẩu thả, người chân chánh đắc được vui thiền định, thì rất hoan hỉ tham thiền
đả tọa. Thấy tất cả thế gian vạn sự vật đều rất an lạc, mà các chư Thiên nầy,
tuy chứng được thiền định, song chưa dứt sinh tử thoát khỏi tam giới, do đó,
khi họ thấy được ánh sáng nầy, ai nấy cũng đều muốn bỏ vui thiền định, để
đi tìm nguyên do của ánh sáng nầy, cũng vì muốn cúng dường Phật mà đến,
lại nói với Phật : Chúng con thuở xưa tại nhân địa, tu các phước báu, mới có
được cung điện tốt đẹp trang nghiêm nầy, hiện nay gặp được Phật, chúng
con dâng cúng cung điện nầy lên Ðức Phật, cúi xin Phật thương xót tiếp
nhận sự cúng dường của chúng con.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều nói
: Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, độ thoát cúng sinh, mở đường
Niết Bàn. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ
rằng.
Thế hùng Lưỡng Túc Tôn
Cúi xin diễn nói pháp
Dùng sức đại từ bi
Ðộ chúng sinh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói bài kệ khen Ðức Phật rồi, họ cùng
nhau bạch rằng: ‘’Cúi xin Ðức Thế Tôn hãy vì chúng con chuyển bánh xe
diệu pháp, độ thoát tất cả chúng sinh chịu khổ, xin Phật từ bi mở con đường
Niết bàn‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương lại một lòng đồng thanh nói ra
bài kệ.
Ðức Thế Tôn ! Ngài là đấng Ðại Thánh Hùng vô thượng trong thế gian, vạn
đức viên mãn, phước huệ đều đủ. Cúi xin Ðức Thế Tôn vì chúng con chúng
sinh diễn nói diệu pháp, hy vọng nhờ sức đại từ bi của Ðức Thế Tôn, để độ
thoát sự khổ ràng buộc của chúng con và chúng sinh, đều ra khỏi biển khổ
sinh tử, sớm lên bờ giác ngộ.
Bấy giờ, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.
Lại nữa, các Tỳ Kheo ! Phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các
vị Ðại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ
xưa chưa từng có, thảy đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu, bèn cùng
nhau đi đến bàn về việc nầy.
Lúc đó, trong chúng đó có một vị Ðại Phạm Thiên Vương, tên là Ðại Bi, vì
các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng :
Việc nầy nhân duyên gì ?
Mà hiện tướng như thế
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chưa từng có.
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời ?
Chưa từng có tướng nầy
Nên cùng một lòng tìm.
Qua ngàn vạn ức cõi
Theo luồng sáng tìm đến
Phần nhiều Phật ra đời
Ðộ thoát chúng sinh khổ.
Lúc đó, Ðức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời, sự thỉnh cầu
của các vị Phạm Thiên Vương.
Phật nói : Ở phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, tất cả các vị
Ðại Phạm Thiên Vương, đều thấy các cung điện của họ, đều hiện ánh sáng
chiếu sáng, từ xưa chưa từng có, do đó họ đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy
hữu. Họ tụ lại với nhau cùng thảo luận vấn đề nầy.
Lúc đó, ở trong chúng hội đó, có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Ðại
Bi, vì tất cả các Phạm Thiên Vương, mà nói ra bài kệ.
Việc nầy rất là thù thắng, cho nên hiện tướng điềm tốt nầy, chiếu đến cung
điện của chúng ta. Ánh sáng nầy từ xưa chưa từng có, chắc chắn là có vị đại
đức từ trên trời hàng sinh xuống, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời. Ðây là
cảnh giới chúng ta chưa từng thấy qua, nên cùng nhau đi tìm nguyên do.
Do đó, trải qua ngàn vạn ức cõi nước, để đi tìm nguyên nhân của ánh sáng
đó. Theo sự suy đoán của tôi, phần nhiều chắc chắn là có vị Phật xuất hiện ra
đời, để độ thoát tất cả chúng sinh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, đều mang
theo cung điện đi với, ai nấy cũng đều dùng túi đựng đầy hoa trời, cùng đi
đến phương tây bắc, để tìm tướng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như
Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long
vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy
đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh đức
Phật chuyển pháp luân.
Lúc đó, ở phương đông nam, năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương đều
mang theo cung điện của họ, cùng nhau đi tìm ánh sáng nầy. Mỗi vị Ðại
Phạm Thiên Vương, đều dùng túi đựng đầy hoa trời, chuẩn bị dùng để rải
hoa cúng dường mười phương chư Phật, họ đều đi về hướng tây bắc để tìm
tướng ánh sáng đó.
Lại thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi
Ðạo tràng dưới cội Bồ đề. Tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người .v.v., đều cung kính
vây quanh Ðức Phật, lại thấy mười sáu người con của Ðức Phật Ðại Thông
Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe diệu pháp.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật,
nhiễu quanh đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức
Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng cúng dường cây bồ đề của Phật,
cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường đức
Phật đó, mà bạch rằng : Cúi xin đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung
điện dâng cúng đây, xin đức Phật hãy nhận.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh
nói bài kệ rằng.
Lúc đó, hết thảy các vị Ðại Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân của Ðức
Phật, và nhiễu trăm ngàn vòng. Nhiễu Phật xong rồi, thì dùng hoa trời của họ
mang đến rải lên thân Phật, hoa rải lên cúng Phật nhiều như núi Tu Di,
chẳng những cúng dường Ðức Phật, mà còn cúng dường cây Bồ đề của Phật.
Cúng dường rồi, mỗi vị Ðại Phạm Thiên Vương đều đem cung điện của họ
mang đến, dâng lên cúng dường Phật Ðại Thông Trí Thắng, và nói : ‘’Cúi
xin đức Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích chúng con, hiện nay cung
điện dâng cúng là cung điện báu đẹp của chúng con, xin Phật hãy nhận
lãnh‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, ở
trước đức Phật một lòng đồng cất tiếng, dùng kệ để khen ngợi Ðức Phật Ðại
Thông Trí Thắng.
Thánh chúa Thiên trung vương
Tiếng ca lăng tần già
Thương xót các chúng sinh
Chúng con nay kính lễ.
Thế Tôn rất ít có
Lâu xa hiện một lần
Một trăm tám mươi kiếp
Trải qua chẳng có Phật.
Đầy dẫy ba đường ác
Chúng chư thiên giảm bớt
Nay Phật hiện ra đời
Mắt sáng của chúng sinh.
Chỗ thế gian nương tựa
Cứu hộ thảy mọi loài
Cha lành của chúng sinh
Thương xót làm lợi ích.
Chúng con nhờ phước xưa
Nay được gặp Thế Tôn.
Phật cũng gọi là Thánh Chúa, tức là Thánh Trung Thánh, Thiên Trung
Thiên, cho nên còn gọi là Thiên Trung Vương. Ca lăng tần già là tiếng Phạn,
dịch là "tiếng chim hay". Ở thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà có loài chim
nầy, thường dùng tiếng hay của nó, để tuyên dương pháp âm, tiếng của Phật
thuyết pháp khiến cho người thích nghe, ai nghe được thì tâm tĩnh lặng,
cũng giống như nghe được tiếng hay tốt của loài chim nầy, mà âm thanh đại
từ bi của Phật thương xót tất cả chúng sinh.
Chúng con năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương, nay hướng về đức Thế
Tôn kính lễ. Ðức Thế Tôn ! Ngài rất là ít có, rất khó được gặp ! Vì Phật trải
qua số kiếp lâu xa, mới xuất hiện ra đời. Theo chỗ chúng con biết, thì trong
một trăm tám mươi kiếp đã qua, đều chẳng có Phật xuất hiện ra đời. Do đó,
chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ngày càng
nhiều, song chư thiên chúng con ngày càng ít. Bây giờ, Phật xuất hiện ra đời,
mà trước kia chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác đều vì họ chẳng nghe
được pháp âm, chẳng phân biệt được thị phi trắng đen, tạo các nghiệp ác, vì
chẳng có ai dẫn dắt họ, cho nên họ mê hoặc ở trong đen tối, Phật là thiện tri
thức mắt sáng của tất cả chúng sinh, cho nên khi Phật xuất hiện ra đời, thì tất
cả chúng sinh, đều được Phật chỉ dẫn con đường thoát khỏi đen tối nguy
hiểm. Chúng sinh trong ba đường ác sẽ giảm bớt, còn chúng sinh ba đường
lành sẽ thêm nhiều.
Tất cả chúng sinh thế gian đều về nương tựa với Phật, hướng về bồ đề giác
đạo, Phật cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên Phật là cha đại từ bi của chúng
con, còn chúng con đều là con bất hiếu của Phật.
Song, Phật rất thương xót lợi ích chúng con, nguyện độ chúng con sớm lên
bờ giác. Chúng con các chư Thiên, đều vì đời trước đã từng làm công đức và
việc lành, cho nên đời nầy mới may mắn được gặp Phật. Hiện nay chúng con
nghe được pháp của Phật nói, đều do nhân duyên căn lành đời trước.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch
rằng : Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển bánh xe pháp, độ thoát
chúng sinh.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Đại Thánh chuyển pháp luân
Hiển bày các pháp tướng
Độ chúng sinh khổ não
Khiến được vui mừng lớn.
Chúng sinh nghe pháp nầy
Đắc đạo hoặc sinh thiên
Các đường ác giảm dần
Người khéo nhẫn thêm nhiều.
Lúc đó, hết thảy các vị Ðại Phạm Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi
nước ở phương đông nam, dùng kệ khen ngợi đức Phật rồi, bèn bạch Phật
rằng : ‘’Hiện nay chúng con chỉ mong cầu Phật thương xót tất cả chúng sinh,
vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp, dạy chúng con như thế nào để liễu
sinh thoát tử, ly khổ đắc lạc.’’ Khi đó, tất cả Ðại Phạm Thiên Vương một
lòng đồng cất tiếng nói ra bài kệ.
Hiện tại, chúng con thỉnh Ðức Phật chuyển bánh xe pháp, để giáo hóa chúng
sinh. Chỉ rõ cho chúng con thật tướng của tất cả pháp, để độ thoát chúng
sinh khổ não, khiến cho họ đều được vui mừng lớn. Chúng sinh nghe được
pháp của Phật nói, thì sẽ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, nếu hay tu đạo,
thì có thể sinh về ba đường lành, còn chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác
sẽ giảm bớt, người hay tu nhẫn nhục, giữ năm giới tu thập thiện, thì ngày
càng thêm nhiều.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.
Lại nữa, các Tỳ Kheo ! Ở phương nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị
Đại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa
chưa từng có tướng điềm lành nầy, ai nấy đều vui mừng hớn hở, sinh tâm hy
hữu, bèn cùng nhau tụ lại luận bàn việc nầy. Vì nhân duyên gì mà cung điện
của chúng ta có ánh sáng nầy ?
Lúc đó, trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì
các Phạm chúng mà nói kệ rằng :
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chiếu sáng rực
Đây là nhân duyên gì ?
Tướng nầy phải tìm cầu.
Trải qua trăm ngàn kiếp
Chưa từng thấy tướng nầy
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời?
Lúc bấy giờ, Phật Ðại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phật bèn nói:
‘’Nầy các Tỳ Kheo ! Các Ðại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi
nước ở phương nam, ai nấy đều nhìn thấy cung điện của mình ánh sáng
chiếu soi, từ trước chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, do đó họ đều
vui mừng hớn hở, sinh tâm ít có, đều tụ tập lại cùng nhau thảo luận về việc
nầy : Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy ? Lúc đó,
ở trong hội có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì chúng hội
Ðại Phạm Thiên Vương mà nói ra bài kệ.
Hiện nay cung điện của chúng ta ở, phát ra ánh sáng rất sáng rực, ánh sáng
nầy chưa từng thấy qua, chắt chắn là có nhân duyên lớn, cho nên chúng ta
phải đi tìm nhân duyên của tướng điềm lành nầy. Vì trong trăm ngàn kiếp
quá khứ, chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, đại khái là có bậc đức
hạnh lớn, từ trên trời sinh xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra
đời.
Bấy giờ, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, đều mang theo cung
điện của họ, và dùng túi y đựng đầy hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc,
tìm tướng ánh sáng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên
tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà,
Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều vây quanh, và thấy
mười sáu vị vương tử đang thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.
Lúc bấy giờ, các vị Ðại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở
phương nam, đều mang theo cung điện của họ, và y trời của họ, thảy đều đầy
ắp hoa trời, thân thể đều phát ra đủ thứ hương thơm, đây là phước báu của
họ, lần nầy họ cũng dùng túi y mang đầy đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về
phương bắc, để tìm tướng ánh sáng đó, thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như
Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề, thành đạo mà
phát ra vô lượng ánh sáng không thể nghĩ bàn nầy.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, (thần nhạc trời), Khẩn
Na La (chim đại bàng cánh vàng), Ma Hầu La Già (đại mãng xà), người,
chẳng phải người, hết thảy đều cung kính vây quanh Ðức Phật.
Lại thấy mười sáu vị vương tử của Phật. Mười sáu vị vương tử nầy, đều đời
đời kiếp kiếp phát nguyện làm con của Phật, hộ trì đạo tràng. Khi Phật thành
đạo rồi, lại vì tất cả chúng sinh, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, đó đều là
một thứ nhân duyên thù thắng.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh
trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức Phật. Hoa rải nhiều như
núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa rồi, ai
nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường đức Phật đó, mà bạch Phật
rằng : Cúi xin Phật thương xót, lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng
đây, xin Phật hãy nhận ở. Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức
Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương
nam, thảy đều năm thể (đầu, hai tay, hai chân) sát đất, cung kính đảnh lễ
Ðức Phật, nhiễu Phật trăm ngàn vòng, lại dùng hoa trời mà họ mang đến rải
lên Ðức Phật, hoa rải nhiều như núi Tu Di, và họ còn cúng dường cây bồ đề
của Phật. Cúng dường hoa rồi, họ lại dâng cung điện quý báu nhất của họ, để
cúng dường đức Phật Ðại Thông Trí Thắng, sau đó nói : ‘’Cúi xin đức Thế
Tôn đại từ bi thương xót chúng con, tất cả chúng sinh, lợi ích cho chúng con,
cung điện của chúng con dâng cúng đây, xin Ðức Phật từ bi nhận lấy, thỉnh
Ðức Phật vào ở trong cung điện nầy.’’
Lúc đó, tất cả Ðại Phạm Thiên Vương đều ở trước Phật, một lòng đồng
thanh dùng kệ, để khen ngợi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai.
Thế Tôn rất khó gặp
Bậc phá các phiền não
Qua trăm ba mươi kiếp
Nay mới gặp một lần.
Các chúng sinh đói khác
Đều thấm nhuần mưa pháp
Xưa chưa từng gặp Phật
Bậc vô lượng trí huệ.
Như hoa ưu đàm bát
Hôm nay mới gặp được
Các cung điện chúng con
Nhờ ánh sáng nghiêm sức.
Thế Tôn đại từ mẫn
Cúi xin hãy nhận ở.
Trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được Phật. Phật là bậc đại giác ngộ, đã phá
trừ tất cả vô minh phiền não, tức cũng là bậc đại từ bi, hay phá tất cả phiền
não của chúng sinh. Chúng con trải qua một trăm ba mươi đại kiếp đến nay,
mới được gặp Phật, tất cả chúng sinh đói khác ở trong ba đường ác, đều
được đượm nhuần mưa pháp của Phật, thuở xưa chưa từng gặp được Phật
Pháp Tăng. Ðức Thế Tôn là bậc vô lượng vô biên đại trí huệ, như hoa Ưu
Ðàm Bát chẳng dễ gì gặp được, mà chúng con nay gặp được Phật. Cung điện
mà chúng con ưa thích đây, nay gặp được Phật, đều nguyện xả bỏ cung điện,
nhờ quang minh của Phật trang nghiêm cung điện chúng con, thỉnh cầu đức
Thế Tôn phát tâm đại từ bi thương xót, xin hãy nhận cung điện nầy.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều
bạch Phật rằng : Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả
thế gian chư Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa môn, Bà la môn, đều được
an ổn mà được giải thoát.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh, nói bài kệ rằng.
Cúi xin Thiên Nhân Tôn
Chuyển pháp luân vô thượng
Đánh vang trống pháp lớn
Thổi lên ốc pháp lớn.
Rưới khắp mưa pháp lớn
Độ vô lượng chúng sinh
Chúng con đều thỉnh cầu
Nói tiếng pháp sâu xa.
Bấy giờ, tất cả các vị Ðại Phạm Thiên Vương dùng kệ khen ngợi Phật rồi, họ
khác miệng cùng tiếng nói: ‘’Cúi xin Ðức Thế Tôn vì chúng con, tất cả
chúng sinh, chuyển bánh xe diệu pháp, khiến cho tất cả thế gian, các Thiên
chúng, ma, Phạm vương, Sa môn, Bà La môn, đều được an ổn và khoái lạc,
và được thoát khỏi khổ ba đường ác‘’.
Lúc đó, tất cả chúng Ðại Phạm Thiên Vương, một lòng đồng thanh dùng kệ
để khen ngợi Phật : Chúng con cúi xin Phật Thế Tôn, được trời người tôn
kính, vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng, đánh trống pháp
lớn, thổi ốc pháp lớn. Như âm thanh nầy sẽ vang khắp tận hư không, thậm
chí chư Thiên ở trên trời, đều nghe được pháp âm nầy rất rõ ràng. Mưa pháp
vũ xuống khắp mọi nơi, chỉ có pháp vi diệu của Phật, mới độ thoát được vô
lượng vô biên chúng sinh. Chúng con thảy đều một lòng quy y Phật, thỉnh
Phật chuyển bánh xe pháp, xin Phật hãy vì chúng con diễn nói pháp âm sâu
xa nhất.
Bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. Phương tây
nam cho đến phương dưới, cũng lại như thế.
Bấy giờ, phương trên có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Thiên
Vương, đều tự thấy ánh sáng, chiếu sáng rực cung điện của mình, từ xưa
chưa từng có, vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, đều tụ lại cùng nhau bàn
về việc đó. Vì nhân duyên gì, mà cung điện của chúng ta có ánh sáng đó ?
Lúc đó, ở trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương, tên là Thi Khí, vì
các chúng Đại Phạm Thiên, mà nói bài kệ rằng.
Nay bởi nhân duyên gì ?
Các cung điện chúng ta
Ánh sáng chiếu sáng rực
Trang nghiêm chưa từng có.
Diệu tướng lạ như thế
Xưa nay chưa nghe thấy
Là trời đại đức sinh
Hay là Phật ra đời ?
Bấy giờ, Phật Ðại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phương tây nam cho
đến phương dưới cũng đều như thế. Lúc đó, phương trên có các vị Ðại Phạm
Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi nước, đều thấy tướng ánh sáng chiếu
sáng cung điện của họ, từ xưa chưa từng có, thấy rồi rất vui mừng hớn hở,
sinh tâm ít có. Họ đều muốn biết nguyên do cảnh giới thù thắng nầy, do đó
các vị Ðại Phạm Thiên Vương cùng nhau tụ lại để thảo luận, vì nhân duyên
gì mà cung điện của họ đều có ánh sáng nầy ?
Lúc đó, ở trong hội đó có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí, vì
tất cả chúng Ðại Phạm Thiên mà nói ra bài kệ.
Hiện nay, vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta, được ánh sáng chiếu
rực rỡ trang nghiêm từ xưa chưa từng có. Tướng tốt vi diệu nầy, xưa nay
chúng ta chưa từng thấy qua, đại khái chắt là vị đại đức ở trên trời sinh
xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều mang
theo cung điện của họ, và dùng túi y đựng đầy các hoa trời, cùng nhau đi về
phương dưới, để tìm tướng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai,
đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long
vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều
cung kính vây quanh đức Phật, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh đức
Phật chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ, ở phương trên có năm trăm vạn ức Ðại Phạm Thiên Vương, dùng
kệ khen Ðức Phật rồi, họ bèn mang theo cung điện và dùng túi y đựng đầy
đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới để tìm nguyên nhân tướng
nầy. Kết quả, họ thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai đang ngồi trên tòa
sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề.
Hết thảy tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la
già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh đức Phật. Lại thấy mười
sáu người con của đức Phật Ðại Thông Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển
bánh xe pháp.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật,
nhiễu quanh đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên đức
Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cũng dùng để cúng dường cây bồ đề của
Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng cúng dường đức
Phật đó, mà bạch rằng : Cúi xin đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung
điện dâng cúng đây xin đức Phật hãy nhận ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh
nói bài kệ rằng.
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương đều đảnh lễ Ðức Phật, lại
nhiễu quanh Ðức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải lên trên Ðức Phật,
hoa rải cúng Phật vô lượng vô biên nhiều như núi Tu Di, chẳng những họ
dùng hoa để cúng dường Phật, mà họ còn cúng dường cây Bồ đề của Phật.
Dùng hoa cúng dường xong rồi, ai nấy đều đem cung điện quý báu nhất của
họ, dâng lên cúng dường đức Phật Ðại Thông Trí Thắng mà bạch rằng:
‘’Chúng con một lòng xin Phật thương xót chúng con, lợi ích chúng con,
chúng con nguyện làm công đức trồng phước ở trước Tam Bảo, xin Ðức
Phật hãy nhận cung điện nầy để ở.’’
Lúc đó, các vị Ðại Phạm Thiên Vương ở trước Phật một lòng đồng thanh
dùng kệ, để khen ngợi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai.
Lành thay gặp được Phật
Đấng Thánh Tôn cứu đời
Thường ở ngục tam giới
Độ thoát các chúng sinh.
Thiên Nhân Tôn trí khắp
Thương xót loài quần mê
Khai mở cửa cam lồ
Rộng độ hết tất cả.
Thuở xưa vô lượng kiếp
Trải qua chẳng có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường đen tối.
Ba đường ác thêm nhiều
A tu la cũng thịnh
Chúng chư thiên bớt đi
Chết nhiều đọa đường ác.
Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường làm những việc ác.
Chúng con cảm thấy may mắn muôn phần, được gặp Phật. Phật là đấng
Thánh Tôn cứu vớt chúng sinh khổ ở thế gian, hay khiến tất cả chúng sinh
thoát ra khởi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, ba cõi ngục tù liễu sinh thoát
tử, lìa khổ được vui. Phật cũng là bậc Ðạo Sư đầy đủ đại trí huệ, từ bi, khắp
hết thảy trời người, thương xót tất cả chúng sinh hữu tình vô tình, phát tâm
đại từ bi, khai mở pháp môn cam lồ, khiến cho tất cả chúng sinh được nghe
pháp yếu mà bỏ mê về giác.
Phật là từ bi bình đẳng, cho nên rộng độ vô lượng Hằng hà sa số tất cả chúng
sinh. Thuở xưa trải qua vô lượng vô biên đại kiếp, chưa từng có Phật xuất
hiện ra đời.
Lúc đó, mười phương thế giới đều một màng tối u ám chẳng có ánh sáng,
chúng sinh đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh càng ngày càng nhiều, và
đường A tu la cũng rất hưng thịnh, vì chúng sinh chỉ biết tạo nghiệp, chẳng
làm mười điều lành, chỉ làm mười điều ác, cho nên chúng chư thiên càng
ngày càng giảm bớt. Do đó, đủ thấy đa số chúng sinh chết rồi, đều đọa vào
ba đường ác.
Vì tất cả chúng sinh chưa từng thấy Phật, chưa từng nghe pháp, cho nên
cũng chẳng biết tu hành như thế nào, chẳng biết giữ giới luật, rộng tu pháp
lành, chỉ biết nhận giặc làm con, nhận đen làm trắng, tạo ra nhiều nghiệp ác,
thì tự nhiên trồng xuống nhiều nhân ác.
Sắc lực và trí huệ
Thảy đều giảm bớt dần
Vì tội nghiệp nhân duyên
Mất vui cùng tưởng vui.
Trụ trong pháp tà kiến
Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong đường ác.
Phật là mắt thế gian
Lâu xa mới xuất hiện
Thương xót các chúng sinh
Nên mới hiện ra đời.
Vượt khỏi thành chánh giác
Chúng con rất sung sướng
Và các chúng sinh khác
Vui mừng chưa từng có.
Các cung điện chúng con
Nhờ ánh sáng trang nghiêm
Nay đem dâng Thế Tôn
Xin hãy thương nhận ở.
Nguyện đem công đức nầy
Hồi hướng khắp tất cả
Chúng con và chúng sinh
Ðều cùng thành Phật đạo.
Do đó, chúng con thể suy lực yếu, trí huệ cũng ngày càng giảm bớt, đó đều
do nhân duyên tạo ra quá nhiều tội ác. Tự tính vốn an lạc cũng mất đi, lạc
vào tà tri tà kiến, chẳng biết thiện tri thức, chẳng được Phật giáo hóa, đời đời
kiếp kiếp đều luân hồi ở trong ba đường ác. Phật là thiện tri thức mắt sáng
của chúng ta, lâu xa nhiều kiếp mới xuất hiện ra đời. Phật vì thương xót tất
cả chúng sinh mà xuất hiện ra đời, tu đạo được thành chánh giác. Chúng con
và tất cả chúng sinh đều rất sung sướng, từ xưa chưa từng vui mừng và khen
ngợi như thế. Cung điện của chúng con, nhờ ánh sáng của Phật chiếu sáng
trang nghiêm hơn so với lúc trước, cho nên hiện nay chúng con xin dâng lên
cúng dường Ðức Phật, xin Phật từ bi nhận sự cúng dường nầy của chúng
con, và phát nguyện đem công đức nầy, hồi hướng khắp tất cả pháp giới
chúng sinh, nguyện chúng con và tất cả chúng sinh, đều cùng thành Phật
đạo.
Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy
đều bạch Phật rằng : Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, được nhiều
sự an ổn, được nhiều sự độ thoát.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương bèn nói bài kệ rằng :
Thế Tôn chuyển pháp luân
Ðánh trống pháp cam lồ
Ðộ chúng sinh khổ não
Mở bày đường Niết Bàn.
Cúi xin nhận con thỉnh
Dùng âm thanh vi diệu
Thương xót mà diễn nói
Pháp tu vô lượng kiếp.
Lúc đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, dùng kệ khen ngợi Phật
rồi, cùng nhau bạch Phật rằng : ‘’Cúi xin đức Thế Tôn, hãy vì chúng con
chuyển bánh xe pháp, khiến cho chúng con được an ổn và giải thoát‘’.
Lúc ấy, tất cả Ðại Phạm Thiên Vương dùng kệ để khen ngợi Ðức Phật.
Chúng con và tất cả chúng sinh, đều thỉnh cầu Ðức Phật chuyển bánh xe
diệu pháp, như đánh lên trống pháp cam lồ, để độ thoát tất cả chúng sinh
trong ba đường ác, mở bày cho chúng con con đường tu thành Phật không
sinh không diệt. Cúi xin đức Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của chúng con,
dùng âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn của Ngài, vì chúng con thuyết
pháp, và thỉnh cầu đức Thế Tôn thương xót chúng con, mà diễn nói pháp
môn tu thành Phật đạo của Phật, tích tập trí huệ tư lương từ vô lượng kiếp
đến nay.
Bấy giờ, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của các vị
Phạm Thiên Vương trong mười phương, và mười sáu vị vương tử, lập tức ba
lần chuyển bánh xe pháp mười hai hành. Dù Sa môn, Bà la môn, hoặc chư
Thiên, ma vương, Phạm vương, và các thế gian khác, không thể chuyển
được.
Ðây là khổ, là khổ tập, là khổ diệt, là khổ diệt đạo, và pháp độ thoát mười
hai nhân duyên : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh
sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ
não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc
diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì
thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt
thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tữ ưu bi khổ não diệt.
Lúc đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của mười
phương năm trăm vạn ức các vị Ðại Phạm Thiên Vương, và mười sáu vị
vương tử, lập tức trước hết nói về pháp Tứ Diệu Ðế, vì Tứ Diệu Ðế mỗi đế
chuyển ba lần, cộng lại thành mười hai lần, nên gọi là ba lần chuyển bánh xe
pháp tứ đế mười hai hành.
Chuyển làn thứ nhất gọi là thị chuyển, tức là nói với chúng ta :
- Ðây là khổ, tính bức bách.
- Ðây là tập, tính chiêu cảm.
- Ðây là diệt, tính khả chứng.
- Ðây là đạo, tính khả tu.
Chuyển lần thứ hai gọi là khuyến chuyển, tức là khuyên chúng ta :
- Ðây là khổ, ông nên biết.
- Ðây là tập, ông nên đoạn.
- Ðây là diệt, ông nên chứng.
- Ðây là đạo, ông nên tu.
Chuyển lần thứ ba gọi là chứng chuyển :
- Ðây là khổ, ta đã biết.
- Ðây là tập, ta đã đoạn.
- Ðây là diệt, ta đã chứng.
- Ðây là đạo, ta đã tu.
Bất cứ là Sa Môn, Bà la môn, chư Thiên, ma vương, Ðại Phạm Thiên
Vương, thậm chí tất cả thiên ma ngoại đạo, đều không thể chuyển được bánh
xe pháp Tứ Diệu Ðế, chỉ có Phật mới có phương tiện nầy, pháp được nói ra
tức là : Khổ, tập, diệt, đạo. Bốn pháp nầy lại có khổ pháp nhẫn, khổ pháp
tập, tập pháp nhẫn, tập pháp tập, diệt pháp nhẫn, diệt pháp tập, đạo pháp
nhẫn, đạo pháp diệt, cho nên gọi là bát nhẫn pháp tập.
Phật lại rộng nói mười hai nhân duyên, tức là:
Vô minh duyên hành
Hành duyên thức
Thức duyên danh sắc
Danh sắc duyên lục nhập
Lục nhập duyên xúc
Xúc duyên thọ
Thọ duyên ái
Ái duyên thủ
Thủ duyên hữu
Hữu duyên sinh
Sinh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Chúng sinh đều thuận theo dòng nầy mà sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh. Vẫn
có cửa diệt:
Vô minh diệt thì hành diệt
Hành diệt thì thức diệt
Thức diệt thì danh sắc diệt
Danh sắc diệt thì lục nhập diệt
Lục nhập diệt thì xúc diệt
Xúc diệt thì thọ diệt
Thọ diệt thì ái diệt
Ái diệt thì thủ diệt
Thủ diệt thì hữu diệt
Hữu diệt thì sinh diệt
Sinh diệt thì chẳng có già chết, lo sầu khổ đau cũng diệt.
Pháp của hàng Thanh Văn tu, là pháp Tứ Diệu Ðế, pháp của hàng Duyên
Giác tu, là pháp mười hai nhân duyên.
Khi đức Phật ở trong đại chúng trời người nói pháp đó, thì có sáu trăm vạn
ức Na do tha người, vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm
được giải thoát, đều được thiền định thâm sâu vi diệu, ba minh sáu thông, đủ
tám giải thoát.
Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thì có ngàn vạn ức Hằng hà sa Na
do tha chúng sinh, cũng vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm
được giải thoát. Từ đó về sau, các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên không
thể tính đếm.
Ðức Phật vì năm trăm vạn ức chư thiên, các vị Ðại Phạm Thiên Vương, và
trăm ngàn vạn ức bất khả tư nghì Hằng hà sa số chúng sinh nói pháp Tứ
Diệu Ðế, và pháp mười hai nhân duyên, thì có sáu trăm vạn ức Na do tha
người, đều đã xả bỏ tất cả pháp ác, nên đắc được tất cả pháp lành vô lậu.
Lậu là gì ? Chín lỗ trong thân thể chúng ta, thường thải ra vật dơ dáy cũng
thuộc về lậu, như dưới đáy ly có lủng lỗ thì không thể chứa đầy nước được.
Tất cả chúng sinh đều có tám vạn bốn ngàn các lậu, lậu lớn nhất là tham sân
si mạn nghi. Có đủ thứ lậu nầy, thì sinh ra phiền não, có phiền não thì sinh ra
vô minh, có vô minh thì chẳng có trí huệ. Nếu ai trừ khử sạch vô minh thì trí
huệ Bát nhã sẽ hiện tiền, nếu ai đoạn sạch phiền não, thì biến phiền não
thành Bồ đề.
Lúc đó, thân tâm đều được giải thoát, gọi là được lậu tận (sạch lậu). Do sạch
hết lậu mà chứng được thiền định nầy, chẳng phải do từ bên ngoài đến, phải
do tự tính tự nhập, tự tính tự độ, tự tu tự liễu, cho nên chẳng cần truy cầu bên
ngoài. Bổn địa phong quang của chúng ta, trí huệ vốn có, đều ở trong tự tính
của mỗi người, do đó thiền định tức là đắc được sự tĩnh lự, tiếng Phạn gọi là
thiền na, dịch là "tư duy tu", ai đắc được thiền định, thì sẽ đắc được ba minh
: Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh (tất cả tập khí mao bệnh
đều chẳng còn nữa, cho nên đoạn tận ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh).
Bấy giờ, mười sáu vị vương tử, đều là đồng tử xuất gia làm Sa di, các căn
lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức các đức
Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh, cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, mười sáu vị vương tử, đều còn là đồng tử mà xuất gia làm Sa di. Sáu
căn của các Ngài đều lanh lợi, trí huệ rất sáng suốt, ở trong quá khứ đã từng
cúng dường trăm ngàn vạn ức các Ðức Phật, đều tu phạm hạnh thanh tịnh,
một lòng cầu quả vị vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ðều bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Vô lượng ngàn vạn ức các đại đức
Thanh Văn đó, đều đã thành tựu, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói
pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe rồi đều cùng tu
học.
Ðức Thế Tôn ! Chúng con chí nguyện đắc được tri kiến của Như Lai, trong
thâm tâm nghĩ gì, đức Phật tự chứng biết. Lúc đó, tám vạn ức người trong
chúng của vua Chuyển luân thánh vương dẫn đến, thấy mười sáu vị vương
tử xuất gia, cũng xin xuất gia, vua bèn chấp nhận.
Mười sáu vị Sa di đó, tức là mười sáu người con của đức Ðại Thông Trí
Thắng Như Lai, đều cùng nhau theo Phật xuất gia tu đạo. Các Ngài và năm
trăm vạn ức Ðại Phạm Thiên Vương và trăm ngàn vạn ức trời người hết thảy
đại chúng đồng thanh nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Hiện tại, có vô lượng ngàn vạn
ức chúng đại Thanh Văn ở trong đạo tràng nầy, ở trong quá khứ các Ngài
đều đã từng làm rất nhiều công đức và việc lành, cho nên đầy đủ vô lượng
phước đức. Song, hiện tại còn sinh tâm hoài nghi, mình đã chứng được quả
vị Niết Bàn chưa ? Ðức Thế Tôn ! Ngài hãy vì chúng con, tất cả hàng Thanh
Văn nói pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của Phật, để chúng con
cũng cùng nhau hướng về đại đạo Niết bàn. Chúng con nghe pháp của Phật
nói rồi, sẽ cùng nhau y theo pháp tu hành.
Ðức Thế Tôn ! Hết thảy hàng Thanh Văn chúng con, có một chí nguyện là
nguyện được chánh tri chánh kiến của Phật. Phật sớm đã biết, cho nên mong
rằng Phật phát tâm đại từ bi thương xót chúng con, tất cả chúng sinh, mà nói
pháp vi diệu vô thượng nầy.’’
Lúc đó, tám vạn ức người do vua Chuyển Luân Thánh Vương (cha của Phật
Ðại Thông Trí Thắng) thống lãnh đến chỗ Ðức Phật, thấy mười sáu vị vương
tử phát tâm xả bỏ đất nước của cải, để xuất gia tu đạo cũng phát tâm muốn
xuất gia tu đạo.
Lúc đó, vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng rất vui mừng đáp ứng yêu cầu
của họ. Vua Chuyển Luân Thánh Vương thấy họ thành tâm tu đạo, cũng
phát tâm làm hộ pháp cho họ, cúng dường cho họ, nào là các đồ ăn uống,
quần áo, thuốc thang, mền chiếu .v.v.
Bấy giờ ! Ðức Phật đó nhận lời thỉnh cầu của các vị Sa di, trải qua hai vạn
kiếp sau, mới ở trong bốn chúng nói Kinh Ðại Thừa nầy, tên là Diệu Pháp
Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. nói kinh nầy rồi, mười
sáu vị Sa di đều vì quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà cùng nhau
thọ trì đọc tụng thông thuộc.
Lúc đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, thọ nhận lời thỉnh pháp của
mười sáu vị Sa di, trải qua hai vạn kiếp sau, Ngài mới ở trước bốn chúng :
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, nói bộ kinh đại thừa nầy tên là Diệu
Pháp Liên Hoa.
Pháp nầy giáo hoá Bồ Tát tu học pháp đại thừa, được Phật hộ niệm. Khi Phật
nói ra bộ kinh nầy rồi, thì mười sáu vị Sa di lập tức tu đến quả vị Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Các Ngài đều một lòng thọ trì Kinh Pháp Hoa, và
còn đọc tụng thuộc làu thông suốt, vì người giảng nói.
Lúc nói kinh đó, thì mười sáu vị Bồ Tát Sa di đều tin nhận thọ trì, trong
chúng hàng Thanh Văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra, ngàn vạn ức loại
chúng sinh đều sinh tâm nghi hoặc.
Ðức Phật nói kinh đó, suốt tám ngàn kiếp chưa từng ngừng nghỉ, nói kinh đó
rồi, bèn vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám vạn bốn ngàn kiếp.
Lúc Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì mười sáu
vị Sa di đều vui mừng tin nhận thọ trì. Ở trong chúng hàng Thanh Văn, có
những người nghe được pháp của Phật nói, đều khoát nhiên đại ngộ, song
cũng có ngàn vạn ức loại chúng sinh tâm còn nghi hoặc.
Phật Ðại Thông Trí Thắng nói bộ kinh nầy, trải qua tám ngàn đại kiếp thời
gian lâu dài như thế, mà chưa từng ngừng nghỉ. Chắc chắn một số người sẽ
nghĩ : Tại sao Phật Ðại Thông Trí Thắng, phải trải qua tám ngàn kiếp mới
nói xong Kinh Pháp Hoa nầy, mà Phật Thích Ca Mâu Ni bất quá chỉ tốn tám
năm, thì nói xong bộ Kinh Pháp Hoa nầy ? Ðây bất quá chỉ là tri kiến của
chúng sinh, phân biệt ra thời gian dài ngắn. Trên thật tế, thì Bồ Tát vì hay
dùng sức trí huệ, cho nên nhỏ làm lớn được, lớn làm nhỏ được, dùng ngàn
vạn kiếp làm một ngày, và dùng một ngày làm vô lượng kiếp, hà huống là
Phật ? Vốn chẳng có dài cũng chẳng có ngắn, hay dài cũng hay ngắn, mà là
chúng sinh dùng tâm thức để phân biệt tất cả các pháp. Cho nên nói, Phật
Ðại Thông Trí Thắng và Phật Thích Ca Mâu Ni đồng nói một bộ Kinh Pháp
Hoa.
Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng nói xong bộ kinh nầy, thì Ngài vào thiền
định, trụ ở trong thiền định tám vạn bốn ngàn đại kiếp.
Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa di, biết đức Phật nhập thất vắng lặng ở trong
thiền định, ai nấy đều lên pháp tòa, cũng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, vì
bốn chúng rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị đều độ sáu
trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng
sinh, khiến cho họ được lợi ích và vui mừng phát tâm Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật đã nhập cảnh giới như như bất
động, liễu liễu thường minh, mới phát tâm vì Phật hoằng dương bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, bắt đầu đăng lên pháp tòa diễn nói kinh nầy. Các Ngài trải
qua tám vạn bốn ngàn kiếp, vì hết thảy hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ
nam, cư sĩ nữ, phân biệt rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, độ thoát sáu
trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng
sinh, khiến cho họ được lợi ích vui mừng, phát tâm Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, rồi từ tam
muội dậy, đi đến pháp tòa, ngồi ngay thẳng bảo khắp đại chúng : Mười sáu
vị Bồ Tát Sa di nầy, rất là hy hữu, các căn lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng
cúng dường vô lượng ngàn vạn ức các đức Phật. Ở chỗ chư Phật thường tu
phạm hạnh, thọ trí huệ của Phật, mở bày cho chúng sinh, cũng khiến cho họ
được như thế.
Trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp sau, Phật Ðại Thông Trí Thắng từ tam muội
xuất định, đi đến pháp tòa của Ngài ngồi ngay thẳng, bảo các đại chúng:
‘’Mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy, rất là hy hữu, sáu căn đều dụng với nhau,
sáng suốt thông đạt tất cả các pháp, ở trong quá khứ, đã từng cúng dường vô
lượng ngàn vạn ức các Ðức Phật, trồng gốc công đức. Ở tại đạo tràng của
mỗi vị Phật, thường tu tập phạm hạnh thanh tịnh, thường thọ trì trí huệ của
chư Phật, nguyện mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, cùng đắc được trí huệ
quang minh viên dung vô ngại.’’
Các ông đều phải gần gũi cúng dường các vị ấy. Tại sao ? Vì nếu hàng
Thanh Văn, Bích Chi Phật, và các Bồ Tát đó, tin kinh pháp của mười sáu vị
Bồ Tát nầy nói, thọ trì chẳng sinh tâm hủy báng, thì người đó, sẽ được trí
huệ Vô thượng chánh đẳng chánh giác của Như Lai.
Phật bảo đại chúng: ‘’Sở dĩ các ông nên thường gần gũi cúng dường mười
sáu vị Bồ Tát Sa Di, là vì, nếu như có hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, hoặc
các đại Bồ Tát, tin thọ pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy nói, y theo
pháp tu hành, chẳng sinh tâm hủy báng, thì những người như thế, đều sẽ
thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, khai mở đại trí huệ của Phật.’’
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo : Mười sáu vị Bồ Tát nầy, thường ưa thích diễn
nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Mỗi vị Bồ Tát, giáo hóa sáu trăm vạn ức
Na do tha Hằng hà sa chúng sinh. Ðời đời sinh ra đều gặp các vị Bồ Tát nầy,
theo các Ngài nghe pháp, thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó, được gặp
bốn vạn ức các đức Phật Thế Tôn, đến nay vẫn chưa hết.
Phật lại bảo các chúng Tỳ Kheo: ‘’Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di nầy, rất thích
nói Kinh Pháp Hoa nầy, các Ngài mỗi vị đều giáo hóa sáu trăm vạn ức Na
do tha Hằng hà sa chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát hoằng
nguyện, đời đời kiếp kiếp muốn theo các Ngài tu đạo, và đích thân nghe Phật
vì họ giải nói bộ kinh nầy, nhờ nhân duyên đó, mà được gặp bốn vạn ức các
Ðức Phật Thế Tôn đồng tu một chỗ.
Như hôm nay các Ngài còn dùng diệu pháp đại thừa lợi ích chúng sinh, viên
mãn thệ nguyện của các Ngài.’’
Các Tỳ Kheo ! Nay ta nói với các ông : Mười sáu vị Sa di đệ tử của đức Phật
đó, đều đã được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đang nói
pháp ở trong cõi nước mười phương. Có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng
Bồ Tát, và Thanh Văn làm quyến thuộc.
Hai vị làm Phật ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A Súc, ở nước Hoan Hỉ.
Vị thứ hai hiệu là Tu Di Ðỉnh. Hai vị Phật ở phương đông nam, một vị hiệu
là Sư Tử Âm, vị thứ hai hiệu là Sư Tử Tướng.
Này các Tỳ Kheo ! Nay tôi phải nói với các vị, mười sáu vị Sa di của Phật
Ðại Thông Trí Thắng, sớm đã chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, hiện nay đều đang thuyết pháp ở trong cõi nước mười phương,
có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ Tát và Thanh Văn làm quyến thuộc của
các Ngài. Có hai vị Sa Di thành Phật, ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A
Súc. A Súc là tiếng Phạn, dịch là "Bất động tôn", tức là Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai. Ðức Phật nầy thành tựu Phật đạo ở nước Hoan Hỉ. Vị Sa Di
thứ hai hiệu là Tu Di Ðỉnh. Lại có hai vị Sa Di thành Phật ở phương đông
nam, vị thứ nhất hiệu là Sư Tử Âm Phật, vị thứ hai hiệu là Sư Tử Tướng
Phật.
Hai vị Phật ở phương nam, vị thứ nhất hiệu là Hư Không Trụ, vị thứ hai hiệu
là Thường Diệt. Hai vị Phật ở phương tây nam, vị thứ nhất hiệu là Ðế
Tướng, vị thứ hai hiệu là Phạm Tướng. Hai vị Phật ở phương tây, vị thứ nhất
hiệu là A Di Ðà, vị thứ hai hiệu là Ðộ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị
Phật ở phương tây bắc, vị thứ nhất hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương
Thần Thông, vị thứ hai hiệu là Tu Di Tướng. Hai vị Phật ở phương bắc, vị
thứ nhất hiệu là Vân Tự Tại, vị thứ hai hiệu là Vân Tự Tại Vương. Vị Phật ở
phương đông bắc hiệu là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy, vị Phật thứ mười
sáu chính là ta Thích Ca Mâu Ni Phật, ở cõi Ta Bà, thành quả vị Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Hai vị Sa Di thành Phật ở phương nam, một vị hiệu là Hư Không Trụ, một vị
hiệu là Thường Diệt. Hai vị thành Phật ở phương tây nam, một vị hiệu là Ðế
Tướng Phật, một vị hiệu là Phạm Tướng Phật. Phương tây cũng có hai vị
Phật, một vị hiệu là A Di Ðà Phật. A Di Ðà là tiếng Phạn, dịch là "Vô Lượng
Thọ, Vô Lượng Quang", tức là trí huệ và phước đức của Ngài vô lượng vô
biên, một vị hiệu là Ðộ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não Phật. Lại có hai vị Sa
Di thành Phật ở phương tây bắc, một vị hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn
Hương Thần Thông. Ða Ma La Bạt là tiếng Phạn, dịch là "Tính vô cấu
hiền", tức là ví dụ Ngài như một vị Thánh Hiền tự tính chẳng có trần cấu.
Chiên đàn hương là một thứ hương, một vị hiệu là Tu Di Tướng Phật. Hai vị
Sa Di thành Phật ở phương bắc, một vị hiệu là Vân Tự Tại Phật, một vị hiệu
là Vân Tự Tại Vương Phật. Vị Phật ở phương đông bắc hiệu là Hoại Nhất
Thiết Thế Gian Bố Úy Phật. Vị Sa Da Di thứ mười sáu, tức là ta Thích Ca
Mâu Ni Phật, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ở cõi Ta Bà.
Các Tỳ Kheo ! Lúc chúng ta làm Sa di, thì mỗi người giáo hóa vô lượng
trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa chúng sinh, theo ta nghe pháp, vì đạo Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Những chúng sinh đó, nay có người trụ ở
bậc Thanh Văn. Ta thường giáo hóa đạo Vô thượng chánh giác, những
người đó nhờ pháp nầy, mà dần dần vào Phật đạo. Tại sao ? Vì trí huệ của
Như Lai khó tin khó hiểu.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói với các Tỳ Kheo, khi chúng ta làm Sa Di,
thì mỗi người đã giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa số chúng
sinh. Những chúng sinh đó, theo chúng ta nghe pháp, bèn hướng về đạo Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Theo căn tính khác nhau của họ, hoặc chậm
hoặc mau, song sẽ đều đạt đến đại giác viên mãn cứu kính.
Những chúng sinh đó, trong đó có những vị đã trụ ở bậc Thanh Văn, ta cũng
thường giáo hóa họ hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác,
khiến cho họ dần dần đều vào Phật đạo.
Tại sao ? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu. Khó tin nên chẳng dễ gì
tu, khó hiểu nên chẳng dễ gì chứng quả.
Vô lượng Hằng hà sa chúng sinh được giáo hóa thuở đó, tức là hàng Tỳ
Kheo các ông. Sau khi ta diệt độ rồi, ở đời vị lai hàng đệ tử Thanh Văn cũng
vậy. Ta diệt độ rồi, lại có đệ tử chẳng nghe kinh nầy, chẳng biết chẳng hay
sở hành của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được, tưởng là diệt độ sẽ
vào Niết bàn.
Ta thành Phật ở nước khác, bèn có tên khác, người đó tuy tưởng là diệt độ
vào Niết Bàn, mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật được nghe kinh nầy, chỉ
dùng Phật thừa mà được diệt độ, chẳng có thừa nào khác, trừ khi các đức
Như Lai phương tiện thuyết pháp.
Chúng ta giáo hóa vô lượng chúng sinh như số cát sông Hằng thuở đó, tức là
hàng Tỳ Kheo các ông, sau khi ta diệt độ rồi, hàng Tỳ Kheo Thanh Văn ở
đời vị lai cũng sẽ chứng được quả A La Hán.
Phật pháp đều nói về nhân quả, nếu chẳng có nhân, thì chẳng có quả. Trước
khi Ðức Phật Thích Ca chưa thành Phật, đã giáo hóa vô lượng chúng sinh.
Mỗi lần ra đời, thì hiện thân Tỳ Kheo đi khắp nơi hoàng dương Phật pháp,
giảng kinh thuyết pháp, khiến cho những chúng sinh đó tín ngưỡng, họ cảm
thấy Phật còn thân thiết hơn cha mẹ của họ, bèn phát nguyện thường theo vị
‘’pháp thân cha mẹ’’ nầy.
Ðức Phật Thích Ca dùng tâm đại từ bi bình đẳng, nhiếp thọ chúng sinh, pháp
duyên của Ngài ngày càng tăng rộng, quả vị ngày càng cao lớn, cho nên cuối
cùng hôm nay công thành đức tựu, thành Phật đạo, đệ tử của Ngài với Ngài
túc duyên rất sâu. Họ đời đời kiếp kiếp đều theo Phật chuyển pháp luân, ủng
hộ Phật pháp. Khi Phật thành Phật, thì đệ tử của Ngài đều đến ủng hộ.
Vạn sự vạn vật đều nhờ duyên mới sinh. Cho nên trong Phật giáo có câu
rằng :
‘’Chư pháp tùng duyên khởi,
Chư pháp tùng duyên diệt,
Ngã Phật đại sa môn,
Thường tác như thị thuyết‘’.
Nghĩa là :
‘’Các pháp do duyên sinh,
Các pháp do duyên diệt,
Phật của ta là Sa môn,
Thường hay nói như thế‘’.
Ðức Phật tiếp tục nói : Sau khi ta diệt độ, vẫn có đệ tử chẳng nghe bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, vì họ thích tiểu thừa, cho nên đối với pháp đại thừa Bồ Tát,
họ chẳng biết chẳng hay. Song, do công đức của họ làm được, hoặc công
đức do sự ngồi thiền họ tưởng là được diệt độ sẽ vào Niết Bàn, hoặc họ sẽ
chứng được quả vị quyền xảo phương tiện, tức hữu dư Niết Bàn, mà cho
rằng đây là giải thoát cứu kính.
Khi ta ở nước khác thành Phật, thì có danh hiệu khác. Những hàng Thanh
Văn nầy, tuy nghĩ là diệt độ, cho rằng mình đã nhập Niết Bàn (cảnh giới
không sinh không diệt), mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh
nầy.
Song, nhờ họ ở cõi nước kia cầu trí huệ của Phật, cũng nghe được bộ kinh
nầy. Chỉ dùng một Phật thừa mà được diệt độ, chứ chẳng có thừa nào khác,
chỉ một Phật thừa mới là chân chánh Niết bàn, mà chẳng phải hàng Thanh
Văn rơi vào một bên lý không, trừ khi các Ðức Như Lai phương tiện thuyết
pháp, có khi Phật cũng dùng pháp môn phương tiện để giác ngộ chúng sinh,
song quy về nguồn gốc vẫn chỉ là một Phật thừa, chẳng có thừa nào khác.
Các Tỳ Kheo ! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, đại chúng lại
thanh tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt pháp không, vào sâu thiền
định, bèn tụ tập các chúng Bồ Tát, và Thanh Văn để nói kinh nầy, thế gian
chẳng có hai thừa mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa được diệt độ thôi.
Các vị Tỳ Kheo ! Giả sử Phật biết mình sắp vào Niết Bàn, hết thảy đại
chúng đều được thanh tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt tất cả các pháp
không tướng, vào thiền định thâm sâu, bèn chiêu tập tất cả Bồ Tát và hàng
Thanh Văn, để Phật nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Vì trên thế gian hết thảy ai
muốn tu Phật thừa, thì không thể dùng pháp nhị thừa tu mà được diệt độ.
Diệt độ của hàng nhị thừa chảng phải chân chánh diệt độ, chỉ có tu Phật thừa
mới thật sự được diệt độ của Phật và quả vị.
Các Tỳ Kheo nên biết ! Ðức Như Lai phương tiện sâu vào tánh của chúng
sanh, biết chí của họ thích pháp nhỏ, chấp sâu năm dục, vì những người đó
nói Niết Bàn, nếu họ nghe thì liền tin nhận thọ trì.
Phật lại nói : ‘’Hết thảy hàng Tỳ Kheo các ông hãy triệt để hiểu rõ, pháp của
Như Lai nói là pháp quyền xảo phương tiện, vì căn tính của tất cả chúng sinh
chẳng giống nhau, có kẻ lợi căn, có kể độn căn. Nếu một khi bắt đầu thuyết
pháp chân thật đối với người độn căn, thì họ chẳng thể nào tiếp thọ và tin
được, cho nên ta dùng pháp môn phương tiện để giáo hóa họ.
Vì pháp môn phương tiện của Phật, vốn hợp với tất cả chúng sinh mà làm
một, cho nên tất cả chúng sinh có cơ duyên phương tiện nầy, tâm chí của họ
chỉ biết phương pháp và đạo lý nhỏ nhỏ, nếu nói về đạo lý vũ trụ thâm áo
cho họ nghe, thì họ chẳng hiểu.
Hàng nhị thừa thường đều chấp trước vào cảnh giới năm dục: Tài, sắc, danh,
thực, thùy.
1. Tiền tài mua sắm được mọi vật, cho nên ai ai cũng đều buông xả chẳng
đặng tiền tài. Nếu coi tiền tài như rắn độc, thì chẳng tham cầu nó, con người
không nên vì tiền tài mà phát sinh đấu tranh. Có một bài kệ hình dung về
tiền rất là hay :
‘’Nhị qua tranh kim sát khí cao,
Nhân nhân nhân tha phạm lao thao.
Nhược hội dụng giả xuất tam giới,
Bất hội dụng giả nghiệt nan đào‘’.
Chữ tiền (钱) có hai cái mác (戋), giống như hai người cầm mác giành giựt
vàng, lại có thể nói hai người động thủ bằng mác tranh vàng. Tiền có thể đưa
đến cho con người rất nhiều phiền não, thế mà một số người vẫn coi tiền như
mạng sống, tham chẳng biết chán, nếu người biết dùng tiền, thì có thể vượt
khỏi ba cõi, người chẳng biết dung, thì tạo ra rất nhiều tội nghiệp.
2. Sắc dục, tức là sắc đẹp.
3. Danh dục : Tức là tham danh, tham tiếng tốt, thích người khác ca tụng,
nếu bị người hủy nhục, thì như trăm cây kim đâm vào tim, coi danh vọng
trọng hơn bất cứ những gì.
4 Thực dục : Thích ăn vật ngon. Nhất là người tu đạo không coi trọng vật ăn,
nên coi vật ăn như thuốc hay, để duy trì thân thể nầy khỏi bị khô gầy mà tu
đạo nghiệp.
5 Thùy dục : Có người thích ngủ, cảm thấy ngủ càng nhiều càng tốt, song
càng ngủ càng mê, biến thành ngu muội tối tăm, do đó :
"Tài sắc danh thực thùy,
Như địa ngục năm căn",
Một khi ngủ thì ngàn năm chẳng nghe danh hiệu Phật.
Hàng nhị thừa bị năm thứ dục niệm nầy chi phối, cho nên vẫn chưa đến bậc
bất sinh bất diệt, ta vì họ nói pháp nhị thừa (bốn diệu đế) và mười hai nhân
duyên, chỉ bất quá khiến cho họ tâm tính vui mừng, mà tinh tấn tu hành.
Thật tế thì chứng được quả vị nhị thừa, vẫn chưa đắc được cảnh giới chân
chánh Niết Bàn, có khác nào ở xa trông quả mơ mà hết khác, phải biết bánh
vẽ không thể no được.
Ví như đường dữ hiểm nạn, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng
không người. Nếu có đông người muốn đi qua đường hiểm đó, đến chỗ châu
báu. Có một vị Ðạo sư trí huệ sáng suốt, khéo biết rõ tướng thông bít của
con đường, dắt mọi người muốn vượt qua hiểm nạn nầy. Mọi người được dắt
đi giữa đường lười mỏi, bèn bạch với Ðạo sư rằng : Chúng con rất mệt nhọc,
lại thêm sợ sệt không thể đi thêm được nữa, đường ở trước còn dài, nay
chúng con muốn lui về.
Ví như có một đoạn đường dài năm trăm do tuần (bốn vạn dặm), phàm ai
muốn đi qua con đường nầy, sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm hoạn nạn, như gặp
trộm cướp, rắn sói hổ báo. Cho nên, ai muốn đi qua con đường nầy, tâm đều
sợ hãi, song chỉ có con đường nầy, mới đến được chỗ cất giữ châu báu.
Do đó, chỉ có cách mạo hiểm tiến về trước, thì lúc ấy, ở trong đó có một vị
Ðạo sư rất thông minh tài giỏi, đầy đủ trí huệ viên mãn, biết lối đi của đường
hiểm đó như thế nào, mới không bị đủ thứ điều nguy hiểm, do đó bậc Ðạo sư
phát tâm, dẫn dắt tất cả mọi người vượt qua con đường nầy, song những
người nầy đi được nữa đường, thì sinh tâm lười mỏi, chẳng muốn đi nữa. Do
đó, họ nói với bậc đạo sư : ‘’Bây giờ chúng con đã mệt mỏi quá rồi, đường
nầy rất nguy hiểm và sợ hãi, chúng con chẳng muốn đi nữa, đường ở trước
rất dài, cho nên chúng con muốn lui về‘’.
Vị Ðạo sư nhiều phương tiện bèn nghĩ thế nầy : Những người nầy rất đáng
thương, sao lại bỏ châu báu mà muốn lui về. Nghĩ như thế rồi, dùng sức
phương tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành,
bảo mọi người rằng : Các ngươi đừng sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có
thể ở trong đó, làm gì tùy ý. Nếu vào thành đó rất được an ổn, nếu có thể đi
thẳng đến chỗ châu báu cũng được.
Vị Ðạo sư nầy có rất nhiều phương tiện, bèn nghĩ rằng : ‘’Những người nầy
thật đáng thương ! Sao lại bỏ chí nguyện muốn đi đến nước Phật bảo mà
muốn lui về ? ‘’Nghĩ đến đây, Ngài chỉ có cách dùng thần lực quyền xảo
phương tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa ra một cái thành;
rồi bảo mọi người : ‘’Các người đừng sợ, đừng sinh tâm lười mỏi, bây giờ
các vị hãy đi vào trong thành lớn nầy dừng nghỉ, ở trong thành nầy, làm gì
tùy ý, nếu như vào trong thành nầy thì rất là an ổn, các người muốn tiếp tục
đi đến chỗ châu báu, thì có thể đến bảo sở nước Phật‘’.
Lúc đó, chúng mỏi mệt tâm rất vui mừng, khen chưa từng có. Nay chúng ta
khỏi đường hiểm đó, rất được an ổn. Do đó, mọi người đều vào hóa thành,
sinh lòng tưởng rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc đó, mọi người đều rất mệt mỏi vô cùng, hốt nhiên thấy một tòa hóa
thành, có thể vào dừng nghỉ tạm thời, cho nên sinh tâm vui mừng chưa từng
có, nói : ‘’Hôm nay chúng con khỏi lạc vào nẻo trời, người, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh, thoát khỏi nhà lửa tam giới, được an ổn sung sướng‘’. Do đó,
cùng nhau đi vào hóa thành nầy, cho rằng họ đã được giải thoát và an ổn cứu
kính.
Bấy giờ, vị Ðạo sư biết những người đó đã nghỉ ngơi xong, chẳng còn mệt
nhọc, bèn diệt hóa thành, bảo với mọi người rằng : Các ngươi hãy đi tới chỗ
châu báu ở gần đây, thành lớn đó do ta hóa làm ra, để dùng nghỉ thôi.
Lúc đó, vị Ðạo Sư Thích Ca Mâu Ni Phật biết họ đã nghỉ xong, lấy lại sức
lực, hết mệt mỏi.
Do đó, Phật bèn hủy diệt hóa thành đó, nói với mọi người rằng : ‘’Các ngươi
hãy đi tới, chỗ châu báu ở gần đây. Hóa thành đó là do ta biến hóa ra, để các
ngươi nghỉ ngơi tạm thời.’’ Tức cũng có thể nói, phàm là Thánh nhân chứng
được tứ quả A La Hán, nên phải hồi tiểu hướng đại, tu pháp môn đại thừa,
mới có thể đạt đến chỗ châu báu cứu kính.
Các Tỳ Kheo ! Ðức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông làm đại Ðạo
sư, biết các đường hiểm sinh tử phiền não dài xa, nên bỏ, nên vượt qua.
Các Tỳ Kheo ! Pháp của Phật Ðại Thông Trí Thắng cũng như pháp của ta
nói, như nay vì các ông làm bậc đại Ðạo sư, biết rõ tất cả đường dữ sinh tử
phiền não, nhiều hiểm nạn và xa dài. Do đó, nên lìa tất cả phiền não, vượt
qua biển khổ sinh tử, đến được nhà Như Lai.
Nếu chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa, thì chẳng muốn thấy Phật, chẳng
muốn gần gũi, bèn nghĩ như vầy : Phật đạo dài xa, chịu khổ siêng cần lâu
mới có thể thành tựu. Phật biết tâm của họ khiếp nhược hạ liệt, bèn dùng sức
phương tiện nghỉ ngơi ở giữa đường, nên nói hai Niết Bàn.
Nếu chúng sinh trụ ở hai bậc, thì bấy giờ đức Như Lai bèn nói : Chỗ tu của
các ông chưa xong, bậc của các ông gần với trí huệ của Phật. Nên quán sát
suy lường Niết Bàn đã được đó, chẳng chân thật vậy, chỉ là sức phương tiện
của Như Lai, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba.
Nếu có chúng sinh nghe được Phật nói pháp, chỉ có một Phật thừa, thì nhất
định rất nhiều chúng sinh phất tay áo mà đi, chẳng nghĩ muốn gặp Phật, hoặc
gần gũi Phật. Vì Phật pháp là pháp khó tin, cho nên chúng sinh đều chẳng
chịu tiếp thọ. Vì họ nghĩ : ‘’Tu hành thành Phật thì phải mất thời gian rất
lâu, ở trong ba đại A tăng kỳ kiếp, siêng tu lục độ khổ hạnh, mới có cơ hội
thành Phật‘’. Do đó, họ đều cố ý có tai chẳng nghe giáo lý viên đốn, có mắt
chẳng nhận thức đại Ðạo sư (Phật), càng vô dụng nói dạy họ xả bỏ thất tình
lục dục, một lòng tu đạo.
Ðức Phật Thích Ca và mười phương chư Phật, đều biết rõ tâm niệm của tất
cả chúng sinh trong sáu nẻo, rất khiếp nhược và hạ liệt. Phật bèn dùng sức
phương tiện mà nói hữu dư Niết Bàn pháp nhị thừa, để cho tâm tu đạo của
chúng sinh, tạm thời không lười mỏi thối lui, cho nên nói riêng ra một trung
đạo Niết Bàn.
Lúc đó, Phật lại nói với họ : Các ông chưa đạt đến Phật đạo cứu kính, bậc
của các ông trụ, gần với trí huệ của Phật, các ông nên quán sát và suy lường,
bất cứ các ông đắc được cảnh giới Niết Bàn hữu dư, hoặc vô dư, đều chẳng
phải chân thật. Kỳ thật, là sức phương tiện của Như Lai, nơi một Phật thừa,
mà phân biệt nói ra Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát ba thừa.’’
Như vị Ðạo sư kia, vì dừng lại nghỉ mà hóa làm thành lớn. Biết đã nghỉ rồi,
bèn bảo họ rằng : Chỗ châu báu gần đây, thành nầy chẳng thật, do ta hóa làm
ra thôi.
Phật giống như bậc Ðạo sư, biết dùng pháp gì để vượt qua giữa con đường
hiểm nầy, và còn bảo họ vào trong đó nghỉ ngơi, chỗ châu báu ở gần đây
chẳng xa, song cái thành nầy chẳng phải thật, nó chỉ bất quá do Phật biến
hóa ra, để cho các ông nghỉ ngơi thôi, khi các ông khôi phục lại sức lực, thì
nên bỏ thành mà đi tiến về trước. Ví như bạn muốn từ nhà của bạn đến nước
khác, phải vượt qua lộ trình rất xa, mới đến được nơi đó, ở nơi giữa đường
đó, chắc chắn cảm thấy thân thể mỏi mệt, lúc đó bạn muốn một quán trọ để
nghỉ lại một đêm, sáng ngày thứ hai lại tiếp tục lên đường, như thế mới đạt
được nơi bạn muốn đến.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Phật Ðại Thông Trí Thắng
Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật pháp chẳng hiện tiền
Không được thành Phật đạo.
Các trời thần Long vương
Chúng A tu la thảy
Thường mưa các hoa trời
Ðể cúng dường Phật đó.
Chư Thiên đánh trống trời
Và tấu các âm nhạc
Gió thơm thổi hoa héo
Lại mưa hoa tươi tốt.
Trải qua mười tiểu kiếp
Mới được thành Phật đạo
Chư thiên và người đời
Tâm đều mừng hớn hở.
Mười sáu người con Phật
Ðều cùng với quyến thuộc
Ngàn vạn ức vây quanh
Ðều đi đến chốn Phật.
Ðầu mặt lễ chân Phật
Mà thỉnh chuyển pháp luân
Thánh sư tử mưa pháp
Lợi con và tất cả.
Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa kinh trường hàng ở trên,
nên dùng kệ để nói. Phật Ðại Thông Trí Thắng ở tại đạo tràng ngồi trên tòa
hoa sen nhập định trải qua mười kiếp, song vẫn chưa thành chánh giác.
Lúc đó, Phật pháp chưa hiện ra đời, cho nên Ngài chưa thể thành Phật đạo.
Tất cả trời, thần, Long vương, A tu la .v.v., thường mưa hoa trời để cúng
dường vị Phật đó, các vị trời đánh trống trời, tấu lên đủ thứ âm nhạc, một
trận gió thơm thổi đến, thổi các hoa héo đi, đồng thời lại mưa xuống hoa
tươi tốt.
Trải qua mười tiểu kiếp, Phật mới thành đạo, tất cả chư Thiên và nhân loại,
tâm đều vui mừng hớn hở vô cùng. Mười sáu vị vương tử của Phật, với trăm
ngàn ức quyến thuộc cùng nhau đến chốn Phật, cung kính đầu mặt lễ dưới
chân Ðức Phật, mà thỉnh cầu Phật chuyển đại pháp luân, hy vọng tiếng sư tử
hống của Phật, đượm nhuần mưa pháp lợi lạc chúng con, và tất cả chúng
sinh.
Thế Tôn rất khó gặp
Lâu xa hiện một lần
Vì giác ngộ quần sinh
Chấn động hết tất cả.
Các thế giới phương đông
Năm trăm vạn ức cõi
Ánh sáng chiếu Phạm cung
Từ xưa chưa từng có.
Phạm chúng thấy tướng nầy
Tìm đến chỗ đức Phật
Rải hoa để cúng dường
Và dâng cung điện lên.
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Dùng kệ khen ngợi Phật
Phật biết chưa đến thời
Nhận lời ngồi yên lặng.
Ba phương và bốn hướng
Trên dưới cũng như thế
Rải hoa dâng cung điện
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Thế Tôn rất khó gặp
Xin vì gốc từ bi
Rộng mở cửa cam lồ
Chuyển pháp luân vô thượng.
Ðức Thế Tôn trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được, không biết phải trải qua
thời gian bao lâu, mới có thể gặp được Ðức Phật ra đời, Phật vì giác ngộ tất
cả quần sinh, sức trí lực oai thần của Ngài không thể nghĩ bàn, có thể chấn
động đến tất cả tâm tính chúng sinh.
Các thế giới ở phương đông, có năm trăm vạn ức cõi nước cung điện của
Phạm Vương, được vô lượng ánh sáng chiếu sáng, đó là tướng quá khứ chưa
từng có. Khi các vị Phạm Vương thấy tướng nầy, thì đều đến chỗ Ðức Phật,
để tìm nguồn gốc tướng ánh sáng đó, và còn rải hoa trời để cúng dường Ðức
Phật, sau đó lại dâng cung điện quý báu nhất lên cúng dường Ðức Phật. Sau
đó lại cung kính thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, và dùng kệ để khen ngợi
Phật.
Phật biết cơ duyên thuyết pháp chưa thành thục, cho nên nhận lời thỉnh cầu
của họ, mà ngồi im lặng. Lúc đó, từ phương nam, tây, bắc, và bốn hướng
trên dưới, các vị Phạm Thiên Vương, đều rải hoa trời và dâng cung điện lên,
thỉnh Ðức Phật chuyển bánh xe pháp. Trăm ngàn vạn ức kiếp khó gặp được
Ðức Phật, mà chúng ta nguyện đắc được tâm đại từ bi thương xót chúng sinh
của Phật, có thể khai mở cửa cam lồ. Vì giáo hóa chúng ta lục đạo chúng
sinh, mà chuyển bánh xe pháp thâm sâu vô thượng.
Thế Tôn tuệ vô thượng
Nhận những người kia thỉnh
Vì nói các thứ pháp
Bốn đế mười hai duyên.
Vô minh đến lão tử
Ðều từ sinh duyên có
Những hoạ hoạn như thế
Các ông phải nên biết.
Lúc diễn nói pháp đó
Sáu trăm vạn ức chúng
Ðược hết sạch các khổ
Ðều thành A la hán.
Nói pháp lần thứ hai
Ngàn vạn Hằng sa chúng
Chẳng thọ nơi các pháp
Cũng đắc A la hán.
Từ đó sau đắc đạo
Số đông không thể lường
Vạn ức kiếp tính đếm
Không biết được ngằn mé.
Ðức Thế Tôn đầy đủ vô lượng trí huệ, thọ nhận tất cả chúng sinh thỉnh cầu
thuyết pháp. Phật có thể diễn nói đủ thứ pháp, cho nên trước hết nói pháp
bốn Diệu đế và mười hai nhân duyên, tức là từ vô minh đến lão tử, đều do
mười hai nhân duyên sinh ra.
Do đó, mà chiêu lại rất nhiều hoạ hoạn, các ông nên biết pháp như thế. Khi
Phật Ðại Thông Trí Thắng diễn nói pháp nầy rồi, thì có sáu trăm vạn ức
chúng Phạm Thiên Vương, lìa được tất cả khổ, đều chứng được quả vị A La
Hán.
Khi Phật thuyết pháp lần thứ hai, thì có ngàn vạn Hằng hà sa chúng sinh,
ngộ được tướng không của các pháp, đều đắc quả A La Hán Thanh Văn và
quả vị Duyên Giác Bồ Tát, số đông vô lượng vô biên chẳng cùng tận, dù trải
qua hàng vạn ức kiếp để đếm tính số mục, cũng không thể biết được số đó
ngằn mé là bao nhiêu.
Lúc đó mười sáu vị
Xuất gia làm Sa di
Ðều cùng thỉnh Phật đó
Diễn nói pháp đại thừa.
Chúng con và quyến thuộc
Ðều sẽ thành Phật đạo
Nguyện được như Thế Tôn
Mắt huệ tịnh bậc nhất.
Lúc đó, mười sáu vị vương tử đều phát tâm xuất gia tu đạo, làm Sa Di. Các
vị Sa Di đều cùng thỉnh Phật Ðại Thông Trí Thắng, vì tất cả chúng sinh diễn
nói pháp đại thừa, nên hỏi Phật : ‘’Chúng con và tất cả quyến thuộc, đều sẽ
thành Phật đạo, vì chúng con nguyện được giống như đức Thế Tôn, đầy đủ
mắt trí huệ thanh tịnh bậc nhất.
Phật biết tâm đồng tử
Tu hành trong đời trước
Dùng vô lượng nhân duyên
Ðủ thứ các ví dụ.
Nói sáu Ba la mật
Và các việc thần thông
Phân biệt pháp chân thật
Ðạo Bồ Tát tu hành.
Nói Kinh Pháp Hoa nầy
Kệ như cát sông Hằng.
Phật biết tâm của những vị đồng tử nầy nghĩ tưởng những gì, sự tu hành
trong đời trước của những vị nầy đến đâu, từng dùng vô lượng nhân duyên,
đã từng nghe Phật nói đủ thứ diệu lý thật tướng của các pháp, bổn sinh, nhân
duyên, ví dụ, và sáu pháp Ba La Mật. Sáu pháp Ba La Mật là: Bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.
Ba La Mật là tiếng Phạn, dịch là "đến bờ kia". Các vị Sa Di cũng đã từng
nghe Phật nói đủ thứ việc tu chứng thần thông diệu dụng, cho nên có trí huệ
lớn, để phân biệt được pháp một Phật thừa chân thật, Các Ngài tu sáu Ba la
mật của Bồ Tát. Do đó, nay các Ngài thích nghe pháp đại thừa Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, đều ngộ biết trong Kinh Pháp Hoa có nhiều bài kệ như số
cát sông Hằng.
Phật đó nói kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định.
Nhất tâm ngồi một chỗ
Tám vạn bốn ngàn kiếp
Các vị Sa Di đó
Biết Phật chưa xuất định.
Vì vô lượng ức chúng
Nói Phật huệ vô thượng
Ai nấy lên pháp tòa
Nói kinh đại thừa nầy.
Lúc đức Phật tĩnh lặng
Giúp tuyên dương giáo hóa.
Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng nói xong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa rồi, thì
Ðức Phật vào tịnh thất nhập vào thiền định thâm sâu, ở trong cảnh giới như
như bất động, liễu liễu thường minh, trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp.
Lúc đó, mười sáu vị Sa Di biết Phật chưa xuất định, do đó, các Ngài phát
tâm vì vô lượng ức chúng sinh, nói trí huệ vô thượng của Phật. Mỗi vị Sa Di
đều lên pháp tòa diễn nói Kinh Pháp Hoa, lúc Phật tĩnh lặng không động, thì
giúp Phật tuyên dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.
Mỗi mỗi vị Sa Di
Ðộ được các chúng sinh.
Khoảng sáu trăm vạn ức
Hằng hà sa chúng sinh
Phật đó diệt độ rồi
Những người nghe pháp đó.
Ở tại các cõi Phật
Thường sinh chung với thầy.
Mười sáu vị Sa Di đó, mỗi vị giáo hóa chúng sinh khoảng sáu trăm vạn ức
Hằng hà sa số chúng sinh.
Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng diệt độ rồi, những người nghe mười sáu vị Sa
Di thuyết pháp, đều cùng sinh vào một nước với đấng Ðạo Sư của họ.
Mười sáu Sa Di đó
Ðầy đủ hạnh Phật đạo.
Nay hiện trong mười phương
Thảy đều thành Chánh giác
Người nghe pháp thuở đó
Ðều ở chỗ chư Phật.
Có người trụ Thanh Văn
Dần dần vào Phật đạo.
Mười sáu vị Sa Di đó, vì tu hành đầy đủ Phật đạo, nên các Ngài xuất hiện ở
trong cõi nước mười phương, ai nấy đều thành Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Những chúng sinh nghe được Phật pháp vào thuở đó, đều là
quá khứ đã từng nghe qua Phật pháp, của mười sáu vị Sa Di đó nói, cho nên
hiện nay lại hiện ở trong mỗi cõi nước, để gần gũi nghe Phật thuyết pháp,
trong đó có rất nhiều chúng hàng Thanh Văn, dần dần được Phật giáo hóa
mà vào được Phật đạo.
Ta là thứ mười sáu
Cũng từng vì ông nói.
Cho nên dùng phương tiện
Dẫn ông đến Phật huệ
Do gốc nhân duyên đó
Nay nói Kinh Pháp Hoa.
Khiến ông vào Phật đạo
Cẩn thận chớ kinh sợ.
Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, tức là Sa Di thứ mười sáu. Ở trong quá khứ, các
ông đã từng nghe pháp của ta nói, cho nên ta dùng pháp phương tiện, dẫn dắt
các ông tu học trí huệ của Phật, đến được trí huệ của Phật. Do nhân duyên
đó, mà nay ta diễn nói Kinh Pháp Hoa, khiến cho các ông đi vào tạng trí huệ
của Phật, đều thành chánh giác. Các ông đừng bao giờ sinh tâm hoài nghi và
sợ sệt, ta sẽ vì các ông giải thích phân biệt rõ ràng thật tướng chân lý Phật
pháp.
Ví như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độc.
Lại không có cỏ nước
Chỗ mọi người sợ hãi
Vô số ngàn vạn chúng
Muốn qua đường hiểm này.
Ðường đó rất xa xôi
Dài năm trăm do tuần
Thời có một Ðạo sư
Thông minh có trí tuệ.
Sáng suốt tâm quyết định
Cứu nguy các hoạn nạn.
Ví như một đoạn đường dài nguy hiểm, con đường nào nguy hiểm nhất ?
Tức là đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ở trong con đường này, giống
như hoang dã, có rất nhiều rắn độc ác thú, cho đến một giọt nước, cộng cỏ,
cũng chẳng có, là nơi mọi người đều sợ. Lúc đó, có vô lượng trăm ngàn vạn
chúng sinh, muốn đi qua con đường nguy hiểm nầy, vượt ra khỏi sáu nẻo
luân hồi, được chân chánh giải thoát, song phải đi ngang qua năm trăm do
tuần, mới đến nơi cứu kính, cho nên còn cách xa đạo tám vạn bốn ngàn dặm.
Lúc đó, có một vị thiện tri thức, đầy đủ sự học rộng hiểu nhiều, thông minh
trí huệ, thấu suốt tất cả mọi việc thị phi trắng đen, và còn biết con đường nào
là chánh, con đường nào là tà. Do đó, Ngài thường ở trong đường hiểm, cứu
tất cả chúng sinh gặp nạn.
Mọi người đều mỏi mệt
Bèn bạch Ðạo sư rằng:
Chúng con nay mệt mỏi
Nơi đây muốn trở về
Ðạo sư nghĩ thế nầy:
Bọn nầy rất đáng thương.
Sao lại muốn lui về
Ðể mất châu báu lớn.
Ði trên con đường hiểm nầy thật chẳng dễ dàng, trợ duyên rất ít, nghịch
duyên thì nhiều, ví như một người tu đạo, cần nhờ sự giúp đỡ của Bồ Tát và
thần hộ pháp, khiến cho họ tu đạo được viên mãn, hoặc có người dùng
phương pháp tu đạo sai lầm, có thiện tri thức dẫn dắt họ đi trên con đường
chánh, đó đều là trợ duyên. Nghịch duyên là gì? Ví như bạn muốn phát tâm
bồ đề chân chánh, song lại có người khiến cho bạn thối bồ đề tâm, sinh ra đủ
thứ dục niệm, nên đạo tâm chẳng vững chắc, cho nên gọi là nghịch duyên.
Trên con đường đạo chẳng dễ gì tu, rất dễ sinh mệt mỏi, cảm thấy thời gian
tu rất là lâu, mà một chút thu hoạch cũng chẳng có, do đó bèn bạch với Ðạo
sư rằng: ‘’Hiện nay chúng con đều mỏi mệt, chúng con muốn trở về, chẳng
muốn tu hành nữa‘’.
Lúc đó, vị Thiện tri thức nghĩ như vầy: Những chúng sinh nầy thật là đáng
thương ! Sao lại muốn sinh tâm thối chuyển, mà chẳng muốn tu đạo ? Vốn
sẽ được trân bảo mà nay đều bỏ mất.
Bèn nghĩ tìm phương tiện
Nên bày sức thần thông.
Hóa làm thành quách lớn
Trang nghiêm các phòng nhà.
Chung quanh có vườn rừng
Suối chảy và ao tắm.
Cửa lớn lầu gác cao
Nam nữ đều đầy dẫy
Hóa làm thành đó rồi
An ủi họ chớ sợ.
Các ông vào thành nầy
Ðều được tùy sở thích.
Tức thời, vị Thiện tri thức nghĩ ra pháp môn phương tiện, bèn dùng thần
thông trí lực của Ngài, ở giữa đường hóa ra thành quách lớn, trong đó có rất
nhiều phòng nhà rất trang nghiêm, xung quanh có vườn hoa và rừng cây, có
suối nước trong sạch, ao tám bảy báu, lầu gác cao trùng trùng, nam nữ đều
rất vui mừng hớn hở, những cảnh giới nầy đều biến hóa ra.
Lúc đó, vị Thiện tri thức nói với đại chúng rằng : ‘’Các ngươi đừng sinh tâm
sợ sệt, bây giờ có thể vào trong thành nầy, mong cầu gì cũng được toại tâm
như ý‘’. Kì thật, hóa thành nầy, tức là hữu dư Niết Bàn của hàng nhị thừa
chứng được, mà Kinh Pháp Hoa là khai quyền hiển thật, dẫn dắt hàng nhị
thừa, cho nên Phật không thể không nói với đại chúng : Hữu dư Niết Bàn mà
các ngươi chứng được, bất quá chỉ giống như tòa hóa thành, chẳng phải chân
chánh đắc được Niết Bàn cứu kính.
Mọi người đều vào thành
Tâm đều rất vui mừng.
Ðều sinh tưởng an ổn
Tự cho đã được độ
Ðạo sư biết nghỉ rồi
Nhóm chúng mà bảo rằng:
Các ngươi nên đi nữa
Ðây là hóa thành thôi
Thấy các ngươi mỏi mệt
Giữa đường muốn lui về.
Nên dùng sức phương tiện
Ta hóa làm thành nầy
Các ngươi gắng tinh tấn
Nên cùng đến bảo sở.
Ta cũng lại như thế
Ðạo sư của tất cả.
Tất cả hàng tiểu thừa, đều vui mừng lìa khổ được vui, chẳng phát tâm lớn, tu
pháp tiểu thừa, cho nên các ngươi đến được hóa thành nầy, thì cảm thấy đã
mãn nguyện, đều sinh tâm vui mừng, tự cho rằng đã được an ổn cứu kính
thoát khỏi biển khổ sinh tử.
Phật sớm đã biết đại chúng sẽ sinh tư tưởng như thế, do đó lại triệu tập tất cả
đại chúng mà bảo rằng : ‘’Các ngươi bây giờ đã hết mệt mỏi, nên cố gắng
tiến về trước, vì chỗ các ông ở bây giờ, bất quá chỉ là một tòa hóa thành mà
thôi, chẳng phải là chỗ trân bửu chân chánh. Vì ta thấy các ngươi quá mệt
mỏi, sinh tâm thối chuyển, chẳng muốn tu đạo nữa, cho nên ta dùng pháp
phương tiện, sức thần thông, biến hóa ra thành quách, tức là pháp của hàng
nhị thừa. Bây giờ, các ngươi hãy dũng mãnh tinh tấn, thì sẽ đạt đến chỗ bảo
tàng của Phật. Ta cũng như thế, là thiện tri thức của tất cả chúng sinh, giáo
hóa họ sớm lên bờ giác, cùng thành Phật đạo.
Thấy những người cầu đạo
Giữa đường mà lười bỏ.
Không thể vượt sinh tử
Phiền não các đường hiểm
Nên ta dùng phương tiện
Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Bảo các ông khổ diệt
Việc làm đều đã xong
Tức biết đến Niết Bàn
Ðều được A la hán.
Nên mới nhóm đại chúng
Vì nói pháp chân thật.
Ta thấy một số người cầu đạo, tu hành đến nửa đường, thì cảm thấy quá khổ
nhọc, mà sinh tâm lười bỏ, chẳng nghĩ tu đạo nữa. Do đó có câu:
‘’Tu đạo nhất niên,
Phật tại nhãn tiền,
Tu đạo tam niên,
Nhất vạn bát thiên,
Tu đạo thập niên,
Phật tại thiên biên.’’
Nghĩa rằng:
Tu đạo một năm,
Phật ở trước mặt,
Tu đạo ba năm,
Xa Phật ngàn dặm,
Tu đạo mười năm,
Phật ở trên trời.
Cho nên nói, nếu chúng ta từ đầu đến cuối, giữ được tâm tinh tấn như lúc
ban đầu, dũng mãnh tinh tấn thẳng một lèo, thì sớm sẽ thành Phật đạo. Nếu
bỏ giữa đường thì chẳng thành tựu, không thể vượt qua biển khổ sinh tử,
đường hiểm phiền não. Cho nên, Phật bày pháp môn phương tiện, chẳng
phải thật pháp, mới nói với hàng nhị thừa : ‘’Các ngươi cũng có thể chứng
được Niết Bàn, xa lìa các sự khổ, chẳng còn sinh tử, những việc làm của các
ngươi đã xong, đắc được Niết Bàn chứng đắc A La Hán.’’ Lúc đó, Phật lại
triệu tập đại chúng, vì họ nói pháp chân thật.
Chư Phật dùng phương tiện
Phân biệt nói ba thừa.
Chỉ có một Phật thừa
Chỗ nghỉ nên nói hai
Nay vì ngươi nói thật
Chỗ ngươi được chẳng diệt.
Vì Phật Nhất thiết trí
Hãy phát đại tinh tấn.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, dùng hết pháp phương tiện, để giáo hóa
chúng sinh, mà Phật pháp vốn chỉ có Phật thừa, chẳng có Duyên Giác thừa,
Thanh Văn thừa. Vì căn cơ của chúng sinh, không thể một khi bắt đầu thì
minh bạch, và tiếp thọ Phật pháp, cho nên Phật vì chúng sinh phương tiện
nói ra Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, đó đều là Phật dùng
sức đại oai thần, hóa ra pháp môn nhị thừa, nên gọi là hóa thành. Cho nên
nói, chỉ có Phật thừa mới là thật thừa, tất cả chúng sinh tu hành quá lâu, đều
sinh ra tâm nhàm mỏi, do đó Phật dùng pháp môn phương tiện, để tạo ra hóa
thành, vì chúng sinh nói hữu dư Niết Bàn và vô dư Niết Bàn.
Bây giờ, Phật muốn khai quyền hiển thật, nói ra chân thật Niết Bàn, vì trước
khi Phật nói với hàng nhị thừa chỉ là hữu dư Niết Bàn, chưa đạt đến một
Phật thừa viên dung vô ngại, cho nên chưa thể dứt sinh tử, đến bất sinh bất
diệt. Vì chứng được tứ quả A La Hán, tuy nhiên dứt được phân đoạn sinh tử,
song chưa đoạn sạch biến dịch sinh tử. Phật đầy đủ tất cả thật tướng Bát nhã
trí huệ, các ngươi nên cầu đại trí huệ của Phật, dũng mãnh tinh tấn hướng về
trước, cầu Phật đạo vô thượng, không thể lưu lại ở quả vị A La Hán, mà sinh
tâm tự mãn, không cầu tiến về trước.
Ngươi chứng Nhất thiết trí
Mười lực các Phật pháp.
Ðủ ba mươi hai tướng
Mới là chân thật diệt
Chư Phật là Ðạo sư
Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Ðã biết nghỉ ngơi rồi
Dẫn vào nơi Phật huệ.
Khi nào các ngươi chứng được Nhất thiết trí, mười lực của Phật. Mười lực là
gì ? Mười lực là mười thứ lực mà Phật có đủ.
1. Phật có trí lực biết xứ phi xứ. Biết xứ là tất cả đều hợp với Phật pháp, phi
xứ là tất cả đều trái ngược với Phật pháp, mà Phật thì có trí huệ và lực nầy,
phân rõ thị phi.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời. Tất cả chúng sinh trong đời quá khứ tạo ra
tội nghiệp gì, bây giờ trồng nhân gì, tương lai kết quả gì, đời sau thọ quả báo
gì ? Phật có sức trí huệ nầy, biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội. Bao quát sơ thiền, nhị thiền,
tam thiền, tứ thiền, gọi là ‘’Tứ không xứ’’, còn tất cả các thiền định và tám
thứ giải thoát.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt.
5. Trí lực biết chủng chủng giải.
6. Trí lực biết chủng chủng giới. Phật biết rõ đủ thứ cảnh giới của tất cả
chúng sinh, cho nên mới có thể giáo hóa họ. Ví như mỗi người đều có tôn
giáo tín ngưỡng của mình, có người tin Cơ Ðốc giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa
giáo .v.v., kì thật, mỗi tôn giáo đều quy vào Phật giáo, mà mỗi căn tính của
chúng sinh khác nhau, cho nên cũng tiếp thọ đủ thứ pháp khác nhau.
7. Trí lực biết tất cả chí xứ đạo. Giống như tu ngũ giới thập thiện, thì sẽ sinh
về cõi trời, tu thiền định thì chứng quả, tu lục độ vạn hạnh thì thành Phật.
Tạo nghiệp ác thì đọa vào địa ngục, làm ngạ quỷ, trồng nhân gì được quả đó.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Ðây chỉ là nói tóm tắc, nếu nói tỉ mỉ thì trăm ngàn trí lực đều từ đây sinh ra,
chẳng có tận cùng.
Nếu người tu đạo, chứng được ba mươi hai tướng, thì đắc được tịch diệt và
khoái lạc chân thật. Chư Phật là Ðạo sư của tất cả chúng sinh, thấy tất cả
chúng sinh tu đạo giữa đường, sinh tâm lười mỏi mà nói ra Bồ Tát thừa,
Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và hữu dư Niết Bàn.
Tuy nhiên biết đây là hóa thành, là nơi nghỉ trọ của chúng sinh, chứ chẳng
phải ngôi nhà thật sự, cho nên dẫn dắt mọi người nhập vào Phật đạo, được trí
huệ viên mãn.
Hết Tập 2
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì ấn tống kinh điển
bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật dạy, phát
tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác
ta, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối cùng
sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực
hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và
toàn thể tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô
danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng,
cùng pháp giới chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm
bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt
ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Nam Mô Hộ Pháp Vi Ðà Tôn Thiên Bồ Tát
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.
---o0o---
Tập 03
Quyển 4
Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
Phẩm nầy Ðức Phật vì năm trăm vị đệ tử mà thọ ký, thật ra đã thọ ký bao
quát ở trong một nghìn hai trăm năm mươi vị đệ tử. Lúc này, Phật khai
quyền hiển thật, mở bày một Phật thừa, ngoài hai thừa thì chẳng chân thật.
Vì A La Hán, Bích Chi Phật, hàng nhị thừa mà khai thị Bồ Tát đạo, đều thọ
ký cho đời vị lai đều sẽ thành Phật. Phàm là người nào nghe được, thọ trì,
đều phát tâm đại thừa, tu học theo Bồ Tát đạo, làm đệ tử dự ký trong hội
Pháp Hoa ở đời vị lai.
Bấy giờ, Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, từ đức Phật nghe trí huệ phương
tiện tùy nghi thuyết pháp, và nghe thọ ký quả Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, cho các vị đệ tử lớn, lại nghe việc nhân duyên đời trước, và nghe chư
Phật có sức thần thông đại tự tại, được chưa từng có, tâm thanh tịnh hớn hở,
bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân đức
Phật, rồi đứng qua một bên, chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật, mắt
chẳng tạm rời mà nghĩ như vầy : Ðức Thế Tôn rất kỳ đặc, làm những việc ít
có, tùy thuận bao nhiêu thứ tánh thế gian, dùng phương tiện tri kiến mà vì họ
thuyết pháp, cứu vớt chúng sinh ra khỏi những chỗ tham trước. Chúng con ở
nơi công đức của Phật, không lời lẽ nào mà nói cho hết được, chỉ có đức
Phật Thế Tôn, mới biết được nguyện xưa trong thâm tâm của chúng con.
Lúc đó, Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, tức là Mãn Từ Tử, nghe đức Phật
nói, biết được hóa thành phương tiện trí huệ (phẩm thứ bảy), tùy căn cơ của
chúng sinh mà vì họ nói pháp, lại nghe các vị đệ tử lớn, tức một nghìn hai
trăm năm mươi người, được Phật thọ ký sẽ thành Phật, lại nghe việc nhân
duyên đời trước, tức là Phẩm Hoá Thành Dụ, nói về các vị vương tử thuở
xưa, và nói về nhân duyên.
Lại nghe chư Phật có đại trí huệ, tùy duyên tự tại, thông đạt vô ngại, đây là
những việc từ trước chưa từng nghe, cho nên trong tâm thanh tịnh hớn hở
khác thường. Bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến ở trước đức Phật cuối đầu cung
kính lễ dưới chân đức Phật.
Lễ Phật xong, lui về đứng một bên, chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật, mắt
chẳng nhấp nháy. Trong tâm nghĩ như vầy : "Ðức Thế Tôn rất ít có kỳ đặc,
những gì Phật làm càng hy hữu, hay dùng trí huệ quyền xảo phương tiện, để
tùy thuận chúng sinh, mà nói đủ thứ Phật pháp phương tiện, khiến cho chúng
sinh tiêu trừ tham trước, chẳng còn nhiễm ô cảnh sáu trần. Chúng con trí huệ
mỏng manh, căn cơ cạn cợt, cho nên không thể nói hết và tuyên dương công
đức của chư Phật, chỉ có Phật, đại giác Thế Tôn, mới biết đại nguyện ở trong
thâm tâm của con và chúng sinh".
Bấy giờ, đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng ! Các ông có thấy ông Phú Lâu
Na Di Ða La Ni Tử đây chăng, ta thường khen ông ta là người thuyết pháp
giỏi bậc nhất, cũng thường khen ngợi ông ta tu đủ thứ công đức, tinh tấn
siêng năng hộ trì, trợ giúp tuyên dương pháp của ta, hay ở trong bốn chúng
khai thị giáo hóa, khiến cho mọi người được lợi ích vui mừng, giải thích đầy
đủ chánh pháp của Phật, khiến cho bậc đồng phạm hạnh được lợi ích rất lớn.
Ngoài đức Như Lai ra, chẳng có ai biện luận bằng ông Phú Lâu Na.
Lúc đó, Phật bảo các vị đại Tỳ Kheo: ‘’Các ông bây giờ có thấy vị Thanh
Văn thừa Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử đây chăng ? Ông ta ở trong đời trước,
đã từng phát nguyện lớn, muốn trợ giúp Phật hoằng dương Phật pháp. Ta
thường khen ngợi ông ta, vì ông ta thuyết pháp giỏi bậc nhất‘’.
Ban đầu Phật chuyển bánh xe diệu pháp, ngoài đức Phật đích thân nói pháp
ra, cũng nhờ đồ chúng luân phiên thuyết pháp. Vì khích lệ trí lực biện tài
giảng kinh thuyết pháp của đồ chúng, nên đức Phật luôn luôn cho người
thuyết pháp bình luận, khiến cho họ "đầu sào trăm trượng tiến thêm một
bước". Tại Vạn Phật Thành cũng làm theo đức Phật chế, chuyển bánh xe
pháp, thuyết pháp khiến cho người thuyết pháp tùy ý phát huy, thâm nhập sự
áo diệu của Phật pháp, song phải hợp với đạo lý ở trong kinh.
Ngài Phú Lâu Na khéo nói pháp vi diệu, do đó trời người, cho đến loài quỷ,
súc sinh, đều thích nghe, tức khiến cho loài A tu la háo chiến, cũng lập tức
ngưng chiến, mà yên lặng nghe pháp, ngoài ra bậc A la hán và Bồ Tát, cũng
thích nghe Ngài nói pháp. Phật thường khen ngợi Phú Lâu Na trong đời quá
khứ, rộng tu cúng dường Tam Bảo, và làm đủ thứ công đức, tinh tấn siêng
tu, khéo hộ trì tuyên dương Phật pháp, lại khéo vì bốn chúng khai thị, khiến
cho họ được pháp ích lớn.
Ngoại trừ Phật ra, ở trong đại chúng chẳng có ai có biện tài vô ngại như
Ngài Phú Lâu Na, ở trong hàng đệ tử của Phật, Ngài là người giỏi thuyết
pháp bậc nhất.
Các ông chớ cho rằng, ông Phú Lâu Na chỉ hộ trì tuyên dương pháp của ta
thôi, mà trong quá khứ, nơi chín mươi ức chư Phật, cũng hộ trì tuyên dương
chánh pháp của chư Phật. Trong hàng người nói pháp, ông Phú Lâu Na cũng
là bậc nhất, và nơi pháp không của các đức Phật nói, thấu rõ thông đạt, đắc
được bốn trí vô ngại, thường hay suy xét kỹ lưỡng thanh tịnh, thuyết pháp
chẳng có nghi hoặc, đầy đủ sức thần thông của Bồ Tát, tùy theo thọ mạng,
thường tu phạm hạnh. Người ở đời thuở các đức Phật kia, đều cho rằng ông
thật là Thanh Văn, nhưng ông Phú Lâu Na dùng phương tiện đó, lợi ích vô
lượng trăm nghìn chúng sinh, và hóa độ số người nhiều vô lượng A tăng kỳ,
khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì tịnh cõi
Phật, mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sinh.
Ðức Phật Thích Ca nói: ‘’Các ông đừng cho rằng ông Phú Lâu Na chỉ hộ trì
trợ giúp tuyên dương pháp của ta nói, mà ông ta sớm ở trong quá khứ trong
vô lượng kiếp, đã hộ trì pháp của vô lượng các đức Phật. Ở chỗ các đức
Phật, cũng là người nói pháp giỏi bậc nhất‘’.
Ngài còn thông đạt pháp không của các đức Phật nói, đắc được bốn trí vô
ngại tức là :
1. Pháp vô ngại biện.
2. Nghĩa vô ngại biện: Từ một nghĩa mà diễn nói thành vô lượng nghĩa, lại
từ vô lượng nghĩa mà quy nạp làm một. Một làm vô lượng, vô lượng làm
một. Một tức vô lượng, vô lượng tức một, viên dung vô ngại.
3. Từ vô ngại biện : Nguyện nói Phật pháp.
4. Lạc thuyết vô ngại biện : Thích nói pháp, chưa từng giải đãi. Khéo về
quán cơ thí giáo, thậm chí thấy heo, chó .v.v., cũng vì chúng thuyết pháp.
Nói với heo rằng: ‘’Ngươi đừng quá tham ăn tham ngủ nữa, cũng đừng quá
làm biến không tinh tấn, nếu không đời sau cũng sẽ bị đọa làm heo nữa, tức
vĩnh viễn khó có ngày thoát khỏi ba đường ác‘’. Khuyên nói với chó rằng:
‘’Ngươi từ nay về sau, đừng có san tham nữa, nên sớm quay đầu, bỏ mê về
với giác ngộ.’’
‘’Thường hay suy xét kỹ lưỡng thanh tịnh thuyết pháp, chẳng có nghi
hoặc‘’: Thường hay suy xét những pháp nói ra đều thanh tịnh, chẳng có tâm
nghi hoặc. Nếu người khởi hoài nghi pháp của mình nói‘’. Pháp của mình
vừa mới nói có đúng chăng? Mình khởi nghi thì cũng khiến cho người nghe
khởi nghi. ‘’Ông nầy nói tầm bậy, đùng nghe ông ta nói’’.
Tuy Ngài Phú Lâu Na là bậc A La Hán, song đã đầy đủ sức thần thông của
Bồ Tát, đó là vì Ngài ở trong đời quá khứ, đã hành Bồ Tát đạo, tùy theo thọ
mạng nơi chỗ các đức Phật tu đủ thứ tịnh hạnh. ‘’Người đời ở thuở các Ðức
Phật kia, đều cho rằng ông ta thật là Thanh Văn‘’. Ngài Phú Lâu Na vốn là
Bồ Tát, song Ngài:
‘’Nội bí Bồ Tát hạnh,
Ngoại hiện Thanh Văn thân‘’.
Nghĩa là :
Bên trong bí mật tu hạnh Bồ Tát,
Bên ngoài hiện thân Thanh Văn.
Ẩn thật hiện quyền, thị hiện hình tướng Thanh Văn, nhờ vậy mà phá ‘’thấy
dấu vết thì mê gốc‘’ của người thế tục.
Cho nên Ngài Phú Lâu Na dùng pháp quyền xảo phương tiện, ẩn lớn hiện
nhỏ, lợi ích vô lượng trăm ngàn chúng sinh. ‘’Lại hóa độ số người nhiều vô
lượng A tăng kỳ, khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác.’’: Lại giáo hóa vô lượng chúng sinh, khiến cho họ lập chí tu
thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ngài Phú Lâu Na vì trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, cho nên phàm là có
việc lợi ích cho Phật giáo, Ngài chưa từng phóng dật, dùng sở đắc của mình,
giáo hóa chúng sinh làm trách nhiệm của mình.
Ngài Phú Lâu Na thích nói Phật pháp, Ngài có bốn trí vô ngại. Pháp sư thời
nay cũng cần có bốn trí vô ngại, nên đầy đủ bốn trí nầy, bằng không chỉ có
một trí ‘’thích nói‘’ Phật pháp, bị cảnh lay chuyển, ví như, vốn muốn độ
người nào đó, song định lực chẳng đủ, kết quả ngược lại bị người đó lay
chuyển. Lại ví như ‘’người độ chó‘’, nếu thương mến tham luyến, cũng sẽ bị
chó độ lại. Xưa kia, có người diễn kịch, rất tinh thông về nghề kịch, diễn rất
khéo léo, song anh ta thương một con chó, song con chó đó chẳng phải là ai
xa lạ, mà chính là vợ của anh ta ! Vì vợ của anh ta suốt ngày thích mắng
chưởi người, bộ dạng như chó sủa, suốt ngày sủa gâu ! Gâu ! Gâu ! Ðối với
anh diễn kịch. Chẳng có ngày nào yên ổn, không được nghỉ, cũng không thể
tu hành. Khi anh ta bực bội đến cực điểm, thì tôi nói với anh ta : ‘’Nếu anh
có định lực, thì phiền não tự nhiên sẽ bỏ anh mà đi. Bây giờ anh nên tu nhẫn
nhục, nhẫn thọ tất cả sự chưởi mắng. Do đó có câu:
‘’Duyên tụ thì thành, duyên tan thì lìa‘’.
Anh ta nghe rồi, quả nhiên tu pháp môn nhẫn nhục. Ba năm sau, anh ta từ từ
đã nhẫn thọ được nghịch cảnh, còn vợ của anh ta trường từ với đời, cuối
cùng bỏ anh ta mà ra đi.
Các Tỳ Kheo ! Ông Phú Lâu Na ở nơi bảy đức Phật, cũng là người thuyết
pháp bậc nhất. Nay trong hàng đệ tử của ta, cũng là người thuyết pháp bậc
nhất. Nơi các đức Phật vị lai trong Hiền kiếp, cũng là người thuyết pháp bậc
nhất, đều hộ trì tuyên dương Phật pháp. Ðời vị lai, ông Phú Lâu Na cũng hộ
trì tuyên dương, pháp của vô lượng vô biên các đức Phật, giáo hóa lợi ích vô
lượng chúng sinh, khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Vì tịnh cõi Phật, nên thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sinh.
Các Tỳ Kheo ! Vị Phú Lâu Na ẩn lớn hiện nhỏ nầy, ở nơi bảy đức Phật và
Phật Thích Ca, cũng đều là người thuyết pháp bậc nhất trong hàng đệ tử của
Phật.
Bảy Ðức Phật là :
1. Phật Tỳ Bà Thi.
2. Phật Thi Khí.
3. Phật Tỳ Xá Phù.
4. Phật Câu Lưu Tôn.
5. Phật Câu Na Hàm Mâu Ni.
6. Phật Ca Diếp.
7. Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vì nhân duyên gì, mà Ngài Phú Lâu Na là người thuyết pháp bậc nhất trong
bảy Ðức Phật ? Ngài Phú Lâu Na ở trong quá khứ vô lượng ức kiếp, chẳng
biết thuyết pháp, song đối với Phật pháp Ngài rất khao khát ngưỡng mộ, cho
nên mỗi lần nghe có pháp hội giảng kinh, thì Ngài nhất định phải đến tham
dự. Dù Ngài có thể không ăn không uống không ngủ, song không thể nào
không đến nghe pháp, cho nên lấy pháp làm thức ăn, lấy pháp làm nước,
chẳng những như thế, mà vì biểu thị lòng cung kính, chẳng màng là ai thuyết
pháp, Ngài cũng đều cung kính, Ngài từng nguyện như vầy: ‘’Tương lai sau
khi xuất gia, tôi nguyện sẽ là người thuyết pháp bậc nhất, tại mỗi vị Phật ra
đời, đều phải dưới Phật tòa giảng kinh thuyết pháp vào hàng bậc nhất‘’.
Ngài đời đời kiếp kiếp đều phát nguyện nầy, quả nhiên toại tâm mãn
nguyện, vì phát nguyện trồng xuống hạt giống bồ đề, thì sẽ nảy mầm lớn
dần. Khi cơ duyên thành thục, thì trí huệ phát sinh biện tài vô ngại.
‘’Nơi các đức Phật vị lai trong Hiền kiếp, cũng là người thuyết pháp bậc
nhất‘’. Hiền kiếp tức là thời Thánh hiền ra đời, Phật Câu Lưu Tôn là vị Phật
thứ nhất của Hiền kiếp, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni là thứ hai, Phật Ca Diếp
là thứ ba, Phật Thích Ca Mâu Ni là thứ tư của Hiền kiếp.
Vị lai, Ngài Phú Lâu Na cũng là người thuyết pháp bậc nhất. Ngài nghe
pháp thì dẹp trừ hết mọi vọng tưởng, dùng tâm chân thành hằng thật, chuyên
chú tu hành mới có thành tựu như thế. Do đó, chúng ta khi tu đạo, thì chớ
tồn tại tơ hào tâm đố kị chướng ngại, đừng tham cầu danh văn lợi dưỡng,
đừng ham đệ nhất, nên thường sinh tâm khen ngợi người khác mới tương
ưng, chẳng trở ngại đối với pháp, đắc được pháp cảnh tương dung, lạc thuyết
vô ngại, không đệ nhất mà tự nhiên đệ nhất.
Thuở xưa, có vị Phật sống chùa Kim Sơn, đầy đủ thần thông, lại chữa trị
được bệnh, song bất cứ ai đang thuyết pháp, Ngài cũng đều cung kính chắp
tay ngồi xuống. Phật sống còn trọng pháp như thế, hà huống là phàm phu
chúng ta ? Ngài cũng nhiều kiếp khổ tu, mới cảm ứng và đầy đủ thần thông.
Một số nhân sĩ ở Thượng Hải, chẳng ai mà không cung kính khâm phục
Ngài. Nếu gặp trong chùa chẳng còn gạo ăn, thì Ngài chỉ niệm ‘’Gạo đến,
gạo đến’’ ! Thì gạo quả nhiên sẽ đến. Kẻ thấy Ngài, chẳng ai mà không ngạc
nhiên kính phục.
Ngài Phú Lâu Na thuyết pháp bậc nhất, song Ngài chẳng ‘’tranh giành‘’ mà
tự nhiên có được. Chẳng những trong Hiền kiếp, mà suốt thuở vị lai vô biên
chỗ các Ðức Phật, Ngài cũng hộ trì diễn nói tuyên dương chánh pháp, giáo
hóa lợi lạc quần sinh, khiến cho họ kiến lập thành tựu nhân duyên, quả vị Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nếu ai tinh tấn siêng năng giáo hoá chúng sinh, thì người đó thanh tịnh cõi
Phật. Cho nên hiện tại ở Vạn Phật Thành ai tuyên dương Phật pháp, khổ tu
hành, tức là nhân duyên thù thắng thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật.
Bây giờ, chúng ta trang nghiêm cõi Phật khác, thì ngày nào đó, khi mình
thành Phật, thì cõi nước của mình cũng sẽ trang nghiêm. Do đó : ‘’Lấy sự
trang nghiêm của Phật, trang nghiêm cho mình‘’. Thanh tịnh cõi Phật khác,
tức là thanh tịnh cõi Phật tự tánh. Nếu ai biết mà không thực hành, thì tự
tánh của người đó ô uế hơn đời ác năm trược. Các vị chớ thấy mà bỏ qua,
hiện tại tôi giảng kinh thuyết pháp được, cũng có thể nói là đã từng thọ qua
sự giáo hóa của Ngài Phú Lâu Na. Lúc còn trẻ, tôi ngu dốt hơn một số
người, chẳng khéo ăn nói, cũng chẳng dám nói nhiều, nếu chưa từng thọ sự
khai thị của Ngài Phú Lâu Na, thì dù chính mình khổ tu, cũng không được
như vậy.
Dần dần đầy đủ đạo Bồ Tát, trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp, sẽ ở cõi này
đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai,
ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật
đó, dùng ba ngàn đại thiên thế giới, nhiều đồng như số các sông Hằng làm
một cõi Phật. Bảy báu làm đất, mặt đất bằng phẳng như bàn tay, chẳng có
núi gò khe suối rạch ngòi. Ðài quán bảy báu đầy dẫy trong đó. Cung điện
của chư Thiên ở gần nơi hư không, trời người giao tiếp nhau, và thấy được
nhau.
Ngài Phú Lâu Na dần dần sẽ đầy đủ đạo Bồ Tát, tu thành tựu viên mãn rồi sẽ
thành Phật, giác hạnh viên mãn. Ngài tương lai sẽ thành Phật ở thế giới Ta
Bà nầy, hiệu là Phật Pháp Minh. Ðức Phật đó, dùng ba ngàn đại thiên thế
giới, nhiều như số cát sông Hằng làm một cõi Phật, làm nơi giáo hóa của
Phật. Có : Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, pha lê, bảy thứ báu
nghiêm sức. Mặt đất bằng phẳng như bàn tay của Phật, tâm của Phật bằng
phẳng, nên mặt đất cũng bằng. Mặt đất bằng chẳng có núi, gò, khe, suối,
rạch, ngòi .v.v., dụ cho đất chẳng có âm hiểm, bất bình, tham dục. Lại có đài
quán dùng bảy báu tạo thành, cung điện của chư Thiên gần nơi hư không.
Trời và người nhìn thấy nhau, giao tiếp với nhau.
Chẳng có các đường ác, cũng chẳng có các người nữ. Tất cả chúng sinh đều
hóa sinh ra, chẳng có dâm dục, được đại thần thông, thân phóng quang minh,
bay đi tự tại, chí niệm vững chắc, tinh tấn trí huệ, thảy đều màu vàng thật, ba
mươi hai tướng tự trang nghiêm. Chúng sinh trong nước đó, thường dùng hai
thứ ăn uống, một là dùng niềm vui của pháp, thứ hai là dùng niềm vui của
thiền định.
Vì ‘’chẳng có các đường ác‘’, cho nên cõi tịnh độ đó chẳng đói khác, chẳng
có thống khổ phiền não, cũng chẳng có súc sinh. ‘’Cũng chẳng có người
nữ‘’, tại sao chẳng có người nữ ? Con người lại từ đâu đến ? Chúng sinh
đồng ở nơi thế giới Ta Bà ác trược ô uế nầy, có bốn đường ác và người nữ.
Song trong cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, cho nên chẳng có đường ác và
người nữ. Thế giới Lưu Ly ở phương đông và thế giới Cực Lạc phương tây
có người nữ, song chẳng có nhân sự, cũng chẳng có tâm dâm dục, tất cả
chúng sinh đều là pháp tử, từ pháp hóa sinh, đoạn dục khử ái tu thành pháp
thân, cho nên thế giới Lưu Ly cũng gọi là thế giới hoan hỉ.
Chúng sinh trong cõi nước của Phật Pháp Minh, đều là hóa sinh mà chẳng có
thai sinh, tự có hóa không, tự không hóa có, biến hóa vô cùng. Có chúng
sinh biến hóa ra từ trong hoa sen, biến hóa ra từ trong cây, biến hóa ra từ
trong biển, cảnh giới trong nước đó, đều không thể nghĩ bàn.
‘’Chẳng có dâm dục‘’, nếu người muốn tu đạo, thì đừng nên có tơ hào về
tham dục, hà huống là tự làm ? Ai đoạn được dâm dục thì có định lực, mới
có thể chứng đại thần thông, trí huệ hiển hiện, thân phóng quang minh. Từ
thế giới định huệ ba học vô lậu mà sinh ra, bay đi tự tại, tùy ý mà đến. Tâm
bồ đề tu tập Phật pháp có tiến chẳng có lùi, vững chắc chẳng động lay, càng
ngày càng tiến bộ, vì có chí nguyện tinh tấn nầy mới có đại trí huệ.
Người trong cõi nước đó, vì tu trung đạo thắng hạnh thanh tịnh, cho nên thân
thể đều hiện sắc màu vàng thật, tự trang nghiêm cõi nước mà thành tựu ba
mươi hai tướng.
Cõi nước đó, có hai thứ ăn uống: Một là dùng niềm vui của pháp làm thức
ăn, tâm lìa tham trước. Từ xưa phàm phu đều dùng thực vật làm thức ăn, còn
tham trước mùi vị. Nếu không tham ăn mà dùng pháp làm thức ăn, thì pháp
hỉ sung mãn (niềm vui tràn đầy), chẳng cảm thấy đói khát.
Hai là dùng niềm vui của thiền định làm thức ăn. Nếu ai ai cũng đều tu tập
thiền định, thì hằng ngày chẳng đoạn thực, càng ngồi càng sinh hoan hỉ,
chẳng muốn rời khỏi chỗ ngồi, diệu đến cực điểm.
‘’Ăn uống‘’ có nhiều thứ, phàm phu là phần đoạn thực (ăn uống từng phần
từng đoạn), chư thiên là tư thực, (muốn ăn gì, nghĩ đến liền có), quỷ thần là
xúc thực, chúng dùng mũi ngửi, cho nên cũng gọi là khứu thực.
Có vô lượng A tăng kỳ ngàn vạn ức Na do tha các chúng Bồ Tát, được đại
thần thông, bốn trí vô ngại, khéo giáo hóa chúng sinh. Chúng hàng Thanh
Văn dù tính toán cũng không biết được số lượng, đều được đầy đủ sáu thần
thông, ba minh và tám giải thoát. Cõi nước đức Phật đó, có vô lượng công
đức trang nghiêm thành tựu như thế, kiếp tên là Bảo Minh, cõi nước đó tên
là Thiện Tịnh, tuổi thọ của đức Phật đó, vô lượng A tăng kỳ kiếp, pháp lưu
lại ở đời rất lâu. Sau khi đức Phật diệt độ, tạo dựng tháp bằng bảy báu, đầy
khắp cõi nước đó.
Có vô lượng vô số chúng Bồ Tát đại thừa, được đại thần thông và bốn trí vô
ngại (bốn biện tài vô ngại), khéo quán sát căn cơ rồi nói pháp. Chúng Thanh
Văn cũng chẳng cách chi tính đếm được, đều đầy đủ sáu thông, ba minh
(thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh) và bên trong có sắc tưởng
quán ngoại sắc, bên trong chẳng có sắc tưởng quán ngoại sắc .v.v., tám pháp
giải thoát.
Phật Pháp Minh ứng hóa ra cõi nước như đã nói ở trên, dùng vô lượng công
đức để trang nghiêm. Trong kiếp Bảo Minh, Ðức Phật Pháp Minh nơi cõi
nước Thiện Tịnh thành Phật, Ðức Phật đó sống lâu vô lượng A tăng kỳ kiếp,
Phật pháp trụ ở đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, chúng đệ tử dùng bảy báu
tạo tháp cúng dường, đầy khắp cõi nước đó.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Các Tỳ Kheo lóng nghe
Ðạo của Phật tử hành
Vì khéo học phương tiện
Không thể nghĩ bàn được.
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ Tát
Làm Thanh Văn Duyên Giác.
Dùng vô số phương tiện
Ðộ các loài chúng sinh
Tự nói là Thanh Văn
Cách Phật đạo rất xa.
Ðộ thoát vô lượng chúng
Thảy đều được thành tựu
Tuy tiểu thừa giải đãi
Dần sẽ khiến thành Phật.
Trong ẩn hạnh Bồ Tát
Ngoài hiện là Thanh Văn
Ít muốn nhàm sinh tử
Thật tự tịnh cõi Phật.
Thị hiện có ba độc
Lại hiện tướng tà kiến
Ðệ tử ta như thế
Phương tiện độ chúng sinh.
Nếu ta nói đầy đủ
Các thứ việc hóa hiện
Chúng sinh nghe như thế
Tâm bèn sinh nghi hoặc.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa ở trên, bèn dùng kệ để nói: Các
chúng Tỳ Kheo hãy chú ý nghe, Phật tử Phú Lâu Na hành đạo, khéo học
phương tiện huệ, cho nên dùng quyền xảo phương tiện, làm việc không thể
nghĩ bàn. Biết chúng sinh ưa thích pháp tiểu thừa, mà sợ đại thừa, cho nên
các vị Bồ Tát ẩn lớn hiện nhỏ, hiện thân Thanh Văn, Duyên Giác, dùng vô
số phương tiện pháp môn, giáo hóa tất cả chúng sinh.
Tự nói là nhị thừa Thanh Văn, cách Phật đạo rất xa, nhờ phương tiện đó mà
độ thoát vô lượng chúng sinh, khiến cho thành tựu đạo xuất thế. Tuy nhiên
người tiểu thừa muốn giải đãi, trung đạo tự tận, cũng phải khiến cho họ từ từ
hồi tiểu hướng đại, thành tựu Phật đạo.
Bên trong ẩn hạnh Bồ Tát, mà bên ngoài hiện thân Thanh Văn, làm Thanh
Văn thực hành pháp thiểu dục, nhàm chán sinh tử, bên trong tâm thật tự du
hí thần thông, tự trang nghiêm cõi Phật, song cố ý hiện có ba độc (tham, sân,
si) và tướng tà kiến mà chẳng tham hiểm, dùng đủ thứ phương tiện nhân
duyên, dẫn dắt kẻ mê hoặc thì dễ thành công. Như Ngài Ca Lưu Ðà Di giả
hiện tướng cô gái đẹp, song thật thì chẳng phải như thế. Người có trí thì đều
biết được đó chẳng phải là sắc đẹp thật, bất quá đó là quyền xảo phương tiện
thị hiện tướng đó.
Ngoài ra, đệ tử của Phật như Ngài Xá Lợi Phất thì hiện tướng sân, hoặc
tướng tham, hoặc tướng si, cũng không ngoài dùng pháp phương tiện, tùy
theo loài mà giáo hoá, do đó mà hiện đủ thứ hình tướng, nay chỉ nói sơ lược,
không dám nói hết, vì sợ người nghe tín tâm chưa vững chắc sinh ra nghi
hoặc.
Nay Phú Lâu Na đây
Nơi ngàn ức Phật xưa
Siêng tu Bồ Tát đạo
Tuyên dương pháp chư Phật.
Vì cầu huệ vô thượng
Nên nơi chỗ chư Phật
Hiện ở trong đệ tử
Ða văn có trí huệ.
Thuyết pháp vô sở úy
Hay khiến chúng hoan hỉ
Chưa từng có mệt nhọc
Ðể trợ giúp Phật sự.
Ðã được đại thần thông
Ðủ bốn trí vô ngại
Biết các căn lợi độn
Thường nói pháp thanh tịnh.
Diễn xướng nghĩa như thế
Ðộ ngàn ức chúng sinh
Khiến trụ pháp đại thừa
Mà tự tịnh cõi Phật.
Vị lai cũng cúng dường
Vô lượng vô số Phật
Trợ giúp tuyên chánh pháp
Cũng tự tịnh cõi Phật.
Thường dùng các phương tiện
Thuyết pháp vô sở úy
Ðộ chúng không tính được
Thành tựu Nhất thiết trí.
Hiện tại Phú Lâu Na đây, nơi chỗ chư Phật trong quá khứ, siêng tu thanh
tịnh Bồ Tát đạo, tuyên dương hộ trì pháp của chư Phật, vì cầu trí huệ vô
thượng của Như Lai. Ở chỗ chư Phật bậc nhất về thuyết pháp, hiện ở trong
tất cả đệ tử làm bác học đa văn, có đại trí huệ, thuyết pháp được vô sở úy,
hay khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỉ, chưa từng có tướng mỏi mệt.
Trợ giúp làm Phật sự, đắc được đại thần thông.
Vì đủ bốn trí vô ngại, nên biết căn tính lợi hoặc độn của các chúng sinh.
Thường nói thanh tịnh vô thượng diệu pháp, lưu thông diễn xướng nghĩa
như thế. Giáo hóa vô số ức chúng sinh, khiến cho được an trụ nơi pháp đại
thừa, thanh tịnh tự trang nghiêm cõi Phật. Ở vị lai cúng dường chư Phật.
Bên ngoài hiện tướng Thanh Văn, ứng các căn cơ, trợ giúp tuyên dương
chánh pháp, bên trong ẩn chân tâm, tự tâm thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật.
Thường dùng pháp phương tiện thiện xảo, thuyết pháp vi diệu vô thượng mà
tâm vô sở úy, độ vô số chúng sinh, đều khiến cho thành tựu Nhất thiết trí
huệ.
Cúng dường các Như Lai
Hộ trì tạng pháp bảo
Sau đó được thành Phật
Hiệu là Phật Pháp Minh.
Nước đó tên Thiện Tịnh
Ðất đai bằng bảy báu
Kiếp tên là Bảo Minh
Chúng Bồ Tát rất nhiều.
Có đến vô lượng ức
Ðều có đại thần thông
Sức oai đức đầy đủ
Ðầy dẫy trong nước đó.
Thanh Văn cũng vô số
Ba minh tám giải thoát
Ðược bốn trí vô ngại
Dùng họ để làm Tăng.
Các chúng sinh nước đó
Ðều đã đoạn dâm dục
Chỉ biến hóa sinh ra
Thân đủ tướng trang nghiêm.
Ăn pháp hỉ thiền duyệt
Càng chẳng có nghĩ ăn
Chẳng có những người nữ
Cũng chẳng có đường ác.
Tỳ Kheo Phú Lâu Na
Công đức đều viên mãn
Sẽ được tịnh độ đó
Chúng hiền Thánh rất đông.
Vô lượng việc như thế
Nay ta chỉ lược nói.
Cúng dường Phật là tu phước, nói pháp là tu huệ, phước huệ song tu, đến khi
đầy đủ thì thành Phật, hiệu là Pháp Minh, cõi nước đó tên là Thiện Tịnh, đất
đai đều do bảy báu hợp thành, kiếp tên là Bảo Minh, trong nước đó có vô số
ức Bồ Tát, đều có đại thần thông, đầy đủ sức oai đức. Lại có vô lượng Thanh
Văn, đã được ba minh, tám giải thoát và bốn trí vô ngại, dùng hàng tiểu thừa
như thế tu công đức vô lậu. Chúng sinh nước đó chẳng có dâm dục. Nếu ai ở
thế giới Ta Bà nầy, tu đạo thanh tịnh, giữ gìn giới luật, tâm chẳng nghĩ về
dâm dục, thì cũng như sống ở trong nước đó không khác.
Trong cõi nước Thiện Tịnh đã đoạn dâm dục, chúng sinh đều từ hoa sen hóa
sinh ra, đủ tướng trang nghiêm, dùng sự nghe kinh, thiền duyệt, pháp hỉ sung
mãn làm thức ăn, một khi vui mừng thì được an lạc vô hạng. Có người nói:
‘’Không có người nữ ở trong nước đó thì làm sao có người ?‘’ Bạn chỉ biết
có người nữ mà không biết đoạn dục khử ái, tính tịnh thể sáng.
Nước đó chẳng có người nữ, chẳng có đường ác, càng chẳng nghĩ đến sự ăn
uống. Ngài Phú Lâu Na viên mãn tất cả công đức, tự giác, giác tha, giác
hạnh viên mãn, sẽ được đồng cư tịnh độ như thế. Bồ Tát Thanh Văn, trời
người rất đông không thể biết được số lượng, chỉ lược nói thôi, tránh khiến
cho chúng sinh sinh ra nghi hoặc.
Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A la hán, tâm tự tại nghĩ như vầy : Chúng ta
vui mừng được chưa từng có. Nếu được đức Thế Tôn đều thọ ký, như các vị
đệ tử lớn, thì sung sướng lắm. Ðức Phật biết tâm suy nghĩ của các vị đó, bèn
nói với ngài Ma Ha Ca Diếp rằng : Một nghìn hai trăm vị A la hán này, nay
ta sẽ lần lược thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ở trong
chúng đây, đệ tử lớn của ta, Tỳ Kheo Kiều Trần Như sẽ cúng dường sáu vạn
hai nghìn ức đức Phật, sau đó sẽ được thành Phật, hiệu là Phổ Minh Như
Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Lúc đó, một nghìn hai trăm vị A La Hán đều đã chứng vô học, tâm tự tại, đã
sạch phiền não. Tại nhân địa tu hành thì làm Tỳ Kheo, đến quả địa là A La
Hán.
A La Hán có ba nghĩa :
1. Ứng Cúng : Xứng đáng thọ trời người và thần cúng dường.
2. Sát tặc : Giết tặc phiền não. Bồ Tát là giết ‘’bất tặc‘’, A La Hán chẳng
nhận thức cho là tặc, song Bồ Tát nhận thức cho là tặc mà trừ đi.
3. Vô sinh : Nghĩa là phiền não chẳng sinh. Vì ‘’sinh’’ mới phải diệt, ‘’bất
sinh‘’ thì chẳng cần diệt. Không sinh không diệt tức vô minh pháp nhẫn.
A La Hán tự do tự tại, vô câu vô thúc, chẳng quái ngại, chẳng có tướng ta,
tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Song các vị A La Hán thấy
Ðức Phật thọ ký cho Ngài Phú Lâu Na, bèn nghĩ như vầy : ‘’Việc Phật thọ
ký, trước kia chưa từng có. Nếu được Phật thọ ký riêng cho chúng ta thì
sung sướng lắm‘’ ! Ðức Phật đều biết, đều thấy tâm của mọi người, cho nên
nói với Ngài Ma Ha Ca Diếp rằng : Nói với mọi người đừng hấp tấp, Phật sẽ
vì các vị đó lần lược thọ ký.
Ở trong chúng đó, người ta độ trước nhất là Kiều Trần Như, ông ta là vị đệ
tử lớn tinh tấn siêng năng tu đạo và chủ trì Phật pháp, sẽ cúng dường sáu vạn
hai ngàn ức Ðức Phật, sau đó sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai. Ngài
Kiều trần Như, tức "giải bổn tế", hiểu rõ bổn lai diện mục. Ngài là người thọ
giới cụ túc đầu tiên, cũng là đệ tử ngộ trước nhất, cho nên làm trưởng lão
của một nghìn hai trăm vị A La Hán.
Năm trăm vị A la hán đó, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na
Ðề Ca Diếp, Ca Lưu Ðà Di, Ưu Ðà Di, A Nậu Lâu Ðà, Ly Bà Ða, Kiếp Tân
Na, Bạc Câu La, Châu Ðà, Sa Già Ðà .v.v... đều sẽ được quả vị Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, đều đồng một danh hiệu là Phổ Minh. Bấy giờ, đức
Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Năm trăm vị A La Hán đó, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na
Ðề Ca Diếp, dịch ra là "giang" hoặc "hà" (sông). Ðó là biểu thị tu hành bên
bờ sông. Ca Lưu Ðà Di, nghĩa là "hắc quang", vì tướng mạo đen thui, Ngài
chẳng giữ giới luật, thích đi ban đêm. Một đêm nọ trời tối đen như mực,
trong đêm tối càng thấy rõ bộ diện của Ngài phát quang. Ngài đi đến trước
của một nhà nọ, thuận tay gõ mấy tiếng, bèn có một phụ nữ mang thai ra mở
cửa, bất thình lình cô ta thấy một vật phát quang đứng ở trước cửa, cô ta ngất
xỉu, sau một lúc bèn tỉnh dậy. Vì một niệm sợ hãi mà động bào thai, đưa đến
đứa bé chào đời, cô ta quở trách vị Tỳ Kheo đó. Ðức Phật nghe tin bèn họp
đại chúng lại, chế ra luật Tỳ Kheo không được du hành ban đêm. Tuy vị Tỳ
Kheo đó từng phạm lỗi lầm, nhưng rất nhân duyên, rất được đồ chúng tôn
kính và tín nhiệm, và từng hóa độ rất đông người.
Ngài Ca Lưu Ðà Di đó, vì giáo hóa chúng sinh mà giả hiện thái độ không
giữ quy cụ, là một sự dạy đạo ‘’phản diện‘’.
Ưu Ðà Di là học trò của Ngài A Nan, nghĩa là "xuất hiện", nghiêm thủ giới
luật nhất. A Nậu Lâu Ðà, đã từng bảy ngày không ngủ, khiến cho cặp mắt bị
mù. Một lần nọ, Phật thuyết pháp, song Ngài A Nậu Lâu Ðà ngủ gục bị Ðức
Phật quở. Sau khi Ngài tỉnh dậy, bèn phát nguyện từ đây về sau không giải
đãi nữa, chẳng tham ngủ nữa. Kết quả vì Ngài không ngủ, dụng công quá độ,
mà cặp mắt bị mù. Phật thương xót Ngài, bèn dạy Ngài tu tam muội kim
cang chiếu minh. Chẳng bao lâu, Ngài chứng được thiên nhãn thông, quán
chiếu được ba ngàn thế giới, như thấy quả trái cây trong lòng bàn tay.
A Nậu Lâu Ðà nghĩa là "không nghèo". Thuở xưa, Ngài từng cúng dường
một vị Tỳ Kheo đã chứng quả Thánh. Vị Thánh nhân nầy, khi tu hành tại
nhân địa thì chỉ tu huệ mà chẳng tu phước, cho nên đi khất thực luôn luôn
ôm bát không về. Do đó, Ngài quyết định mỗi bảy ngày mới hóa duyên một
lần, mỗi lần hóa duyên bảy nhà, nếu chẳng có ai cho gì thì không ăn.
Một ngày nọ, Ngài ôm bát không trở về, đi ngang qua đồng ruộng, thì có
một nông phu mới làm xong, nghỉ việc chuẩn bị để ăn cơm trưa. Từ xa thấy
vị tu hành ôm bát không đi ngang qua. Ngài A Nậu Lâu Ðà phát tâm cúng
dường phần cơm trưa của mình cho vị tu hành đó. Tuy Ngài A Nậu Lâu Ðà
rất đói, song vì tâm thành muốn cúng dường cho vị đó. Vị tu hành đó nhận
sự cúng dường rồi bèn hồi hướng:
‘’Sở vị bố thí giả,
Tất hoạch kỳ lợi ích
Nhược vị lạc bố thí
Hậu tất đắc an lạc.’’
Nghĩa là:
Những gì mình bố thí
Sẽ đắc được lợi ích
Nếu vui vẻ bố thí
Sau sẽ được an lạc.
Nói xong bỏ đi. Người nông dân lúc đó bất ngờ thấy con thỏ chạy lên vai,
song dính ở trên vai, người nông dân kinh dị, bèn lập tức chạy về nhà, nói lại
với vợ. Người vợ lấy tay cầm xuống, thì đột nhiên thấy con thỏ đã biến
thành vàng. Do đó, bèn chặt hai cái chân đi đổi thành tiền để sinh sống, thì lạ
thay chỗ chặt đi lại biến lại như cũ, lại chặt đi, lại biến lại như cũ, dùng
không hết, càng ngày càng trở nên giàu có. Cho nên, Ngài đời đời kiếp kiếp
không nghèo, trải qua chín mươi mốt kiếp được quả báo giàu có.
Ly Bà Ða dịch ra nghĩa là "Tinh tú". Kiếp Tân Na dịch ra nghĩa là "Phòng
tú", vì sao thứ tư ở trong Nhị Thập Bát Tú. Ngài Kiếp Tân Na và Ngài Ly Bà
Ða đều thuộc về tinh tú. Tại sao lại như thế ? Vì xưa kia, cha mẹ của các
Ngài gần về tuổi già mà chẳng có con, cho nên bèn ở trước bàn thờ Nhị
Thập Bát Tú mà cầu con, phát nguyện siêng tu làm việc lành, cúng sường
Tam Bảo, kết quả được mãn nguyện, cho nên được tên là Phòng Tú (Kiếp
Tân Na).
Bạc Câu La ở trong quá khứ từng giữ giới chẳng sát sinh, cho nên được năm
thứ phước báo. Ngài vừa chào đời thì cười hà hà, mẹ của Ngài thấy vậy rất
sợ hãi, nghi là yêu quái, mới đem Ngài bỏ vào chảo dầu sôi, muốn dùng dầu
sôi thiêu chết Ngài, song chẳng thành công. Kế tiếp, lại đem Ngài bỏ vào
nước sôi, muốn nấu chết Ngài, song lại thất bại. Sau đó, đem Ngài bỏ xuống
biển sâu, song bị cá nuốt vào bụng, con cá nầy bị người đánh cá câu được,
mổ bụng ra, bỗng thấy đứa bé ở trong bụng cá còn sống.
Ngài Bạc Câu La có năm điều không hại Ngài chết được, tức là :
1. Lửa đốt không chết.
2. Nước đun không chết.
3. Rớt xuống biển không chết.
4. Cá ăn không chết.
5. Dao mổ không chết.
Ðó là năm thứ quả báo giữ giới không giết hại.
Châu Ðà còn gọi là Châu Lợi Bàn Ðà Gia là anh của Sa Già Ðà, dịch là
"Tiểu lộ". Cho nên anh em hai người gọi là "Ðại lộ" và "Tiểu lộ". Người anh
thông minh hơn người em. Thời xưa phong tục ở Ấn Ðộ, người nữ đều phải
về nhà mẹ sinh sản. Cho nên, bà mẹ của Châu Ðà cũng thế, song Châu Ðà
chẳng đợi bà mẹ trở về đến nhà, thì đã sinh ra giữa đường, cho nên gọi là
"Ðại lộ". Bà mẹ của Ngài đã trải qua một lần kinh nghiệm, khi mang thai lần
thứ hai, thì sớm trở về nhà mẹ để sinh sản, song lần nầy vẫn sinh ra "Tiểu lộ"
tại giữa đường. Do đó, hai anh em tên gọi là "Ðạo sinh" và "Kế đạo".
Châu Ðà căn cơ sâu dày, quán thông Phật lý, đối với kinh điển qua mắt
chẳng quên. Song người em căn tánh rất ngu độn, đọc kinh sách chẳng nhớ
câu nào, giải đãi chẳng tinh tấn. Do đó, mọi người đều nghị luận về tính
cách rất cực đoan của hai anh em.
Nghe vậy Ngài Châu Ðà quở trách người em nói: ‘’Chú mày thật là vô dụng,
năm trăm vị A La Hán dùng hết sức để dạy chú mày, mà chú mầy vẫn không
hiểu, tốt nhất hãy hoàn tục cho rồi‘’. Người em chẳng muốn hoàn tục, song
người anh rất kiên quyết, chẳng muốn người em xuất gia nữa. Người em thì
chẳng muốn hoàn tục, song không thể không nghe lời anh, nên bèn bỏ đi vì
xấu hổ quá. Phật biết câu chuyện nầy, bèn đến trước cản lại, an ủi Sa Già Ðà
và dạy Ngài niệm :
‘’Chổi quét đất tâm,
Tự tịnh ý mình,
Ðất tâm quét sạch,
Tự nhiên sẽ ngộ‘’.
Song, Sa Già Ðà trí nhớ rất kém, nhớ được chữ ‘’chổi‘’ thì quên chữ
‘’quét‘’. Song, Phật vẫn nhắc lại cho Ngài. Sa Già Ðà đọc đi đọc lại nhiều
lần, thời gian sau Ngài khai ngộ !
Tin rằng, những người đang nghe pháp ở đây, thông minh hơn Ngài nhiều,
đừng nói chổi quét hai chữ, dù bốn chữ một khi nghe thì nhớ liền. Niệm ‘’A
Di Ðà Phật‘’ càng dễ hơn nữa, song sao chúng ta vẫn chưa khai ngộ ? Tôn
giả tuy nhiên ‘’ngu‘’ hơn chúng ta, song ‘’khai ngộ‘’ mau hơn chúng ta. Ðó
là vì tôn giả ở trong đời quá khứ, đã từng cúng dường ba đời tất cả chư Phật,
nuôi lớn căn lành, cho nên căn cơ sâu dày.
Hiện tại, vì ứng cơ giáo hóa chúng sinh, nên cố ý hiện tướng ngu độn, vì
chúng sinh làm mô dạng như thế. Chúng sinh thấy Ngài ngu si như thế, mà
còn có thể khai ngộ, mình còn thông minh hơn Ngài nhiều, cơ hội khai ngộ
chắc chắn rất nhiều, cho nên cố gắng tinh tấn tu hành.
Sa Già Ðà trong đời quá khứ, tự cho rằng thông minh, tuy hiểu pháp lý vi
diệu, song chẳng muốn vì chúng sinh thuyết pháp, đó là tham lam pháp,
chảng bố thí pháp, cho nên đời nầy mắc quả báo ngu si. Chẳng muốn người
khác thông minh, thì chính mình càng biến thành không thông minh. Do
Ngài đã từng gieo trồng căn lành sâu dày, nên vẫn có một ngày khai mở trí
huệ.
Chúng ta học Phật đã lâu, nhưng đã lâu mà vẫn chưa khai ngộ. Vì thuở xưa
chưa từng cúng dường Tam Bảo và tất cả chư Phật ba đời. Ðây cũng ví như
đang vun bồi cây, nếu gốc rễ sâu dày, thì cây sẽ phát triển sum sê. Ngược lạ,
nếu ban đầu gốc rễ chẳng vững chắc, thì dần dần cành lá nhất định sẽ khô
rụng. Do đó, làm người phải trồng nhiều căn lành, làm nhiều việc thiện,
công đức viên mãn, thì tự nhiên sẽ khai ngộ. Ai muốn phước huệ song tu thì
một mặt tu hành, một mặt cũng phải làm việc thiện, nên nhớ đừng tham lam
pháp, hiểu một câu thì phải nói một câu, phải cung hành thực tiễn, lấy thân
làm phép tắc. Do đó, có câu :
‘’Ma Ha Tát bất quản tha,
Di Ðà Phật các cố các‘’.
Bồ Tát chẳng để ý đến lỗi lầm mao bệnh của kẻ khác, bất cứ kẻ khác đúng
hay sai. Chúng ta đừng cứ giặt quần áo cho kẻ khác, ngược lại quần áo của
mình thì dơ bẩn. Cho nên hiểu và thực hành mới là chân tu hành, công đức
mới viên mãn.
Tham lam pháp là chướng ngại lớn trong việc tu hành, quả báo chẳng những
chỉ ngu si, mà còn bị quả báo câm ngọng, chẳng những chẳng nhớ hai chữ
chổi quét, mà cho đến cơ hội nói cũng chẳng có, đó mới là nhiều khổ ! Cơ
hội khai ngộ thật là mỏng manh.
Ở trên nói về các vị A La Hán, đều đại biểu cho một nghìn hai trăm vị A La
Hán. Các Ngài đều được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng một
danh hiệu là Phổ Minh. Lúc đó, sợ chúng sinh không minh bạch, nên Ðức
Phật từ bi dùng kệ để thuật lại.
Tỳ Kheo Kiều Trần Như
Sẽ gặp vô lượng Phật
Qua A tăng kỳ kiếp
Mới thành Ðẳng chánh giác.
Thường phóng đại quang minh
Ðầy đủ các thần thông
Danh đồn khắp mười phương
Tất cả đều cung kính.
Thường nói đạo vô thượng
Nên hiệu là Phổ Minh
Cõi nước đó thanh tịnh
Bồ Tát đều dũng mãnh.
Ðều lên lầu các đẹp
Ðến các nước mười phương
Dùng đồ cúng vô thượng
Cúng dường các đức Phật.
Cúng dường như thế rồi
Trong tâm rất hoan hỉ
Chốc lát về bổn quốc
Có thần thông như thế.
Tỳ Kheo Kiều Trần Như ở đời vị lai, sẽ gặp vô lượng các Ðức Phật, thừa sự
cúng dường, trải qua vô lượng kiếp sau mới thành Phật đạo. Thường phóng
quang minh trí huệ, viên mãn đầy đủ các thần thông, danh hiệu Phật vang
khắp cõi nước mười phương, là chỗ quy kính của tất cả chúng sinh. Thường
nói diệu pháp thâm sâu vô thượng, như trí huệ quang phóng ra, nên hiệu là
Phổ Minh.
Ở trong cõi nước thanh tịnh đó, chúng Bồ Tát đều dũng mãnh tinh tấn, đều
thăng lên lầu các đẹp đẽ, được đạo phẩm vi diệu nhất, du hành đến cõi nước
mười phương, để tu các công đức, dùng đồ cúng bằng bảy báu để cúng
dường chư Phật. Làm các sự cúng dường như thế rồi, trong tâm rất vui mừng
sung sướng, sinh đại hoan hỉ, trong chốc lát trở về bổn quốc, vì có đủ thứ
thần thông nên được như thế.
Phật thọ sáu vạn kiếp
Chánh pháp trụ hơn thọ
Tượng pháp lại hơn chánh
Pháp diệt trời người lo.
Năm trăm Tỳ Kheo này
Lần lượt sẽ thành Phật
Ðồng hiệu là Phổ Minh
Lần lượt thọ ký nhau.
Sau khi ta diệt độ
Vị đó sẽ thành Phật
Thế gian Phật đó độ
Cũng như ta ngày nay.
Cõi nước đó nghiêm tịnh
Và các sức thần thông
Chúng Bồ Tát Thanh Văn
Chánh pháp và tượng pháp.
Kiếp thọ mạng bao nhiêu
Ðều đã nói ở trên
Ca Diếp ông đã biết
Năm trăm vị tự tại.
Ngoài các chúng Thanh Văn
Cũng sẽ lại như thế
Ai chẳng có ở đây
Ông nên vì họ nói.
ứng thân của Phật thọ mạng sáu vạn kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi vạn
kiếp, còn tượng pháp trụ hai mươi bốn vạn kiếp. Nếu pháp diệt thì trời người
đều lo âu. Năm trăm tôn giả thứ tự thọ ký, Phật diệt độ rồi, cùng nhau lần
lược sẽ thành Phật, đều hiệu là Phổ Minh Như Lai. Thế gian của vị Phật đó
độ, như thế giới Ta Bà hiện tại nầy, song trong cõi nước đó nghiêm tịnh, và
đủ thứ sức thần thông biến hóa tự tại. Các chúng Bồ Tát, Thanh Văn, chánh
pháp và tượng pháp, thọ mạng bao nhiêu kiếp, giống như Phổ Minh Như Lai
không khác, đều như đã nói ở trên.
Ca Diếp ông đã biết, ta vì năm trăm vị A La Hán mà thọ ký, tức cũng vì các
chúng hàng Thanh Văn khác, một nghìn hai trăm vị mà thọ ký, nếu hôm nay
những người nào không có ở đây, ông nên vì họ mà nói.
Bấy giờ, năm trăm vị A La Hán ở trước đức Phật được thọ ký rồi, vui mừng
hớn hở, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, đảnh lễ dưới chân
đức Phật, hối lỗi tư trách rằng : Ðức Thế Tôn ! Chúng con thường nghĩ như
vầy : Tự cho rằng đã được diệt độ rốt ráo, nay mới biết là người chẳng có trí
huệ. Tại sao ? Vì chúng con đáng được trí huệ của đức Như Lai, mà tự cho
rằng trí nhỏ là đủ.
Ðức Thế Tôn ! Ví như có người nọ, đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc
đó bạn thân bận việc quan phải đi, bèn lấy hạt châu vô giá, buộc vào trong
áo của gã say rồi bỏ đi. Gã đó tỉnh dậy cũng chẳng biết, đi lang thang đến
nước khác, vì ăn mặc nên gắng sức tìm cầu rất là khốn khổ, được chút ít bèn
cho là đủ.
Năm trăm vị tôn giả, ở trước Phật được thọ ký rất vui mừng, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đến trước Ðức Phật đảnh lễ dưới chân Phật, sám hối tự trách. Ai
có thể biết hối lỗi tự trách, là hành vi của bậc Thánh Hiền, người chẳng biết
hối lỗi là hành vi ngu si. Các vị A La Hán tự trách, được ít cho là đủ, chưa
được cứu kính Niết Bàn, mà tự cho đã được. Trên thì chẳng biết có Phật đạo
có thể thành, dưới thì chẳng biết có chúng sinh có thể độ. Chỉ biết tự tại an
lạc, gì cũng chẳng lo. Bây giờ mới biết xưa kia đều là sai lầm, đều là sở làm
của kẻ chẳng có trí huệ.
Nay mới biết chúng con tu hành, đáng chứng được hết thảy công đức trí huệ
của Như Lai. Nếu ai tự cho tứ quả tiểu thừa là cứu kính Niết Bàn, thì ví như
có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm. ‘’Người‘’ ví cho chính mình,
‘’nhà bạn thân‘’ ví cho Ðức Phật. Say rượu mà nằm, ‘’say‘’ biểu thị cho
rượu năm dục mê hoặc, cho nên hôn mê ngu si, được ít cho là đủ. Lúc đó,
Phật độ xong chúng sinh ở thế giới nầy, thì đến nước khác. Bận ‘’việc quan
phải đi‘’. Thấy gã nầy duyên đã hết, nên đến phương khác giáo hóa chúng
sinh, dùng thật tướng diệu lý giáo hóa chúng sinh, dùng đại thừa để giáo
hóa. Song người đó chẳng có trí huệ, chỉ trầm mê ở trong mộng say ngu si,
nằm chẳng dậy, chẳng nghe pháp đại thừa. Khi tỉnh dậy thì biết muốn cầu
pháp, do đó bèn đến nước khác, hành pháp tiểu thừa. Vì ăn mặc nên cầu học
tiểu thừa, như lạnh đi tìm áo, như đói đi tìm cơm, rất là khốn khổ vô cùng, đi
khắp nơi tìm cầu, không thể tự an, ở trong tiểu thừa được ít cảnh giới, thì tự
cho là đủ, càng chẳng tinh tấn.
Thời gian sau, người bạn thân gặp lại gã kia bèn nói rằng : Lạ thay anh này !
Sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Trước kia, ta muốn khiến cho anh được an
lạc, tha hồ thọ hưởng năm dục. Vào ngày tháng năm đó, ta lấy hạt châu vô
giá buộc vào trong áo của anh, mà đến bây giờ anh vẫn không biết, để phải
cực khổ lo buồn tìm cầu tự sống, rất là ngu si vậy. Nay ông có thể dùng hạt
châu báu đó, đổi lấy những đồ cần dùng, thì sẽ được như ý, chẳng còn thiếu
thốn. Phật cũng như thế, khi làm Bồ Tát thì giáo hóa chúng con, khiến cho
phát tâm Nhất thiết trí, mà chúng con bỏ quên không hay không biết. Tức
được quả A la hán, mà tự cho là đã diệt độ. Khổ nhọc sinh sống được ít cho
là đủ. Nguyện Nhất thiết trí vẫn còn chẳng mất.
Hôm nay đức Thế Tôn giác ngộ chúng con, bèn bảo rằng : Này các Tỳ Kheo
! Chỗ các ông được chẳng phải rốt ráo diệt độ. Từ lâu, ta đã khiến cho các
ông trồng căn lành của Phật, dùng phương tiện nên thị hiện tướng Niết Bàn,
mà các ông cho rằng thật được diệt độ.
Thời gian sau, ‘’Bạn thân‘’ lại gặp gã kia, dụ cho nay trên núi Linh Thứu,
Thầy và đệ tử gặp lại, Phật ngạc nhiên bảo : Lạ thay ông này ! Tại sao vì cầu
ăn mặc mà phải chịu khốn khổ ? Tại sao lại bần cùng như thế ? Vì các ông
được ít cho là đủ, chẳng biết trên cầu quả vị Phật, dưới độ tất cả chúng sinh,
chỉ biết làm tự liễu hán thôi. Xưa kia, ta muốn khiến cho các ông được an
lạc, tha hồ hưởng thọ năm dục, tức sắc thanh hương vị xúc đều viên mãn, tức
cũng là viên mãn năm căn lực, cho nên dùng pháp đại thừa giáo hóa chúng
sinh. Chỉ vì các ông không biết ‘’Trong áo có buộc hạt châu báu‘’, chỉ biết
cầu tiểu thừa, mà phải bị khổ cực lo buồn, giống như một số người, vì sinh
sống mà phải bôn ba khổ sở để cầu sự sống, bèn cho là đủ, đó thật là quá
ngu si. Nay ta tu pháp đại thừa, vì các ông ‘’trong áo có châu báu‘’ chưa
từng mất đi. Nghĩa là Phật tánh vẫn tồn tại. Nếu tu pháp đại thừa, thì sẽ đắc
quả vị, luôn được như ý, chẳng còn bần cùng nữa.
Ðức Phật cũng như bạn thân của chúng con, thuở xưa làm Bồ Tát Diệu
Quang giáo hóa chúng con, khiến cho chúng con phát tâm nhất thiết trí huệ,
song chúng con từ lâu không gần gũi Bồ Tát, chẳng biết chẳng hay, quên
mất pháp đại thừa, chỉ biết dụng công phu trên năm dục, quay lưng với giác
ngộ mà hợp với sáu trần, còn tự cho rằng đã được vô thượng đạo. Quả vị
tiểu thừa A La Hán, như đời sống của gã cùng tử, được một chút thì mãn
nguyện.
Thuở xưa, đã từng phát nguyện lớn, nhất thiết trí nguyện vẫn chẳng mất,
hôm nay gặp đấng đại giác Thế Tôn, giác ngộ cho chúng con. Nếu ai trong
thuở xưa đã từng phát đại nguyện, thì đời nầy nhân duyên được gặp cũng sẽ
phát đại nguyện, trồng xuống hạt giống đại thừa. Như các vị A La Hán hiện
tại, tuy thuở xưa đã từng phát đại nguyện, song vì thời gian quá lâu, tâm sinh
mê hoặc, chẳng biết tiến lùi, tự khốn bên trong, lo rầu không ngui, may gặp
lương sư Ðại Giác Như Lai, khiến cho họ bỏ mê muội về với giác ngộ, tự
biết châu báu của chính mình.
Này các Tỳ Kheo! Hiện tại các ông chứng được quả vô học, chỉ là tiểu thừa,
chẳng phải thật diệt độ. Ta từ nhiều kiếp đến nay, khiến cho các ông gieo
trồng căn lành của Phật, dùng phương tiện quyền xảo thị hiện tướng hữu dư
Niết Bàn, song các ông lầm lẫn cho rằng là rốt ráo diệt độ.
Ðức Thế Tôn ! Nay chúng con mới biết thật là Bồ Tát, được thọ ký Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, nhờ nhân duyên đó, nên chúng con rất vui
mừng được chưa từng có.
Bấy giờ, Ngài A Nhã Kiều Trần Như muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài
kệ rằng :
Chúng con nghe vô thượng
Tiếng thọ ký an ổn
Vui mừng chưa từng có
Lễ vô lượng trí Phật.
Nay ở trước Thế Tôn
Tự sám hối lỗi lầm
Nơi vô lượng Phật bảo
Ðược chút phần Niết Bàn.
Như kẻ ngu vô trí
Bèn tự cho là đủ.
Ðức Thế Tôn ! Chúng con hôm nay mới biết vốn là Bồ Tát, được thọ ký Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, nhờ nhân duyên được Phật thọ ký, nên
chúng con vui mừng được chưa từng có. Lúc đó, Ngài Kiều Trần Như nói
với Phật: ‘’Chúng con nghe Vô thượng bồ đề, tâm niệm an ổn, tiếng Phật thọ
ký, vui mừng tin nhận, được chưa từng có. Nay ở trước Phật sinh tâm sám
hối, tự hối lỗi chấp tiểu thừa, mê muội đại thừa. Ðược ít phần hữu dư Niết
Bàn mà tự cho là đủ, giống như người ngu chẳng có trí huệ không khác‘’.
Ví như gã bần cùng
Ði đến nhà bạn thân
Nhà đó rất giàu có
Bày đủ cỗ tiệc ngon.
Lấy châu báu vô giá
Buộc chặc vào trong áo
Yên lặng mà bỏ đi
Gã nằm chẳng hay biết.
Sau gã đó thức dậy
Lang thang đến nước khác
Cầu ăn mặc tự sống
Sinh sống rất khốn khổ.
Ðược ít cho là đủ
Càng không muốn đồ tốt
Chẳng biết ở trong áo
Có châu báu vô giá.
‘’Ví như gã bần cùng, đi đến nhà bạn thân‘’ : Gã bần cùng ví như chúng
sinh; bạn thân giàu có ví như Ðức Phật. Chúng sinh quy y Phật, giống như
gã bần cùng đến nhà bạn thân rất giàu có. Nhà đó bày cỗ tiệc rất ngon, ví
như món ăn thiền duyệt và món ăn pháp hỉ. Sau đó, người bạn thân vì có
việc đi ra ngoài, nên lấy pháp đại thừa vô giá cho gã bần cùng, rồi bỏ đi giáo
hoá chúng sinh khác. Song ‘’gã bần cùng‘’ chẳng biết tự cầu tiến tới, chẳng
biết đại thừa là báu vô giá, mà ‘’nằm chẳng hay biết gì‘’. Sau khi tỉnh dậy, vì
có tri giác bèn phát tâm tu hành nên gọi là ‘‘dậy’’. Song quên mất đại thừa
mà tu tiểu thừa, như lang thang đến nước khác. Tiểu thừa quả A La Hán
chẳng phải Niết Bàn rốt ráo, như gã bần cùng kia, xin ăn tự sống, đời sống
rất là vất vả. Chẳng cầu Phật đạo, được ít cho là đủ, chẳng biết trong tự tánh
vốn đã có hạt giống đại thừa.
Bạn thân cho hạt châu
Sau gặp lại gã nghèo
Khổ thiết trách gã rồi
Chỉ cho chỗ buộc châu.
Gã nghèo thấy châu rồi
Trong tâm rất vui mừng
Giàu có các của cải
Tha hồ hưởng năm dục.
Chúng con cũng như thế
Thế Tôn từ thuở xưa
Thường giáo hóa chúng con
Khiến trồng nguyện vô thượng.
Vì chúng con vô trí
Chẳng biết cũng chẳng hay
Ðược ít phần Niết Bàn
Cho đủ chẳng cầu nữa.
Nay Phật giác ngộ con
Nói chẳng thật diệt độ
Ðược Phật trí vô thượng
Ðó mới là thật diệt.
Nay con nghe từ Phật
Thọ ký việc trang nghiêm
Và lần lược thọ ký
Khắp thân tâm vui mừng.
Phật vì chúng sinh nói pháp môn đại thừa thâm sâu vô thượng, song chúng
sinh vì căn cơ ám độn mà chẳng hiểu. Ví như người nọ, vì khiến cho họ khai
mở đại trí huệ, mà nói pháp môn thành Phật, song người đó chưa thể hoàn
toàn tin, cũng chẳng thấu rõ nghĩa sâu xa, thời gian lâu từ từ quay lưng với
đạo mà bỏ đi, bỏ đại thừa mà cầu pháp tiểu thừa, hoặc là đi Ấn độ, hoặc là đi
Thái Lan, Miến điện, Tích Lan, tìm đến tìm lui lại càng khốn cùng. Ðó là bỏ
gốc tìm ngọn, bỏ gần cầu xa. May thay lại gặp thầy tốt, trách cứ gã bần cùng
nầy. ‘’Trách‘’ đó là biểu hiện lòng từ bi của Phật Bồ Tát. Mục đích khiến
cho họ phát tâm hồi tiểu hướng đại, vào một Phật thừa.
Sau khi Ðức Phật ngộ đạo, vốn trước hết muốn nói Kinh Pháp Hoa đại thừa,
chỉ vì chúng sinh ngu si ám độn, chẳng thể tiếp thọ, cho nên trước hết nói
tam tạng, Kinh Phương Ðẳng, tiếp theo nói Bát Nhã, dần dần vào viên đốn
giáo, chê tiểu thừa khen đại thừa. Khai quyền hiển thật, vì thật thí quyền, đó
tức là ‘’khổ thiết trách gã‘’. ‘’Chỉ cho nơi buộc châu‘’ : Chỉ cho vốn đã có
đủ Phật tánh, khiến cho họ biết tu pháp môn đại thừa, như hàng Thanh Văn,
thấy được Phật tánh, như nghèo được châu báu, vui mừng tin nhận. Nếu ai
thấu rõ và thực hành tu pháp đại thừa, tức là người giàu có, có Phật pháp ở
trong tâm. ‘’Giàu có các của cải, tha hồ hưởng năm dục‘’ : Sắc thanh hương
vị xúc, đâu chẳng phải là tam muội, tùy duyên ứng dụng, rộng lớn tư tại,
được thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Như người muốn sắc thì có
sắc, muốn thanh thì có thanh, cho đến hương, vị, xúc, cũng lại như thế, đó
chẳng phải là diệu chăng ? ‘’ Tài sắc danh thực thùy‘’: Thảy đều đầy đủ viên
mãn, giống như sơ tổ Ma Ha Ca Diếp nhập định ở trong núi Kê Túc, đó
chẳng phải là ‘’ngủ lâu dài‘’ chăng ? Ngủ một ngàn năm cũng chẳng kể là
lâu dài, mấy vạn năm cũng chỉ trôi qua nột nháy mắt. ‘’Thực‘’, trong pháp
giới có thực vật là ngon hơn hết. ‘’Danh‘’, được danh mà người không thể
được. Muốn ‘’tài‘’ thì chỉ cần tùy ý dũi tay một cái thì có được.
Chúng con cũng như gã bần cùng không khác, quay lưng với sự giác ngộ mà
hợp với trần lao. Ðức Thế Tôn thấy vậy thương xót, luôn giáo hóa khiến cho
chúng con gieo trồng nguyện vô thượng bồ đề rộng lớn. Song chúng con
chẳng có trí huệ, chẳng biết thuở xưa đã từng phát nguyện, cũng chẳng biết
vốn có Phật tánh, được chút ít sự vui không sinh không diệt mà tự cho là đủ,
chẳng cầu pháp môn đại thừa. Bây giờ nghe Ðức Phật nói, mới giác ngộ đây
chẳng phải là cứu kính, chỉ là ‘’hoá thành‘’ ở giữa đường, chẳng phải thật
diệt độ. Chỉ khi nào đắc được trí huệ của Phật, mới là rốt ráo diệt độ. Phật
thọ ký cho chúng con sẽ thành Phật rồi, mới biết đại thừa là vô thượng chánh
biến tri giác, cõi nước đó trang nghiêm thù thắng, và lần lược thọ ký, khiến
cho khắp thân tâm của chúng con vui mừng vô kể.
Người cầu Phật pháp phải đầy đủ tâm nhẫn nhục, chẳng sợ gian nan khốn
khổ mới có hy vọng thành tựu.
Có người nói ‘’tha hồ hưởng thọ năm dục‘’ thật là quá vi diệu, vậy chúng ta
vì muốn được cảnh giới nầy mà phát tâm. Bạn sai lầm rồi ! Nếu ai vì năm
dục mà phát tâm, thì không lâu về sau sẽ đọa vào địa ngục. Ðó là dụng tâm
sai lầm, ai cầu năm dục thì tâm người đó bất chánh, tất rơi vào đường ma,
làm quyến thuộc của ma vương, pháp đại thừa mới là xả bỏ dục, đoạn dục,
vô dục, mà phát bồ đề tâm.
Ở trên nói về ‘’tha hồ hưởng năm dục‘’, chỉ bất quá là ví dụ, hình dung biểu
hiện sức thần thông tự tại của đại quyền Bồ Tát. Phàm là Bồ đề tát đỏa có
căn tánh đại thừa, không thể nào ít có sự ‘’an lạc‘’, không chấp cảnh giới
nầy, thì gọi là cảnh giới lành, nếu chấp cảnh giới nầy, thì tức là cảnh giới
ma. Bồ Tát chẳng trụ tâm vào bất cứ chỗ nào. Nếu ai muốn thành tựu Phật
đạo, thì trước phải dứt trừ lòng dâm dục, dục là gốc của khổ, bằng không thì
tướng chúng sinh điên đảo.
---o0o---
Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học và Vô Học Thứ Chín
Bấy giờ, Ngài A nan, La Hầu La nghĩ như vầy : Chúng ta ai nấy đều tự nghĩ
rằng : Nếu được đức Phật thọ ký cho, thì chẳng sung sướng lắm sao !
Lúc đó, Ngài A Nan và La Hầu La hai vị tôn giả sinh ra tâm niệm. Các Ngài
ở trong đại chúng nói : ‘’Chúng con luôn luôn nghĩ rằng, nếu như chúng con
cũng được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thọ ký cho, thì chẳng phải
sung sướng lắm sao ? Tuy hai vị tôn giả đã chứng được quả vị A La Hán,
song các Ngài ở trong định, vẫn sinh ra một ý niệm của phàm phu. Phàm
phu thì sinh ra nhiều vọng niệm đều chẳng chân thật, còn ý niệm của các
Ngài là niệm chân thật.
Bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân đức
Phật, đều bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Chúng con ở nơi đây cũng đáng
có phần, chỉ có đức Như Lai là chỗ nương tựa của chúng con, và chúng con
là chỗ thấy biết của hàng trời người A tu la. A Nan thường làm thị giả, hộ trì
tạng pháp, La Hầu La là con của đức Phật. Nếu được thấy đức Phật thọ ký
quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì nguyện cầu của chúng con đã
đầy đủ, nguyện vọng của đại chúng cũng viên mãn.
Hai vị tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Phật, năm thể sát đất
cung kính lễ Phật, sau đó cùng nhau đồng thanh nói : ‘’Ðức Thế Tôn !
Chúng con cũng đáng có phần được thọ ký ! Chỉ có Ðức Như Lai là nơi
chúng con trở về nương tựa. Tất cả trời người A Tu La của thế gian, đều biết
chúng con là thiện tri thức của họ. A Nan là đệ tử thường gần gũi hầu hạ đức
Phật, cũng là người chuyên môn hộ trì tất cả tạng pháp của Phật, còn La Hầu
La là con của Phật. Nếu như Phật từ bi vì chúng con thọ ký quả vị Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì nguyên lực của chúng con đã viên
mãn, và hai ngàn vị vô học trong pháp hội cũng đầy đủ nguyện vọng của họ.
Bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh Văn hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi
đứng dậy, hở áo bên vai phải, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay chiêm
ngưỡng đức Thế Tôn, cũng như chỗ nguyện cầu của A Nan và La Hầu La,
rồi đứng qua một bên.
Sau khi hai vị tôn giả nói xong, thì có hai nghìn đệ tử Thanh Văn hữu học và
vô học, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, hở áo bên vai phải, đến trước đức Phật,
một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Trong tâm của các vị đó,
cũng nguyện cầu và khát vọng như hai vị tôn giả A Nan và La Hầu La, tuy
các vị đó đứng qua một bên, song chẳng nói gì.
Bấy giờ, đức Phật bảo A Nan rằng : ‘’Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là
Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Lúc đó, Phật bảo Ngài A Nan: ‘’Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Sơn
Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai’’. Vì trí tuệ của Ngài A Nan rộng
lớn, cao như núi, rộng như biển, chân chánh đắc được tự tại, cho nên thành
Phật, được hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Lúc đó, Ngài
cũng đầy đủ mười hiệu, lược giải như sau: Xứng đáng thọ trời người cúng
dường. Thấu rõ chân lý vạn pháp do tâm, tâm sinh vạn pháp. Trí huệ tu hành
đều đầy đủ viên mãn. Giải thoát tất cả khổ não của thế gian, được sinh nơi
an lạc. Ðến được quả vị cao thượng nhất. Một vị đại trượng phu điều ngự
được tất cả chúng sinh. Ðạo sư của trời người. Viên mãn tự giác giác tha.
Một vị tôn giả xuất thế gian.
Sẽ cúng dường sáu mươi hai ức các đức Phật, hộ trì tạng pháp, sau đó sẽ
được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Giáo hóa hai mươi ngàn vạn
ức các vị Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, khiến cho thành tựu Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Nước đó tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi
đó thanh tịnh, đất bằng lưu ly, kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn. Ðức Phật đó,
sống lâu vô lượng nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Nếu có người ở trong nghìn
vạn ức A tăng kỳ kiếp, tính toán cũng chẳng biết được. Chánh pháp lưu lại ở
đời gấp bội số thọ mạng. Tượng pháp lưu lại ở đời, lại gấp bội chánh pháp.
A Nan ! Ðức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô lượng
nghìn vạn ức các đức Phật Như Lai, nhiều như số cát sông Hằng, trong mười
phương đều khen ngợi, tán thán công đức.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Ngài A Nan sẽ cúng dường sáu mươi hai ức chư Phật, dùng đủ thứ thiện xảo
phương tiện, để hộ trì tất cả tạng pháp, của sáu mươi hai ức chư Phật. Cuối
cùng Ngài sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Sau khi Ngài thành Phật, giáo hóa nghìn vạn ức chúng Bồ Tát nhiều như số
cát sông Hằng. Tất cả chúng Bồ Tát đó, đều phát tâm đại từ bi hành Bồ Tát
đạo, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cõi nước của Ðức
Phật đó, tên là Thường Lập Thắng Phan. Vì Ngài A Nan đa văn đệ nhất, mỗi
lần biện luận chắc chắn đều thắng, cho nên nước của Ngài được tên là
Thường Lập Thắng Phan. Ðất đai ở trong cõi nước đó rất thanh tịnh, mặt đất
bằng chất lưu ly. Kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn, vì âm thanh của Ngài A
Nan thuyêt pháp rất hay đầy khắp hư không, ai nghe cũng đều sinh tâm vui
mừng, chẳng cảm thấy mệt mỏi, do đó mà kiếp có tên là Diệu Âm Biến
Mãn.
Tuổi thọ của Ðức Phật đó, lâu dài vô lượng ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Nếu
ai ở trong nghìn vạn ức vô lượng số kiếp A tăng kỳ, để tính đếm thời gian
thọ mạng của đức Phật đó, cũng không thể biết được số lượng. Chánh pháp
lưu lại ở đời, tăng gấp bội so với tuổi thọ của đức Phật đó, tượng pháp lưu
lại ở đời, hơn gấp bội so với chánh pháp.
A Nan ! Ðức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương, tức là danh hiệu Phật
của ông sẽ thành ở vị lai. Ông sẽ được vô lượng nghìn vạn ức các đức Phật
Như Lai, nhiều như số cát sông Hằng trong mười phương, đều tán thán khen
ngợi công đức viên mãn của ông‘’. Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật
lại những gì vừa nói trường hàng ở trên, bèn nói ra bài kệ rằng :
Nay ta trong Tăng nói
A Nan người trì pháp
Sẽ cúng dường chư Phật
Sau sẽ thành Chánh giác.
Hiệu là Phật Sơn Hải
Tuệ Tự Tại Thông Vương
Cõi nước đó thanh tịnh
Tên Thường Lập Thắng Phan.
Giáo hóa các Bồ Tát
Nhiều như cát sông Hằng
Phật có oai đức lớn
Danh đồn khắp mười phương.
Sống lâu vô số kiếp
Thương xót độ chúng sinh
Chánh pháp bội tuổi thọ
Tượng pháp bội chánh pháp.
Vô số các chúng sinh
Nhiều như cát sông Hằng
Ở trong Phật pháp đó
Trồng nhân duyên Phật đạo.
Hôm nay đức Phật đối trước hàng Tỳ Kheo, nói nhân duyên thọ ký của Ngài
A Nan. Ngài A Nan nhiều đời hộ trì tất cả tạng pháp của chư Phật. Ngài
thường suốt đời cung kính cúng dường tất cả chư Phật, về sau trong tương
lai cũng sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật. Cõi
nước của Ngài rất thanh tịnh, tên là Thường Lập Thắng Phan. Giáo hoá các
chúng Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng. Ðức Phật đó, có oai đức thần thông
lớn và đức hạnh, cho nên danh đồn của Ngài đầy khắp mười phương thế
giới. Tuổi thọ của Ngài nhiều vô lượng, vì thương xót giáo hóa độ thoát tất
cả chúng sinh. Chánh pháp lưu lại ở đời tăng gấp bội so với tuổi thọ của đức
Phật, tượng pháp lưu lại ở đời lại tăng gấp bội so với chánh pháp. Vô lượng
vô số chúng sinh nhiều như cát sông Hằng, đều ở trong Phật pháp của Ngài
trồng xuống nhân duyên Phật đạo.
Bấy giờ, tám nghìn người mới phát tâm Bồ Tát ở trong chúng hội, đều nghĩ
như vầy : Chúng ta còn chưa nghe các vị đại Bồ Tát được thọ ký như thế. Có
nhân duyên gì, mà các hàng Thanh Văn được thọ ký như thế ?
Lúc đó, ở trong pháp hội có tám nghìn vị Bồ Tát, mới được du hí tam muội
của Bồ Tát, đều sinh tâm hoài nghi mà nghĩ như vầy: ‘’Sao chúng ta chưa
từng nghe Phật thọ ký cho các vị đại Bồ Tát, đây là nhân duyên gì, mà
những bậc Thanh Văn được Phật thọ ký trước‘’?
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát đó, bèn nói rằng :
Các thiện nam tử ! Ta và A Nan ở chỗ đức Phật Không Vương, cùng nhau
phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. A Nan thường thích đa văn, ta
thường siêng năng tinh tấn, cho nên ta đã sớm thành Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, còn A Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì tạng pháp của các
đức Phật ở đời vị lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ Tát. Do bổn nguyện
xưa như thế, nên hôm nay được thọ ký.
Lúc đó, Ðức Phật biết hết thảy những vị Bồ Tát nầy sinh tâm hoài nghi, do
đó bèn nói với các vị đó rằng : ‘’Tất cả các thiện nam tử ! Ta và tất cả hàng
Thanh Văn ở trong pháp hội, đã từng ở trong quá khứ vô lượng kiếp, nơi đức
Phật Không Vương cùng phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. A Nan
phát nguyện thường ưa thích thâm nhập kinh tạng, đa văn Phật pháp, còn ta
thì phát nguyện luôn luôn dũng mãnh tinh tấn tu đạo. Cho nên, ta thành Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác trước A Nan. A Nan thì hộ trì tạng pháp
của ta, cũng phát nguyện hộ trì tất cả tạng pháp của vô lượng chư Phật trong
tương lai, giáo hóa thành tựu chúng Bồ Tát, cho nên bây giờ A Nan được
Phật thọ ký cho‘’.
A Nan ở trước đức Phật được nghe đức Phật thọ ký, và cõi nước trang
nghiêm, nguyện cầu đã đầy đủ, trong tâm rất vui mừng được chưa từng có,
lập tức, nghĩ nhớ lại tạng pháp của vô lượng nghìn vạn ức các đức Phật trong
quá khứ, thông đạt vô ngại, như hôm nay đã nghe, cũng nhớ biết nguyện
xưa.
Bấy giờ, Ngài A Nan nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Ngài A Nan ở trước đức Phật, đích thân nghe được Phật thọ ký cho
Ngài, và biết được cõi nước trang nghiêm vị lai của Ngài, tâm nguyện của
Ngài đã đầy đủ viên mãn, cho nên tâm sinh vui mừng hớn hở, được chưa
từng có. Lúc đó, Ngài lập tức nhớ lại tất cả tạng pháp, của vô lượng ngàn
vạn ức các đức Phật trong quá khứ, và đều thông đạt vô ngại. Tất cả pháp đó
và pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni đều giống nhau. Ngài cũng nhớ lại thệ
nguyện xưa của Ngài đã phát ra, do đó Ngài A Nan dùng kệ nói rằng:
Thế Tôn rất hi hữu
Khiến con nhớ quá khứ
Vô lượng các Phật pháp
Như pháp nay đã nghe.
Nay con chẳng còn nghi
An trụ nơi Phật đạo
Phương tiện làm thị giả
Hộ trì các Phật pháp.
Phật là bậc hi hữu nhất trong thế gian, khiến cho con nhớ lại tất cả tạng
pháp, của vô lượng các Ðức Phật trong quá khứ, tất cả pháp đó, giống như
pháp mà đời nay con đã nghe. Cho nên, bây giờ con chẳng còn sinh tâm hoài
nghi nữa, con nguyện an trụ nơi Phật đạo, dùng đủ thứ thiện xảo pháp môn,
để làm thị giả cho Ðức Phật, thường ủng hộ thọ trì tất cả tạng pháp của các
Ðức Phật.
Bấy giờ, đức Phật bảo La Hầu La : Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là
Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Sau khi Ngài A Nan nói bài kệ xong, thì đức Phật bảo tôn giả La Hầu La
rằng: ‘’Ông ở đời vị lai, cũng sẽ thành Phật, hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như
Lai, thọ trời người cúng dường, biết rõ khắp hết thảy, có đủ trí huệ đức hạnh,
giải thoát khổ não thế gian, làm đại sĩ vô thượng, điều ngự giáo hóa tất cả
chúng sinh, làm đạo sư của tất cả trời người, một vị tôn giả xuất thế gian
viên mãn tự giác giác tha.
Sẽ cúng dường các đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của mười thế
giới. Thường làm trưởng tử của các đức Phật, giống như hôm nay vậy. Cõi
nước của đức Phật Ðạo Thất Bảo Hoa đó, rất trang nghiêm. Số kiếp tuổi thọ,
giáo hóa đệ tử, chánh pháp, tượng pháp, cũng giống như Sơn Hải Tuệ Tự
Tại Thông Vương Như Lai không khác, cũng làm trưởng tử cho đức Phật
đó, sau đó sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Trước khi Ngài La Hầu La chưa thành Phật, sẽ cúng dường các đức Phật
Như Lai, nhiều như số hạt bụi của mười thế giới. Vì Ngài trong đời quá khứ,
đã phát nguyện làm trưởng tử cho mỗi vị Phật ra đời, cũng giống như hôm
nay, Ngài La Hầu La làm trưởng tử của đức Phật. Cõi nước của Phật Ðạo
Thất Bảo Hoa rất trang nghiêm, kiếp số thọ mạng của Ngài, giáo hóa đệ tử,
chánh pháp, tượng pháp lưu lại ở đời, đều gống như Phật Sơn Hải Tuệ Tự
Tại Thông Vương. Ngài La Hầu La cũng sẽ làm trưởng tử cho Ðức Phật đó.
Sau khi Ngài làm trưởng tử cho các đức Phật rồi, sẽ thành Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa kinh trường hàng ở trên, bèn nói
kệ rằng :
Khi ta làm thái tử
La Hầu làm trưởng tử
Nay ta thành Phật đạo
Thọ pháp làm pháp tử.
Ở trong đời vị lai
Thấy vô lượng đức Phật
Làm trưởng tử chư Phật
Một lòng cầu Phật đạo.
Mật hạnh của La Hầu
Chỉ ta mới biết được
Nay làm trưởng tử ta
Thị hiện các chúng sinh.
Vô lượng ức nghìn vạn
Công đức không thể lường
An trụ nơi Phật pháp
Vì cầu đạo vô thượng.
Khi đức Phật làm thái tử, thì La Hầu La làm con của Ðức Phật, hiện tại Phật
đã thành Phật. Ngài La Hầu La tiếp thọ pháp của Phật, mà làm đệ tử của
Phật. Ở trong đời vị lai, Ngài sẽ gặp vô lượng ức các đức Phật. Khi mỗi vị
Phật ra đời, thì Ngài đều làm trưởng tử cho các đức Phật, một lòng cầu Phật
đạo.
Tôn giả La Hầu La hành mật hạnh bậc nhất, tôn giả lúc nào nơi nào, cũng
đều có thể nhập định, chỉ có Phật mới biết mật hạnh của Ngài tu. Ngài hiện
thân làm trưởng tử cho đức Phật, là để thị hiện cho chúng sinh thấy, vì cầu
vô thượng Phật đạo. Thệ nguyện công đức của Ngài vô số ức nghìn vạn,
không thể lường được. Ngài nguyện an trụ trong Phật pháp, vì cầu Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thấy bậc hữu học và vô học hai nghìn người, tâm ý
nhu hòa, thanh tịnh vắng lặng, một lòng nhìn đức Phật.
Ðức Phật bảo Ngài A Nan : Ông có thấy bậc hữu học, và vô học hai nghìn
người đây chăng ?
Dạ con đã thấy.
Lúc đó, Phật dùng Diệu quán sát trí, để quán sát hai nghìn vị Thanh Văn hữu
học và vô học ở trong pháp hội, biết được tâm ý của họ đều rất nhu hòa. Các
vị đó chẳng còn vọng tưởng dục niệm, được thanh tịnh tự tại. Các Ngài đều
đồng một lòng cung kính nhìn Phật.
Phật bèn nói với Ngài A Nan : ‘’Ông có thấy tâm ý của hai nghìn vị Thanh
Văn hữu học vô học nầy chăng ? ‘’Ngài A Nan đáp: ‘’Dạ, con đã nhìn thấy
tâm ý của họ‘’.
A Nan ! Những người đó, sẽ cúng dường các đức Phật Như Lai, nhiều như
số hạt bụi của năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng, hộ trì tạng pháp, sau
đó đồng thời sẽ được thành Phật, trong cõi nước mười phương, đều đồng
một danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Hai nghìn vị Thanh Văn hữu học vô học nầy, đều sẽ cúng dường các đức
Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của năm mươi thế giới. Các Ngài đều
thân tâm cung kính, tôn trọng, ủng hộ giữ gìn tạng pháp bảo của chư Phật.
Sau đó, các vị đó đồng thời đều sẽ thành Phật đạo ở trong cõi nước mười
phương. Vì các Ngài chí đồng đạo hợp, cùng nhau thành Phật đạo, đều đồng
một danh hiệu Phật là Bảo Tướng Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Mười hiệu ở trên là tên khác
của Phật.
Tuổi thọ một kiếp, cõi nước trang nghiêm, hàng Thanh Văn Bồ Tát, chánh
pháp tượng pháp, thảy đều đồng nhau. Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại
nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Tuổi thọ thành Phật của các Ngài dài một kiếp, cõi nước trang nghiêm như
nhau, giáo hóa hàng Thanh Văn Bồ Tát cũng đông nhiều, chánh pháp và
tượng pháp lưu lại ở đời thời gian đều đồng nhau. Lúc đó, Phật muốn thuật
lại pháp vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói :
Hai nghìn Thanh Văn này
Nay ở trước mặt ta
Thảy đều được thọ ký
Vị lai sẽ thành Phật.
Cúng dường các đức Phật
Như đã nói ở trên
Hộ trì các tạng pháp
Sau sẽ thành chánh giác.
Trong cõi nước mười phương
Ðều đồng một danh hiệu
Ðều cùng ngồi đạo tràng
Chứng đắc quả Vô thượng.
Ðồng hiệu là Bảo Tướng
Cõi nước và đệ tử
Chánh pháp với tượng pháp
Ðều đồng chẳng khác biệt.
Ðều dùng các thần thông
Ðộ chúng sinh mười phương
Danh đồn khắp hết thảy
Dần dần vào Niết Bàn.
Hai nghìn vị Thanh Văn đó, đồng tu phạm hạnh, đồng trồng căn lành, đồng
phát tâm bồ đề, đồng kết quả bồ đề. Hiện tại các vị đó, đứng ở trước đức
Phật, vì công đức tu hành của các vị đó đã thành tựu, cho nên được Phật thọ
ký. Các vị đó, ở đời vị lai sẽ thành Phật. Các vị đó sẽ cúng dường chư Phật
nhiều như số hạt bụi. Mỗi vị Phật ra đời, các vị đó đều cùng nhau đến hộ trì
tạng pháp, cuối cùng, cùng nhau thành Phật đạo. Các vị đó, mỗi vị đều thành
Phật trong cõi nước mười phương. Vì các vị đó đã phát nguyện đồng tu đồng
chứng, cho nên sau khi thành Phật, danh hiệu cũng đều giống nhau. Các vị
đó cũng cùng một lúc ngồi đạo tràng, chuyển diệu pháp luân, thành tựu trí
huệ vô thượng của Như Lai. Các vị đó đều đồng danh hiệu là Bảo Tướng
Như Lai, cõi nước và đệ tử số lượng nhiều như nhau. Chánh pháp và tượng
pháp, lưu lại ở đời cũng lâu dài như nhau, chẳng có gì khác nhau. Các vị đó
đều cùng nhau dùng thần thông, để độ tất cả chúng sinh trong mười phương,
danh đồn của các vị đó khắp cõi nước mười phương, dần dần vào cảnh giới
Niết Bàn thường lạc ngã tịnh.
Bấy giờ, bậc hữu học và vô học hai nghìn người, nghe đức Phật thọ ký, đều
vui mừng hớn hở, bèn nói bài kệ rằng :
Thế Tôn đèn huệ sáng
Chúng con nghe thọ ký
Tâm vui mừng tràn đầy
Như được rưới cam lồ.
Lúc đó, hai nghìn vị Thanh Văn hữu học và vô học, nghe tiếng Phật thọ ký
rồi, trong tâm rất vui mừng hớn hở mà nói ra bài kệ. Trí huệ quang minh của
Phật như đèn sáng chiếu khắp. Hai nghìn vị Thanh Văn hữu học vô học, đều
đã nghe Phật thọ ký rồi, tâm đều tràn đầy vui mừng, giống như được nước
pháp cam lồ rưới lên đầu.
---o0o---
Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì Bồ Tát Dược Vương, mà bảo tám vạn Ðại sĩ rằng :
Dược Vương ! Ông thấy đó, trong đại chúng vô lượng chư Thiên, Long
vương, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già,
người, và chẳng phải người, và hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ
nữ, kẻ cầu Thanh Văn, kẻ cầu Bích Chi Phật, kẻ cầu Phật đạo, các loài như
thế, đều ở trước Phật, nghe một câu, một bài kệ Kinh Pháp Hoa, cho đến một
niệm tùy hỉ, ta đều thọ ký cho họ, sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Phẩm nầy gọi là Phẩm Pháp Sư. Pháp sư phân làm năm loại :
1. Thọ trì pháp sư: Tức là thọ nơi tâm, trì nơi thân, vĩnh viễn chẳng quên mất
nghĩa kinh. Trong tâm hiểu rõ đạo lý Phật pháp, còn thân thể thì chiếu theo
Phật lý thật hành, tu tất cả các pháp.
2. Pháp sư đọc tụng kinh văn.
3. Pháp sư tụng thuộc lòng kinh văn.
4. Pháp sư biên chép kinh văn.
5. Pháp sư vì người khác giảng giải kinh văn.
Hay thọ trì, đọc, tụng, biên chép, ấn tống, rất có ích lợi đối với chính mình.
Nếu hay vì người khác giảng giải kinh văn, thì đó là lợi mình lợi người.
Pháp sư diễn nói nghĩa lý, cũng có thể nói là lấy pháp làm thầy. Pháp sư
thuyết pháp, tức là lấy Phật pháp bố thí cho kẻ khác.
Phẩm nầy, Phật thọ ký cho tất cả các pháp sư, như năm loại pháp sư đã nói ở
trên, cho nên gọi là Phẩm Pháp Sư.
Lúc đó, Phật nói với Bồ Tát Dược Vương và tám vạn vị Ðại sĩ : ‘’Dược
Vương ! Ông có thấy chăng ? Ðại chúng ở trong pháp hội nầy, có vô lượng
chư Thiên, Long Vương, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la,
Ma hầu la già, người và chẳng phải người. Còn có hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, cư sĩ nam, sư sĩ nữ. Có chúng Thanh Văn tu pháp tiểu thừa, có chúng
Bích Chi Phật tu trung thừa, có bậc tu đại thừa Phật đạo. Nhiều giống loài
khác nhau này, đều ở trước Ðức Phật, nghe Phật nói mỗi một câu pháp, mỗi
một bài kệ của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho đến trong một niệm của các vị
đó, mà sinh một niệm tùy hỉ khen ngợi bộ kinh nầy, thì ta đều thọ ký cho họ,
khiến cho họ cũng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Ðức Phật bảo Dược Vương ! Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người
nào, dù chỉ nghe được một câu, một bài kệ của Kinh Pháp Hoa, mà sinh một
niệm tùy hỉ, thì ta cũng thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác cho người
đó. Nếu lại có người : Thọ trì, đọc tụng, giải thích, diễn nói, biên chép, Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ một bài kệ, mà ở nơi kinh này, cung kính xem
như Phật. Cúng dường các thứ hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa,
hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung
kính. Dược Vương nên biết ! Những người đó, tức đã từng cúng dường
mười vạn ức các đức Phật, ở chỗ các đức Phật thành tựu nguyện lớn, vì
thương xót chúng sinh, nên sinh vào thế gian này.
Phật lại nói với Bồ Tát Dược Vương : ‘’Sau khi ta diệt độ, nếu như có người
nghe được bộ Kinh Pháp Hoa nầy, cho đến nghe được một câu, hoặc một bài
kệ của bộ kinh nầy, mà ở trong một niệm sinh tâm vui mừng khen ngợi, ta
đều thọ ký thành Phật cho người đó. Giả sử, lại có người: Thọ trì, đọc tụng,
biên chép, giải thích nói bộ kinh nầy, hoặc chỉ vì người giải thích nói một
bài kệ của kinh văn, mà người đó lại cung kính lễ bái, xem Kinh Pháp Hoa
giống như Phật không khác. Người đó cúng dường đủ thứ, nào dùng hoa,
hương, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y
phục, âm nhạc, để cúng dường, cho đến chỉ chắp tay lại lễ bái.
Dược Vương ! Ông nên biết, họ đã từng cúng dường mười vạn ức các Ðức
Phật. Những người đó, ở tại cõi nước chư Phật thành tựu thệ nguyện của họ
đã phát, chỉ vì họ từ bi thương xót tất cả chúng sinh, cho nên sinh vào thế
giới nầy, mục đích chỉ muốn độ tất cả chúng sinh đồng đến bờ kia, cho nên
nói, họ đều là hóa thân của đại Bồ Tát để đến giáo hóa chúng sinh.
Dược Vương ! Nếu có người hỏi : Những chúng sinh nào ở đời vị lai sẽ
được thành Phật ? Thì nên chỉ những người đó ở đời vị lai, tất sẽ được thành
Phật. Tại sao ? Vì nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì đọc tụng giải
thích nói Kinh Pháp Hoa, dù chỉ một câu, hoặc dùng các thứ : Hương hoa,
anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, âm
nhạc, để cúng dường kinh quyển, chắp tay cung kính, thì người đó, là chỗ
đáng chiêm ngưỡng tôn thờ của tất cả thế gian, nên đem đồ cúng dường Như
Lai, mà cúng dường cho người đó.
Dược Vương ! Nếu có người hỏi ông, những chúng sinh nào ở đời vị lai sẽ
được thành Phật ? Thì ông nên chỉ những người đó, chỉ có những người thọ
trì, đọc tụng, biên chép, diễn nói bộ kinh Pháp Hoa nầy, ở đời vị lai chắc
chắn sẽ được thành Phật. Vì sao ? Giả sử có người thiện nam, người thiện
nữ, hay thọ trì, đọc tụng, giải nói biên chép bộ kinh Pháp Hoa nầy, cho đến
một câu, hoặc dùng: Hoa, hương, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt,
lọng lụa, tràng phan, y phục, âm nhạc, để cúng dường bộ kinh nầy. Tại sao
chúng ta cần cúng dường kinh quyển ? Vì kinh quyển là pháp thân của chư
Phật. Thậm chí, nếu ai chắp tay cung kính bộ kinh nầy, thì người đó là chỗ
đáng chiêm ngưỡng và tôn thờ của tất cả người thế gian.
Chúng ta cũng nên cúng dường vị pháp sư nầy, như cúng dường Phật không
khác.
Nên biết người đó là đại Bồ Tát, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, thương xót chúng sinh mà nguyện sinh vào thế gian này, để rộng nói
phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hà huống là người hay thọ trì, và dùng
các thứ cúng dường.
Dược vương ! Nên biết người đó, tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh, sau khi ta
diệt độ, vì thương xót chúng sinh, mà sinh vào đời ác, để rộng nói kinh này.
Ông nên biết, sau khi Phật diệt độ, nếu có người hay giải thích nói bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, họ đều là hóa thân của đại Bồ Tát. Họ sớm đã thành tựu Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, chỉ bất quá vì thương xót chúng ta chúng
sinh, ở trong đời ác năm trược nầy, mà phát đại thệ nguyện, tái sinh vào thế
gian nầy, để rộng diễn nói và phân biệt giải thích bộ Kinh Pháp Hoa. Hà
huống là những người đó, hết lòng thọ trì và dùng đủ thứ để cúng dường bộ
kinh nầy ?
Dược Vương ! Ông nên biết, những người đó đều đã thành tựu Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, phát nguyện trở lại độ tất cả chúng sinh, mà xả bỏ đi
nghiệp báo thanh tịnh của họ. Sau khi ta diệt độ, vì thương xót tất cả chúng
sinh, mà sinh vào đời ác năm trược nầy, vì tất cả chúng sinh rộng diễn nói bộ
Kinh Pháp Hoa nầy.
Sau khi ta diệt độ, nếu người thiện nam, người thiện nữ, hay riêng vì một
người nói Kinh Pháp Hoa, cho dù một câu, nên biết người đó, là sứ giả của
Như Lai, được Như Lai sai khiến, làm việc của Như Lai, hà huống ở trong
đại chúng rộng vì người nói.
Giả sử, có người thiện nam thiện nữ, sau khi Phật diệt độ, hay riêng vì một
người diễn nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, cho dù chỉ một câu, hoặc chút phần,
phải biết rằng người đó là sứ giả của Như Lai, như được Phật phái đến, để vì
người thế gian giảng giải Kinh Pháp Hoa. Hà huống người đó ở trong đại
chúng, vì người khác rộng nói bộ kinh nầy.
Dược Vương ! Nếu có kẻ ác dùng tâm bất thiện, ở trong một kiếp hiện thân
ở trước Phật, thường hủy báng mắng chưởi Phật, tội của người đó còn nhẹ.
Nếu có người, dùng lời ác hủy báng mắng chưởi người tại gia, hoặc xuất gia,
đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì tội đó nặng hơn.
Dược Vương ! Nếu như có kẻ tánh ác, dùng tâm bất thiện ở trong một kiếp,
hiện thân ở trước Phật, luôn luôn hủy báng mắng chưởi Phật, thì tội báo của
người đó còn nhẹ. Song, nều như có người, dùng một lời ác hủy báng mắng
chưởi người tại gia, hoặc người xuất gia đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì người
đó tội báo nặng hơn so với người hủy báng Phật. Tại sao ? Vì Phật từ bi bình
đẳng. Nếu ai hủy báng hoặc khen ngợi Phật như thế nào ? Thì Phật cũng đều
như như chẳng lay động. Song, nếu một người tụng Kinh Pháp Hoa, chưa
chứng đắc vô sinh pháp nhẫn, mà có người hủy báng, khiến cho họ sinh tâm
sân hận, hoặc tâm thối lùi, làm cho họ chẳng thành tựu đạo nghiệp, thì tội
của người hủy báng đó, nặng hơn rất nhiều so với hủy báng Phật. Hơn nữa,
kinh Phật là pháp thân của Phật, nếu ai hủy báng kinh Phật, tức cũng là hủy
báng pháp thân Phật. Trong kinh Kim Cang có nói :
‘’Phàm chỗ nào có kinh điển, là chỗ đó có Phật.’’
Dược Vương ! Nếu có người hay trì tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên biết người
đó, dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự trang nghiêm cho mình, tức được
mang vác trên vai của Như Lai, người đó đến đâu, đều nên hướng về người
đó làm lễ. Một lòng chắp tay, cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi,
dùng hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng
phan, y phục, cỗ tiệc, tấu các âm nhạc, đem đồ tối thượng trong thế gian, để
cúng dường người đó. Nên dùng hoa báu cõi trời rải lên thân người đó, vì
người đó là báu tụ trên trời, nên cúng dường như thế.
Dược Vương ! Nếu có người đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì ông nên biết
người đó, được sự trang nghiêm giống như tượng Phật. Người đó như được
mang vác trên vai của Phật, bất cứ người đó đến đâu, thì mọi người đều nên
hướng về người đó cung kính đảnh lễ, một lòng chắp tay thưa hỏi cung kính,
mà cúng dường tôn trọng khen ngợi người đó. Dùng hương hoa, anh lạc,
hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, cỗ tiệc, các
thứ âm nhạc, để cúng dường người đó, lại có thể dùng đồ cúng dường tối
thượng nhất trong thế gian, để cúng dường người đó.
Nên dùng hoa báu trên trời rải trên thân người đó, vì người đó là báu tụ trên
trời, đáng thọ sự cúng dường như thế.
Tại sao ? Vì người đó ưa thích thuyết pháp, khiến cho người nghe trong chốc
lát, liền được rốt ráo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Vì sao người đó được cúng dường như thế ? Vì người đó rất ưa thích thuyết
pháp, khiến cho đại chúng trong thời gian chốc lát, có thể đắc được rốt ráo
vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lúc đó, Ðức Phật muốn vì đại chúng
trong pháp hội, thuật lại tỉ mỉ rõ ràng hơn, để cho đại chúng dễ hiểu, bèn nói
ra bài kệ rằng :
Nếu muốn trụ Phật đạo
Thành tựu trí tự nhiên
Luôn siêng năng cúng dường
Người thọ trì Pháp Hoa.
Có người muốn mau được
Nhất thiết chủng trí huệ
Nên thọ trì kinh này
Và cúng dường người trì.
Nếu như có người muốn trụ ở trong Phật đạo. Thế nào mới gọi là trụ ở trong
Phật đạo ? Tức là một lòng hướng về Phật đạo, bất luận là cảnh giới thuận
hoặc nghịch đến, đều chẳng lay động, đó mới là chân chánh trụ ở trong Phật
đạo.
Vậy muốn trụ ở trong Phật đạo, thì trước hết phải thành tựu trí tự nhiên. Trí
tự nhiên cũng gọi là trí vô sư, tức là chẳng cần sư phụ chỉ đạo, vì đã giác ngộ
tất cả các pháp.
- Như Ngũ Tổ Ðại Sư nói : ‘’Hợp thời ta độ ngươi’’!
- Lục Tổ Ðại Sư nói :
‘’Khi mê thì thầy độ,
Khi ngộ thì tự độ.’’
Ðó là đắc được trí huệ tự nhiên, cũng như qua sông chẳng cần thuyền. Vậy
chúng ta làm thế nào mới có thể đắc được trí huệ tự nhiên ? Phải luôn luôn
siêng năng tinh tấn, cung kính cúng dường các vị pháp sư thọ trì, đọc tụng,
biên chép, diễn nói Kinh Pháp Hoa.
Nếu như có người lại muốn mau chóng đắc được bao la vạn hữu, tất cả trí
huệ viên mãn, thì hãy luôn luôn tâm niệm bộ kinh vi diệu nầy, thân thật hành
thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa nầy, và còn thường xuyên cúng dường
những người khác thọ trì Kinh Pháp Hoa. Người đó chắc chắn sẽ đắc được
nhất thiết trí huệ viên mãn của Phật. Có trí huệ viên mãn thì chẳng còn mê
nữa, đó là chân chánh trụ ở trong Phật đạo.
Nếu có người thọ trì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Đó là sứ của Phật
Thương xót các chúng sinh.
Những người hay thọ trì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Xả bỏ cõi thanh tịnh
Thương chúng sinh vào đời.
Nên biết người như thế
Chỗ muốn sinh tự tại
Ở trong đời ác này
Rộng nói pháp vô thượng.
Nên dùng hương hoa trời
Và y báu cõi trời
Diệu báu tụ trên trời
Cúng dường người thuyết pháp.
Nếu như có người hay thọ trì bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì bạn nên biết những
người đó, đều là sứ giả của Phật đến. Vậy tại sao họ lại nguyện sinh vào đời
ác năm trược nầy ? Vì họ thương xót tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện
trở lại độ thoát tất cả chúng sinh. Hết thảy những người hay thọ trì Kinh
Pháp Hoa, họ đều xả bỏ cõi Thật Báo Trang Nghiêm, mà nguyện sinh vào
đời ác năm trược. Bạn nên biết, những người đó chẳng phải thọ nghiệp báo
mà sinh vào nhân gian, mà là họ tự tại muốn vào thế gian nầy, và còn ở
trong đời ác năm trược, rộng nói bộ Kinh Diệu Pháp vô thượng nầy, để giáo
hóa tất cả chúng sinh. Cho nên, khi chúng ta gặp người thọ trì diễn nói bộ
kinh nầy, thì nên dùng các thứ hoa trời, hương trời, và đồ báu trên trời, y
phục, báu vật tốt nhất trên trời, để cúng dường người thuyết pháp nầy.
Chúng ta người tu đạo, đừng nên nghe thọ trì Kinh Pháp Hoa, đắc được
nhiều thứ cúng dường, thì mau mau học tập thọ trì giải nói Kinh Pháp Hoa.
Thứ vọng niệm như thế rất sai lầm. Chúng ta thọ trì tụng niệm kinh điển là
vì tu hành, liễu sinh thoát tử, vì hoằng dương Kinh Pháp Hoa, chứ chẳng
phải vì muốn tham đồ cúng dường.
Tổ Sư Ðạt Ma có một vị đệ tử, cô ta chuyên môn trì tụng bộ Kinh Pháp Hoa
nầy. Sau khi cô ta chết đi, trong miệng sinh ra một đóa hoa sen màu xanh, đó
cũng là công đức của cô ta tụng niệm Kinh Pháp Hoa. Cho nên chúng ta phải
mau luôn luôn dụng công tu hành, ví như ngoài việc dịch kinh điển, khóa lễ
sớm tối, còn phải chuyên trì pháp môn mà mình thích tu, như thế thì trên
đường tu mới kiên cố công phu tu hành của mình, đừng tùy ý để thời gian
trôi qua lãng phí.
Do đó, bất luận là người tại gia hay xuất gia, đều nên quán không vô ngã,
mới có thể xa lìa vọng niệm, đắc được tịch tĩnh. Muốn bớt đi tập khí mao
bệnh của mình, thì hãy sửa đổi tập khí mao bệnh, được như thế thì mới có
thể trụ nơi Phật đạo, mới có thể tương ưng với Phật pháp.
Ðời ác sau ta diệt
Người hay trì kinh này
Nên chắp tay kính lễ
Như cúng dường Thế Tôn.
Bày tiệc ngon thượng hạng
Và các thứ y phục
Cúng dường Phật tử đó
Mong được chốc lát nghe.
Nếu người ở đời sau
Hay thọ trì kinh này
Ta phái họ trong đời
Làm việc của Như Lai.
Sau khi Ðức Phật diệt độ, người hay thọ trì bộ Kinh Pháp Hoa nầy, ở trong
đời ác năm trược, thì chúng ta nên hướng về người đó, chắp tay lễ bái cung
kính cúng dường người thọ trì kinh Pháp Hoa nầy, như cúng dường Phật.
Ðem đồ ngon vật lạ và các thứ y phục, để cúng dường vị pháp tử nầy. Hy
vọng ở trong thời gian rất ngắn, nghe được bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Nếu ở
trong đời vị lai, có người hay thọ trì và giải nói bộ kinh nầy, thì người đó
giống như ta phái họ vào nhân gian, làm việc của Phật làm, tức là chuyên thọ
trì, đọc tụng, biên chép, vì người giải nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy.
Nếu ở trong một kiếp
Thường ôm lòng bất thiện
Nổi giận mà mắng Phật
Mắc vô lượng tội nặng.
Nếu có người trì tụng
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Chốc lát dùng lời mắng
Tội này lại hơn kia.
Nếu như có người ở trong một kiếp, thường ôm lòng bất thiện, nổi giận mà
mắng chưởi Phật, người nầy mắc vô lượng tội nặng như núi Tu Di, nói
chẳng hết được. Song, nếu có người hay trụ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, lại
có người mắng chưởi trong thời gian rất ngắn, thì người nầy tội nặng hơn
người mắng chưởi Phật.
Có người cầu Phật đạo
Mà ở trong một kiếp
Chắp tay ở trước ta
Dùng vô số kệ khen.
Do vì khen ngợi Phật
Ðược vô lượng công đức
Khen tốt người trì kinh
Phước này lại hơn kia.
Nếu như có người một lòng cầu Phật đạo, mà ở trong một kiếp, ở trước Phật
chắp tay kính lễ, còn dùng vô số bài kệ để khen ngợi Phật, cho nên được
công đức như số cát sông Hằng. Nếu như có người hay khen ngợi người trì
kinh Pháp Hoa, thì phước của người đó lớn hơn so với sự khen ngợi Phật.
Trong tám vạn ức kiếp
Dùng sắc thanh diệu nhất
Cùng với hương vị xúc
Cúng dường người trì kinh.
Cúng dường như thế rồi
Nếu chốc lát được nghe
Thì nên tự vui mừng
Nay ta được lợi lớn.
Dược Vương ! Nay bảo ông
Các kinh của ta nói
Mà ở trong các kinh
Pháp Hoa là bậc nhất.
Có thể ở trong tám mươi ức kiếp, dùng sắc thanh diệu tốt nhất, và hương, vị,
xúc, diệu tốt nhất, để cúng dường người thọ trì Kinh Pháp Hoa. Cúng dường
như thế rồi, nếu ở trong chốc lát, mà được nghe bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì
tự vui mừng, vì hôm nay được nghe bộ Kinh Pháp Hoa nầy, được lợi ích rất
lớn. Lợi ích gì ? Tức là được cơ hội thành Phật. Do đó có câu :
‘’Niệm câu Nam Mô Phật,
Ðều cùng thành Phật đạo.’’
Huống gì được nghe Kinh Pháp Hoa vi diệu nầy.
Tại sao tôi nói thọ trì Kinh Lăng Nghiêm, thì khai mở đại trí huệ ? Thọ trì
Kinh Pháp Hoa, thì có thể tu thành Phật đạo ? Vì bộ Kinh Pháp Hoa nầy, là
Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na
Phật, và Thiên Bách ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng có đủ ba
thân, bốn trí, năm mắt, sáu thông của Phật, cho nên nói Kinh Pháp Hoa là
vua trong các kinh. Do đó, Ðức Phật lại nói với Bồ Tát Dược Vương và đại
chúng trong pháp hội: ‘’Dược Vương ! Hôm nay ta nói với ông, tất cả kinh
điển của ta nói, từ thời Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng, đến thời Bát
Nhã, mà trong các kinh điển đó, thì Kinh Pháp Hoa là bậc nhất, cho nên nói
là vua trong các kinh‘’. Cho nên, chúng ta chỉ cần nghe được bộ Kinh Pháp
Hoa nầy, thì đã kết nhân duyên thành Phật thù thắng với Kinh Pháp Hoa,
tương lai chắc chắn ở trong khắp hội chúng hàng Thanh Văn, hữu học vô
học hai nghìn năm trăm người, nếu ai dũng mãnh tinh tấn thọ trì bộ kinh
Pháp Hoa nầy, thì chắc chắn sớm gần gũi tất cả chư Phật Bồ Tát trong mười
phương, gặp nhau trong hội Long Hoa.
Bấy giờ, đức Phật lại bảo đại Bồ Tát Dược Vương rằng : Kinh điển của ta
nói vô lượng ngàn vạn ức, đã nói nay nói và sẽ nói, mà ở trong các kinh đó,
thì Kinh Pháp Hoa khó tin khó hiểu nhất.
Dược Vương ! Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, không thể phân chia
vọng trao cho người, là kinh được các đức Phật giữ gìn bảo hộ. Từ xưa đến
nay chưa từng bày nói, mà kinh này lúc Như Lai còn hiện tại, đã có nhiều kẻ
oán ghét, huống chi sau khi Như Lai diệt độ.
Sau khi Phật nói kệ ở trên rồi, vì không để cho tất cả chúng sinh, sinh tâm
hoài nghi đối với bộ Kinh Pháp Hoa nầy, cho nên lần nữa lại nói với đại Bồ
Tát Dược Vương: ‘’Tất cả Phật pháp kinh tạng của ta nói ra, có vô lượng vô
biên nhiều trăm ngàn vạn ức bất khả thuyết. Pháp đã nói trong quá khứ, pháp
hiện tại đang nói, pháp sẽ nói đời vị lai, thì bộ kinh Pháp Hoa nầy, khó tin
khó giải nói. Vì bộ Kinh Pháp Hoa nầy quá áo diệu, nên phải có diệu nhân,
mới có thể tiếp thọ và thọ trì kinh nầy. Bộ Kinh Pháp Hoa nầy, cũng là tạng
pháp quan trọng và bí mật nhất của mười phương chư Phật, chưa bao giờ
hướng ngoài bày nói. Mười phương chư Phật đều cùng hộ trì bộ kinh nầy,
cho nên không bày nói ra bộ kinh nầy. Do đó, từ xưa đến nay, đều chẳng tỉ
mỉ nói bày ra. Tại sao ? Vì một số người chẳng tin bộ kinh nầy, và khi ta nói
ra bộ kinh nầy, thì có rất nhiều thiên ma ngoại đạo, bàng môn tả đạo đều
sinh tâm oán hận và tâm đố kị, huống chi sau khi ta diệt độ ?
Dược Vương nên biết ! Sau khi Như Lai diệt độ, ai hay biên chép thọ trì đọc
tụng cúng dường, vì người khác nói bộ kinh này, thì được đức Như Lai lấy y
trùm cho, lại được các đức Phật ở phương khác hộ niệm cho, người đó có
sức tin lớn và sức chí nguyện, các sức căn lành. Nên biết người đó, cùng với
đức Như Lai ở chung, được đức Như Lai lấy tay rờ đầu người đó.
Tuy nhiên như vậy, Phật cũng phải nói ra bộ kinh nầy. Do đó, Dược Vương
! Ông nên biết sau khi Phật vào Niết Bàn, nếu có ai hay biên chép, thọ trì,
đọc tụng, cúng dường, và vì người khác giải nói nghĩa lý bộ kinh nầy, thì có
thể được Phật lấy y Cà sa trùm lên thân người đó, và còn được mười phương
chư Phật, luôn luôn bảo hộ gia bị cho người đó, khiến cho họ khai mở đại trí
huệ. Người đó đầy đủ sức tin lớn, do đó có câu :
‘’Phật pháp như biển cả,
Có niềm tin mới vào được.’’
Nếu chẳng có niềm tin, thì không thể vào trong Phật pháp, phải có niền tin
mới có công đức, mới có thể tu hành.
Do đó, nếu có ai hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì họ tất có niềm tin lớn, dù thế
nào đi nữa, thì họ không thể nào sinh tâm hoài nghi đối với bộ kinh nầy, mà
còn phát chí nguyện vững chắc để phụng trì bộ kinh nầy. Tại sao những
người nầy có niềm tin và chí nguyện như thế ? Vì họ trong quá khứ đã trồng
xuống các căn lành và hạt giống bồ đề. Ông nên biết, họ với Phật thường ở
chung với nhau, được Phật rờ đầu. Rờ đầu là biểu thị từ bi chẳng bỏ tất cả
chúng sinh, tức là Phật dùng oai đức của Ngài, để gia bị cho tất cả chúng
sinh, khiến tiêu trừ tất cả chướng ngại được khai mở trí huệ của Phật.
Dược Vương ! Bất cứ nơi chốn nào, hoặc có người nói, đọc tụng, biên chép,
hoặc có quyển kinh này ở đó, thì nên xây dựng tháp bảy báu cho thật cao
rộng trang nghiêm, không cần an trí xá lợi nữa. Tại sao ? Vì trong đó đã có
toàn thân của Như Lai. Tháp đó nên dùng tất cả các hoa, hương, anh lạc,
lọng lụa, tràng phan, âm nhạc, ca xướng, cúng dường, cung kính, tôn trọng,
khen ngợi. Nếu có ai thấy được tháp này, mà lễ bái cúng dường, thì nên biết
những người đó, đều gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Dược Vương ! Bất cứ ở đâu, nếu có ai giải nói, đọc tụng, biên chép, và có bộ
Kinh Pháp Hoa nầy ở đó, mà xây tháp bằng bảy báu, tháp đó cao rộng và
trang nghiêm, chẳng cần an trí xá lợi vào trong tháp đó nữa. Vì sao ? Vì nếu
an trí bộ Kinh Pháp Hoa vào trong tháp, thì đồng như có pháp thân của Phật
ở trong đó. Chúng ta nên dùng tất cả các thứ hoa hương, anh lạc, lọng lụa,
tràng phan, âm nhạc, ca xướng, để cúng dường và cung kính tôn trọng khen
ngợi bảo tháp nầy.
Nếu có người thấy được tháp bằng bảy báu nầy, mà hướng về tháp báu nầy
đảnh lễ, cho đến cúng dường, thì nên biết những người đó, gần quả vị Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Dược Vương ! Có nhiều người tại gia, hoặc xuất gia, thực hành Bồ Tát đạo,
nếu không thể thấy nghe được người đọc tụng biên chép thọ trì cúng dường
Kinh Pháp Hoa này, thì nên biết người đó, chưa khéo hành Bồ Tát đạo. Nếu
có người nghe kinh điển này, thì mới khéo thực hành Bồ Tát đạo. Nếu có
chúng sinh cầu Phật đạo, nếu thấy hoặc nghe được Kinh Pháp Hoa này,
người đó nghe rồi, tin hiểu thọ trì, nên biết người đó, gần quả vị Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Dược Vương ! Có rất nhiều người tại gia và xuất gia tu hành đạo Bồ Tát,
nếu họ không thể thấy nghe được người đọc tụng, biên chép, thọ trì, cúng
dường Kinh Pháp Hoa, thì ông nên biết những người đó, chưa thực hành
viên mãn Bồ Tát đạo, nếu người hay thực hành Bồ Tát đạo, lại hay thấy
nghe được người thọ trì bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì họ mới tu hành Bồ Tát
đạo viên mãn. Ngoài ra, có những chúng sinh một lòng muốn cầu quả vị
Phật, nếu thấy nghe được bộ Kinh Pháp Hoa nầy, nghe rồi thâm nhập hiểu rõ
và tu trì bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì những người đó gần quả vị Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Dược Vương ! Ví như có người khát nước, ở nơi vùng cao nguyên đào khoét
tìm nước, thấy đất còn khô, biết nước còn xa, cố gắng đào không ngừng, bèn
thấy đất ước, dần dần đến bùn, tâm người đó biết chắc sắp tới nước.
Dược Vương ! Ví như có người cảm thấy rất khô khát, cần nước để giải
khát, do đó ở nơi vùng cao nguyên đào giếng muốn được có nước. Song vì
chỗ nầy là nơi cao, cho nên đất rất khô. Ðó cũng là ví dụ cho tập khí mao
bệnh của chúng ta cao như núi Tu Di. Nếu trên đỉnh núi Tu Di mà muốn tìm
chút nước, thật là việc rất khó khăn. Do đó, khi bạn nhìn thấy đất khô, thì đủ
biết cách nước còn rất xa. Ðó nghĩa là tu đạo tất phải từ từ, chẳng phải một
ngày nóng mười ngày lạnh. Nếu như thế thì cách xa đạo tám vạn bốn nghìn
dặm. Nếu dụng công tu hành không ngừng, thì giống như mỗi ngày đều
đang đào giếng, thời gian lâu thì dù nơi đất cao, cuối cùng sẽ thấy đất ước,
dần dần lại thấy được bùn, đó cũng như tu đạo, dần dần sẽ chứng được sơ
quả, nhị quả, tam quả, tứ quả. Nếu tâm quyết định đào giếng không ngừng,
thì biết chắt sẽ được nước, tức cũng ví dụ, một khi tu đạo dụng công khổ tu,
thì tất định cách Phật đạo không xa.
Bồ Tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu, chưa thể tu tập Kinh Pháp
Hoa này, thì cách quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác còn xa. Nếu
được nghe hiểu suy nghĩ tu tập, thì biết được gần quả vị Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Bồ Tát cũng như ở trên vừa nói, nếu có người chẳng nghe qua, hoặc chẳng
hiểu rõ Kinh Pháp Hoa, thì cũng không thể y theo Kinh Pháp Hoa mà tu
hành. Ông nên biết, người đó cách quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác
của Phật còn xa. Nếu được nghe thấy, hiểu rõ suy gẫm, y chiếu Kinh Pháp
Hoa mà tu hành, thì tất được vô lượng tam muội, chắc chắn cách quả vị Vô
thượng chánh đẳng chánh giác chẳng bao xa. Cho nên nói, bộ Kinh Pháp
Hoa nầy, là pháp khai quyền hiển thật. Nếu ai hay nghe được Kinh Pháp
Hoa, thì đều là người có căn lành lớn, có trí huệ lớn.
Tại sao ? Vì tất cả Bồ Tát chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều
thuộc nơi kinh này. Kinh này khai mở môn phương tiện, mở bày tướng chân
thật. Tạng Kinh Pháp Hoa này, sâu xa vững chắc, chẳng ai đến được. Nay
Phật vì giáo hóa thành tựu Bồ Tát, mà khai thị.
Tại sao ? Vì tất cả Bồ Tát chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác,
đều bao hàm ở trong bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Bộ kinh nầy đều đã khai mở
hết thảy pháp môn phương tiện, chỉ bày ra diệu lý tướng chân thật, mà mỗi
chúng ta chúng sinh, đều có đủ thật tướng lý thể nầy, chỉ bất quá một số
người quay lưng với giác ngộ, mà hợp với trần lao, chẳng biết mình có
tướng chân thật như thế. Pháp hàm tàng trong bộ Kinh Pháp Hoa nầy, có đủ
vô lượng ức, sâu không thể dò như biển cả, thiên ma ngoại đạo không thể
phá hoại được, cho nên gọi là pháp vững chắc, mà pháp trong bộ kinh nầy ẩn
mà chẳng thấy.
Dùng quả vị Phật để luận, nếu muốn đến quả vị Phật, thì phải trải qua chín
bậc, từ chín pháp giới đến pháp giới của Phật, là một đoạn đường rất dài. Vì
quá dài, cho nên con người không dễ gì đạt đến trình độ Kinh Pháp Hoa.
Hiện tại Phật khai quyền hiển thật, mà vì bạn mở bày con đường thành tựu
của Bồ Tát.
Dược Vương ! Nếu có Bồ Tát nghe Kinh Pháp Hoa này, mà kinh hãi hoài
nghi sợ sệt, thì nên biết người đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh
Văn nghe kinh này, mà kinh hãi hoài nghi sợ sệt, thì nên biết người đó là kẻ
tăng thượng mạn.
Nếu như có Bồ Tát nghe được bộ Kinh Pháp Hoa nầy, mà tâm sinh kinh hãi
hoài nghi sợ sệt, thì nên biết họ đều là bậc mới phát tâm Bồ Tát. Nếu hàng
Thanh văn nghe được bộ Kinh Pháp Hoa này, mà sinh tâm kinh hãi hoài
nghi sợ sệt, thì nên biết họ chẳng đủ lòng cung kính và sự tín ngưỡng Phật
Pháp Tăng, cho nên tăng trưởng tâm cống cao ngã mạn, như hội Pháp Hoa
vừa mới bắt đầu, thì có năm nghìn đệ tử của Phật, một khi nghe Phật muốn
nói Kinh Pháp Hoa, thì ai nấy đều bỏ về .
Dược Vương ! Nếu có người thiện nam người nữ nào, sau khi Như Lai diệt
độ, muốn vì bốn chúng nói Kinh Pháp Hoa này, thì người thiện nam, thiện
nữ đó, phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên
vì bốn chúng rộng nói kinh này.
Dược Vương ! Nếu như có người thiện nam người thiện nữ tại gia hoặc xuất
gia, muốn nói kinh nầy, sau khi Ðức Như Lai diệt độ, thì nên làm thế nào ?
Những người thiện nam người thiện nữ đó, phải ở trong nhà Như Lai, mặc y
Như Lai, ngồi trên pháp tòa của Như Lai, rồi mới có thể vì bốn chúng rộng
nói bộ kinh nầy.
Nhà Như Lai là có tâm đại từ bi đối với tất cả chúng sinh. Y Như Lai là tâm
nhu hòa nhẫn nhục. Tòa Như Lai là tất cả các pháp không. An trụ ở trong đó,
rồi sau đó dùng tâm không giải đãi, mà vì các Bồ Tát và bốn chúng, rộng nói
Kinh Pháp Hoa này.
Nhà Như Lai là có đủ tâm đại từ bi. Nếu chịu đựng được người khác đánh
chưởi mắng, mà chẳng sinh một chút tâm sân hận, thì tức là có tinh thần vô
duyên đại từ, đồng thể đại bi, xem sự đau khổ của tất cả chúng sinh, giống
như sự đau khổ của mình, đó là vào nhà Như Lai. Mặc Y Như Lai là gì ?
Tức là có tâm nhu hòa và tâm nhẫn nhục, chẳng có lửa vô minh nóng giận.
Nếu muốn học tâm nhẫn nhục, thì chẳng phải suốt ngày đến tối, cứ niệm hai
chữ nhẫn nhục, khi nghịch cảnh đến thì chẳng chịu đựng được, vì đó chẳng
qua là dụng công phu ở ngoài da, phải lão thật tu hành thì mới đạt được công
phu nhẫn nhục thật sự. Nếu xem tất cả các pháp đều không, thì chẳng chấp
trước người, chẳng chấp trước pháp. Ðó là ngồi trên tòa Như Lai.
Nếu đầy đủ được ba điều kiện nầy, thì sau đó dùng tinh thần chẳng giải đãi,
vì tất cả Bồ Tát và Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam cư sĩ nữ, rộng nói bộ
Kinh Pháp Hoa nầy. Lúc đó, được tất cả chư Phật Bồ Tát trong mười
phương, người chẳng phải người .v.v., đều đến hộ niệm và nghe người đó
giảng bộ kinh nầy.
Dược Vương ! Ta ở nơi nước khác, sai người biến hóa đến để nghe pháp, và
cũng sai Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đến nghe người đó nói
pháp. Những người biến hóa đó, nghe pháp tin nhận, tùy thuận chẳng
nghịch. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, thì ta rộng sai trời, rồng, quỷ
thần, Càn thát bà, A tu la, đến để nghe nói pháp.
Tuy ta ở nước khác, nhưng luôn luôn khiến cho người nói pháp, được thấy
thân ta. Nếu ở nơi kinh này, quên mất câu kinh văn, thì ta sẽ vì người đó nói,
khiến cho được đầy đủ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Dược Vương ! Tuy ta ở tại thế giới Ta Bà vào Niết Bàn, đến nước khác giáo
hóa chúng sinh, song có người ở tại nhân gian vào nhà Như Lai, mặc y Như
Lai, ngồi tòa Như Lai, giảng giải bộ kinh nầy, thì ta phái tất cả người biến
hóa của ta khắp nơi, đến khuyên mọi người đến nghe vị pháp sư đó, giảng
bộ kinh nầy. Ta còn phái những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ,
biến hóa của ta đến để nghe pháp nầy. Họ còn y chiếu theo pháp của Kinh
Pháp Hoa nầy mà tu hành, tùy thuận tiếp nhận nghĩa lý kinh văn. Nếu như vị
pháp sư đó, nói pháp ở tại núi rừng, hoặc nơi vắng vẻ, thì ta phái tất cả trời,
rồng, quỷ thần, Cán thát bà, A tu la, đến để nghe người đó nói pháp. Tuy ta ở
tại nước khác, song ta vẫn luôn luôn khiến cho người nói pháp đó, thấy được
thân của ta. Vì sao ? Nghĩa là hay vì diễn nói, nghe, đọc tụng Kinh Pháp
Hoa, thì như thấy được ba thân bốn trí của Phật. Vì chân thân của Như Lai
tức là Kinh Pháp Hoa. Nếu như có người quên mất câu kinh văn của Kinh
Pháp Hoa, thì ta sẽ nói cho người đó, khiến cho người đó nhớ lại kinh văn đã
quên. Nghĩa là mong mỏi sự gia bị của Phật, được khai mở trí huệ, khiến cho
người đó, nhìn qua kinh văn liền thấu rõ.
Lúc đó, Phật lộ ra tâm đại từ bi của Ngài, nguyện vì đại chúng thuật lại pháp
vừa nói ở trên, bèn cùng kệ nói lại cho rõ ràng hơn.
Muốn lìa sự giải đãi
Hãy nên nghe kinh này
Kinh rất khó được nghe
Tin nhận được cũng khó.
Như người khát tìm nước
Ðào khoét nơi cao nguyên
Do thấy đất còn khô
Biết rằng nước còn xa
Dần thấy đất bùn ướt
Biết chắc chắn gần nước.
Nếu ai muốn xa lìa sự giải đãi, thì nên nghe bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Bộ kinh
Pháp Hoa nầy rất khó được gặp, tức là người có cơ hội được nghe bộ kinh
nầy, cũng chẳng dễ gì tin diệu pháp trong bộ kinh nầy, cho nên cũng không
thể đắc được tác dụng của diệu pháp nầy. Ví như có người rất khát nước,
muốn uống nước, cho nên đến vùng cao nguyên đào giếng. Song, đất ở cao
nguyên rất khô, phải mất thời gian rất lâu mới đào được hố sâu, song cách
nước vẫn còn xa. Nếu người đó quyết tâm tiếp tục đào, thì cuối cùng chắc
chắn sẽ được nước. Ðạo lý nầy ví dụ ở tại địa vị phàm phu chúng ta, nếu
muốn tu thành Phật đạo, thì phải thâm nhập nghiên cứu tạng kinh, y theo
pháp tu hành. Tuy chúng ta ở trong đời ác năm trược, từ vô thỉ đến nay, tự
tánh đầy dẫy vô minh phiền não, cống cao ngã mạn, cho nên chẳng dễ gì tu
đạo, cách quả vị Phật tám vạn bốn nghìn dặm, song nếu chí nguyện vững
chắc, thì từ địa vị phàm phu, đến địa vị sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả,
cách Phật không xa. Nếu có thể tiếp tục tiến về trước, thì có ngày sẽ đạt
được quả vị Phật.
Dược Vương ông nên biết !
Tất cả những người đó
Không nghe Kinh Pháp Hoa
Cách trí Phật rất xa.
Nếu nghe sâu kinh này
Chắc rõ pháp Thanh Văn
Là vua trong các kinh
Nghe rồi suy gẫm kỹ.
Nên biết những người đó
Gần kề trí huệ Phật.
Dược Vương ! Ông nên biết, những người ta nói ở trước, nếu chẳng nghe
được bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì những người đó, đều cách trí huệ của Phật
rất xa. Nếu nghe được diệu pháp sâu xa của bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì họ
thật sự hiểu rõ pháp của hàng Thanh Văn, là Phật quyền xảo phương tiện,
biết Kinh Pháp Hoa mới là vua trong các kinh. Nếu nghe rồi, tập trung tinh
thần để suy gẫm tu tập chỗ diệu, và nghĩa lý của bộ kinh nầy, thì ông nên
biết, người đó gần kề khai ngộ trí huệ của Phật.
Nếu người nói kinh này
Nên vào nhà Như Lai
Mặc y của Như Lai
Ngồi tòa của Như Lai.
Trong chúng chẳng sợ sệt
Rộng vì phân biệt nói
Ðại từ bi làm nhà
Y nhu hòa nhẫn nhục.
Các pháp không làm tòa
Nơi đó vì nói pháp
Nếu khi nói kinh này
Có người ác khẩu mắng.
Như đao gậy gói đá
Vì nhớ Phật nên nhẫn.
Nếu như sau khi ta diệt độ, có người vì đại chúng, giải thích nói bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, thì người đó phải vào nhà Như Lai, mặc y của Như Lai, ngồi
trên tòa của Như Lai. Sau đó, ở trong đại chúng nghiêm trang, chẳng có sợ
sệt rộng nói bộ kinh nầy. Nghĩa là, người đó phải có tâm đại từ bi của Phật,
phát nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui, đối với mọi
người đều nhu hòa nhẫn nhục, nhẫn những gì mà kẻ khác không nhẫn được,
nhường những gì người khác không nhường được, vẫn phải phá mọi chấp
trước người và pháp, thì mới ở trên pháp tòa vì đại chúng nói kinh nầy.
Nếu khi giảng giải bộ kinh nầy, mà có người dùng ác khẩu để mắng chưởi
người đó, hoặc dùng đao gậy ngói đá để đánh người đó, thì người đó nên
nhớ tâm từ bi của Phật, nhớ tâm nhẫn nhục tất cả các pháp, nhớ tất cả pháp
đều không.
Ta ngàn vạn ức cõi
Hiện thân tịnh kiên cố
Nơi vô lượng ức kiếp
Vì chúng sinh nói pháp.
Nếu sau ta diệt độ
Người nói được kinh này
Ta sai hóa bốn chúng
Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni.
Và cư sĩ nam nữ
Cúng dường pháp sư đó
Dẫn đạo các chúng sinh
Tập hợp khiến nghe pháp.
Nếu có kẻ ác hại
Dùng đao gậy ngói đá
Thì ta sai hóa nhân
Ðể bảo hộ người đó.
Ðức Phật lại nói : ‘’Sau khi ta diệt độ, ta ở trong nghìn vạn ức cõi nước, hiện
pháp thân thanh tịnh và kiên cố, ở trong vô lượng ức kiếp, vì hết thảy chúng
sinh nói pháp. Nếu sau khi ta diệt độ, có vị pháp sư nào hay giải nói bộ Kinh
Pháp Hoa nầy, thì ta phái hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ,
những người biến hóa của ta, đến cúng dường vị pháp sư giảng nói bộ Kinh
Pháp Hoa nầy. Ta sẽ dẫn đạo tất cả chúng sinh, tập họp lại một chỗ, khiến
cho họ nghe Kinh Pháp Hoa. Nếu có người dùng đao gậy và ngói đá, để hại
vị pháp sư đó, thì ta sai những người biến hóa tự tại, đến bảo hộ vị pháp sư
đó.
Nếu người đó nói pháp
Một mình nơi chỗ vắng
Vắng vẻ chẳng người nghe
Ðọc tụng kinh điển này.
Bấy giờ ta sẽ hiện
Thân thanh tịnh quang minh
Nếu quên mất chương câu
Vì nói khiến thông lợi.
Nếu người đủ đức hạnh
Hoặc vì bốn chúng nói
Nơi vắng đọc tụng kinh
Ðều được thấy thân ta.
Nếu người nơi chỗ vắng
Ta sai trời long vương
Dạ xoa quỷ thần thảy
Ðể làm chúng nghe pháp.
Người đó thích nói pháp
Phân biệt chẳng quái ngại
Vì chư Phật hộ niệm
Hay khiến đại chúng vui.
Nếu gần gũi pháp sư
Mau được Bồ Tát đạo
Tùy thuận thầy đó học
Ðược thấy Hằng sa Phật.
Nếu như sau khi ta diệt độ, có người muốn vì đại chúng nói bộ kinh Pháp
Hoa nầy, song người đó một mình ở chỗ hoang dã không có người, nơi đó
thanh tịnh, mỗi ngày chẳng nghe tiếng người. Người đó ở tại nơi nầy đọc
tụng Kinh Pháp Hoa nầy, lúc bấy giờ, ta sẽ vì một người đọc tụng Kinh Pháp
Hoa, mà hiện ra pháp thân thanh tịnh quang minh. Ðó là Kinh Pháp Hoa hay
khiến cho người đọc tụng khai mở đại trí huệ, có trí huệ thanh tịnh, thì sẽ có
quang minh thanh tịnh, có quang minh thanh tịnh, thì tự nhiên sẽ hiện ra
pháp thân thanh tịnh, cho nên gọi là pháp thân thanh tịnh quang minh. Nếu
như người tụng trì Kinh Pháp Hoa, mà quên mất một bài kệ, hoặc một câu
kinh, thì ta sẽ yên lặng nói cho người đó, như ở trong thiền định hoặc ở
trong mộng, khiến cho người đó ký ức nhớ lại. Nghĩa là Phật thường ở trong
cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, dùng sức oai thần của Ngài để gia bị cho
người thọ trì giải nói, khiến cho trí huệ của người đó tăng trưởng. Nếu có
người đầy đủ đức hạnh, vì bốn chúng nói Kinh Pháp Hoa, hoặc ở tại nơi
vắng vẻ đọc tụng kinh nầy, thì ta sẽ khiến cho họ được thấy pháp thân của
ta. Kỳ thật, bộ Kinh Pháp Hoa tức là pháp thân của Phật.
Nếu người nào hay đọc tụng, tất sẽ khai mở trí huệ của Phật, và được thấy
pháp thân của Phật. Nếu như có người ở tại nơi hoang dã, rừng sâu núi thẳm,
giải nói bộ kinh nầy, thì ta sẽ sai tất cả trời rồng tám bộ chúng, dạ xoa, quỷ
thần .v.v., đến làm thính chúng trong pháp hội nầy. Người đó thích giảng
Kinh Pháp Hoa, mà còn giải nói diệu lý của kinh nầy, được viên dung vô
ngại, quang quang chiếu với nhau, lỗ lỗ thông với nhau, chẳng có quái ngại,
vì Phật đều đang gia bị cho người đó, khiến cho pháp của người đó nói, làm
cho đại chúng sinh vui mừng.
Nếu có người thường gần gũi vị pháp sư nầy, tất rất mau thông đạt Bồ Tát
đạo. Nếu theo vị pháp sư đó học Phật pháp, thì tương lai chắc chắn sẽ thấy
được các Ðức Phật, nhiều như số cát sông Hằng, rờ đầu thọ ký cho người đó.
---o0o---
Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
Phẩm thứ mười một gọi là Phẩm Thấy Bảo Tháp. Thấy là nhìn thấy, thấy
bảo tháp. Một số người dùng mắt để thấy. Kỳ thật, những gì chúng ta thấy,
chẳng riêng gì dùng mắt để thấy, mà còn phải dùng tâm để thấy; chẳng
những tâm nhìn thấy đặng, mà bổn tánh cũng nhìn thấy đặng. Vì Ða Bảo
Như Lai cũng ở trong bổn tánh của chúng sinh. Hiện là hiện bổn tánh Như
Lai, thấy là thấy bổn tánh Như Lai, cũng đều là thấy bảo tháp.
Ðạo lý tâm thấy và tánh thấy, có người sẽ không tin. Vì một số người chỉ
biết dùng mắt mà chẳng biết con mắt vốn chẳng thấy được. Nếu con mắt
thấy được, tại sao người chết rồi, con mắt vẫn còn mà sao không thấy ? Do
đó, có thể chứng minh chẳng phải con mắt thấy, mà là tánh thấy. Có người
nói: ‘’Hiện tại khoa học phát triển, có thể lấy con mắt của người nầy, gắn
vào con mắt của người khác, vẫn có thể nhìn thấy mọi vật‘’. Ðó chẳng phải
là mắt thấy, mà là sự thấy của tánh thấy. Vì mắt có tánh thấy, cho nên thấy
được. Nếu chẳng có tánh thấy, thì sẽ không thấy được. Vậy tánh thấy là gì ?
Bạn nhìn chẳng thấy được.
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói:
‘’Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập‘’.
Nghĩa là :
Thấy do lìa thấy, không thể thấy được.
Thấy cũng phải lìa sự thấy nầy, tại sao bạn nhìn chẳng thấy ? Vì sự thấy là
chẳng có. Nếu chiếu theo đạo lý nầy mà nói, thì bạn nhìn thấy mọi vật, cũng
chẳng tồn tại. Có người nói: ‘’Ðạo lý nầy tôi không tin‘’, vì bạn không tin,
nên chẳng hiểu đạo lý Kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa là phá tất cả mọi sự
chấp trước của bạn, sự thấy mọi vật chất của bạn, là từ phần tướng của tám
thức hiện ra, kỳ thật cũng là giả, cái mà nhìn không thấy mới là thật. Cái đó
là gì ? Tức là tự tánh của bạn, tròn trịa, sáng suốt, viên dung vô ngại. Nếu
buông xả được cái giả, thì biết được cái thật.
Tóm lại, bạn nhìn không thấy, thì đó mới là thật thấy; bạn nhìn thấy được,
đó là tướng phần của tám thức, chẳng phải phần thấy. Ðạo lý nầy càng
nghiên cứu thì càng diệu, hôm nay nói về sự thấy đến đây thì ngừng. Trong
Kinh Kim Cang nói:
‘’Phàm tất cả các tướng,
Ðều là hư vọng,
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai’’.
Bảo là thất bảo (bảy báo): Tức là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, trân châu, mai
khôi.
1. Vàng : Tính của vàng là tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, đại biểu
cho trí huệ kiên cố.
2. Màu của bạc sạch trắng, đại biểu cho hạnh môn thanh tịnh.
3. Lưu ly là thể sáng suốt thấu triệt, biểu thị cho trí huệ sáng suốt.
4. Xa cừ có tướng chuyển động, biểu thị cho tâm ủy khúc, người tu đạo phải
có tâm nhẫn và nhường nhịn.
5. Mã não là tạp sắc, bên trong có màu đỏ, màu vàng, màu trắng, vì có nhiều
màu, biểu thị cho trí huệ vạn hạnh, do đó có câu ‘’Vạn đức trang nghiêm‘’.
6. Trân châu là tròn sáng, biểu thị cho trí huệ viên dung vô ngại.
7. Mai khôi là ngọc thạch, có tính ôn nhuận, biểu thị cho trí huệ ôn nhuận.
Dùng bảy báu nầy để tạo tháp, cho nên gọi là bảo tháp (tháp báu) .
Tháp là phương mộ, nơi cúng dường chân thân của Phật và Tổ Sư, tức cũng
là nơi thờ Phật xá lợi. Tháp có hình bốn góc, hình sáu góc, hình tam giác, và
hình tròn. Có tháp làm bằng gạch, bằng đá, bằng gỗ. Tháp cao nhất có mười
ba từng, thấp nhất là hai từng. Tám từng trở lên là tháp Phật, bảy từng là
tháp Bồ Tát, sáu từng là tháp Bích Chi Phật, năm từng là tháp tứ quả A La
Hán, bốn từng là tháp tam quả A La Hán, ba từng là tháp nhị quả A La Hán,
hai từng là tháp sơ quả A La Hán. Tóm lại, phàm là nơi đáng kỷ niệm, người
sau đều xây tháp để biểu thị tôn kính không quên. Giống như Ðức Phật :
1. Nơi ra đời, ở ngoài thành Ca Tì La Vệ, lập tháp tại vườn Lâm Tì Ni.
2. Nơi thành đạo, xây tháp tại nước Ma Già Ðà, phía nam dòng sông Ni
Liên.
3. Nơi chuyển pháp luân, tạo tháp tại vườn nai ngoài thành Ba La Nại nước
Ca Thi.
4. Nơi hiện thần thông, xây tháp tại vườn Kỳ Ðà phía đông nam thành Xá
Vệ.
5. Nơi từ trên trời xuống, xây tháp tại thành Khúc Nữ nước Tang Già Thi.
6. Nơi hóa độ phân biệt tăng, xây tháp tại thành Vương Xá.
7. Nơi suy niệm thọ lượng, xây tháp tại thành Tì Gia Ly.
8. Nơi vào Niết Bàn, xây tháp tại thành Câu Thi Na. Nay đều trở thành thánh
địa lễ bái của Phật giáo đồ.
Phẩm là phẩm loại, tụ lại nghĩa lý tương đồng làm một đoạn. Kinh Pháp Hoa
có bảy quyển phân làm hai mươi tám phẩm. Mỗi phẩm thành một đề mục,
phẩm nầy là Phẩm Thấy Bảo Tháp.
Bảo tháp nầy được tất cả chúng sinh xây dựng, sau khi Ða Bảo Như Lai
nhập diệt. Trước khi Ða Bảo Như Lai chưa thành Phật, đã từng phát nguyện:
‘’Ta ở đời vị lai, phàm là có Phật ra đời, khi muốn nói Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, thì bảo tháp của ta từ dưới đất sẽ vọt lên, hiện ra ở trước, trụ trong hư
không, khiến cho đại chúng đều nhìn thấy được, chứng minh nói cảnh giới
của Kinh Pháp Hoa là không thể nghĩ bàn‘’. Cho nên, có thể biết bảo tháp
hiện ra là có tác dụng chứng tín.
Do đó, khi Ðức Phật muốn nói Kinh Pháp Hoa, thì nguyện lực của đức Ða
Bảo Như Lai xuất hiện ở trong hư không. Do đó, đủ thấy Kinh Pháp Hoa rất
là quan trọng. Trong một đời của đức Phật, trước hết nói Kinh Hoa Nghiêm,
cuối cùng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Song, khi nói Kinh Hoa Nghiêm
thì hàng nhị thừa chẳng tiếp thọ được. Phật từ bi đổi nói Kinh A Hàm, kế
tiếp nói Kinh Phương Ðẳng, rồi nói Kinh Bát Nhã. Hàng đệ tử hồi tiểu
hướng đại, cơ duyên thành thục, mới khai quyền hiển thật, nói bộ Kinh Pháp
Hoa nầy.
Mùa hè năm 1968, chúng ta thành lập ban giảng tập, trước khi khai giảng
Kinh Lăng Nghiêm, năm sau ban giảng tập giảng Phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện, Kinh Pháp Bảo Ðàn, Kinh Kim Cang .v.v. Năm nay giảng Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, bây giờ giảng đến Phẩm Bảo Tháp. Ðại chúng tại
Giảng Ðường Phật Giáo, cùng nhau nghiên cứu Phật pháp, đây chẳng phải là
nhân duyên nhỏ, có thể nói là cơ hội ngàn năm mới gặp, bất quá bạn chưa
được túc mạng thông, nên chẳng thấu được nhân duyên nầy. Chưa chứng
được thiên nhãn thông, nên nhìn chẳng thấy được cảnh giới nầy. Song, các
bạn ở đây được nghe Phẩm Thấy Bảo Tháp, mới là cảnh giới hiện tiền
không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, ở trước đức Phật, có tháp bảy báu cao năm trăm do tuần, bề ngang
rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất vọt lên, trụ ở trong hư không,
đủ thứ các báu vật nghiêm sức rất trang nghiêm. Có năm ngàn lan can, ngàn
vạn phòng ốc, vô số tràng phan, dùng để nghiêm sức, chuỗi báu rũ xuống,
hàng vạn ức linh báu treo trên tháp, bốn mặt đều tỏa ra hương thơm đa ma la
bạt chiên đàn, xông khắp thế giới.
Khi nói xong Phẩm Pháp Sư, thì ở trước đức Phật Thích Ca có tháp bảy báu
hiện ra. Tháp bảy báu nầy cao năm trăm do tuần, bề ngang rộng hai trăm
năm mươi do tuần (đại do tuần dài 80 dặm, trung do tuần dài 60 dặm, tiểu do
tuần dài 40 dặm). Tháp bảy báu nầy từ dưới đất vọt lên từ từ thăng đi lên,
cuối cùng ngừng lại ở trong hư không. Trên tháp báu có các thứ báu vật
nghiêm sức, bốn mặt tháp báu có năm nghìn lan can, ngàn vạn phòng ốc và
vô số tràng phang trang nghiêm. Lại treo chuỗi báu rũ xuống, và linh báu
tòng ten có đến hàng vạn ức. Bốn mặt tháp báu tỏa ra hương thơm đa ma la
bạt (tính vô cấu) chiên đàn. Thứ hương thơm nầy xông khắp đại thiên thế
giới.
Năm trăm do tuần, biểu thị chúng sinh thọ khổ ở trong năm đường luân hồi.
Hiện tại làm cho năm đường luân hồi dừng lại, khiến cho chúng sinh lìa khổ
được vui. Hai trăm năm mươi do tuần, biểu thị cho hai trăm năm mươi giới
điều. Người tu hành phải chiếu theo giới luật mà tu hành, mới thành tựu đạo
nghiệp. Ði đứng nằm ngồi bốn oai nghi, mỗi oai nghi có hai trăm năm mươi
giới điều, hợp lại là một nghìn. Lại thêm quá khứ một nghìn, hiện tại một
nghìn, vị lai một nghìn, hợp lại thành ba nghìn. Do đó, có câu: ‘’Ba nghìn
oai nghi, tám vạn tế hạnh‘’.
Dùng các thứ báu vật nghiêm sức, là biểu thị đủ thứ hạnh môn, trang nghiêm
đạo nghiệp. Năm nghìn lan can, nghìn vạn phòng khám, biểu thị một thứ
công đức của vạn điều lành. Vô số tràng phan, biểu thị định huệ. Tràng biểu
thị cho định, phan biểu thị cho huệ. Ðịnh tức là tĩnh, huệ tức là động. Ðịnh
huệ đồng đều thì trí huệ hiện tiền, đây là một thứ biểu pháp mà thôi.
Chuỗi là dùng bảy báu tạo thành đồ trang sức, treo ở trước ngực, biểu thị
trang nghiêm. Giảng đến chuỗi, tôi bèn nhớ đến một câu chuyện : Lúc Phật
còn tại thế, vua thành Vương Xá là Tần Bà Sa La, là đệ tử của Phật, cũng là
đại hộ Pháp. Con trai của ông ta là vua A Xà Thế, nghe lời Ðề Bà Ðạt Ða
xúi giục, nhốt vua cha vào ngục tù bảy lớp cửa, cấm không cho ai vào thăm,
chỉ có mẹ của ông ta được vào. Tại sao xảy ra sự việc nầy ? Vì Ðề Ba Ðạt
Ða muốn làm Phật mới, tuyên truyền bên ngoài rằng Phật Thích Ca là Phật
cũ. Ðề Bà Ðạt Ða muốn khởi cách mạng trong Phật giáo, nếu chẳng có ai trợ
giúp, thì sẽ không thành công. Cho nên liên hợp với vua A Xà Thế, xúi vua
A Xà Thế giết vua cha đoạt ngôi, khẩu hiệu là ‘’Vua mới Phật mới, cùng trị
thiên hạ‘’. Ý niệm xấu nầy, khiến cho vua A Xà Thế động tâm, muốn làm
vua mới, thì phải phế trừ vua già. Do đó, bèn ra tay đoạt quyền lợi của vua
cha, tự lên làm vua mới. Hai con lang bái làm bậy, đi khắp nơi tìm Phật
nhiễu hại.
Mẹ của vua A Xà Thế là bà Vi Ðề Hi, mỗi lần gặp vua già, thì lợi dụng xâu
chuỗi (trống không ở giữa) đổ đầy nước nho, để cho vua già uống giữ gìn
tánh mạng. Hai người ở trong ngục than thở nói : ‘’Vì sao lại sinh ra đứa con
ngỗ nghịch nầy, chắc là nghiệp báo kiếp trước ? Ðức Phật có thần thông, hãy
đến cứu chúng con‘’! Bèn hướng về núi Linh Sơn cầu : ‘’Ðức Thế Tôn ! Xin
ngài phát lòng đại từ bi, cứu chúng con khỏi biển khổ‘’! Lúc đó, tôn giả Mục
Kiền Liên và tôn giả A Nan từ hư không đến. Thân của Ðức Phật phóng ra
quang minh màu vàng tía, ngồi trên trăm hoa sen báu vì họ nói Kinh Thập
Lục Quán .
Linh báu dùng để làm cho chim sợ, cho nên nơi góc chùa tháp đều treo các
linh báu. Gió thổi vang ra tiếng linh, có thể làm cho chim bay khỏi chỗ nầy.
Nếu có người phát tâm cúng dường linh báu treo ở góc tháp, thì âm thanh
đời sau chắc chắn to hay, là có sự cảm ứng thù diệu nầy.
Các phan lọng đều làm bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, mai
khôi, bảy báu, cao đến cung trời Tứ Thiên Vương. Trời Ðao Lợi mưa xuống
hoa trời mạn đà la, để cúng dường bảo tháp.
Hết thảy tất cả phan báu và lọng báu, đều dùng : Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ,
mã não, trân châu, mai khôi, bảy báu, hợp thành, cao đến cung trời Tứ Thiên
Vương. Tứ Thiên Vương là từng trời thứ nhất của sáu cõi trời dục giới, nằm
ở giữa núi Tu Di. Bốn hướng mỗi hướng đều có một Thiên Vương trấn thủ.
Phương đông là Trì Quốc Thiên Vương, phương nam là Tăng Trưởng Thiên
Vương, phương tây là Quảng Mục Thiên Vương, phương bắc là Ða Văn
Thiên Vương. Mỗi vị Thiên Vương có tám vị đại tướng, trấn thủ bốn phía
Trời Ðao Lợi, chống giữ binh A Tu La xâm lược. Bồ Tát Vi Ðà là một trong
ba mươi hai vị đại tướng.
Trời Ðao Lợi (Trời Tam Thập Tam) mưa hoa mạn đà la (màu trắng) cúng
dường tháp báu. Trời Ðao Lợi ở trên đỉnh núi Tu Di, vì bốn phương mỗi
phương có tám trời, thêm một trời ở giữa, cộng thành Trời Ba Mươi Ba
(Trời Tam Thập Tam). Ðây là địa cư thiên, tại mỗi trời có một vị Thiên chủ
quản lý, chúa trời ở giữa là trời Ðế Thích. Ở trong đạo giáo gọi ông ta là
Ngọc Hoàng đại đế, ngoại đạo gọi ông ta là Thiên Chúa, trong Phật giáo gọi
ông ta là Thích Ðề Hoàn Nhân.
Hôm nay (25/9/1970) nói về lai lịch của Thiên Chúa trời Tam Thập Tam cho
mọi người nghe, khiến cho mọi người minh bạch chân tướng của Thiên
Chúa.
Ngoại đạo cho rằng Thiên Chúa là chủ tể tối cao vô thượng, thật tế Chúa
trên trời là hộ pháp của Phật giáo. Ở trong Phật đường, Thiên Chúa chẳng có
tư cách ngồi, chỉ có thể đứng, thậm chí phải đứng ở ngoài cửa. Vì sao ? Vì
ông ta là hộ pháp.
Trong vô lượng kiếp về trước, có ba mươi ba người nữ, cùng nhau phát tâm
tu sửa lại ngôi chùa và tượng Phật. Trong đó có một vị lãnh tụ, lãnh đạo ba
mươi hai người nữ kia làm việc thiện. Vị lãnh tụ nầy, vốn là người nữ rất
nghèo, song có tâm từ thiện. Một ngày nọ, đi ngang qua ngôi chùa cổ, thấy
tượng Phật bị gió thổi mưa rơi, vàng dán tượng Phật đã tróc ra, lại thấy nóc
điện Phật đã lâu năm chẳng tu sửa lại, ngói bễ rơi rớt. Cô ta mới phát tâm
trùng tu, song cô ta rất nghèo, do đó có câu : ‘’Tâm thì dư mà sức không
đủ‘’, bèn đi các nơi hóa duyên. Trời cao không phụ lòng người, tâm kiền
thành của cô ta cảm động ba mươi hai người nữ, phát tâm tùy hỷ công đức,
thành tựu tâm nguyện của cô ta. Mọi người cùng nhau làm, có tiền góp tiền,
có sức góp sức. Do đó, có câu : ‘’Người có chí, việc tất thành‘’, chẳng lâu,
điện Phật hư dột, vàng dán tượng Phật tróc ra đều làm mới lại hết. Công đức
viên mãn rồi, đời người vô thường, ba mươi ba người nữ lần lược qua đời,
được sinh lên Trời Ðao Lợi, làm Thiên Chúa Trời Tam Thập Tam. Vì công
đức sửa chùa mà được quả báu đó.
Tôi nhớ lại, khi làm Chùa Tam Duyên tại Hợp Nhĩ Tân, thì tôi đến hoá
duyên ở nhà thí chủ nọ. Khi vào cửa tôi bèn nói : ‘’Hôm nay tôi đến nhà các
vị, các vị nên sinh tâm hoan hỉ, tôi là người mang phước đức đến, các vị nên
tạo cơ hội trồng phước đức. Hiện nay Chùa Tam Duyên đang xây đại hùng
bảo điện, nếu bố thí vàng bạc, thì công đức không thể nghĩ bàn, các vị đừng
bỏ qua cơ hội gieo trồng phước đức‘’. Tôi chẳng phải là người hay nói, song
tôi nói như thế, thì những người đó đều phát tâm lạc quyên. Có người nói :
‘’Tôi để dành tiền được mười năm, đều đem ra hết để làm chùa‘’.
Tụ cát thành tháp, tôi vận động được rất nhiều tiền, đây là sự hóa duyên của
tôi đã trải qua.
Ngoài ra các trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la,
Ma hầu la già, người, chẳng phải người, cả thảy ngàn vạn ức chúng, đều
đem tất cả hoa, hương, anh lạc, phan lọng, âm nhạc, cúng dường bảo tháp,
cung kính tôn trọng khen ngợi.
Ngoài ra tất cả trời rồng tám bộ chúng và người chẳng phải người .v.v., có
rất nhiều hàng ngàn ức chúng. Họ đều dùng tất cả hoa quý, hương quý,
chuỗi, phan báu, lọng báu, và các thứ âm nhạc để cúng dường Bảo Tháp, còn
cung kính, tôn trọng, khen ngợi Bảo tháp.
Bây giờ giải thích về tám bộ chúng. Trời và rồng thuộc về tâm thiện, ngoài
ra sáu bộ chúng kia thuộc về tâm ác. Song, vì được Phật cảm hóa, nên đều
biến thành thiện thần hộ pháp. Phàm là nơi nào có giảng kinh thuyết pháp,
họ đều đến hộ trì đạo tràng.
1. Trời : Tức Tứ Thiên Vương trời dục giới, họ chẳng những trấn giữ thiên
cung, mà còn bảo vệ nhân gian. Bồ Tát Vi Ðà là một vị đại tướng trong ba
mươi hai đại tướng. Ngài được Phật ký thác hộ trì an toàn cho người tu đạo,
khiến cho ma không thể nhiễu loạn thân tâm người tu đạo.
2. Rồng : Rồng có thần thông, biến hóa khó dò. Khi thuở xưa tu đạo, thì do
‘’Thừa cấp giới hoãn’’ nên đọa làm súc sinh, song có thần thông. Tóm lại,
rồng tu pháp đại thừa, dũng mãnh tinh tấn, cho nên có thần thông. Song
chẳng giữ giới luật, do đó bị đọa làm thân rồng.
3. Dạ Xoa : Dịch là "Tiệp tật quỷ". Có ba loại dạ xoa.
A. Ðịa hành Dạ xoa.
B. Không hành Dạ xoa.
C. Phi hành Dạ xoa.
Có loài Dạ xoa hút khí của người, uống máu người, hoặc ăn tinh người, tác
quái khắp nơi, khiến cho người chẳng bình an.
4. Càn Thát Bà : Dịch là "Hương thần", dùng hương làm thức ăn, thân tỏa
mùi thơm, là thần nhạc của thượng đế. Khi Thượng đế muốn nghe âm nhạc,
đốt hương trầm thủy chiên đàn lên, thì chúng ngửi hương mà đến Thiện
Pháp Ðường của Thượng đế, để diễn tấu âm nhạc, khiến cho Thượng đế
hoan hỉ.
5. A tu La : Dịch là "Vô đoan chánh". Ngũ quan của nam A tu la chẳng đoan
chánh, song tướng mạo của nữ A tu la rất đẹp (Thượng đế cưới con gái của
vua A tu la làm vợ). Lại dịch là "Vô tửu". A tu la ở trên trời có phước trời,
mà chẳng có quyền lực trời, vì chẳng có rượu để uống, thường phát sinh
chiến tranh, muốn đoạt địa vị Thiên Chúa.
6. Ca Lâu La : Dịch là "Kim sí điểu", cánh của nó triển khai ra dài ba trăm
sáu mươi do tuần, có thể quạt nước biển rẽ làm hai, bắt rồng nuốt vào bụng,
một ngày ăn rất nhiều rồng. Vua rồng thấy loài rồng gần như tuyệt giống,
tâm nghĩ chỉ có Phật mới có biện pháp cứu rồng con rồng cháu. Do đó, bèn
đến chỗ Ðức Phật nhờ Phật trợ giúp. Phật ban cho một tấm y cà sa, bảo cứ
lấy một sợi chỉ của tấm y nầy cột lên mỗi con rồng, thì tính mạng của rồng
sẽ được an toàn, không còn bị kim sí điểu uy hiếp nữa.
Kim sí điểu ăn rồng chẳng được nữa, đói quá cũng đến chỗ Ðức Phật nói :
‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng tôi lấy rồng làm thức ăn, chẳng có rồng để ăn, chắt
phải chết đói, bây giờ Ngài tính sao đây‘’? Phật nói : ‘’Các ngươi sẽ không
chết đói, ta sai đệ tử của ta, khi ăn cơm thì bố thí cho các ngươi một phần
cơm‘’.
Từ đó về sau, chư Tăng trước khi dùng cơm, đều lấy bảy hạt cơm cúng cho
Ðại bàng kim sí điểu.
7. Khẩn Na La : Dịch là "Nghi Thần". Vì tựa như người, song có một cái
sừng, khiến cho người thấy sinh nghi. Khéo về âm nhạc, cũng là Thần nhạc
của Ngọc Ðế, chuyên tấu trang nghiêm pháp nhạc, khi Ngọc Ðế cử hành yến
tiệc, hoặc pháp hội, thì dưới nách của chúng ra mồ hôi, bay thẳng lên trên
trời biểu diễn ca khúc trang nghiêm và nhảy múa, khiến cho người thưởng
thức sinh tâm niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng.
8. Ma Hầu La Già : Dịch là "Ðại phục hành", tức là đại mãng xà. Chúng có
tâm sân hận, thường phun khí độc hại người. Nếu có tâm sân hận, sau khi
chết sẽ đọa làm mãng xà. Vợ của Vua Lương Võ Ðế, lúc sinh tiền đố kị với
các mỹ nữ, vào lúc ba mươi hai tuổi thì chết, đọa làm đại mãn xà. Vua
Lương Võ Ðế mới thỉnh Thiền Sư Bảo Chí, soạn một bộ Lương Hoàng Bảo
Sám, để siêu độ bà vợ khỏi thân mãn sà được thăng lên trời.
Bấy giờ, trong bảo tháp vang ra âm thanh lớn khen rằng : Lành thay, lành
thay ! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hay dùng pháp đại trí huệ bình đẳng, để
giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà vì đại
chúng nói. Như thế, như thế ! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như lời của Ngài
nói, đều là chân thật.
Sau khi trời rồng tám bộ chúng cúng dường rồi. Lúc đó, bảo tháp ở trong hư
không phát ra âm thanh lớn, khen ngợi nói : ‘’Tốt lắm, tốt lắm ! Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn, hay dùng pháp đại trí huệ bình đẳng, để giáo hoá Bồ Tát.
Mười phương chư Phật đều đến hộ niệm Ngài, dùng Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, vì đại chúng giảng nói. Tức là như thế ! Như thế ! Pháp của Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn nói, đều là diệu pháp chân thật không hư‘’. Khi Phật nói bộ
kinh nầy, thì Ða Bảo Như Lai đến trước làm chứng, khiến cho đại chúng tin
mà chẳng sinh tâm hoài nghi.
Thích Ca dịch là "Năng nhân", Mâu Ni dịch là "Tịch mặc". Thế Tôn là bậc
tôn kính của thế và xuất thế. Năng nhân là từ bi độ chúng sinh. Tịch mặc là
thanh tịnh tu thành đức. Năng nhân là động, tịch mặc là tĩnh. Trong động có
tĩnh, trong tĩnh có động; động chẳng ngại tĩnh, tĩnh chẳng ngại động, gọi là
pháp môn không hai.
Phật Thích Ca Mâu Ni tuy nhiên ở trong tĩnh, song vẫn giáo hóa chúng sinh.
Tuy nhiên phổ hóa chúng sinh, song vẫn ở trong định, cảnh giới nầy diệu
không thể tả. Bây giờ đưa ra ví dụ dễ hiểu để thuyết minh, tức là khi ngủ và
khi tỉnh đều như nhau, khi tỉnh và khi ngủ cũng giống nhau. Tức là đạo lý
nầy, các bạn hiểu rõ chứ !
Nếu các bạn cảm thấy tỉnh tức là ngủ, vậy tức là không ngủ, cũng không
quan trọng. Vì bạn ngủ không cảm thấy là tỉnh, cho nên phải ngủ. Ví dụ về
sự tỉnh tức là giác, ngủ tức là mê. Khi ngủ tuyệt đối sẽ không biết sự việc
làm lúc tỉnh, cũng chẳng biết sự việc làm hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Có người nói : ‘’Cảnh giới mà tôi thấy ở trong mộng, ngày thứ hai quả nhiên
sự thật‘’. Ðây là linh cảm, chứ chẳng phải thật biết, cũng có thể là Phật Bồ
Tát giúp bạn, báo cho bạn biết trước sự việc.
Việc hôm qua làm, việc ngày mai làm, ở trong mộng đều không biết, huống
chi biết được sự việc đời trước và đời sau ? Mọi người đừng vì không thấy,
mà phủ nhận nhân quả tồn tại ba đời.
Bấy giờ, bốn chúng đều thấy bảo tháp lớn trụ ở trong hư không, lại nghe
trong tháp vang ra âm thanh, thảy đều được pháp hỉ, lạ chưa từng có, từ chỗ
ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, rồi đứng về một bên.
Lúc đó, bốn chúng đệ tử đều nhìn thấy bảo tháp lớn trụ ở trong hư không.
Giảng đến đây có người sinh tâm hoài nghi : ‘’Bảo tháp chẳng có đụng đất,
làm sao có thể trụ ở trong hư không được‘’? Vấn đề nầy rất dễ giải đáp, bây
giờ có chứng minh rất tốt. Mọi người đều biết có trạm thái không (MIR), trụ
ở trong không gian để nối liền vệ tinh và nghỉ ngơi, sau đó lại bay đến thế
giới thứ hai.
Các bạn thử nghĩ, sức người còn có thể làm được cảnh giới vi diệu như thế,
huống gì Phật pháp vi diệu hơn không thể nghĩ bàn. Bảo tháp nầy dừng ở
trong hư không, giống như trạm thái không, chẳng có gì kỳ lạ. Khoa học
càng phát đạt, thì chứng minh chân lý Phật pháp càng chánh quyết, do đó có
câu :
‘’Sự thật thắng hùng biện‘’.
Bảo tháp trụ ở trong hư không, đây là biểu pháp, biểu thị vô sở trụ. Tuy bảo
tháp trụ ở trong hư không, song làm sao trụ ? Ðây là khiến cho người đừng
chấp trước. Nếu có sự chấp ngã (cái ta), và chấp pháp, thì trở thành đá buộc
chân mà tu đạo.
Bốn chúng đệ tử lại nghe âm thanh phát ra từ trong bảo tháp lớn, đều đắc
được pháp hỷ sung mãn, quên hẳn phiền não, cảm thấy rất kỳ lạ. Chưa từng
thấy qua cảnh giới bảo tháp trụ ở trong hư không. Do đó, bốn chúng đệ tử
đều từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay lại, lui về một bên, để chờ giải
thích vấn đề nầy.
Bốn chúng đệ tử là: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ.
A. Tỳ kheo : Dịch là "Khất sĩ, bố ma, phá ác", ba ý nghĩa.
1. Khất sĩ : Tức là trên thì xin pháp của chư Phật, để nuôi dưỡng pháp thân,
dưới thì xin cơm của đàn na tín thí, để nuôi dưỡng huệ mạng. Người xin của
thế gian chỉ xin cơm áo, chẳng xin pháp, chẳng phải là khất sĩ. Khất thực có
gì tốt ? Khất thực là cho chúng sinh có cơ hội trồng phước. Chúng sinh cúng
dường Tam Bảo, mới đắc được phước đức. Nếu chẳng cúng dường Tam
Bảo, thì phước đức sẽ cạn mỏng đi. Một số người chẳng hiểu trồng phước
đức, cho nên Tỳ Kheo đi khất thực, khiến cho họ trồng phước đức, sinh tâm
bố thí cúng dường, đây là đối với thí chủ mà nói. Ðối với bổn thân Tỳ Kheo
mà nói, thì có thể diệt trừ tâm tham của mình. Mỗi ngày xin được gì thì ăn
cái đó, tuyệt đối chẳng có tâm phân biệt. Khất thực phải thứ lớp mà khất,
không thể bỏ nghèo tìm giàu, càng không thể bỏ hèn tìm sang, đều xem như
nhau, bình đẳng để cho chúng sinh đến gieo phước điền. Phật giáo chủ
trương bình đẳng, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, đây là
tinh thần bình đẳng.
2. Bố ma : Có người xuất gia tu đạo, thì thiên ma chẳng vui. Tại sao ? Vì
chúng bớt đi một quyến thuộc. Khi vị Tỳ Kheo thọ giới cụ túc, thì có tam sư
thất chứng. Tam sư tức là Ðắc Giới Hòa Thượng, Yết Ma Hòa Thượng, Giáo
Thọ Hòa Thượng. Thất chứng là bảy vị luật sư đến làm chứng minh. Mười
vị đại biểu cho mười phương chư Phật, truyền thọ giới pháp của Phật.
- Lúc đó, Yết Ma Hòa Thượng hỏi giới tử: ‘’Ông đã phát bồ đề tâm chưa’’?
- Giới tử đáp: ‘’Ðã phát bồ đề tâm‘’.
- Lại hỏi: ‘’Có phải là đại trượng phu không‘’?
- Ðáp: ‘’Là đại trượng phu‘’.
Sau khi vấn đáp, thì Ðịa hành dạ xoa truyền báo cho Không hành dạ xoa,
Không hành dạ xoa đem tin nầy về báo cáo cho Ma Vương nói : ‘’Hiện tại ở
nhân gian lại có một chúng sinh xuất gia làm Tỳ Kheo‘’. Nói lời nầy xong,
thì cung điện của ma vương chấn động, ma vương sinh tâm sợ hãi.
3. Phá ác : Tức là phá trừ tất cả phiền não. Phá được phiền não thì bồ đề mới
hiện.
Vì Tỳ kheo có ba nghĩa cho nên không dịch. Thời xưa dịch kinh có năm quy
định không phiên dịch :
1. Bí mật không dịch, như Chú ngữ.
2. Tôn trọng không dịch, như Bát nhã, bồ đề.
3. Thuận cổ không dịch, như A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
4. Ða hàm không dịch, như Tỳ kheo.
5. Thử phương vô bất dịch, như quả Án Ma La.
B. Tỳ kheo ni : Tức là người nữ xuất gia tu đạo, người đã thọ giới cụ túc làm
Tỳ kheo ni, chưa thọ giới cụ túc là Sa di ni. Tỳ kheo ni thọ ba trăm bốn mươi
tám giới điều. Sa di ni thọ mười giới điều. Dì của Ðức Phật là Ba Xà Bà Ðề
phu nhân, là vị Tỳ kheo ni đầu tiên. Vợ của Ðức Phật là Gia Du Ðà La phu
nhân, cũng theo Ba Xà Bà Ðề phu nhân, cùng xuất gia làm Tỳ kheo ni.
C. Cư sĩ nam : Tức là người nam gần gũi Tam Bảo. Phàm là người tại gia tu
đạo thọ Tam quy ngũ giới, gọi là cư sĩ.
D. Cư sĩ nữ : Tức là người nữ gần gũi Tam bảo, hộ trì tam bảo, cúng dường
Tam Bảo, đây là trách nhiệm của cư sĩ tại gia. Bốn thứ cần dùng của người
xuất gia là : Thức ăn uống, y phục, giường mền chiếu gối, thuốc thang, đều
do cư sĩ cúng dường, đây là cơ sở gieo trồng phước đức.
Bấy giờ, có đại Bồ Tát tên là Đại Nhạo Thuyết, biết được chỗ nghi ngờ ở
trong tâm của tất cả thế gian, trời, người, A tu la, bèn bạch đức Phật rằng :
Ðức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì, mà có bảo tháp này từ dưới đất vọt lên, và
ở trong đó lại phát ra âm thanh ?
Lúc đó, có vị đại Bồ Tát, hiệu là Ðại Nhạo Thuyết. Ngài có trí huệ tha tâm
thông, biết được chỗ nghi vấn ở trong tâm của chư Thiên, loài người, và A tu
la .v.v., mới đại biểu bốn chúng đệ tử thỉnh pháp với Ðức Phật, bèn nói rằng:
‘’Ðức Thế Tôn ! Ðây là nhân duyên gì, mà có bảo tháp từ dưới đất vọt lên,
hiện ở trong hư không ? Lại từ ở trong bảo tháp phát ra âm thanh lớn, đây là
đạo lý gì ? Nguyện cầu đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con mà khai thị nhân
duyên nầy‘’.
Bồ Tát là gì ? Nói đủ là Bồ đề tát đỏa. Bồ đề dịch là "giác", Tát đỏa dịch là
"hữu tình", tức là "giác hữu tình", giác ngộ tất cả hữu tình. Lại có thể nói là
hữu tình giác, trong hữu tình có kẻ giác ngộ. Tóm lại, Ngài là bậc khai ngộ ở
trong chúng sinh. Chẳng những là bậc giác ngộ, mà còn hay thực hành Bồ
Tát đạo, chỉ cần có ích lợi đối với chúng sinh, thì Ngài đều đi làm, chẳng
màng là mình như thế nào, chỉ một lòng một dạ độ thoát chúng sinh.
Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói :
‘’Chẳng vì mình cầu an lạc,
Chỉ nguyện chúng sinh được lìa khổ‘’.
Ðây là tinh thần thật là vĩ đại. Ðức Phật Thích Ca ở trong quá khứ hành Bồ
Tát đạo, từng xả bỏ thân mạng một nghìn lần, đại thiên thế giới chẳng có chỗ
nào, mà chẳng phải là nơi xả bỏ thân mạng của Phật trong quá khứ.
Hành Bồ Tát đạo chẳng phải là việc dễ dàng, xem ra rất là giản đơn, song
thực hành rất là khó. Giống như Ngài Xá Lợi Phất, nghe Phật khen ngợi Bồ
Tát hành Bồ Tát đạo, bèn phát tâm hành Bồ Tát đạo. Một ngày nọ, tôn giả
Xá Lợi Phất ra bên ngoài, trên đường đi trong tâm nghĩ : ‘’Bất cứ gặp việc
khó thực hành đến đâu, nhất định phải làm cho thành công, không thể giữa
đường phế bỏ, mình phải học tinh thần xả thân của Phật‘’.
Vọng tưởng đó vừa sinh ra, thì có cảnh giới đến khảo nghiệm. Tôn giả đang
đi bên lề đường, gặp một người nam khóc lóc, thấy rất thương tâm nghĩ
rằng:
- ‘’Người nầy chắc chắn có vấn đề khó khăn, không giải quyết được, mình
hành Bồ Tát đạo nên giúp đỡ mới đúng‘’.
- Bèn hỏi : ‘’Anh bạn ! Tại sao anh khóc‘’ ?
- Anh ta đáp : ‘’Chuyện của tôi khó khăn lắm, chẳng có ai có thể giúp đỡ
giải quyết được đâu.’’
- Tôn giả lại nói : ‘’Tôi có thể giúp đỡ anh, xin anh hãy nói vấn đề của anh‘’.
- Anh ta nói : ‘’Tôi tin rằng Ngài giúp đỡ không được đâu, nói ra cũng vô
ích‘’.
- Tôn giả lại nói : ‘’Bất cứ việc khó đến đâu, tôi cũng sẽ giúp đỡ anh hết
mình, tuyệt đối chẳng nói đùa‘’.
- Anh ta chuyển khóc thành cười nói : ‘’Thật chăng ? Vì mẹ của tôi bệnh
nặng, bác sĩ bảo cần con mắt của người sống, bằng không chẳng có cách gì
chữa lành. Tôi đi các nơi mua con mắt của người sống, song mua chẳng
được, mà tôi xả bỏ chẳng được con mắt của mình. Do đó, bệnh của mẹ tôi
không lành được, cho nên tôi rất bi thương‘’.
Tôn giả Xá Lợi Phất nghe nói, bèn nói với anh ta : ‘’Việc nầy quá giản đơn,
chẳng có gì khó, tôi tặng con mắt của tôi, để anh đem về trị bệnh cho mẹ
anh‘’. Do đó, bèn dùng sức móc con mắt phải ra đưa cho anh ta, anh ta cầm
lấy xem, chẳng khách sáo gì nói : ‘’Tôi cần con mắt trái, đây là con mắt
phải, chẳng dùng được’’. Nói xong, lại ngửi con mắt rồi nói : ‘’Con mắt nầy
hôi quá, mùi rất khó chịu‘’. Bèn vứt con mắt xuống đất, lấy chân chà đạp
lên. Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất tâm ý thất vọng nghĩ : ‘’Bồ Tát đạo thật khó
thực hành. Thôi, ta chẳng hành Bồ Tát đạo nữa, vẫn tu pháp tiểu thừa, làm tự
liễu hán thôi‘’.
Tôn giả Xá Lợi Phất khởi vọng tưởng nầy xong, thì người hóa duyên kia lập
tức đằng thân lên hư không, hiện ra thân người trời, vốn đến để khảo nghiệm
tôn giả Xá Lợi Phất, thực hành Bồ Tát đạo là giả hay là thật ? Tôn giả Xá
Lợi Phất chẳng chịu đựng được sự khảo nghiệm, sinh tâm thối chuyển, con
mắt bên phải của Ngài Xá Lợi Phất lại sinh ra, khôi phục lại như cũ, khiến
cho tôn giả lấy làm kỳ diệu, rõ ràng là con mắt đã móc ra, sao lại ở trong con
mắt của mình. Do đó, có thể biết người hành Bồ Tát đạo, tuyệt đối không thể
thối chuyển .
Tôn giả xá Lợi Phất là người trí huệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn, song
hành Bồ Tát đạo chẳng xong. Do đó, có thể thấy Bồ Tát đạo rất khó thực
hành.
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết : Trong bảo tháp này, có
toàn thân của Như Lai, thuở quá khứ về phương đông, qua vô lượng ngàn
vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi nước tên là Bảo Tịnh. Trong cõi nước đó,
có đức Phật hiệu là Đa Bảo. Đức Phật đó, khi hành Bồ Tát đạo, có phát thệ
nguyện lớn rằng : Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, trong cõi nước mười
phương, nơi nào có nói Kinh Pháp Hoa, thì tháp miếu của ta vì nghe kinh
này, mà vọt lên hiện ra ở trước, để làm chứng minh, khen ngợi nói : Lành
thay !
Lúc đó, đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết : ‘’Ðại Nhạo thuyết
! Trong bảo tháp nầy, có toàn thân xá lợi của Như Lai. Vị Như Lai nầy, ở
trong đời quá khứ, cách đây về phương đông trải qua vô lượng ngàn vạn ức
A Tăng kỳ thế giới, có thế giới dùng bảy báu tạo thành, thanh tịnh chẳng dơ
bẩn, cho nên gọi là thế giới Bảo Tịnh. Trong thế giới đó có một vị Phật, hiệu
là Ða Bảo Như Lai. Khi vị Phật đó tại nhân địa hành Bồ Tát đạo, thì đã từng
phát thệ nguyện lớn : ‘’Nếu tôi thành Phật, sau khi diệt độ, ở trong cõi nước
chư Phật mười phương, chỉ cần nơi nào có Phật diễn nói Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, vì nghe bộ kinh nầy, mà tháp miếu của ta từ dưới đất vọt lên, hiện
ở trước đạo tràng của chư Phật mười phương, làm chứng minh vị Phật đó
nói Kinh Pháp Hoa‘’, lại khen ngợi nói : ‘’Lành thay‘’.
Đức Phật đó thành đạo rồi, khi diệt độ, ở trong đại chúng trời người, bảo các
Tỳ Kheo rằng : Sau khi ta diệt độ, ai muốn cúng dường toàn thân của ta, thì
nên xây một ngôi tháp lớn. Phật sẽ dùng thần thông nguyện lực, khắp nơi
trong mười phương thế giới, nếu chỗ nào có nói Kinh Pháp Hoa, thì bảo tháp
đó đều vọt lên ở trước. Toàn thân ở trong bảo tháp khen ngợi nói : Lành
thay, lành thay !
Ðức Phật Thích Ca lại bảo Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết : ‘’Ðức Ða Bảo Như Lai
đó, sau khi thành Phật, khi muốn vào Niết Bàn, thì ở trong chúng trời người,
nói với tất cả hàng Tỳ Kheo rằng : ‘’Sau khi ta diệt độ, nếu có đệ tử cúng
dường toàn thân của ta, thì nên xây dựng một ngôi tháp lớn. Ðức Ða Bảo
Như Lai dùng thần thông và nguyện lực không thể nghĩ bàn của Ngài, khắp
trong mười phương thế giới, nếu nơi nào có Phật ra đời nói Kinh Pháp Hoa,
thì bảo tháp của Ðức Đa Bảo Như Lai, sẽ từ dưới đất vọt lên, hiện ra ở trước
vị Phật đó. Ðức Ða Bảo Như Lai tuy đã diệt độ rất lâu, song toàn thân của
Ngài vẫn còn ở trong bảo tháp, thọ trời người cúng dường. Lại ở trong tháp
phát ra âm thanh lớn, khen ngợi vị Phật đang nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
rằng : ‘’Tốt lắm, Tốt lắm‘’ !
Đại Nhạo Thuyết ! Nay tháp của đức Đa Bảo Như Lai, vì nghe nói Kinh
Pháp Hoa, nên từ dưới đất vọt lên, khen ngợi nói : Lành thay, lành thay !
Ðức Phật Thích Ca lại nói : ‘’Ðại Nhạo Thuyết ! Hiện tại tháp của đức Ða
Bảo Như Lai, vì nghe Kinh Pháp Hoa, nên từ dưới đất vọt lên, phát ra âm
thanh lớn để khen ngợi : ‘’Hay thay, hay thay‘’ !
Bấy giờ, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nhờ thần lực của Như Lai, nên bạch đức
Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Chúng con xin muốn được thấy thân của đức Phật
đó.
Lúc đó, Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết đại biểu cho đại chúng thỉnh pháp với Ðức
Phật. Vì nhờ thần lực của Như Lai gia trì, cho nên mới có trí huệ như thế để
thưa hỏi. Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết nghe trong bảo tháp khen ngợi đức Phật
Thích Ca, chỉ nghe tiếng chứ chưa thấy người, bèn sinh tâm háo kỳ, nói với
Phật : ‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con đại chúng, đều mong muốn được chiêm
ngưỡng ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp của đức Ða Bảo Như
Lai, cứu kính trang nghiêm như thế nào‘’ ?
Đức Phật bảo đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết : Đức Phật Đa Bảo đó, có nguyện
sâu nặng rằng : Nếu bảo tháp của ta, vì nghe Kinh Pháp Hoa, mà hiện ra ở
trước các đức Phật. Nếu có bốn chúng muốn thấy thân của ta, thì đức Phật
đó, phân thân các đức Phật thuyết pháp trong mười phương thế giới, phải tụ
hết lại một chỗ, sau đó thân của ta mới xuất hiện vậy.
Ðức Phật Thích Ca bảo đại Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết : ‘’Vị Ða Bảo Như Lai
đó, thuở xưa trước khi chưa thành Phật, có phát một lời nguyện sâu nặng
rằng : ‘’Nếu như bảo tháp của ta vì nghe Kinh Pháp Hoa, xuất hiện ở trước
các đức Phật. Nếu bốn chúng muốn thấy thân của ta, thì vị Phật nói Kinh
Pháp Hoa đó, phải tụ hết lại một chỗ, tất cả phân thân của Phật thuyết pháp
trong mười phương (đây là cảnh giới một gốc tán làm vạn thù, vạn thụ lại trở
về một gốc). Khi nào phân thân các vị Phật của vị Phật đó, tụ hết lại một
chỗ, thì sau đó toàn thân của ta mới hiện ra trước bốn chúng‘’.
Đại Nhạo Thuyết ! Phân thân các đức Phật của ta, đang thuyết pháp trong
mười phương thế giới, nay sẽ tụ lại hết.
Ðức Phật Thích Ca lại nói : ‘’Ðại Nhạo Thuyết ! Phân thân các đức Phật của
ta đang thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh trong mười phương thế giới, hiện
nay sẽ tụ tập lại, để cùng chiêm ngưỡng thân của đức Ða Bảo Như Lai. Như
thế thì Ða Bảo Như Lai mới hiện toàn thân‘’.
Đại Nhạo Thuyết bạch đức Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Chúng con cũng
muốn thấy, phân thân các đức Phật của đức Thế Tôn, để lễ lạy cúng dường.
Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết bạch với đức Phật Thích Ca Mâu Ni rằng : ‘’Ðức
Thế Tôn ! Chúng con chẳng những muốn thấy toàn thân của đức Ða Bảo
Như Lai, mà còn muốn thấy phân thân các đức Phật của đức Thế Tôn, để
thừa cơ hội nầy lễ lạy các đức Phật, cúng dường các Ðức Phật‘’.
Có người nói : ‘’Lạy Phật là mê tín, tượng Phật làm bằng gỗ, đất, đá, hoặc
dùng vàng, bạc, đồng, thiết, để tạo, lạy Ngài có ích gì ? Ðó chẳng phải là mê
tín chăng‘’ ? Ðây chẳng phải là mê tín, lạy Phật có công dụng trị liệu bằng
tâm lý, hay tiêu trừ tâm cống cao ngã mạn, hay sinh tâm nhu hòa, sinh tâm
cung kính, cải biến tính cang cường thành tính hòa mục. Lạy Phật còn có
công dụng trị bệnh sinh lý, lại hay khiến cho bụng nhỏ lại, khiến cho người
chẳng có chứng huyết áp cao.
Trước kia, Phật chưa thành Phật, cũng lễ lạy các vị Phật khác. Cho nên, sau
khi thành Phật, thì có người lạy Ngài lại. Như đức Phật trong quá khứ làm
Bồ Tát Thường Bất Khinh, thấy người thì lễ lạy, còn nói : ‘’Tôi không dám
khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật‘’. Do đó, sau khi đức Phật thành Phật,
thì có rất nhiều người lễ lạy Ngài. Trừ khi có người chẳng muốn thành Phật,
đó thì chẳng cần nói đến. Nếu muốn làm Phật, thì nhất định phải lạy Phật, đo
đó có câu :
"Phật tiền đảnh lễ, tội diệt hà sa".
Nghĩa là :
‘’Ðảnh lễ ở trước Phật,
Diệt được vô lượng tội‘’.
Lạy Phật sẽ tiêu diệt được tội nghiệp vô lượng kiếp, công đức lễ Phật tiêu
diệt được trọng tội sinh tử. Lạy Phật là lạy tự tánh Phật, tương lai sẽ thành
Phật, cũng thành tự tánh Phật.
Cúng dường là gì ? Phật giáo quang trọng nhất là cúng dường, cúng dường
Tam Bảo, dùng hương, hoa, quả, đèn, để cúng dường Phật; dùng sự khen
ngợi, cung kính, thọ trì, tu hành, để cúng dường pháp; dùng ẩm thực, y phục,
giường nệm, thuốc men, để cúng dường Tăng. Tại sao phải cúng dường Tam
Bảo ? Vì cầu cát tường, mọi sự thuận lợi. Tại sao bạn chẳng có y phục tốt
mặc ? Chẳng có nhà tốt để ở ? Chẳng có vật ngon ăn ? Ðều vì trong quá khứ
bạn chẳng cúng dường Tam Bảo. Bạn thấy người thế gian giàu sang, vì họ
đã từng cúng dường Tam Bảo, cho nên đời nầy được phước báu lớn. Bài văn
khuyên đời nhân quả ba đời có nói rất rõ là :
‘’Ðời nầy giàu sang là nhân gì ?
- Ðời trước bỏ tiền làm tượng Phật vàng.
Đời nầy nghèo khổ là nhân gì ?
- Kiếp trước chẳng chịu giúp người nghèo.
Đời nầy sống lâu là nhân gì ?
- Ðời trước giữ giới sát, thường phóng sinh.
Ðời nầy chết yểu là nhân gì ?
- Ðời trước giết hại chúng sinh linh.
Ðời nầy xinh đẹp là nhân gì ?
- Kiếp trước mua hương hoa đèn cúng Phật.
Ðời nầy xấu xí là nhân gì ?
- Kiếp trước làm nhơ uế thân Phật‘’.
Tam Bảo là ruộng phước tốt của thế gian, tức cũng là ruộng trồng phước,
chẳng cúng dường Tam Bảo, thì chẳng có cơ hội trồng phước điền, đời sau
cũng chẳng đắc được phước báu.
Bấy giờ, đức Phật phóng luồng hào quang trắng chiếu phương đông, năm
trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa cõi nước chư Phật, các cõi nước đó, đều
dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu, dùng để trang nghiêm. Có vô số ngàn
vạn ức Bồ Tát đầy khắp trong cõi nước đó, màng báu lưới báu giăng che
khắp ở phía trên.
Lúc đó, ở giữa chặng mày của Ðức Phật Thích Ca, phóng ra một luồng hào
quang trắng (Tướng hào quang trắng biểu thị một thừa trung đạo), lập tức
chiếu thấy phương đông năm trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa số cõi nước
chư Phật, các cõi nước đó, đều dùng pha lê làm đất, chẳng giống như thế
giới Ta Bà, dùng ngói đá làm đất. Ðức Phật dùng sức thần thông ba lần biến
thế giới Ta Bà dùng pha lê làm đất. Pha lê biểu thị cho trí huệ quang minh.
Ta Bà dịch là "kham nhẫn". Chúng sinh ở thế giới nầy, hay kham thọ nhẫn
nại mọi sự khổ, lấy khổ làm vui, chẳng biết thoát khỏi biển khổ.
Lại có cây báu, và y báu, để làm trang sức. Cây báu hay khiến cho chúng
sinh đắc được mát mẻ, lìa khỏi nóng bứt. Y báu hay khiến cho chúng sinh
tính tình ôn nhu, chẳng có lửa vô minh. Lại có vô số ngàn vạn ức Bồ Tát,
đầy dẫy trong cõi nước đó, màn báu và lưới báu giăng che khắp ở trên, dùng
để trang nghiêm.
Các đức Phật cõi nước đó, dùng âm thanh lớn vi diệu để nói các pháp, và
thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ Tát, đầy khắp các cõi nước, vì chúng sinh mà
nói pháp.
Phương nam tây bắc tứ duy thượng hạ, chỗ nào tướng hào quang trắng chiếu
đến, cũng lại như thế.
Chư Phật các cõi nước phương đông, dùng âm thanh lớn vi diệu, để nói pháp
thật tướng. Và còn thấy vô lượng nghìn vạn ức Bồ Tát, đầy khắp tất cả các
cõi nước vì chúng sinh mà thuyết pháp. Chẳng những phương đông như thế,
mà chín phương kia cũng giống như thế. Phàm là nơi nào, luồng hào quang
trắng của đức Phật Thích Ca chiếu đến, đều như thế. Cảnh giới không thể
nghĩ bàn đó, chẳng phải một số phàm phu tưởng tượng đến được.
Ðức Phật phóng luồng hào quang trắng, tại sao trước hết chiếu phương đông
? Vì phương đông là phương bắt đầu tất cả, phương đông là Giáp ất mộc, là
bắt đầu của Thiên can, phương đông thuộc về mùa xuân, là bắt đầu của bốn
mùa, mặt trời mọc phương đông, là bắt đầu của một ngày, cho nên luồng hào
quang trắng trước hết chiếu phương đông, sau đó mới chiếu chín phương
kia.
Bấy giờ, mười phương chư Phật đều nói với chúng Bồ Tát rằng : Thiện nam
tử ! Hôm nay ta đến thế giới Ta Bà, chỗ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và
cúng dường bảo tháp của đức Đa Bảo Như Lai.
Lúc đó, mười phương chư Phật (Phân thân hóa Phật của Phật Thích Ca), đều
đối với Bồ Tát nước của mình rằng : ‘’Thiện nam tử ! Bây giờ ta đến thế
giới Ta Bà, đến đạo tràng của Phật Thích Ca, và cúng dường Bảo Tháp xá
lợi của đức Ða Bảo Như Lai‘’.
Bấy giờ, thế giới Ta Bà lập tức biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây
báu trang nghiêm, dây bằng vàng giăng bày tám ngã đường, chẳng có các tụ
lạc thôn xóm, thành ấp biển cả sông ngòi núi rừng ao đầm. Ðốt hương báu
lớn, dùng hoa mạn đà la rải khắp trên mặt đất, lại dùng lưới báu và màn lụa
giăng che, phía trên treo các linh báu, chỉ vang ra ở trong chúng hội. Dời các
trời người để ở cõi khác.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca dùng sức đại thần thông khiến cho đời ác năm
trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng
trược), biến thành thế giới thanh tịnh. Dùng lưu ly làm đất, cây báu trang
nghiêm, dùng vàng ròng làm dây giăng chia tám đường, đại biểu cho bát
chánh đạo. Chẳng có biển cả, sông ngòi, núi rừng ao đầm, đất bằng phẳng
như lòng bàn tay, thanh tịnh như tấm gương. Lại đốt hương báu lớn (hương
công đức). Dùng hoa mạn đà la rải khắp trên mặt đất (làm thảm, đại biểu cho
sự cung kính). Lại dùng lưới báu và màn lụa báu giăng che phía trên. Lại
treo các thứ linh báu, đại biểu cho âm nhạc, gió thổi linh báu thì vang ra âm
nhạc hoan nghênh, chỉ vang ra ở trong đại chúng hội Pháp Hoa. Chư Thiên
và loài người đều rời đi đến nước khác.
Ðây là lần đầu biến cảnh giới đất đai. Tại sao phải như thế ? Vì hoan nghênh
phân thân các hóa Phật của Phật Thích Ca và Ðức Phật Ða Bảo, cho nên
phải trang nghiêm. Bây giờ xin đưa ra một ví dụ dễ hiểu, giống như có người
thỉnh mời khách quý, thì chắc chắn đồ không sạch sẽ ở trong nhà phải dọn
đi, quét dọn sạch sẽ, sau đó rưới nước hoa, khiến cho phòng ốc phảng phất
hương thơm, làm cho khách quý thoải mái vui vẻ.
Bấy giờ, các đức Phật, mỗi vị đều đem theo một vị đại Bồ Tát, dùng làm thị
giả, đến thế giới Ta Bà, đều đến dưới cây báu. Mỗi cây báu cao năm trăm do
tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm. Dưới các cây báu, đều có toà sư
tử cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu để nghiêm sức.
Lúc đó, các phân thân hóa Phật của đức Phật Thích Ca, mỗi vị Phật đều
mang theo một vị đại Bồ Tát để làm thị giả, cùng nhau đến thế giới Ta Bà, ai
nấy đều đến dưới cội bồ đề. Mỗi cây bồ đề cao khoảng năm trăm do tuần,
cành lá và hoa quả của cây bồ đề rất sum sê, thứ lớp trang nghiêm, trông
nhìn rất đẹp .
Dưới mỗi cây bồ đề đều có tòa sư tử, cao khoảng năm do tuần, dùng bảy báu
để nghiêm sức, đó là biểu thị sự thành tâm hoan nghênh khách quý.
Có người hỏi : ‘’Tạo sao gọi là tòa sư tử‘’? Vì đó là tòa thuyét pháp của chư
Phật. Vì chư Phật thuyết pháp có uy đức giống như sư tử hống, khiến cho
thiên ma ngoại đạo kinh hãi, chẳng dám nổi gió nổi sóng, có tác dụng điều
phục. Sư tử là vua các loài thú, khi nó hống thì các loài thú nghe đều sợ hãi.
Ngài Vĩnh Gia từng nói :
‘’Sư tử hống, vô úy thuyết.
Bách thú văn chi giai não liệt,
Hương tượng bôn ba thất cước uy,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt’’.
Nghĩa là:
Thuyết pháp không sợ hãi như sư tử hống
Trăm thú nghe tiếng đều kinh sợ
Voi lớn bỏ chạy mất oai nghi
Trời rồng nghe được sinh vui mừng.
Vì quan hệ như vậy cho nên gọi là tòa sư tử.
Bấy giờ, các đức Phật đều ngồi kiết già trên tòa sư tử đó, triển chuyển như
thế đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, mà phân thân của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni trong một phương, vẫn còn chưa hết.
Lúc đó, mười phương chư Phật đều ngồi kiết già trên tòa sư tử. Từng vị
Phật, từng vị Phật, ngồi từng hàng từng hàng, đã đầy khắp ba ngàn đại thiên
thế giới, song phân thân hóa Phật ở phương đông, vẫn chưa ngồi lên tòa hết,
huống chi các đức Phật ở chín phương kia ?
Có người hỏi : ‘’Ngồi kiết già là gì‘’? Bạn hãy xem tư thế ngồi của Phật,
trước hết đem chân trái để lên đùi chân phải, rồi đem chân phải để lên đùi
chân trái, đó gọi là ngồi kiết già. Còn có ngồi bán già, tức là tùy ý đem chân
phải để lên đùi chân trái. Ngồi kiết già gọi là kim cang toạ, đây là tư thế ngồi
hàng ma. Người ngồi thiền nên ngồi kiết già, dễ nhập định. Ngồi như thế hay
hàng phục được tâm, khiến cho chẳng tán loạn, tinh thần tập trung, chẳng
sinh vọng tưởng.
Tại sao chúng ta không khai ngộ ? Vì vọng tưởng lăn xăn, tâm viên ý mã
chẳng buộc được, theo đuổi bên ngoài. Khi đức Phật chứng đạo dưới cội bồ
đề, thì Ngài nói câu đầu tiên rằng : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Lành thay !
Chúng sinh trong đại địa, ai cũng đều có đủ đức tướng của Như Lai, song vì
vọng tưởng chấp trước, nên không chứng đắc‘’. Tham thiền tức là khắc kỳ
cầu chứng, tham thoại đầu là khống chế vọng tưởng, do đó đủ biết, vọng
tưởng là đá cột chân của sự tu đạo.
Phật giáo trung Quốc có câu rằng :
‘’Kim Sơn thối tử, Cao Mân hương‘’.
Người ngồi thiền ở Trấn Giang Kim Sơn Tự chẳng được đổi chân, bất cứ
chân đau như thế nào, vẫn cắn răng chịu đựng, nếu nhúc nhích thì sẽ bị đánh
hương bản. Lâu dần thì chân sẽ hết đau, do đó có câu :
‘’Kim Sơn thiền hòa tử,
Thối tối thủ quy cụ‘’.
Nghĩa là :
Người ngồi thiền ở chùa Kim Sơn
Giữ quy cụ bậc nhất về chân.
Người ngồi thiền ở Chùa Cao Mân tại Dương Châu, thì giữ quy cụ bậc nhất
về thời gian. Dùng cây nhang làm quy định thời gian ngồi, khi nào chỉ tĩnh
thì chỉ tĩnh, khi nào khai tĩnh thì khai tĩnh, một giây cũng không sai, cho nên
gọi là "Cao Mân hương". Phàm là người đã từng tham thiền, đả tọa ở hai
chùa trên, thì đều đã trải qua lò đúc luyện ra kim cang. Hòa Thượng Hư Vân
tham thiền ở Chùa Cao Mân mà khai ngộ.
Công đức ngồi kiết già hay sinh giới lực, định lực và huệ lực, đầy đủ ba lực.
Hết thảy Thần Kim Cang hộ pháp đều đến bảo hộ bạn, tất cả thiên ma biết
đều lìa xa bạn. Hết thảy ác ma hướng về bạn mà đảnh lễ. Nay xin kể câu
chuyện.
Xưa kia có vị hòa thượng, chuyên đi tụng kinh đám ma, để duy trì sự sống,
cho nên gọi là Cản Kinh Sám (sống nhờ kinh sám). Một ngày nọ, sau khi độ
đám xong thì vào lúc nửa đêm, vị hòa thượng trở về chùa, đi đến bờ sông thì
trời đổ mưa, ông ta núp dưới cầu. Trong khi đợi tạnh mưa thì ngồi kiết già.
Lúc đó, có hai con quỷ đến, thấy ông ta là tháp vàng, vì trong tháp có an trí
Phật xá lợi mới đảnh lễ lạy, chẳng bao lâu, vị hòa thượng cảm thấy chân
đau, mới bỏ chân xuống ngồi bán già. Hai con quỷ ngước đầu nhìn, thì thấy
tháp vàng biến thành tháp bạc, song hai con quỷ vẫn lạy. Chưa được bao lâu
thì vị hòa thượng cảm thấy chân quá đau, chịu hết nổi, bèn đổi thành ngồi
theo ý muốn (duỗi chân ra). Hai con quỷ nhìn lên thì thấy tháp bạc đã biến
thành đống bùn. Hai con quỷ nổi giận muốn đá đống bùn. Vị Hòa Thượng
thấy như vậy, lập tức ngồi lại kiết già. Hai con quỷ nhìn lên lại thấy tháp
vàng, bèn lạy cho đến gà gáy rồi bỏ đi. Từ đó về sau, Hòa Thượng bỏ việc
tụng kinh đám, chuyên tâm tu thiền, chẳng bao lâu được khai ngộ, tự xưng là
‘’Quỷ Bức Thiền Sư‘’.
Khi tôi ở tại Ðông Bắc bên Tàu, có vị ngoại đạo tên là Quan Trung Hỉ. Lúc
đó, anh ta có hơn ba ngàn đệ tử theo anh ta học đạo. Học đạo gì ? Chỉ cần
dùng tiền mua bảo bối của anh ta, khi đến lúc gặp đại nạn thì có thể chuyển
hung hóa cát. Mọi người đều tin anh ta chẳng hoài nghi gì cả, ngoại đạo có
thứ pháp thuật gạt người như thế.
Kỳ thật, anh ta chẳng có bảo bối gì hết, chỉ là trò chơi đùa, song những kẻ
ngu tin cho là thật, rất sùng bái anh ta. Anh ta nói với đệ tử : ‘’Bây giờ thời
cơ chưa đến, không thể đem bảo bối đưa cho các con, đến khi nào thế giới
đại loạn, thì mới đưa bảo bối cho các con sử dụng, có thể sẽ không chết, qua
khỏi tai nạn‘’.
Về sau, anh ta cảm thấy thời kỳ chết sắp đến, không thể gạt người được nữa,
bèn dẫn người cháu bỏ đi tìm thầy học đạo. Trải qua ba năm cũng chẳng tìm
được thiện tri thức, cũng chẳng học được chân đạo. Do đó, hằng ngày lo
buồn rũ rượi, chẳng biết thế nào là tốt.
Một ngày nọ, tôi đến nhà của anh ta (lúc đó tôi còn là Sa di). Người cháu khi
nhìn thấy tôi, thì bèn nói với anh ta rằng : Thúc thúc ! Vị Hoà thượng nầy,
con đã gặp qua ở trong mộng, vị nầy lột da heo ở trên thân của con xuống,
làm cho con sợ mà tỉnh dậy. Nguyên lai là một giấc mộng‘’. Anh ta nói với
người cháu : ‘’Vị đó là người có đức hạnh, hôm nay đạo đã vào cửa, chúng
ta không thể bỏ qua‘’. Do đó, chú cháu hai người thương lượng rồi lập tức
quỳ xuống trước mặt tôi cầu đạo. Lúc đó, tôi nói với họ : ‘’Tôi chẳng có đạo
để truyền cho các vị. Nếu các vị thật tâm cầu đạo, thì tôi giới thiệu vị thiện
tri thức và tôi đưa các vị đi‘’.
Trải qua hai năm, đi học hỏi mấy vị thiện tri thức đều chẳng lý tưởng. Do
đó, hai người trở về lạy tôi làm thầy, tôi thấy họ thành tâm mà cảm động,
đáp ứng truyền thọ tư thế ngồi kiết già, song chẳng nhận làm đệ tử.
Chú cháu hai người tinh tấn tập ngồi kiết già. Người cháu trẻ tuổi tập rất
mau, song người chú lớn tuổi xương cứng phải một phen khổ công phu. Bảy
mươi ngày sau, tôi lại đến nhà anh ta, thấy đầu gối của anh ta sưng to lên, đi
đứng bất tiện, mới khuyên anh ta bỏ ngồi kiết gia đi. Anh ta kiên quyết nói :
‘’Con sắp chết đến nơi, nếu không luyện, đến khi chết, tay chân loạn sạ thì
làm sao ? Con nhất định quyết tâm, trừ khi chết đi thi thôi, chỉ cần không
chết thì nhất định luyện ngồi kiết già‘’. Thành tâm cầu đạo như thế, khiến
cho người bội phục.
Trăm ngày sau, tôi lại đến anh ta, thấy anh ta đi đứng như thường, tôi lấy
làm lạ hỏi : ‘’Anh không luyện ngồi kiết già chăng‘’? Anh ta đáp : ‘’Mỗi
ngày đều ngồi, chẳng những sáng sớm ngồi, mà tối cũng ngồi, bất luận là
ngồi bao lâu cũng chẳng cảm thấy đau chân.’’ Do đó:
‘’Người có chí, việc sẽ thành‘’.
Vài ngày trước khi anh ta qua đời, bèn nói với mọi người : ‘’Vào ngày đó,
giờ đó, tôi phải đi, tất cả mọi việc trong nhà chẳng quái ngại. Chỉ có một
điều là không thể gặp được pháp sư An Từ (pháp danh của hoà thượng
Tuyên Hoá), rất đáng tiếc‘’.
Ðến ngày anh ta ra đi, anh ta tắm rửa sạch sẽ, ngồi kiết già, chẳng bệnh tật gì
mà qua đời. Ngày anh ta chết, nhiều người trong thôn nằm mộng, thấy anh ta
theo hai vị đồng tử mặc y màu xanh đi về hướng tây, về sau cháu của anh ta
theo tôi học đạo, là đệ tử đầu tiên của tôi.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca vì muốn dung chứa hết thảy phân thân các hóa
Phật, nên tám phương kia, mỗi phương đều biến ra hai trăm vạn ức Na do
tha cõi nước, thảy đều thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngã quỷ súc sinh và A
tu la, lại dời các trời người để ở cõi khác.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca thấy chư Phật đã ngồi đầy trong ba ngàn đại
thiên thế giới, mà phân thân hóa Phật ở phương đông chẳng còn tòa để ngồi.
Vì dung chứa phân thân hóa Phật ở tám phương kia đều có tòa ngồi, nên mới
vận dụng sức đại thần thông, tám phương mỗi phương biến ra hai trăm vạn
ức Na do tha cõi nước, đều khiến cho thanh tịnh, trong các cõi nước đó,
chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A tu la. Và dời các hàng trời người
để ở cõi khác .
Ðây cũng giống như mời khách dự yến tiệc, sau khi trong nhà ngoài nhà thu
dọn sạch sẽ rồi, lại đem chó mèo .v.v., gia súc để vào một phòng, tránh sự
phá hoại phiền toái. Ý nghĩa cũng gần giống nhau.
Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang
nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả, thứ lớp trang nghiêm,
dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, đủ các thứ báu dùng làm
nghiêm sức.
Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, và có cây bồ đề để
trang nghiêm cõi nước. Cây cao khoảng năm trăm do tuần, cành lá hoa quả
đều thứ lớp trang nghiêm. Dưới cội bồ đề có tòa báu sư tử, cao năm do tuần,
đều dùng bảy báu để trang sức tòa báu, khiến cho đẹp đẽ.
Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Ðại mục chân
lân đà, núi Thiết vi, núi Ðại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa .v.v... thảy đều
làm một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các báu xen nhau làm màn
giăng che khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu lớn. Các
hoa báu cõi trời rải khắp trên mặt đất.
Những cõi nước biến hóa ra cũng chẳng có biển cả, sông ngòi, núi đá, núi đá
lớn, núi thiết vi (núi chu vi bốn đại châu), núi đại thiết vi (núi chu vi đại
thiên thế giới), núi tu di (núi diệu cao), các núi chúa .v.v. Những sự biến hóa
trong cõi nước, đều làm thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, các thứ báu
xen nhau làm thành màn giăng che phủ khắp ở phía trên. Lại treo các phan
báu và lọng báu. Ðốt hương báu lớn, chư Thiên rải các thứ hoa báu đầy khắp
mặt đất, rất trang nghiêm đẹp đẽ, đây là cảnh giới kế tiếp biến cõi nước.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các đức Phật phân thân có chỗ ngồi, nên tám
phương kia, mỗi phương lại biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy
đều khiến cho thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngạ quỷ súc sinh và A tu la. Lại
dời các trời người để ở cõi khác.
Ðức Phật Thích Ca Mau Ni, vì khiến cho phân thân hóa Phật trong mười
phương có chỗ ngồi, nên tám phương kia, mỗi phương lại biến ra hai trăm
vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều khiến cho thanh tịnh. Chẳng có các địa
ngục ngạ quỷ súc sinh, càng chẳng có A tu la. A tu la thích đấu tranh, khiến
cho thế giới chẳng bình an, giống như ngựa hại bầy, nhiễu loạn khắp nơi.
Lại dời các người trên trời và người ở nhân gian đến cõi nước khác. Tại sao
? Vì biến cõi đời ác năm trược thành cõi nước thanh tịnh, do đó chuyển họ
đến cõi nước khác.
Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang
nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm.
Dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu
nghiêm sức tốt đẹp.
Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, lại có cây báu trang
nghiêm, cây bồ đề cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả rất sum sê, đều thứ
lớp trang nghiêm đẹp đẽ. Dưới mỗi cây báu, đều có tòa báu sư tử, tòa cao
cũng năm do tuần, đều dùng các thứ báu nghiêm sức rất đẹp đẽ.
Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Ðại mục chân
lân đà, núi Thiết vi, núi Ðại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa thảy, thông làm
một cõi nước Phật. Ðất báu bằng phẳng, các thứ báu xen nhau làm thành
màn, giăng che phủ khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu
lớn, các thứ hoa báu cõi trời rải đầy khắp mặt đất.
Những cõi nước biến hóa ra cũng chẳng có biển cả, sông ngòi, núi đá, núi đá
lớn, núi thiết vi, núi thiết vi lớn, núi tu di, các núi chúa thảy. Cõi nước biến
hóa ra thông làm thành một cõi nước Phật. Ðất báu rất bằng phẳng, chẳng có
chỗ lồi lõm. Các thứ báu xen nhau thành màn báu, giăng che khắp ở phía
trên. Lại treo các phan báu và lọng báu, đốt hương báu lớn, xa gần đều ngửi
được mùi thơm đó. Các thứ hoa quý cõi trời rải khắp trên mặt đất. Cảnh giới
như thế diệu không thể tả, đây là cảnh giới biến cõi nước lần thứ ba.
Phẩm nầy nói về ba lần biến hóa cõi nước, rốt ráo là ý nghĩa gì ? Ðức Phật
Thích Ca dùng thần thông biến cõi ô uế thành cõi thanh tịnh. Ban đầu biến
thế giới Ta Bà, thứ nhì biến tám phương kia, mỗi phương làm thành hai trăm
vạn ức Na do tha cõi nước, lần thứ ba lại biến tám phương, mỗi phương làm
hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, đều khiến cho thanh tịnh, thành cõi tịnh
độ. Tại sao phải như thế ? Vì đón tiếp đức Ða Bảo Như Lai, và các phân
thân hóa Phật của Phật Thích Ca trong mười phương, cho nên đại sự đều
trang nghiêm, biểu thị sự nhiệt liệt hoan nghênh.
Ba lần biến cõi nước lại có ý nghĩa gì ? Lần đầu biến cõi nước là biểu thị
đoạn trừ kiến tư (thấy, nghĩ) hai hoặc. Kiến hoặc là gì ? Tức là kiến giải mê
hoặc, rất là lợi hại, hại người không ít, vì nó mà không được giải thoát, đời
đời kiếp kiếp lưu chuyển ở trong luân hồi sinh tử. Học Phật pháp tức là học
pháp đoạn hoặc, tóm lại tức là học trí huệ. Trí huệ hướng về đâu để cầu ? Có
câu rằng: ‘’Thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải‘’. Nghiên cứu kinh điển là
pháp môn tu của người học Phật pháp.
Tư hoặc là gì ? Tức là tư tưởng mê hoặc. Nói tỉ mỉ thì kiến hoặc là đối cảnh
khởi tham ái, thấy tiền tài thì sinh tâm tham, thấy sắc thì khởi thương yêu.
Nếu đoạn được kiến hoặc, thì bất cứ gặp cảnh giới gì, cũng chẳng động tâm.
Tư hoặc là mê lý khởi phân biệt, đối với đạo lý chẳng minh bạch, khởi lên
tâm phân biệt.
Lần thứ hai biến cõi nước, là biểu thị đoạn trừ trần sa hoặc. Trần là vi trần
(hạt bụi), sa là cát sông Hằng. Trong ruộng tám thức có nhiều trần sa hoặc.
Nếu không đoạn hết, thì vẫn bị chuyển ở trong sự có và không. Trần sa hoặc
tuy nhiên rất nhiều, song chính mình chẳng biết. Ví như trong phòng sạch sẽ,
trước mắt nhìn thấy giống như chẳng có bụi bặm gì, song ánh sáng mặt trời
chiếu vào phòng, thì phát hiện có vô số hạt bụi bay đi bay lại ở trong hư
không, lúc lên lúc xuống. Có ánh sáng mặt trời mới thấy được hạt bụi, chẳng
có ánh sáng mặt trời, thì chẳng thấy hạt bụi. Ánh sáng mặt trời tức là trí huệ,
hạt bụi tức là vọng tưởng. Có trí huệ thì mới phát hiện mình có vọng tưởng.
A La Hán đã đoạn sạch kiến, tư hai hoặc, vẫn chưa đoạn sạch trần sa hoặc.
Bồ Tát đã đoạn trần sa hoặc, nhưng vẫn chưa đoạn sạch vô minh hoặc. Kiến
tư hoặc là thô hoặc, trần sa hoặc là tế hoặc. Thô hoặc dễ đoạn, tế hoặc chẳng
dễ gì đoạn sạch. Do đó, có câu : ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo‘’.
Lần thứ ba biến cõi nước là biểu thị đoạn trừ vô minh hoặc, do đó: ‘’Phá vô
minh thấy pháp tánh‘’. Vô minh tức là chẳng minh bạch. Chẳng minh bạch
Phật pháp, chẳng rõ sự lý, tức là vô minh. Có vô minh thì có sinh tử, đoạn vô
minh thì dứt sinh tử. Chứng đến bậc Ðẳng Giác Bồ Tát, vẫn còn một phần
sinh tướng vô minh chưa phá (biến dịch sinh tử). Nếu phá được một phần vô
minh cuối cùng, thì chứng quả vị Phật.
Kiến, tư hoặc tức là trần sa hoặc, trợ giúp nó chẳng minh bạch. Trần sa hoặc
là vô minh trợ giúp nó sinh ra, còn vô minh ai giúp nó sinh ra ? Tức là ngu
si. Vô minh hoặc là vi tế hoặc, khó đoạn sạch nhất.
Ðại ý Ðức Phật Thích Ca ba lần biến cõi nước, là khiến cho chúng ta đoạn
trừ ba hoặc. Có ba hoặc thì không thể chứng quả vị Phật, đoạn sạch ba hoặc
liền chứng quả vị Phật. Ðạo lý nầy rất giản đơn, ai ai cũng đều rõ, song
chẳng ai thực hành, Phật cũng chẳng biết làm gì hơn ! Than thở nói :
‘’Chúng sinh khó độ, chẳng biết hồi đầu‘’. Ở trong Phật giáo thường nói :
‘’Biển khổ mênh mông,
Quay đầu thì thấy bờ ‘’.
Chỉ cần quay đầu lại, thì đến bờ bên kia Niết Bàn, đắc được thường lạc ngã
tịnh vui sướng thật sự. Song đáng tiếc cho chúng sinh, nhận giả làm thật,
tham vui năm dục, chẳng biết đó là năm sợi dây thừng, trói buộc chẳng có
ngày ra khỏi.
Ba lần biến cõi nước còn có ý nghĩa dùng tám lìa bỏ (tám giải thoát), tám
thắng sứ, mười nhất thiết xứ, ba pháp, làm thiền định xa lìa tham ái ba cõi.
Còn gọi là tam muội, còn gọi là ba cửa ải tham thiền.
Tám lìa bỏ là gì ? Lìa là xa lìa, bỏ là vứt bỏ. Xa lìa cảnh giới sáu trần (sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp). Xả bỏ hưởng thụ năm dục (tài, sắc, danh, thực,
thùy). Tám giải thoát là :
1. Bên trong có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài giải thoát : Bên trong có sắc
tưởng về ái tình, bên ngoài thấy sắc đẹp thì mê hoặc. Nếu tâm chẳng có thứ
tư tưởng nầy, thì bên ngoài bất cứ có sắc đẹp gì, cũng không thể bị ảnh
hưởng, tâm chẳng bị cảnh giới lay chuyển. Gặp con trai đẹp, hoặc con gái
xinh, phải quán bất tịnh thì tư nhiên được giải thoát.
2. Bên trong không có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài giải thoát : Trong tâm
chẳng có sắc tưởng, quán sát sắc tướng bên ngoài, thảy đều là vật không
sạch, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Thường quán tưởng như thế,
chẳng điên đảo, chẳng chấp trước, thì sẽ đắc được giải thoát.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ : Ở trong định quán tưởng diệu
sắc quang minh, được như như bất động, liễu liễu thường minh, ở trong thân
đầy đủ viên mãn mà trụ ở trong không. Ðó là tịnh quán, ở trên là quán bất
tịnh.
4. Không vô biên xứ giải thoát : Nhàm chán sắc thân mà tu quán không, đắc
được không định, song không cũng phải giải thoát, nếu không thì vẫn có
chướng ngại về không, không thể giải thoát.
5. Thức vô biên xứ giải thoát : Lúc đó, cho đến không cũng nhàm lìa, lưu lại
thức A lại gia, tiêu diệt hết sáu thức trước, chẳng khởi tác dụng. Chỉ có thức
thứ bảy phan duyên vi tế, song chẳng khởi đại tác dụng, cho nên thức cũng
phải giải thoát .
6. Vô sở hữu xứ giải thoát : Hàng phục được thức thứ bảy rồi, chỉ còn lại
thức thứ tám, chẳng khởi hiện hành. Lúc đó, không cũng chẳng có, thức
cũng chẳng có, cái ta (ngã) cũng chẳng có. Song, trong tâm vẫn còn pháp
tưởng vô sở hữu, cho nên cũng phải giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát : Dùng định lực khống chế thức thứ
tám, giống như đã hết, cho nên là phi tưởng. Ðịnh lực sảo di, thức thứ tám
tựa như còn, cho nên là phi phi tưởng. Tưởng thô phải giải thoát, tưởng tế
cũng phải giải thoát, đó mới là thật giải thoát.
8. Diệt thọ tưởng định, thân tác chứng cụ túc trụ giải thoát : Tức là khiến cho
tâm sở thọ và tâm sở tưởng, hai pháp đều diệt mà chẳng khởi, đây đã diệt thọ
tưởng định. Nếu có diệt thọ tưởng thì vẫn không giải thoát, vẫn còn chướng
ngại. Nếu có sự chấp trước, thì không thể giải thoát được. Tóm lại, tri kiến
đều phải giải thoát, nếu không thì chẳng được giải thoát.
Tám thắng xứ là gì ? Thắng là thắng tri thắng kiến.
- Thắng tri : Phàm là sự biết đều chánh quyết.
- Thắng kiến : Phàm là sự thấy đều là đúng. Thắng tri thắng kiến nầy, với tri
kiến của thế gian chẳng giống nhau. Nếu minh bạch được đạo lý tám giải
thoát, và tám thắng xứ, thì chẳng bị cảnh giới bên ngoài làm mê hoặc, không
làm việc điên đảo. Tám thắng xứ nầy, là quán sát tử thi người chết, có các
hiện tượng bất đồng, sau đó mới chứng nhập được cảnh giới thù thắng.
Tám thắng xứ là:
1. Bên trong có các sắc tưởng, quán sắc bên ngoài ít thắng xứ.
2. Bên trong có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài nhiều thắng xứ.
3. Bên trong chẳng có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài ít thắng xứ.
4. Bên trong chẳng có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài nhiều thắng xứ. Ý
nghĩa những thắng xứ và tám giải thoát gần giống nhau. Vì chẳng có định
lực mà quán nhiều, thì e rằng định lực tán, cho nên phải quán ít thắng xứ.
Khi nào có định lực thì hãy quán nhiều thắng xứ. Quán cái gì ? Phải tu chín
quán tưởng.
Chín quán tưởng là gì ?
A. Tưởng sình : Tử thi sình lên.
B. Tưởng xanh ứ : Tử thi bị nắng gió biến thành màu xanh ứ.
C. Tưởng hoại : Tử thi tan rã.
D. Tưởng máu chảy : Sau khi thi thể tan rã, thì máu chảy về đất.
E. Tưởng mủ : Thối nát thành mủ.
F. Tưởng ăn : Thi thể bị chim thú ăn.
G. Tưởng phân tán : Sau khi chim thú ăn xong, thì toàn thể xương cốt phân
tán rã rời.
H. Tưởng xương cốt : Còn lại đống xương.
I. Tưởng thiêu đốt : Xương cốt bị lửa thiêu đốt trở thành tro đất.
Người tu thiền, phải quán chín quán tưởng nầy, bằng không thì chấp trước
có cái ta sẽ không thành công.
5. Xanh thắng xứ.
6. Vàng tháng xứ.
7. Ðỏ thắng sứ.
8. Trắng thắng xứ.
Quán xong bất tịnh mới quán phóng quang. Màu xanh phóng ra quang minh
màu xanh, màu vàng phóng ra quanh minh màu vàng, màu trắng phóng ra
quang minh màu trắng, hiện ra một thứ quanh minh. Lúc đó, đừng chấp
trước, giống như chẳng có việc đó, được như vậy thì mới được xứ sự thù
thắng.
Mười nhất thiết xứ là gì ? Tức là mười thứ khắp nhất thiết xứ, tức cũng là
bốn màu sắc và thêm sáu đại. Nếu có thắng tri, thắng kiến, thì sẽ thành tựu
công năng khắp nhất thiết xứ.
1. Xanh khắp nhất thiết xứ.
2. Vàng khắp nhất thiết xứ.
3. Ðỏ nhất thiết xứ.
4. Trắng nhất thiết xứ.
5. Ðịa nhất thiết xứ.
6. Nước nhất thiết xứ.
7. Lửa nhất thiết xứ.
8. Gió nhất thiết xứ.
9. Không nhất thiết xứ.
10. Thức nhất thiết xứ.
Mười pháp nầy, người tham thiền phải minh bạch cảnh giới nầy, sau đó mới
phá được sự tham thoại đầu, tức cũng là khai ngộ.
Hoà Thượng Hư Vân lúc khai ngộ nói :
‘’Nãng trước thủ, đả toái bôi
Gia phá nhân vong ngữ nan khai
Xuân đáo hoa hương xứ xứ tú
Sơn hà đại địa thị Như Lai‘’.
Nghĩa là :
‘’Tay bị nóng, đập nát ly,
Nhà tan người mất khó nói nên lời.
Xuân đến hoa thơm đâu đâu cũng đẹp,
Sông núi đất đai đều là Như Lai.’’
Tức là cảnh giới nầy, hết thảy đều không.
Ba lần biến cõi nước, lần thứ nhất biểu thị tám xả lìa, lần thứ hai biểu thị tám
thắng xứ, lần thứ ba biểu thị mười nhất thiết xứ. Nghĩa lý của kinh văn thâm
áo vô cùng, phải quán thông kinh nghĩa, mới có hữu dụng, bằng không thì
nuốt trựng, ăn mà chẳng biết mùi vị. Ðọc kinh văn mà không cầu hiểu rõ,
không biết tông chỉ của kinh, suốt ngày ngủ với vô minh, ăn cơm với phiền
não, làm bạn với ba hoặc, như thế thì làm sao có sự thành tựu ? Tóm lại,
hiểu biết thì lìa khỏi chúng, chẳng hiểu biết thì bị chúng làm mê.
Người học Phật pháp, vừa học vừa thực hành mới có hiệu quả. Học mà
không hành, dù học bao nhiêu cũng chẳng ích gì. Tức là học một câu mà áp
dụng, thì sẽ đắc được vô lượng lợi ích. Bệnh lớn nhất của người học Phật
pháp là, nói được mà làm chẳng được, đó là khẩu đầu thiền.
Bấy giờ, các đức Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni ở phương đông,
trong trăm vạn ức Na do tha cõi nước, mỗi vị đang thuyết pháp ở cõi đó, đều
tụ tập lại. Như thế lần lược các đức Phật trong mười phương, cũng đều tụ tập
lại ngồi ở tại tám phương.
Lúc đó, các hóa Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong trăm ức
Na do tha Hằng hà sa cõi nước, đều đang ở cõi đó thuyết pháp giáo hóa
chúng sinh, vì đức Ða Bảo Như Lai đến pháp hội Linh Sơn làm chứng minh,
cho nên các Ngài đều từ biệt đại chúng, để tụ tập về núi Linh Sơn.
Tại sao đức Ða Bảo Như Lai đến hội Pháp Hoa núi Linh Thứu thế giới Ta
Bà để làm chứng ? Vì thuở xưa Ngài đã từng phát nguyện : ‘’Phàm là có đạo
tràng diễn nói Kinh Pháp Hoa, thì ta nhất định đến trước làm chứng minh‘’.
Lần lược như thế, từ phương đông bắt đầu; mười phương chư Phật đều đến
tụ tập tại pháp hội Linh Sơn, ngồi ở tám phương của bảo tháp.
Bấy giờ, tại mỗi phương đều có bốn trăm vạn ức Na do tha cõi nước, các
đức Phật Như Lai đều đầy khắp trong đó.
Lúc đó, ở tại mỗi phương đều có bốn trăm vạn ức Na do tha cõi nước, cõi
nước biến hóa ra, rất thanh tịnh trang nghiêm. Các đức Phật phân thân của
Phật Thích Ca đều đầy khắp trong đó.
Bấy giờ, các đức Phật đều ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, rồi sai thị giả
đến thưa hỏi đức Phật Thích Ca, và đều đưa cho một bó hoa báu, mà dặn dò
rằng : Thiện nam tử ! Ngươi hãy đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ của Phật Thích
Ca Mâu Ni, theo như lời của ta nói rằng : Ðức Thế Tôn ít bệnh, ít khổ não,
sức khỏe an vui chăng ! Các chúng Bồ Tát Thanh Văn đều an ổn chăng !
Lúc đó, phân thân chư Phật mười phương đều ngồi trên tòa sư tử dưới cội bồ
đề, rồi phái thị giả đến đạo tràng của đức Phật Thích Ca để thăm hỏi. Chư
Phật tay cầm bó hoa báu đưa cho thị giả, dặn dò thị giả rằng : ‘’Thiện nam tử
! Ông đến núi Linh Thứu đạo tràng của Phật Thích Ca, thế ta nói thế nầy :
Ðức Thế Tôn ! Ngài có khỏe chăng ? Chẳng có bệnh tật, chẳng có khổ não
chứ ! Thân tâm an lạc chứ ! Hàng Bồ Tát và Thanh Văn đều an ổn chăng !
Thăm hỏi xong rồi, thì dâng hoa báu cúng dường đức Phật‘’.
Dùng hoa báu này rải lên cúng dường đức Phật, rồi bạch rằng : Ðức Phật đó
cùng muốn mở bảo tháp này, các đức Phật sai sứ đến cũng lại như thế.
Chư Phật lại dặn dò thị giả nói : ‘’Ðem hoa báu nầy rải lên cúng dường đức
Phật Thích Ca, sau đó nói với đức Phật rằng : Ðức Phật đó muốn mở Bảo
Tháp của đức Ða Bảo Như Lai, để chiêm ngưỡng đức tướng của đức Ða Bảo
Như Lai.’’ Chẳng những một vị Phật sai thị giả đến tham hỏi đức Phật, cúng
dường đức Phật, mà mười phương chư Phật, đều thăm hỏi và cúng dường
như thế.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy tất cả chư Phật phân thân, đều đã
tụ lại, đều ngồi trên tòa sư tử, đều nghe các đức Phật cùng muốn mở bảo
tháp. Bèn từ tòa đứng dậy, trụ ở trong hư không, tất cả bốn chúng đều đứng
dậy, chắp tay một lòng nhìn Phật.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy chư Phật phân thân của mình, đã tụ
tập lại hết trên núi Linh Thứu. Mỗi vị Phật đều ngồi trên tòa báu sư tử. Lại
nghe mười phương chư Phật muốn mở bảo tháp, lập tức từ tòa báu đứng
dậy, trụ ở trong hư không. Lúc đó, tất cả bốn chúng đệ tử cùng nhau đứng
dậy cung kính chắp tay, đại chúng một lòng nhìn Phật mở cửa bảo tháp như
thế nào ? Tụ tinh hội thần để chờ.
Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tay phải, mở cửa tháp bảy báu
vang ra âm thanh lớn, như tháo chốt mở cửa thành lớn.
Lúc ấy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tay phải mở cửa tháp bảy báu, từ
trong tháp vang ra âm thanh rất lớn, giống như tháo chốt mở cửa thành lớn.
Phật dùng tay phải mở bảo tháp, là biểu thị khai quyền. Ðức Ða Bảo Như
Lai hiện thân, là biểu thị hiển thật. Có câu : ‘’Khai quyền hiển thật‘’, thu
pháp môn quyền xảo phương tiện lại, bây giờ hiển lộ ra pháp môn chân thật.
Kinh điển lúc trước Phật giảng, là pháp quyền xảo phương tiện, bây giờ
giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mới là pháp chân thật. Ðây tức là tông chỉ
của bổn kinh nầy.
Bấy giờ, tất cả đại chúng trong pháp hội, đều thấy đức Ða Bảo Như Lai, ngồi
trên tòa sư tử trong bảo tháp, toàn thân không tán hoại, như nhập thiền định.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni mở cửa bảo tháp, hết thảy bốn chúng đệ
tử trong pháp hội, đều nhìn thấy toàn thân của đức Ða Bảo Như Lai, đang
ngồi trên tòa sư tử, an nhiên tồn tại chẳng tan hoại, giống như an tường nhập
vào thiền định, khiến cho người thấy sinh tâm cung kính. Vì sao ? Vì có uy
đáng sợ, có nghi đáng kính.
Lại nghe đức Ða Bảo Như Lai nói : Lành thay, lành thay ! Phật Thích Ca
Mâu Ni, xin hãy mau nói Kinh Pháp Hoa, ta vì nghe kinh này mà đến đây.
Lúc ấy, lại nghe đức Ða Bảo Như Lai ở trong tháp nói : ‘’Lành thay, lành
thay ! Phật Thích Ca Mau Ni, xin Ngài hãy mau nói Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa. Ta vì nghe Kinh Pháp Hoa mà đến đây‘’. Ðức Ða Bảo Như Lai vì thuở
xưa phát nguyện mà đến làm chứng minh.
Bấy giờ, bốn chúng thấy Phật đã diệt độ trong quá khứ, vô lượng ngàn vạn
ức kiếp nói lời như thế, khen chưa từng có. Ðại chúng đều dùng hoa báu cõi
trời, tụ lại rải lên trên đức Phật Ða Bảo, và Phật Thích Ca Mâu Ni.
Lúc đó, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng đệ tử
nhìn thấy đức Ða Bảo Như Lai, đã diệt độ vô lượng ngàn vạn ức kiếp trong
quá khứ, ở trong bảo tháp nói ra lời như thế, đại chúng khen ngợi chưa từng
có, đại chúng đều dùng hoa báu cõi trời, tụ lại rải lên trên thân đức Phật Ða
Bảo, và Phật Thích Ca Mâu Ni.
Bấy giờ, đức Phật Ða Bảo ở trong bảo tháp, chia nửa tòa ngồi cho đức Phật
Thích Ca Mâu Ni mà nói rằng : Phật Thích Ca Mâu Ni, hãy lên ngồi trên tòa
này. Tức thời, Phật Thích Ca Mâu Ni vào trong bảo tháp đó, ngồi kiết già
trên nửa tòa đó.
Lúc đó, đức Ða Bảo Như Lai ở trong bảo tháp, nhường nửa tòa báu sư tử
cho Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi, mà nói rằng : ‘’Phật Thích Ca Mâu Ni !
Ngài hãy lên ngồi bên cạnh tôi, chúng ta hai người cùng ngồi chung một
tòa‘’. Tức thời, Phật Thích Ca Mâu Ni bèn vào trong bảo tháp, cùng ngồi
một tòa với Phật Ða Bảo, ngồi kiết già trên tòa báu sư tử.
Bấy giờ, đại chúng thấy hai đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa sư tử trong
tháp bảy báu, ai nấy đều nghĩ : Ðức Phật ngồi quá cao xa, xin nguyện đức
Như Lai dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng con đều đến trong hư
không.
Lúc đó, đại chúng trong hội Pháp Hoa, nhìn thấy hai vị Phật cùng ngồi kiết
già trên tòa báu sư tử ở trong bảo tháp, rất gần gũi, giống như là bạn bè thân
thiết. Ðại chúng đều nghĩ như vầy : ‘’Hai vị Phật ngồi ở trong bảo tháp vừa
cao vừa xa, khiến cho chúng con nhìn chẳng rõ ràng, nghe chẳng rõ ràng.
Xin nguyện Như Lai từ bi dùng sức đại thần thông, đem tất cả đại chúng
chúng con ở trong pháp hội đều đến trong hư không, để chiêm ngưỡng Như
Lai, lễ lạy Như Lai thì tiện hơn‘’.
Tức thời, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng sức thần thông, tiếp các đại chúng
đều đến trong hư không, dùng âm thanh lớn bảo khắp bốn chúng : Ai có thể
ở cõi Ta Bà này, mà rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì nay chính là
phải thời. Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ vào Niết Bàn. Phật muốn đem Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa này, phó chúc cho mọi người.
Lúc đó, vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu
thông, nên biết được đại chúng khởi vọng tưởng, bèn sinh tâm thương xót,
dùng sức thần thông tiếp họ đến trong hư không, để làm mãn nguyện của đại
chúng.
Ðức Phật Thích Ca lại dùng âm thanh lớn, bảo khắp bốn chúng đệ tử nói
rằng : ‘’Ai có thể ở cõi Ta Bà nầy, rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì
hôm nay chính là phải thời. Vì ta (Phật Thích Ca), sau khi nói xong Kinh
Pháp Hoa, thì chẳng bao lâu sẽ vào Niết Bàn. Mỗi vị Phật đều muốn đem
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phó chúc cho mọi người, mong có người gánh
vác trách nhiệm nầy, nối Phật huệ mạng, khiến cho chánh pháp vĩnh viễn
lưu lại ở đời, chẳng khiến cho đoạn tuyệt‘’ !
Các bạn chú ý ! Thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng Kinh Pháp Hoa, giải nói
Kinh PHáp Hoa, ấn tống Kinh Pháp Hoa, truyền bá Kinh Pháp Hoa, đều có
công đức không thể tưởng tượng được. Ðọc tụng Kinh Pháp Hoa, có thể từ
trong miệng phun ra xá lợi, biên chép Kinh Pháp Hoa, có thể từ ngòi bút nhả
ra xá lợi, đây là sự thật ngàn chân vạn quyết.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Thánh chúa Thế Tôn
Tuy diệt độ lâu
Ở trong bảo tháp
Còn vì pháp đến.
Các ngươi thế nào
Chẳng siêng vì pháp !
Ðoạn kinh văn nầy, Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Ðức Ða Bảo Như Lai
đã phát nguyện, phàm có đạo tràng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đức
Ða Bảo Như Lai nhất định đến trước để nghe pháp, làm chứng minh. Các
bạn thấy đó ! Nơi nào giảng nói Kinh Pháp Hoa, thì đức Ða Bảo Như Lai
đều đến nghe kinh, hà huống là phàm phu chúng ta, càng phải đến chỗ giảng
nói Kinh Pháp Hoa để nghe kinh.
‘’Thánh chúa Thế Tôn‘’, đây là chỉ đức Ða Bảo Như Lai mà nói, tôn kính
Ngài là chúa trong bậc Thánh. Thế Tôn là bậc tôn kính nhất của thế và xuất
thế gian. Tuy nhiên Ngài đã diệt độ vô lượng kiếp về trước, trụ ở trong bảo
tháp. Ngài đã thành Phật thì không cần nghe pháp nữa, song Ngài vì nghe
Kinh Pháp Hoa, mà còn đến pháp hội núi Linh Thứu thế giới Ta Bà. Các vị !
Tại sao không siêng tu Phật pháp ?
Không siêng vì pháp tức là lười biếng, giải đãi, phóng dật, không tinh tấn,
tức cũng là chẳng chuyên tâm để nghe pháp. Người chân chính tin Phật, thì
trừ khi chẳng có pháp hội giảng kinh, nếu có, thì bất cứ bận như thế nào,
nhất định cũng phải thu xếp thời gian đến tham gia. Tại sao ? Vì nghe kinh
còn quan trọng hơn là sinh mạng. Một ngày không ăn cơm thì có thể được,
chứ một ngày không nghe kinh thì không thể được. Nghe kinh thì hiểu biết
pháp môn liễu sinh thoát tử, y theo pháp tu hành thì chắc chắn sẽ được giải
thoát. Hơn nữa, nghe kinh được ấn tượng càng thâm sâu hơn là xem kinh, đo
đó có câu :
‘’Một buổi nghe giảng,
Hơn mười năm đọc sách‘’.
Có thể đổi là :
‘’Một buổi nghe giảng kinh,
Còn hơn đọc mười quyển kinh‘’.
Phật đó diệt độ
Vô lượng số kiếp
Khắp nơi nghe pháp
Vì khó được gặp.
Nguyện xưa Phật đó
Sau khi ta diệt
Đến khắp mọi nơi
Thường vì nghe pháp.
Từ khi đức Ða Bảo Như Lai diệt độ đến nay, trải qua thời gian vô lượng
kiếp, đến khắp nơi nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Phàm có nơi nào giảng
Kinh Pháp Hoa, thì nhất định đến trước tham gia làm chứng. Khi Phật Thích
Ca Mâu Ni giảng Kinh Pháp Hoa, thì Ngài ở trong bảo tháp từ dưới đất vọt
lên, trụ ở trong hư không để làm chứng minh.
Ðức Ða Bảo Như Lai tức nhiên đã thành Phật, tại sao còn đến để nghe Kinh
Pháp Hoa ? Vì kinh nầy chẳng dễ gì gặp được. Do đó, có câu :
‘’Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai‘’.
Ðây là bài kệ khai kinh, của nữ hoàng đế Vũ Tắc Thiên đời Ðường làm ra.
Trước khi đọc tụng kinh thì tụng bài kệ nầy trước.
Thuở xưa đức Ða Bảo Như Lai từng phát nguyện rằng : ‘’Nếu ta thành Phật,
thì sẽ ủng hộ đạo tràng giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau khi ta diệt độ,
bất cứ nơi nào, đức Phật nào nói Kinh Pháp Hoa, thì ta thường đến nghe
pháp và làm chứng minh‘’.
Tại sao phát nguyện như vậy ? Vì Kinh Pháp Hoa là kinh khó gặp được,
Ngài muốn làm ảnh hưởng chúng, dẫn dắt mọi người cùng đến tham gia
pháp hội, khiến cho đại chúng biết kinh nầy là vua trong các kinh, là kinh
thành Phật, do đó có câu :
‘’Kinh Lăng Nghiêm là kinh khai ngộ,
Kinh Pháp Hoa là kinh thành Phật‘’.
Ta lại phân thân
Vô lượng chư Phật
Như cát sông Hằng
Đến muốn nghe pháp.
Và thấy Đa Bảo
Như Lai diệt độ
Đều bỏ cõi nước
Và chúng đệ tử.
Trời người rồng thần
Các sự cúng dường
Khiến pháp trụ lâu
Nên đến nơi này.
Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói : ‘’Ta phân thân vô lượng chư Phật, nhiều như
số các sông Hằng, đều đến nơi nầy nghe Kinh Pháp Hoa. Các Ngài còn
muốn thấy đức Ða Bảo Như Lai, đã diệt độ vô lượng kiếp, cho nên phân
thân hóa Phật trong mười phương, đều bỏ cõi nước của mình, và các hàng đệ
tử mà đến núi Linh Thứu‘’.
Chư thiên loài người, các vị rồng các vị thần, đều đến cúng dường đức Ða
Bảo Như Lai, vì khiến cho chánh pháp trụ lâu ở đời, cho nên đức Ða Bảo
Như Lai, và mười phương chư Phật đều đến chỗ nầy.
Vì chư Phật ngồi
Mà dùng thần thông
Dời vô lượng chúng
Khiến nước thanh tịnh.
Mỗi mỗi vị Phật
Đến dưới cây báu
Như đất thanh tịnh
Hoa sen trang nghiêm.
Ta vì các đức Phật phân thân an trí tòa ngồi, mà dùng sức thần thông, đêm
vô lượng chúng sinh dời đến cõi nước khác, khiến cho cõi nước nầy thanh
tịnh, biểu thị sự hoan nghênh khách quý quang lâm.
Mười phương chư Phật, đều đến dưới cội bồ đề, ngồi trên tòa báu sư tử, như
đất thanh tịnh. Dùng các thứ màu sắc hoa sen để trang nghiêm.
Phật ngồi ở trên
Tòa báu sư tử
Dưới các cây báu
Quang minh nghiêm sức.
Như trong đêm tối
Đốt đuốt lửa lớn.
Sau ba lần biến cõi nước, làm cho thế giới biến thành thanh tịnh, phân thân
chư Phật đều đến dưới cội bồ đề, ngồi trên tòa báu sư tử. Mỗi tòa báu đều
dùng bảy báu để trang nghiêm, phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả,
giống như trong đêm tối đốt đuốc lửa lớn, phá màn đêm tối.
Thân tỏa hương thơm
Khắp mười phương cõi.
Chúng sinh ngửi được
Thảy đều vui mừng
Ví như gió lớn
Thổi nhánh cây nhỏ.
Do phương tiện đó
Khiến pháp trụ lâu.
Trên thân của phân thân chư Phật, đều tỏa ra hương thơm vi diệu, xông khắp
cõi nước mười phương. Hết thảy chúng sinh được mùi hương nầy huân
nhiễm, thì đều vui mừng mà phát tâm bồ đề. Giống như gió lớn thổi nhánh
cây nhỏ, làm rung động, tức cũng thọ được lợi ích của Phật pháp. Dùng pháp
thiện xảo phương tiện nầy, vì muốn khiến cho Phật pháp trụ lâu ở đời. Cho
nên, trước hết giảng quyền pháp, sau giảng thật pháp, là ý nghĩa nầy.
Phàm là người chân chánh tu trì, nghiêm giữ giới luật, tuyệt đối không phạm
giới, đời đời như thế, kiếp kiếp như thế, thì thân thể tự nhiên sẽ tỏa ra mùi
thơm hoa sen, là hương thơm nhè nhẹ, chứ chẳng phải mùi thơm nồng nặc,
không làm cho người có cảm giác sặc mũi. Người giữ giới, dù nhiều ngày
không tắm rửa, cũng chẳng có mùi hôi, mà còn tỏa hương thơm. Người
không giữ giới, thì thân hôi như chồn hôi, khiến người nhàm chán.
Bảo các đại chúng :
Ta diệt độ rồi.
Ai hay thọ trì
Đọc nói kinh này
Nay ở trước Phật
Tự phát thệ nguyện.
Ðức Phật Thích Ca lại bảo đại chúng nói : ‘’Sau khi ta nói xong Kinh Pháp
Hoa, thì sẽ vào Niết Bàn. Sau khi ta diệt độ rồi, ai hay phát nguyện thọ trì
kinh nầy, đọc tụng kinh nầy, bây giờ ở trước Phật Ða Bảo và phân thân chư
Phật, tự phát thệ nguyện‘’. Từ nay về sau hãy thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên
chép, ấn tống bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Bất cứ gặp khó khăn gì, cũng không
thay đổi, nhất định quán triệt thủy chung, không cô phụ kỳ vọng của Như
Lai.
Phật Đa Bảo đó
Tuy diệt độ lâu.
Nhờ thệ nguyện lớn
Mà sư tử hống
Đa Bảo Như Lai
Cùng với thân ta.
Tụ tập hóa Phật
Sẽ biết ý đó.
Ðức Ða Bảo Như Lai đó, tuy diệt độ đã lâu, song nhờ thệ nguyện lớn của
Ngài, mà ở trong bảo tháp làm sư tử hống. Ðức Ða Bảo Như Lai, và thân ta
cùng với phân thân hóa Phật, đều biết được ý của các vị phát nguyện. Sau
đó, sẽ hộ trì các vị, khiến cho thân tâm an ổn, chuyên tâm tu đạo.
Các Phật tử thảy
Ai hay hộ pháp.
Nên phát nguyện lớn
Khiến pháp trụ lâu
Có người hộ trì
Kinh Pháp Hoa này.
Tức là cúng dường
Ta và Đa Bảo.
Các đệ tử của Phật ! Ai có tâm hộ pháp, thì nên phát tâm thệ nguyện lớn,
khiến cho Kinh Pháp Hoa trụ lâu ở đời.
Nếu như có người hay hộ trì Kinh Pháp Hoa, thì công đức cũng như cúng
dường ta và Phật Ða Bảo. Tại sao ? Vì Kinh Pháp Hoa là chân thân của Như
Lai. Do đó:
‘’Trong các sự cúng dường
Cúng dường pháp là hơn hết‘’.
Cúng dường tiền tài là tu phước, cúng dường pháp là tu huệ. Phước huệ song
tu, công đức mới viên mãn.
Phật Đa Bảo đó
Trụ trong bảo tháp.
Thường du mười phương
Để vì kinh này
Cũng lại cúng dường
Các hóa Phật đến.
Trang nghiêm quang sức
Tất cả thế giới
Nếu nói kinh này
Tức là thấy ta.
Đa Bảo Như Lai
Và các hóa Phật.
Vị Ða Bảo Như Lai nầy, tuy ngồi ở trong bảo tháp, song thường đến khắp
mười phương thế giới, để vì chứng minh Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nếu các vị phát tâm cúng dường Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đồng như
cúng dường các hóa Phật của ta phân thân. Trang nghiêm tất cả cõi nước,
quang sức tất cả thế giới.
Giả sử hay giải thích nói Kinh Pháp Hoa nầy, thì thấy được thân ta và thân
đức Ða Bảo Như Lai, và các phân thân hóa Phật của ta.
Các thiện nam tử !
Hãy suy nghĩ kỹ.
Đây là việc khó
Nên phát nguyện lớn
Các kinh điển khác
Số như Hằng sa.
Tuy nói rất nhiều
Chưa phải là khó.
Các vị thiện nam tử ! Các vị phải suy nghĩ cho kỹ đạo lý nầy. Hãy phát
nguyện thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống bộ kinh đển nầy, đây là
việc rất khó. Các vị nên phát thệ nguyện lớn, đời đời kiếp kiếp gần gũi Tam
Bảo, gần gũi thiện tri thức, ủng hộ thiện tri thức.
Ngoại trừ Kinh Pháp Hoa ra, còn có rất nhiều kinh điển, số lượng nhiều như
số các sông Hằng, tuy nhiên nói nhiều kinh điển, song cũng chẳng phải là
việc khó.
Nếu cầm Tu Di
Ném qua phương khác.
Vô số cõi Phật
Cũng chưa phải khó
Nếu dùng chân tay
Động cõi đại thiên.
Ném xa cõi khác
Cũng chưa phải khó.
Nếu như cầm toà núi Tu Di lên, ném qua vô lượng cõi Phật khác, cũng chưa
phải là việc khó. Chỉ cần có thần thông thì làm được.
Nếu như dùng chân di động đại thiên thế giới, ném thế giới qua phương
khác, đây cũng chẳng phải là việc khó.
Nếu đứng trên trời
Vì chúng diễn nói.
Vô lượng kinh khác
Cũng chưa phải khó
Nếu Phật diệt độ
Ở trong đời khác.
Hay nói kinh này
Đó mới là khó.
Nếu như đứng trên Trời Hữu Đảnh (Trời vô sắc giới Phi Phi Tưởng Xứ), vì
chúng sinh diễn nói vô lượng các thứ kinh, cũng chẳng phải là việc khó. Chỉ
cần có bản lãnh ngũ nhãn lục thông thì làm được, chẳng có gì chướng ngại.
Nếu như sau khi Phật diệt độ, có người nào ở trong đời ác năm trược, giải
nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì đó mới là việc khó làm nhất.
Nếu như có người
Tay cầm hư không.
Dùng để du hành
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nếu tự biên trì.
Hoặc khiến người biên
Đó mới là khó.
Nếu như có người dùng phép thần thông, tay cầm hư không, du hành khắp
nơi, việc nầy vẫn chưa kỳ lạ, có thể làm được.
Song sau khi Phật diệt độ, nếu có người biên chép kinh nầy, hoặc khiến
người biên chép kinh nầy, đây là việc chẳng đễ gì làm được. Tại sao ? Vì
cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng có ai tin.
Nếu dùng đại địa
Để lên bàn chân.
Thăng lên Phạm Thiên
Cũng chưa phải khó
Sau Phật diệt độ
Ở trong đời ác.
Tạm đọc kinh này
Đó mới là khó.
Nếu như có người, đem đại địa để trên bàn chân, bay lên đến Trời Đại Phạm,
cũng chưa phải là việc khó.
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ rồi, mà ở trong đời ác năm trược,
trong khoảng thời gian ngắn mà đọc tụng kinh nầy, đó mới là việc rất khó,
chẳng dễ gì làm được.
Các vị chú ý ! Người chẳng có căn lành, thì chẳng thể nào nghe được tên
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, càng không thể nào đọc tụng được Kinh Pháp
Hoa, và thấy được kinh văn Diệu Pháp Liên Hoa. Hiện tại các vị là người
may mắn, nghe được Kinh Pháp Hoa ở trong Phật giáo giảng đường, đó là
trong quá khứ đã phát thệ nguyện gần gũi kinh nầy, thọ trì kinh nầy. Ðời nầy
gặp được đạo tràng giảng Kinh Pháp Hoa, nhân duyên nầy khó gặp được,
các vị phải trân tiết, đừng để trôi qua lãng phí.
Nếu như kiếp thiêu
Gánh vác cỏ khô.
Vào trong không cháy
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nếu trì kinh này.
Vì một người nói
Thì mới là khó.
Nếu như lúc kiếp hỏa thiêu cháy, mà có người gánh vác cỏ khô, đi vào trong
kiếp hỏa mà không bị kiếp hỏa thiêu đốt, đó cũng chẳng phải việc khó. Chỉ
cần có thần thông thì làm được. Sau khi Phật diệt độ, nếu có ai thọ trì kinh
nầy, hoặc vì một người giải nói, thì đó là việc khó, chẳng dễ gì làm được.
Nếu trì tám vạn
Bốn ngàn tạng pháp.
Mười hai bộ kinh
Vì người diễn nói
Khiến các người nghe
Được sáu thần thông.
Tuy được như thế
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nghe thọ kinh này.
Hỏi nghĩa trong kinh
Đó mới là khó.
Nếu như có người thọ trì tám muôn bốn ngàn tạng pháp, vì người nói mười
hai bộ kinh, khiến cho tất cả người nghe pháp đều được sáu thần thông, tuy
nhiên được như thế, song cũng chẳng phải là việc khó.
Sau khi ta diệt độ, nếu có người nghe thọ trì được kinh nầy, và hỏi nghĩa thú
trong kinh nầy, thì đó mới là một việc rất khó.
Mười hai bộ kinh là gì ? Tức là
‘’Trường hàng, trùng tụng, cập thọ ký
Cô khởi, vô vấn nhi tự thuyết
Nhân duyên, ví dụ dữ bổn sự
Bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu
Luận nghị cộng thành thập nhị bộ‘’.
Trường hàng, trùng tụng, cô khởi, là kinh văn thể tài (lựa ra từng lối).
1. Trường hàng : Tức là văn dài trong kinh.
2. Trùng tụng : Tức là nghĩa lý của kinh trường hàng ở trên, dùng kệ để thuật
lại.
3. Thọ ký : Phật thọ ký cho Bồ Tát sẽ thành Phật.
4. Cô khởi : Ðột nhiên ở giữa khởi lên một bài kệ, nghĩa lý của nó chẳng liên
quan đến kinh văn ở trước.
5. Bất vấn nhi tự thuyết : Chẳng có người thỉnh pháp, mà Phật tự động nói ra
kinh văn.
6. Nhân duyên : Tức là nhân duyên gặp Phật nghe pháp, hoặc nhân duyên
Phật nói pháp giáo hóa chúng sinh.
7. Ví dụ : Trong kinh văn nói ví dụ.
8. Bổn sự : Phật nói nhân duyên của đệ tử trong quá khứ.
9. Bổn sanh : Tức là Phật nói nhân duyên của mình trong quá khứ.
10. Phương quảng : Tức là Phật nói kinh văn chân lý phương chánh quảng
đại.
11. Vị tăng hữu : Kinh văn Phật hiện thần thông.
12. Luận nghị : Kinh văn giữa Phật và đệ tử hổ tương vấn đáp.
Sáu thần thông là gì ? Người khai ngộ mới chứng được cảnh giới nầy.
1. Thiên nhãn thông : Trên các cõi trời, dưới các địa ngục, đều nhìn thấy rất
rõ ràng .
2. Thiên nhĩ thông : Chẳng những nhìn thấy được chư Thiên từng cử chỉ
hành động, mà còn nghe được từng lời nói tiếng cười của chư Thiên, rõ như
vô tuyến điện.
3. Tha tâm thông : Biết được trong tâm của kẻ khác nghĩ việc gì và muốn nói
gì.
4. Túc mạng thông : Quán sát được nhân duyên và nhân quả của mình và kẻ
khác, trong quá khứ và vị lai .
5. Thần túc thông : Có thể ở trong định, đến đi tự do, chẳng bị bất cứ gì hạn
chế.
6. Lậu tận thông : Chẳng có phiền não, chẳng có vọng tưởng, tất cả lậu đều
tiêu sạch, chẳng khởi tác dụng. Ngoại đạo và quỷ thần chỉ có năm thần
thông, mà chẳng có lậu tận thông, chư Phật Bồ Tát A La Hán, mới có đủ sáu
thần thông.
Nếu người nói pháp
Khiến ngàn vạn ức.
Vô lượng vô số
Hằng sa chúng sinh
Được A la hán
Đủ sáu thần thông.
Tuy có lợi ích
Cũng chưa phải khó
Sau ta diệt độ
Nếu hay phụng trì.
Kinh Pháp Hoa này
Đó mới là khó.
Nếu như có người thuyết pháp, khiến cho vô lượng chúng sinh nhiều như cát
sông Hằng, đều đắc được quả vị A La Hán, đều đủ sáu thần thông. Tuy có
ích lợi như thế, song vẫn chẳng phải là việc khó.
Sau khi Phật diệt độ, nếu có ai hay phụng trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì
đó mới là việc rất khó.
Chúng ta phàm phu phải nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật Ða Bảo và
phân thân hóa Phật của Phật Thích Ca, cũng đến pháp hội Linh Sơn nghe
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Do đó, đủ biết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa quan
trọng như thế nào ! Kinh nầy là kinh thành Phật. Muốn thành Phật phải thọ
trì kinh nầy, chẳng có pháp nào khác.
Trước khi chưa giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tôi không nói Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa là kinh khó gặp khó thấy. Bây giới giảng đến đây, trong
kinh văn cũng nói rất rõ ràng. Hy vọng mọi người chú ý nghe ! Công đức
nghe được Kinh Pháp Hoa, cảm ứng trí huệ đời sau không thể hạn lượng.
Giống như nước biển cả lấy không hết, dùng không cạn được.
Tại sao chúng ta ngu si ? Tại sao có sự nóng giận ? Tại sao có vọng tưởng ?
Tại sao có phiền não ? Ðều vì chẳng từng nghe qua Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa. Kinh nầy có chỗ diệu không thể nghĩ bàn. Chỗ diệu nầy không thể suy
nghĩ, không thể luận bàn, chỉ có chính người thực hành thể hội mới biết diệu
vị đó.
Ta vì Phật đạo
Trong vô lượng cõi
Từ xưa đến nay
Rộng nói các kinh.
Mà ở trong đó
Kinh này bậc nhất
Nếu người hay trì
Tức là thân Phật.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Ta vì giáo hóa chúng sinh, đều vì thành Phật
đạo, cho nên ở trong vô lượng cõi nước chư Phật, từ bắt đầu cho đến hiện
tại, đã rộng giải thích nói rất nhiều kinh điển. Trước hết nói Kinh Hoa
Nghiêm, tiếp theo nói Kinh A Hàm, sau đó nói Kinh Phương Ðẳng và Kinh
Bát Nhã, bây giờ mới nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ở trong các kinh mà
Phật nói, thì Kinh Pháp Hoa nầy là bậc nhất.’’ Ðây là bộ kinh ít có nhất.
Nếu như có người hay thọ trì kinh nầy, tức là trì chân thân của Chư Phật.
Chân thân của Phật ở trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, do đó :
‘’Vào nhà Như Lai,
Mặc áo Như Lai,
Ngồi tòa Như Lai‘’.
Ba thứ nầy tức là thọ trì chân thân của Phật.
Các thiện nam tử !
Sau ta diệt độ
Ai hay thọ trì
Ðọc tụng kinh này.
Nay ở trước Phật
Tự nói lời thề.
Các vị thiện nam tử ! Sau khi ta diệt độ, ai hay thọ trì kinh nầy, đọc tụng
kinh nầy, giải nói kinh nầy, biên chép kinh nầy, ấn tống kinh nầy. Hiện tại ở
trước Phật, tự nói ra lời thề. Người học Phật, nhất định phải phát nguyện,
nguyện lực khiến cho mình hướng về chánh đạo tiến về trước, không thể lầm
vào đường tà. Phát nguyện mà không thực hành, cũng giống như cây nở hoa
giả, chẳng có ích gì.
Kinh này khó trì
Nếu ai tạm trì.
Ta rất hoan hỉ
Chư Phật cũng thế
Những người như thế
Ðược Phật khen ngợi.
Ðó là dũng mãnh
Ðó là tinh tấn
Ðó gọi trì giới
Người hành đầu đà.
Thì mau đắc được
Phật đạo vô thượng.
Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là kinh khó thọ trì, người chẳng có căn lành
chân chánh, thì không thọ trì được. Nếu như có người đời nầy tạm thời thọ
trì, đọc tụng kinh điển, thì ta rất hoan hỉ, chư Phật cũng hoan hỉ. Tại sao ? Vì
người nầy căn lành sâu dày, đảm đang được trách nhiệm lớn, khiến cho Phật
pháp lưu truyền thế gian, làm cho chúng sinh được nghe Tam Bảo, phát tâm
bồ đề, thành vô thượng đạo.
Người nầy thọ trì Kinh Pháp Hoa, được mười phương chư Phật khen ngợi,
người nầy thọ trì dũng mãnh tinh tấn không giải đãi, nghiêm giữ giới luật
không phóng dật. Tu hành mười hai hạnh đầu đà, thì mau chứng được quả vị
Phật.
Mười hai hạnh đầu đà là :
1. Mặc y phấn tảo.
2. Chỉ có ba y.
3. Thường đi khất thực.
4. Thứ lớp khất thực.
5. Ngày ăn một bữa.
6. Tiết lượng ăn uống.
7. Quá ngọ không uống nước có chất bổ.
8. Ở nơi vắng lặng.
9. Ngồi ở nghĩa địa.
10. Ngồi ở ngoài trời.
11. Ngủ dưới gốc cây.
12. Thường ngồi không nằm.
Người tu khổ hạnh, phải giữ mười hai điều quy cụ nầy. Tại sao phải khổ như
thế ? Vì con người có tâm tham. Do đó : ‘’Lòng tham muốn chẳng bao giờ
ngừng‘’, tham chẳng biết chán, càng nhiều càng tốt, kết quả vọng tưởng lăn
xăn, khắp nơi phan duyên ảnh hưởng sự tu đạo. Nếu tu mười hai thứ khổ
hạnh, coi nhẹ thân của mình, thì không làm nô lệ cho nó, chỉ cần duy trì
được sinh mạng thì được. Nếu chẳng có tâm tham, thì chẳng có vọng tưởng;
nếu chẳng có vọng tưởng, thì sẽ khai ngộ.
Hay ở đời sau
Ðọc trì kinh này.
Ðó thật Phật tử
Ở thuần đất lành
Sau Phật diệt độ
Hay giải nghĩa kinh.
Các trời người đó
Là mắt thế gian
Ở đời sợ hãi
Nói trong chốc lát.
Tất cả trời người
Ðều nên cúng dường.
Người đó khi ở đời vị lai, đọc tụng thọ trì Kinh Pháp Hoa, mới là đệ tử chân
chánh của Phật, trụ ở đất lành thuần nhất, tức cũng là đất Phật.
Sau khi Phật diệt độ, thấu hiểu nghĩa lý kinh nầy, đó là con mắt của trời
người. Bất cứ là trời người, nếu chẳng đọc tụng thọ trì kinh điển, thì cũng
giống như người mù chẳng có mắt. Ở trong đời ác năm trược, trong thời gian
chốc lát giải nói Kinh Pháp Hoa. Khi đó, tất cả trời người đều nên cúng
dường vị pháp sư.
---o0o---
Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
Ðề Bà Ðạt Ða là anh em chú bác với Ðức Phật, song ở đâu Ngài cũng làm
ngược lại với Ðức Phật. Có người nói Ngài có cừu hận với Ðức Phật. Kỳ
thật, Ðức Phật thành đạo, Ngài thuộc về người nghịch tăng thượng duyên trợ
đạo, mà đời đời kiếp kiếp Ðề Bà Ðạt Ða còn đến trợ giúp Phật thành tựu đạo
nghiệp. Do đó, Ngài dùng nhân vật phản diện để giúp thành Phật đạo, đó là
người ‘’nghịch trợ giúp’’ vậy.
Ðề Bà Ðạt Ða là tiếng Phạn, dịch là ‘’thiên nhiệt’’, vì khi Ngài tại thế thì
chuyên môn phản diện để trợ giúp người, khiến cho người cảm thấy rất nhiệt
não, khí trời cũng biến thành nóng bức, do nhân duyên đó mà được tên. Tại
sao Ngài phải phản diện để trợ giúp Ðức Phật thành đạo ? Ðó cũng có một
nhân duyên.
Vào thuở xa xưa về quá khứ, có một vị trưởng giả giàu có tên là Tu Ðàn.
Ông ta có hai người con. Người con lớn tên là Tu Ma Ðề, người con kế tên
là Tu Tỳ Gia. Sau khi ông ta qua đời, thì hai người con tính toán thừa kế di
sản của cha. Ông anh cả Tu Ma Ðề bèn nghĩ : ‘’Nếu mình chia một nửa tài
sản cho Tu Tỳ Gia, thì chẳng phải là mình bớt đi một nửa tài sản chăng ?’’
Do đó, anh ta hẹn với người em Tu Tỳ Gia, đến núi Linh Thứu để du ngoạn.
Khi đến tới đỉnh núi, thì Tu Ma Ðề xô người em xuống hang núi, người em
tan thân nát xương qua đời, sau đó người anh còn lấy đá đập thi thể, vì sợ
người em bị thương tích không chết. Một người anh dùng phương pháp tàn
ác để giết em mình, chỉ vì đoạt lấy tài sản của cha để lại. Tu Ma Ðề thuở đó,
tức là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, còn Tu Tỳ Gia tức là tiền
thân của Ðề Bà Ðạt Ða, người cha Tu Ðàn tức là Vua A Xà Kỳ. Mà phẩm
nầy Phật nói nhân duyên Ðề Bà Ðạt Ða, trợ giúp Phật thành tựu đạo nghiệp.
Bấy giờ, Phật bảo các vị Bồ Tát và trời người bốn chúng : Ta ở trong vô
lượng kiếp quá khứ, cầu Kinh Pháp Hoa chẳng khi nào lười mỏi. Ở trong
nhiều kiếp thường làm vua, phát nguyện cầu vô thượng bồ đề, tâm chẳng
thối chuyển, vì muốn đầy đủ sáu Ba la mật, tâm chẳng xan tham, nên siêng
thực hành bố thí : Voi ngựa bảy báu, đất nước vợ con, nô tì tôi tớ, đầu mắt
tủy não, thân thịt tay chân, chẳng tiếc thân mạng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét