4. Quán pháp vô ngã : Cho đến người và pháp đều không. Phật có tâm đại từ
bi, sợ chúng sinh thối thất bồ đề tâm mà nghĩ như vầy : Ta ở trong nhà lửa,
tu trung đạo được thành Phật, được lìa khỏi nhà lửa nầy. "An" dụ cho Phật
chẳng bị năm uẩn, tám sự khổ bức bách. "Ổn" dụ cho Phật chẳng bị bốn điên
đảo (chẳng thường cho là thường, chẳng vui cho là vui, chẳng phải ngã cho
là ngã, chẳng tịnh cho là tịnh) làm điên đảo, ra khỏi tam giới. Các người con
của ta (ba thừa và năm trăm chúng sinh) đang ở trong nhà lửa, bị ái kiến vây
khốn, trong đại bi sám nói rằng : "Ái kiến là gốc, thân miệng là duyên." Do
có bốn điên đảo, tham trước năm trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) hoặc năm
độc (tài, sắc, danh, ăn, ngủ), kiến (thấy) làm vui chơi, chấp trước ái làm đùa
giỡn. Bị kiến ái chuyển, phải lìa khỏi sinh tử mà "chẳng hay biết gì". Tuy lửa
sẽ hại thân mà chẳng biết "sợ hãi". Người chẳng biết tập, chẳng sợ hãi đạo,
chẳng sợ mất diệt. Dùng không nghe pháp bốn đế, tức chẳng nghe (văn), suy
nghĩ (tư) hai huệ làm chẳng hay. Chẳng tu huệ là chẳng biết. Không kiến
giải là chẳng sợ, không tư duy giải là chẳng hãi. Nhưng chúng sinh chẳng
biết khổ hiện tại, cũng chẳng biết khổ trong tương lai. Các người con bị lửa
thiêu đốt thân, thì đức Phật cảm thấy như chính mình chịu đựng rất là thống
khổ. Chúng sinh thì mê chẳng giác, mê nơi tham sân si chẳng biết lìa khỏi.
"Vui chơi đùa giỡn" dụ cho kiến trược và phiền não trược. "Chẳng hay biết,
chẳng sợ hãi" dụ cho chúng sinh trược. "Lửa đến thiêu đốt thân, rất là thống
khổ" dụ cho mạng trược.
"Chúng chẳng lo lắng, chẳng có ý cầu ra ngoài" dụ cho kiếp trược. Chúng
sinh trôi nổi ở trong năm trược quên về, suốt ngày bồi hồi mà chẳng tỉnh
giác, mới lầm nhận thế giới nầy là cõi an vui. Con người thường tạo nghiệp
mà đọa địa ngục, nếu tỉnh giác thì sẽ dứt sinh tử.
Gần đây ở San Francisco chẳng phát sinh động đất, đó là do tâm lành của
chúng ta tụng Chú Lăng Nghiêm, chế phục được thiên ma, cho nên San
Francisco mới được bình an vô sự, khỏi tai ương động đất.
Xá Lợi Phất ! Ông trưởng giả đó, bèn nghĩ như vầy : Thân và tay của ta, có
sức sẽ dùng vạt áo, hoặc bàn ghế từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ :
Nhà đó chỉ có một cửa mà lại hẹp nhỏ, các người con còn thơ ấu, chưa có
hiểu biết, ham mê chơi đùa, sẽ bị đọa lạc, hoặc bị lửa thiêu đốt.
Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất ! Ông trưởng giả đó, tức Ðức Phật ở trong hai
mươi mốt ngày, suy gẫm như vầy: Ban đầu ta dùng pháp gì để hợp cơ với
chúng sinh, để khiến cho chúng sinh giác ngộ ? "Thân" dụ cho thần thông,
"tay" dụ cho trí huệ cất nhắc. Phật y vào tam muội đoạn đức, phân biệt thật
tướng của tất cả các pháp, có trí đức thì hay thuyết pháp. Có đoạn, trí hai
đức mà thành pháp thân, do khuyên, dạy bảo hai cửa mà vào. Khuyên tức là
vị nhân tất đàn, là cửa từ bi, dạy bảo tức là đối trị tất đàn, là cửa chế phục.
Tất đàn có bốn :
1. Vị nhân tất đàn.
2. Ðối trị tất đàn.
3. Thế gian tất đàn.
4. Ðệ nhất nghĩa tất đàn.
Cho nên nói rằng :
"Bất nhị pháp môn hưu khai khẩu,
Ðệ nhất nghĩa đế bổn vô ngôn."
Nghĩa là:
Pháp môn không hai chẳng mở miệng,
Pháp đệ nhất nghĩa vốn không lời.
Phật cứ vào bốn tất đàn để thuyết pháp, bố thí khắp hết thảy. Vị nhân tất đàn
và đối trị tất đàn, cùng thế gian tất đàn, đều vì đệ nhất nghĩa tất đàn mà nói.
Phật dùng pháp phương tiện, trước nói cửa khuyên (khuyên môn), khiến cho
tất cả chúng sinh, làm các việc thiện, sẽ thành tựu mười lực của Như Lai.
Phật có bốn vô sở úy :
1. Nhất thiết trí vô sở úy.
2. Thuyết pháp vô sở úy.
3. Thuyết chướng đạo vô sở úy.
4. Thuyết tận khổ đạo pháp vô sở úy.
Vì khai mở nhất thiết chủng trí, mà nói cửa khuyên, tiếp đó dùng cửa dạy
bảo (giới môn), khiến cho chúng sinh đừng làm các điều ác, có thể chứng đại
Niết Bàn, được thường lạc ngã tịnh bốn đức. Chúng sinh chẳng giác ngộ sự
giáo hoá, Phật biết không nên dùng pháp đại thừa, bèn dùng thần thông trí
huệ, sức định huệ trang nghiêm để độ chúng sinh.
"Thân và tay của ta có sức" dụ cho trí, đoạn hai đức tác dụng. "Vạt áo" dụ
cho tri kiến của Phật, bao hàm hết tất cả tri kiến của chúng sinh. Phật chẳng
có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy. Dùng "bàn" dụ cho mười
trí của Phật, giáo hóa sáu nẻo chúng sinh, lìa khổ được vui. Dùng "ghế" dụ
cho bốn vô sở úy. Phật dùng bốn vô sở úy giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ
thoát khỏi khổ trong tam giới, chấm dứt luân hồi trong sáu đường.
Chúng ta học Phật pháp, không nên có tâm phân biệt, bất cứ thầy nào nói
pháp đều nên lắng nghe. Phật pháp, nên nghe rồi, lại nghe nữa, thì tự nhiên
sẽ có sự bổ ích. Nghe pháp là gieo xuống hạt giống kim cang, ở trong thức
thứ tám của chúng ta. Các bạn nên rộng trồng hạt giống nầy, khiến cho tăng
trưởng, lấy việc ủng hộ đạo tràng làm trách nhiệm của mình.
Phật trong hai mươi mốt ngày suy nghĩ, nên dùng pháp gì để giáo hóa chúng
sinh. Cửa "khuyên" thuộc về nhiếp thọ, vị nhân tất đàn là cửa từ bi. "Dạy
bảo" là cửa triết phục, dùng phương thứ rất nghiêm để khiến cho họ triết
phục, là cửa oai phục. Phật dùng khuyên dạy hai cửa, bốn vô sở úy, mười
lực và Như Lai trí, khiến cho chúng sinh lìa khỏi nhà lửa nầy. Sau đó, Phật
lại nghĩ, nhà nầy chỉ có một cửa, là xe trâu trắng lớn, pháp đại thừa mà lại
hẹp nhỏ. Pháp đại thừa là viên dung vô ngại, nghĩa tuy rộng lớn, mà chỉ có
đại thừa viên giác Bồ Tát mới có thể vào, ngoài ra ngoại đạo và người bảy
phương tiện thừa kia chẳng thể vào được. Người tu Bồ Tát đạo, cửa cõi Phật,
diệu hạnh nầy, pháp đại thừa khó hành, song mới bỏ tất cả pháp phương
tiện, do đó gọi là hẹp nhỏ. Diệu lý của một Phật thừa là thuần nhất không
tạp. Ðạo lý nầy thật là vi diệu không thể nghĩ bàn, chẳng dễ gì minh bạch, do
đó gọi là "hẹp nhỏ". Giáo nầy thuộc về viên giáo, giáo lý quyền thật không
hai, phàm phu chẳng biết cửa ra, là vì chẳng biết quyền, lại chẳng biết vào
cửa nầy, là vì chẳng biết thật. Hàng nhị thừa tuy biết ra, nhưng chẳng biết
vào, cũng chẳng rõ giáo lý nầy. Hàng Bồ Tát tuy tự biết ra, cũng chẳng biết
vào, Bồ Tát nầy tức là biệt giáo Bồ Tát, tức cũng là bảy phương tiện Bồ Tát.
Bảy phương tiện người chẳng rõ giáo lý nầy, do nơi người tiểu thừa không
thể vào đại thừa, cho nên giáo nghĩa tuy rộng mà nói là "hẹp nhỏ". Người tu
hành lấy viên giáo tu hành, tu Bồ Tát đạo, đi thẳng đến quả vị Phật, thông
suốt vô ngại, cho nên gọi là "một cửa". Diệu hạnh khó hành, bỏ pháp
phương tiện, cho nên gọi là "nhỏ hẹp".
"Các người con thơ ấu, chưa có hiểu biết": Nói hàng Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, người ba thừa chẳng hiểu, chẳng biết, chẳng sợ, chẳng hãi, tuy
ở nơi hai vạn vị Phật, được giáo hoá tu vô thượng đạo, nhưng căn lành của
họ mỏng manh, nghe pháp đại thừa thì tâm chẳng tin nhận, càng sinh tâm
thối lùi. "Ham mê chơi đùa": Người tiểu thừa chấp trước nơi kiến ái, thối
thất bồ đề, chịu tám thứ khổ hoành hành. Chấp trước nơi y, chánh hai báo :
Y báo tức là báo thân của chúng ta, đây là hữu tình thế giới. Trong tam giới,
chúng sinh dục giới chấp trước nơi năm dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ), hoặc
chấp trước vào năm trần (sắc, thanh, hương, vị, súc). Chúng sinh sắc giới thì
chấp trước vào vị thiền. Chúng sinh trời Tứ Thiền thì chấp trước vào thiền
duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn, cho nên trời Sơ Thiền gọi là ly sinh hỷ lạc
địa, trời Nhị Thiền gọi là định sinh hỷ lạc địa, trời Tam Thiền gọi là ly hỷ
diệu lạc địa, trời Tứ Thiền gọi là xả niệm thanh tịnh địa. Hỉ lạc, diệu lạc,
thanh tịnh, đều là một thứ từ vị trong sự ngồi thiền, họ tham luyến thứ từ vị
nầy. Cõi vô sắc thì chấp trước nơi định, tuy rằng nói : "Siêng tu giới định
huệ", cũng đừng chấp trước nơi định. Con người do có các thứ chấp trước,
có sự tham luyến, cho nên không thể thoát khỏi tam giới, buông chẳng đặng,
bỏ chẳng được tri kiến ngu si, cho nên ở trong nhà nầy, mà quên mất đường
về.
"Hoặc sẽ bị đọa lạc": Nói chúng sinh hoặc sẽ bị đọa lạc, nghĩa là có thể cải
lỗi làm mới, biết được giác ngộ, thì sẽ chấm dứt luân hồi. Nhưng vì ngu si,
chấp trước nơi năm dục, mà bị đọa lạc trong ba đường ác. Hơn nữa, vì chúng
sinh chẳng biết, nhiễm khổ cho là vui, bỏ giác hợp trần, cho nên đọa lạc vào
ba đường ác. Ðọa lạc thì bị tám khổ, năm uẩn thiêu đốt, vì chẳng giác ngộ,
chẳng biết lửa dữ sẽ thiêu hủy pháp thân, căn lành.
Ta sẽ vì chúng nói việc đáng sợ. Nhà nầy đã cháy, phải đi ra mau, đừng để
bị lửa thiêu hại. Nghĩ như thế rồi, bèn y theo sự suy nghĩ đó, mà bảo các con
: Các con hãy mau ra ! Người cha tuy thương xót, khéo nói lời dẫn dụ, mà
các người con ham vui chơi đùa chẳng chịu tin nhận, chẳng sợ hãi, chẳng có
tâm muốn ra, cũng chẳng biết gì là lửa, gì là nhà, thế nào là mất, cứ chạy
đông chạy tây, đùa giỡn nhìn cha mà thôi.
Chúng sinh chẳng biết bị tám khổ, năm uẩn thiêu đốt, mười tám giới là khí
huyết mang đầy dẫy các sự khổ, chẳng biết tìm đường thoát ly, chẳng biết
đây là nguyên nhân tán mất pháp thân. "Cứ chạy đông chạy tây đùa giỡn" :
Chạy khắp bốn phương chẳng có mục đích, bỏ sáng về tối, trôi nổi trong
sinh tử, lúc lên trời, lúc ở dưới đất, đều thoát chẳng khỏi ba cõi. "Nhìn cha
mà thôi" là dụ cho chẳng tôn theo Phật pháp đại thừa, như trẻ con chẳng biết
trời cao đất rộng, chẳng cứ tới lời của người cha dạy bảo. Tuy nhiên chúng
sinh chẳng nghe lời dạy bảo, chẳng thọ sự giáo hóa, vì Phật vốn có tâm đại
từ bi, cho nên không nỡ bỏ chúng sinh, xem chúng sinh như chính con của
mình, tâm rất thương xót vô cùng.
Bấy giờ, ông trưởng giả bèn nghĩ : Nhà nầy lửa đã cháy lớn, nếu ta và các
con không ra, thì sẽ bị lửa thiêu. Nay ta phải bày phương tiện, khiến cho các
con khỏi bị lửa hại.
Lúc đó, ông trưởng giả tức là Phật, nghĩ như vầy: Nhà lớn nầy đã bị lửa tám
khổ, năm uẩn thiêu đốt, nếu ta với người ba thừa (Thanh Văn, Duyên Giác
và Bồ Tát) và năm trăm người (năm đường chúng sinh) không ra khỏi nhà
lửa nầy, thì sẽ bị lửa lớn thiêu đốt. Ở trước từng nói, Phật đã ra khỏi nhà lửa,
sao bây giờ lại nói ở nhà lửa bị lửa thiêu ? Kì thật, pháp thân của Phật đã
được an ổn lìa khỏi ba cõi, bây giờ bị lửa thiêu, là ứng thân của Phật. Nay ta
phải bày pháp quyền xảo phương tiện, khiến cho tất cả chúng sinh không bị
lửa nghiệp tám khổ, năm uẩn thiêu hại.
Cha biết các con, trước kia tâm đều thích đủ thứ đồ chơi quý giá kỳ lạ, ai nấy
đều ưa thích, mà bảo rằng : Ở đây có những đồ chơi, ít có khó được, nếu các
con không mau ra lấy, chắc sau nầy sẽ buồn ăn năn. Nào là xe dê, xe hươu,
xe trâu, đủ thứ, nay đều ở ngoài cửa, có thể dùng đi dạo chơi. Các con đang
ở trong nhà lửa, hãy mau ra đây, tùy ý muốn của các con, cha đều cho các
con.
"Cha" tức là Phật, tức cũng là ông trưởng giả, do đó "biết con chẳng ai bằng
cha", bậc làm cha biết ý của con cái nhất. Biết chúng sinh chẳng ai bằng
Phật, Phật thấy suốt căn tính của tất cả chúng sinh. "Trước kia tâm đều
thích": Trước kia chúng sinh thích tu học pháp tiểu thừa. "Ðủ thứ đồ chơi
quý giá kì lạ, ai nấy đều ưa thích." Pháp tu của mỗi người chẳng giống nhau,
có người tu bố thí, pháp bốn đế, pháp mười hai nhân duyên, đều là sở thích
của mỗi người.
Phật lại bảo chúng rằng: Ðồ mà các con thích chơi chẳng đặc biệt quý giá,
mà hiện nay ta có đồ chơi quý giá mới lạ ít có, nều các con không mau ra
lấy, thì sau nầy chắt sẽ buồn ăn năn. Có đủ thứ nào là: "Xe dê, xe hươu, xe
trâu". Xe dê dụ cho Thanh Văn, là vì tiểu thừa. Xe hươu dụ cho Duyên Giác,
sức hươu lớn hơn sức dê, là trung thừa. Xe trâu dụ cho Bồ Tát, sức trâu càng
mạnh hơn, có thể chuyên chở nhiều đồ, cho nên dụ cho đại thừa. Những thứ
xe nầy, đều để ở ngoài cửa, các con hãy mau ra đây lấy ! Các con thích gì,
thì cha đều thưởng cho các con.
Khi đó, các người con nghe cha nói đồ chơi quý giá, vừa hợp ý mình, nên
tâm ai nấy đều dũng mãnh, xô đẩy lẫn nhau, cùng đua đuổi chạy tranh nhau
ra khỏi nhà lửa.
Lúc đó, người ba thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát thừa) và năm
đường chúng sinh, nghe Phật nói pháp ba thừa vi diệu như thế, thì khiến cho
họ khởi dậy tâm háo kì, vừa hợp ý của họ. Phật nói pháp ba thừa quyền xảo
phương tiện nầy, dùng để độ năm đường chúng sinh. Cuối cùng Phật mới
nói một Phật thừa nầy. Cho nên những gì nói ở trong Kinh Pháp Hoa, là thật
trí diệu pháp, chẳng phải pháp quyền xảo, do đó đại sư Trí Giả nói Kinh
Pháp Hoa là ‘’Thuần viên độc diệu‘’ (chỉ có Kinh Pháp Hoa là viên mãn
diệu nhất).
‘’Nên tâm ai nấy đều dũng mãnh‘’. Trong tâm của mỗi người đều có sở
thích đồ chơi của họ. Tâm của chúng sinh dũng mãnh là biểu thị tư huệ. Tư
huệ nầy dùng Bát Nhã để quán chiếu, cũng là tĩnh lự tư huệ tham thiền, tức
phải dùng trí huệ lanh lợi mà tu hành, thì sẽ thấy rõ thị phi, chẳng rơi vào
đường tà, không thể biết rõ mà cố phạm. Những người chưa vào cửa Phật
pháp, thì chẳng hiểu chân lý, do đó mà lầm vào đường tà. Quy y Tam Bảo
rồi, thì phải y theo giáo pháp mà tu hành, bằng không, biết rõ mà cố phạm
thì sẽ đọa địa ngục.
‘’Xô đẩy lẫn nhau‘’: Truy cầu khổ, tập, diệt, đạo bốn chân lý, chế phục kiến
hoặc và tư hoặc, nên gọi là xô đẩy lẫn nhau. Ở trong pháp khổ, tu khổ pháp
trí, khổ pháp nhẫn; ở trong pháp tập, tu tập pháp trí, tập pháp nhẫn; ở trong
pháp diệt, tu diệt pháp trí, diệt pháp nhẫn; ở trong pháp đạo, tu đạo pháp trí,
đạo pháp nhẫn. Dùng bốn đế quán sát lẫn nhau, xô đẩy lẫn nhau, tức là hàng
phục được kiến hoặc. Ðoạn Kinh văn nầy, cũng dụ cho bốn gia hạnh (Noãn,
đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất), là noãn và đỉnh vị. ‘’Ruổi chạy‘’ là nhẫn vị, chữ
‘’cùng‘’ là dụ cho thế đệ nhất. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về bốn gia
hạnh.
‘’Cùng đua ruổi chạy‘’: ‘’Cùng đua‘’ là tranh thủ vô sinh pháp nhẫn, diệu lý
thù thắng, thuộc về nhẫn huệ. ‘’Cùng‘’, tức thế đệ nhất, ‘’ruổi chạy‘’ thuộc
kiến đạo vị, chứng sơ quả A La Hán. Kiến hoặc là đối cảnh khởi tham ái,
hiện tại đoạn tuyệt niệm nầy, thì chẳng mê hoặc kiến ái, mà chứng sơ quả A
La Hán, nhưng chưa dứt được phân đoạn sinh tử. Phân đoạn sinh tử là, từ
khi sinh ra cho đến chết, gọi là một đoạn. Chúng sinh từ khi sinh ra đến chết,
tạo ra tất cả những gì, đều do nghiệp lực chiêu cảm.
‘’Tranh nhau ra khỏi nhà lửa‘’: Là thuộc về tư hoặc. Ðoạn được tư hoặc, thì
chứng bậc vô học, tức chứng tứ quả A La Hán, dứt hẳn kiến hoặc, tư hoặc
mà ra khỏi được tam giới. Lúc nầy ‘’Vượt ra ngoài ba cõi, chẳng còn trong
ngũ hành.’’ Chẳng bị tập khí che đậy, chẳng vì vật dục che lấp. Con người bị
tập khí trói buộc, tùy ý phóng dật, tham cầu vật dục, khiến cho che lấp trí
huệ vốn có, do đó không thể vượt ra khỏi ba cõi, hãy mau ra khỏi nhà lửa
nầy; dụ cho người học Phật pháp, phải có chánh tri chánh kiến, cầu mong ra
khỏi ba cõi.
Mấy ngày trước, có người nói với tôi, y tỉnh ngộ trước kia y dùng tâm phan
duyên là không dúng, y biết được sai lầm, thì có thể thấy y dụng công đã có
tiến bộ, nên tiếp tục nỗ lực đừng giải đãi.
Người tây phương tu đạo thì ít, người hỗn đạo thì nhiều, bây giờ hằng ngày
biết ngồi thiền dụng công tu hành, tức có sự tiến triển. Người đồng môn tu
hành, nên cố gắng khuyên bảo với nhau, chẳng những người xuất gia phải
dụng công, mà đệ tử tại gia cũng phải dụng công, thường tùy hỉ nghe Kinh
niệm Phật.
Khi đó, ông trưởng giả thấy các con ra ngoài được an ổn, đều ở nơi ngã tư
đường, ngồi ở nơi đất trống, chẳng còn gì chướng ngại, tâm ông rất thơ thới
vui mừng hớn hở.
Lúc đó, đức Phật thấy chúng sinh ra khỏi nhà lửa, ngồi ở nơi đất trống.
‘’Ngả tư đường‘’ dụ cho quán pháp bốn đế (khổ, tập, diệt, đạo), đắc được trí
huệ khổ, tập, diệt, đạo, vượt ra khỏi năm đường luân hồi, ở trong ngã tư
đường tu hành, tức tu quán pháp bốn đế, mà được chứng quả, dứt sạch tư
kiến hoặc ba cõi. ‘’Ngồi ở nơi đất trống‘’, ‘’ngồi‘’ là dụ cho chứng được quả
vị, thì chẳng cầu tiến bộ, ngừng lại ở hóa thành.
Người ở trong ba cõi, nếu bị vây hãm ở trong sáu nẻo luân hồi, thì chẳng
được giải thoát. Vượt ra khỏi sáu nẻo luân hồi, thì chẳng còn gì chướng ngại,
thân được yên ổn, mà tâm cũng an lạc, chẳng còn gì lo lắng. Chúng sinh đều
‘’vui mừng hớn hở‘’, vì đều ra khỏi được nhà lửa.
Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng : Lúc nãy, cha có hứa cho
chúng con các đồ chơi quý giá, nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, xin cha hãy
ban cho.
‘’Xe dê, xe hươu, xe trâu‘’, dụ cho quả vị ba thừa. Muốn được quả vị ba
thừa, thì trước hết phải vượt ra ba cõi. Quả vị ba thừa thuộc về pháp quyền
xảo, do đó, vượt ra ba cõi rồi, thì quả vị ba thừa nầy bất khả đắc. Tại thời
Phương Ðẳng, có đàm luận về ba thừa, bốn giáo (Tạng giáo, Thông giáo,
Biệt giáo, Viên giáo); Phật trách người Tạng giáo độc thiện kỳ thân, người
Thông giáo thì chưa nghe sự dạy bảo của Phật; đồng thời khen ngợi người
Biệt giáo, người Viên giáo, hành đúng ý chỉ của Phật, hồi tiểu hướng đại.
Tại thời Bát Nhã, thì lại chỉnh đốn đãi gạn (đãi bỏ cặn bã). Trong Kinh Pháp
Hoa ở trước đã nói rõ, bởi vì căn cơ khác nhau, cho nên nói pháp quyền xảo,
pháp nói ở trong hội Pháp Hoa, mới là thật pháp đại thừa. Các người con ba
thừa nầy, bạch Phật xin đòi, xe dê, xe hươu, xe trâu, bây giờ hãy cho chúng
con.
Xá Lợi Phất ! Lúc đó, ông trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn.
‘’Các con‘’ dụ cho tất cả chúng sinh, Phật xem tất cả chúng sinh đều bình
đẳng như một, chẳng khác biệt. Pháp ba thừa tuy là quyền pháp, nhưng tính
của nó đồng nhau, chẳng mất đi pháp vi diệu. Xưa kia tập khí của chúng
sinh khác nhau, như tu pháp bốn đế, pháp mười hai nhân duyên, đều là pháp
tu tập trước kia. Và còn tu sáu độ Ba la mật. Ngoài ra còn tu từ bi hỉ xả, sắc
pháp, tâm pháp, nghịch pháp, thuận pháp, y báo pháp, chánh báo pháp, thật
pháp, lý pháp, nhân quả pháp, tự pháp, tha pháp, minh bạch pháp, và bồ đề
pháp. Minh tức là giác, bất minh tức là mê. Và cón tu phước huệ pháp,
thường lấy lợi người làm gốc, chẳng những trợ giúp người, mà còn không
làm hại, chướng ngại người khác làm nguyên tắc.
Phận làm đệ tử, thì phải hộ trì pháp của thầy nói, ủng hộ đạo tràng tức là tu
phước lập đức. Thâm nhập Kinh điển, cung kính lễ bái Kinh điển, y theo
trong Kinh mà thiết thật tu hành. Nếu chỉ biết mà không thực hành, biết rõ
mà cố phạm, thì chưa đi sâu vào Kinh điển. Ngài đại sư Trí Giả tông Thiên
Thai, do đọc tụng Kinh Pháp Hoa mà khai ngộ, Ngài nghe Kinh Lăng
Nghiêm mà khởi tâm cung kính, hướng về phương tây lễ lạy mười tám năm,
vẫn chưa được đọc qua Kinh nầy. Tại Trung Quốc có rất nhiều vị xuất gia
lạy từng chữ trong Kinh điển, như lạy Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm,
Kinh Hoa Nghiêm .v.v. Cho nên nói :
‘’Thâm nhập kinh tạng,
Trí huệ như hải‘’.
Người tu đạo, phải thường tự mình hạn chế, trừ khử tất cả tập khí mao bệnh,
do đó :
‘’Có lỗi chớ nãn sửa đổi‘’.
Ta đối đãi với mỗi đệ tử đều bình đẳng như nhau, hy vọng các vị mỗi người
đều sẽ giỏi hơn thầy. Tất cả các pháp đều là Phật pháp, các vị minh bạch
Phật pháp chân nghĩa, thì phải thiết thật tu hành. Những vị Thanh Văn nầy,
ai nấy đều có pháp môn tu hành của mình, nhưng tất cả đều là quyền giáo,
mà chẳng phải thật giáo.
Như những gì nay khai thị đều là pháp chân thật. Vì xưa kia tu tập pháp
chẳng giống nhau, nên trong Kinh nói ‘’mỗi người‘’. Tuy mỗi người tu tập
pháp khác nhau, nhưng bây giờ Phật đều ban cho pháp đại thừa, nhiếp thọ tất
cả các pháp, tất cả chúng sinh đều vào được, nên gọi là ‘’xe lớn‘’.
Xe đó cao rộng, trang trí các thứ báu đẹp, lan can bao quanh, bốn phía treo
linh, lại dùng màn lọng giăng che phía trên, cũng dùng các trân báu tốt đẹp
để nghiêm sức. Dây báu kết thắt các dải hoa rũ xuống. Nệm chiếu mềm mại
trải chồng chất, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, màu da rất sạch, thân
hình rất đẹp, có sức lực rất mạnh, bước đi ngay thẳng, mau lẹ như gió, lại có
nhiều tôi tớ để hầu hạ.
‘’Xe đó cao rộng‘’: Dụ cho Phật chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà
không thấy, thấy biết xâu xa chẳng có bờ bến, chẳng cách chi lường được.
Pháp giới tam đế (không đế, giả đế, trung đế) bao quát tất cả các pháp. Cho
nên nói tri kiến của Như Lai đầy đủ tất cả Phật pháp.
‘’Trang trí các thứ báu đẹp‘’: Dụ cho dùng lục độ vạn hạnh để trang nghiêm
pháp thân, chúng ta phải cung hành thực tiễn lục độ vạn hạnh, mới có thể
trang nghiêm pháp thân.
Phẩm Ví Dụ nầy, là phẩm tinh yếu nhất trong Kinh Pháp Hoa, thật khó mà
minh bạch. Nhưng nếu muốn vào sâu nghĩa lý của Kinh Pháp Hoa, thì trước
hết phải nghiên cứu tường tận phẩm nầy. Liễu giải được diệu lý của nó, thì
sẽ khế hợp với Kinh nầy, còn các phẩm kia cũng chẳng có gì khó minh bạch.
‘’Lan can bao quanh‘’: Dụ cho Ðà La Ni,dịch là "tổng trì". Tổng tất cả pháp,
trì vô lượng nghĩa. Tổng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, trì giới định huệ
ba học viên minh. Ðà La Ni hay trì vạn điều thiện, che đậy các điều ác,
khiến cho tiêu diệt ở trong vô hình, tức là :
‘’Không làm các điều ác,
Siêng làm các điều lành ‘’.
‘’Bốn bên treo linh‘’: Dụ cho bốn biện vô ngại tức là : Từ vô ngại biện, pháp
vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện và lạc thuyết vô ngại biện.
1. Từ vô ngại biện : Lời lẽ sinh động, khiến cho chúng sinh do lời lẽ mà sinh
tín tâm.
2. Pháp vô ngại biện : Dùng một pháp, mà phát huy thành vạn pháp, dùng
vạn pháp mà quy về một pháp. Do đó :
‘’Một gốc tán làm vạn thù,
Vạn thù quy về một gốc‘’.
Cho nên nói : Một tức tất cả, tất cả tức một, pháp chẳng có cố định.
3. Nghĩa vô ngại biện: Tuyên dương nghĩa lý pháp thế gian, viên dung vô
ngại, sự lý chẳng trở ngại.
4. Lạc thuyết vô ngại biện: Người thuyết pháp, thì vui về thuyết pháp, khi
thuyết pháp thì thao thao bất tuyệt, diễn xướng đạo lý vô cùng vô tận.
‘’Lại dùng màn lọng che giăng phía trên‘’: Tức dùng màn lọng dệt bằng tơ
lụa, che ở trên mui xe. Dụ cho Phật có từ, bi, hỉ, xả, bốn tâm vô lượng. Từ là
ban vui cho chúng sinh, bi là cứu khổ chúng sinh, xả là xả bỏ tất cả cho
chúng sinh, hỷ là hoan hỉ giáo hóa tất cả chúng sinh. Ðức hạnh lớn nhất của
Phật, là từ bi vô lượng, hỉ xả vô lượng, trong tất cả các đức hạnh, từ bi cao
nhất, do đó hay che khắp hết tất cả chúng sinh. Cho nên kinh có nói : ‘’Nếu
từ bi đầy đủ bốn vô sở úy, gọi là Như Lai từ‘’. Phật tu bốn tâm vô lượng,
thành tựu phạm hạnh tanh tịnh, cho nên nói là ‘’màn lọng giăng che‘’.
‘’Cũng dùng các trân báu tốt đẹp để nghiêm sức‘’: Dụ cho bốn tâm vô
lượng, phải dùng vạn hạnh trang nghiêm, tức là pháp đại thừa đầy đủ lục độ
vạn hạnh. Tất cả các môn trang nghiêm pháp đại thừa.
‘’Dây báu kết thắt‘’: Dụ cho bốn hoằng thệ nguyện. Bốn hoằng thệ nguyện
này, phải thân thể lực hành, hồi quang phản chiếu, phản cùng tự tỉnh.
- Nguyện thứ nhất: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ : Ta có độ chúng sinh
chăng ? Ðộ chúng sinh tức hành Bồ Tát đạo, nhưng độ chúng sinh cũng
đừng chấp tướng chúng sinh, do đó :
‘’Lìa tất cả tướng, quét tất cả pháp‘’.
- Nguyện thứ hai: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Ðã đoạn phiền não
chưa ? Phiền não tức bồ đề, băng tức nước, nước tức băng, biến phiền não
thành nước trí huệ, tức là bồ đề. Vì sao nói chúng sinh tức là Phật; Phật tức
chúng sinh ? Bạn độ tận chúng sinh tức thành Phật, nếu chưa độ chúng sinh
thì bạn vẫn là chúng sinh. Giác ngộ tức Phật, mê muội là chúng sinh. Do đó,
đừng truy cầu bên ngoài.
Trong Kinh Bảo Ðàn nói rằng: ‘’Tự tính chúng sinh thệ nguyện độ‘’. Tất cả
chúng sinh như một, chẳng phân biệt ta người, trước phải độ tự tính chúng
sinh. Giác là Phật vậy, mê là chúng sinh vậy. Giác và mê không khác, không
mê tức là giác, không giác tức là mê, như băng và nước chẳng khác biệt.
Cho nên nói phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
- Nguyện thứ ba: Pháp môn vô lượng thệ nguyện¡ học: Pháp môn vô lượng
vô biên, ta đã học chưa ?
- Nguyện thứ tư: Phật đạo¡ vô thượng thệ nguyện thành : Ðừng do dự không
quyết định, nên thệ nguyện tu hành cho đến khi thành Phật, nếu không thì
chẳng đạt được quả vị Phật.
‘’Dải hoa rũ xuống‘’: Trên xe có hoa thòng rũ xuống, dụ cho bốn pháp nhiếp
thọ chúng sinh, tức là bốn pháp nhiếp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
1. Bố thí: ‘’Trước dùng câu dục móc, sau khiến vào Phật đạo.’’ Nếu muốn
chúng sinh vào trí huệ của Phật, thì trước hết dùng pháp phương tiện dẫn
dắt. Chúng sinh thích tiền tài, thì bố thí tiền tài, khiến cho họ vui mừng, sau
đó dạy Phật pháp cho họ, thì họ vui vẻ tiếp thọ. Bố thí thì đầu tiên nên bố thí
pháp, tiếp đó bố thí tiền tài. Nhưng dùng pháp phương tiện, khiến cho họ
tiếp thọ, cho nên trước phải bố thí tiền tài, sau đó bố thí pháp, và bố thí vô
úy, khiến cho chúng sinh nghe Phật pháp, thì lìa tất cả sợ hãi.
2. Ái ngữ : Dùng lời lẽ ôn hòa khéo léo để hóa đạo, như lòng cha mẹ thương
con cái, thì chẳng gì mà không thành, dùng từ ái đối đãi với chúng sinh.
3. Lợi hành : Chuyên làm việc thiện để lợi ích chúng sinh.
4. Ðồng sự : Làm cùng việc cùng nghề với chúng sinh, thì có thể giáo hóa họ
tin Phật, khiến cho họ bỏ mê về giác. Cho nên, Bồ Tát hành Bồ Tát đạo,
dùng bốn pháp nhiếp nầy để độ chúng sinh, từ chúng sinh có tội lỗi cũng sẽ
từ từ cải ác hướng thiện. Bồ Tát đối với những chúng sinh cang cường
không biết hối cải, vẫn luôn luôn hy vọng, có ngày họ sẽ cải ác hướng thiện.
Cho nên bốn pháp nhiếp nầy diệu không thể tả.
‘’Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất‘’: Dụ cho tu tất cả thiền định, y quán
chiếu Bát Nhã để huân tu, lâu ngày sẽ thành tựu. ‘’Chồng chất‘’ dụ cho khi
ngồi thiền thì được cảm giác khinh an, cảm giác nầy liên tục không ngừng,
cho đến đi chẳng biết đi, đứng chẳng biết đứng, ngồi chẳng biết ngồi, nằm
chẳng biết nằm, đạt đến cảnh giới không có tướng ta, tướng người. Cảnh
giới nầy, phải dụng công tu hành, thì mới có thể đạt được, từ vị của nó cũng
phải chính quý vị thể hội thì mới biết được, do đó :
‘’Như người uống nước, nóng lạnh tự biết.’’
‘’Gối đỏ để trên‘’: Cái gối màu đỏ để ở trong xe, dùng quang màu đỏ, dụ
cho vô phân biệt pháp. Gối gồm có gối ở trong và ở ngoài, gối ở ngoài dùng
để dựa khi xe chạy, dụ cho dụng công tu đạo, động chẳng ngại tĩnh, tĩnh
chẳng ngại động, động tức tĩnh, tĩnh tức động, động tĩnh nhất như. Xe chạy
tức động, xe ngừng tức tĩnh, động tĩnh đều là xe nầy. Chúng ta tu đạo cũng
như thế, động tĩnh đều ở tại thân của chúng ta. Trong xe cũng có gối, dùng
để gối đầu nghỉ ngơi, dụ cho nhất hạnh tam muội, hay sinh Bát Nhã trí huệ
chân chánh.
‘’Dùng trâu trắng kéo‘’: Dụ cho Bát Nhã vô lậu. Tất cả tập khí mao bệnh của
chúng ta đều là lậu, tất cả dục niệm đều là lậu. Tại sao chúng ta không thành
Phật, không khai ngộ ? Là vì có lậu, nếu chẳng có lậu thì được giải thoát.
Muốn được trí huệ vô lậu, thì tu bốn đế sẽ thành tựu. Bảo trì trí huệ vô lậu,
thì tu mười hai nhân duyên, sẽ thành tựu mà được khai ngộ. Tu sáu độ cũng
được đến bờ kia. Tục ngữ có câu :
‘’Ban ngày ngừa lửa,
Ban đêm ngừa trộm‘’.
Hằng ngày, chúng ta phải phòng ngừa lửa vô minh nổi dậy, tháng nầy tháng
khác phải phòng ngừa sáu tên tặc (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) phá rối. Sáu
tên tặc nầy thường chi phối bạn, khiến cho bạn điên đảo sẽ trộm đi pháp bảo
tự tính của bạn. Nếu ai bảo trì được vô lậu, thì chắc chắn sẽ thành Phật. Vô
lậu tức là trâu trắng kéo xe.
‘’Dùng trâu trắng kéo‘’: Trắng là màu bổn thể thanh tịnh không nhiễm.
Nghĩa là bổn thể của pháp thanh tịnh không nhiễm, tương ứng với trí vô lậu.
Xe trâu trắng lớn, biểu thị bốn Niệm Xứ viên mãn thành tựu, sẽ được khai
ngộ. Lại biểu thị cho bốn Chánh Cần.
‘’Màu da rất sạch‘’: Dụ cho nhị thế thiện viên mãn, nhị thế ác tiêu diệt. Bốn
Như Ý Túc (dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý
túc). Nếu các bạn chẳng có tâm dâm dục, thì đó là gốc trí huệ vô lậu, bạn
muốn tu đạo thì sẽ đầy thiện dục tu đạo, bạn muốn tinh tấn, thì có thể phát
đạt khai quật Phật giáo ở phương tây. Niệm như ý túc tức là toại tâm viên
mãn nguyện. Tư duy như ý túc là những gì suy nghĩ sẽ đạt được lý tưởng.
Cho nên muốn được trí huệ vô lậu, thì trước hết trừ khử đi tất cả nhiễm ô,
lấy sự trong sạch làm gốc.
‘’Thân hình rất đẹp‘’: Tức là xe trâu trắng lớn thân hình rất đẹp, dụ cho phát
tâm đại thừa, như thân hình tốt đẹp, chỉ một tâm nầy mà bao quát tất cả các
pháp.
‘’Có sức lực rất mạnh‘’: Tức là trâu trắng lớn có sức lực khỏe mạnh, ‘’sức‘’
dụ cho năm căn (tín, tấn, niệm, định, huệ). Năm căn lành nầy sao gọi là
‘’căn‘’ ?
Bởi do rễ (căn) mà sinh trưởng, do đó có câu :
‘’Rễ sâu thì gốc vững,
Gốc vững thì cành lá xum xê‘’.
Tôi từng nói, Phật pháp như biển cả, chỉ có niềm tin thì mới vào được, do đó
học Phật pháp, trước hết phải có tín tâm, sau đó tiếp tục tinh tấn tiến về
trước, dần dần sẽ không bao giờ mất đi. Có niệm căn rồi, thì không bị người
làm giao động, còn phải có định căn, để giữ vững lập trường, mới đủ để độ
người, mà không bị người làm lay chuyển. Có định căn thì sẽ sinh huệ căn.
‘’Lực‘’ dụ cho năm lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực). Do
năm căn mà sinh ra năm lực, có năm lực thì có thể chứng trí huệ vô lậu,
thành tựu tất cả hạt giống bồ đề.
‘’Bước đi ngay thẳng‘’: Tức là con trâu nầy, có sức lực rất mạnh, cho nên đi
rất mau. Dụ cho định huệ quân bình, phải định huệ đều tiến. Nếu chỉ có
định, mà thiếu huệ, thì thành người tu hành ngu si, còn nếu chỉ có huệ mà
chẳng có định, thì thành người tu hành chạy nhảy lăn xăn. Cho nên, phải đầy
đủ định huệ để trợ giúp lẫn nhau. Lại dụ cho bảy Giác Chi, còn gọi là bảy
Giác Phần, tức cũng là bảy Bồ Ðề Phần, là bảy pháp môn giác đạo. Phật vì
người nhị thừa nói ba mươi bảy Ðạo Phẩm (năm căn, năm lực, bốn niệm xứ,
bốn chánh cần, bốn như ý túc, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo phần). Trong
Phật pháp đại thừa, cũng bao quát ba mươi bảy Ðạo Phẩm nầy.
Bảy bồ đề phần :
1. Trạch pháp giác phần : Còn gọi là trạch pháp giác tri, dùng mắt chọn pháp
trí huệ vô lậu, để lựa chọn pháp đúng pháp sai, pháp chánh pháp tà, pháp
thật pháp giả, pháp chân pháp hư, để theo chánh bỏ tà.
2. Tinh tấn giác phần : Y theo pháp môn chân chánh, tu hành tiến về trước.
3. Hỉ giác phần : Có chánh và tà, có người y theo chánh đạo tu hành mà hoan
hỉ, cũng có người y theo tà đạo tu hành, rơi vào cuồn hỉ điên đảo. Phàm là y
theo dục niệm mà hành là điên đảo, nên dùng thiền định Phật pháp làm hỉ,
do đó có câu :
‘’Thiền duyệt vi thực,
Pháp hỉ sung mãn’’.
Nghe được Phật pháp, biết ý nghĩa cao sâu áo diệu, nên sinh tâm hoan hỉ.
4. Trừ giác phần : Biện rõ phải trái, lấy chánh trừ tà.
5. Xả giác phần : Xả bỏ tất cả những gì không đáng, như ngồi thiền không
nên chấp vào chỗ tốt, không nên tham luyến cảnh giới, hãy xả bỏ.
6. Ðịnh giác phần : Ðừng chấp trước bất cứ những gì, có trí huệ thì sinh
định. Nếu bạn hôn trầm, thì hãy dùng trạch pháp giác phần, tinh tấn giác
phần, hỷ giác phần để đối trị. Nếu có tâm nóng nảy, thì dùng trừ giác phần,
xả giác phần, định giác phần để đối trị.
7. Niệm giác phần : Tâm có hôn trầm hoặc nóng nảy đều là niệm. Người
phát bồ đề tâm, thì phải y chiếu bảy bồ đề phần mà tu hành. Nếu y theo bảy
bồ đề phần mà hành, thì thân tâm an ổn, do đó gọi là ‘’Bước đi ngay thẳng‘’,
là biểu hiện dụng công đắc lực.
‘’Mau lẹ như gió‘’, xe nầy được con trâu trắng lớn kéo, nghĩa là biểu thị tiến
về trước không lùi. ‘’Gió‘’ có gió mát và gió bão, gió nầy có thể là gió mát,
cũng có thể là gió bão. Tại sao ? Bạn được gió nầy thổi, cảm thấy mát mẻ dễ
chịu, thì gọi là gió mát. Song, cũng có thể gọi là gió bão, vì gió nầy hay thổi
tan tất cả thiên ma ngoại đạo, trừ tất cả tà kiến. ‘’Mau lẹ như gió‘’ dụ cho
tám Chánh Ðạo, người tu đạo nên y theo tám Chánh Ðạo mà tu hành.
1. Chánh kiến : Phải đầy đủ chánh tri chánh kiến, dùng trí huệ vô lậu, phá
trừ tất cả tà tri tà kiến. Phi lễ vật thị (không hợp lễ giáo thì đừng xem) là
chánh kiến.
2. Chánh tư duy : Phi lễ vật thính (không hợp lễ giáo thì đừng nghe), do sự
nghe mà khởi suy nghĩ.
3. Chánh ngữ : Phi lễ vật ngôn (không hợp lễ giáo thì đừng nói) tức chánh
ngữ. Người chưa phải là bậc Thánh hiền, tránh sao khỏi có lỗi của người,
nên rộng lượng bao dung. Mọi người có duyên nên mới tụ lại một chỗ tu
đạo, cho nên hãy giấu kín việc ác, biểu dương việc thiện, đừng bươi móc lỗi
lầm, khiến cho người sinh thối tâm.
4. Chánh nghiệp : Phi lễ vật động (không hợp lễ giáo thì đừng làm) tức là
chánh nghiệp. Ðừng kinh doanh tà nghiệp, như mở sòng bạc, mua bán á
phiện, mua bán súc sinh, gái mãi dâm .v.v., chánh nghiệp tức là tham thiền,
tu học Phật pháp.
5. Chánh mạng : Làm tất cả những gì, đều phải quang minh lỗi lạc, gọi là
chánh mạng. Có năm tà mạng:
a. Phô trương lạ lùng.
b. Nói đức của mình.
c. Bói tướng tốt xấu.
d. Lớn tiếng hiện oai.
e. Kêu người cúng dường.
6. Chánh tinh tấn : Có kẻ tu tà tinh tấn, ngày đêm sáu thời tu tập bàng môn tả
đạo, cũng có kẻ hành khổ hạnh vô ích, đều là tà tinh tấn. Chánh tinh tấn là y
theo pháp môn bốn Niệm Xứ, bốn Chánh Cần, bốn Như Ý Túc, năm Căn,
năm Lực, bảy Bồ Ðề Phần, tám Ðường Chân Chánh, bốn Ðế, mười hai Nhân
Duyên, sáu Ðộ Ba la mật .v.v., đều là chánh tinh tấn, y theo sự chỉ bảo của
Phật mà tu hành, y giáo phụng hành, tức là chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn
gồm thân tinh tấn, và tâm tinh tấn; tâm tinh tấn là siêng niệm Tam Bảo, niệm
niệm không quên, suy gẫm chánh pháp; thân tinh tấn là thân thể lực hành
như lạy Kinh, niệm Phật, lễ sám, niệm danh hiệu Phật .v.v., đều thuộc về
thân tinh tấn.
7. Chánh niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tức là chánh niệm. Tà
niệm tức là niệm kiến, niệm ái, niệm tư, niệm biên kiến, niệm niệm không
ngừng đối với ái tình, mỗi ý niệm đều ích kỷ lợi mình, tức là tà tâm. Niệm
Phật : Niệm ‘’Nam mô A Di Ðà Phật‘’, ‘’Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật‘’, đều là niệm Phật. Niệm Chú Ðại Bi, Chú Lăng Nghiêm đều là niệm
pháp; đọc Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa .v.v., đều là niệm Pháp. Niệm
Tăng : Niệm mười phương hiền Thánh Tăng. Bạn muốn niệm Tăng thì cúng
dường Tăng, niệm Pháp thì cúng dường Pháp, niệm Phật thì cúng dường
Phật. Nếu bạn muốn tu phước báu thì phải cúng dường Tam Bảo, do đó có
câu :
"Phàm Tăng tuy bất năng chủng phước,
Kì phước tất giả phàm Tăng.
Ni long tuy bất năng hàng vũ,
Kì vũ tất giả ni long".
Nghĩa là : Phàm Tăng là Tăng chưa chứng quả, tuy không thể trồng phước
cho bạn, nhưng nếu bạn thành tâm cầu phước nơi vị phàm Tăng, thì mười
phương hiền Thánh Tăng sẽ ban phước cho bạn.
Ở Trung Quốc, mỗi khi trời hạn hán thì một số người đến miếu Long Vương
để cầu mưa, trong miếu có tạo tượng rồng bằng bùn, cho nên nói muốn cầu
mưa thì phải cầu trước tượng rồng bằng bùn. Long thần trên trời trông coi
việc mưa, chẳng phải nhục nhãn của phàm phu mà thấy được.
Trước kia, khi tôi còn ở Ðông Bắc bên Trung Quốc, có vị đệ tử pháp danh
Quả Thuấn, có làm một cái lều tranh, mời tôi đến làm lễ khai quang. Vào
ngày lễ khai quang, thì có mười con rồng đến xin quy y Tam Bảo. Lúc đó,
có bốn vị đệ tử ở đó, trong số đó có hai vị có thiên nhãn thông, ngồi thiền thì
có thể quán sát được mọi việc. Tôi bảo mười con rồng đó, tâu với Ngọc
Hoàng, ngày mai vì tôi mà mưa xuống, thì ngày mốt tôi sẽ làm lễ quy y cho
các vị. Quả nhiên, ngày mai trời mưa xuống chung quanh chỗ tôi khoảng
bốn mươi dặm, tôi bèn làm lễ quy y cho họ. Chuyện này tuy là khó tin
nhưng là sự thật.
Lại nữa, lúc tôi ở Hương Cảng, một năm nọ trời hạn hán, Ðạo Tràng Phật
giáo các nơi đều cầu mưa, nhưng chẳng có hiệu quả gì. Sau đó, tôi kêu một
vị đệ tử niệm ‘’Nam Mô A Di Ðà Phật‘’ trong ba ngày, phải cầu cho được
mưa xuống. Y chí thành niệm Phật, quả nhiên hai ngày sau trời mưa xuống.
Mười con rồng đã quy y biết tâm của tôi, tất tôn kính thầy mà ra lệnh mưa
xuống, những việc nầy thường ứng nghiệm chẳng sai trật, thật là diệu không
thể tả, người đã trải qua những cảnh giới nầy, thì tin sâu chẳng nghi ngờ.
8. Chánh Ðịnh : Tà định thì chấp trước cảnh giới, còn chánh định thì tu Tứ
Thiền (trời sơ thiền, trời nhị thiền, trời tam thiền, trời tứ thiền), bát định (trời
Tứ Thiền thêm vào Trời Không Vô Biên Xứ, Trời Thức Vô Biên Xứ, Trời
Vô Sở Hữu Xứ, Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ). Tu pháp nầy, trước hết
phải trừ khử ngã tướng, chẳng chấp trước bất cứ những gì tức là chánh định.
‘’Lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ‘’: Tức là có nhiều tùy tùng đi theo để hộ vệ.
‘’Tôi tớ‘’ dụ cho pháp môn phương tiện. Người tu hành dùng pháp phương
tiện để đạt đến bờ kia. Thiên ma ngoại đạo và hàng nhị thừa đều tùy trí tu
đạo.
Trong kinh Duy Ma Cật có nói :
‘’Giai ngã thị giả‘’.
Nghĩa là :
Những gì có ngã đều là giả.
Quả địa Bồ Tát đều có thần thông, đều toại tâm như ý, như có rất nhiều tùy
tùng để bảo vệ họ. Cho nên nói : ‘’Lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ bảo vệ‘’,
pháp đại thừa phải cần nhiều pháp phương tiện, để trợ giúp cho thành tựu.
Niệm niệm quán tâm, một niệm tâm hiện tiền, chẳng trước chẳng sau, chẳng
đầu chẳng cúi, chẳng bờ chẳng bến, tâm nầy đầy đủ không, giả, trung, ba đế,
cho nên dùng ‘’cao‘’ dụ cho ‘’xe đó cao lớn‘’. Một niệm tâm hiện tiền đầy
đủ mười pháp giới. Cho nên nói là ‘’rộng‘’. Dùng ‘’các thứ báu đẹp trang
trí‘’, dụ cho tính đức của tất cả chúng sinh vượt qua Hằng hà sa số.
‘’Phật nói tất cả các pháp,
Vì độ tất cả tâm,
Nếu chẳng có tất cả tâm,
Đâu có dùng tất cả các pháp ‘’.
Cho nên ngoài tâm chẳng có pháp, pháp tức là tâm. Tâm bao quát pháp thế
gian và pháp xuất thế gian, tức là ‘’lan can bao quanh‘’. ‘’Bốn phía treo
linh’’: Vì tâm hay thọ ứng khắp hết thảy, diễn các âm thanh giáo lý, đều
không ngoài một tâm niệm, cho nên nói ‘’bốn phía treo linh‘’.
‘’Lại dùng màn lọng che giăng phía trên‘’ : Dụ cho tâm thượng diệu ở trong
tất cả các pháp, chẳng có pháp nào mà chẳng bao dung. ‘’Cũng dùng các
trân báu tốt đẹp để nghiên sức‘’: Dụ cho tâm có tâm vương, tức là tám thức
tâm vương, còn lại là tâm sở. Tâm vương thường hay quán tưởng, quán
tưởng này khởi nơi tất cả tâm sở, hổ tương chiếu ứng. Tâm sở với tâm thiện
tâm sở, hổ tương trói buộc với nhau, tức tức tương quan, cho nên nói : ‘’Dây
báu kết thắt‘’. Tâm sở của tâm thiện hay sinh vô lượng trí huệ, cũng hay
thành tựu vô lượng phước đức, cho nên nói ‘’các dãi hoa rũ xuống’’. Một
tâm niệm đầy đủ pháp mềm diệu khinh an, càng đầy đủ tất cả các pháp,
trùng trùng vô tận, cho nên gọi là ‘’Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất‘’.
Tâm tính hay động cũng hay tĩnh, động chẳng ngại tĩnh, tĩnh chẳng ngại
động, động tĩnh nhất như, đó là ‘’gối đỏ để ở trên’’.
‘’Dùng trâu trắng kéo‘’: Lý của tâm tính là do Diệu quán sát trí hiển hiện ra.
‘’Màu da rất sạch‘’: Tức là công đức của sự thành tâm vi diệu không thể
nghĩ bàn, nếu không xen tạp vô minh phiền não tức là ‘’rất sạch‘’. Tâm viên
dung vô ngại, cho nên nói ‘’Thân hình rất đẹp‘’. Trí huệ quán sát viên dung
vô ngại, hay sinh trưởng tất cả căn lành, viên quán lại hay phá tan được kiến
ái trong ba cõi, lại hay phá tan điên đảo tưởng ở ngoài ba cõi, do đó nói:
‘’Có sức lực rất mạnh‘’. Viên quán và định huệ không hai, tức định tức huệ,
định huệ viên dung, cho nên nói: ‘’Bước đi ngay thẳng‘’. Viên quán hay
khiến cho hành giả đạt đến bờ kia, cho nên nói ‘’mau lẹ như gió‘’. Viên
quán hay chi phối tất cả tâm sở, cho nên nói ‘’lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ
bảo vệ‘’.
Tại sao ? Vì ông trưởng giả đó, của cải giàu có vô lượng, đủ thứ kho tàng
thảy đều tràn đầy.
‘’Tại sao‘’? ‘’Ðây là nguyên nhân gì‘’? Ông trưởng giả đó của cải giàu có
vô lượng‘’: Tức là Phật nói đủ thứ các tạng pháp, bao quát tất cả các pháp.
Tóm lại, tức lục độ vạn hạnh. Lục độ tức:
1. Bố thí
2. Trì giới
3. Tinh tấn
4. Nhẫn nhục
5. Thiền định
6. Trí huệ.
Nếu biết lục độ mà không hành, thì không thể đến được bờ kia. Phải thiết
thật tu hành, mới có thể đến được Niết Bàn bờ bên kia. Bố thí gồm :
a. Tài thí
b. Pháp thí
c. Vô úy thí.
Trì giới tức là:
"Đừng làm các điều ác,
Hãy làm các điều lành".
Nhẫn nhục thì nghịch cảnh đến đều thọ nhận, chẳng có tướng ta, chấp ta,
thấy ta, thường quán tưởng: ‘’Khi chưa sinh ra ai là ta ? Khi sinh rồi ta là ai
? Lớn lên thành người giả danh là ta, chuyển nháy mắt ta lại là ai‘’? Trừ
được ‘’tướng ta‘’ thì nghịch cảnh đến đều tiếp nhận. Học Phật pháp, thì phải
cung hành thật tiễn, nếu gặp nghịch cảnh mà như như chẳng động, thì mới
thật sự lãnh ngộ được chỗ diệu của Kinh Pháp Hoa. Không nên chấp vào
‘’tướng ta‘’, ‘’cái ta‘’ nầy, cuối cùng cũng sẽ chết đi, hà tất vì ‘’cái ta‘’ nầy
mà tranh đua danh lợi ? Nếu có người đánh bạn, đó là quả báo bạn đã tạo ở
kiếp trước. Ðời này bạn mắng chưởi người, thì kiếp sau sẽ bị người mắng
chưởi lại; đời này bạn cho họ phiền não, thì kiếp sau người cũng sẽ cho bạn
phiền não, cho nên nhân quả tơ hào không sai. Nếu có người đánh bạn thì
hãy quán tưởng ‘’chẳng có cái ta‘’, nếu bạn khó lòng buông xả được ‘’tướng
ta‘’, thì có một diệu pháp có thể giúp bạn buông xả được ‘’tướng ta‘’. Có
người đánh bạn thì bạn hãy bỏ chạy đừng để ý tới; nếu có người mắng bạn,
thì bạn hãy xem như họ đang ca hát, hoặc họ nói tiếng ngoại quốc mà bạn
chẳng hiểu.
Nếu bạn áp dụng những phương pháp nầy để đối trị, thì phiền não sẽ tự tiêu
trừ. Người có nghiệp chướng, mới có phiền não, tức có nghiệp chướng thì
hãy tiêu trừ nghiệp chướng bằng cách tu hạnh nhẫn nhục. Như bài kệ của Bồ
Tát Di Lạc:
‘’Lão quê mặc áo vá
Cơm hẩm no đầy bụng
Áo vá che rét lạnh
Vạn sự hãy tùy duyên.
Có người mắng lão quê
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê
Lão quê nằm lăn ra.
Khạc nhổ vào mặt lão
Ðể nó tự nhiên khô
Ta cũng chẳng nhọc sức
Họ cũng không phiền não.
Ðó là Ba La Mật,
Cũng là báu vô giá,
Nếu hành được như thế,
Lo gì đạo chẳng thành.’’
Cho nên trừ khử đi ‘’tướng ta‘’ tu nhẫn nhục Ba La Mật, mới thật sự minh
bạch Phật pháp. Do đó có câu:
‘’ Ngàn ngày nhặc củi,
Chỉ một đốm lửa thì cháy sạch‘’.
Một khi lửa vô minh nổi dậy, thì thiêu sạch công đức đã dày công tích lũy.
Do đó, người học tập Phật pháp, thì phải tu nhẫn nhục Ba La Mật, đừng vì
ngoại cảnh mà sinh phiền não.
Tinh tấn thì ngày đêm sáu thời đều tinh tấn. Thiền định là tĩnh lự. Bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, năm độ nầy là phước đức tạng, độ thứ
sáu là Bát Nhã (trí huệ) Ba La Mật, là Bát Nhã tạng, cũng gọi là trí huệ tạng,
cho nên nói là ‘’Ðủ thứ kho tàng‘’. ‘’Thảy đều tràn đầy‘’: Dụ cho quyền,
thật hai trí. Quyền trí sung mãn là ‘’tràn‘’, thật trí hoàn mãn là ‘’đầy‘’.
Quyền, thật hai trí đều viên mãn, cho nên nói ‘’thảy đều tràn đầy‘’.
Mà nghĩ rằng : Của cải của ta nhiều vô số, không nên dùng xe nhỏ xấu xí,
mà cho các con. Nay những đứa trẻ nầy, đều là con của ta, ta thương chúng
nó chẳng có thiên lệch. Ta có xe lớn bằng bảy báu như thế, số nhiều vô
lượng, nên dùng tâm bình đẳng mà cho chúng nó, không nên có sự phân
biệt. Tại sao ? Vì ta dùng của cải nầy, cho khắp tất cả mọi người trong nước,
hãy còn không hết, huống gì các người con.
‘’Mà nghĩ rằng: Của cải của ta vô số, không nên dùng xe nhỏ xấu xí mà cho
các con‘’: Ông trưởng giả nghĩ như vầy : Pháp tài của ta chí cao vô thượng,
không nên dùng pháp tiểu thừa giáo hóa tất cả chúng sinh. ‘’Các con‘’: Tức
là hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát.
‘’Nay những đứa trẻ nầy‘’: Dụ cho các con ba thừa ở trên mới phát tâm, đều
không hay biết gì như trẻ con. ‘’Ðều là con của ta, ta thương chúng chẳng có
thiên lệch‘’: Chúng nó đều là con của ta, ta đối với chúng đều bình đẳng,
chẳng khinh người nầy, trọng người kia. ‘’Ta có xe lớn bằng bảy báu như
thế, số nhiều vô lượng‘’: Dụ cho bảy Bồ đề phần, bát Chánh đạo, năm Căn,
năm Lực, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, tổng cộng là ba
mươi bảy Ðạo phẩm, dùng để trang nghiêm chiếc xe lớn nầy, số nhiều vô
lượng. ‘’Nên dùng tâm bình đẳng mà cho chúng nó, không nên có sự khác
biệt‘’. Ta nên đối đãi bình đẳng, đều cho xe lớn, không nên có tâm thiên lệch
sai khác. ‘’Vì sao? : Bởi nguyên nhân gì ? ‘’Ta dùng của cải nầy, cho khắp
tất cả mọi người trong nước, hãy còn không hết‘’: ‘’Trong nước‘’: Dụ cho
cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, ‘’không hết‘’ : Dụ cho Phật pháp vĩnh
viễn không thiếu. ‘’Huống gì các con‘’, Pháp bảo của ta bố thí cho tất cả
nhân dân trong nước còn không thiếu, huống gì các con của ta ?
Chúng ta phải nhận chân hồi quang phản chiếu, phản tỉnh chính mình có
phiền não chăng ? Nếu không có phiền não, tức đã được chỗ tốt của Phật
pháp, nếu không thì thiết thực tu hành, đến được cảnh giới tám gió thổi
không lay, thì mới thật sự được chỗ diệu của Phật pháp.
Lúc đó, các người con ai nấy đều ngồi xe lớn, được chưa từng có, chẳng
phải chỗ trước kia mong đợi.
Xá Lợi Phất ! Ý của ông thế nào ? Ông trưởng giả đó, đồng cho các người
con xe trâu báu lớn, có hư vọng chăng ?
‘’Lúc đó, các người con ai nấy đều ngồi xe lớn‘’: Lúc đó, ông trưởng giả ban
tặng cho các người con xe lớn, trưởng giả tức là người có của cải giàu vô
lượng. Nếu các người con chẳng phải con của ông trưởng giả, thì không thể
cho xe lớn. Nếu là con của trưởng giả, mà trưởng giả chẳng có của cải, thì
cũng chẳng có gì để cho. Ông trưởng giả đó, có đủ thứ kho tàng, các người
con cũng thật là Phật tử, cho nên Phật đồng cho xe lớn. Các người con vốn
chỉ cầu được xe dê, hoặc xe hươu, thì tâm đã mãn nguyện, vì ông trưởng giả
của cải giàu vô lượng, mới ban tặng xe lớn cho các con, tức là Phật dùng
pháp đại thừa cứu độ chúng sinh. ‘’Ðược chưa từng có, chẳng phải chỗ trước
kia mong đợi‘’: Các người con đó, chưa từng thấy qua pháp thượng thừa
như thế, chẳng phải ý của họ nghĩ dến. Ví như người tiểu thừa, vốn tu pháp
tiểu thừa, đã dứt phần đoạn sinh tử, nay họ mượn nhờ pháp môn tiểu thừa,
mà họ vốn tu tập, để hồi tiểu hướng đại, thành tựu pháp đại thừa, dứt biến
dịch sinh tử, đó mới là vượt ngoài hy vọng của họ vốn có.’’ Xá Lợi Phất ! Ý
của ông như thế nào ? Ông trưởng giả đó, đồng cho các con xe trâu báu lớn,
có hư vọng chăng ?’’ Xá Lợi Phất ! Ý ông thế nào ? Ông trưởng giả đó, bình
đẳng ban tặng cho các người con, xe trâu báu lớn có thích đáng chăng ?
Xá Lợi Phất nói : Không vậy ! Ðức Thế Tôn ! Ông trưởng giả đó, chỉ khiến
cho các con khỏi nạn lửa, an toàn tính mạng, chẳng phải là hư vọng. Tại sao
? Vì nếu được an toàn tính mạng, thì đã được đồ chơi tốt đẹp, huống chi
dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Ðức Thế Tôn ! Cho dù ông trưởng giả đó, không cho một thứ xe nhỏ nhất
nào, cũng chẳng hư vọng. Tại sao ? Vì ông trưởng giả đó, trước hết nghĩ
rằng : Ta dùng phương tiện, khiến cho các con được ra khỏi, vì nhân duyên
đó, mà chẳng hư vọng vậy. Hà huống ông trưởng giả biết mình của giàu vô
lượng, muốn lợi ích cho các con, mà đồng cho xe lớn.
Tôn giả Xá Lợi Phật trả lời Ðức Phật: ‘’Không vậy, Ðức Thế Tôn ! Ông
trưởng giả đó chẳng nói dối, Ngài muốn khiến cho các con khỏi bị nạn lửa
thiêu đốt, được an toàn tánh mạng, cho nên chẳng nói dối vậy. Vì sao ?
Mạng người quý giá, nếu đã giữ được tính mạng, thì đã coi như được đồ
chơi tốt đẹp, hà huống ông trưởng giả rộng bày phương tiện, cứu vớt tất cả
chúng sinh ra khỏi nhà lửa tam giới.
Ðức Thế Tôn ! Cho dù ông trưởng giả chẳng cho các con một thứ xe nhỏ
nào, cũng chẳng hư vọng. Vì sao ? Vì ông trưởng giả đó, trước khi cứu vớt
các người con ra, đã nghĩ như vầy : Ta phải dùng pháp phương tiện khéo léo,
khiến cho các con chạy ra khỏi nhà lửa. Vì nhân duyên đó, nên chẳng có lỗi
nói dối. Huống gì ông trưởng giả đó, biết mình có của cải giàu vô lượng,
khiến cho các người con được lợi ích, đều được xe lớn.’’ Kinh văn ở trên, là
đức Phật dùng pháp đại thừa, cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên chẳng vọng
ngữ.
Ðức Phật bảo Xá Lợi Phất ! Lành thay, lành thay ! Như lời ông nói, Xá Lợi
Phất ! Như Lai cũng lại như thế, là cha lành của tất cả thế gian, ở nơi sợ hãi
suy não lo buồn, vô minh đen tối che đậy, vĩnh viễn hết sạch chẳng còn sót,
thảy đều thành tựu vô lượng tri kiến, lực vô sở úy, có sức đại thần thông, và
sức trí huệ, đầy đủ phương tiện trí huệ Ba la mật, đại từ bi, thường chẳng
lười mỏi, luôn luôn cầu việc thiện, lợi ích tất cả chúng sinh, mà sinh vào nhà
lửa tam giới hư mục nầy.
Phật bảo Xá Lợi Phất: Lành thay, lành thay, như lời ông nói, Phật cứu chúng
sinh như ông trưởng giả cứu các con. Như Lai là cha lành của tất cả chúng
sinh thế gian. Chúng sinh bị tất cả sự sợ hãi, suy não, lo buồn, vô minh che
đậy, như nay quét một cái, thì sạch tất cả phiền não, thành tựu tất cả tri kiến
của Phật. Như tôn giả Xá Lợi Phất, từ cửa trí huệ của Phật, mà khai mở tri
kiến của Phật, đắc được trí huệ bậc nhất. Tôn giả Mục Kiền Liên, từ cửa
thần thông mà khai mở tri kiến của Phật, đắc được thần thông đệ nhất, thành
tựu mười lực, bốn vô sở úy. Phật có sức đại thần thông, cứu vớt tất cả chúng
sinh lìa khổ được vui. Phật có bốn trí: Thành sở tác trí, Diệu quán sát trí,
Bình đẳng tánh trí, Ðại viên cảnh trí, đầy đủ pháp môn phương tiện khéo léo,
trí huệ Ba La Mật, ngồi thuyền Bát Nhã đến bờ kia. Ðại từ là ban vui cho
chúng sinh, đại bi là cứu khổ chúng sinh, vĩnh viễn chẳng lười mỏi. Phật lấy
sự giáo hóa chúng sinh làm bổn hoài, cũng như tôn giả A Nan phát nguyện:
‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, thì quyết không thủ ngôi Chánh
giác.’’ Phật thương xót chúng sinh ở trong sự điên đảo, suốt ngày chạy đông
chạy tây, nhận giả làm thật, chẳng biết ra khỏi nhà lửa tam giới, cho nên
Phật dùng sức đại thần thông, sức đại trí huệ, để lợi ích tất cả chúng sinh, mà
sinh vào nhà lửa tam giới, vì cứu vớt chúng sinh khiến cho họ tỉnh ngộ, để
họ sớm ra khỏi nhà lửa.
Vì độ chúng sinh ra khỏi nạn lửa sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, ngu si
tối tăm ba độc, mà giáo hóa, khiến cho chúng sinh được Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Phật sinh vào nhà lửa vì cứu độ chúng sinh, chúng sinh chẳng sợ hãi, chịu đủ
thứ khổ hành hạ mà chẳng biết. Sinh thì như rùa lột mai, già thì các căn suy
yếu, bịnh hoạn nằm trên giường, khổ không thể tả, muốn chết cũng chẳng
được, đi cũng chẳng được, chết thì như bò sống lột da. Ðầy dẫy lo buồn khổ
não, ngu si, tối tăm, và lửa tham sân si ba độc. Phật giáo hóa chúng sinh,
khiến cho được vô thượng chánh đẳng chánh giác, được quả vị Phật. Phật
luôn luôn đều đợi chúng sinh thành Phật, chúng ta nên sớm lìa khỏi tam giới
nầy, đừng để Phật đợi lâu.
Thấy các chúng sinh vì sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não thiêu đốt, cũng
vì năm dục tài lợi, mà chịu đủ thứ khổ, lại vì tham trước truy cầu, hiện phải
chịu đựng các sự khổ, sau đó thì chịu khổ ở trong địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh. Nếu sinh về cõi trời, hoặc ở nhân gian, thì bần cùng khốn khổ, khổ về
thương yêu phải xa lìa, khổ về oán ghét mà gặp nhau, đủ thứ các sự khổ như
thế. Chúng sinh đắm chìm ở trong đó, vui mừng dạo chơi chẳng hay chẳng
biết, chẳng sợ hãi, cũng chẳng nhàm chán, chẳng cầu giải thoát. Ở trong nhà
lửa tam giới nầy, chạy đông chạy tây, dầu gặp khổ lớn mà chẳng lo lắng.
Xá Lợi Phất ! Ðức Phật thấy vậy rồi, bèn nghĩ rằng : Ta là cha lành của
chúng sinh, nên cứu họ khỏi khổ nạn, ban cho họ vô lượng vô biên trí huệ an
vui của Phật, để họ dạo chơi.
Ðức Phật thấy các chúng sinh, vì sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, các
thứ khổ hành hạ, đều vì tham cầu năm dục. Năm dục là: Tài, sắc, danh, ăn và
ngủ, hoặc là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Con người thường bị năm dục lay
chuyển, mà điên đảo thị phi, nhưng nếu nhìn thấu năm dục, thì sẽ buông bỏ
tham trước, làm các thứ công đức. Nếu con người minh bạch: Tài, sắc, danh,
ăn và ngủ, đều là vật ngoài thân, đại hạn lai thời thì sẽ buông bỏ tất cả,
chẳng còn tham trước năm dục.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: Sáu căn khiến cho con người tạo tội, cũng
khiến cho con người thành Phật. Năm dục cũng như thế, mê luyến thì tham
trước, nhìn thấu thì buông bỏ. Con người vì do tham cầu, cầu chẳng được thì
sinh ra đủ thứ khổ nảo, trên thế gian do tham cầu mà tạo nghiệp, sau khi chết
rồi thì đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ để chịu khổ. Nếu sinh về cõi trời,
hoặc sinh vào nhân gian, thì sẽ chịu khốn khổ bần cùng. Hoàn toàn bần cùng
khốn khổ, dù muốn làm công đức, cũng chẳng cách chi bố thí, còn có khổ về
thương yêu mà phải xa lìa, với sự thương yêu người mà phải chia ly, khó bỏ
khó lìa, và khổ về oán ghét mà gặp nhau, đủ thứ các sự khổ như thế.
Ðắm chìm ở trong tam giới mà vui mừng dạo chơi, chẳng biết phiền não tập,
cho nên chẳng sợ chẳng hãi, chẳng sinh nhàm chán, chẳng cầu giải thoát,
chạy đông chạy tây ở trong tam giới, gặp đủ thứ việc khổ não mà chẳng lấy
làm lo lắng. Phật bảo Xá Lợi Phất ! Phật thấy tình hình như vậy bèn bảo
rằng: Tức cũng như ông trưởng giả ở trong thí dụ, nghĩ rằng: Ta là cha của
chúng sinh, nên cứu vớt họ khỏi khổ nạn và ban cho họ vô lượng vô biên trí
huệ vui của Phật, khiến cho họ vui vẻ dạo chơi ở trong Phật pháp đại thừa.
Người bần cùng đương nhiên là khốn khổ, nhưng giàu có cũng có vui có
khổ, vui đến cực điểm thì sinh buồn, cho nên nói:
‘’Bần cùng bố thí là khó,
Giàu sang học đạo là khó.’’
Ðức Phật là thái tử cũng học đạo được.
Xá Lợi Phất ! Như Lai lại nghĩ rằng : Nếu ta chỉ dùng sức thần thông, và sức
trí huệ, bỏ đi phương tiện, vì chúng sinh khen ngợi tri kiến, lực, vô sở úy của
Như Lai, thì chúng sinh không thể do đó mà được độ. Tại sao ? Vì các chúng
sinh đó, chưa khỏi sinh già bệnh chết lo buồn khổ não, mà bị thiêu đốt ở
trong nhà lửa tam giới, làm sao hiểu được trí huệ của Phật.
Xá Lợi Phất ! Ðức Phật lại nghĩ : Nếu ta chỉ dùng sức thần thông và hết thảy
Nhất thiết trí, Ðạo chủng trí, Nhất thiết chủng trí, mà bỏ đi pháp môn
phương tiện, vì chúng sinh khen ngợi tất cả tri kiến, mười lực và bốn vô sở
úy của Phật, thì chúng sinh không thể nhờ nhân duyên nầy, mà được giải
thoát. Vì sao ? Vì tất cả chúng sinh chưa khỏi khổ sinh già bệnh chết và ưu
sầu khổ não, giống như trẻ con vô tri, bị thiêu đốt ở trong nhà lửa tam giới,
làm sao biết được trí huệ của Như Lai.
Nếu người chưa gặp được Phật pháp, thì làm sao hiểu được Phật pháp ? Như
người Tây phương chưa nghe qua Phật pháp, một khi nghe được Phật pháp,
thì sinh tâm sợ hãi, ai cũng đều có tâm lý bịt tai ăn cắp chuông, biết rõ mình
phạm lỗi, mà chẳng muốn đối diện với hiện thật, cải lỗi hướng thiện. Chưa
gặp Phật pháp mà phạm lỗi, còn có thể tha thứ, chứ gặp Phật pháp rồi, biết
rõ mà cố phạm thì tội tăng gấp ba. Người có lỗi hãy nên sửa đổi, người
không lỗi thì nên tránh. Người có tội mà phạm nhiều lần không thay đổi, thì
sẽ đọa lạc. Biển khổ mênh mông quay đầu là bờ, nên biết sửa đổi lỗi lầm
trước kia. Khổng Tử có nói : ‘’Có lỗi thì chớ nãn sửa đổi.’’ Biết lỗi mà sửa
đổi, thật là việc lành rất lớn vậy !
Xá Lợi Phất ! Như ông trưởng giả kia, tuy thân và tay có sức mạnh, mà
chẳng dùng đến, chỉ ân cần dùng phương tiện, cố gắng cứu các con ra khỏi
nhà lửa, sau đó đều cho xe trân báu lớn. Như Lai cũng lại như thế, tuy có trí
lực vô sở úy, mà chẳng dùng đến.
Tôn giả Xá Lợi Phất trí huệ cao siêu, làm thượng thủ hàng Thanh Văn, còn
Bồ Tát Văn Thù làm thượng thủ hàng Bồ Tát. Phật bảo Xá Lợi Phất ! Như ở
trước có đề cập đến ông trưởng giả, tuy thân và tay có sức, dụ cho Phật có
đại thần thông và chân thật trí, mà chẳng dùng đến, chỉ dùng pháp phương
tiện khéo léo, nói pháp ba thừa để cứu độ các con, tức ba mươi đứa con
(Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, người ba thừa là chân tử của Phật) và năm
trăm người (năm đường chúng sinh), khỏi bị ba độc (tham sân si) thiêu đốt ở
trong nhà lửa. Ông trưởng giả dùng xe dê, xe hươu, xe trâu, để ở ngoài cửa,
dụ con trẻ ra ngoài cửa, cuối cùng đều tặng cho xe trâu trắng lớn. Xe lớn có
lục độ vạn hạnh nghiêm sức, tức chỉ có một Phật thừa. Phật quán căn cơ mà
thí giáo, thấy con trẻ căn cơ có hạn, cho nên trước hết cho xe dê, xe hươu, xe
trâu, tức pháp tiểu thừa. Phật trước hết nói pháp tiểu thừa, cho đến hội Pháp
Hoa mới khai quyền hiển thuật, mở bày cho chúng sinh pháp đại thừa, tất cả
chúng sinh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Như Lai cũng như thế, tuy
có mười trí lực và bốn vô sở úy mà chẳng dùng đến.
Chỉ dùng trí huệ phương tiện, nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sinh, vì
chúng sinh mà nói ba thừa : Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa.
Sở dĩ Ðức Phật dùng trí huệ chi phối pháp phương tiện, quán căn cơ thí giáo,
vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc. Chúng sinh bị: Tham, sân, si, che
đậy, pháp thân huệ mạng đều bị che lấp. Kẻ tham thì tham chẳng biết chán,
chẳng biết đủ. Kẻ sân gặp nghịch cảnh, thì nổi trận lôi định, lửa vô minh nổi
dậy, hiện tướng A Tu La. Tâm si che lấp lương tri lương năng của chúng
sinh, khiến cho họ mê muội nhân quả, làm việc điên đảo. Con người thường
bị lửa tham sân si thiêu đốt. Phật dùng một âm thanh diễn nói pháp, chúng
sinh theo loại đều hiểu được, khiến cho Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
cho đến chín pháp giới chúng sinh, nghe pháp của Phật nói, đều phát bồ đề
tâm. Phật ở trong tam giới cứu vớt tất cả chúng sinh.
Phật chẳng sợ bị lửa thiêu đốt, mà phát tâm đại bi vào nhà lửa, cứu vớt tất cả
chúng sinh. Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ, Phật cứu chúng sinh từ trong
nhà lửa ra ngoài, chúng ta nên phát tâm bồ đề, sinh tâm sám hối đừng nóng
giận nữa, phải biết Phật đang đợi chúng ta ! Tuy nhiên Phật đã dứt sinh tử,
sao lại nói: ‘’Chẳng sợ chết‘’? Phật thật sự đã dứt sinh tử, Phật cảm thấy đau
đớn như chính mình chịu. Chúng ta phải mau tỉnh giác, sửa đổi lỗi lầm quá
khứ, tinh tấn tu hành, đừng để Phật phải đợi lâu ! Phật vì cứu vớt chúng sinh
mà phân biệt nói ba thừa : Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Phật thừa.
Phật ban cho xe hươu, xe dê, xe trâu trắng lớn, để chúng ta tùy ý lựa chọn.
Mà nói rằng : Các ông không nên ưa thích ở trong nhà lửa tam giới, chớ
tham sắc thanh hương vị xúc thô hèn. Nếu tham trước, thì sinh luyến ái sẽ bị
thiêu đốt, các ông hãy mau ra khỏi tam giới, sẽ chứng được ba thừa: Thanh
Văn, Bích Chi Phật và Phật thừa.
Phật bảo rằng: ‘’Các ông‘’, tức ba mươi người con và năm trăm người, cũng
bao quát bạn, tôi và tất cả chúng sinh. Phật bảo tất cả chúng sinh, chớ nhận
lầm ở trong tam giới nầy là vui sướng. Tam giới nầy là khổ. Chúng sinh điên
đảo thị phi, lấy khổ làm vui, mê chẳng biết về. ‘’Chớ tham sắc thinh hương
vị xúc thô hèn‘’: Phật bảo chớ tham năm trần, cũng gọi là năm dục. Mọi vật
có hình tướng đều là sắc trần, sắc thanh hương vị xúc trần. Chúng sinh bị
năm trần thô hèn mê hoặc che đậy nhiễu loạn tâm tính. Nhưng người tu hành
phải đối cảnh vô tâm. Do đó, có câu :
‘’Thấy việc tỉnh việc lìa thế gian,
Thấy việc mê việc đọa trầm luân‘’.
Thấy cảnh giới mà giác ngộ được, thì vượt ra được tam giới, nếu bị cảnh
giới mê hoặc, thì sẽ đọa lạc. Do đó, có câu :
‘’ Mắt thấy hình sắc chẳng dính mắc,
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay ‘’.
Mắt đối với cảnh mà chẳng bị cảnh chuyển, phải tự mình giữ vững tông chỉ,
đừng để bị: Sắc thinh hương vị xúc năm trần, làm giao động tâm chí. ‘’Nếu
tham trước thì sinh ái‘’: Ða số mọi người không dứt được sinh tử, nguyên
nhân chính là có ‘’ái‘’, do ái mà sinh dục, ái dục là gốc rễ của sinh tử. ‘’Sẽ
bị thiêu đốt‘’: Tức là bị lửa ái thiêu đốt, đây là ‘’tập‘’ đế, có tình ái thì sinh
phiền não. Vì sao có tình ái ? Vì quá coi trọng thân thể nầy, muốn khiến cho
thân thể được hưởng thụ. Hãy nghĩ xem tại sao Ðức Phật vào núi Tuyết tu
hành ? Tại sao thành đạo dưới cội bồ đề ? Tức là Ngài trừ khử tình ái, đoạn
phiền não mà chứng quả thành Phật. Ban đầu chuyển bánh xe pháp bốn Diệu
Ðế nói :
‘’Ðây là khổ, tính bức bách
Ðây là tập, tính chiêu cảm
Ðây là diệt, tính có thể chứng
Ðây là đạo, tính có thể tu‘’.
Phiền não là do bên trong có phiền não, mới chiêu đến phiền não bên ngoài.
‘’Các ông hãy mau ra khỏi tam giới, sẽ chứng được ba thừa Thanh Văn,
Bích Chi Phật và Phật Thừa‘’: Phật bảo các ông hãy mau mau ra khỏi nhà
lửa tam giới, không nên trôi nổi ở trong đó mà quên về. Thanh Văn thừa do
nghe âm thanh mà ngộ đạo, Bích Chi Phật tức là Duyên Giác :
‘’Mùa xuân quán trăm hoa nở,
Mùa thu ngắm lá vàng rơi‘’.
Quán vạn vật trời đất thịnh suy, tu pháp mười hai Nhân Duyên, mà chứng
quả Bích Chi Phật. Sinh vào thời có Phật tại thế, thì gọi là Duyên Giác, sinh
vào thời chẳng có Phật, thì gọi là Ðộc Giác. Phần nhiều Bích Chi Phật ở
trong thâm sơn cùng cốc, chẳng tiếp xúc với bên ngoài, tu hành chứng quả
thành Bích Chi Phật. Phật thừa, Phật là tiếng Phạn, dịch là "giác". Giác gồm
có:
- Tự giác,
- Giác tha,
- Giác hạnh viên mãn.
Phật khác với phàm phu, phàm phu thì chẳng giác, còn Phật thì tự giác và
còn giác tha tức là vừa lợi mình lợi người. Hạnh tự giác giác tha đều viên
mãn, do đó gọi là: ‘’Ba giác tròn vạn đức đầy‘’, gọi là Phật. Phật thừa khác
với Bồ Tát thừa, Duyên Giác Thừa và Thanh Văn thừa. Kinh Pháp Hoa nói:
‘’Chỉ một Phật thừa, chẳng có thừa nào khác‘’. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, đều là pháp phương tiện khéo léo, khai quyền hiển thật.
Lần thứ hai chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Ðế, Phật nói :
‘’Ðây là khổ, ông nên biết
Ðây là tập, ông nên đoạn
Ðây là diệt, ông nên chứng
Ðây là đạo, ông nên tu‘’.
Lần thứ ba chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Ðế, Phật lại nói :
‘’Ðây là khổ, ta đã biết
Ðây là tập, ta đã đoạn
Ðây là diệt, ta đã chứng
Ðây là đạo, ta đã tu‘’.
Ban đầu Phật chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Ðế với năm vị Tỳ kheo Kiều
Trần Như, Kinh văn Pháp Hoa nầy cũng mở bày đạo lý: Khổ tập diệt đạo.
Nay ta bảo nhiệm việc nầy, tuyệt đối chẳng hư vọng. Các ông hãy siêng tu
tinh tấn, Như Lai dùng phương tiện đó, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà
lửa.
Phật bảo chứng: Nếu các ông y theo pháp đại thừa mà tu hành, thì chắc chắn
sẽ thành Phật, tuyệt đối chẳng hư vọng, các ông tất cả chúng sinh hãy siêng
tu tinh tấn, nếu không siêng tu tinh tấn, thì cũng như nói ăn, đếm tiền, do đó
có câu :
‘’ Suốt ngày đếm tiền mướn,
Mình chẳng có xu nào,
Nơi pháp chẳng tu hành,
Tội lỗi cũng như thế. ‘’
Trong Kinh Lăng Nghiêm cũng nói : Ví như nói ăn, tuyệt đối không thể no.
Phải siêng tu tinh tấn, tinh tấn gồm có: Thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Lạy
Kinh, niệm Phật, tham thiền, trì Chú, đều là thân tinh tấn, nếu không thì tâm
như con ngựa con khỉ, vọng tưởng lung tung, cho nên phải tinh tấn. Phật
pháp thì phải thân thể lực hành, ‘’Nói hay, nói giỏi, mà chẳng thực hành, thì
chẳng phải đạo‘’. Chỉ biết mà không hành, thì chẳng đắc được chỗ diệu, phải
tinh tấn tu hành mới có lợi ích.
‘’Như Lai dùng phương tiện đó, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa‘’: Phật
nói pháp phương tiện, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa, bảo rằng có xe
hươu, xe dê, xe trâu, ở ngoài cửa, đợi họ ra khỏi nhà lửa rồi thì cho xe lớn.
‘’Dẫn dụ‘’ chúng sinh, như Phật tay không dụ em bé. Phật thấy em bé bò
gần đến miệng giếng, tình thế cấp bách, mới bảo với em bé trong tay của
Ngài có kẹo, em bé nghe nói đến kẹo thì quay đầu lại, bò qua chỗ Ðức Phật.
Em bé khỏi bị rớt xuống giếng, mà trong tay của Phật thật chẳng có kẹo.
Chúng sinh muốn ra khỏi tam giới, thì nhờ Phật dụ mà ra khỏi nhà lửa vậy !
Lại bảo : Các ông nên biết ! Pháp ba thừa nầy, đều được các bậc Thánh khen
ngợi, tự tại chẳng ràng buộc, chẳng còn nương tựa tìm cầu, ngồi ba thừa đó,
dùng vô lậu căn lực giác đạo, thiền định giải thoát tam muội .v.v... mà tự vui
sướng, bèn được vô lượng an ổn khoái lạc.
Phật lại bảo, các ông chúng sinh nên biết pháp ba thừa: Thanh Văn thừa,
Bích Chi Phật thừa và Phật thừa, ba thừa pháp nầy đều được chư Phật quá
khứ, hiện tại và vị lai khen ngợi. Pháp ba thừa nầy, là pháp môn tiếp dẫn
chúng sinh, của tất cả chư Phật ba đời trong mười phương. ‘’Tự tại chẳng
ràng buộc, chẳng nương tựa tìm cầu‘’: Ðắc được tự nhiên trí tức tự tại, tức
được tha tâm trí, minh bạch tất cả tâm ý của chúng sinh. ‘’Chẳng ràng
buộc‘’, tức được giải thoát, chẳng quái ngại, xa lìa điên đảo mộng tưởng,
được trí huệ tối cao, buông bỏ hết tất cả. ‘’Chẳng còn nương tựa tìm cầu‘’:
Những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa, tức đã dứt sinh
tử. Tự tánh của chúng ta là ‘’năng y‘’, sinh tử là ‘’sở y‘’, đã dứt sinh tử tức
vô sở y (chẳng còn nương tựa). Sao gọi là vô sở cầu ? Các lậu đã sạch, phạm
hạnh đã vững, tức vô sở cầu (chẳng còn gì mong cầu). Nếu được vô sở y, vô
sở cầu, thì chứng quả liễu sinh thoát tử.
‘’Ngồi ba thừa đó‘’: Ngồi ở trong xe ba thừa, dùng năm căn vô lậu: Tín, tấn,
niệm, định, huệ, siêng năng tinh tấn, thì năm căn sẽ tăng thêm căn lành, mà
sinh ra năm lực (Tín, tấn, niệm, định, huệ lực). ‘’Giác‘’ là bảy giác chi :
1. Trạch pháp giác chi, chọn thiện mà theo.
2. Tinh tấn giác chi.
3. Hỉ giác chi.
4. Khinh an giác chi.
5. Xả giác chi.
6. Ðịnh giác chi.
7. Niệm giác chi, lại gọi là bảy bồ đề phần.
‘’ Ðạo‘’ là bát Chánh đạo :
1. Chánh kiến.
2. Chánh ngữ.
3. Chánh tư duy.
4. Cháng nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh niệm.
7. Chánh tinh tấn.
8. Chánh định.
‘’Thiền‘’ là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sơ thiền có ba cõi trời,
nhị thiền có ba cõi trời, tam thiền có ba cõi trời, tứ thiền có ba cõi trời. Ðó là
cảnh giới thiền định của phàm phu. Trời Vô Tưởng là cảnh giới thiền định
của ngoại đạo, Trời Ngũ Bất Hoàn là cảnh giới thiền định của bậc Thánh
nhân. Người nhân gian tham thiền đả tọa, cũng có thể đạt đến cảnh giới của
chư Thiên cõi Tứ Thiền tu thiền định. Người tu thiền định, nhập định được
cảnh giới sơ thiền, gọi là Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa, được sự khoái lạc thiền duyệt
vi thực, chỉ cảm thấy thân tâm thơ thới khoái lạc, mà chẳng biết ngày giờ đã
qua, giống như hòa thượng Hư Vân tại núi Chung Nam, nhập định mười tám
ngày, cũng là đắc được cảnh giới nầy. Thành tâm dụng công tu hành, tham
thiền đả tọa, thì sẽ được cảnh giới nầy. Cảnh giới sơ thiền nầy, chẳng phải
chỉ riêng cảnh giới của chư Thiên, mà là người tu đạo dùng thân phàm phu
tu hành, thì có thể chứng nhập, đây chỉ là giai đoạn ban đầu nhập môn của
sự tu hành. Mấy ngày trước có người chứng được cảnh nầy, chứng được bậc
nầy, bất quá chỉ là bước thứ nhất của sự tu hành mà thôi ! Muốn chứng
Thánh quả, cần phải tiếp tục nỗ lực không ngừng tinh tấn tiến về trước.
Nhị Thiền là Ðịnh sinh hỷ lạc địa, đừng tham trước khoái lạc, phải tu định,
do đó có câu : ‘’Na già thường tại định, vô hữu bất định thời.’’ Ði đứng nằm
ngồi đều như nhập định, chẳng vướng duyên bên ngoài, tâm như nước chảy,
trong suốt thấu triệt, ngồi thiền thì chẳng những mạch máu ngừng lại, mà hô
hấp hơi thở cũng ngừng lại, chỉ có niệm chưa ngừng lại, còn khởi vọng
tưởng, một niệm sinh ra thì sẽ xuất định.
Tam Thiền là Ly hỷ diệu lạc địa, lìa tất cả sự vui sướng, chẳng còn tham
trước ‘’thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn‘’, được sự khoái lạc ở cõi trời.
Nếu các bạn muốn thưởng thức từ vị đó, thì phải dụng công tham thiền đả
tọa.
Tứ Thiền là Xả niệm thanh tịnh địa, cho dù một niệm cũng xả bỏ, vô sinh vô
niệm, lúc nầy đã trừ tất cả khách trần phiền não, chỉ chưa chứng quả. Ở trên
là cảnh giới khinh an đắc được cửa sự tu đạo.
‘’Ðịnh‘’ là bốn vô sắc định :
1. Không vô biên xứ định,
2. Thức vô biên xứ định.
3. Vô sở hữu xứ định.
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
Bốn trời định gọi là Trời Vô Sắc Giới, ‘’định‘’ tức gọi là vô sắc định. Chư
Thiên bốn cõi trời nầy, chỉ có thức mà chẳng có hình sắc, cho nên gọi là Vô
sắc định, còn Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, cũng gọi là bốn Không Xứ.
‘’Thiền định‘’ là bốn thiền tám định, bốn thiền thêm bốn vô sắc định, hợp lại
thành tám định.
‘’Giải thoát‘’: Có tám thứ giải thoát :
1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô biên xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8. Diệt thọ tưởng thân tác chứng cụ túc trụ.
Ðó là tám giải thoát. Người mới tu đạo, thì trong tâm vẫn tồn tại dục niệm,
nên dùng chín pháp quán tưởng (quán bất tịnh) để đối trị sắc bên ngoài, biết
được nó bất tịnh thì sẽ không chấp trước vào ‘’sắc‘’, tức được giải thoát,
buông xả đặng thì tự tại, nhìn thấu thì buông đặng. Cho nên trước hết phải tu
được quán nầy.
Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, tu hành dụng công thì lâu dần
trong sự bất tri bất giác, lìa được niệm sắc dục, bên trong chẳng có niệm sắc
dục, vẫn phải quán sắc bên ngoài, quán tưởng gái đẹp tương lai cũng khó
tránh cái chết, già chết thì thân của họ cũng biến hoại, quán thây sình thối có
ấu trùng rúc rỉa, còn lại xương trắng, xương biến thành đất, bốn đại trả về
cho bốn đại, gió trả về cho gió, đất trả về cho đất, nước trả về cho nước, lửa
trả về cho lửa, cứu kính chẳng còn gì hết. Thường hay quán tưởng như thế,
thì chẳng sinh tâm tham ái, trừ khử được tâm ái dục thì được giải thoát.
Ðược tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ, cụ túc trụ, tức là trụ ở trong
bổn thể thanh tịnh, không, thức, hữu, tưởng, đều giải thoát, được diệt, thọ,
tưởng, thân tu diệt, thọ, tưởng định, thức cũng sẽ diệt. Nhưng thức vẫn chưa
diệt, thì tám vạn bốn ngàn kiếp sau cũng sẽ tái sinh, cho nên tuy nhiên có
cảnh giới bốn Không Xứ mà sinh tử vẫn chưa dứt. Tứ thiền thêm bốn Không
Xứ và thêm thọ diệt tưởng định, gọi là chín thứ đệ định. ‘’Tam muội‘’ là
không tam muội, vô tướng tam muội, vô nguyện tam muội. Thành tựu ba thứ
tam muội nầy, thì thành không vô tướng nguyện.
‘’Mà tự vui sướng‘’: Tu hành được thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn.
‘’Bèn được vô lượng an ổn khoái lạc‘’: Nhất là trong thiền định được vô
lượng an ổn khoái lạc, được chân không Niết Bàn, vĩnh viễn lìa tất cả tai nạn
lo âu.
Xá Lợi Phất ! Nếu có chúng sinh bên trong có trí tánh, theo Phật Thế Tôn
nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi tam giới, tự
cầu chứng Niết Bàn, đó gọi là Thanh Văn thừa. Như các người con đó, vì
cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.
Phật bảo Xá Lợi Phất: ‘’Nếu có chúng sinh, bên trong có trí tánh, theo Phật
Thế Tôn nghe pháp tin nhận‘’: Chúng sinh kiếp trước từng theo Phật nghe
pháp và hay tin nhận, chẳng sinh nghi hoặc; tin nhận là văn huệ. ‘’Ân cần‘’
là tư huệ, thường suy gẫm. ‘’Tinh tấn‘’ là tu huệ. ‘’Muốn mau ra khỏi tam
giới, tự cầu chứng Niết Bàn, đó gọi là Thanh Văn thừa, như các người con
đó, vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.’’
Nếu có chúng sinh theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin nhận thọ trì, ân cần tinh
tấn, cầu tự nhiên huệ, thích sống một mình ở chỗ vắng vẻ, biết rõ nhân
duyên của các pháp, đó gọi là Bích Chi Phật thừa, như các người con kia, vì
cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sinh nghe pháp tin nhận thọ trì chẳng nghi, tín tâm phát xuất
từ nội tâm, do đó:
‘’Mình ăn thì mình no,
Sinh tử của mình tự mình dứt‘’.
Người khác không thể thay thế bạn sinh tín tâm, phải tự mình sinh tín tâm.
‘’Ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên huệ, thích sống một mình chỗ vắng vẻ‘’:
Thích tu hành một mình. ‘’Biết rõ nhân duyên của pháp‘’: Biết rõ mười hai
nhân duyên thành Bích Chi Phật thừa. ‘’Như các người con kia, vì cầu xe
hươu mà ra khỏi nhà lửa‘’: Dùng xe hươu dụ cho Bích Chi Phật thừa, có
Phật ra đời thì gọi là Duyên Giác, chẳng có Phật ra đời thì gọi là Ðộc Giác.
Bích Chi Phật là tự chứng tự liễu.
Nếu có chúng sinh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần
tinh tấn, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tri kiến lực, vô sở
úy của Như Lai, thương xót vì sự an vui của vô lượng chúng sinh, làm lợi
ích cho trời người, độ thoát tất cả chúng sinh, đó gọi là đại thừa. Bồ Tát cầu
thừa nầy, nên gọi là Ma ha tát, như các người con kia, vì cầu xe trâu mà ra
khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sinh theo Phật nghe pháp, tâm sinh niềm tin thọ trì, ân cần
tinh tấn, cầu ‘’nhất thiết trí‘’: Cầu trí biết tất cả pháp thế gian và xuất thế
gian, ‘’Phật trí‘’ là trí huệ mà một số chúng sinh không thể có, ‘’tự nhiên
trí‘’, ‘’vô sư trí‘’ đều là trí huệ đại viên mãn giác của Phật, ‘’tri kiến lực, vô
vô sở úy của Như Lai‘’: Sự biết của Như Lai là Nhất thiết chủng trí, sự thấy
của Như Lai là mắt Phật, ‘’lực‘’ là mười lực, ‘’vô sở úy‘’ là bốn vô sở úy,
Phật phát tâm đại từ bi, thương sót sự an vui của chúng sinh, lợi ích trời
người, độ thoát tất cả chúng sinh, đó gọi là Bồ Tát đại thừa, nên gọi là Ma
Ha Tát (đại). Như các người con kia vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
Xá Lợi Phất ! Như ông trưởng giả kia, thấy các người con ra khỏi nhà lửa
được an ổn, đến nơi chẳng sợ hãi, tự nghĩ của cải giàu vô lượng, đều đem xe
lớn mà cho các con. Như Lai cũng như thế, là cha của tất cả chúng sinh. Nếu
thấy vô lượng ức ngàn chúng sinh, do cửa Phật giáo mà ra khỏi đường hiểm
khổ sợ hãi của tam giới, thì Phật khiến cho họ được sự an vui của Niết Bàn.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất, đức Như Lai như ông trưởng giả giàu có,
thấy các người con ra khỏi nhà lửa được yên ổn, ông trưởng giả tức nhiên có
của cải vô lượng, bèn bình đẳng ban tặng cho các con xe trâu trắng lớn.
Giống như Phật thấy vô lượng chúng sinh, vì nghe Phật pháp mà tin nhận hộ
trì, được lìa khỏi khổ, đường hiểm trong tam giới, thì Phật khiến cho chúng
sinh đắc được sự vui của thường lạc ngã tịnh.
Bấy giờ, đức Như Lai bèn nghĩ : Ta có vô lượng vô biên trí huệ lực vô sở úy
.v.v... các kho tàng Phật pháp. Các chúng sinh đó đều là con của ta, đều bình
đẳng ban cho đại thừa, chẳng khiến có người được diệt độ riêng, mà đều
dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ. Những chúng sinh đó thoát khỏi tam
giới, Phật đều ban cho sự vui sướng thiền định giải thoát của chư Phật.
Ðức Thích Ca Như Lai lúc đó nghĩ như vầy : Ta có vô lượng vô biên trí huệ,
mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. ‘’Các kho tàng Phật
pháp‘’: Như bốn đế, sáu độ, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy đạo phẩm.
.v.v. Các chúng sinh đó đều là con của ta, đều bình đẳng ban cho xe lớn.
‘’Dùng sự diệt độ của Như Lai, mà diệt độ‘’: Chẳng thiên lệch về lý không,
khiến cho các chúng sinh thoát khỏi tam giới, Phật đều ban cho thiền định
giải thoát tam muội Phật thừa, dùng giải thoát thiền định khoái lạc làm vui
sướng, ở trong đó có thể được lạc thú vô cùng.
Ðều là một tướng một thứ mà các bậc Thánh khen ngợi, hay sinh vui tịnh
diệu bậc nhất.
‘’Một tướng‘’ là thật tướng. Thật tướng đại biểu pháp thân đức, một trong ba
đức. Ở trên đã nói rõ ba mươi bảy đạo phẩm, sáu độ, bốn đế, mười hai nhân
duyên, bây giờ dùng ba đức để kết thúc phẩm ví dụ, cho nên nói đều là một
tướng, tức cũng là thật tướng. Thật tướng là vô tướng, vô sở bất tướng, tất cả
vạn vật có hình tướng, đều từ thật tướng mà ra, chân không tức diệu hữu,
diệu hữu tức chân không, thật tướng là pháp thân đức của Phật. ‘’Một thứ‘’
(nhất chủng) tức là Nhất thiết chủng trí, là Bát Nhã đức. ‘’Mà các bậc Thánh
khen ngợi, hay sinh vui tịnh diệu bậc nhất‘’: Là giải thoát đức, pháp nầy mới
được chư Phật khen ngợi, hay sinh vui thanh tịnh vi diệu, lìa cả khổ tức
được giải thoát.
Xá Lợi Phất ! Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba xe, để dẫn dụ các
người con, sau đó chỉ cho một thứ xe lớn, có các báu vật trang nghiêm, an ổn
bật nhất, nhưng ông trưởng giả đó chẳng có lỗi hư dối.
Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất ! Phật giống như ông trưởng giả kia, ban đầu
dùng pháp môn phương tiện, nói ngoài cửa có xe dê, xe hươu, xe trâu, để ở
ngoài cửa, gạt dụ các con ra khỏi nhà lửa, đến được nơi yên ổn, thì ông
trưởng giả giàu có của cải vô lượng, mới ban cho các con mỗi người một
chiếc xe trâu trắng lớn, xe có báu vật trang trí nghiêm sức, an ổn bậc nhất, ai
nấy đều được xe lớn, do đó ông trưởng giả chẳng có lỗi nói dối.
Như Lai cũng như thế, chẳng có nói dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng
sinh, sau đó chỉ dùng đại thừa mà độ thoát. Tại sao ? Vì Như Lai có vô
lượng trí huệ lực vô sở úy, các kho tàng Phật pháp, hay ban cho tất cả chúng
sinh pháp đại thừa, nhưng thọ dụng chẳng hết được.
Xá Lợi Phất ! Do nhân duyên đó, nên biết chư Phật vì sức phương tiện, nơi
một Phật thừa, mà phân biệt nói ba thừa.
Như Lai Thế Tôn cũng như ông trưởng giả kia, dùng pháp quyền xảo
phương tiện dẫn dắt chúng sinh, ban đầu nói Thanh Văn thừa, kế nói Duyên
Giác thừa, Bồ Tát thừa, ba thừa, để dẫn dắt chúng sinh. Ba tạng giáo thuộc
Thanh Văn thừa, biệt giáo thuộc Duyên Giác thừa, Viên Giáo thuộc Bồ Tát
thừa. Cuối cùng mới nói thật tướng diệu lý Kinh Pháp Hoa, pháp môn viên
đốn là diệu pháp đại thừa, độ thoát chúng sinh. Vì sao ? Ðức Phật vốn có vô
lượng vô biên trí huệ, có Nhất thiết trí, Đạo chủng trí, Nhất thiết chủng trí,
lại có mười lực, bốn vô sở úy, tất cả pháp môn, ban đầu đã có thể ban cho
chúng sinh pháp môn đại thừa, song chẳng phải tất cả chúng sinh đều tiếp
thọ được. Như ban đầu nói Kinh Hoa Nghiêm, mà người nhị thừa có mắt
chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo lý viên đốn, thấy mà chẳng
thấy, nghe mà chẳng nghe, như điết như mù, chẳng những không tiếp thọ
được, mà đối với đạo lý bên trong họ cũng chẳng thông đạt được.
Có một số người nghĩ, người nhị thừa còn chẳng hiểu Kinh Hoa Nghiêm,
huống gì chúng ta căn tánh đâu có bằng người nhị thừa, làm sao mà lãnh hội
được Kinh Hoa Nghiêm ? Ban đầu đức Phật thành Phật, thì trên thế gian vốn
chẳng có Phật, cho nên con người không thể tiếp thọ đạo lý quá thâm áo.
Bây giờ ai cũng biết có Phật pháp, biết rõ có đại thừa tiểu thừa, tự tính của
chúng ta vốn đã trồng xuống hạt giống đại thừa, cho nên bây giờ nghe được
Phật pháp đại thừa.
Phật lại bảo Xá Lợi Phất, vì chúng sinh không thể hoàn toàn tiếp thọ diệu lý
đại thừa, ông nên biết, mười phương chư Phật và Phật Thích Ca đều dùng
pháp môn quyền xảo phương tiện nầy, chỉ một Phật thừa nầy mà nói thành
ba thừa. Kỳ thật, chẳng có ba thừa, vì căn tánh chúng sinh mà nói ba thừa,
mục đích cuối cùng là : Hy vọng chúng sinh sớm thành Phật đạo.
Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng :
Ví như ông trưởng giả
Có một ngôi nhà lớn
Nhà đó đã lâu đời
Mà lại cũ hư nát.
Phòng nhà cao nguy hiểm
Trụ cột lại gãy mục
Nóc nhà đều nghiêng ngã
Nền móng đã hư nát.
Tường vách đều sụp đổ
Bùn đất rơi rớt xuống
Tranh lợp rơi tả tơi
Kèo đòn tay trật khớp.
Bốn phía đều cong vạy
Ðầy dẫy những dơ uế
Có đến năm trăm người
Thảy đều ở trong đó.
Chim si, hưu, điêu, thứu
Quạ, chim thước, cưu, cáp
Ngô công và du diên
Loài thủ cung, bá túc.
Dứu ly cùng hề thử
Các loài độc trùng dữ
Ðuổi nhau chạy ngang dọc
Ðại tiểu tiện hôi thối.
Chảy đầy đồ bất tịnh
Các độc trùng bọ hung
Bu đậu ở trên đó
Cáo sói và dã can.
Liếm nhai dày đạp lên
Cắn xé những thây chết
Xương thịt bừa bãi ra
Do đó các bầy chó.
Tranh nhau đến giành ăn
Ốm đói rất sợ sệt
Khắp nơi tìm món ăn
Giành giựt cấu xé nhau.
Gầm gừ gào sủa rên
Nhà đó rất đáng sợ
Những cảnh trạng như thế
Khắp nơi thảy đều có.
Quỷ lị mị, vọng lượng
Dạ Xoa các ác quỷ
Ăn nuốt cả thịt người
Các loài trùng dữ độc.
Những cầm thú hung ác
Ấp cho bú sản sinh
Ðều tự giấu gìn giữ.
Phật từ bi thương xót, sợ chúng sinh chẳng minh bạch đạo lý bên trong, cho
nên dùng kệ để thuật lại nghĩa trường hàng ở trên.
Kệ có bốn chữ, sáu chữ, hoặc bảy chữ, đủ loại. Dùng kệ để thuật lại đạo lý ở
trên, hoặc chưa nói rõ, lại phải dùng kệ để nói: ‘’Ví như ông trưởng giả, có
một ngôi nhà lớn‘’: Bao quát dục giới, sắc giới, và vô sắc giới ba cõi, là một
ngôi nhà lớn. Ba cõi không yên, giống như nhà lửa. Như thân thể của chúng
ta có bài kệ rằng :
‘’Thân người như một căn nhà,
Miệng làm cửa lớn mắt làm cửa sổ,
Tứ chi như bốn cột trụ,
Ðầu tóc ví như tranh lợp nhà,
Tùy thời siêng tu bổ,
Ðừng để ngã sập nguy nan.’’
Thân con người như một căn nhà, phải thừa lúc thân thể còn khoẻ mạnh, thì
nên siêng năng tham thiền đả tọa, lạy Phật, tụng Kinh, trì Chú. Một đời chỉ
được lúc siêng năng, một năm chỉ được vào mùa xuân, một ngày chỉ được
vào lúc sáng sớm. Sáng sớm nên thức dậy vào khoảng bốn giờ, rửa mặt rồi
thì nên ngồi thiền, vì sáng sớm trời đất vạn vật đều yên tĩnh, lúc nầy ngồi
thiền rất dễ tương ưng với đạo.
Ngồi thiền xong rồi, lễ Phật là vận động tốt nhất, khiến cho máu huyết lưu
thông, lạy Phật rồi thì tụng Kinh, khiến cho hô hấp hơi thở điều hòa, sau đó
thì trì Chú, trong tâm tĩnh lặng là kim cang trì Chú, làm hết tất cả rồi, thì bắt
đầu làm việc.
‘’Nhà đó đã lâu đời‘’: Tam giới từ vô thủy đến nay, vẫn tồn tại nên gọi là lâu
đời. ‘’Mà lại cũ hư nát‘’: Dụ cho thân người sẽ suy già, các bộ phận làm việc
cũng suy yếu.
‘’Phòng nhà cao nguy hiểm‘’: ‘’Phòng‘’ dụ cho sắc giới, ‘’nhà‘’ dụ cho dục
giới, ở trong tam giới dễ mất đi thân người. Trong tam giới sẽ đọa lạc vào
địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bất cứ lúc nào nên gọi là ‘’nguy hiểm‘’. ‘’Trụ
cột lại gãy mục‘’: ‘’Trụ cột‘’ dụ cho hai chân người, như trụ cột chống đỡ
thân thể. ‘’Gãy mục‘’ tức sinh già bệnh chết bốn tướng biến đổi, từ nhỏ đến
lớn, lớn rồi thành già, già rồi chết. ‘’Nóc nhà đều nghiêng ngã‘’: Dụ cho
lưng của chúng ta đã cong. ‘’Nền móng đã hư nát‘’ ý nói thân thể này tạo
nghiệp cuối cùng sẽ tan rã. ‘’Tường vách đều sụp đổ, bùn đất rơi rớt
xuống‘’: Dụ cho da của con người đã nhăn nheo, da như bùn đất biến hoại.
‘’Tranh lợp rơi tả tơi‘’: ‘’Tranh lợp‘’ là cỏ tranh dùng để lợp mái nhà, dụ
cho tóc, tóc đều đã rụng tả tơi. ‘’Kèo đòn tay trật khớp‘’: ‘’Kèo đòn tay‘’ dụ
cho gân cốt, gân cốt đã trật khớp. ‘’Bốn phía đều cong vạy, đầy dẫy những
nhơ uế‘’: Tức ruột non ruột già trong thân thể cong vạy, đầy dẫy phân đồ vật
phế thải nhơ uế.
Thân thể con người do bốn đại hòa hợp mà thành, thân thể tan rã thì bốn đại
phân tán, đất, nước, gió, lửa đều trả về. Mỗi người nên nhận rõ đời người,
đừng vì thân nầy mà làm nô lệ, chẳng biết giác ngộ. Tôi từng nói:
‘’Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm,
Trước trừ thiếu niên sau trừ già,
Thời gian khoảng giữa chẳng là bao,
Lại có một nửa thời gian ngủ‘’.
Con người mới sinh ra, đến mười tuổi thì quá nhỏ, chẳng làm được gì, quá
sáu mươi tuổi thì đã già, cũng chẳng còn hữu dụng, thời gian khoảng giữa
còn có một nửa ngủ nghỉ, thật tế đời người thời gian làm chẳng bao nhiêu, ở
trên là chân lý đời người, thấy được chân lý đời người, thì thân tâm có chỗ
ký thác.
‘’Có đến năm trăm người, thảy đều trong đó‘’: Tức là năm đường chúng
sinh (cõi trời, cõi người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), ở trong nhà lửa tam
giới nầy.
‘’Chim si hưu, điêu, thứu‘’: Chim si hưu là chim bất hiếu, mới sinh ra thì ăn
thịt mẹ của chúng. Chim mẹ bị con ăn, đó là vì quả báo, vì nó đời trước bất
hiếu với cha mẹ, cho nên đời nầy bị con ăn thịt. ‘’Chim si‘’ dùng chuộc làm
thức ăn. Người Tàu cho rằng thấy được loài chim nầy, là điềm chẳng cát
tường, chim nầy cũng gọi là mèo đầu ưng, do đó có câu: ‘’Mèo hoang vào
nhà, thì chẳng việc gì mà không xảy đến‘’. Cho nên ai ai cũng đều ghét loài
chim nầy. Con người nếu tự tôn tự đại, ở nhà bất hiếu với cha mẹ, thì quả
báu sẽ đầu thai làm chim si hưu. ‘’Ðiêu thứu‘’ : Ðều dùng động vật chết làm
thức ăn, những loài chim nầy lúc sinh tiền làm người, thì háo cao vụ viễn,
chẳng có việc gì thành tựu, chẳng cống hiến gì cho đời, vì họ háo cao vụ
viễn nên đầu thai làm phi cầm.
‘’Chim si, hưu, điêu, thứu, quạ, thước, cưu, cáp’’: Hết thảy tám loài chim
nầy, dụ cho mạn trong năm độn sử : Tham, sân, si, mạn, nghi, những loài
chim nầy, kiếp trước làm người thì cậy thế hiếp người, hoặc cậy tiền của,
hoặc cậy tài cán, hoặc cậy trí huệ, coi mình cao siêu mà khinh khi người
khác. ‘’Ðiêu‘’ là một thứ chim thân hình to, hay bay rất cao, mỏ màu đỏ,
dùng động vật nhỏ như thỏ, gà, làm thức ăn. ‘’Thứu‘’ thân màu vàng,
thường ăn vật hũ nát như động vật đã chết sình. ‘’Quạ‘’ là quạ đen là chim
hiếu nhưng tính kiêu ngạo. ‘’Thước‘’ là chim khách, thân nửa trắng nửa đen.
Người Tàu cho rằng chim khách là chim cát tường, gặp chim khách bay đến,
tức là có điềm cát tường, có tin vui, cho nên ai ai cũng đều thích chim nầy.
‘’Cưu‘’ loài chim nầy chẳng ăn trùng mà ăn lương thực. ‘’Cáp‘’ tự cho mình
là đẹp nhất, tính đa tình. Tám loài chim ở trên là dụ cho cống cao ngã mạn.
Có tám thứ kiêu ngạo :
1. ‘’Si‘’ dụ cho ỷ mạnh kiêu ngạo.
2. ‘’Hưu‘’ dụ cho tính kiêu ngạo, lúc làm người thì cậy mình sinh vào gia
đình sang trọng.
3. ‘’Ðiêu‘’ dụ cho giàu kiêu ngạo, tự cho rằng mình giàu hơn người khác.
4. ‘’Thướu’’ dụ cho tự tại kiêu ngạo, cảm thấy mình vô câu vô thúc, vô quái
vô ngại, cứ ăn vật hư hoại, mà tự cho rằng đó là tu khổ hạnh, cảm thấy rất tự
tại, kì thật chỉ là khổ hạnh vô ích mà thôi.
5. ‘’Quạ‘’ dụ cho thọ mạng kiêu ngạo, tuy thọ mạng chẳng dài lắm, song tự
cảm thấy thọ lâu dài, cho nên có thọ mạng kiêu ngạo.
6. ‘’Thước‘’ dụ cho thông minh kiêu ngạo.
7. ‘’Cưu‘’ dụ cho làm thiện kiêu ngạo, lấy sự ăn chay mà tự kiêu ngạo.
8. ‘’Cáp‘’ dụ cho sắc đẹp kiêu ngạo.
Tám thứ kiêu ngạo ở trên, dụ cho mạn sử trong năm độn sử, tức là thường có
tâm ngã mạn, tự cho mình hơn bất cứ ai.
‘’Ngoan, xà, phúc, hiết, ngô công, du diên‘’: ‘’Ngoan’’ là rắn đen rất độc.
‘’Xà‘’ độc khí rất lợi hại. ‘’Phúc‘’ thân rộng ba tấc, dài từ ba đến bốn tất,
hình như con nhện, đầu như ngón tay cái của người, cũng là một thứ rắn độc.
‘’Hiết‘’ cũng là một loài trùng có nọc độc. ‘’Ngô công‘’ đầu màu đỏ, đầu
chẳng phải màu đỏ tức là ‘’du diên ‘’ là loài trùng rất độc. ‘’Ngoan, xà,
phúc, hiết, ngô công, du diên‘’ đều dụ cho ‘’sân‘’ ở trong năm độn sử, sân
rất độc, cho nên không nên có tâm sân hận.
‘’Thủ cung, bá túc‘’: ‘’Thủ cung’’ tức là ‘’hà diên’’, ở trong tường vách gọi
là ‘’thủ cung’’, ở dưới biển gọi là ‘’hà diên’’. Truyền thuyết thời xưa của
Tàu, hoàng đế nhốt phi tần vì bất trung với vua, có hành vi chẳng tốt, thì
dùng máu của loài ‘’thủ cung’’ bôi lên cánh tay của phi tần, nếu phi tần hạnh
trong sạch, thì máu chẳng mất đi, cho nên thứ trùng nầy gọi là ‘’thủ cung’’.
‘’Bá túc’’ là loài rếp, có rất nhiều chân dài đến ba bốn tất, màu đen rất độc.
‘’Dứu, ly, hề thử‘’: ‘’Dứu’’ là một thứ động vật thân dài ba thước, nếu gặp
chó hoang tập kích, thì thân phóng ra mùi thối để thoát thân, khỏi bị chó cắn.
Thứ động vật nầy có cái đuôi lớn, người thường dùng lông đuôi của nó để
làm bút lông. Trung Quốc có hồ tiên và huỳnh tiên, ‘’dứu’’ là huỳnh tiên,
thân màu vàng, sống lâu khoảng một ngàn năm, thân biến thành màu đen là
đã sống đến một vạn năm, thân mà biến thành màu trắng thì thành tiên. Sống
khoảng một trăm năm thì sẽ có thần thông. ‘’Ly’’ là một thứ mèo hoang,
chuyên bắt gà vịt để ăn. ‘’Hề thử’’ còn gọi là cam khẩu hề, là một loài chuột.
Mấy loài động vật ở trên là dụ cho ‘’si‘’ ở trong năm độn sử. ‘’Thủ cung, bá
túc’’ là loài chẳng có trí tuệ, dụ cho độc đầu vô minh. ‘’Dứu, ly, hề thử‘’ dụ
cho tương ưng vô minh.
‘’Các loài độc trùng dữ, đuổi nhau chạy ngang dọc‘’: Mấy loài độc trùng
vừa nói ở trên, là dụ cho độc đầu vô minh và tương ưng vô minh, là ác tướng
ở trong tam giới, đó đây đuổi nhau chạy ngang chạy dọc.
‘’Ðại tiểu tiện hôi thối, chảy đầy đồ bất tịnh‘’: Dụ cho con người bề ngoài
trang điểm đẹp đẽ, nhưng thân thể bên trong rất bẩn thỉu hôi thối, nhưng con
người vẫn ngu si chấp trước túi da hôi thối nầy, xem là của báu. Ðộc trùng ở
trên là dụ cho sự ngu si của con người. Con người ở chỗ bất tịnh, tham trước
đồ bất tịnh mà chẳng biết, mà những vật bất tịnh nầy chảy đầy dẫy khắp nơi.
‘’Các độc trùng khương lương, bu đậu ở trên đó‘’: ‘’Khương lương’’ là loại
bọ hung sống ở trong phân bò, nó vẫn vui vẻ tự đắc, thậm chí dùng phân để
cúng Phật, nhưng vì thành tâm, nên Phật cũng từ bi nạp thọ. Vì nó hay cúng
Phật, nên đời sau được chuyển làm thân người, nhưng đời trước nghiệp
chướng quá nặng, dù được sinh làm người, nhưng bị điết, câm, ngu si, hạ
liệt. Loài bọ hung sống ở trong đống phân, nếu bạn muốn nó di chuyển đến
hũ dầu thơm, thì nó chẳng thể thích ứng mà chết. Chúng ta là người học Phật
pháp, phải học đạo lý chân chánh, đừng giống như loài bọ hung, sống ở
trong đống phân, vẫn chẳng biết tỉnh giác.
‘’Cáo sói và dã can‘’: ‘’Cáo’’ tức là hồ ly, hồ ly tinh khiến cho con người ý
loạn tình mê. Người Tàu thường dùng hồ ly tinh, dụ cho phụ nữ bại hoại,
thường dụ hoặc đàn ông. Thiên tính của hồ ly đa nghi. Trời mùa đông nước
đóng thành băng, hồ ly đi trên băng, mỗi bước đều lóng nghe, nếu chẳng có
tiếng động gì, thì băng đóng dày chắt, có thể đi được, cho nên nói hồ ly đa
nghi. ‘’Sói’’ tính hung ác, tướng mạo như chó. Khi tôi ở núi Không Thanh
tại Nam Kinh, thì một đêm nọ, từ Long đầm trên đường về gặp một bầy sói,
chúng đi cạnh bên tôi, nhưng chẳng tập kích tôi, tôi bèn vì chúng mà thọ quy
y, cho nên trong số đệ tử của tôi, cũng có hơn hai mươi con sói làm đệ tử.
‘’Dã can’’ là tạp giống của hồ ly, hồ ly đã thông minh, mà dã can còn thông
minh hơn hồ ly, chúng ở vùng ven núi, hoặc khu rừng cây cao, chúng
thường phát ra tiếng rất đặc biệt quái lạ, khiến cho người nghe phải khiếp
vía, và những thú khác chẳng dám đến gần.
‘’Liếm nhai dày đạp lên‘’: Có thức ăn ít, thì từ từ liếm nhai, còn nếu có thức
ăn nhiều, thì chẳng biết tiếc mà dày đạp lên.
‘’Cắn xé những thây chết, xương thịt bừa bãi ra‘’: Dùng tay xé xác chết ra
ăn, vứt bỏ bừa bãi. ‘’Do đó các bầy chó, tranh nhau đến giành ăn‘’: Bầy chó
cũng đến tranh ăn xương thịt, chẳng nhường nhịn nhau.
‘’Ốm đói rất sợ sệt‘’: Chẳng hiểu Phật pháp là đói, pháp thân chẳng viên
mãn là ốm, một số người chưa nghe Phật pháp, đều có thể gọi là ốm đói.
‘’Khắp nơi tìm thức ăn‘’: Bầy chó cùng nhau tranh giành xương thịt, dụ cho
tham trong năm độn sử.
‘’Giành giựt cấu sé nhau’’: Phát ra lời lẽ tranh cãi thị phi.
‘’Gầm gừ gào sủa rên‘’: Trợn mắt mà nhìn là gừ, há mồm nhe răng ra để thị
uy là gầm, kêu lớn tiếng là gào sủa, những thứ nầy dụ cho nghi trong năm
độn sử .
‘’Nhà đó rất đáng sợ, những cảnh trạng như thế‘’: Trong nhà năm uẩn cảnh
trạng rất đáng sợ.
Từ khi bắt đầu bài kệ đến đây, là nói về năm độn sử : Tham, sân, si, mạn,
nghi, những thứ nầy chi phối, khiến cho con người điên đảo thị phi, khó mà
tự cứu. Cho nên tu đạo phải trừ khử năm độn sử nầy.
‘’Khắp nơi thảy đều có, quỷ lị mị vọng lượng, Dạ xoa các ác quỷ, ăn nuốt cả
thịt người‘’: ‘’Khắp nơi’’ là nói tam giới : Dục giới, sắc giới và vô sắc giới,
cũng có thể nói là thân của con người. Ba cõi đều đầy dẫy Dạ xoa, ác quỷ, lị,
mị, vọng lượng, hoặc trong năm dục đầy dẫy sắc thọ tưởng hành thức, hoặc
bốn đế đều đầy dẫy lị mị vọng lượng. ‘’Lị’’ là sơn tinh, là quỷ quái ở trong
núi. ‘’Mị’’ là yêu quái cứ làm việc quái đảng ở trong nhà, tức quỷ mị.
‘’Vọng lượng’’ là tinh quái do cây, hoặc đá hóa thành, ngón tay của con
người chảy máu nhỏ lên đá, thì đá mượn tinh khí của con người mà biến
thành tinh quái. ‘’Vọng lượng’’ là to lớn như núi cao, ban đêm mới xuất
hiện, đến khi gà gáy quấy nhiễu mới ẩn mất. Lị mị là quỷ nhỏ bé cao khoảng
ba thước, rất nhỏ so với vọng lượng, quỷ Vọng lượng cao ba bốn trượng cho
đến ba bốn mươi trượng. ‘’Lị, Mị, Vọng lượng, Dạ xoa, ác quỷ‘’ đều dụ cho
năm lợi sử, năm lợi sử khiến cho con người điên đảo, chấp trước làm việc hồ
đồ :
1. Thân kiến: Chấp trước thân thể của mình, chú trọng trang điểm túi da hôi
thúi nầy, nhận lầm thân giả nầy làm ‘’chân ngã’’. Kì thật, thường trụ chân
tâm, tính tịnh minh thể mới là ‘’chân ngã‘’, tức tánh Như Lai tạng, cũng đều
là chân ngã. Chân ngã thì chẳng sinh chẳng diệt, chẳng sạch chẳng dơ, chẳng
tăng chẳng giảm. Người tu hành nên nhớ đừng nhận giả làm chân, phải trừ
khử ‘’thân kiến’’, nhìn thấu buông xả.
2. Biên kiến : Chấp đoạn, chấp thường, đây là tri kiến của ngoại đạo, hoặc
cho rằng người chết như đèn tắt, bác vô nhân quả, hoặc cho rằng người như
cây cỏ, sinh thì tự sinh, chết thì tự chết, tức là đoạn kiến. Thường kiến là
sinh thì làm người, đời đời kiếp kiếp đều làm người, sinh rồi chết, chết rồi
lại sinh làm người. ‘’Biên’’ tức chẳng hợp với trung đạo, cường từ đoạt lý.
3. Giới cấm thủ kiến : Là một thứ giới luật của ngoại đạo tu, chẳng phải
nhân cho là nhân, chẳng phải quả cho là quả, họ dối gạt tu khổ hạnh vô ích,
thì có thể được Niết Bàn. Kì thật, là có những bàng môn tả đạo, vì khổ hạnh
mà được thiên nhãn thông, thấy súc sinh được sinh về cõi trời, bèn học theo
sinh sống tập quán của loài súc sinh, tu hành những pháp môn, ví như : Giới
bò, họ cho rằng : Sở dĩ bò được sinh về cõi trời, đều vì dùng cỏ làm thức ăn,
cho rằng ăn cỏ là trai giới trong sạch nhất, cho nên giữ giới bò, cũng dùng cỏ
làm thức ăn. Kẻ giữ giới chó, thì cho rằng chó vì người trông giữ cửa, thì có
công lao, cho nên hành động và làm theo như chó. Ðó là những giới bò, giới
chó, của ngoại đạo. Vì tu những khổ hạnh vô ích như vậy, cũng có thể sinh
về cõi trời, tức trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’Ly địa nhất xích nhị xích’’.
Ly địa nhất xích, tức sinh về cõi dục giới, ly địa nhị xích, thì sinh về cõi sắc
giới. Ðó là giới tu của ngoại đạo, song có sự chấp trước, chẳng phải tịnh giới
vô lậu của nhà Phật. Còn có một thứ ngoại đạo, lấy heo làm mô phạm, nằm
trên đất, dùng tro bôi khắp thân thể, dạy người chẳng nhận ra mặt mũi của
họ. Còn có một thứ ngoại đạo, ngủ ở trên giường đinh, cho rằng bị đinh đâm
lủng da cũng chẳng sợ, là sự khổ hành khó hành. Còn có một thứ khổ hạnh,
dùng dây thừng treo ngược thân thể mà ngủ. Còn có một thứ khổ hạnh, dùng
bùn đất làm thức ăn, cho rằng đó mới là sinh sống thiên nhiên. Ðó đều là
giới cấm thủ, thực hành những khổ hạnh vô ích.
4. Tà kiến : Là tri kiến ngược lại với chánh đạo. Ví như người tu đạo, nên
hiếu thuận với cha mẹ, nhưng người tà kiến cho rằng : Sinh dưỡng con cái là
bổn phận của cha mẹ, cho nên chẳng hiếu thuận với cha mẹ. Chánh đạo chủ
trương chẳng sát sinh, còn họ thì cổ lệ sát sinh. Trộm cắp thì chẳng hợp
pháp, nhưng họ dạy người đi trộm cắp. Tà dâm là hành vi bất chánh, nhưng
họ dạy người tà dâm. Người không nên nói láo, nhưng họ dạy người nói dối.
Người tà kiến thì phản đối việc ăn chay, cho rằng ngựa, bò, dê, các loài súc
sinh là trời sinh ra cho con người ăn thịt, hà tất làm hại vật của trời ! Nói tóm
lại, kẻ tà kiến thì tất cả tri kiến đều ngược lại với chánh đạo.
5. Kiến thủ kiến : Thấy vật bên ngoài thì sinh tâm ích kỉ, muốn chiếm làm
của riêng mình. Năm lợi sử ở trên che lấp trí huệ chân chánh của con người.
Cho nên người học Phật, phải dùng kiếm trí huệ chặt đứt năm lợi sử, mới có
thể vượt ra ba cõi. Ðó là nói sơ lược về năm lợi sử, nếu nói tỉ mỉ thì nói
chẳng hết được.
Vì sao bò, chó, heo, gà, các loài súc sinh có thể sinh về cõi trời ? Vì bò cày
ruộng, làm việc cho chủ, nên có công, cho nên có thể sinh về cõi trời. Chó
trung thành với chủ, cứu chủ lập công, cho nên có thể sinh về cõi trời, mà
chẳng biết rõ nhân duyên chúng được sinh về trời, hiểu lầm sự sinh về trời,
nên học hành vi tập quán hằng ngày của chúng. Người tu đạo phải có mắt
chọn pháp, biết rõ thị phi, lựa thiện mà theo.
‘’Dạ xoa các ác quỷ’’: Dụ cho tà kiến của năm lợi sử, như Dạ xoa ác quỷ
hành sự ở trong bóng tối. ‘’Thịt người’’ dụ cho thiện báo, người làm lành thì
được thiện báo.
‘’Nuốt cả thịt người’’ dụ cho kẻ tà kiến bác nhân quả, dẫn dắt kẻ khác làm
những việc bại hoại.
‘’Các loài trùng dữ độc, các cầm thú hung ác’’. Tức ở trên đã nói những loài
trùng độc và cầm thú.
‘’Ấp cho bú sản sinh’’: ‘’Ấp’’ trứng do ấp mà sinh, ‘’bú’’ là thai sinh, ‘’đều
tự giấu gìn giữ‘’: Dụ cho nhân quả thế gian chẳng mất đi.
Quỷ Dạ xoa đua đến
Tranh giành lấy món ăn
Ăn xong no nê rồi
Tâm ác nổi hăng lên.
Tiếng chúng đánh cãi nhau
Thật rất là hãi hùng
Loài quỷ Cưu bàn trà
Ngồi xổm trên đống đất.
Hoặc có lúc hỏng đất
Một thước hoặc hai thước
Dạo đi qua đi lại
Buông lung chơi đùa giỡn.
Cầm nắm hai chân chó
Ðánh cho la thất thanh
Lấy chân đạp trên cổ
Khủng bố chó để vui.
‘’Quỷ Dạ xoa đua đến, tranh giành lấy món ăn‘’: Dạ xoa là một loài quỷ
hành động rất nhanh nhẹn, cùng nhau tranh giành lấy thức ăn, vì thức ăn thì
ít, mà quỷ Dạ xoa thì nhiều, chẳng đủ phân chia, cho nên chúng tranh giành
lấy thức ăn. Dụ cho bác vô nhân quả.
‘’Ăn xong no nê rồi‘’: Dụ cho tà kiến thành tựu.
‘’Tâm ác nổi hăng lên‘’: Dụ cho tà kiến tăng trưởng.
‘’Tiếng chúng đánh cãi nhau, thật rất là hãi hùng‘’: Do đó có câu :
‘’Tranh là tâm hơn thua,
Trái ngược lại với đạo,
Tâm sinh ra bốn tướng,
Sao đắc được tam muội‘’.
Tranh là tâm hơn thua, trái ngược với đạo, khởi tâm tranh thì sinh ra : Tướng
người, tướng ta, tướng chúng sinh và tướng thọ mạng. Sinh ra bốn tướng
nầy, làm sao được tam muội ? Dụ cho tà luận bác vô nhân quả, thật là đáng
sợ. Lại dụ cho một số người nghe tà luận, bị mê hoặc mà tạo nghiệp, đọa vào
ba đường ác, rất khó ra được.
‘’Loài quỷ Cưu bàn trà‘’: Hình như quả dưa, chẳng có tay, chẳng có chân,
gọi là quỷ yểm mị, thường đè trên người khi họ ngủ, khiến cho họ nghẹt thở,
thậm chí có thể làm cho người chết. Dụ cho giới cấm thủ kiến trong năm lợi
sử.
‘’Ngồi xổm trên đống đất‘’: Dụ cho sáu cõi trời dục giới. Ngoại đạo giữ giới
bò, chó, gà, heo, y theo giới tu mười điều thiện, thì được sinh về sáu cõi trời
dục giới (Tứ Thiên Vương, Trời Ðao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Ðâu Xuất, Trời
Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại).
‘’Hoặc có lúc hỏng đất, một thước hoặc hai thước‘’: ‘’Hoặc’’ nghĩa là chẳng
quyết định. Ngoại đạo y theo giới tu hành đắc được tứ thiền, sinh về cõi trời
sắc giới tức ‘’hỏng đất một thước’’, y theo giới tu tứ không định, được sinh
về cõi trời vô sắc giới, tức ‘’hỏng đất hai thước’’.
‘’Dạo đi qua đi lại‘’: ‘’Ði’’ dụ cho sinh về cõi sắc giới, vô sắc giới. ‘’Qua
lại’’ dụ cho sinh về cõi dục giới. Dụ cho con người như hạt bụi, lúc cao lúc
thấp, lúc lên lúc xuống, ở trong nhà lửa tam giới, tạo nghiệp thiện thì được
sinh về cõi trời; tạo nghiệp ác thì đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, hoặc súc sinh.
Con người do nghiệp dẫn dắt.
‘’Buông lung chơi đùa giỡn‘’: Dụ cho người chẳng minh bạch chân lý, thì
chẳng đắc được sự vui cứu kính, những gì có được, đều là khoái lạc giả,
chẳng thật.
‘’Cầm nắm hai chân chó, đánh cho la thất thanh‘’: Quỷ Dạ xoa cầm hai chân
chó, đánh và ném đi nơi xa. Dụ cho ngoại đạo vọng tưởng, tu khổ hạnh để
mong thành tựu đạo nghiệp. Thật ra, giữ giới bò, giới chó, giới heo, đều là
khổ hạnh vô ích, khổ hạnh ngoại đạo chẳng phải nhân cho là nhân.
‘’Lấy chân đạp trên cổ‘’: Dụ cho ngoại đạo chẳng phải quả cho là quả. Cho
rằng hành khổ hạnh, thì có thể được khoái lạc Niết Bàn.
‘’Khủng bố chó để vui‘’: Quỷ Dạ xoa làm cho chó kinh hãi sủa bậy để làm
vui thích. Dụ cho được vị thiền, chứng đắc Ly hỉ diệu lạc địa (sơ thiền).
Lại có các loài quỷ
Thân chúng dài to lớn
Trần truồng rất xấu đen
Thường ở luôn trong đó.
Phát ra tiếng hung ác
Kêu la tìm thức ăn
Lại có các loài quỷ
Cổ chúng nhỏ như kim.
Lại có các loài quỷ
Ðầu chúng như đầu trâu
Hoặc là ăn thịt người
Hoặc lại ăn thịt chó.
Ðầu tóc rối tung lên
Tàn ác rất hung hiểm
Bị đói khát bức bách
Kêu la chạy đuổi theo.
‘’Lại có các loài quỷ‘’: Ngoại trừ quỷ Dạ xoa ra, còn có các loài quỷ khác.
‘’Thân chúng dài to lớn, trần truồng rất đen xấu, thường ở luôn trong đó’’:
Dụ cho thân kiến trong năm lợi sử. Thân của chúng đầy dẫy trong tam giới,
cho nên nói là ‘’dài’’, khắp đầy năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cho
nên nói là ‘’to lớn’’.
Tự giác mãn túc, chẳng hổ thẹn, chẳng tu pháp lành, cho nên gọi là ‘’trần
truồng’’. Vì tội ác khắp mình, cho nên gọi là ‘’đen’’. Chẳng có đức hạnh nên
gọi là ‘’xấu’’. ‘’Thường ở luôn trong đó’’: Thường ở trong ba cõi chẳng cầu
thoát ra. ‘’Phát ra tiếng hung ác’’: Dụ cho kẻ ngoại đạo tu chấp nặng tướng
ta, tu đủ thứ khổ hạnh. ‘’Kêu la tìm thức ăn’’: Dụ cho ngoại đạo vọng tưởng
chấp trước cái ta mà được Niết Bàn.
‘’Lại có các loài quỷ, cổ chúng nhỏ như kim’’: Có loài quỷ bụng to như
trống, cổ nhỏ như kim, dụ cho ‘’kiến thủ ’’ trong năm lợi sử, nhận lầm rằng
cảnh giới Trời Phi Phi Tưởng Xứ là Niết Bàn. Trời Phi Phi Tưởng Xứ sống
lâu đến tám vạn đại kiếp, hết tuổi thọ thì sẽ đọa lạc.
‘’Lại có các loài quỷ, đầu chúng như đầu trâu’’: Dụ cho biên kiến.
‘’Hoặc là ăn thịt người’’: ‘’Thịt người’’ dụ cho căn lành, dụ cho đoạn kiến,
thường kiến, dứt căn lành xuất thế.
‘’Hoặc lại ăn thịt chó’’: Dụ cho dứt căn lành thế gian.
Căn lành xuất thế là gì ? Là siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si, đầy
đủ bốn đế, mười hai nhân duyên, lục độ vạn hạnh, hết thảy các công đức, đó
là căn lành xuất thế. Căn lành thế gian là giữ năm giới. Thực hành mười điều
lành : Không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không
uống rượu, đó là năm giới; chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm,
không tham, không sân, không si, không nói lời thêu dệt, không nói dối,
không chưởi mắng, không nói hai chiều, đó là mười điều lành. Người có
đoạn kiến, thường kiến, thì sẽ dứt mất căn lành thế gian và xuất thế gian.
‘’Ðầu tóc rối tung lên’’: Dụ cho ngoại đạo. ‘’Chẳng thường mà nói thường’’
: Cho rằng sinh làm thần thì vĩnh viễn là thần; sinh làm người thì vĩnh viễn
là người; sinh làm súc sinh thì vĩnh viễn chẳng thay đổi. Ngoại đạo cũng có
lý luận sai lầm, một khi chết thì vĩnh viễn diệt hẳn. Những lý luận nầy hoàn
toàn sai lầm, chẳng hợp với trung đạo, mâu thuẫn lẫn nhau cho nên nói ‘’đầu
tóc rối tung lên’’.
‘’Tàn ác rất hung hiểm‘’: Dụ cho thường kiến, phá chân lý vô thường, còn
đoạn kiến thì phá chân lý nhân duyên.
‘’Bị đói khác bức bách, kêu la chạy đuổi theo‘’: ‘’Đói khác’’ là đói khác trí
huệ, người tu đạo phải có thức ăn trí huệ và uống thiền định; chẳng nghe
Kinh thì chẳng có thức ăn trí huệ; chẳng ngồi thiền thì chẳng uống thiền
định, cho nên nói ‘’bị đói khác bức bách’’. ‘’Kêu la’’ dụ cho diễn xướng tà
luận đoạn kiến, ‘’chạy đuổi theo’’ dụ cho sinh tử không ngừng, ở trong sáu
nẻo luân hồi.
Dạ xoa cùng quỷ đói
Các chim muôn ác độc
Ðói quá chạy bốn bề
Rình xem các cửa sổ.
Các nạn như vậy đó !
Vô lượng việc ghê sợ
Vì nhà hư mục đó
Thuộc về nơi một người.
Người đó vừa ra khỏi
Thời gian chưa bao lâu
Về sau ngôi nhà đó
Lửa bổng nhiên nổi lên.
‘’Dạ xoa cùng quỷ đói, các chim muôn ác độc‘’: Dụ cho phiền não năm lợi
sử và năm độc sử trong dục giới. Chúng sanh dục giới đều là hữu lậu, nên
chẳng biết tu đạo, càng không thể được từ vị thiền duyệt.
‘’Ðói quá chạy bốn bề‘’: Dụ cho ngoại đạo tu tà quán, chẳng biết lĩnh ngộ
được chân lý, mà họ ngưỡng mộ đạo quả và thiền vị.
‘’Rình xem các cửa sổ, các nạn như vậy đó, vô lượng việc ghê sợ’’: Các nạn
như thế, thật là đáng hãi hùng.
‘’Vì nhà hư mục đó‘’: Dụ cho ba cõi vô thủy cố hữu chẳng an ổn.
‘’Thuộc về nơi một người’’: Phật dùng ứng thân vào ba cõi giáo hóa chúng
sinh. Từ khi Phật phát tâm cho đến khi thành Phật, trải qua ba đại A Tăng kỳ
kiếp, Ngài phát vô lượng vô biên thệ nguyện: Nguyện độ tất cả chúng sinh
liễu sinh thoát tử. Cho nên, chúng ta là Phật giáo đồ, nên phát vô lượng vô
biên đại thệ nguyện, độ tất cả chúng sinh. Phật giáo đồ nên độ cha mẹ tin
Phật, nếu độ được cha mẹ tin chân lý, thì mới là hiếu thuận chân chánh, sau
đó độ anh chị em hiểu rõ chân lý, xa lìa tà tri kiến. Ðức Phật thành Phật rồi,
còn phải đến cung trời Ðao Lợi vì mẹ mà nói Kinh Ðịa Tạng, đủ thấy đức
Phật thành Phật rồi, vẫn không quên độ mẹ của Ngài.
‘’Người đó vừa ra khỏi, thời gian chưa bao lâu, sau đó ngôi nhà đó, lửa bỗng
nhiên nổi lên’’: Ðức Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng
sinh hàng phục được năm trược, hoàn thành tất cả nghiệp hoặc, Phật mới
vào Niết Bàn. Phật vào Niết Bàn rồi, thì tất cả chúng sinh năm trược lại hiện.
Cũng có thể dụ cho chúng sinh được Phật giáo hóa, đã được vô minh pháp
nhẫn, do đó có câu:
‘’Các lậu đã sạch,
Phạm hạnh đã vững,
Việc làm đã xong,
Chẳng còn sinh tử ‘’.
Chẳng còn sinh vào ba cõi nữa, nên nói là ‘’ra khỏi’’. Tuy Phật đã thành
Phật, ra khỏi ba cõi nhưng Phật vẫn nương thuyền từ bi trở lại thế giới nầy,
để giáo hóa chúng sinh. ‘’Về sau ngôi nhà đó, lửa bỗng nhiên nổi lên‘’:
‘’Nhà’’ dụ cho năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, lửa năm uẩn thiêu hủy
ba cõi.
Bốn phía cùng một lúc
Lửa ngọn cháy hừng hực
Mái nóc và cột kèo
Tiếng nổ vang lách tách.
Ðổ gãy rơi rớt xuống
Tường vách đều sụp đổ.
‘’Bốn phía’’ dụ cho bốn niệm xứ. Sau khi Phật vào Niết Bàn, thì tất cả người
tu đạo, Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni, đều y theo bốn niệm xứ mà trụ. Bốn niệm xứ:
Thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, và pháp niệm xứ.
1. Quán thân bất tịnh : Quán thân, thọ, tâm, pháp, đều bất tịnh.
2. Quán thọ là khổ : Quán thân, thọ, tâm, pháp, đều khổ.
3. Quán tâm vô thường : Tâm niệm luôn thay đổi, nên gọi là vô thường,
quán thân, thọ, tâm, pháp, đều vô thường.
4. Quán pháp vô ngã : Quán thân, thọ, tâm, pháp, đều chẳng có cái ta. Tu
bốn niệm xứ trước hết tu :
1. Quán bất tịnh, để phá trừ chấp cái ta, mượn cái giả tu cái thật.
2. Quán thọ là khổ, có ba sự khổ, tám sự khổ và vô lượng sự khổ.
3. Quán tâm vô thường.
4. Quán pháp chẳng có ngã. ‘’Cùng một lúc’’ dụ cho năm trược, tám sự khổ,
bốn điên đảo, cùng một lúc sinh ra. Bốn điên đảo là bốn sự thấy điên đảo của
ngoại đạo : Chẳng thường nói là thường, chẳng vui nói là vui, chẳng phải
ngã nói là ngã (cái ta), chẳng tịnh nói là tịnh (thường, lạc, ngã, tịnh bốn đức
Niết Bàn).
‘’Lửa ngọn cháy hừng hực‘’: Bốn điên đảo, năm trược, tám khổ cùng nhau
tương trợ, cho nên nói là lửa ngọn cháy hừng hực.
‘’Nóc mài và cột kèo‘’: Dụ cho xương cốt chi trì thân thể.
‘’Tiếng nổ vang lách tách‘’: Mạng sống mà hết là ‘’nổ’’, dụ cho mạng sống
chấm dứt.
‘’Ðổ gãy rơi rớt xuống, tường vách đều sụp đổ‘’: Hơi thở chấm dứt là ‘’đổ
gãy’’, dụ cho lúc lâm chung thì bốn đại giải tán, đất, nước, gió, lửa đều trở
về bổn thể của nó.
Các loài quỷ thần thảy
Ðều lớn tiếng kêu to.
Các loài chim điêu thứu
Cùng quỷ Cưu bàn trà
Hoảng sợ chạy tán loạn
Vẫn chẳng chạy ra được.
Thú dữ và trùng độc
Ẩn núp trong hang lỗ
Loài quỷ Tỳ xá xà
Cũng đều ở trong đó.
Vì phước mỏng đức ít
Nên bị lửa bức bách
Lại tàn hại lẫn nhau
Uống máu và ăn thịt.
‘’Các loài quỷ thần thảy‘’: Dụ cho năm độn sử và năm lợi sử.
‘’Ðều lớn tiếng kêu to‘’: Các loài quỷ thần thấy căn nhà bỗng nhiên nổi lửa,
tường ngã nhà sập, nên hoảng hốt kêu to.
‘’Các loài chim điêu, thứu, cùng quỷ Cưu bàn trà, hoảng sợ chạy tán loạn,
vẫn chẳng tự ra được‘’: Dụ cho ba cõi chẳng dễ gì thoát ra, phải nhờ sự giúp
đỡ của Phật Pháp Tăng mới ra được.
‘’Thú dữ và trùng độc, ẩn núp trong hang lỗ‘’: ‘’Hang lỗ’’ dụ cho sắc giới.
‘’Loài quỷ Tỳ Xá Xà, cũng đều ở trong đó‘’: Quỷ ăn tinh khí cũng ở trong
cõi sắc giới.
‘’Vì phước mỏng đức ít, nên bị lửa bức bách‘’: Vì phước đức mỏng cạn, cho
nên thường nóng giận. Người thường nóng giận là do đức hạnh chẳng đủ,
nóng giận như bị lửa thiêu. Dụ cho ba cõi chẳng yên, bị bốn điên đảo, tám sự
khổ bức bách.
‘’Lại tàn hại lẫn nhau‘’: Trong cõi sắc giới nhàm chán cõi thấp, thích cõi cao
hơn, ví như ở cõi sắc giới thì nhàm chán cõi dục giới, thích sinh về cõi vô
sắc; người ở cõi trên thì chẳng thích cõi dưới, cho nên ‘’Lại tàn hại lẫn
nhau’’.
‘’Uống máu và ăn thịt‘’: ‘’Uống máu’’ dụ cho chúng sinh cõi sắc, và cõi vô
sắc mặc nhiên chấp trước, chẳng nói năng với nhau. ‘’Ăn thịt’’ dụ cho chúng
sinh cõi sắc, và cõi vô sắc chấp trước công đức.
Những loài thú dã can
Thảy đều đã chết trước
Các loài thú dữ lớn
Giành nhau đến ăn nuốt.
Mùi tanh loan khắp nơi
Ðầy dẫy cả bốn bề
Loài ngô công do diên
Cùng với loài rắn độc.
Ðều bị lửa thiêu đốt
Tranh nhau ra khỏi hang
Loài quỷ Cưu bàn trà
Bèn bắt lấy mà ăn.
‘’Những loài thú dã can, thảy đều đã chết trước‘’: ‘’Dã can’’ dụ cho lòng
tham của dục giới. Ðã sinh về cõi sắc giới, nên đã lìa khỏi lòng tham của dục
giới.
‘’Các loài thú dữ lớn, tranh nhau đến ăn nuốt, mùi tanh loan khắp nơi, đầy
dẫy cả bốn bề’’: Các loài thú dữ lớn’’ dụ cho lòng tham ở cõi sắc giới, có thể
nuốt trựng sự tham ở cõi dục giới, có cảnh giới thiền vị, nên dụ cho mùi
tanh. Cũng cùng chung: Thân, thọ, tâm, pháp, và bốn đại, nên nói ‘’đầy cả
bốn bề’’.
‘’Loài ngô công, do diên, cùng với loài rắn độc, đều bị lửa thiêu đốt, tranh
nhau ra khỏi hang‘’: Dụ cho cõi vô sác. Cõi vô sắc cao hơn cõi sắc một tầng,
người tu đạo sinh về cõi vô sắc, thì nhàm chán cõi sắc, vì cõi sắc còn có hình
tướng có thể thấy, chúng sinh cõi sắc bị hình tướng giới hạn, vẫn còn tướng
thô về sự khổ, ở cõi sắc bị tám sự khổ, năm uẩn thiêu đốt, cho nên muốn
thoát khỏi cõi sắc, để sinh về cõi vô sắc.
‘’Ðều bị lửa thiêu đốt, tranh nhau ra khỏi hang‘’: ‘’Hang’’ dụ cho trời sắc
giới, ‘’ra khỏi hang’’ dụ cho trời cõi vô sắc, đến cõi vô sắc, thì định lực càng
tiến thêm một bước. Ðến cõi trời vô sắc, thì trời cõi sắc diệt, cho nên dùng
‘’loài quỷ Cưu Bàn Trà, bèn bắt lấy mà ăn’’ làm dụ.
‘’Loài quỷ Cưu bàn trà‘’ dụ cho gốc năm độn sử, và năm lợi sử, đều có thể
được vô sắc định, nhưng trong văn nói chấp trước năm độn sử, nhàm chán
trời cõi sắc, mà muốn lên cõi vô sắc, năm lợi sử đã chứng được vô sắc giới,
cho nên nhàm chán trời cõi sắc, cho nên nói rằng : ‘’Loài quỷ Cưu Bàn Trà,
bèn bắt lấy mà ăn’’.
Lại có các ngạ quỷ
Trên đầu bị lửa thiêu
Ðói khát nhiệt não hành
Hoảng hốt chạy tán loạn.
Ngạ quỷ bụng to như trống, cổ nhỏ như kim, cho nên khó mà no nê được.
Trên đầu bị lửa thiêu đốt, đói khát nóng bức hành hạ, nên chạy tán loạn khắp
nơi chẳng có mục đích. ‘’Ngạ quỷ’’ dụ cho Trời Tứ Không Xứ (Trời Không
Vô Biên Xứ, trời Thức Vô Biên Xứ, trời Vô Sở Hữu Xứ, trời Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ ).
Trời Tứ Không tuy đã không, nhưng vẫn có thức, chưa dứt sinh tử, chưa
được vô lậu ẩm thực, như là loại ngạ quỷ chưa được vô lậu ẩm thực, tuy ở
trên đỉnh ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc), nhưng vẫn chưa dứt sinh tử, bị
vô thường thiêu đốt, cho nên nói ‘’trên đầu bị lửa thiêu’’. Trời Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng sống lâu đến tám vạn đại kiếp, hưởng hết phước trời thì vẫn
phải đọa lạc, bị lửa vô thường thiêu đốt, chẳng ăn được thức ăn chánh đạo,
nên nói là ‘’đói’’, chẳng uống được nước từ nhuận trợ đạo, nên nói là
‘’khát’’. Chúng sinh ở cõi trời Tứ Không Xứ, tuy là cao nhất trong ba cõi,
vẫn có tám sự khổ vi tế bức bách, tám sự khổ vẫn tồn tại ở trong ruộng bát
thức, cho nên nói là ‘’nhiệt’’, vẫn có các hoặc vi tế : Kiến hoặc, tư hoặc, trần
sa hoặc, vô minh hoặc. Kiến hoặc là thấy cảnh sinh tham ái. Tư hoặc là mê
lý khởi phân biệt. Trần sa hoặc là Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, phải thông đạt
các pháp môn nhiều như hạt cát, hạt bụi, bằng không tự tại giáo hóa tức là
trần sa hoặc. Vô minh hoặc là chẳng rõ thị phi, nhận giả làm thật, vì có các
hoặc nên nói là ‘’não’’. Chúng sinh ở cõi Tứ Không Xứ vẫn còn sinh tử,
chẳng muốn thoát ra, nên nói là ‘’Hoảng hốt chạy tán loạn’’.
Nhà đó là như thế
Thật là rất hãi hùng
Ðộc hại và nạn lửa
Nhiều nạn chẳng phải một.
Lúc đó ông chủ nhà
Ðang đứng ở ngoài cửa
Nghe có người nói rằng :
Các người con của ông.
Trước kia vì dạo chơi
Ðến vào trong nhà nầy
Thơ bé chẳng biết gì
Ham chơi vui đùa giỡn.
Ông trưởng giả nghe rồi
Hoảng sợ vào nhà lửa.
‘’Chủ nhà’’ tức là đức Phật, Phật đang đứng ở ngoài cửa, nghe có người nói,
các người con của ông, trước kia vì dạo chơi, đến vào trong nhà đó, thơ bé
chẳng biết gì, ham vui chơi đùa giỡn. Ông trưởng giả nghe rồi, hoảng sợ vào
nhà lửa. Phật đã chứng được pháp thân, cho nên nói ‘’đang ở ngoài cửa’’.
‘’Ðứng’’ tức là Phật thường tồn tâm đại bi, muốn cứu chúng sinh, cho nên
chẳng trụ tòa đệ nhất nghĩa không.
‘’Nghe có người nói rằng‘’: Dụ cho tam muội, Phật được pháp tam muội,
quán căn cơ mà bố thí pháp.
‘’Các người con của ông‘’: Tất cả chúng sinh trong năm đường. ‘’Trước kia
vì dạo chơi, đến vào trong nhà đó‘’: Tất cả những chúng sinh nầy, mới phát
tâm thì cầu ra khỏi nhà lửa, nhưng chưa được ba bất thối chuyển (vị, niệm và
hạnh bất thối), vẫn còn kiến hoặc và tư hoặc. Tất cả chúng sinh tánh vốn
thanh tịnh, vì vô minh vọng tưởng chấp trước mà tiếp nối sinh tử, cho nên dụ
cho ‘’trước kia vì dạo chơi’’.
‘’Thơ bé chẳng biết gì‘’: Tức tu hành chưa viên mãn, bị kiến hoặc, tư hoặc,
vô minh hoặc ràng buộc.
‘’Ham vui chơi đùa giỡn‘’: Sinh vào trong ba cõi chẳng biết ra khỏi, lầm cho
rằng thế giới nầy vui vẻ khoái lạc.
‘’Ông trưởng giả nghe rồi, hoảng sợ vào nhà lửa‘’: Dụ cho Phật thương xót
chúng sinh, phải vào trong nhà lửa để độ, giáo hoá chúng sinh.
Dùng phương tiện cứu tế
Khiến con khỏi thiêu hại.
Mà dụ bảo các con
Nói các thứ hoạn nạn
Các quỷ và độc trùng
Nạn lửa cháy lan tràn.
Các sự khổ thứ lớp
Liên tục mãi không dứt
Loài rắn độc ngoan phúc
Và các quỷ Dạ xoa.
Cùng quỷ Cưu bàn trà
Loài dã can, chồn chó
Chim điêu, thứu, xi, hưu
Và loài bá túc thảy.
Ðều đói khát khổ sở
Thật rất là đáng sợ
Ðây là chỗ khổ nạn
Lại còn có lửa lớn
Các người con chẳng biết
Tuy nghe cha dạy bảo.
Vì còn ham vui chơi
Ðùa giỡn mãi không thôi.
‘’Dùng phương tiện cứu tế’’: Lúc bấy giờ, đức Phật muốn dùng pháp đại
thừa cứu độ hết thảy chúng sinh.
‘’Khiến con khỏi thiêu hại‘’: Muốn cho chúng sinh khỏi bị lửa năm uẩn
thiêu đốt.
‘’Mà dụ bảo các con, nói các thứ hoạn nạn‘’: Trong nhà lửa đầy dẫy hoạn
nạn, cho nên trong Kinh có nói: ‘’Ba cõi không an, giống như nhà lửa‘’.
‘’Ác quỷ, độc trùng’’ dụ cho năm độn sử.
‘’Nạn lửa cháy lan tràn‘’: Lửa năm uẩn cháy lan tràn khắp nơi, thiêu hủy ba
cõi.
‘’Các sự khổ thứ lớp‘’: Các sự khổ liên tục không dứt.
‘’Loài rắn độc ngoan phúc, và các quỷ dạ xoa, cùng quỷ cưu bàn trà, loài dã
can chồn chó, chim điêu, si, hưu, và loài bá túc thảy‘’: Dụ cho năm độn sử
và năm lợi sử.
‘’Ðều đói khát khổ sở, thật rất là đáng sợ, đây là chỗ khổ nạn, lại còn có lửa
lớn‘’: Vì chẳng ăn được thức ăn chánh đạo, chẳng uống được nước trợ đạo,
cho nên bị đói khát, hoành hành khổ sở, thật rất là đáng sợ. Ba cõi có đủ thứ
quái vật, và còn có lửa lớn thiêu đốt.
‘’Các người con chẳng biết‘’: Tất cả chúng sinh chẳng có căn tính đại thừa.
‘’Tuy nghe cha dạy bảo‘’: Tuy thường nghe lời ông trưởng giả dạy bảo.
‘’Vì còn ham vui chơi, đùa giỡn mãi không thôi‘’: Vẫn lưu lại ở trong đó
đùa giỡn vui chơi.
Khi đó ông trưởng giả
Bèn nghĩ như thế nầy:
Các con ta như thế
Làm ta thêm sầu não
Nay trong nhà lửa nầy
Chẳng có điều gì vui.
Mà tất cả các con
Vẫn đam mê chơi đùa
Chẳng nghe lời ta dạy
Sắp bị lửa thiêu hại.
Ông trưởng giả lại nghĩ
Bày ra các phương tiện.
Lúc đó, Phật lại nghĩ thế nầy, các con ta như thế, càng làm cho ta thêm phiền
não. Nguyện lực của Phật là độ chúng sinh, mà chúng sinh chẳng biết tỉnh
ngộ, nên làm cho Phật thêm sầu não. Trong ba cõi, Phật chẳng có gì đáng
lưu luyến, mà tất cả các người con say đắm lưu luyến ba cõi nầy.
Người đó ở trong ba cõi bị vô minh trói buộc, chẳng phát bồ đề tâm, chẳng
tu bồ đề đạo, thậm chí cũng chẳng tin Phật. Tôi có một đệ tử, cha mẹ của y
gần đây đến San Francisco, thấy con của họ từng đốt hương trên cánh tay,
thì bất mãn. Hiện nay nhiều người điên đảo thị phi, vốn đốt hương cúng
Phật, là một sự cúng dường đối với Phật, mà họ thấy con của họ đốt hương
cúng Phật mà bất mãn. Người làm việc điên đảo, thì một số người hoan
nghênh, song người muốn tu đạo học cho tốt thì thân thuộc phản đối, đó
chẳng phải là điên đảo chăng. Gần đây có một đệ tử, y thấy tất cả sự vật đều
đang di động. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, thì có thể thấy hạt bụi
chuyển động, y khai mở ngũ nhãn trước cảnh giới hiện tượng nầy, có lúc lại
như mù, thậm chí cũng nhìn chẳng thấy, đó là hiện tượng ngũ nhãn muốn
khai mở mà chưa khai mở. Nếu ai chấp trước về cảnh giới nầy, hoặc muốn
được ngũ nhãn, hoặc chẳng muốn có cảnh giới nầy, nếu có phạm lỗi sai lầm,
hoặc lo về việc vô ích, thì ngũ nhãn sẽ khép kín. Cho nên khai mỡ ngũ nhãn
rồi, phải đầy đủ định lực, có định lực thì mới sinh trí huệ chân chánh.
‘’Chẳng nghe lời ta dạy, sắp bị lửa thiêu hại, ông trưởng giả lại nghĩ, bày ra
các phương tiện‘’: Chúng sinh chẳng nghe lời Phật dạy bảo, e rằng sắp bị lửa
thiêu đốt, thì Phật bèn suy nghĩ, tức chúng sinh chẳng thọ pháp đại thừa giáo
hóa, thì cũng dùng pháp phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sinh.
Mà bảo các con thảy
Ta có đủ các thứ.
Ðồ chơi rất quý giá
Xe báu rất tốt đẹp
Nào xe dê xe hươu
Và xe trâu to lớn.
Nay để ở ngoài cửa
Các con mau ra đây
Ta chính vì các con
Tạo ra những xe nầy.
Tùy ý các con thích
Có thể đi dạo chơi
Các người con nghe nói
Các loại xe như thế.
Bèn lập tức dành nhau
Ðua chạy ra khỏi nhà
Ðến nơi chỗ đất không
Lìa khỏi các khổ nạn.
‘’Mà bảo các con thảy, ta có đủ các thứ, đồ chơi rất quý giá, xe báu rất tốt
đẹp‘’: Bốn câu ở trên là khuyến chuyển.
‘’Nào xe dê xe hươu, và xe trâu to lớn, nay để ở ngoài cửa‘’: Là thị chuyển.
‘’Các con mau ra đây‘’: Là thị chuyển.
‘’Ta chính vì các con, tạo ra những xe nầy‘’: Tức là Phật đã chứng được
Phật quả.
‘’Tùy ý các con thích, có thể đi dạo chơi‘’: Là chứng chuyển. Khuyến
chuyển, thị chuyển và chứng chuyển, là ba lần chuyển bánh xe pháp bốn
Diệu đế. Phật bảo các người con rằng : Ta có những đồ chơi thú vị, hơn
những đồ các con đang chơi, nào là xe thượng thừa, xe dê, xe hươu, xe trâu
trắng lớn, đang để ở ngoài cửa, các con hãy mau ra ngoài cửa, ta vì các con
mà dự bị những xe nầy, các con có thể tùy ý ngồi để đi dạo chơi khắp nơi.
‘’Các người con nghe nói‘’: Dụ cho văn huệ (huệ do nghe).
‘’Các loại xe như thế‘’: Dụ cho diệu pháp thượng thừa.
‘’Bèn lập tức giành nhau‘’: Dụ cho tư huệ và tu huệ (huệ do suy gẫm và huệ
do sự tu hành).
‘’Ðua chạy ra khỏi nhà‘’: Dụ cho kiến địa (đã chứng quả).
‘’Ðến nơi chỗ đất trống‘’: Dụ cho đã chứng được tứ quả A La Hán, tức bậc
vô học.
‘’Lìa khỏi các khổ nạn‘’: Ðến bậc vô học thì đã dứt được phần đoạn sinh tử,
nhưng biến dịch sinh tử chưa dứt được.
Ông trưởng giả thấy con
Ðược ra khỏi nhà lửa
Ở nơi ngã tư đường
Ngồi trên tòa sư tử.
Mà tự mừng nói rằng :
Nay ta rất vui mừng
Những người con nầy đây
Ðẻ nuôi dưỡng rất khó.
Chúng nhỏ dại chẳng biết
Mà đi vào nhà hiểm
Nhiều các thứ độc trùng
Quỷ lị mị đáng sợ.
Lửa lớn cháy mãnh liệt
Bốn phía đều nổi dậy
Mà các người con nầy
Tham trước chơi đùa giỡn.
Ta đã cứu chúng nó
Khiến cho được thoát khỏi
Vì thế các người ơi !
Ta nay rất vui mừng.
‘’Ông trưởng giả thấy con, được thoát khỏi nhà lửa’’: Dụ cho Phật thấy các
con được ra khỏi nhà lửa tam giới.
‘’Ở nơi ngã tư đường‘’: Dụ cho bốn Diệu đế.
‘’Ngồi trên tòa sư tử‘’ Lúc đức Phật ngồi trên tòa sư tử.
‘’Mà tự mừng nói rằng, ta nay rất vui mừng‘’: Phật thấy các con thoát nạn
nên rất vui mừng.
‘’Những người con nầy đây, đẻ nuôi dưỡng rất khó‘’: Dưỡng nuôi những
đứa con nầy chẳng phải dễ.
‘’Chúng nhỏ dại chẳng biết, mà đi vào nhà hiểm‘’: Chúng nhỏ bé vô tri, nên
đi vào nhà lửa.
‘’Nhiều các thứ độc trùng, quỷ lị mị đáng sợ, lửa lớn cháy mãnh liệt, bốn
phía đều nổi lên‘’. Trong nhà lửa có trùng độc, quỷ lị mị, và bốn phía đều
nổi lửa lên.
‘’Mà các người con nầy, tham trước chơi đùa giỡn, ta đã cứu chúng nó,
khiến cho được thoát khỏi‘’: Các con tham luyến chơi đùa, mà ta đã cứu vớt
chúng ra khỏi nhà lửa.
‘’Vì thế các người ơi, nay ta rất vui mừng‘’: Cho nên ta ở trong tất cả mọi
người, ta là người khoái lạc nhất.
Nói tỉ mỉ về đoạn kinh văn ở trên: Ông trưởng giả tức là Ðức Phật, trưởng
giả có mười đức. ‘’Ngã tư’’ dụ cho bốn Diệu đế. Ba mươi người con, và
năm trăm người, tức đã ra khỏi nhà lửa, đạt được bậc vô học, đã thấy rõ
pháp bốn đế : Khổ, tập, diệt, đạo. Chúng sinh chưa được độ, thì Phật đứng ở
ngoài cửa mà lo lắng cho chúng sinh đang ở trong nhà lửa. Vì Phật đủ tâm
đại bi, nên chẳng nỡ bỏ chúng sinh, chỉ sợ chúng sinh đọa lạc ở trong tam
giới. Nay chúng sinh đã thoát khỏi tai nạn, nên Phật chẳng còn gì lo lắng, mà
yên tâm ngồi trên tòa sư tử. Lúc đó, đức Phật rất đỗi vui mừng. Trước kia
Phật chưa gặp chúng sinh có đủ căn tính đại thừa, bây giờ giáo hóa chúng
sinh tiểu thừa đã viên mãn, sẽ phải độ chúng sinh đại thừa, cho nên ngồi trên
tòa sư tử. Chúng sinh đáng được độ, hết thảy chúng sinh nầy đều đã được
độ, chúng sinh đại thừa đã thành Phật, cho nên :‘’Mà tự mừng nói rằng, ta
nay rất vui mừng‘’.
‘’Những đứa con nầy đây, đẻ nuôi dưỡng rất khó’’ : Dụ cho Phật giáo hóa
chúng sinh chẳng dễ dàng. Chúng ta hằng ngày giảng Kinh thuyết pháp,
hoằng dương Phật pháp, cũng chẳng dễ dàng. Các bạn ban đầu gặp Phật
pháp, thì chẳng biết gì về Phật, bây giờ đã học Phật pháp được một năm, thì
nửa tin nửa ngờ đối với Phật pháp, có thể thấy giáo hóa chúng sinh thật
chẳng dễ dàng. Ðức Phật ở chỗ ba vạn ức vị Phật, dùng pháp đại thừa giáo
hóa chúng sinh, cho nên gọi là ‘’đẻ’’, căn bồ đề của những chúng sinh nầy, ở
nơi hai vạn ức vị Phật đã sinh trưởng lớn lên.
Giảng Kinh thuyết pháp là trách nhiệm trọng đại, chẳng thể khinh xuất giảng
bậy, nếu nói sai nghĩa Kinh, thì khiến cho người nghe lạc vào đường tà, quả
báo của bạn sẽ đọa vào địa ngục. Thuở xưa, Ðức Phật ở nơi ba vạn ức vị
Phật, đã dùng pháp đại thừa giáo hóa chúng sinh, trong đó có số ít chúng
sinh thành thục, cho nên nói là ‘’nuôi dưỡng’’. Ðức Phật trải qua hết mọi sự
gian khổ, trải qua kiếp số lâu xa, mới được tài bồi hạt giống đại thừa, căn cơ
đại thừa, cho nên nói là ‘’rất khó’’. ‘’Chúng nhỏ dại vô tri’’ : Dụ cho căn
lành của chúng sinh cạn mỏng, thường bị vọng tưởng che đậy.
Người thiếu trí huệ, mới sinh vào đời năm trược thọ quả báo, nên nói ‘’mà đi
vào nhà hiểm’’.
‘’Nhiều các thứ độc trùng, quỷ lị mị đáng sợ’’: Dụ cho lợi sử và độn sử ở
trong ba cõi.
‘’Lửa lớn cháy mãnh liệt, bốn phía đều nổi lên’’: Dụ cho trong nhà lửa tam
giới có tám sự khổ, bốn điên đảo (chẳng thường cho là thường, chẳng vui
cho là vui, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng tịnh cho là tịnh.)
‘’Mà các người con nầy, tham trước chơi đùa giỡn’’: Chúng sinh khởi kiến
ái hoặc, chấp trước kiến ái, chẳng thể buông xả.
‘’Ta đã cứu chúng nó, khiến cho được thoát khỏi’’: Phật đã cứu vớt chúng
sinh lìa khỏi các khổ nạn.
‘’Vì thế các người ơi, nay ta rất vui mừng’’: Cho nên ở trong tất cả mọi
người, ta là người vui mừng nhất.
Khi đó các người con
Biết cha đã an tòa
Ðều đến bên chỗ cha
Mà thưa với cha nói :
Xin ban cho chúng con
Ba thứ xe báu tốt
Như trước cha đã hứa
Các con mau ra đây.
Sẽ cho ba xe báu
Tùy ý muốn các con
Nay chính là phải thời
Xin cha hãy ba cho.
‘’Khi đó các người con, biết cha đã an tòa’’: Lúc đó, các người con đã ra
khỏi nhà lửa, thấy người cha đoan nhiên an tọa trên tòa sư tử, thừa lúc đó,
đòi cha ban cho ba thứ xe báu, dụ cho Phật đang diễn nói đại thừa diệu pháp
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì:
‘’Ðều đến bên chỗ cha, mà thưa với cha nói’’: Các người con cung kính, đến
trước chỗ người cha mà thưa rằng: ‘’Xin cha cho chúng con, ba thứ xe báu
tốt, như trước cha đã hứa’’: Dụ cho các người con còn chấp trước nơi pháp
tiểu thừa, pháp trung thừa, là tâm còn hoài nghi đối với pháp đại thừa.
Với oai đức của Phật trụ thế thuyết pháp lâu như vậy, mà một số chúng sinh
vẫn còn nghi hoặc, e rằng người thời nay, đối với đạo lý Kinh Pháp Hoa nửa
tin nửa ngờ, chẳng đắc được tương ưng với lý của Phật, đều vì chẳng thâm
nhập thấu hiểu chân chính, chẳng sinh niềm tin chân chính.
Hãy trừ khử tất cả tà tri tà kiến xưa kia, thì sẽ sinh niềm tin chân chánh.
‘’Các con mau ra đây, sẽ cho ba xe báu’’: Các người con từ nhà lửa đi ra, sẽ
dùng pháp ba thừa độ chúng sinh.
‘’Tùy ý các con muốn’’: Phật từng nói pháp ba thừa, tùy sở thích của mỗi
người mà được chứng quả.
Trong Kinh Pháp Hoa nói pháp ba thừa, là phương tiện pháp môn, tất định
có pháp đại thừa để giáo hóa chúng sinh, cho nên nói: ‘’Nay chính là phải
thời, xin cha hãy ban cho‘’.
Ông trưởng giả giàu có
Có rất nhiều kho tàng
Nào vàng bạc lưu ly
Xa cừ và mã não.
Dùng các thứ báu vật
Tạo các cỗ xe lớn
Tu sửa nghiêm sức đẹp
Chung quanh có lan can.
Bốn phía đều treo linh
Dây vàng thắt với nhau.
‘’Ông trưởng giả giàu có’’: Dụ cho Phật là ông trưởng giả giàu có, chí tôn
chí quý trong ba cõi, Phật là vị thái tử tại xứ Ấn Ðộ, có đức làm Chuyển
Luân Thánh Vương mà xuất gia tu hành, đã tự giác, giác tha và giác hạnh
viên mãn, do đó có câu :‘’Tam giác viên, vạn đức bị‘’.
‘’Có rất nhiều kho tàng’’: ‘’Kho’’ là nơi dùng để chứa lương thực. ‘’Tàng’’
là bảo tàng, ẩn tàng ở dưới đất. Dùng ‘’kho’’ dụ cho sáu căn của con người,
bên trong chứa tánh Như Lai tạng, cửa sáu căn hiển hiện tánh giác quý báu.
‘’Tàng’’ dụ cho tất cả vạn hạnh.
Dùng pháp lục độ trang nghiêm vạn hạnh, trong mỗi độ đều đầy đủ vạn
hạnh, trong một hạnh cũng đầy đủ lục độ, cho nên lục độ vạn hạnh tức tương
quan. Tất cả pháp đầy đủ tất cả hạnh, trong tất cả hạnh cũng đầy đủ tất cả
pháp. Dùng vô lượng hạnh tu vô lượng pháp, dùng vô lượng pháp thành tựu
vô lượng hạnh, cho nên nói: ‘’Có rất nhiều kho tàng‘’.
‘’Nào vàng, bạc, lưu ly, xa cừ và mã não’’: Dụ cho bốn trí của Phật, như trân
bảo vô giá. Bốn trí tức là:
- Đại viên cảnh trí
- Bình đẳng tánh trí
- Diệu quán sát trí
- Thành sở tác trí.
‘’Dùng các thứ báu vật, tạo các cỗ xe lớn’’: Trên thế gian có các báu vật
màu sắc khác nhau, pháp của Phật cũng chẳng giới bạn nơi bốn trí, cũng có
các thứ pháp khác nhau, như bảy Bồ đề phần, tám Chánh đạo, bốn Niệm xứ,
bốn Chánh cần, bốn Như ý túc .v.v. Dùng đủ loại pháp môn thành đại thừa
Phật pháp; pháp đại thừa là do tất cả các pháp thành tựu.
‘’Tu sửa nghiêm sức đẹp, chung quanh có lan can’’: Dụ cho Ðà La Ni. Ðà la
ni là tiếng Phạn, nghĩa là "tổng trì", tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa.
Tổng quát pháp đại thừa tiểu thừa, vô lượng nghĩa trong tất cả các pháp đều
ở hết trong đó. Ðà la ni hay trừ khử tất cả các việc ác, làm tất cả việc lành.
‘’Bốn phía đều treo linh’’: Dụ cho bốn vô ngại biện.
‘’Dây vàng thắt với nhau’’: Dụ cho bốn hoằng thệ nguyện. Chúng sinh vô
biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng
thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Bốn hoằng thệ
nguyện đều bao quát tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác ở trong
đó.
Hoằng thệ nguyện thứ nhất là: ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ’’: Phải
thường suy nghĩ đã độ tất cả chúng sinh chưa ? Còn phải đạt tới cảnh giới độ
như không độ. Ðức Như Lai độ tất cả chúng sinh, mà chẳng có một chúng
sinh diệt độ, nghĩa là đã độ chúng sinh như chưa độ, tức là độ chúng sinh mà
chẳng chấp trước tướng độ chúng sinh; nhưng nếu chưa độ chúng sinh thì
không thể tự nói đã độ.
Chúng sinh nhờ chúng duyên hòa hợp mà sinh, từ mười hai nhân duyên diễn
biến mà thành người, con kiến cho đến vi khuẩn đều là chúng sinh. Chúng ta
không nên tìm chúng sinh bên ngoài, trong tự tánh của con người đã có vô
lượng chúng sinh. Hiện nay khoa học đã tiến bộ, có thể chứng minh trong
thân thể con người có rất nhiều vi khuẩn và vi sinh vật, trong ngũ tạng lục
phủ có vô lượng chúng sinh. Người ăn động vật cũng là chúng sinh, như :
Thịt heo, thịt bò, thịt dê, thịt cá .v.v., trong những loại thịt đó, có rất nhiều vi
khuẩn. Con người ăn những thứ thịt đó vào trong bụng, thì sẽ có những
chủng tử vi khuẩn đó. Ăn loại chúng sinh nào nhiều, thì thành quyến thuộc
của loài đó, nhân duyên càng sâu dày, trói buộc chẳng thể phân ly. Người ăn
thịt heo nhiều, thì có cơ hội sinh làm heo, người ăn thịt bò nhiều, thì có cơ
hội sinh làm bò. Vậy ăn nhiều gạo có phải cũng biến thành gạo ? Gạo là vô
tình, mà chúng sinh là hữu tình. Nếu ăn nuốt hữu tình chúng sinh, thì sẽ sinh
làm hữu tình chúng sinh. Ăn vô tình chúng sinh, thì sẽ trợ giúp tăng trưởng
pháp thân huệ mạng. Nếu ai chẳng ăn loài chúng sinh nào, tức là độ loài
chúng sinh đó. ‘’Ðộ’’ tức là độ qua biển khổ, lên bờ Niết Bàn bên kia. Nếu
chúng ta minh bạch đạo lý bên trong của nó, thì không nên ăn thịt chúng
sinh.
Trước kia có người ăn thịt, sau khi chết đến chỗ vua Diêm Vương, tất cả loại
thịt chúng sinh mà anh ta đã ăn qua trước kia, đều đến đòi nợ với anh ta,
Song, anh ta còn tự biện hộ cho mình nói: ‘’Tuy nhiên tôi ăn thịt, nhưng tội
chẳng riêng mình tôi, tội do người bán thịt’’. Do đó, vua Diêm Vương
truyền kêu người bán thịt đến, thì người bán thịt cũng tự biện hộ: ‘’Sở dĩ tôi
bán thịt là có người mua, nếu chẳng có người mua, thì tôi đâu có bán thịt ?’’
Người bán thịt với người ăn thịt tranh luận với nhau, sau đó hai người đổ hết
trách nhiệm lên ông đồ tể. Vua Diêm Vương lại kêu ông đồ tể đến, thì ông
đồ tể cũng biện hộ nói: ‘’Tôi là đồ tể nhưng có người mua thịt, có người ăn
thịt, nên tôi mới sát sinh. Nếu chẳng có ai mua, chẳng có người ăn, thì tôi
đâu có sát sinh’’. Do đó, ai cũng nói lý của mình. Kết quả vua Diêm Vương
mới phán quyết, người ăn thịt phải trả nợ máu. Có thể thấy ăn loài chúng
sinh nào, thì kết duyên với loài chúng sinh đó, do đó có câu :
‘’Trong chữ thịt có hai người,
Người ở trong che đậy người ở ngoài,
Chúng sinh vẫn ăn thịt chúng sinh,
Suy gẫm kỹ thì người ăn người.’’
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói: Dê chết làm người, dê có thể làm người, thì
heo bò cũng có thể làm người. Nếu chưa khai mở thiên nhãn thông, thì
không thể quán sát được nhân duyên của nó, tức cho rằng heo là heo, dê là
dê. Con người mà ăn thịt chúng sinh nhiều rồi, thì tánh giác vốn có sẽ mai
một đi, biến thành ngu si.
Cho nên chúng ta muốn độ chúng sinh, trước hết phải giữ giới sát sinh,
không ăn thịt chúng sinh. Nếu muốn độ chúng sinh, thì trước hết độ tự tánh
chúng sinh. Ðộ sinh còn phải lìa tướng, chẳng chấp trước những gì có hình
tướng.
Hoằng nguyện thứ hai là: ‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn’’: Phiền não
của con người trong sự bất tri bất giác, sinh ra thì vô minh hiện tiền. Sinh
phiền não thì sẽ thiêu sạch công đức pháp tài.
Hoằng nguyện thứ ba là: ‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học’’. Kinh Phật
nhiều vô lượng, năm qua bạn học Kinh Lăng Nghiêm, năm nay học Kinh
Pháp Hoa, Tâm Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Ðiạ Tạng, mỗi bộ Kinh đều có
đạo lý khác nhau, nhiều như số cát sông Hằng, vô cùng vô tận. Trong Phật
giáo có pháp đại thừa, pháp tiểu thừa, pháp bốn Diệu đế, mười hai nhân
duyên, ba mươi bảy đạo phẩm, có tám vạn bốn ngàn pháp môn, học một
pháp môn, thì cần đến tám vạn bốn ngàn kiếp, hà huống tuổi thọ của một số
người chỉ có ba vạn sáu ngàn ngày. Pháp môn chưa học hết thì đã chết mất.
Song, tuy là học không hết cũng phải học. Trên thế gian có nhiều ngôn ngữ
khác nhau, chẳng có ai biết hết các ngôn ngữ. Ngôn ngữ còn phức tạp nhiều
như thế, huống chi là văn tự ? Văn tự thiên biến vạn hóa, thật chẳng dễ gì
học. Trang tử có nói :
‘’Ðời tôi thì có hạn, mà sự biết thì vô hạn’’.
Dùng năm tuổi có hạn, học sự hiểu biết vô cùng tận, học chẳng hết được.
Học Phật pháp sao lại phải ngồi thiền ? Tức là học vô lượng Kinh điển trong
tự tánh của chúng ta. Trong tự tánh của con người vốn có vô lượng pháp
môn, mà con người bỏ gốc tìm ngọn, truy cầu bên ngoài, chẳng biết hồi
quang phản chiếu. Trong Tâm Kinh có nói rằng : Hồi quang phản chiếu quán
tự tại, tự tại tức sinh Bát Nhã, chiếu thấy năm uẩn đều không. Năm uẩn đều
không, thì các pháp khác cũng không. Hằng ngày tĩnh tọa tức là hồi quang
phản chiếu, phải siêng tu các pháp môn, không thể một ngày nóng mười
ngày lạnh.
Hoằng thệ nguyện thứ tư là : ‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành’’: Phật
đạo cao quý nhất trên thế gian. Thế Tôn là bậc chí tôn của thế gian và xuất
thế gian. Thành Phật mới là chỗ về cứu kính của hết thảy chúng sinh, cho
nên phải phát thệ nguyện thành Phật, cũng phải độ chúng sinh cùng thành
Phật đạo. Tự tính chúng sinh thệ nguyện độ, tự tính phiền não thệ nguyện
đoạn, tự tính pháp môn thệ nguyện học, tự tính Phật đạo thệ nguyện thành.
Ðừng cứ lo chuyện của thiên hạ, nào là: ‘’Họ không tốt, họ chẳng đúng’’,
đừng xem lỗi lầm của người khác, nên trừ khử sạch vọng tưởng ở trong tâm
của chính mình, nên nhìn thấu buông xả đặng, chứng được trung đạo liễu
nghĩa. Mỗi ngày đều bình thường yên ổn giữ trung đạo, thì sẽ có ngày khai
ngộ, khai ngộ tức thành Phật. Bốn hoàng thệ nguyện rất quan trọng, cho nên
trong kinh văn nói: ‘’Dây vàng kết thắt nhau’’.
Mành lưới bằng chân châu
Giăng bày ở phía trên
Hoa vàng các chuỗi ngọc
Khắp nơi thòng rũ xuống.
Xen tạp lụa nhiều màu
Giăng khắp chung quanh xe
Dùng bông tơ mềm mại
Ðể làm nệm nằm ngồi.
Vải mịn tốt thượng hạng
Giá trị đến nghìn muôn
Tốt đẹp trắng sạch sẽ
Dùng trải ở trên nệm.
Có trâu trắng to lớn
Mập khỏe nhiều sức mạnh
Thân hình rất đẹp đẽ
Dùng để kéo xe báu.
Rất nhiều kẻ tôi tớ
Ði theo hầu bảo vệ
Ðem xe báu đẹp đó
Ðồng ban cho các con.
‘’Mành lưới bằng chân châu’’: Dụ cho từ bi của Phật.
‘’Giăng bày ở phía trên’’: Dụ cho Phật có đại từ bi, phổ độ tất cả chúng sinh.
‘’Hoa vàng các anh lạc’’: Dụ cho bốn pháp nhiếp:
1. Bố thí, nên thành tâm bố thí, chẳng phải bố thí một cách miễn cưỡng. Vì
tất cả chúng sinh đều có tham cầu, do đó:
‘’Muốn khiến vào Phật trí,
Trước dùng câu dục móc’’.
Hành Bồ Tát đạo phải bố thí.
2. Ái ngữ, bất cứ nói lời gì, cũng đều khiến cho người vui vẻ, khiến cho ai ai
cũng đều thích nghe.
3. Lợi hành, làm tất cả những gì, cũng đều có lợi cho người khác.
4. Ðồng sự, muốn độ người nào đó, thì trước hết phải kết giao với họ.
‘’Khắp nơi thòng rũ xuống’’: Biểu thị chẳng có nơi nào mà chẳng độ, khắp
nơi đều hành bốn pháp nhiếp.
‘’Xen tạp lụa nhiều màu’’: Lụa nhiều màu dùng để trang sức xe báu nầy.
‘’Giăng khắp chung quanh xe’’: Trên xe trang nghiêm rất tốt đẹp.
‘’Dùng bông tơ mềm mại, để làm nệm nằm ngồi. Vải mịn tốt thượng hạng,
giá trị đến ngàn muôn’’: Dụ cho quán chiếu trí huệ.
‘’Tốt đẹp trắng sạch sẽ, dùng trải ở trên nệm’’: Chẳng làm tất cả điều ác tức
là ‘’tốt đẹp trắng’’, nghĩa là tu thân thì trước hết phải giữ gìn giới luật.
‘’Có trâu trắng to lớn’’: Dụ cho trí huệ vô lậu.
‘’Mập khỏe nhiều sức lực, thân hình rất tốt đẹp’’: Dụ cho đầy đủ tất cả vạn
pháp.
‘’Dùng để kéo xe báu’’: Tức là dùng trí huệ vô lậu tu Phật pháp đại thừa.
‘’Rất nhiều kẻ tôi tớ, theo đi hầu bảo vệ’’: Dụ cho phương tiện Ba la mật.
Pháp phương tiện chính là trợ giúp pháp đại thừa; tu hành trí huệ vô lậu phải
cần có các pháp môn khác trợ giúp. Tu trí huệ vô lậu, mà có tâm niệm tham,
tức là hữu lậu, có tâm sân tức hữu lậu, có tâm si tức hữu lậu, có tâm kiêu
mạn, tâm nghi ngờ, tà kiến cũng đều là hữu lậu. Trước hết phải trừ khử
tham, sân, si, mạn nghi, lìa tất cả tập khí mao bệnh, mới có thể được trí huệ
vô lậu. Ngoại đạo và hàng nhị thừa, đều dùng pháp phương tiện nầy. ‘’Tôi
tớ’’ cũng có thể dụ cho thần thông, có thể tùy ý mà dùng.
‘’Ðem xe báu đẹp đó’’: Y theo pháp đại thừa tu hành, thì tương lai sẽ chứng
quả vị Phật.
Các người con lúc đó
Rất vui mừng hớn hở
Ngồi lên xe báu đó
Vui chơi rất khoái lạc
Rất tự tại vô ngại.
Chúng sinh nghe pháp đại thừa, đắc được cảnh giới đại thừa, diệu pháp
không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả, mà vui mừng hớn hở. Y chiếu theo
pháp đại thừa tu hành, thì sẽ thông đạt tất cả Phật pháp, như pháp: Bốn Diệu
đế, pháp Lục độ, mười hai Nhân duyên, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô ngại
biện, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, đầy đủ các pháp, lấy pháp làm món ăn
tinh thần, rất tự tại vô ngại.
Phật bảo Xá Lợi Phất !
Ta cũng lại như thế
Chí tôn trong bậc Thánh
Là cha của thế gian.
Tất cả các chúng sinh
Ðều là con của ta
Say đắm vui thế gian
Chẳng có tâm trí huệ.
Ba cõi chẳng yên ổn
Giống như là nhà lửa
Ðầy dẫy sự thống khổ
Thật là đáng sợ hãi.
Thường có khổ sinh già
Bệnh chết và sầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừng hực chẳng tắt.
Ðức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất ! Ta cũng giống như ông trưởng giả, là bậc
chí tôn trong hàng Thánh, là cha của tất cả chúng sinh thế gian. Tất cả chúng
sinh đều là con của ta. Song, chúng sinh đều chấp trước vào sự vui của thế
gian, lấy khổ làm vui, mất đi trí huệ. Thật ra, ba cõi không an như nhà lửa
cháy, ba sự khổ, tám sự khổ, các thứ khổ đầy dẫy, rất dễ đọa lạc vào ba
đường ác, cho nên rất là đáng sợ.
Trẻ con mới sinh ra thì khóc oa oa, trẻ con vừa chào đời như rùa sống lột
mai, khi chết đi thì như bò sống lột da, về già thì tất cả cơ năng trong thân
thể đều suy yếu, đến khi chết thì bác sĩ cũng bó tay. Khổ sinh, già, bệnh,
chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh, các thứ khổ thiêu
đốt. Nghiệp lực của chúng sinh ngày càng sâu nặng, cho nên lửa càng cháy
mạnh, chẳng ngừng nghỉ.
Như Lai đã lìa khỏi
Ngôi nhà lửa ba cõi
Ở chỗ yên vắng vẻ
Nơi núi rừng hoang dã.
Hiện nay ba cõi nầy
Ðều là của ta cả
Chúng sinh ở trong đó
Thảy đều là con ta.
Mà nay chơi chỗ nầy
Rất nhiều các hoạn nạn
Chỉ có một mình ta
Có thể cứu hộ được.
Phật đã lìa khỏi nhà lửa ba cõi, tiêu dao tự tại, ở nơi chỗ vắng vẻ yên ổn, nơi
rừng núi hoang dã. Song, ba cõi nầy đều là sở hữu của Phật, tất cả chúng
sinh đều là con của Phật, mà trong ba cõi nầy, rất nhiều các thứ hoạn nạn,
đầy dẫy độc trùng mãnh thú, chỉ có mình đức Phật mới cứu hộ được. Cha
của người thế gian là do tạo nghiệp mà sinh, còn Phật là cha xuất thế gian, là
cha pháp thân huệ mạng của chúng ta, là cha thanh tịnh chẳng nhiễm. Nếu
nhận Phật làm cha, thì tương lai có thể được thanh tịnh chẳng nhiễm.
Tuy Phật đã dạy bảo
Mà cũng chẳng tin nhận
Vì nơi các dục nhiễm
Tâm tham trước sâu dày.
Do đó dùng phương tiện
Vì chúng nói ba thừa
Khiến cho các chúng sinh
Biết ba cõi là khổ.
Bèn khai thị diễn nói
Ðạo ra khỏi thế gian
Các người con đó thảy
Nếu tâm mà quyết định.
Thì đầy đủ ba minh
Và sáu thứ thần thông
Hoặc chứng được Duyên Giác
Và Bồ Tát bất thối.
Tuy Phật dùng đủ thứ phương pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, song, chúng
sinh chẳng sinh tín tâm. Vì tất cả chúng sinh do dục niệm làm ô nhiễm, tham
trước tài, sắc, danh, ăn và ngủ, nên che lấp trí huệ.
Vì chúng sinh chấp trước dục nhiễm quá sâu, cho nên Phật chỉ tạm thời dùng
pháp phương tiện khéo léo để giáo hóa. Dùng Thanh Văn thừa, Duyên Giác
thừa và Bồ Tát thừa, để giáo hóa chúng sinh, đó là xả thật dụng quyền.
Thời nay, có những thanh niên tự cho rằng uống thuốc mê huyễn, thì có thể
đi ở trong hư không, mà còn có thầy làm chứng, thật là bậy truyền bậy, do
đó có câu:
‘’U mê truyền cho kẻ u mê,
Một truyền hai chẳng hiểu,
Ông thầy đọa địa ngục,
Ðồ đệ cũng theo vào’’.
Ði ở trong hư không, vốn chẳng cần dùng thuốc mê huyễn, đó là tự dối gạt
người, mất đi chân chánh trí huệ, Phật chỉ dùng quyền xảo để độ. Phật biết
ba cõi đầy dẫy thống khổ, cho nên khai thị chúng sinh, vì họ nói pháp xuất
thế gian.
Thế gian gồm có xuất thế gian, hữu tình thế gian, và chánh giác thế gian.
Khí thế gian còn gọi là y báo thế gian; hữu tình thế gian là thế giới của tất cả
chúng sinh, tức là chánh báo thế gian. Chánh giác thế gian là thế giới của
Phật. ‘’Ba minh’’ tức là quá khứ minh, hiện tại minh và vị lai minh.
Quá khứ minh tức túc thế minh, biết nhân duyên đời quá khứ. Hiện tại minh
tức lậu tận minh, bỏ mê về giác đã được vô lậu. Nếu bỏ đặng tất cả lòng
tham lam chấp trước, tu hành thì sẽ chứng được vô lậu. Vị lai minh tứ thiên
nhãn minh, bất cứ là chướng ngại vật bên trong, hoặc chướng ngại vật bên
ngoài, nhìn xem đều thấu suốt.
‘’Và sáu thứ thần thông’’: Tức là:
1. Thiên nhãn thông,
2. Thiên nhĩ thông,
3. Tha tâm thông,
4. Túc mạng thông,
5. Thần túc thông và
6. Lậu tận thông.
- Thiên nhãn thông, nhìn xuyên qua trong thân thể của mình, nhìn thấu được
trong thân thể của chúng sinh.
- Thiên nhĩ thông, chẳng những nghe được âm thanh trên trời, mà còn nghe
được tiếng côn trùng trong thân thể của mình kêu, thậm chí còn nghe được
tiếng của hoa cỏ cây cối.
- Tha tâm thông, biết được tất cả tư tưởng ở trong tâm của người khác, niệm
niệm khởi lên cũng có thể biết rõ. Trước kia có vị A La Hán có lục thông,
Ngài mang theo vị đệ tử đi du hành. Vị đệ tử đi sau quảy hành lý, giữa
đường bèn khởi lên một tâm niệm: "Tương lai mình phải hành pháp đại
thừa, phổ độ tất cả chúng sinh". Vị La Hán có tha tâm thông, nên biết được
vị đệ tử có nguyện lực đại thừa, còn mình bất quá là A La Hán, nguyện lực
của đồ đệ cao siêu hơn. Ngài bèn quảy hành lý thế cho đệ tử. Ði được một
đoạn đường khá dài, thì vị đệ tử sinh tâm thối lùi, nghĩ: "Bồ Tát đạo chẳng
dễ gì thực hành", vị thầy biết đệ tử sinh tâm thối chuyển, bèn đưa hành lý lại
cho đệ tử quảy, cứ như thế xảy ra mấy lần, vị đệ tử chẳng rõ nguyên nhân,
bèn hỏi vị thầy. Vị thầy đáp: ‘’Vì con phát tâm hành Bồ Tát đạo, tu lục độ
vạn hạnh, ta chỉ là bậc tiểu thừa, còn nguyện lực của con cao hơn ta, cho nên
ta thế con quảy hành lý. Song, con lại nghĩ Ngài Xá Lợi Phất còn không thể
hành Bồ Tát đạo, hà huống mình : Bèn sinh tâm thối chuyển. Lúc đó, con lại
trở về địa vị đệ tử, cho nên con phải mang hành lý‘’.
Xá Lợi Phất cũng là hàng Thanh Văn, phát tâm muốn hành Bồ Tát đạo. Nếu
ai chân chánh phát bồ đề tâm, thì Thiên Long bát bộ sẽ đến khảo nghiệm họ.
Phát bồ đề tâm muốn hành Bồ Tát đạo, phải ưa thích bố thí. Người khác
mong cầu gì, thì Bồ Tát sẵn sàng bố thí chẳng có tơ hào bỏn xẻn. Ngài Xá
Lợi Phất tức đã phát tâm hành Bồ Tát đạo, một ngày nọ, trên đường đi, Ngài
thấy một người khác khóc lóc rơi lệ, Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy, bèn phát bồ
đề tâm muốn giúp họ, mới hỏi người đó vì sao mà khóc. Người đó nói: ‘’Mẹ
của tôi bị bệnh, chỉ có con mắt của người sống mới có thể trị được, nhưng đi
khắp nơi mua mà chẳng có, cho nên tôi buồn quá mà khóc‘’. Ngài Xá Lợi
Phất nghe rồi, rất cảm động người con có hiếu, bèn suy nghĩ: ‘’Mình có một
cặp mắt, thôi thì bố thí một con cho anh ta, mình chừa lại một con‘’. Do đó,
chịu đau đớn, móc ra một con mắt để bố thí, người đó cầm lấy rồi bỏ xuống
đất ! Ngài Xá Lợi Phất chẳng hiểu vì sao ? Người đó nói: ‘’Chẳng phải con
mắt nầy, tôi muốn con mắt trái mà ông chưa nghe rõ, thì đã móc con mắt
phải ra. Nếu ông thật muốn bố thí, thì xin ông cho tôi con mắt trái kia đi
vậy‘’. Ngài Xá Lợi Phất đã móc con mắt phải ra, đau đớn vô cùng, nếu mà
móc mắt trái nữa, thì chẳng phải trở thành mù chăng ? Lúc đó, Ngài Xá Lợi
Phất thối lùi tâm bố thí. Người đó nghe rồi đằng vân mà đi, nguyên lai đó là
người trời đến thử thách Ngài Xá Lợi Phất.
- Túc mạng thông, biết được nhân duyên quá khứ, biết rõ kiếp trước của
mình là người thiện hoặc người ác ? Người Tàu hoặc người ngoại quốc ?
Hoặc kiếp trước là người Tàu, kiếp nầy sinh ra tại nước Mỹ, phát nguyện
đến nước Mỹ hoằng dương Phật pháp. Có những người học Phật pháp tiến
bộ rất mau, có những người tiến bộ rất chậm. Có những người học Phật
pháp, biết mà chẳng hành, chưa cung hành thực tiễn, chưa hợp với Phật pháp
làm một thể. Có những người học Phật pháp thân thể lực hành, có tinh thần
bất khuất, đều do nhân duyên kiếp trước đã tích lũy. Hoặc có những người
trước kia là người Ấn Ðộ, nguyện đến tây phương hoằng dương Phật pháp,
do đó đời nầy đầu thai vào nước Mỹ. Nếu có túc mạng thông thì sẽ biết được
việc quá khứ.
- Thần túc thông, còn gọi là thần cảnh thông, hoặc là như ý thông, được toại
ý tự tại. Thần túc thông diệu không thể tả, chẳng thể nào dùng lời nói để
hình dung được, có thể biến hóa trên thân ra lửa, dưới thân ra nước; hoặc
trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, lại có thể đằng vân ở trong hư không
hiện mười tám biến.
- Lậu tận thông, là chẳng rơi rớt vào ba cõi. Quỷ thần đều có ngũ thông, chỉ
thiếu lậu tận thông. Chứng quả A La Hán mới có lậu tận thông. Nếu người
có ngũ nhãn lục thong, cũng không thể tùy ý loạn dụng. Ví như, dùng thần
thông để quán sát thế giới có tai nạn gì, hoặc dùng thần thông cứu người mới
có ý nghĩa, nếu giúp đỡ người khác cũng không thể để cho người biết.
‘’Thiện dục nhân tri,
Bất thị chân thiện,
Ác khủng nhân tri,
Tiện thị đại ác‘’.
Nghĩa là:
‘’Làm thiện muốn người biết,
Chẳng phải là thật thiện,
Làm ác sợ người biết,
Đó mới là đại ác.’’
Ðắc được ngũ nhãn lục thông phải trân tiết, không nên lo việc vô ích, đừng
tùy ý loạn dụng, bằng không tiết lậu thiên cơ, cũng sẽ mất đi thần thông.
‘’Duyên Giác’’: Là bậc tu mười hai Nhân duyên mà ngộ đạo; do : Vô minh
duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, cho đến lão tử. Chúng
sinh do vô minh mà phát sinh hành vi, từ hành vi sinh ra ý thức, từ ý thức
sinh ra danh sắc, từ danh sắc mà sinh ra lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý), có lục nhập tức có sự tiếp xúc, có xúc thì có thọ, có thọ thì sinh ái, có ái
thì sinh tâm ích kỷ muốn chiếm hữu, tức có đời sau, có đời sau thì có lão tử.
Ðó là mười hai Nhân duyên của bậc Duyên Giác tu.
Vô minh thường chi phối con người, khiến cho điên đảo, cho nên phá được
vô minh thì sẽ hiển hiện pháp tính, sẽ được khai ngộ.
‘’Bồ Tát bất thối‘’: ‘’Bất thối’’có ba:
- Hạnh bất thối,
- Vị bất thối,
- Niệm bất thối.
- Hạnh bất thối, là tu Phật pháp phải có tâm nhẫn nhục, tâm kiên cố, tâm
thường hằng, tâm thành, để tiến bước về trước mà chẳng thối chuyển.
- Vị bất thối, là Bồ Tát phát tâm nguyện lớn, muốn bố thí đầu mắt tủy não
cho chúng sinh, mà chẳng sinh tâm thối lùi về hàng nhị thừa.
- Niệm bất thối, là Bồ Tát lợi ích tất cả chúng sinh, hay xả mình vì người, trợ
giúp người khác mà chẳng chấp trước tướng bố thí. Hành Bồ Tát đạo đừng
làm cho chúng sinh sinh phiền não, luôn luôn hồi quang phản chiếu, trở về
cầu nơi chính mình.
Này ông Xá Lợi Phất !
Ta vì các chúng sinh
Mà dùng ví dụ nầy
Nói một thừa Phật đạo.
Nếu các ông có thể
Tin nhận lời nói đây
Thì tất cả đều sẽ
Ðược thành tựu Phật đạo.
Thừa nầy tối vi diệu
Rất thanh tịnh bậc nhất
Ở trong các thế gian
Chẳng có pháp nào hơn.
Chỗ chư Phật hoan hỉ
Tất cả các chúng sinh
Nên tán thán khen ngợi
Cúng dường và lễ bái.
Vô lượng trăm ngàn muôn
Các lực và giải thoát
Thiền định cùng trí huệ
Các pháp khác của Phật.
Chứng được thừa như thế.
Ðức Phật nói với tôn giả Xá Lợi Phất: Trước kia, ta vì chúng sinh nói đủ thứ
ví dụ, để xiển minh sở tu trước kia là quyền pháp, nay khiến cho họ biết đại
thừa Phật pháp, nên tin rằng tất cả mọi người đều có thể sẽ thành Phật. Ðây
là sự vi diệu của Phật pháp, phải có tín tâm thì mới có thể thành tựu, chỉ có
một Phật thừa là pháp môn vô lượng trong thế gian, đây là pháp môn Phật
hoan hỉ nhất, nên tán thán pháp môn nầy, cúng dường Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, lễ lạy đại thừa Phật pháp. Có lượng công đức, mười trí lực của Phật,
tám giải thoát, các thiền định và trí huệ và các pháp môn khác của Phật, quá
khứ chắc chắn đã tu vô lượng công đức, mới đắc được nhân duyên thù thắng
nầy, gặp được đại thừa Phật pháp.
Khiến cho các người con
Ngày đêm cùng số kiếp
Thường được đi dạo chơi.
Với các vị Bồ Tát
Cùng với chúng Thanh Văn
Ngồi nơi thừa báu nầy
Mà thẳng đến đạo tràng.
Nhân duyên như vậy đó.
Tìm cầu khắp mười phương
Chẳng có thừa nào khác
Trừ Phật dùng phương tiện.
Dùng ‘’ngày’’ ví dụ khiến cho tất cả chúng sinh đắc được trí huệ chân thật
của Phật, ‘’đêm’’ dụ cho chúng sinh vẫn còn phiền não chưa trừ vô minh.
Tất cả chúng sinh tại chỗ Phật Ðại Thông Trí Thắng, đã được Ðức Phật giáo
hóa, thường tu tập pháp đại thừa.
Với tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, đều y chiếu Phật pháp đại thừa
tu hành. Thừa nầy là thừa báu, đạt đến bồ đề giác đạo mà thành Phật. Nhân
duyên như vậy đó, tìm cầu khắp mười phương chẳng có một pháp nào cao
hơn so với pháp nầy, ngoại trừ Phật dùng pháp phương tiện.
Phật bảo Xá Lợi Phất !
Hết thảy lũ các ông
Ðều là con của ta
Còn ta tức là cha.
Các ông trong nhiều kiếp
Bị các khổ thiêu đốt
Ta đều đã cứu vớt
Khiến ra khỏi ba cõi.
Tuy trước kia ta nói
Các ông được diệt độ
Chỉ dứt hết sinh tử
Mà thật chẳng diệt độ.
Nay việc cần phải làm
Chỉ có trí huệ Phật
Nếu có Bồ Tát nào
Ở trong chúng hội nầy.
Mà một lòng lắng nghe
Thật pháp của chư Phật
Các đức Phật Thế Tôn
Tuy dùng các phương tiện.
Giáo hóa các chúng sinh
Ðó đều là Bồ Tát.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất : Các ông tất cả chúng sinh, tất cả Bồ Tát,
Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, phát tâm bồ đề, đều là con
của ta, ta là cha của các ông. Các ông đã đời đời kiếp kiếp, vô lượng vô biên
đại kiếp vì ba thứ khổ, tám thứ khổ, vô lượng thứ khổ thiêu đốt. Ta đều luôn
luôn cứu vớt, khiến cho chúng sinh vượt ra khỏi cõi dục, cõi sắc và cõi vô
sắc.
Tuy ta trước kia, dùng quyền xảo phương tiện, nói các ông đều đã được diệt
độ, song chỉ dứt được phần đoạn sinh tử, chưa dứt được biến dịch sinh tử.
Theo thật pháp mà nói, các ông vẫn chưa chân chánh đắc được diệt độ. Như
nay các ông nên học trí huệ của Phật, tu pháp chân thật. Nếu có Bồ Tát nào ở
trong đại chúng chuyên tâm nhất chí, nghe pháp môn chân thật của ta nói, đó
mới là pháp do thật trí của chư Phật nói. Kì thật, pháp môn phương tiện vì
pháp môn chân thật mà nói, cho nên các ông nên hồi tiểu hướng đại, tu hành
hạnh Bồ Tát.
Nếu có người trí nhỏ
Chấp sâu nơi ái dục
Thì vì những người đó
Nói đạo lý khổ đế.
Chúng sinh tâm vui mừng
Ðắc được chưa từng có
Chân thật chẳng sai khác
Nếu có chúng sinh nào.
Chẳng biết gốc các khổ
Chấp sâu vào nhân khổ
Chẳng tạm rời bỏ được
Bèn vì chúng sinh đó.
Dùng phương tiện dạy bảo
Nguyên nhân mọi sự khổ
Tham dục là gốc rễ
Nếu diệt được tham dục.
Chẳng còn chỗ nương tựa
Dứt sạch hết các khổ
Gọi là đế thứ ba
Vì chứng được diệt đế.
Mà tu hành đạo đế
Lìa các khổ ràng buộc
Gọi là được giải thoát
Người đó nơi pháp gì.
Mà đắc được giải thoát
Chỉ xa lìa hư vọng
Gọi đó là giải thoát
Kỳ thật chưa đắc được.
Tất cả các giải thoát
Phật nói rằng người đó
Chưa thật được diệt độ
Vì người đó chưa được.
Ðạo quả vô thượng vậy
Ý của ta không muốn
Khiến cho được diệt độ
Ta là đấng Pháp vương.
Tự tại nơi các pháp
An ổn các chúng sinh
Cho nên hiện ra đời.
Nếu người thiếu trí huệ, chấp sâu nơi ái dục. Có kiến hoặc và tư hoặc, thấy
cảnh bèn chấp trước mê hoặc tức là kiến hoặc. Tâm chẳng biện rõ thị phi,
còn phản phú tư lường tức là tư hoặc.
Phật vì những chúng sinh nầy, nói pháp sinh diệt bốn Diệu đế.
1. Khổ đế : Chúng sinh lấy khổ làm vui, nghe được Phật nói khổ đế, thì tâm
sinh vui mừng, cảm thấy diệu pháp nầy chưa từng có, là diệu pháp ngàn
chân vạn thật.
2. Tập đế : Nếu có chúng sinh chẳng biết gốc khổ, tức tập đế. Tập là nhân
của khổ, khổ là quả của tập. Tập tức là hai mươi sáu thứ phiền não. Gốc rễ
phiền não có sáu thứ, tùy phiền não có mười thứ, trung phiền não có hai thứ,
đại phiền não có tám thứ, cộng thành hai mươi sáu thứ phiền não. Hai mươi
sáu thứ phiền não nầy là nhân của khổ, vì chúng sinh không thể tạm xả bỏ
những phiền não nầy, cho nên Phật vì họ trước hết nói pháp môn phương
tiện. Chủ nhân của tập là tham dục, chẳng biết đủ, luôn luôn tham mà chẳng
biết chán. Ví như người chẳng có đồng xu nào, thì mong có được một trăm
đồng, được một trăm đồng rồi, lại mong có một ngàn đồng, một vạn đồng,
cho rằng được một vạn đồng thì có thể ngừng lại. Song, đến lúc ấy cảm thấy
một vạn đồng vẫn còn ít, lại muốn mười vạn đồng. Song, chưa được một vạn
đồng thì than ôi mạng sống chẳng còn bao lâu ! Ðến chết thì vẫn chưa đạt
được lý tưởng. Cho nên, con người có tham dục thì sinh phiền não.
3. Diệt đế : Muốn diệt khổ, thì trước hết phải trừ tham dục. Chẳng còn tham
dục, thì trừ khử được gốc của khổ, khổ cũng chẳng còn chỗ nương tựa, các
khổ diệt sạch thì gọi là đế thứ ba.
4. Ðạo đế : Muốn được diệt đế, thì trước phải tu đạo, tức là đế thứ tư. Giải
trừ tất cả sự trói buộc của khổ, tức được thế gian giải thoát. Ai nhìn thấu
buông xả đặng, thì mới được giải thoát. Tuy nhiên vẫn còn sống, nếu thấy
được tất cả đều đã chết, chẳng vì túi da hôi thúi nầy mà làm nô lệ, thấy tất cả
đều hư vọng, chẳng chấp trước bất cứ những gì, thì đắc được sự giải thoát.
Tôi thường nói "Everything’s OK" ! Tức tất cả đều được, tức nhiên tất cả
chẳng có vấn đề gì, vậy phải chăng đã được giải thoát ? Chẳng còn chấp
trước, giống như hư không, chẳng bị gì ràng buộc, chẳng tham danh, tức là
giải thoát danh, chẳng cầu lợi tức là giải thoát lợi. Danh lợi đều giải thoát,
còn có gì ràng buộc nữa ?
Tuy nói pháp: Khổ, tập, diệt, đạo, có thể được giải thoát, kì thật, giống như
chưa được chân chánh giải thoát, vì mới được phần đoạn sinh tử, chứ chưa
được biến dịch sinh tử. Còn biến dịch sinh tử vẫn chưa được giải thoát. Cho
nên, Phật nói những hạng người nầy, chưa thật sự diệt độ. Phật nói rõ, vì
chẳng muốn họ chưa được thọ dụng chân thật mới khiến cho họ được diệt
độ.
Phật lại nói: Ta là vua của các pháp, toại ý tự tại ở trong các pháp, muốn
khiến cho chúng sinh được an ổn, được giải thoát cứu kính, cho nên mới
xuất hiện ra đời.
Này ông Xá Lợi Phất !
Pháp ấn của ta đây
Vì muốn làm lợi ích
Cho thế gian nên nói.
Nơi chỗ ông đi qua
Chớ có vọng tuyên truyền.
Ðức Phật nói với tôn giả Xá Lợi Phất, đồng thời nói với tất cả chúng sinh
đương thời, cũng bao quát chúng ta tất cả chúng sinh hiện tại, và tất cả pháp
sư hoằng dương Phật pháp : Ta dùng pháp ấn thật tướng tôn quý nầy, chứng
minh tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật đạo, vì lợi ích tất cả chúng
sinh, lợi ích thế gian, cho nên nói Kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa là pháp
chí tôn chí quý, cho nên không thể tùy tiện nói, phải đối cơ mới nói pháp
nầy. Một số người căn tánh thiển cạn, không thể tiếp thọ diệu pháp thượng
thừa.
Nếu đối với họ nói Kinh Pháp Hoa, chẳng những không thể tiếp thọ, mà còn
sinh hủy báng. Ðể tránh khỏi sự hủy báng diệu pháp thượng thừa mà đọa địa
ngục, cho nên chỉ đối với người có căn tánh đại thừa, mới có thể nói diệu
pháp thượng thừa Kinh Pháp Hoa.
Nếu có ai nghe được
Tùy hỷ kính thọ trì
Nên biết rằng người đó.
Là bậc bất thối chuyển
Nếu có người tin nhận
Kinh pháp vô thượng nầy
Thì người đó đã từng.
Gặp chư Phật quá khứ
Cung kính và cúng dường
Cũng nghe được pháp nầy
Nếu người nào có thể.
Tin nhận lời ông nói
Tức như là thấy ta
Và cũng như thấy ông
Cùng các Tỳ Kheo Tăng.
Và các bậc Bồ Tát
Phật vì người trí sâu
Nói Kinh Pháp Hoa nầy
Người thức cạn nghe được.
Mê hoặc chẳng hiểu đặng
Tất cả hàng Thanh Văn
Cùng với Bích Chi Phật
Ở trong Kinh pháp nầy.
Sức họ chẳng hiểu đặng
Như ông Xá Lợi Phất
Còn ở nơi Kinh nầy
Dùng lòng tin vào được.
Huống là Thanh Văn khác
Bao nhiêu Thanh Văn khác
Vì tin lời Phật nói
Mà tùy thuận Kinh nầy.
Chẳng phải trí của mình.
Ðức Phật nói: ‘’Nếu có người nghe được Kinh Pháp Hoa, mà tùy hỉ cung
kính thọ trì, nên biết người đó là bậc bất thối chuyển, phải biết người đó đã
phát tâm Bồ Tát, đã được ba bất thối chuyển. Nếu có ai tin nhận thọ trì Kinh
Pháp Hoa đại thừa nầy, thì người đó trong quá khứ đã từng thấy vô lượng
chư Phật, và hay cung kính cúng dường, trồng xuống hạt giống căn lành.
Nếu có người tin đạo lý Kinh Pháp Hoa, thì giống như thấy Phật.’’ Vào đời
Ðường, đại sư Trí Giả tông Thiên Thai đọc tụng Kinh Pháp Hoa ‘’Phẩm
Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự‘’ đến chỗ Bồ Tát Dược Vương đốt thân cúng
Phật, ‘’Là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai.’’ Lúc đó, đại
sư Trí Giả bèn nhập định, nhìn thấy hội Pháp Hoa ở núi Linh Thứu vẫn chưa
tan, từ đó đắc được Ðà La Ni Pháp Hoa tam muội, khai mở vô lượng vô biên
trí huệ, cho nên Phật nói tin nhận thọ trì được Kinh Pháp Hoa, tức là thấy
được Phật, cũng thấy được tôn giả Xá Lợi Phất, và tất cả Tỳ Kheo Tăng, và
còn thấy tất cả các đại Bồ Tát trong hội Pháp Hoa.
Do đó, Kinh nầy chỉ có thể nói với những người có trí huệ Bát Nhã. Nếu
những người kiến thức nông cạn, người ngu si, người tánh tình nóng nảy, mà
nghe được Kinh Pháp Hoa, thì sẽ nổi trận lôi đình, mê hoặc chẳng hiểu. Tất
cả hàng Thanh Văn nghe bốn Diệu đế mà khai ngộ, và Bích Chi Phật, tu
mười hai nhân duyên mà khai ngộ, chẳng đủ sức hoằng dương Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Ông là đại trí Xá Lợi Phất, mà đối với Kinh Pháp Hoa còn
phải suy gẫm mới tin nhận, huống gì những vị Thanh Văn khác ? Bao nhiêu
vị Thanh Văn khác, do nghe Phật nói Kinh Pháp Hoa, chẳng minh bạch đạo
lý bên trong, cũng tin nhận. Tuy họ tin nhận, nhưng chẳng phải trí huệ vốn
có của họ sinh ra, mà vì tùy thuận Phật nói, cho nên tin nhận diệu lý Kinh
nầy, từ từ trí huệ tự nhiên cũng sẽ sinh ra.
Lại nữa Xá Lợi Phất !
Kẻ kiêu mạn giải đãi
Chấp trước vào bản ngã
Chớ nên nói Kinh nầy.
Kẻ phàm phu thức cạn
Chấp sâu nơi năm dục
Nghe chẳng thể hiểu đặng
Cũng chớ vì họ nói.
Nếu người chẳng tin nhận
Mà hủy báng Kinh nầy
Tức là dứt tất cả
Hạt giống Phật thế gian.
Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất ! "Kiêu" là kiêu ngạo, "mạn" là khinh mạn, tự
cho mình cao hơn, giỏi hơn bất cứ ai. "Giải đãi" là lười biếng, chẳng có tâm
dũng mãnh tinh tấn. Nếu ai chấp trứơc vào tướng "ta" thì mới "kiêu mạn giãi
đãi", đối với những người nầy, chớ nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vì những
người nầy, nghe được đạo lý Kinh Pháp Hoa, cũng chẳng cung hành thực
tiễn, cho nên đừng giảng nói Kinh nầy cho họ nghe. Kẻ phàm phu kiến thức
nông cạn, thiếu trí huệ, tham trước: Tài, sắc, danh, ăn, và ngủ, năm dục, năm
dục nầy thông đạt đường vào địa ngục năm căn. Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
cũng là năm dục, cũng không thể tham trước năm dục nầy, vì tham trước vào
năm dục, cho nên nghe Kinh Pháp Hoa cũng chẳng minh bạch.
Người thế gian đều thích nghe âm thanh hay, ăn đồ ngon, ngủ nhiều. Trong
Kinh Pháp Hoa nói: "Chớ tham năm dục nầy", chắc chắn họ sẽ không tin.
Nếu người không tin thì sẽ hủy báng Kinh nầy, dứt mất tất cả hạt giống Phật
thế gian. Dứt hạt giống Phật tức là sinh hạt giống địa ngục, tương lai sẽ đọa
vào địa ngục. Cho nên chúng ta trước hết giảng Kinh Lăng Nghiêm, sau
giảng Kinh Pháp Hoa. Vì người chẳng có căn tánh đại thừa, thì chẳng tin
diệu lý thượng thừa trong Kinh Pháp Hoa.
Hoặc có người nhăn nhó
Mà ôm lòng nghi hoặc
Ông nên lóng nghe nói
Tội báo của người nầy.
Nếu Phật còn tại thế
Hoặc sau khi diệt độ
Nếu có người phỉ báng
Kinh điển như thế nầy.
Thấy có người đọc tụng
Biên chép và thọ trì
Bèn khinh khi ghét ghen
Mà ôm lòng kết hận.
Tội báo của người nầy
Nay ông nên lóng nghe
Khi người đó mạng chung
Đọa vào ngục A-tỳ.
Đầy đủ chẵn một kiếp
Hết kiếp rồi lại sinh
Cứ chuyển sinh như thế
Cho đến vô số kiếp.
"Hoặc có người nhăn nhó, mà ôm lòng nghi hoặc": Người tham trước năm
dục, mà Kinh Pháp Hoa khuyên phải lìa năm dục, cho nên họ nghe pháp nầy
mà chẳng vui, càng sinh nghi hoặc. Phật nói họ tương lai phải đọa vào địa
ngục, thọ khổ vô lượng vô biên. Bất cứ Phật tại thế, hoặc sau khi diệt độ,
nếu có kẻ phỉ báng Kinh Pháp Hoa, thấy người đọc tụng hoặc biên chép
Kinh Pháp Hoa, bèn sinh tâm khinh khi ghen ghét đố kị, ôm ấp oán hận
trong tâm. Tội báo của người nầy, nay ông hãy lóng nghe: Sau khi người đó
mạng chung, phải đọa vào điạ ngục vô gián một đại kiếp, trải qua vô số kiếp
mới ra khỏi địa ngục.
Từ trong địa ngục ra
Sẽ đọa làm súc sinh
Hoặc làm chó, dã can
Thân hình chúng gầy ốm.
Đen thui lại ghẻ lát
Bị người thường chọc ghẹo
Lại còn phải bị người
Nhờm gớm và khinh khi.
Thường bị khổ đói khát
Xương thịt đều khô héo
Lúc sống chịu khốn khổ
Chết bị ném ngói đá.
Vì dứt mất giống Phật
Nên chịu tội báo đó
Hoặc sinh làm lạc đà
Hoặc sinh vào loài lừa.
Thân thường mang chở nặng
Còn thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ nước và cỏ
Ngoài ra chẳng biết gì.
Vì phỉ báng Kinh điển
Mà mắc tội như thế.
Từ địa ngục ra, lại chuyển làm súc sinh, làm thân chó hoặc dã can. Dã can
thuộc về loài chồn, ở nơi ven núi hoặc ở trên cây cao, ban ngày thì ẩn núp,
ban đêm thì đi, đi thì kết thành bầy mà đi, dã can chỉ có một con mắt để
nhìn, còn con mắt kia thì chẳng thấy, vì khinh miệt người khác đọc tụng
hoặc biên chép Kinh Pháp Hoa, cho nên chỉ có một con mắt để nhìn. Thân
hình ốm gầy như cây củi, thân lại mang bệnh ghẻ lát, phát ra mùi hôi thối,
người mà thấy thì phải lánh xa. Dã can vì phỉ báng Phật, Pháp, Tăng, Kinh
Pháp Hoa, cho nên trên thân có mùi thôi thối, trải qua nhiều đời mới sinh
làm người, làm người cũng bị người chán nghét, thường bị đói khác, xương
thịt khô héo, lúc sống thì chịu khổ như thế, khi chết đi thì bị người ném gạch
ngói đá, vì họ phỉ báng Kinh Pháp Hoa, dứt mất hạt giống Phật mà sinh hạt
giống địa ngục, cho nên chịu quả báo nầy. Hoặc sinh làm lạc đà hoặc lừa,
thân thường mang chở nặng, bị người đánh đập, suốt ngày chỉ nhớ tưởng
uống nước hoặc ăn cỏ, ngoài ra chẳng biết gì nữa, đều do phỉ báng Kinh, cho
nên mắc tội như thế.
Có khi làm dã can
Đi vào trong xóm làng.
Thân thể bị ghẻ lát
Lại thiếu mất một mắt
Bị những đứa trẻ con
Đánh đập và liệng ném.
Chịu các sự thống khổ
Hoặc có khi phải chết
Sau khi bỏ thân nầy
Bèn thọ làm thân rắn.
Thân hình dài to lớn
Đến năm trăm do tuần
Ngây điếc chẳng có chân
Lăn lóc đi bằng bụng.
Bị các loài trùng nhỏ
Rúc rỉa ăn máu thịt
Ngày đêm chịu khổ sở
Chẳng có khi nào ngừng.
Bởi phỉ báng Kinh nầy
Mắc tội như vậy đó.
Dã can thuôc loài chồn, nhưng đa nghi hơn chồn, vì kiếp trước miệt thị
người tụng đọc, lễ lạy và giảng giải Kinh Pháp Hoa, cho nên sinh làm dã
can. Dã can bị nghiệp chướng che đậy, nên thân thể nhiều bệnh tật và ghẻ
lát, vào trong xóm làng tìm vật ăn, vì thiếu một mắt, nên bị trẻ con trong
xóm liệng, ném đá. Hơn nữa, vì thân thể có ghẻ lát bị đánh thì càng đau đớn,
thậm chí bị ném đá đến chết. Chết rồi lại đầu thai làm mãng xà, thân dài năm
trăm do tuần. Mãng xà tuy có tai nhưng chẳng nghe được, lại còn ngu si,
chẳng có chân, lăn lóc đi bằng bụng, có côn trùng nhỏ rúc rỉa bên trong, ăn
uống máu thịt, ngày đêm chịu khổ, bởi vì phỉ báng Kinh nầy, nên mắc tội
báo đó.
Nếu được sinh làm người
Các căn đều ám độn.
Lùn xấu lại lệch què
Đui điết thêm lưng gù
Có nói ra lời gì
Chẳng có ai tin nhận.
Hơi miệng thường hôi thối
Bị quỷ mị dựa nhập
Bần cùng rất hạ tiện
Thường bị người sai khiến.
Nhiều bệnh thân ốm gầy
Chẳng có chỗ nương nhờ.
Nếu thoát khỏi thân mãng xà, sinh làm thân người thì: Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, sáu căn của họ đều ám độn. Khả năng nhìn chẳng tốt, thính giác
chẳng linh mẫn, lỗ mũi chẳng biết thơm thối, vị giác chẳng linh, thân thể xúc
giác chẳng rõ ràng, ý niệm thì ngu si, thiếu trí huệ, hoặc tay chân thiếu
khuyết, đó gọi là các căn ám độn. "Lùn" là thân thể thấp nhỏ, như quỷ Cưu
bàn trà, bề dọc cũng bằng bề ngang, thân thể tướng mạo xấu xí, chân bị lệch
què, chẳng duỗi ra đặng, hoặc là lưng khòm, hoặc mắt mù, tai điết, lưng
cong. Loại người nầy, nếu nói ra điều gì đều chẳng ai tin, hơi miệng hôi thối,
vì quá khứ phỉ báng Kinh Pháp Hoa, hoặc dạ dày có bệnh, nên miệng hôi
thối. Có những người có luồng cương khí, hàng phục được thiên ma ngoại
đạo, cũng có mùi vị nầy. Nếu thường tụng Kinh Pháp Hoa, thì trong miệng
thường toả ra mùi thơm của hoa sen. Ai phỉ báng Kinh Pháp Hoa, thì bị quỷ
mị dựa nhập, bần cùng hạ tiện, bị người sai khiến, nhiều bệnh tật gầy ốm,
chẳng có chỗ để nương tựa.
Dù nương tựa gần người
Mà người chẳng để ý
Nếu học được điều gì
Thì bèn quên mất hết.
Nếu học làm nghề thuốc
Theo đúng pháp trị bệnh
Mà bệnh người nặng thêm
Hoặc có khi mất mạng.
Nếu mình có bệnh gì
Chẳng ai cứu chữa khỏi
Dù có uống thuốc hay
Mà bệnh lại thêm nặng.
Hoặc có người phản nghịch
Cướp giật trộm lấy của
Các tội lỗi như thế
Hoặc tự mang vạ lây.
Những người tội như thế
Vĩnh viễn chẳng thấy Phật
Là vua trong hàng Thánh
Thường nói pháp giáo hoá.
Những người tội như vậy
Thường sinh chỗ hoạn nạn
Tâm cuồng loạn tai điết
Vĩnh viễn chẳng nghe pháp.
Mặc dù xiểm nịnh đối với người, người cũng chẳng để ý đến. Nếu học Phật
pháp, hoặc học thuộc lòng Kinh, thì hay quên mất. Nếu học về nghề thuốc,
ngành y Trung Quốc có phân ra : Hàn, nhiệt, ôn, bình, và dùng : Vọng, văn,
vấn, thiết, bốn thứ phương pháp để đoạn chứng. Vọng nhìn mà biết gọi là
"thần", văn (nghe) mà biết gọi là "thánh", vấn (hỏi) mà biết gọi là "công",
thiết (bắt) mạch mà biết gọi là "khéo". Mạch phân ra gồm có : Phù, trầm, thỉ,
tốc, hoạt, tức, hư.
Có một câu chuyện, một ngày nọ, vua Diêm Vương bị bệnh, mới sai quỷ đi
mời thầy thuốc đến để chữa bệnh. Quỷ hỏi : Mời thầy thuốc nào ? Vua Diêm
Vương nói : Mời thầy thuốc mà ở trước cửa bệnh viện ít quỷ nhất. Quỷ đi
tìm, thấy rất nhiều oan hồn quỷ ở trước cửa bệnh viện, nhưng có một bệnh
viện trước cửa chỉ có hai con quỷ, bèn mời thầy thuốc ở trong bệnh viện đó,
đến để trị bệnh cho vua Diêm Vương. Vua Diêm Vương hỏi ông ta làm thầy
thuốc đã được bao lâu ? Ông ta đáp: Vừa mới bắt đầu làm nghề thầy thuốc.
Bệnh viện nầy vừa bắt đầu chữa bệnh, thì đã chết hai người ! Vua Diêm
Vương bèn từ chối, chẳng cho ông thầy thuốc nầy chữa bệnh, không cần ông
ta khám bệnh, có thể thấy, nếu thầy thuốc dùng lầm thuốc, thì người sẽ mất
mạng.
"Theo đúng pháp trị bệnh, mà bệnh càng thêm nặng, hoặc có khi mất mạng,
nếu mình có bệnh gì, chẳng có ai chữa khỏi, dù có uống thuốc hay, mà bệnh
lại càng thêm nặng". Hoặc gặp thời buổi nhiễu loạn. "Cướp giật trộm lấy
của". Hoặc bị chính phủ tịch thu cướp giật hoặc bị trộm cướp, những tội lỗi
như thế, hoặc bị mang vạ lây. Những người tội như thế, vĩnh viễn chẳng
thấy được Phật. Phật là vua trong hàng Thánh, thường nói pháp giáo hóa,
những người tội như vậy, thường sinh nơi hoạn nạn, tâm cuồng loạn tai điết,
vĩnh viễn chẳng nghe pháp.
Ở trong vô số kiếp
Nhiều như cát sông Hằng
Sinh ra luôn câm điết
Các căn chẳng đầy đủ.
Thường ở nơi địa ngục
Như dạo xem công viên
Ở trong các đường ác
Như nhà cửa của mình.
Lạc đà, lừa, heo, chó
Thường đến những chỗ đó
Vì khinh chê kinh nầy
Mắc tội nặng như thế.
Nếu được sinh làm người
Thường đui điết câm ngọng
Bần cùng các tướng suy
Dùng để tự trang nghiêm.
Bệnh phù thủng khô khát
Ghẻ lát và ung thư
Các chứng bệnh như thế
Dùng làm y phục mặc.
Thân thể thường hôi thối
Dơ bẩn chẳng sạch sẽ
Chấp sâu nơi tướng ta
Tăng thêm tánh nóng giận.
Và dâm dục hẫy hừng
Chẳng chừa loài cầm thú
Vì khinh chê kinh nầy
Mà mắc tội như thế.
Có những người căn lành chẳng đủ, bị nghiệp chướng làm chướng ngại,
nghe Kinh giây lát thì bỏ đi. Tôi thường nói:
"Khuyên bạn làm điều lành,
Bạn bảo chẳng có tiền, có cũng không.
Hoạn nạn xảy đến dùng ngàn vạn, không cũng có.
Nếu nghe Kinh nghe pháp, đi cũng bận,
Khi hơi thở chấm dứt xuống âm ti, bận cũng đi".
Nếu ai trong vô lượng kiếp đến nay, trồng xuống căn lành sâu dày, mới có
thể nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ngài đại sư Huệ Tư với đại sư Trí
Giả, từng cùng nghe Kinh Pháp Hoa ở tại núi Linh Sơn, cho nên có duyên
gặp nhau ở tại Trung Quốc. Các vị đang ngồi nghe Kinh, đều đã từng nghe
Kinh Pháp Hoa ở trên hội Linh Sơn, chỉ vì lâu quá rồi quên đi, mà nay tôi vì
các vị nói lại Kinh Pháp Hoa mà thôi.
Ở trong vô số kiếp, nhiều như số cát sông Hằng, sinh ra luôn câm điết, các
căn chẳng đầy đủ, thường ở nơi địa ngục, như ở trong nhà cửa của mình,
hoặc sinh làm : Lạc đà, lừa, heo, chó, tất cả cử chỉ hành động đều như các
loài đó. Cho nên, ở Ấn Ðộ có những ngoại đạo giữ giới chó, giới bò, tức là
kiếp trước đã từng khinh chê Kinh Pháp Hoa, cho nên dù sinh làm người, mà
tựa như súc sinh. Ra khỏi địa ngục, súc sinh, mà được sinh làm người thì:
Đui, điết, câm, ngọng, hoặc bị bần cùng, vì kiếp trước giàu có mà chẳng
cúng dường Tam Bảo, cho nên đời nầy nghèo khổ, hoặc thường gặp nghịch
cảnh.
Như có câu chuyện Khương Thái Công bán bột: Khương Thái Công là thừa
tướng của Chu Văn Vương, là sư phụ của Chu Võ Vương. Khương Thái
Công tức là Khương Tử Nha, vận khí chẳng tốt, vào triều đại nhà Ân thì làm
quan, sau từ quan trở về làm thường dân bán bột và muối. Bán muối cũng
chẳng có người mua, về sau bán bột, suốt ngày cũng chẳng có ai mua bột,
đến tối mới có người đến mua, vừa lúc ông ta đang đong bột, thì tướng quân
Hoàng Phi Hổ cởi ngựa đi qua đá đổ cái thúng bột, bột đổ xuống đường lộn
lạo với cát bùn, bột càng bán chẳng được, bèn đi về nhà. Về đến nhà gõ cửa,
chẳng ai đáp bèn dùng tay đập cửa thì bị ong chích. Thời vận của ông ta xui
xẻo như thế ! Kiếp trước ông ta vốn là một con gấu, thấy một vị tu đạo tên là
Ngọc Hư Công, vì biết vị nầy là bậc cao Tăng, cho nên quỳ ở trước cửa
động suốt năm trăm năm để cầu đạo, xương cốt cũng thành cát bụi, chỉ vì
cầu đạo, cho nên sau được sinh làm người, ông ta cũng từng hủy báng Tam
Bảo. Ông Khương Thái Công có người thiếp chẳng hiền, nên thời vận chẳng
tốt, vận mạng Khương Thái Công có thể nói là "các tướng đều suy".
"Dùng để tự trang nghiêm". Những chúng sinh nầy dùng bần cùng và các
tướng suy để trang nghiêm chính mình. Thân thể bệnh phù thủng, khô mòn
hoặc có ghẻ lát rất khó chịu vô cùng. "Ung thư" là chứng bệnh thuộc về
ngoại chứng. Các chứng bệnh như thế, như y phục thường mặc trên thân.
Thân thường tỏa ra mùi hôi thối, dơ bẩn chẳng sạch sẽ, chấp sâu nơi tướng
ta, tánh nóng giận càng bạo phát, dâm dục hẫy hừng. Như danh tướng Niên
Canh Nhiêu đời nhà Thanh, mỗi đêm phải có mười hai cô gái ngủ với ông ta,
thậm chí cũng làm hạnh bất tịnh với ngựa, bò. Vì phỉ báng Kinh nầy, nên thọ
quả báo như vậy.
Phật bảo Xá Lợi Phất
Người phỉ báng Kinh nầy
Nếu nói tội lỗi họ
Cùng kiếp chẳng hết được.
Do bởi nhân duyên dó
Ta thường bảo các ông
Đối với người vô trí
Đừng nên nói Kinh nầy.
Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất! Người phỉ báng Kinh Pháp Hoa, nếu
muốn nói tỉ mỉ tội lỗi của họ, thì cùng kiếp nói chẳng hết được. Do bởi nhân
duyên đó, cho nên bảo các ông, trước mặt những người chẳng có trí huệ, thì
chớ nói Kinh nầy. Vì sao ? Nếu những người chẳng có trí huệ, nghe Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, thì sẽ sinh tâm phỉ báng mà tạo tội, vì muốn cho họ
tránh khỏi tạo tội thọ quả báo, cho nên đối với người chẳng có trí huệ đừng
nói Kinh Pháp Hoa.
Tôi giảng Kinh Pháp Hoa tại Phật Giáo Giảng Đường, vì các vị có trí huệ.
Nếu các vị chẳng có trí huệ, mà tôi giảng Kinh nầy cho quỶ vị, thì các vị sẽ
chạy mất, đâu có ở lại chỗ nầy nghe Kinh. Thiện tri thức giảng Kinh thuyết
pháp đối với bạn, trước hết nhận thức am tường về Kinh điển, kế tiếp tham
thiền đả toạ. Tham thiền đả toạ cần phải có các sự trợ duyên, nếu không thì
gặp cảnh giới mà chẳng nhận thức được, dễ sa vào cảnh giới ma, chưa đắc
nói đã đắc, chưa chứng nói đã chứng, đó là nói dối, quả báu phải đọa địa
ngục. Có người oán trách Phật nói Kinh Pháp Hoa, cho rằng nếu Phật không
nói Kinh nầy, thì chẳng có ai vì phỉ báng Kinh nầy, mà đoạ điạ ngục. Cho
nên đổ lỗi vì Phật nói Kinh nầy, nên người mới vì Kinh nầy phỉ báng mà đoạ
điạ ngục. Song, đức Phật chẳng nói Kinh Pháp Hoa, thì cũng chẳng có ai
thành Phật. Phật đã nói rất rõ ràng, ai phỉ báng Kinh nầy thì có tội, biết rõ có
tội thì đừng phỉ báng Kinh nầy, đừng biết rõ mà cố phạm, không phỉ báng
Kinh nầy, thì sẽ không đoạ điạ ngục. Những người phỉ báng Kinh đoạ vào
ba đường ác, may có Bồ Tát Ðiạ Tạng vì họ thuyết pháp, cứu vớt ra khỏi
đường ác, được sinh về cõi trời, hoặc cõi người, còn người căn lành sâu dày,
do nghe Kinh Pháp Hoa mà sớm thành Phật.
Nếu có người lợi căn
Có trí huệ sáng suốt
Học rộng trí nhớ tốt
Tâm mong cầu Phật đạo.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Nếu người đã từng thấy
Trăm nghìn ức vị Phật.
Trồng các gốc căn lành
Thâm tâm rất bền vững
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.
Nếu có người tinh tấn
Thường tu tâm từ bi
Chẳng hề tiếc thân mạng
Mới nên vì họ nói.
Phật nói những người phỉ báng Kinh Pháp Hoa, sẽ bị quả báo đọa địa ngục,
là một cửa đại bi. Cho nên, không những không nên mở miệng phỉ báng
Kinh Pháp Hoa, mà trong tâm dù một ý niệm phỉ báng Kinh cũng không thể
sinh ra.
Nếu có người lợi căn, tức là tin sâu sắc chẳng nghi, những người đó đều là
những người học rộng trí nhớ tốt, có tâm cầu Phật đạo, những hạng người
như thế, mới nên vì họ nói Kinh Pháp Hoa, nếu có người ở trong quá khứ, đã
từng gặp trăm ngàn ức vị Phật, trồng các căn lành, những người đó trong quá
khứ, đã từng cúng dường Tam Bảo.
Người cúng dường Tam Bảo, nên một lòng cúng dường Phật, Pháp, Tăng,
Tam Bảo, đừng sinh tâm phân biệt. Trồng căn lành sẽ phát sinh trí huệ Bát
Nhã, có tâm kiên cố, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói, nếu có
người tinh tấn, thường tu tâm từ bi. Tâm từ bi mới không thấy lỗi chúng
sinh, dù thấy họ có lỗi, cũng dùng từ bi đối đãi, chẳng tiếc thân mạng, mới
nên vì họ nói.
Nếu có người cung kính
Chẳng sinh lòng khác biệt
Lìa xa các phàm ngu
Ở riêng trong núi đầm.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Lại nữa, Xá Lợi Phất !
Nếu thấy có người nào.
Rời bỏ ác tri thức
Gần gũi những bạn hiền
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.
Nếu thấy có Phật tử
Giữ gìn giới trong sạch
Như hạt châu sáng sạch
Ham cầu Kinh đại thừa.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Nếu người chẳng nóng giận
Chất trực và diệu hòa.
Thường thương xót hết thảy
Cung kính các đức Phật
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.
"Nếu có người cung kính, chẳng sinh lòng khác biệt": Có những người nghe
Kinh rồi, bên ngoài biểu hiện cung kính tiếp thọ, nhưng bên trong khởi tâm
nghi ngờ đối với vị pháp sư, nghĩ: "Những gì pháp sư này nói có đáng tin
chăng ? Ta có bị lừa chăng" ? Người có trí huệ chân chánh, sẽ không bị lừa
gạt, còn người chẳng có trí huệ, thì thường sợ người lừa gạt họ, song cuối
cùng cũng vẫn bị lừa. Nếu gặp người cung kính mà chẳng sinh lòng khác
biệt, xa lìa các phàm ngu, ở riêng trong núi đầm, những hạng người như thế,
mới nên vì họ nói Kinh nầy.
Ðức Phật lại bảo tôn giả Xá Lợi Phất ! Nếu thấy có người lìa bỏ ác tri thức,
mà gần gũi bạn hiền, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói Kinh
nầy. Nếu thấy có người giữ gìn giới thanh tịnh trong sáng như hạt châu, ham
cầu Kinh đại thừa, những người như thế, nên vì họ nói Kinh nầy. Những
hạng người ở trên biết hối cải, cho nên có thể vì họ mà nói Kinh nầy.
Nếu gặp người chẳng có tâm sân hận, ai hay lìa bỏ tâm nóng giận, cũng sẽ
lìa được tâm tham và tâm si, những người nầy bản tánh chất trực dịu hòa,
thường có lòng thương tất cả, cung kính các Ðức Phật, những hạng người
như thế, mới nên vì họ nói Kinh nầy. Có những người chẳng biết cung kính
lễ bái đối với Phật, Phật là cha lành của tất cả chúng sinh, cho nên chúng ta
nên cung kính, không những lễ lạy đối với Phật, mà cũng phải đảnh lễ đối
vớ các vị Tăng tu trì Phật pháp, cung kính Tam Bảo, cho nên nói "Cung kính
các đức Phật".
Lại có các Phật tử
Ở trong các đại chúng
Thuần dùng tâm thanh tịnh
Đủ thứ các nhân duyên.
Ví dụ và lời lẽ
Nói pháp không chướng ngại
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.
Năm giới là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,
không uống rượu, nếu giữ được năm giới nầy, thì sẽ được sinh làm người.
Nếu tu mười điều lành, thì được sinh về cõi trời. Trồng nhân lành thì được
quả lành, trồng nhân ác thì được quả ác. Trồng nhân thế nào, thì được qủa
thế ấy, cho nên phải cẩn thận nhân quả.
Nếu có vị Tỳ Kheo
Vì cầu Nhất thiết trí
Cầu pháp khắp bốn phương
Chắp tay đảnh lễ thọ.
Chỉ vui thích thọ trì
Các Kinh điển đại thừa
Cho đến chẳng thọ trì
Một bài kệ Kinh khác.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Như có người chí tâm
Cầu xá lợi của Phật.
Cầu Kinh cũng như thế
Được rồi đảnh lễ thọ
Người đó lại chẳng có
Chí cầu các Kinh khác.
Cũng chưa từng nghĩ nhớ
Kinh điển của ngoại đạo
Những hạng người như thế
Nên vì họ mà nói.
Tỳ kheo là tiếng Phạn, có ba ý nghĩa:
1. Khất sĩ.
2. Bố ma.
3. Sát tặc.
Tỳ kheo đi cầu pháp khắp bốn phương, được Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa
Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, các Kinh điển đại thừa,
chuyên tu những Kinh nầy, chí tâm đảnh lễ thọ trì, mà bỏ những Kinh khác,
những hạng người như thế, mới có thể vì họ nói Kinh nầy.
Phật bảo Xá Lợi Phất !
Ta nói các sự tướng
Của người cầu Phật đạo
Cùng kiếp chẳng hết được.
Hết thảy những người đó
Tức có thể tin hiểu
Ông nên vì họ nói
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất! Mười hạng người cầu Phật đạo ở trên, cùng
kiếp nói cũng chẳng hết được, cho nên phải vì những người đó, nói Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.
Có những người lại sinh ra nghi hoặc: Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói:
Chấp vào một Kinh cho là chánh quyết, mà chỉ các Kinh khác là hư cấu, đó
là lối đi của ma, mà nay Kinh Pháp Hoa khiến cho người thọ trì một Kinh,
đó chẳng phải là mâu thuẫn chăng ? Ý của Kinh Pháp Hoa nói là : Nếu sức
của bạn thọ trì được một Kinh, thì thọ trì một Kinh, còn nếu có thể thọ trì
được nhiều Kinh điển thì càng tốt, cho nên đừng chấp trước, nên linh hoạt
biến thông.
---o0o---
Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
Phẩm Tựa thứ nhất của Kinh Pháp Hoa, là nghiên cứu nhân duyên của bổn
kinh, Phẩm Phương Tiện thứ hai dùng quyền xảo phương tiện để giáo hóa
chúng sinh. Vì để cho chúng sinh tiến thêm một bước thấy rõ giáo nghĩa,
nên đức Phật tiếp tục nói Phẩm Ví Dụ thứ ba.
Bây giờ nói đến Phẩm Tin Hiểu thứ tư, khiến cho chúng sinh tăng thêm
niềm tin. Do đó, có câu:
« Tin là nguồn đạo mẹ công đức,
Nuôi lớn tất cả các pháp lành ».
Lại có câu rằng:
« Phật Pháp như biển cả,
Chỉ cần tin thì vào được ».
Do đó, có thể thấy niềm tin rất quan trọng, có thể nói là cửa đi vào Phật
Pháp.
Chữ tin bằng tiếng tàu (信), chữ nhân đứng trước chữ ngôn, hợp lại thành
chữ tín, biểu thị lời nói của người nào đó nói, nếu bạn không tin lời của họ
nói, dù lời của họ vốn có lợi ích, thì bạn cũng chẳng có được ích lợi. Cũng
thế, nếu ai hay tin hiểu nghĩa lý trong Kinh, sau đó cung hành thực tiễn, thì
mới thật sự đắc được pháp ích. Ví như tính nóng giận của bạn quá lớn,
nhưng đọc Kinh rồi, thì hiểu được tính nóng giận có thể tránh khỏi, do đó
lập chí trừ khử ác tập này, trong sự tu hành bất tri bất giác, một ngày nào đó,
bạn sẽ phát giác, tập khí xấu xưa kia đã tiêu đâu mất, đột xuất có người vô
cớ nhiễu loạn bạn, nhưng bạn cũng xem như chẳng có gì, đó là công năng
của niềm tin.
Ngược lại, nếu người nào đó sinh tâm nghi hoặc đối với Kinh điển, cho rằng
tính nóng giận ai ai cũng đều có đủ, không nóng giận là việc không thể
được, do đó không thể tương ưng với Phật Pháp, đừng nói đến đắc được
pháp ích. Nói tóm lại, ai tin hiểu được pháp đại thừa không thể nghĩ bàn, thì
mới có thể thực tiễn chứng được pháp vi diệu thậm thâm vô thượng. Cho
nên phẩm nầy lấy « Tin Hiểu » làm tựa.
Lúc đó, Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp,
Ma Ha Mục Kiền Liên, nghe Phật nói pháp chưa từng có. Ðức Thế Tôn thọ
ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sinh
tâm hi hữu vui mừng hớn hở, bèn từ tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, hở
bày vai phải, gối phải đụng đất, một lòng chắp tay, cúi mình cung kính,
chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng:
« Lúc đó »: Tức là lúc đức Phật diễn nói Phẩm Ví Dụ. Phẩm nầy, đức Phật
chỉ truyền thọ đối với người đương cơ, chẳng tuyên nói đối với đại chúng, vì
muốn tránh chúng sinh khởi nghi hoặc. Ma Ha Tu Bồ Ðề cũng gọi là « Huệ
Mạng » Tu Bồ Ðề, vì Ngài tiếp nối huệ mạng của Phật, cũng vì Ngài phụng
mạng của Ðức Phật, bậc đại giác trí huệ, nên gọi là « Huệ Mạng ». Trong
pháp hội Bát Nhã, Phật muốn Ngài Tu Bồ Ðề giáo hóa tất cả chúng sinh và
Bồ Tát, mà kế thừa gia nghiệp của Như Lai. Tu Bồ Ðề có ba tên:
1. Thiện Cát,
2. Thiện Hiện,
3. Không Sinh.
Khi ngài Tu Bồ Ðề ra đời, thì có những việc kỳ lạ phát sinh. Các báu vật
trong nhà phụ thân của Ngài đột nhiên biến mất. Thầy bói tướng xem thì cho
rằng: Ngài ra đời rất là « Thiện cát » (tốt lành), các báu vật mất hết đó là
biểu hiện giải không, cho nên lại được tên là « Không sinh ». Bảy ngày sau,
các báu vật mất đi đều xuất hiện trở lại, do đó lại được tên là « Thiện Hiện ».
Tôn giả là người giải không đệ nhất trong hàng đệ tử của Ðức Phật.
Có người hỏi: « Không là gì ? Có cần giải không chăng »? Ðương nhiên cần
giải không, nếu không thì không thể thấu hiểu Phật pháp, nói chi đến thành
Phật. Lại hỏi: « Không tức nhiên là gì cũng chẳng có, hà tất phải thấu hiểu »
? Tức bởi vì gì cũng chẳng có, nên bạn mới cần minh bạch nó, ai lĩnh ngộ
được nghĩa nầy, thì được lợi ích vô cùng.
Hư không là gì? Nó chẳng có hình tướng, cũng vô sở đắc, nếu có sở đắc, thì
chẳng gọi là hư không. Khi Ngài Tu Bồ Ðề thấu rõ nghĩa lý chẳng có gì giữ
lấy, chẳng có gì xả bỏ, chẳng có gì thọ nhận rồi, liền giác ngộ diệu nghĩa về
« không ». Tuy nói trong hư không chẳng có một vật, song vẫn « có vật » ở
trong đó, có và không là tương đối, nếu ai có thể đập vụn hư không, thì sẽ rõ
Phật tính, thấy nguồn gốc. Cho nên hòa thượng Hư Vân có nói rằng:
« Bôi tử phác lạc điạ,
Hưởng thanh minh lịch lịch,
Hư không phấn toái dã,
Cuồng tâm đương hạ hiết ».
Nghĩa là:
Cái ly rớt xuống đất
Âm thanh chợt phát ra
Hư không bị đập vụn
Tâm cuồng tiêu tan mất.
Hòa thượng Hư Vân ở trong thiền đường Chùa Cao Mân tại Dương Châu,
lúc cây hương thứ sáu khai tĩnh (xả thiền), thì vị hộ thất (Người giúp việc
trong thiền thất) rót trà cho từng thiền sinh. Chỉ sơ ý một chút, làm rớt ly trà
của ngài Hư Vân xuống mặt đất, phát ra tiếng trong trẻo, tức thời làm cho
mê mộng trong vô lượng kiếp của Ngài Hư Vân kình tỉnh dậy. Ly trà rớt
xuống đất, một âm thanh chợt phát ra, đập vụn hư không, cuồng tâm tiêu tan
chấm dứt. (Cuồng tâm tức là tâm phan duyên, phiền não, chấp trước). Cho
nên Ðức Phật nói:
« Hết thảy chúng sinh,
Ðều có Phật tánh,
Đều có thể thành Phật,
Chỉ vì vọng tưởng chấp trước,
Mà không thể chứng đắc ».
Trong Kinh Lăng Nghiêm cũng có nói:
« Cuồng tâm đốn hiết, hiết tức Bồ Ðề ».
Nghiã là cuồng tâm tức bồ đề, khi cuồng tâm chẳng còn nữa, thì bồ đề (giác
ngộ) sẽ hiển hiện.
Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên. Ma ha nghĩa là "đại" (lớn), Ca Chiên Diên
dịch là "Văn sức". Tôn giả cũng có những tên khác như « Hảo Kiên », «
Phiến Thừng » và « Thắng Tư ». Trong chúng đệ tử của Ðức Phật, Ngài là
người luận nghị đệ nhất, biện tài vô ngại. Ngài dùng thiện xảo phương tiện,
biện tài thao thao bất tuyệt, triết phục được rất nhiều ngoại đạo đoạn kiến.
Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất, được truyền từ Ðức Phật. Ngài hiện nay
vẫn còn nhập định ở núi Kê Túc tỉnh Vân Nam Trung Quốc, tức chưa vãng
sinh, cũng chưa vào Niết Bàn, Ngài đợi Bồ Tát Di Lặc thành Phật, thì trao y
bát cho Phật Di Lặc.
« Ca Diếp » dịch là "Ẩm quang", vì trên thân của Ngài phóng ra ánh sáng
vàng tía, che lấp các ánh sáng khác, như ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt
trăng, ánh sáng ngôi sao, giống như uống ánh sáng. Thân của Ngài hiện ánh
sáng vàng, là vì trong quá khứ Ngài và vợ của Ngài (Tử Kim Quang Tỳ
Kheo Ni), cùng nhau tu sửa sơn son thếp vàng tượng Phật Tỳ Bà Thi. Ca
Diếp còn dịch là "Ðại quy thị", vì khi tổ tông của Ngài tu đạo, thì thấy con
rùa lớn cõng ở trên lưng một bức họa đồ, do đó mà được tên. Tên của Ngài
Ca Diếp còn gọi là "Tì Bát La", là tên của một thứ cây, vì cha mẹ của Ngài
cầu nguyện với cây nầy mà sinh ra Ngài, cho nên lấy tên cây làm tên.
Ngài Ma Ha Ca Diếp đã từng là một vị ngoại đạo lạy thần lửa, cho rằng thần
lửa là thần minh cao thượng nhất. Khi Ðức Phật độ xong năm vị Tỳ Kheo
rồi, thì biết cơ duyên đã chín mùi, mới đến độ Ngài Ma Ha Ca Diếp, lúc đó
Ngài đã 102 tuổi. Khi Ngài hiểu rõ công phu tu hành của mình, chẳng thể
sánh được cảnh giới và thần lực của Ðức Phật, tu khổ hạnh, trở thành đầu đà
đệ nhất. Hạnh đầu đà có mười hai hạnh, Phật thấy Ngài tuổi đã cao, nên
khuyên tôn giả hà tất phải tu khổ như thế, song tôn giả vẫn tiếp tục duy trì tu
khổ hạnh. Cho nên Ðức Phật khen ngợi Ngài: Phật pháp của ta trụ lâu đời,
có quan hệ rất lớn với sự thực hành hạnh đầu đà của Ca Diếp, ai hay tu khổ
hạnh như thế, thì Phật pháp nhất định sẽ trụ lâu nơi đời.
Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên là tiếng Phạn, dịch là "Lai
bặc căn", hoặc "Thải thúc thị". Tôn giả có đại thần thông, một lần nọ, Ngài
vận dụng thần thông đi về hướng đông, qua vô lượng vô biên thế giới, song
dù đi xa bao nhiêu cũng chẳng cách chi lường được âm thanh của Phật vang
xa bao nhiêu, vì pháp thân của Phật khắp tận cùng hư không, biến pháp giới.
Tôn giả Mục Kiền Liên là một vị đại hiếu tử, khi Ngài chứng được ngũ nhãn
lục thông, quả vị A La Hán rồi, bèn quán khắp pháp giới tìm mẹ của Ngài,
thấy mẹ ở trong địa ngục làm ngạ quỷ, chịu nhiều thống khổ. Ngài đau đớn
muôn phần, lập tức đem một bát cơm đến dâng cho mẹ dùng, mẹ của Ngài
dùng một tay che, một tay bốc ăn, vì sợ ngạ quỷ khác thấy đến cướp giựt, ai
biết cơm vừa đến miệng, thì hóa thành lửa than, ăn chẳng được, vì nghiệp
chướng của bà ta quá nặng. Tôn giả Mục Kiền Liên tuy có đại thần thông,
nhưng không thể cứu được mẹ của Ngài, do đó lập tức đi tìm Ðức Phật, để
nhờ Phật cứu giúp. Phật nói vì mẹ của Ngài, lúc còn sinh tiền phỉ báng Tam
Bảo, khinh khi chư Tăng, lại thích ăn cá, trứng, cho nên đọa làm ngạ quỷ ở
trong địa ngục. Nếu muốn cứu vớt mẹ của Ngài, thì phải vào ngày rằm tháng
bảy, ngày Phật hoan hỉ, chư Tăng Tự Tứ, thiết lễ Vu Lan Bồn để cúng.
Trước khi cúng mười phương chư Phật, Pháp, Tăng, mười phương Tăng
chưa dùng trai, thì người khác không được dùng trước, nhờ công đức thanh
tịnh của mười phương Tăng, khiến cho mẹ của Ngài thoát khỏi biển khổ.
Phật chế hàng Tỳ Kheo, từ ngày rằm tháng tư đến ngày rằm tháng bảy, kiết
hạ an cư ba tháng. Trong mấy tháng nầy mùa hè nóng nực, trời mưa, trên
đường đi có nhiều côn trùng, vì dưỡng tâm từ bi thương xót tất cả chúng
sinh, nên chư Tăng chẳng đi đâu xa, để tránh khỏi đạp chết những sinh linh
nhỏ bé. Ngày mười lăm tháng bảy, là ngày chư Tăng kiết hạ viên mãn, là
ngày Tự tứ, cũng là ngày Phật hoan hỉ. Ngày đó chư Tăng cùng nhau xem
xét lỗi lầm với nhau, tự nhận lỗi lầm của mình, hoặc thỉnh chư Tăng nói ra
lỗi lầm của mình, để sám hối, mọi người cùng nhau sửa đổi làm mới.
Cho nên, Ðức Phật dạy tôn giả Mục Kiền Liên cúng dường chúng Tăng vào
ngày nầy. Do đó, mỗi năm vào ngày rằm tháng bảy, mỗi chùa đều thiết lễ
pháp hội Vu Lan Bồn, siêu độ cha mẹ bảy đời trong quá khứ, và cha mẹ đời
nay đã qua đời. Vu Lan Bồn dịch là "Giải đảo huyền". Chúng sinh trong địa
ngục chịu thống khổ, như bị dây thừng trói treo ngược xuống. Ngày nầy nhờ
công đức cúng dường mười phương chư Phật Bồ Tát và hiền Thánh Tăng,
các Ngài có thể giải trừ thống khổ trong các đường ác.
Tên của tôn giả Mục Kiền Liên gọi là "Tì Lợi Bát", là tên cây, vì cha mẹ của
tôn giả cầu nguyện nơi cây nầy, mà sinh ra tôn giả, tình hình cũng giống như
Ngài Ca Diếp.
Khi Ngài Tu Bồ Ðề và các vị tôn giả khác, nghe Ðức Phật thọ ký cho Ngài
Xá Lợi Phất, sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì hoan hỉ vui
mừng hớn hở, nghe được pháp chưa từng nghe qua, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đây là biểu thị thân nghiệp thanh tịnh. « Sinh tâm hi hữu », biểu thị ý
nghiệp thanh tịnh. « Hở bày vai phải », là biểu thị các Ngài buông bỏ pháp
tiểu thừa, mà hướng về pháp đại thừa. Nghĩa là khai quyền hiển thật, ngày
xưa chưa khai quyền, như vai mặt bị che lấp; nay đã khai quyền, cho nên hở
vai phải. « Gối phải đụng đất », đất biểu thị thật pháp, thật trí. « Một lòng
chắp tay », quyền thật không hai, quyền pháp tức thật pháp, thật pháp tức
quyền pháp, khai quyền hiển thật, vì thật thí quyền. Chắp tay là biểu thị
quyền thật không hai, không hai tức là một lòng chẳng phải quyền chẳng
phải thật. « Cúi mình cung kính », thân mình chẳng thẳng cũng chẳng cúi,
hay thẳng cũng hay cúi. Thẳng là biểu thị thật pháp, cúi là biểu thị quyền
pháp. Nay cúi mình cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn,
biểu thị các Ngài dùng « quyền » hướng về thật pháp của Phật. « Mà bạch
Phật rằng », tức khẩu nghiệp thanh tịnh.
Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng chúng, tuổi đã già nua, tự cho mình đã
được Niết Bàn, chẳng kham nhiệm gì nữa, chẳng còn cầu mong quả vị Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
« Chúng con » là chỉ Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Ðề, Ngài Ma Ha Ca Chiên
Diên, Ngài Ma Ha Ca Diếp và Ngài Ma Ha Mục Kiền Liên. Các Ngài đứng
đầu trong hàng Tăng chúng, song tại sao các Ngài không tu tập pháp đại
thừa để cầu Phật đạo? Vì các ngài xuất gia đã lâu, tuổi hạ cao, những người
hậu bối đều lấy các Ngài làm mô phạm, nếu sửa đổi bỏ pháp tiểu thừa để cầu
đại thừa, thì sợ người sau quở trách, vì muốn giữ sự tín nhiệm của người
khác đối với các Ngài, cho nên chấp trước tiểu thừa mà chẳng cầu pháp đại
thừa, chẳng muốn xả bỏ tiểu thừa, đều vì chưa biết khai ba quyền thừa để
hiển thật thừa pháp. Ba quyền thừa tức : Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát
thừa. Vì chấp nơi tiểu thừa chưa bỏ đi, giữ gìn kiến giải của mình, cho nên
không thể khai quyền hiển thật, bỏ quyền về thật, mà gây nên lỗi lầm thứ
nhất. Lỗi lầm thứ hai là tự cho rằng tuổi tác đã già nua, có thể tránh trách
nhiệm nặng nề hành Bồ Tát đạo rộng độ tất cả chúng sinh. Các Ngài quá
xem thường chính mình, chấp trước việc tuổi tác đã cao, chẳng còn làm gì
được nữa, cho nên lười tinh tấn, cầu Phật đạo. Lỗi lầm thứ ba là các Ngài tự
cho rằng mình đã chứng được Niết Bàn, đây là chưa chứng mà nói chứng.
Theo sự trắc lượng của các Ngài cho rằng, hoa sen chẳng sinh nơi đất cao,
chỉ lớn lên ở dưới nước, cho nên nói mình đã vào chánh vị vô vị, được Niết
Bàn, chẳng còn kham phát tâm bồ đề, cho rằng những gì làm trước kia đều
là Bồ Tát đạo, song vì mê thật pháp mà chẳng hiểu nghĩa của nó, chẳng còn
mong cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đức Thế Tôn trước kia nói pháp đã lâu, con ngồi tại tòa thân thể cảm thấy
mệt mỏi, chỉ nhớ pháp không, vô tướng, vô tác. Nơi pháp Bồ Tát du hí thần
thông, thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sinh, thì tâm chúng con chẳng
vui thích. Tại sao ? Vì đức Thế Tôn khiến cho chúng con ra khỏi ba cõi,
chứng được Niết Bàn. Hơn nữa, nay chúng con tuổi đã già nua, chẳng sinh
tâm niệm ưa thích nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà đức Phật
giáo hóa Bồ Tát.
Bốn vị tôn giả bạch Phật: Ðức Thế Tôn ! Trước kia Phật nói pháp thời gian
lâu dài, chúng con ngồi lâu, dần dần cảm thấy mỏi mệt giải đãi, vì chỉ nghĩ
nhớ pháp tiểu thừa : Không, vô tướng, vô tác. Tức là không vô sở hữu, tức
không cần hành Bồ Tát đạo, hoặc tu công đức, cho nên chẳng vui thích pháp
Bồ Tát du hí thần thông, giáo hóa thành tựu tất cả chúng sinh, cho đến
nghiêm tịnh cõi Phật, cũng chẳng sinh một niệm tâm vui mừng, Ðó là được
ít cho là đủ, lỗi giải đãi chẳng tinh tấn. « Vì sao » ? Vì sao chúng con chẳng
cầu pháp đại thừa ? Vì Phật từng nói khiến cho chúng con ra khỏi ba cõi,
chứng được Niết Bàn, hơn nữa, nay tuổi chúng con đã già sức yếu, cho nên
nơi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà Phật mở bày cho Bồ Tát đại
thừa, chúng con chẳng sinh tâm ưa thích.
Hôm nay chúng con ở trước đức Phật, nghe thọ ký cho hàng Thanh Văn, sẽ
thành Vô hượng chánh đẳng chánh giác, tâm chúng con rất vui mừng được
chưa từng có, không ngờ hôm nay hốt nhiên được nghe pháp chưa từng có,
rất tự mừng may được lợi lành lớn, vô lượng châu báu, chẳng cầu mà tự
được.
Hôm nay chúng con ở trước Phật, được nghe Phật thọ ký cho hàng Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát sẽ thành Phật, thấy Ngài Xá Lợi Phất được thọ ký,
sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, trong tâm chúng con rất vui
mừng, vì đây là biểu thị chúng con cũng sẽ được Phật thọ ký. Nay nghe pháp
hi hữu Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy, rất tự mừng may được lợi lành lớn,
như hốt nhiên được vô lượng châu báu, chẳng cầu mà tự được.
Đức Thế Tôn ! Chúng con hôm nay xin nói ví dụ để làm rõ nghiã đó. Ví như
có người tuổi còn nhỏ, bỏ cha trốn đi sang nước khác, ở lâu hoặc mười, hai
mươi, cho đến năm mươi năm.
Ðức Thế Tôn ! Hôm nay chúng con xin dùng một ví dụ để làm sáng tỏ nghiã
nầy. « Ví như có người », dụ cho người nhị thừa. "Tuổi còn nhỏ" dụ cho
người căn lành còn yếu kém, vì không thể thọ pháp đại thừa mà bỏ cha đi xa.
« Cha » dụ cho ứng thân của Phật. Trong thời gian lâu dài nơi hai vạn ức vị
Phật xuất hiện ra đời, Phật Thích Ca vẫn giáo hóa chúng sinh thành vô
thượng đạo, như cha lành đối với tất cả chúng sinh. Song, khi ứng thân của
Phật vào Niết Bàn rồi, thì chúng sinh thối tâm bồ đề, cho nên gọi là « trốn đi
». « Sang nước khác ở lâu » : Tức chỉ ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc) và
năm dục : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, nghĩa là chúng sinh nhiễm sâu trần lao
năm dục, chẳng biết bỏ mê về giác. Ðường cõi trời, là "mười", đường cõi
người là "hai mươi", "năm mươi năm" dụ cho năm đường chúng sinh: Trời,
người, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. A tu la chẳng lập riêng một đường, vì
trong năm đường đều có A tu la. Chúng sinh trong ba cõi đều quay lưng với
giác ngộ, mà hợp với trần lao, chẳng biết pháp môn tìm cầu giải thoát.
Người đó tuổi tác đã lớn, lại thêm bần cùng khốn khổ, lang thang khắp bốn
phương, để tìm cầu cơm ăn áo mặc, lần lần du hành tình cờ trở về bổn quốc.
"Người đó tuổi tác đã lớn", dụ cho hạt giống đại thừa còn tồn tại, song vì bỏ
đại thừa mà tu tập tiểu thừa, thối lùi đã lâu, phước đức từ từ tiêu mất, cho
nên gọi là nghèo khổ. « Lại thêm bần cùng khốn khổ »: Tức tám thứ khổ:
Sinh, gìa, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh.
Chúng sinh trong ba cõi chịu đủ tám thứ khổ, chẳng ra khỏi đặng, cho nên
nói là « bần cùng », tám thứ khổ trói buộc như lửa thiêu đốt, nên gọi là «
khốn khổ ».
« Lang thang khắp bốn phương »: Tức thiên về thân thọ, tâm, pháp. « Tìm
cầu cơm ăn áo mặc »: Chẳng thiên về phải trái, ở giữa cầu chánh đạo cơm ăn
và chánh đạo áo mặc. « Lần lần du hành, tình cờ trở về bổn quốc »: Tức
chẳng phải như ý muốn, chỉ là sự tình cờ. Ngoại đạo chán khổ cầu đạo, tu
các khổ hạnh, tuy là chẳng chánh đáng, cũng được nhân duyên có thể giáo
hóa họ. Như Phật mới thành đạo, thì các ngoại đạo đều được độ trước, tức
cũng là ý nầy.
Người cha từ trước đến nay, tìm con chẳng được, bèn dừng lại tại một thành
trong nước đó. Nhà ông đó rất giàu có, của cải báu vật vô lượng, nào là :
Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, trân châu .v.v... các kho tàng của
cải, thảy đều tràn đầy. Có nhiều tôi tớ, thần tá sử dân, voi ngựa xe cộ, bò dê,
nhiều vô số, cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương
buôn bán cũng rất đông nhiều.
Người cha từ trước đến nay, tìm con chẳng được: Dụ cho Phật dùng pháp
đại thừa giáo hóa chúng sinh, song chúng sinh bỏ trốn đến nước khác. Phật
tìm con chẳng được, nhưng không thể vì một đứa con mà bỏ gia nghiệp, cho
nên dừng lại ở tại một thành trong nước đó. Trong tức là giữa cõi thật báo và
cõi phương tiện. Phật lúc ban đầu dừng nơi hữu dư Niết Bàn Hóa Thành, tức
dừng nơi quyền lý, chẳng muốn nói pháp yếu mà muốn vào Niết Bàn, nhưng
vì nhà ông rất giàu có, pháp tài vô lượng (Chỉ Tam tạng mươi hai bộ Kinh
các pháp bảo), muốn có người sau nấy kế thừa gia nghiệp của Như Lai, cho
nên chẳng vào Niết Bàn. Quyền lý nầy là thật tướng, nên gọi là nhà ông.
Ðầy đủ vạn đức, cho nên gọi là rất giàu có.
Vàng bạc bảy báu, và bảo châu như ý, đại đồng tiểu dị, chỉ cần được một hạt
châu như ý, thì đồng như được các báu vật khác, đây là biểu thị tiểu thừa ba
mươi bảy đạo phẩm, bốn thánh đế, mười hai nhân duyên, và đại thừa lục độ
vạn hạnh, các pháp bảo.
Các kho tàng của cải: Tức là vô lượng pháp bảo sở tại. Có nhiều tôi tớ, thần
tá sử dân: Dụ cho pháp thiện xảo phương tiện của Phật.
Voi dụ cho nhất tâm tam quán, pháp viên giáo đại thừa. Tam quán nầy đồng
tại một lúc, chẳng lìa một mà có, không tức giả, giả tức không, cũng không,
cũng giả. Ðây là pháp môn viên giáo sở tu của Bồ Tát, là đốn ngộ mà chẳng
phải tiệm tu.
Ngựa, đại biểu thứ đệ tu hành từ từ vào tam quán của đại thừa:
1. Quán không,
2. Quán giả,
3. Quán trung.
Ðây là biệt giáo đại thừa.
Bò dụ cho không, tích, hai quán, là thông giáo các pháp đại thừa.
Dê Dụ cho tích pháp tự hành quán, từ Thanh văn thừa tu, thì có thể vào đại
thừa. Khi có Phật tại thế, thì Duyên Giác và Thanh Văn thành một thể.
Vô số tức là chúng sanh tiểu thừa nhiều vô số lượng. Cho vay thâu vào lời
lãi: Cho vay là chỉ tâm sinh vạn pháp, thâu vào tức vạn pháp quy về tâm. Lời
lãi là giáo hóa chúng sinh được pháp đại thừa, tự thân được lợi ích. Như lợi
tức ở ngân hàng, nếu độ được nhiều chúng sinh, thì được nhiều lợi, do đó mà
khắp đến nước khác, khắp tam giới. Khách thương buôn bán cũng rất đông
nhiều: Biểu thị quả vị bậc đại, tiểu thừa rất đông nhiều. Nghĩa là các Bồ Tát
vào tam giới để cầu pháp lợi, giáo hóa chúng sinh, hoặc Bồ Tát cõi nầy đến
cõi khác nghe pháp, hoặc Bồ Tát cõi khác đến cõi nầy nghe kinh, hoặc vì
khế cơ mà ứng hoá làm Thanh văn, gọi là ứng và hoá thân. Ví như buôn bán
đem thật pháp vào khắp tam giới, giáo hoá lợi ích chúng sinh, sau khi hoàn
thành thì trở về pháp thân tức nhập diệt, cho nên cũng gọi là rất đông nhiều.
Bấy giờ, gã cùng tử đi dạo đến các tụ lạc, trải qua các xóm làng, lần hồi đến
thành của người cha ở.
Gã cùng tử: Tức là hàng nhị thừa. Ði dạo đến các tụ lạc: Tức đi dạo trong
nhà lửa tam giới, chịu các sự khổ, rất nhàm chán mõi mệt, muốn cầu thoát
khỏi. Trải qua xóm làng: Tức là lặn lội đường dài, trải qua vô số nước khác,
nghiã là quán sát tụ lạc năm uẩn, và cõi nước mười tám giới (sáu căn, sáu
trần và sáu thức), từ đây mà vào xóm, tức quán mười hai nhân duyên, nơi
nơi cầu chánh trợ cơm áo, do khốn cảnh nầy, mà cảm lòng đại bi của Phật,
có được nghĩa tịch diệt, cho nên nói lần hồi đến thành của người cha ở.
Người cha nhớ con, cách biệt con đã hơn năm mươi năm, mà chưa từng nói
với ai về việc nầy, chỉ tự suy nghĩ, lòng rất hối tiếc, tự nghĩ mình đã già nua.
Có nhiều của cải, vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, mà chẳng có con
cái. Một khi chết mất, thì của cải sẽ mất đi, chẳng có người giao phó, cho
nên rất ân cần luôn nhớ đến con. Lại nghĩ rằng, nếu ta gặp lại con để giao
phó của cải, thì sung sướng biết mấy, chẳng còn sầu lo.
Người cha nhớ con: Phật luôn luôn nhớ các Phật tử căn cơ đại thừa, cách
biệt con đã hơn năm mươi năm: Đại biểu trời, người, súc sinh, ngạ quỷ và
địa ngục, các chúng sinh. Song, ông ta chưa từng nói với ai. Phật thì chẳng
nói, vậy các vị Bồ Tát biết việc nầy chăng ? Biết. Song, Phật chẳng nói, mà
các Bồ Tát cũng im luôn, vì biết chúng sinh căn cơ đại thừa chưa chín mùi.
Tâm Như Lai rất hối tiếc, ban đầu chẳng ân cần giáo hóa pháp lớn, e rằng họ
sẽ thối thất bổn tâm, hơn nữa con ngu si đã trốn đi, bỏ giác hợp trần mà
trong lòng rất lo lắng.
Tự nghĩ mình đã già nua: Dụ cho Phật ra đời, giáo hóa chúng sinh hoàn mãn
rồi, tất cả pháp đại thừa, giàu có đủ pháp tài, thiền định Bát nhã trí đức, mà
chẳng có con cái để kế thừa. Một khi báo thân mất đi, thì công đức pháp tài
chẳng có ai tiếp nối, cho nên ân cần luôn luôn nhớ đến đứa con thất lạc, nếu
có người để giao phó lại của cải pháp tài, thì trong tâm sung sướng biết mấy,
chẳng còn sầu lo nữa gì nữa.
Đức Thế Tôn ! Lúc bấy giờ, gã cùng tử làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhà
người cha, bèn đứng bên cửa, xa trông thấy người cha ngồi trên giường sư
tử, ghế báu đỡ chân. Các vị Bà la môn, Sát đế lợi, cư sĩ thảy, đều cung kính
vây quanh. Dùng chuỗi trân châu giá trị ngàn vạn, để trang nghiêm thân, các
sử dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che phía
trên, các hoa phan thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ hoa quý, các
báu vật la liệt, phát ra thâu vào, lấy, cho, có đủ thứ sự, nghiêm sức như thế,
uy đức rất tôn kính quý trọng. Gã cùng tử thấy cha có thế lực rất lớn, bèn
sinh tâm kinh sợ, hối hận về việc đến chỗ nầy, bèn nghĩ thầm rằng : Ông nầy
chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải chỗ của ta làm thuê mướn
được tiền vật, chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo, có chỗ cho ta ra sức chăm
làm, để kiếm được đồ mặc vật ăn. Nếu ở đây lâu, họ sẽ cưỡng ép sai ta làm,
nghĩ như thế rồi, bèn mau bỏ chạy đi.
Ðức Thế Tôn ! Khi người cha già nghĩ nhớ gã cùng tử, thì gã cùng tử làm
thuê làm mướn lưu lạc khắp đó đây. Ý nói họ đã bỏ đại thừa, ở trong tam
giới chịu các sự thống khổ, cho nên tâm sinh nhàm lìa, mà đi tứ xứ tìm cầu
đường thoát ly, từ đó dần dần tích tập căn lành xuất thế, do căn lành nầy mà
cảm ứng lòng từ bi của Phật, cho nên cuối cùng về đến nhà người cha :
Ðứng ở bên cửa: Gã cùng tử thấy người cha và sự trang nghiêm đẹp đẽ, cho
nên chẳng dám ngang nhiên đứng giữa cửa. Ðây là biểu thị người tiểu thừa
thiên về không, thiên về giả, mà chẳng đứng nơi trung đạo. Xa trông thấy
người cha: Tuy nhiên hiện nay lìa đạo đã xa, còn có thể ở xa trông thấy
người cha, ý nói người tiểu thừa còn có căn cơ đại thừa. Ngồi ở trên giường
sư tử: Tòa cao rộng lớn nầy, chạm hình con sư tử, dụ cho Phật ngồi toà pháp
vương, hiển hiện vạn đức đầy đủ, trang nghiêm viên mãn báo thân pháp thân
và hoá thân. Ghế báu gát chân: Biểu thị Phật đầy đủ định huệ.
Các vị Bà La Môn: Là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp của Ấn Ðộ thời
xưa, tu hành phạm hạnh, đức hạnh thanh cao, đây dụ cho Ðẳng Giác vị và
Bồ Tát Pháp Vân Ðịa trong hội Hoa Nghiêm. Sát đế lợi: Là dòng dõi vua
chúa, dụ cho các đại Bồ Tát từ sơ địa đến cửu địa trong hội Hoa Nghiêm. Cư
sĩ: Ðại biểu ba mươi tâm Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Những vị Bồ Tát
nầy, đều cung kính nhiễu quanh Ðức Phật.
Chuỗi trân châu: Dụ cho cứu kính giới, định thủ Lăng Nghiêm, Nhất thiết
chủng trí, pháp âm Ðà la ni bốn trí. Giá trị ngàn vạn để trang nghiêm thân:
Dụ cho Phật Pháp vi diệu thâm áo, không thể luận bàn dò lường. Các sử dân
tôi tớ: Sử dân là Bồ Tát đã chứng quả, tôi tớ: Bậc tu hành phương tiện Ba la
mật, đồng với thật trí.
Tay cầm phất trần trắng: Dụ cho dùng quyền trí. Ðứng hầu hai bên: Bên trái
biểu thị nhập vào không khí và quét đi bốn trụ trần :
1. Ái kiến trần.
2. Ái dục trần.
3. Ái sắc trần.
4. Ái vô sắc trần.
Bên phải biểu thị nhập vào giả trí, quét sạch vô tri trần. Hai bên, biểu thị
quét không trần và giả trần, đây là trung đạo phương tiện, cho nên nói là hai
bên.
Màn báu che phía trên: Dụ cho từ bi chân thật. Các hoa phan thòng xuống:
Hoa dụ cho bốn pháp nhiếp:
Bố thí
Ái ngữ
Lợi hành và
Ðồng sự.
Bố thí có ba :
Tài thí,
Pháp thí và
Vô úy thí.
Ái ngữ là nói lời hòa nhã, êm diệu. Lợi hành là hành vi lợi ích kẻ khác.
Ðồng sự là thị hiện thân phận đồng với chúng sinh. Phan dụ cho thần thông:
1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tha tâm thông.
4. Túc mạng thông.
5. Thần túc thông.
6. Lậu tận thông.
Nước thơm rưới đất: Dụ cho nước pháp (pháp thuỷ) rưới vào tâm địa của các
Bồ Tát rửa sạch hoặc trần. Cũng dụ cho nước định rưới tâm tán loạn. Rải các
thứ hoa quý : Phong ích, tính bình đẳng và tôn qúy, ý nói Bồ Tát đại thừa
như thất tịnh hoa. Hoa biểu hiện cho bốn trí :
Thành sở tác trí.
Diệu quán sát trí.
Bình đẳng tính trí.
Ðại viên cảnh trí.
Thất tịnh hoa:
1- Tam tụ tịnh giới.
2- Thủ Lăng nghiêm đại định.
3- Thật huệ.
4- Ðoạn nhị đế nghi.
5- Hành ư phi đạo thông đạt Phật đạo.
6- Trí đức viên mãn.
7- Ðoạn đức thành tựu.
Người nào muốn đắc được định, thì trước phải giữ giới mới có định và huệ.
Cho nên trong sự tu đạo, giới là quan trọng nhất. Giới có năm:
1- Không sát sinh.
2- Không trộm cắp.
3- Không tà dâm.
4- Không nói dối.
5- Không uống rượu.
Có người nói : Sát sinh, trộm cắp có thể giữ được, giới không tà dâm tuy
không dễ, song cũng phải giữ, giới nói dối là ác tập nên trừ khử. Song, uống
một vài ly rượu thì đâu có vấn đề gì ! Hà tất phải giữ giới rượu ? Bạn nói họ
nói như vậy có lý chăng ? Hoàn toàn sai ! Rượu khiến cho con người loạn
tâm tính mà gây ra việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm và nói dối. Trong trường
hợp nào đó, bạn nói dối mà chẳng biết, còn cho rằng mình chẳng có phạm
lỗi.
Tôi nhớ đến một câu chuyện, có một người nọ giữ gìn năm giới, giới rượu
đã giữ được hai ba năm. Một ngày nọ, hốt nhiên khởi ý niệm uống rượu, cho
rằng uống một vài ly rượu đâu có vấn đề gì. Bắt đầu anh ta chỉ uống một
chút, từ từ càng uống càng nhiều, say lúc nào chẳng hay. Hốt nhiên thấy con
gà nhà kế bên chạy qua nhà anh ta, cho rằng trời ban cho, bèn bắt gà làm thịt
ăn, lát sau có cô gái nhà kế bên chạy qua tìm gà, thì anh ta nói chẳng thấy
gà. Thấy cô gái bèn nổi tâm dâm dục, làm ô nhục cô ta. Vì anh ta phạm giới
rượu, mà gây ra tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm và vọng ngữ. Ðủ thấy giới
rượu rất là quan trọng.
Tịnh Hoa thứ hai : Thủ Lăng Nghiêm đại định là đại định tất cả sự cứu kính
kiên cố. Chúng ta làm bất cứ việc gì, đều phải triệt để kiên cố, có tâm kiên,
thành, hằng, thì mới có đại định, tu đại định thì sau sẽ thành tựu định lực tất
cả sự cứu kính kiên cố, tức là đại quả.
Tịnh Hoa thứ ba: Thật huệ, thật huệ nầy ai ai cũng có đủ, chẳng có ai mà
không có trí huệ. Song, bây giờ chúng ta chẳng những không hiểu được sự
vận dụng mà còn quên đi mất, ngược lại cứ dụng công phu trên trí quyền xảo
phương tiện, đó là trí thế gian mà thôi, là hư vọng chẳng thật. Thật trí mới là
trí huệ siêu thế gian, hay khiến cho thấy được thật tướng của các pháp.
Tịnh Hoa thứ tư: Ðọan hai đế nghi:
a. Không đế: Quán tự tính vốn không của các pháp, phá trừ pháp chấp.
b. Giả đế: Ðây là tác dụng của nhân duyên, hiện tượng y chánh, đồng nơi
huyễn hoá, cho nên giả đế là lập pháp. Hai đế nầy thiên về không, hoặc thiên
về có, chẳng vào trung đạo, cho nên chẳng phải cứu kính, mà phải đoạn trừ.
Tịnh Hoa thứ năm: Hành ư phi đạo thông đạt Phật đạo. Sở hành phi đạo như
là pháp tiểu thừa hoặc như khổ hạnh của ngoại đạo, song cuối cùng vẫn phải
trở về với đại thừa, tu pháp đại thừa mới thành tựu Phật đạo.
Tịnh Hoa thứ sáu: Trí đức viên mãn tức là minh tâm kiến tánh.
Tịnh Hoa thứ bảy: Ðoạn đức thành tựu, biểu thị phá sạch vô minh.
Các báu vật la liệt, phát ra thâu vào lấy cho, có đủ thứ sự nghiêm sức như
thế: Biểu thị đại thừa diệu pháp. Phát ra tức giáo hóa chúng sinh pháp đại
thừa. Thâu vào biểu thị nhiếp thọ người nhị thừa. Uy đức rất tôn kính quý
trọng biểu thị vô biên đại uy đức thần lực, có ba mươi hai tướng tốt, tám
mươi vẻ đẹp.
Gã cùng tử thấy cha có thế lực lớn: Tức người nhị thừa trí nhỏ đức mỏng,
thấy Phật có sức đại trí huệ thần thông, và uy đức thân tướng tốt trang
nghiêm, mới khởi tâm kinh sợ hoài nghi: Tướng trang nghiêm vi diệu nầy,
trước kia con chưa từng thấy, phải chăng là ma vương ? Bèn tỉnh ngộ ăn năn
về việc đến chỗ nầy, muốn đi đến xóm nghèo, tu pháp nhị thừa, lấy sự cầu
chánh đạo làm vật ăn, ngộ đạo làm đồ mặc. Với trí huệ của ngài Xá Lợi
Phất, còn sinh tâm nghi hoặc đối với Phật: Phải chăng đây là ma giả Phật,
nhiễu loạn tâm ta ư ? Huống gì là người mới vào đạo? Gã cùng tử chẳng
dám ở lại lâu nơi đây, sợ bị ép tu tập pháp đại thừa, mà cất bước chạy nhanh.
Chẳng phải là chỗ người tiểu thừa được lợi ích, cho nên nói Chẳng phải chỗ
của ta làm thuê mướn được tiền vật, ý nói căn cơ nhỏ không thể tiếp thọ giáo
hóa pháp đại thừa,
Tu pháp đại thừa Bồ Tát chẳng dễ gì thực hành, nhậm vận vào sinh tử, du hí
nhân gian, tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sinh. Tùy duyên bất biến, bất
biến tùy duyên, vào sinh tử mà chẳng sinh tử; tại phàm trần mà xuất phàm
trần. Người nhị thừa thì nhàm sợ sinh tử, và sợ rộng học vạn hạnh, bỏ lớn
giữ nhỏ, cho nên nơi cửa đại thừa mà bỏ đi mau.
Lúc đó, ông trưởng giả giàu có ngồi trên tòa sư tử, nhìn thấy biết là con
mình, trong tâm rất vui mừng, bèn nghĩ : Của cải kho tàng của ta, nay đã có
người giao phó. Ta thường nhớ đến đứa con nầy mà chẳng thấy, nay nó bỗng
nhiên đến đây, rất vừa ý của ta, ta tuy tuổi già, do vì tham tiếc.
Lúc đó, Phật ngồi trên tòa sư tử, nhìn thấy biết là con mình: Tức là biết
những người tiểu thừa, vì quá khứ Phật đã từng giáo hóa chúng sinh pháp
đại thừa, cho nên tâm rất vui mừng, kho tàng trí huệ đức hạnh đã có người
giao phó, nguyện lực của Phật sẽ viên mãn. Của cải kho tàng: Tức là pháp
tài, thiền định và vô lượng pháp môn giải thoát, như : Ba mươi bảy đạo
phẩm, sáu độ vạn hạnh, mười hai nhân duyên, bốn diệu đế, các pháp tạng,
nay đã có chỗ giao phó.
Tuy nhiên ta thường nghĩ nhớ chúng sinh lưu chuyển trong biển khổ sinh tử,
muốn cứu vớt, nhưng vì chúng sinh bỏ Phật trốn đi quá xa, cho nên chẳng
thể thấy. Nay nó bỗng nhiên đến đây: Biểu hiện nay họ đã hồi tiểu hướng
đại, phát đại bồ đề tâm, rất là vừa ý của ta. Tuy ta tuổi tác đã già nua, sẽ vào
Niết Bàn, do vì tham ái thương tiếc. Tức tương lai độ được người nào, thì
người đó có căn cơ đại thừa, có thể giao phó pháp lớn cho người đó.
Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại. Lúc đó, kẻ sứ giả chạy mau
đến bắt lại, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: Tôi không phạm lỗi gì,
sao lại bắt tôi ? Người sứ giả càng nhanh qua bắt, cưỡng dắt đem về. Lúc đó,
gã cùng tử tự nghĩ, mình chẳng có tội gì mà bị bắt, chắc chắn phải chết, lại
càng sợ hãi, ngất xỉu ngã xuống đất.
Phật liền sai khiến Bồ Tát đuổi gấp theo bắt lại: Dùng đốn giáo pháp đại
thừa để giáo hóa người tiểu thừa, muốn khiến cho họ đốn ngộ vô thượng
đạo. Chạy mau bắt lại, đơn đao vào thẳng, kiến tánh thành Phật. Nhiếp hóa
chúng sinh, khiến cho họ vào trí huệ của Phật. Người nhị thừa tu tập pháp
nhỏ (pháp tiểu thừa), đột nhiên nghe được pháp lớn (pháp đại thừa) nầy, bèn
sinh tâm kinh ngạc. Tiểu thừa lấy phiền não làm oán, sinh tử làm khổ. Nếu
thường nói với họ phiền não tức bồ đề, thì họ lớn tiếng kêu oan, nếu họ nghe
sinh tử tức Niết Bàn, thì họ lớn tiếng kêu thống khổ, tôi vô ý cầu pháp đại
thừa, sao lại bức bách tôi. Kẻ sứ giả, càng nhanh qua muốn cho họ tự thức
bản tính, người nhị thừa tự nghĩ mình chẳng có tội: Tự bảo chẳng có đại từ
bi tu pháp lớn nầy, cho nên chẳng muốn bị pháp lớn ràng buộc. Chúng sinh
nghiệp nặng cho nên ở trong ngục sinh tử, Bồ Tát dùng tâm đại từ bi vào
ngục cứu vớt. Người tiểu thừa tự bảo chẳng có đại phương tiện mà vào sinh
tử, tất sẽ mất đi tam thừa huệ mạng, cho nên nói chắt chắn phải chết: Suy
lường như thế lại càng sợ hãi. Người trí nhỏ chẳng hiểu pháp lớn, cho nên
nói ngất xỉu. Ngã xuống đất : Tức là đắm chìm ở trong vô minh.
Người cha ở xa trông thấy vậy, bèn nói với sứ giả: Không cần người đó, chớ
cưỡng đem đến, hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi
với nó. Tại sao ? Vì người cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu
sang, làm cho con khiếp sợ. Biết rõ là con, bèn dùng phương tiện, chẳng nói
với người khác đó là con mình. Người sứ giả nói : Nay ta thả ngươi muốn đi
đâu tùy ý. Gã cùng tử vui mừng được chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến
xóm nghèo, để tìm cầu sự ăn mặc.
Phật thấy người nhị thừa chẳng thọ Bồ Tát giáo hóa, tức chẳng có đại căn
cơ, sợ thương hại căn lành của họ, cho nên tùy thuận căn tính của họ mà dạy
Bồ Tát dùng pháp phương tiện giáo hóa. ‘’Lấy nước lạnh rưới lên mặt‘’:
Nếu ai ngất xỉu ngã xuống đất, thì lấy nước lạnh rưới lên mặt của họ, thì sẽ
khiến cho họ tỉnh lại. Ðây là biểu thị dùng pháp thủy bốn diệu đế của hàng
Thanh Văn, khiến cho họ tu hành, từ từ sẽ chứng quả. Phật biết người nhị
thừa ý chí hạ liệt cầu pháp nhỏ. ‘’Tự biết mình giàu sang‘’: Vì Phật có đại
oai đức, ‘’pháp thân‘’: Biến khắp pháp giới, ‘’báo thân‘’ và ‘’ứng thân‘’: Rất
thù đặc tôn quý, mà người tiểu thừa chẳng dễ gì tin thọ. Phật quán nhân
duyên nầy rồi, biết rõ họ nơi hai vạn ức vị Phật, đã từng phát đạo tâm, thật là
con của Phật. ‘’Chẳng nói với người khác‘’: Tức trước kia vì thật mà thí
pháp phương tiện quyền xảo, nơi vườn lộc uyển vì năm vị Tỳ Kheo nói pháp
bốn diệu đế, cho đến mười hai nhân duyên. Trong các pháp hội A Hàm,
Phương Ðẳng, Bát Nhã, Phật chưa từng đề cập đến hàng Thanh Văn Duyên
Giác là con của Phật, chỉ có trong hội Pháp Hoa, cơ duyên đã thành thục, vì
Xá Lợi Phất thọ ký sẽ thành Phật, mới nói các Ngài là con của Phật.
‘’Nay ta thả ngươi‘’: Tức là biết căn cơ mỏng cạn, tùy ý thích của họ, gã
cùng tử vui mừng, chẳng vì pháp lớn ép buộc, cho nên vui mừng. Tạm lưu
lại nơi pháp nhỏ có thể được tỉnh ngộ, cho nên nói "từ đất đứng dậy", lại tu
chánh đạo và trợ đạo, như "tìm cầu sự ăn mặc".
Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ con mình, bèn bày phương tiện, bí mật
sai hai người hình sắc tìu tụy, chẳng có uy đức, bảo họ đi tìm, và nói với gã
cùng tử, ở đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Nếu gã cùng tử chịu, thì dẫn về
cho gã làm. Nếu nó có hỏi sai làm gì, thì nói là thuê hốt phân, chúng ta hai
người cũng làm chung với ngươi.
"Muốn dẫn dụ con mình: Phật quán căn cơ của họ, mà bày phương tiện pháp
môn. Bí mật sai hai người: Phái Bồ Tát hóa làm người Thanh văn thừa để độ
hóa, nơi giáo pháp mà nói, tức pháp bốn diệu đế, mười hai nhân duyên. Nếu
nơi người mà nói, tức người nhị thừa, tức Thanh Văn và Duyên Giác; nơi lý,
tức có làm chân tục hai đế. Bí mật sai: Chiếu theo giáo lý tức ẩn thật là bí
mật, khai quyền là sai khiến. Mật giáo tức viên giáo, mãn tự giáo, như Kinh
Pháp Hoa vậy. Bán tự giáo tức di giáo, như tam tạng và thông giáo. Nơi
người mà nói thì bên trong bí ẩn hạnh Bồ Tát là mật, bên ngoài hiện thân
Thanh Văn là sai khiến.
Người tiểu thừa chẳng tu tướng tốt, song nói : Khổ, không, vô thường, vô
ngã, bất tịnh quán, thiên về không chẳng phải là trung đạo, cho nên nói "hình
sắc tìu tụy". ‘’Chẳng có uy đức‘’ : Tức chẳng đủ mười lực, bốn vô sở úy. Ý
nói Bồ Tát đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì hiện thân Thanh Văn,
mà vì họ nói pháp để giáo hóa họ. ‘’Ở đây có chỗ làm‘’: Thấy, tu hai lối, tức
nhị quả, tam quả La Hán vị. Khổ hạnh của ngoại đạo chỉ phục được hoặc,
mà không thể đoạn sạch được hoặc. Hoặc có thể phân ra thô hoặc và tế hoặc.
Kiến (thấy), tư (suy nghĩ) hoặc là thô hoặc, trần sa hoặc là tế hoặc, vô minh
hoặc có thể đạt đến sắc giới, vô sắc giới, tức tự cho rằng đến được cõi trời,
cho rằng là cứu kính. Thật tế thì chưa ra khỏi tam giới, như ở trong nhà lửa.
‘’Trả giá gấp bội‘’: Nếu tu pháp bốn diệu đế và mười hai nhân duyên, thì có
thể đoạn vô minh, dứt sinh thoát tử, vượt ra tam giới. ‘’Nếu gã cùng tử
chịu‘’: Tức người có căn cơ thì được giáo hóa, nếu chẳng đối cơ thì không
thể giáo hóa. ‘’Thuê người hốt phân‘’: Biểu thị khổ, tập, hai đế trong bốn
diệu đế, trừ kiến, tư hai hoặc. ‘’Chúng ta hai người, cũng làm chung với
ngươi‘’: Biểu thị Bồ Tát thị hiện thân nhị thừa, cũng cùng nhau tu hành tiểu
thừa.
Khi đó, hai kẻ sứ giả tìm được gã cùng tử rồi, bèn thuật lại đủ mọi việc như
trên. Bấy giờ, gã cùng tử trước hết hỏi lấy giá cả, liền đến hốt phân. Người
cha thấy con, thương xót mà trách.
Lúc đó, Bồ Tát hóa thành người nhị thừa, đến chỗ gã cùng tử (chỗ chúng
sinh), quán cơ thí giáo, biết rõ có căn cơ, cho nên nói đã tìm được. Hai người
vì họ mà nói việc tiểu thừa, tức hốt phân: Khổ, tập, diệt, đạo. Song, gã cùng
tử sợ bị lừa, cho nên trước hết lãnh lấy tiền làm công, sau mới chịu làm thuê,
ý nói trước hết phải mộ diệt, sau mới chịu tu đạo. Người cha thấy con,
thương sót họ thủ quả tiểu thừa, mà trách họ chẳng cầu Phật đạo.
‘’Trước hết hỏi lấy giá cả‘’: ‘’Giá cả‘’ nầy cũng có thể dụ cho sự giá trị vi
diệu của Kinh Pháp Hoa.
Giảng đến đây, hốt nhiên tôi nhớ lại một câu chuyện : Tại Trung Quốc vào
đời nhà Tấn, có một vị pháp sư tên là Vân Dực, kiếp trước là một con gà
rừng, đời nầy được đầu thai làm người, mà tu hành chánh quả. Tại sao gà
rừng được đầu thai làm người ? Vì mỗi lần đại sư Pháp Trí giảng Kinh Pháp
Hoa, thì đều thấy có một con gà rừng đến nghe kinh, bảy năm như một ngày.
Sau đó, con gà rừng nầy chết đi, thì đêm đó đại sư Pháp Trí mộng thấy một
vị đồng tử nói: ‘’Ta là con gà rừng mà hằng ngày đến nghe Ngài thuyết
pháp, do sự nghe pháp mà tôi đã đầu thai vào nhà cư sĩ Hoàng, tương lai sẽ
xuất gia với đại sư‘’.
Mấy năm sau, cư sĩ họ Hoàng thiết trai cung thỉnh đại sư Pháp Trí, khi đứa
bé vừa thấy đại sư đến, thì vui mừng chạy đến nói rằng: ‘’Sư phụ của con
đến rồi‘’!
- Ðại sư Pháp Trí nói: ‘’Thì ra ngươi là con gà rừng đó‘’! Họ cởi áo của đứa
bé xuống, thì thấy trên thân của đứa bé có ba cái lông chim. Cha của đứa bé
thấy vậy, thì cho phép đứa bé lạy đại sư Pháp Trí làm thầy, và xuất gia tu
đạo.
Pháp sư Vân Dực chuyên tâm trì tụng Kinh Pháp Hoa và kiến lập một tịnh
xá Pháp Hoa, siêng năng tu hành mười năm như một ngày. Một ngày nọ,
chợt có một thiếu nữ cầm cành hoa vẫy, và nâng lên một cái giỏ, trong đó có
một cái đầu heo trắng và hai củ tỏi, cô ta xin ở lại một đêm. Pháp sư Vân
Dực kiên quyết cự tuyệt ở ngoài cửa, nhưng cô ta nhất quyết không đi, pháp
sư Vân Dực phải cho cô ta ở trong phòng trên đống cỏ một đêm, vào lúc nửa
đêm, cô ta hốt nhiên vừa khóc vừa la, rên rỉ kêu đau bụng, yêu cầu pháp sư
vì cô ta mà bắt ma. Pháp sư thấy tình trạng nghiêm trọng, cho nên dùng tích
trượng bắt ma ở bụng của cô ta, khiến cho cô ta bình phục.
Sau khi trời sáng, thì thấy cô ta mặc xiêm y màu hoa lục, đằng vân mà đi,
hóa thành mây ngũ sắc, đầu heo trắng nhỏ đó đã biến thành con voi trắng,
hai củ tỏi thì biến thành hai đóa hoa sen. Một đóa hoa sen con voi ngự lên,
còn đóa hoa sen kia thì thấy Bồ Tát Phổ Hiền ngự lên và còn nói: ‘’Mấy
ngày nữa, thì ngươi có thể đến pháp hội của ta, cho nên trước hết ta phải đến
thử trình độ tu hành của ngươi, quả nhiên không sai, ngươi có thể làm quyến
thuộc của ta. ‘’Lúc đó, trong hư không phóng ra luồng quang minh rất cát
tường, hoàng đế thấy được luồng quang minh nầy, trong tâm rất hoan hỉ, bèn
kiến tạo một ngôi chùa Pháp Hoa rất lớn. Gà rừng nghe Kinh còn có cảm
ứng như thế, chúng ta là thân người đừng bỏ qua cơ hội tu học pháp vi diệu
thâm sâu nầy.
Vào thời vua Lương Võ Ðế, có một vị Tỳ kheo Ni, tên là Ðạo Ký, biệt hiệu
là Tổng Trì, là đệ tử lớn của Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma, ở một mình trong túp lều
tranh chuyên tâm trì tụng Kinh Pháp Hoa. Sau khi qua đời, thì tín đồ mai
táng ở ngoài túp lều tranh. Bảy tám năm sau, dưới mộ tự nhiên mọc lên một
đóa hoa sen xanh. Hoàng đế nghe được tin nầy, bèn sai người đào mộ lên
xem thử hoa sen từ đâu mọc lên, thì phát hiện hoa sen nầy mọc ra từ miệng
của vị Tỳ kheo Ni đó, thật là chuyện kì lạ ! Do đó, chứng minh tụng trì Kinh
Pháp Hoa không thể nghĩ bàn.
Lại có một vị Tỳ Kheo ni tên là Hoa Thủ, mỗi khi vị sư cô nầy tụng một
biến Kinh Pháp Hoa, thì trên tay hiện ra một đóa hoa sen. Do đó, hai tay đều
mọc đầy hoa sen. Hoàng đế nghe được tin nầy, bèn truyền gọi đến phong
cho pháp hiệu là Hoa Thủ.
Nếu có cơ hội nghe được Kinh Pháp Hoa, cho đến một câu kinh một bài kệ,
hoặc danh hiệu người trong Kinh Pháp Hoa, thì đều có căn lành lớn, bằng
không thì chẳng vào được pháp môn nầy.
Có một vị pháp sư tên là Pháp Vân, khéo diễn giảng Kinh Pháp Hoa, biện tài
vô ngại, theo lời phát nguyện mà đến độ hóa tất cả chúng sinh. Lúc đó, có
một vị hòa thượng rất kính ngưỡng đức hạnh của vị pháp sư nầy, bèn phát
nguyện như vầy : Tôi muốn đời đời kiếp kiếp đều có tướng tốt như vị pháp
sư nầy, biện tài vô ngại và sức đại nguyện. Ðêm đó, sau khi vị nầy phát
nguyện rồi, thì mộng thấy có người nói với ông ta, đại sư Pháp Vân vào thời
Phật Nhiên Ðăng, đã bắt đầu diễn giảng Kinh Pháp Hoa, chẳng phải một
sớm một chiều mà thành tựu như thế. Nếu bạn muốn được biện tài vô ngại
như ông ta, thì phải hạ thủ công phu một phen. Do đó, có thể biết Kinh Pháp
Hoa trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, khó thấy, khó có thể nói pháp môn vi
diệu nầy.
Lại một ngày khác, ông ở trong cửa sổ, xa trông thấy con, thân thể ốm gầy
tìu tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy chẳng sạch. Ông bèn cởi chuỗi ngọc áo tốt
mịn màng, và đồ trang sức, lại mặc đồ thô rách trỉn dơ, bụi bặm lấm thân,
tay phải cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ.
‘’Lại‘’ nghĩa là trịnh trọng. ‘’Ngày‘’ là thời gian hoặc trí huệ. ‘’Khác’’
người nhị thừa dùng quyền giáo làm giáo lý của mình, còn thật giáo thì cho
rằng giáo lý của kẻ khác. ‘’Ông ở trong cửa sổ‘’: Ý nói Phật chẳng đứng ở
cửa giữa mà đứng ở kế bên, nói tóm lại, Phật vì giáo hóa người nhị thừa, mà
tạm thời chẳng đứng ở trung đạo, xa trông thấy con bỏ pháp lớn.
‘’Ốm‘’: Chẳng có đại trí huệ. ‘’Gầy‘’: Phước lực chẳng đủ, họ chẳng hiểu rõ
đức Phật ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp gieo trồng tướng tốt, cho nên
thân thể ốm gầy. ‘’Tiều tụy‘’: Bên trong sợ vô thường, còn bên ngoài gặp
năm ấm tám thứ khổ. Bốn trụ trần là phân đất, vô minh phiền não là bụi
bặm, có bụi bặm vô tri nầy, và bốn trụ trần ràng buộc, kiến tư hai hoặc chưa
dứt, tâm phan duyên không ngừng, cho nên nói dơ dáy chẳng sạch. Người
xuất gia tu đạo cẩn thận, không nên mượn tiền người khác, hoặc nghĩ muốn
được người khác cúng dường, đó là tâm niệm chẳng trong sạch, là điều dơ
dáy chẳng sạch. Nên lấy tông chỉ:
Dù chết lạnh chẳng phan duyên,
Dù đói chết chẳng hóa duyên,
Dù nghèo chết chẳng van nài
Làm bổn phận của người xuất gia.
Bồ Tát Vi Ðà từng phát nguyện rằng: Nếu có ai tu được ba phần đức hạnh,
thì có bảy phần cảm ứng. Khi tôi còn trẻ, thì từng gặp người vu khống phỉ
báng và hết lương thực mấy ngày, song chưa vì gặp hoàn cảnh khó khăn nầy
mà giải đãi tu hành, cho nên được cảm ứng Bồ Tát Vi Ðà, vì tôi giải trừ đủ
thứ chướng ngại.
‘’Ông bèn cởi chuỗi ngọc các thứ‘’: Dụ cho báo thân và ứng thân vô lượng
công đức của Phật. Phật chẳng muốn gã cùng tử sợ hãi, cho nên ẩn ba mươi
hai tướng và tám mươi vẻ đẹp, mà hiện thân tướng Tỳ Kheo già cao một
trượng sáu, cho nên nói "cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng và đồ trang sức
mà mặc đồ thô rách trỉn dơ". ‘’Thô‘’, ẩn tàng thân Lô Xá Na ngàn trượng,
mà hiện thân cao một trượng sáu. ‘’Rách‘’, tức sinh nhẫn và pháp nhẫn.
Người hữu lậu có phiền não, hữu vi nên nói là ‘’bụi bặm lấm thân‘’. Tay
phải dụ cho dùng pháp quyền xảo phương tiện giáo hóa hàng nhị thừa. ‘’Ðồ
hốt phân‘’: Dụ cho pháp môn đối trị kiến hoặc và tư hoặc, tự dùng pháp nầy
đoạn sạch các hoặc, mà được thành Phật đạo, hơn nữa, lại dùng pháp nầy để
giáo hóa người, cho nên gọi là cầm.
‘’Bộ dạng đáng nể sợ‘’: Phật vì giáo hóa chúng sinh, nên có khi thị hiện
tướng sợ hãi sinh tử.
Hôm nay kể lại chuyện vua Lưu Ly giết dòng họ Thích. Một ngày nọ vua
Lưu Ly khởi tâm sân hận muốn giết dòng họ Thích, song chẳng có binh
quyền, có một ông quan tên là Hảo Khổ, khuyên vua giết cha đoạt binh
quyền, hưng binh đến nước Ca Tì La Vệ, giết hết dòng họ Thích trong bảy
ngày đêm. Lúc đó, các vị đệ tử lớn thỉnh Phật cứu, nhưng Phật im lặng
chẳng nói, mà đầu của Phật cũng đau ba ngày. Tôn giả Mục Kiền Liên
không đành làm ngơ, mới cứu năm trăm người bỏ vào bình bát, mang đến hư
không, bảy ngày sau lui binh thì năm trăm người đều biến thành máu. Các vị
đệ tử lớn hỏi Phật, vì nguyên nhân gì ? Phật nói: ‘’Trong quá khứ, có một
nước nọ tên là Bổ Ngư. Nước đó vì hạn hán đói khác, trong nước đó có một
cái hồ lớn, trong hồ có rất nhiều cá. Dân trong nước đói gần chết, mới đến
bắt cá trong hồ để ăn. Nước trong hồ cạn dần, trong đó có Ngư vương tên là
Bật Ngư, bị bắt lên bờ, cá nhảy vùng vẫy. Có một đứa bé thấy vậy, vì thích
chơi nên lấy cây gõ lên đầu cá ba cái. Hiện tại binh mã nước Xá Vệ đến giết
dân nước Ca Tì La Vệ, tức là cá ở trong hồ xưa kia vậy, ông quan Hảo Khổ
là thuộc hạ của Ngư vương. Nay nhân dân của nước Ca Tì La Vệ bị giết, là
nhân dân của nước Bổ Ngư xưa kia. Ðứa bé gõ lên đầu cá ba cái là thân ta
vậy. Lúc đó, tuy ta chẳng ăn cá, nay tuy đã thành Phật, vẫn bị quả báo đau
đầu, cho nên nói nhân quả chẳng mất vậy‘’. Phật lại nói kệ rằng:
‘’Cho dù trăm ngàn kiếp
Nghiệp tạo ra chẳng mất
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo mình phải chịu’’.
Bảo những người làm: Các ngươi phải siêng làm, chớ nên lười nghỉ ! Vì
dùng phương tiện nên được đến gần người con. Lúc sau lại bảo : Này gã
nam tử ! Ngươi thường làm ở đây, chớ đi nơi khác nữa, ta sẽ trả thêm giá
cho ngươi. Những đồ cần dùng như : Bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi
chớ tự nghi nan, cũng có kẻ tớ già để sai khiến, nếu cần ta cấp cho. Ngươi
nên an lòng, ta như cha của ngươi, chớ có sầu lo. Tại sao ? Vì ta tuổi tác đã
già nua, mà ngươi thì trẻ mạnh. Ngươi thường trong lúc làm việc, chẳng có
lòng khi dối, lười biếng, nóng giận, than oán, đều không thấy ngươi có các
điều xấu đó, như các người làm công khác. Từ nay về sau, ngươi như con đẻ
của ta. Tức thời, ông trưởng giả bèn đặt tên cho gã cùng tử gọi là con.
Bấy giờ, gã cùng tử tuy mừng gặp được việc như thế, song vẫn còn tự cho
mình là khách làm công hèn. Vì vậy nên trong suốt hai mươi năm thường sai
hốt phân.
‘’Bảo các người làm công‘’: Tức Phật vì những người tu hành diễn nói pháp
bốn niệm xứ :
1. Quán thân bất tịnh.
2. Quán thọ thị khổ.
3. Quán tâm vô thường.
4. Quán pháp vô ngã.
Có rất nhiều người coi thân thể mình rất quan trọng, cuối cùng của báu trong
nhà vốn có bị mất sạch, không thể thức tỉnh bổn tính của mình. Thân thể nầy
vốn chẳng phải là chân ngã, chỉ có thể nói đây là thân thể của ta, song quyết
không thể nói thân thể nầy tức là ta. Nếu ai quá luyến ái tham trước thân thể
của mình, thì ngày càng trầm luân đọa lạc, càng thêm ngu si. Nên biết thân
như cái phòng, chỉ tạm thời tá túc, chẳng phải chân tính thường trụ, hà tất
quá luyến ái không xả bỏ nó đặng !
Tứ niệm xứ.
1. Quán thân bất tịnh : Thân thể là vật dơ dáy nhất, khi còn sống thì chín lỗ
thường chảy ra đồ dơ bẩn: Mắt, tai, mũi, đều có ghèn, cứt váy, cức mũi các
vật nhơ nhớp, trong miệng thì có nước bọt và đàm, lại thêm tiểu tiện đại tiện,
đó là chín lỗ bất tịnh. Thế mà người chẳng những chẳng thấy là bất tịnh,
ngược lại còn trang điểm bên ngoài, khiến cho nó hưởng thụ thức ăn ngon,
mặc đồ đẹp, mà chẳng biết con người càng tham trước hưởng thụ, thì tự tính
càng ô nhiễm. Khi con người phải chết thì chẳng mang theo được thứ gì, chỉ
có nghiệp tùy thân. Ai Làm nghiệp thiện nhiều, thì sẽ tái sinh về ba đường
lành; còn ai làm ác, thì đọa vào ba đường ác.
Bất cứ người nam người nữ nào đẹp nhất trần gian, sau khi chết thì thân hình
đều ghê sợ như nhau, thân thể sình thối rữa nát sinh dòi, cuối cùng thành
một đống xương trắng, hoặc thiêu rồi thì thành tro, bạn lại ở đâu ?
Ai là cha con chồng vợ !
Trước mắt cốt nhục đã chẳng thật,
Ân ái trở thành cừu hận.
Phú quý như xuân mộng,
Công danh tợ mây trôi,
Hãy nhớ vô thường,
Chớ đừng chấp trước túi da hôi thối nầy !
2. Quán thọ thị khổ: Ðối trị duyên thọ chấp lạc điên đảo vọng kiến.
3. Quán tâm vô thường: Do huệ lực quán chiếu nầy, khiến cho tâm xa lìa lỗi
lầm chấp thường vọng kiến.
4. Quán pháp vô ngã: Vũ trụ vạn pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành.
Thân thể của chúng ta do năm uẩn, bốn đại hợp lại mà thành, một khi bốn
đại chẳng điều hòa, năm uẩn ly tán thì thân thể chết mất. Các pháp vốn
không, cho nên nói quán pháp vô ngã. Tu bốn niệm xứ, thì có thể đoạn trừ ái
mhiễm chấp trước, mà được giới định huệ .
Các người phải siêng làm, chớ nên lười nghỉ": Dụ cho tu bốn chánh cần, hay
phát sinh noãn vị. Ðã sinh điều ác thì khiến cho đoạn diệt, chưa sinh điều ác
thì khiến cho đừng sinh. Chưa sinh điều lành thì khiến cho sinh ra, đã sinh
điều lành thì khiến cho tăng trưởng, phải luôn luôn thời khắc tu bốn chánh
cần, như người dùi cây lấy lửa, phải tiếp tục nỗ lực. Một khi giải đãi thì sự
lấy lửa không thành. Cho nên nói bốn chánh cần là noãn vị trong bốn gia
hạnh. Bốn gia hạnh tức: Noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất. Tu bốn chánh cần, thì
từ từ tiếp cận được với chân như, cho nên nói được đến gần người con. Lúc
sau lại bảo: Dụ cho bốn như ý túc. Này là từ kinh tỉnh giác, khiến cho kẻ mê
mộng tỉnh giác.
Chánh cần: Thuộc về trí huệ, như người nam là dương tính. Bốn như ý túc
thuộc về định, như người nữ là âm tính, đây biểu thị định huệ tương trợ mới
có thể sinh trí huệ vô lậu. Người tu đạo vốn không, nên có sự phân biệt nam
nữ, đều nên có chí khí đầu đội trời chân đạp đất, siêng tu Phật đạo mới có
thể phát dương Phật giáo. Ngươi thường làm ở đây: Biểu thị đã đạt được
đỉnh vị, chớ hướng ngoại truy cầu nữa. Song, phải nhẫn thọ tất cả cảnh giới
nghịch, do đó có câu:
Không trải một phen lạnh thấu xương,
Sao được hoa mai thơm ngát mũi.
Chớ đi nơi khác nữa: Tức bảo gã cùng tử chớ theo tà, hoặc tu pháp ngoại
đạo vô ích nữa, nên lấy sự chánh niệm tu thân, trừ khử hữu lậu. ỂSẽ trả thêm
giá cho ngươi: Biểu thị được pháp vô lậu, tu chánh đạo như mặc áo, trợ đạo
như ăn cơm, phá huỷ kiến tư hai hoặc, sẽ được vô học vị, tức là thế đệ nhất
vị.
Những đồ cần dùng: Tức y áo chánh đạo, thức ăn trợ đạo. ‘’Bồn chậu‘’, dụ
cho tứ thiền. ‘’Gạo‘’, biểu thị sinh không trí huệ, ‘’Sinh‘’ tức chúng sinh,
cũng là người, cho nên cũng có thể gọi là nhân không trí. ‘’Bột‘’ biểu thị
pháp không trí. Sinh không trí là thô, còn pháp không trí là tế. Gạo bột cũng
có thể dụ cho chánh đạo. Người thế gian nhìn chẳng thấu, chấp người và
chấp pháp, cho nên mọi thứ đều buông xả chẳng đặng, mà nơi nơi tự đi tìm
phiền não.
Một lần nọ, đức Phật và các đại chúng đi thọ trai chủ cúng dường, đại chúng
đều đi đền nhà trai chủ, chỉ để lại một chú tiểu Sa Di trông giữ tịnh xá Cấp
Cô Ðộc. Lúc sau, lại có một vị cư sĩ đến chỉ thỉnh được một chú tiểu Sa Si
đó đi. Khi chú Sa Di dùng xong bữa cơm, thì trai chủ quỳ xuống thỉnh thuyết
pháp. Ai biết vị Sa Di đó chẳng biết thuyết pháp, thấy tình hình như vậy bèn
trốn bỏ chạy đi. Vì thời đó ở Ấn Ðộ, người thỉnh pháp biểu thị cung kính,
đều phải năm thể sát đất, không thể tuỳ tiện ngước đầu lên nhìn, cho nên chú
Sa Di lén trốn đi mất, mà vị trai chủ cứ chờ nghe pháp, rất lâu mà chẳng
nghe tiếng nào, mới ngước đầu lên nhìn thì lạ thật ! Người cũng chẳng có,
mà pháp cũng không, tức khắc ngộ được "người không, pháp không", chứng
được sơ quả. Ông ta lập tức đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn, để đảnh lễ chú tiểu Sa Di
cảm tạ, còn chú Sa Di thì sớm đã vào phòng khóa cửa lại, nghe tiếng gõ cửa
tâm càng bối rối; hốt nhiên cũng khai ngộ ! Song, thời đại mạc pháp nấy,
muốn khai ngộ chẳng phải là việc dễ dàng.
‘’Muối dấm‘’: Muối dụ cho vô thường, tức tu quán vô thường. "Dấm", tức
quán tất cả là khổ. Vì ăn chánh đạo : Gạo và bột, nếu chẳng có muối dấm
các mùi vị, thì chẳng dễ gì nuốt vào; tóm lại, nếu ai muốn tu chánh đạo,
cũng phải có nhân duyên tương trợ để trợ đạo. Trợ đạo tức là bốn chánh cần,
bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần và tám chánh đạo. Bốn
như ý túc còn gọi là bốn thần túc :
1. Dục như ý túc : Nghĩa là dục vọng gia tăng tu đạo chứng quả.
2. Niệm như ý túc: Niệm niệm nhất tâm, trụ vào chánh lý, tức dùng tư duy
để tu thiền định, ví như tham thoại đầu: ‘’Niệm Phật là ai‘’ ? Hoặc ‘’Bộ mặt
thật trước khi cha mẹ sinh ra’’.
3. Cần như ý túc.
4. Quán như ý túc.
‘’Cũng có kẻ tớ già để sai khiến‘’: Dụ cho như ý quán hay phát thần thông,
dùng thay thế chân tay, nhưng thần thông liệt nhược, cho nên nói là già.
‘’Sai khiến‘’ trong như ý quán cũng có pháp nầy trợ giúp cho chánh đạo, tức
thành câu giải thoát nhân, cho nên nói nếu cần sẽ cấp cho. ‘’Ngươi nên an
lòng‘’: Dụ cho năm lực:
1. Tín lực: Niềm tin đủ thì chẳng khi dối.
2. Tinh tấn lực: Tinh tấn nên không giải đãi.
3. Niệm lực: Niệm niệm trụ nơi chánh lý, cho nên không sân hận.
4. Ðịnh lực: Có định lực thì không hận.
5. Huệ lực: Trí huệ đủ thì chẳng sinh oán. Nếu được năm căn thì sẽ bền vững
khó hoại, đây là nhẫn vị vậy .
‘’Ta như cha của ngươi‘’: Phật vốn là cha lành của tất cả chúng sinh, song vì
chúng sinh mê muội, chẳng biết mình tương lai cũng sẽ thành Phật, cho nên
Phật nói chớ sầu lo nữa. ‘’Vì sao‘’: Tại sao‘’? Tuổi tác của ta đã già lớn‘’:
Phật đã viên mãn đầy đủ trí đức và đoạn đức, còn hàng Thanh Văn chưa có
trí đoạn hai đức, cho nên nói ‘’mà ngươi thì trẻ mạnh‘’. Ngươi thường tu
năm lực, bốn chánh cần, bốn như ý túc, cho nên chẳng có khi dối giải đãi,
sân hận, than oán các tật sấu, như người làm công khác, tức chẳng tu ngoại
đạo các khổ hạnh vô ích. từ nay về sau ngươi giống như con đẻ của ta. ‘’Bèn
đặt cho cái tên‘’: Thế đệ nhất vị, tên là ‘’con‘’, tức chuyển phàm thành
Thánh. Kinh A Hàm có nói về năm loại con, là tứ quả và Bích Chi Phật.
‘’Bấy giờ, gã cùng tử tuy mừng gặp được việc như thế, song vẫn còn tự cho
mình là khách làm công hèn‘’: Lúc nầy, người nhị thừa tuy gặp được pháp
duyên đại thừa, nhưng chẳng biết mình có thể sẽ thành Phật để tiếp nối dòng
dõi Phật, cho nên nói tự cho mình là khách làm công hèn, song, tu pháp
quyền giáo mà ‘’trong hai mươi năm thường sai hốt phân‘’: Hốt phân kiến,
tư hai hoặc, đây có thể giải thích là vô ngại giải thoát, trong sự tư duy, vô
ngại có chín loại, riêng giải thoát cũng có chín loại, lại thêm vào một kiến đế
và một vô ngại, hợp lại thành hai mươi, cho nên nói trong hai mươi năm
thường sai hốt phân.
Sau đó, tâm của gã cùng tử tin dần ra vào chẳng ngại sợ, nhưng chỗ gã ở vẫn
nguyên chỗ cũ.
‘’Sau đó‘’: Khi người nhị thừa trừ kiến tư hai hoặc rồi; đã tạm tin pháp đại
thừa, chẳng khởi nghi hoặc phỉ báng, cho nên nói tâm tin dần dần. Nghe
pháp đại thừa gọi là "vào". Thấy thân Phật cao một trượng sáu nói pháp tiểu
thừa gọi là "ra". Ra vào đại tiểu nầy tuy chẳng nghi nan, song vẫn bảo đại
thừa là việc Bồ Tát, chẳng phải trí huệ năng lực của mình sánh kịp, mà
chẳng chịu hồi tiểu hướng đại, cho nên gọi là vẫn còn ở chỗ cũ. Tuy Phật có
đại bi nguyện lực muốn cứu vớt tất cả tội khổ chúng sinh, chỉ vì chúng sinh
tự cam chịu đọa lạc, không chịu thoát ly, cho nên Phật vừa bắt đầu diễn nói
Kinh Pháp Hoa, thì có năm ngàn Tỳ kheo rút lui. Do đó, có thể thấy chúng
sinh khó độ, mê các trần lao tính điên đảo, cho đến Phật Bồ Tát, cũng cảm
thấy khó độ chúng ta chúng sinh đáng thương nầy, đó chẳng phải rất đáng
thương xót chăng ?
Ðức Thế Tôn ! Khi đó, ông trưởng giả bị bệnh, biết mình chẳng bao lâu nữa
sẽ chết, bảo gã cùng tử nói : Nay ta có nhiều vàng bạc châu báu, kho tàng
tràn đầy, trong đó bao nhiêu chỗ đáng lấy cho, ngươi phải biết, tâm ta như
thế, ngươi nên thể theo ý ta. Vì sao ? Nay ta với ngươi chẳng khác biệt, nên
gắng dụng tâm đừng để mất đi.
"Ðức Thế Tôn ! Vị trưởng giả đó mắc bệnh, biết mình chẳng bao lâu nữa sẽ
chết‘’: Có cơ duyên thì ứng, là sinh; cơ hết là tạ, là chết, nay cơ duyên giáo
hóa chúng sinh sắp hết, nên vào Niết Bàn. ‘’Vàng‘’, biểu thị trung đạo.
‘’Bạc‘’, biểu thị chân lý, đủ thứ pháp môn đều là châu báu. ‘’Kho tàng tràn
đầy‘’: Dụ cho tất cả thiền định trí huệ, chẳng có thiếu khuyết, trong đầy
ngoài tràn. ‘’Trong đó bao nhiêu‘’: Tức Bát nhã quảng, lược hai môn, Bồ
Tát hành Bát Nhã, nên biết tướng quảng lược, lược tức là ít, quảng tức là
nhiều. ‘’Chỗ đáng lý cho‘’: Tự mình tu hành là ‘’lấy‘’, còn giáo hóa kẻ khác
là ‘’cho‘’. Chỗ đáng lý lấy và đáng cho ngươi đều phải biết. ‘’Tâm ta như
thế‘’: Phật lấy Bát Nhã làm tâm. Tâm, Phật, chúng sinh cả ba chẳng khác
biệt. ‘’Ngươi nên thể theo ý ta‘’: Khiến cho đồng ngã thể pháp không vậy.
‘’Nay ta với ngươi, chẳng có khác biệt‘’: Nay những gì ta có, đều phó thác
cho ngươi. Hiện tại ngươi và ta đã không khác, nên gắng dụng tâm chiếu cứ,
chớ quên lời nói của cha, đừng làm cho mất đi pháp Bồ Tát đạo.
Khi ấy, gã cùng tử liền thọ nhận lời dạy bảo, biết các của cải vàng bạc châu
báu, và các kho tàng, mà chẳng có ý muốn lấy chừng bữa ăn, song chỗ của
gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm hạ liệt vẫn chưa bỏ được.
Lúc đó, hàng nhị thừa lãnh thọ giáo lý đại thừa và trí huệ công đức của Phật,
tâm lượng tạm rộng lớn, song vẫn ở tại cảnh giới nhị thừa, chưa bỏ được tâm
hạ liệt.
Lại trải qua ít lâu sau, cha biết con ý chí tạm thông thái, thành tựu chí lớn, tự
chê tâm ngày trước. Ðến giờ sắp chết, ông gọi người con đến, và hội cả thân
tộc, quốc vương đại thần, Sát đế lợi cư sĩ, khi đã hội đến đông đủ, ông bèn
tuyên bố rằng : Các vị nên biết, người nầy là con ta, do ta sinh ra trong thành
nọ, bỏ ta trốn đi lang thang, khốn khổ hơn năm mươi năm. Nó vốn tên ấy,
còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành nầy, ôm lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi
đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha của nó. Nay ta có tất cả bao
nhiêu của cải, đều là con của ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta
đây coi biết.
‘’Lại trải qua ít lâu sau‘’: Từ thời A Hàm đến thời Pháp Hoa. Sau khi Phật
thành đạo, trước hết nói Kinh Hoa Nghiêm, như mặt trời mọc chiếu vùng
cao nguyên, kế đó nói Kinh A Hàm, như mặt trời sau đó chiếu thung lũng,
song lúc ấy cũng đều chiếu vùng núi cao. Cho nên Phật ở trong pháp hội
Hoa Nghiêm, vì pháp thân Ðại sĩ nói pháp, độ đại Bồ Tát, còn ở thời A
Hàm, Phương Ðẳng, thì Bồ Tát cũng đến pháp hội để làm ảnh hưởng chúng.
Thời Bát Nhã thì phải hồi tiểu hướng đại, hàng nhị thừa chuyển làm đại
thừa, thời nầy Phật muốn đem gia nghiệp phó thác cho đệ tử, song vẫn chưa
thật hành, đến hội Pháp Hoa mới chánh thức phó thác cho đệ tử.
‘’Cha biết ý của con tạm thông thái‘’: Dụ cho Phật sau thời Bát Nhã vừa nói
Kinh Vô Lượng Nghĩa, thì hàng nhị thừa bèn nghe vốn từ một pháp sinh vô
lượng pháp, đều suy tư vô lượng các pháp, lý nên trở về một pháp. Tư duy
như thế dần dần thông thái, cho nên được cơ duyên đại thừa phát sinh, do đó
nói tự chê tâm ngày trước.
‘’Ðến lúc sắp chết‘’: Ðức Như Lai chẳng còn bao lâu sẽ vào Niết Bàn, hóa
duyên đã hết, những người đáng độ đều đã độ xong, cho nên vào Niết Bàn,
chính là chỉ thời Pháp Hoa vậy. ‘’Ông gọi người con đến‘’: Tức là hai vạn
ức người được Phật giáo hóa, đều vân tập đến. ‘’Thân tộc‘’: Biểu thị pháp
thân của Bồ Tát trong mười phương đến pháp hội nầy làm ảnh hưởng chúng.
‘’Quốc vương‘’: tất cả tiệm đốn, Tam Tạng mười hai bộ Kinh, đương cơ đều
được lợi ích, mỗi bộ đều khác nhau, đều là đệ nhất. Ðẳng Giác Bồ Tát là
‘’Ðại thần‘’, Thập địa Bồ Tát là ‘’Sát Ðế Lợi‘’, ba mươi tâm Bồ Tát là ‘’cư
sĩ ‘’.
Ông trưởng giả ở trong pháp hội nầy, tuyên nói rõ hàng nhị thừa thật là con
đẻ của ông, do ông sinh ra, biểu thị gã cùng tử đã được Phật giáo hóa, tạm
phát bồ đề tâm. Gã cùng tử nầy xưa kia ở trong thành nọ, bỏ pháp đại thừa
mà trốn vào sinh tử, trôi nổi lang thang trải qua sáu nẻo luân hồi khốn khổ,
tức một mình nghèo khổ, cho nên nói hơn năm mươi năm. Do đó, Phật ôm
lòng lo lắng tìm kiếm, thường tìm cơ duyên để hóa độ. Bỗng ở nơi căn nhà
nầy được cảm ứng đạo giao, toại tâm mãn nguyện, dùng pháp quyền xảo
phương tiện để độ, truyền trao pháp lớn, phó thác gia nghiệp, cho nên nói:
‘’Nay ta có hết thảy tất cả của cải, đều là con ta có‘’. Của cải tức là đại thừa
vạn đức vạn hạnh. ‘’Trước đây của cải cho ra thâu vào con ta đây coi biết‘’:
Xưa kia Phật nói pháp tiểu thừa, nay đã quy vào pháp đại thừa, hồi tiểu
hướng đại. Tóm lại, hàng nhị thừa đã biết Kinh Hoa Nghiêm, A Hàm,
Phương Ðẳng, Bát Nhã, cho đến Pháp Hoa Niết Bàn...
Ðức Thế Tôn ! Khi ấy gã cùng tử nghe cha nói như thế, bèn rất vui mừng,
được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng : Ta vốn chẳng có lòng mong cầu, nay
kho tàng châu báu nầy, tự nhiên mà đến.
Ðức Thế Tôn ! Khi gã cùng tử được Phật thọ ký vui mừng tin nhận, được
điều chưa từng có. Ta vốn chẳng có tâm hành Bồ Tát đạo làm Phật tử, nay
sao lại gặp được nhân duyên thù thắng nầy, nghe Phật khai quyền hiển thật,
pháp bảo diệu thừa nầy, như kho tàng châu báu tự nhiên mà đến.
Ðức Thế Tôn ! Ông trưởng giả giàu có tức là đức Như Lai, chúng con giống
như con của Phật. Ðức Như Lai thường nói chúng con là con.
Ðức Thế Tôn ! Chúng con vì ba sự khổ, nên ở trong sinh tử chịu các sự nhiệt
não, mê hoặc vô tri, ưa thích các pháp nhỏ.
Ðức Thế Tôn ! Ông trưởng giả giàu có tức là Ðức Như Lai. Bồ tát là chân tử
của Phật, còn hàng nhị thừa tuy đã hành Bồ Tát đạo mà chẳng tự biết, cho
nên nói: ‘’Giống như con‘’. Ðức Như Lai xem chúng sinh như con một, chỉ
vì chúng sinh xả bỏ pháp lớn thành Phật mà ưa thích pháp nhỏ, mê hoặc vô
tri, cho nên ở trong biển khổ sinh tử, ở trong nhà lửa tam giới, chịu sự bức
bách nhiệt não của lửa năm uẩn, nhận giặc làm con, bỏ giác hợp trần. Ba
khổ:
1. Thân thể vốn có đủ thứ khổ, gọi là khổ khổ.
2. Thân thể từ từ suy nhược, gọi là hoại khổ.
3. Nghiệp vận thiên lưu gọi là hành khổ .
Ngày nay đức Thế Tôn khiến cho chúng con, suy nghĩ dọn trừ phân dơ các
pháp hí luận. Chúng con ở trong sự siêng gắng tinh tấn, được đến Niết Bàn
giá một ngày, đã được đây rồi, tâm rất hoan hỉ, tự cho đã đủ, bèn tự bảo rằng
: Ở trong Phật pháp, do siêng năng tinh tấn nên được rộng nhiều, song đức
Thế Tôn trước biết chúng con tâm hèn tệ, ưa thích pháp nhỏ, liền khiến cho
chúng con buông bỏ, Phật chẳng phân biệt nói chúng con sẽ có phần bảo
tàng tri kiến của Như Lai.
Hôm nay ở trong hội Pháp Hoa, đức Thế Tôn khiến cho chúng con ngộ, biết
sở tu tập pháp nhỏ trước kia, đều là các pháp hí luận, cho nên nay muốn trừ
khử. Chúng con vì sợ sinh tử vô thường các thứ khổ, mà siêng tinh tấn tu
đạo, chỉ vì được giá Niết Bàn một ngày, được chút ít quả vị, thiên chân Niết
Bàn bèn tự cho là đủ. Song đức Thế Tôn sớm đã biết chúng con tham trước
năm dục thô tệ, ưa thích pháp nhỏ, cho nên chẳng phân biệt diễn nói pháp
đại thừa, khiến cho buông bỏ tu tập pháp nhỏ, xả nơi đại thừa giáo hóa, còn
tuyên nói chúng con đều có trí huệ công đức bảo tàng tri kiến của Như Lai.
Ðức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí huệ của Như Lai. Chúng con theo
Phật được giá Niết Bàn một ngày, cho đã được nhiều rồi, đối với pháp đại
thừa nầy chẳng có chí cầu. Chúng con lại vì trí huệ của Như Lai, vì các Bồ
Tát mở bày diễn nói, mà tự mình chẳng có chí muốn nơi pháp đó. Tại sao ?
Vì đức Phật biết chúng con tâm ưa thích pháp nhỏ, nên dùng sức phương
tiện thuận theo chúng con để nói, mà chúng con chẳng biết thật là con của
Phật.
Ðức Thế Tôn từ bi dùng pháp quyền xảo phương tiện, diễn nói pháp thâm
sâu trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật nghe pháp tu hành, được tiểu
Niết Bàn, bèn cho đã được đại Niết Bàn, chẳng muốn tấn tu Pháp Hoa viên
đốn đại thừa. Ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Ðề cho rằng: Các Ngài hay vì các
đại Bồ Tát nói pháp đại Bát nhã, hoàn toàn là trí huệ thần lực của Phật gia
bị, mà chẳng biết mình vốn có hạt giống Bồ Tát cũng diễn nói được pháp
lớn, cho nên nói chúng con chẳng biết thật là con của Phật.
Nay chúng con mới biết, đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật, chẳng có lận
tiếc. Tại sao ? Vì thuở xưa thật là con của Phật, nhưng lại ưa thích pháp nhỏ.
Nếu chúng con có tâm thích pháp lớn, thì Phật sẽ vì chúng con nói pháp đại
thừa. Ở trong Kinh nầy chỉ nói nhất thừa, mà xưa kia ở trước các Bồ Tát,
Phật chê trách hàng Thanh Văn ưa thích pháp nhỏ, song đức Phật thật dùng
đại thừa giáo hóa, cho nên chúng con nói : Vốn chẳng có tâm mong cầu, mà
nay châu báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đến, như chỗ con của Phật
đáng được, đều đã được vậy.
Hôm nay, chúng con mới biết Phật dùng đại từ bi, vốn muốn giáo hóa chúng
sinh pháp đại thừa, chỉ vì chúng sinh căn tính hạ liệt ưa thích pháp nhỏ, cho
nên Phật thuận theo căn cơ mà diễn nói quyền pháp. Hiện nay, chúng con đã
biết, xưa kia từng thọ Phật giáo hóa, vốn đầy đủ hạt giống đại thừa, cho nên
phát tâm ưa thích đại thừa, mà Phật lại vì chúng con khai quyền hiển thật,
diễn bày duy nhất một Phật thừa, mà chẳng có thừa nào khác. Thuở xưa, ở
trong hội Phương Ðẳng, Bát Nhã, Phật ở trước các vị Bồ Tát, chê trách hàng
tiểu thừa là tiêu nhạ bại chủng. Chúng con vốn chẳng có tâm mong cầu Phật
pháp, nay ở trong hội nầy, châu báu lớn vô thượng (tất cả Phật pháp) của
đấng Pháp Vương (Như Lai) chẳng cầu mà tự đến, như sở đắc pháp của các
Bồ Tát, chúng con hôm nay đều đã được. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
ba thừa, hiện nay ở trong pháp hội nầy, đều quy về một Phật thừa, tự nhiên
mà được.
Bấy giờ, Ngài Ma Ha Ca Diếp muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng
:
Chúng con hôm nay
Nghe tiếng Phật dạy
Vui mừng hớn hở
Ðược chưa từng có.
Phật nói Thanh Văn
Sẽ được thành Phật
Kho báu vô thượng
Chẳng cầu tự được.
Ví như đồng tử
Thơ bé chẳng hiểu
Bỏ cha trốn đi
Xa đến xóm khác.
Lang thang các nước
Hơn năm mươi năm
Người cha buồn nhớ
Tìm khắp bốn phương.
Tìm kiếm mỏi mệt
Ở lại một thành
Tạo lập nhà cửa
Năm dục tự vui.
Nhà đó giàu lớn
Nhiều các vàng bạc
Xa cừ mã não
Trân châu lưu ly.
Voi ngựa trâu dê
Kiệu cán xe cộ
Ruộng vườn tôi tớ
Nhân dân rất đông.
Lợi tức xuất nhập
Khắp đến nước khác
Khách thương buôn bán
Không đâu chẳng có.
Ngàn vạn ức chúng
Vây quanh cung kính
Ðược bậc vua chúa
Thương yêu nhớ tưởng.
Quần thần hào tộc
Cũng đều tôn trọng
Vì bởi duyên ấy
Nhiều người lui tới.
Giàu sang như thế
Có thế lực lớn.
Chúng ta hàng Thanh Văn, hôm nay được Ðức Phật thọ ký, cho nên hoan hỉ
hớn hở, được chưa từng có, diệu pháp vô thượng không câu mà tự được. Vì
như đồng tử vô tri chẳng hiểu, bỏ cha trốn đi. ‘’Lang thang các nước‘’: Dụ
cho luân hồi ở trong nhà lửa tam giới. ‘’Hơn năm mươi năm‘’: Biểu thị năm
đường: Trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, và địa ngục. A Tu La tức ở trong năm
đường nầy.
Người cha buồn nhớ, ‘’tìm khắp bốn phương‘’: Tức quán bốn loài sinh (thai
sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh). ‘’Ở lại một thành‘’: Dụ cho đức Phật ở
tại thế giới nầy cứu độ chúng sinh, lại qua nước khác mà thị hiện nhập Niết
Bàn. ‘’Tạo lập nhà cửa‘’: Tạo nhà từ bi, lập phòng tính không. ‘’Năm dục tự
vui‘’: Thọ dụng thắng diệu năm trần, gọi là tính pháp lạc, lương do Phật cư
phương tiện, là thật báo, cũng là tịch quang. Thường tịch quang mới thường
hành biến chiếu tất cả các hữu tình, tìm cơ mà độ. ‘’Vua‘’ dụ cho pháp thân
của Phật và thân tự thọ dụng. Phật là đấng Pháp Vương cho nên thường
được chư Phật hộ niệm. ‘’Quần thần hào tộc‘’: Biểu thị pháp thân Ðại sĩ.
‘’Nhiều người lui tới‘’: Dụ cho mười phương Bồ Tát tới lui nghe pháp.
Mà tuổi già nua
Lại buồn nhớ con.
Sớm tối nghĩ ngợi
Giờ chết sắp đến
Con dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm.
Kho tàng của cải
Phải làm sao đây ?
‘’Mà tuổi già nua‘’: Dụ cho Ðức Phật tuổi đã cao, sẽ chấm dứt việc giáo hóa
chúng sinh, càng thêm buồn nhớ gã cùng tử, ngày đêm suy nghĩ nhớ đến
con, mà con dại tức là hàng nhị thừa, xa cách Phật địa hơn năm mươi bậc, ở
trong năm đường, tất cả pháp tài bảo tàng, làm sao để giao phó ?
Ai ai cũng đều có sinh tử, lại sợ nơi sinh tử, song chẳng biết tu tập Phật pháp
để ra khỏi sinh tử, thật là đáng thương xót !
Xưa có ba ông già rất tâm đầu ý hợp, nên thường tụ lại với nhau.
Ông già lớn tuổi nhất đã tám mươi tuổi, kế đến là ông già bảy mươi tuổi, còn
ông già kia là sáu mươi tuổi. Vào dịp cuối năm thì ba vị nầy tụ lại, khó tránh
khỏi cảnh bùi ngùi than thở, thời gian trôi qua chẳng bao giờ trở lại, mà tuổi
đã già nua. Vị sáu mươi tuổi nói: ‘’Năm nay chúng ta cùng nhau ăn cơm
uống trà, nhưng chẳng biết năm tới ai sẽ ra đi‘’ ! Ông bảy mươi tuổi nghe rồi
nói : ‘’Nầy ông bạn ! Bạn nói xa quá ! Tối nay lên giường, chúng ta cởi giày
cởi vớ ra, sáng mai không biết có còn mang trở lại hay chăng‘’ ? Ông già
tám mươi tuổi nói: ‘’Bạn nói cũng quá xa ! Khi chúng ta thở vào, không biết
có thở ra nữa hay không’’ ! Trong ba người nầy, người già nhất là người
thông minh nhất, hiểu rõ đời người vô thường mỏng manh nơi hơi thở. Song,
người lanh lợi nhất chẳng bằng người tu đạo tức thời niệm Phật, hoặc là bạn
hoài nghi ‘’làm như thế thì không chết sao‘’? Không nhất định là không
chết. ‘’Vậy niệm Phật có ích gì‘’? Tuy nhiên người tu đạo niệm Phật, không
thể tránh khỏi sự chết chóc, nhưng diệu ở chỗ, làm thế nào để chấm dứt sự
chết. Lúc chưa tu đạo, thì sinh mạng ở nơi hơi thở, ở trong sự tu đạo chuyên
cần dụng công có thành quả rồi, thì hơi thở tự như, đến đi tự do, tuy có sinh
tử mà chẳng có sinh tử. Nếu muốn sinh về thế giới Cực Lạc, cho đến tất cả
mười phương thế giới đều được toại tâm như ý.
Khi ấy cùng tử
Tìm cầu cơm áo.
Xóm nầy xóm khác
Nước nầy nước nọ
Hoặc có chỗ được
Hoặc có chỗ không.
Ðói khát ốm gầy
Thân sinh ghẻ lát
Lần lược trải qua
Ðến thành cha ở.
Lúc đó, gã cùng tử vì cầu cơm trợ đạo, áo chánh đạo, mà trôi nổi lang thang
từ xóm nầy qua xóm khác, từ nước nầy qua nước nọ. Ðây là biểu thị mười
hai xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, nhiễm trước sắc thanh hương vị xúc
pháp sáu trần) và mười tám giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức). Mắt thấy
sắc, thì nhãn thức bèn khởi phân biệt tốt sấu; tai nghe âm thanh, thì nhĩ thức
cũng khởi phân biệt tác dụng, cho đến tĩ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức
cũng lại như thế, gặp việc thì phân biệt, đối cảnh thì tâm mê muội.
‘’Hoặc có chỗ được‘’: Biểu thị căn lành hữu lậu. ‘’Hoặc có chỗ không‘’:
Biểu thị căn lành vô lậu, tức đã đoạn trừ sinh tử mà vào Niết Bàn. Chân như
Niết Bàn vốn vô sở đắc, sinh tử tức Niết Bàn, Niết Bàn tức sinh tử, cho nên
gọi là có chỗ không, chẳng có pháp hỉ đại thừa là ‘’đói khác‘’, chẳng có lực
dụng là ‘’gầy‘’, chẳng có công đức lớn là ‘’ốm‘’. Mê hoặc về chân lý mà
khởi kiến hoặc là ‘’thân sinh ghẻ lát‘’. Kiến hoặc là gì ? Tức là ‘’đối cảnh
khởi tham ái‘’, đối cảnh chẳng nhận thức, thường bị cảnh giới lay chuyển.
Kiến hoặc là do vô minh khởi lên, nếu không phá trừ vô minh, thì không thể
trừ được tham ái chấp trước, khiến cho chúng sinh lưu chuyển, do mắt thấy
mà tâm khởi phân biệt tốt, sấu, phải, trái, dài, ngắn, cứ dùng các vọng tưởng,
tư tưởng chẳng thật, cho nên có điên đảo, thế mà một số người đều lấy đó
làm tâm tính, do đó mà bỏ gốc tìm ngọn, mê nơi bổn tính.
Lần lược làm thuê
Bèn đến nhà cha
Lúc đó trưởng giả
Ðang ở trong nhà.
Giăng màn báu lớn
Ngồi tòa sư tử
Quyến thuộc vây quanh
Nhiều người hầu hạ.
Có người tính toán
Vàng bạc châu báu
Tài sản xuất nhập
Ghi vào sổ sách.
Cùng tử thấy cha
Giàu sang quý trọng
Bảo rằng là vua
Hoặc bằng ông vua.
Kinh hãi tự trách
Sao lại đến đây ?
Lại tự nghĩ rằng :
Nếu ta ở lâu.
Sẽ bị ép buộc
Cưỡng sai ta làm
Suy nghĩ vậy rồi
Bèn bỏ chạy đi.
Hỏi thăm xóm nghèo
Muốn đến làm thuê.
Khi gã cùng tử đi khắp nơi làm thuê làm mướn để nuôi thân, lần hồi đến nhà
cha của gã. Kinh văn ở trước nói, người cha đứng bên cửa sổ, chẳng đứng ở
cửa giữa, còn đây thì nói ông trưởng giả ở trong nhà, biểu thị được cả hai
nơi đại thừa và nhị thừa. Lúc đó, gã cùng tử thấy người cha ở trong màng
báu, ngồi ở trên tòa Pháp vương, pháp thân Ðại sĩ và các Bồ Tát đều vây
quanh.
‘’Có người tính toán, vàng bạc châu báu‘’: Bồ Tát hạnh nguyện đếm tính
nhiều việc rõ ràng, cho nên gọi là tính toán. ‘’Tài sản xuất nhập, ghi chép sổ
sách‘’: Dùng quảng, hiển, lược, làm ‘’ghi‘’, thọ quyết là ‘’chép‘’. Bốn hoằng
thệ nguyện là ‘’sổ‘’, tu hành là ‘’sách’’. Bốn hoằng thệ nguyện :
1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Phiền não vô tân thệ nguyện đoạn.
3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Nếu ai phát được bốn hoằng thệ nguyện nầy, thì đã ghi thành Phật đạo.
Gã cùng tử thấy cha giàu sang cao quý, tôn nghiêm chẳng gì sánh bằng, cho
nên bèn nghĩ rằng, đây là vua chăng ? Hoặc là bậc đồng với vua ? Do đó,
kinh hãi nghi hoặc tự trách, không nên đến chỗ nầy. Lại nghĩ rằng : Nếu ở
đây lâu, thì sợ bị ép tu pháp đại thừa, cho nên không dám ở lại lâu, bèn chạy
bỏ đi đến xóm nghèo tu pháp tiểu thừa.
Lúc đó trưởng giả
Tại tòa sư tử.
Xa thấy con mình
Yên lặng nhớ biết
Bèn sai sứ giả
Ðuổi theo bắt lại.
Cùng tử sợ la
Xỉu ngã xuống đất
Người nầy bắt tôi
Chắt sẽ phải chết.
Cũng vì cơm áo
Khiến tôi đến đây
Trưởng giả biết con
Ngu si hèn hạ.
Chẳng tin lời ta
Chẳng tin là cha.
Lúc đó, đức Phật ngự trên tòa sư tử, nhìn xem thì nhận ra gã cùng tử đứng ở
xa, song chưa từng nói với ai về việc nầy, bèn ra lệnh cho Bồ Tát theo đuổi
bắt lại, mang đến trước Ðức Phật. Nhưng gã cùng tử căn tính hạ liệt, nghe
được pháp đại thừa bèn sinh lòng sợ hãi, lại sợ sinh tử, như là trí nhỏ chẳng
hiểu giáo lý đại thừa, cho nên nói là "xỉu ngã xuống đất".
Ông trưởng giả biết con mình ngu độn, kiến thức hẹp nhỏ, tất không tin lời
thật nói thẳng, cho nên vì thật thí quyền, khai diễn pháp nhị thừa. Có người
nói, đứa con bỏ trốn lúc đó còn nhỏ, mà thời gian xa cách mấy mươi năm,
cho đến ngày hôm nay cha con mới gặp lại, lẽ ra thấy mà chẳng biết, thế mà
cha lại nhận ra được người con, đó là lý đương nhiên. Ðây là lời chẳng hư,
song những gì nói ở trong Kinh Pháp Hoa, chẳng phải cha với con ở thế tục,
đây là pháp xuất thế gian. Nói về thế gian, bậc làm cha, tuy rất thương yêu
đối với con cái, song vẫn còn có quan niệm nuôi con để nhờ về tuổi già, đó
là tâm ích kỷ dù ít hay nhiều. Ðức Phật mới là cha lành chân chánh, chẳng
có chút quan niệm nào ích kỷ, thương xót tất cả chúng sinh, đem hết sức lực
để giáo hóa tất cả chúng sinh, mong muốn cho họ sớm thành Phật đạo.
‘’Gã cùng tử là ai" ? Tức là tất cả chúng sinh, cũng là hàng nhị thừa. Các
Ngài tuy có mắt mà chẳng biết Ðức Phật, ngược lại bỏ Phật ma đi, cuối cùng
chìm đắm ở trong biển khổ, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh. Ðến chẳng rõ,
mà đi cũng chẳng biết, cầu danh cầu lợi, khổ cầu được bằng tiến sĩ, thạc sĩ,
song sau khi chết đi, học vấn cũng chẳng mang theo được, sau khi đầu thai
kiếp khác làm người, thì tất cả đều học lại từ đầu, cứ như thế cầu rồi lại mất,
mất rồi lại cầu, đời đời kiếp kiếp, bị dính mắc ở trong sự được mất.
Phật giáo chúng ta phải làm thế nào để liễu sinh thoát tử, biết từ đầu đến và
đi về đâu ? Ðức Phật còn dùng đủ thứ pháp phương tiện, khiến cho chúng ta
ngộ biết nhân duyên đời quá khứ, mà hiểu rõ được vì sao con người có giàu
có nghèo, hoặc đẹp hoặc xấu, và thấy được tất cả vạn sự vạn vật.
Vô minh duyên hành,
Hành duyên thức,
Thức duyên sắc,
Danh sắc duyên lục nhập,
Lục nhập duyên xúc,
Xúc duyên thọ,
Thọ duyên ái,
Ái duyên thủ,
Thủ duyên hữu,
Hữu duyên sinh,
Sinh duyên lão tử.
Như vòng tròn mười hai khoen, là nhân duyên sinh tử của chúng sinh, song
đáng thương xót cho chúng sinh, đều bỏ cha đi, đều bỏ giác hợp trần, không
muốn trở về nhà đó, là cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.
Bèn dùng phương tiện
Sai khiến người khác.
Mắt chột lùn xấu
Chẳng có uy đức
Các ngươi bảo nó
Rằng thuê làm mướn.
Hốt các phân dơ
Trả giá gấp bội
Cùng tử nghe rồi
Vui mừng theo về.
Hốt dọn phân dơ
Làm sạch phòng nhà.
Ông trưởng giả biết gã cùng tử rất hèn hạ, cho nên mới mở bày pháp phương
tiện, sai khiến Bồ Tát ngụy trang làm người một mắt, chẳng có uy đức, đi
đến để khuyên nói. ‘’Chột mắt‘’ dụ cho tiểu trí thiên về không. ‘’Lùn‘’ dụ
cho nguồn bất cùng thật tướng, ‘’sấu‘’ dụ cho chẳng đủ đức hạnh, chẳng có
bốn vô sở úy, nên gọi là ‘’chẳng có uy‘’, chẳng có thường lạc ngã tịnh, nên
chẳng có đức. ‘’Làm sạch phòng nhà‘’, tức là tịnh nhà lục căn và phòng năm
uẩn. Lục căn tức nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý. Lục căn vì lục thức mà tạp nhiễm
với sáu trần : Sắc thinh hương vị xúc pháp, bỏ giác hợp trần, nhiễm trước
sáu trần, không thể liễu ngộ tự tâm, mà nơi nơi bị trần cảnh sở chuyển. Tịnh
sáu căn tức chuyển được thức thành trí, tịnh hóa sáu căn thì trở về nguồn cội,
thấy cảnh rõ tâm, chẳng còn bị sáu trần sở chuyển, đồng thời cũng tịnh hóa
năm uẩn độ tất cả khổ ách.
Trưởng giả trong cửa
Thường thấy con mình.
Nghĩ con ngu dại
Thích làm việc hèn
Do đó trưởng giả
Mặc đồ cũ rách.
Cầm đồ hốt phân
Ði đến chỗ con
Phương tiện gần gũi
Khuyên nhủ siêng làm.
Trả giá gấp bội
Cho dầu thoa chân
Ăn uống đầy đủ
Nệm chiếu dày ấm.
Khuyên răng như vầy:
Ngươi gắng siêng làm
Lại dùng lời dụ
Ngươi như con ta.
Ông trưởng giả biết con bỏ pháp lớn tu pháp nhỏ, ví như Ðức Phật đầu tiên,
vì các đại Bồ Tát diễn nói Kinh Hoa Nghiêm, mà người nhị thừa đều ‘’có
mắt chẳng thấy pháp thân Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo pháp viên đốn‘’.
Cho nên, Phật dùng sức phương tiện, ẩn lớn hiện nhỏ, chẳng hiện thân tướng
tốt ngàn trượng, nhưng hiện tướng là Tỳ kheo một trượng sáu, mặc đồ cũ
rách, cầm đồ hốt phân, người đáng dùng thân nhị thừa được độ, thì hiện thân
nhị thừa mà vì họ thuyết pháp.
‘’Phương tiện gần gũi‘’: Dùng pháp phương tiện để được gần gũi giáo hóa
hàng nhị thừa. ‘’Khuyên nhủ siêng làm‘’: ‘’Khuyên‘’ là biểu thị bốn niệm
xứ, ‘’nhủ‘’ là biểu thị bốn chánh cần. ‘’Trả giá gấp bội‘’: Dụ cho bốn như ý
túc. Dầu thoa chân, dầu trừ gió, biểu thị thiền định; lại hay đi nước, dụ cho
thần thông. ‘’Ăn uống đầy đủ‘’: ‘’Ăn uống‘’ tức là gạo, bột, dấm, muối.
‘’Gạo‘’ biểu thị nhân không, ‘’bột‘’ biểu thị pháp không. Gạo bột hợp lại
biểu thị cho chánh đạo. ‘’Dấm‘’ biểu thị cho vô thường, ‘’muối‘’ biểu thị
cho khổ không. Ví như người ăn gạo bột, thì phải dùng muối dấm và các vị
khác, mới có thể ăn được, con đường tu hành cũng lại như thế. ‘’Nệm chiếu
dày ấm‘’: Dụ cho quán luyện huân tu các thiền định. ‘’Khuyên răn như vầy,
ngươi gắng siêng làm‘’: Khuyên nhủ siêng tu bốn chánh cần, bốn niệm xứ
và bốn như ý túc các pháp, lại dùng lời êm dịu khuyên nhủ, xem gã cùng tử
như con đẻ.
Trưởng giả có trí
Lần cho ra vào
Suốt hai mươi năm
Trông coi việc nhà.
Chỉ chỗ vàng bạc
Trân châu lưu ly
Các đồ xuất nhập
Ðều khiến cho biết.
Vẫn ở ngoài cửa
Trong một am tranh
Tự nghĩ phận nghèo
Ta chẳng có gì.
Ðức Phật dùng đại trí huệ, dần dần khiến cho ra vào, tức là giáo hóa tất cả
chúng sinh, hồi tiểu hướng đại khiến cho vào trí huệ của Phật. ‘’Suốt hai
mươi năm, trông coi việc nhà‘’: Phật dạy Bồ Tát đoạn trừ kiến tư hai hoặc,
với kinh văn ở trước nói hai mươi năm hốt phân, đều chẳng giống nhau.
Gã cùng tử tuy trông coi gia nghiệp của Như Lai, được Phật truyền cho pháp
tạng, mà tự giữ căn cơ nhỏ nhoi, chẳng có phương tiện giáo hóa chúng sinh,
và tịnh hóa quốc độ con đường của Bồ Tát thực hành, ở trong am tranh hàng
nhị thừa.
Cha biết tâm con
Lần đã rộng lớn
Muốn giao của cải
Bèn nhóm thân tộc.
Quốc vương đại thần
Sát lợi cư sĩ
Trong đại chúng nầy
Nói là con ta.
Bỏ ta ra đi
Suốt năm mươi năm
Từ khi gặp con
Ðã hai mươi năm.
Xưa nơi thành nọ
Mất đứa con nầy
Tìm kiếm khắp nơi
Mới đến nơi đây.
Của cải ta có
Nhà cửa nhân dân
Ðều giao cho nó
Ðể nó sử dụng.
Ðức Phật biết gã cùng tử dần dần trừ ngã mạn, tâm lượng rộng lớn, cho nên
muốn truyền cho pháp tạng của Như Lai, bèn nhóm họp thân tộc, quốc
vương đại thần, biểu thị chúng đại Bồ Tát, Sát đế lợi cư sĩ, ở trong các chúng
hội, tuyên bố đây là con của ta, từng bỏ ta trốn đi. ‘’Suốt năm mươi năm‘’:
Biểu thị trầm luân biển khổ sinh tử ở trong tam giới, ở trong năm đường
chúng sinh. ‘’Từ khi gặp con, đã hai mươi năm‘’: Biểu thị người nhị thừa bỏ
tiểu hướng đại, tự làm hốt phân rồi mới gọi là con, tức là chuyển sang pháp
Bồ Tát mà chấp tác gia nghiệp của Như Lai, gọi là hai mươi năm.
Xưa kia, ở tại thành nọ mất đứa con nầy, tìm kiếm đứa con nầy khắp trong
năm đường, mới đến ở nơi nầy, mà bày ra hóa thành, phàm những gì ta có,
gia nghiệp pháp tạng của Như Lai, đều giao phó cho nó, để cho nó tiếp tục
thắp lên ngọn đèn sáng của Phật.
Con nhớ xưa nghèo
Ý chí kém hèn
Nay ở chỗ cha
Ðược nhiều của báu.
Cùng với nhà cửa
Tất cả của cải
Rất đỗi vui mừng
Ðược chưa từng có.
Phật cũng như thế
Biết con thích nhỏ
Chưa từng nói ra
Các ngươi thành Phật.
Chỉ nói chúng con
Ðược pháp vô lậu
Thành tựu tiểu thừa
Thanh Văn đệ tử.
Hàng tiểu thừa ý chí hạ liệt, thủ lợi tứ quả, nay nghe được diệu pháp thâm
sâu vô thượng, thọ ký sẽ thành Phật, được chưa từng có, vui mừng hớn hở.
Phật biết tâm ý của chúng con, ưa thích pháp nhỏ, chưa từng nói các ngươi
sẽ thành Phật, mà nói được các pháp trí giải thoát vô lậu, thành tựu hữu dư
Niết Bàn, quả vị Thanh Văn La Hán.
Phật bảo chúng con
Nói đạo tối thượng
Ai tu pháp nầy
Sẽ được thành Phật.
Con nghe Phật dạy
Vì đại Bồ Tát
Dùng các nhân duyên
Đủ thứ ví dụ.
Bao nhiêu lời lẽ
Nói đạo vô thượng
Hết thảy Phật tử
Theo ta nghe pháp.
Ngày đêm suy gẫm
Tinh tấn tu tập
Khi đó chư Phật
Thọ ký cho họ.
Ông ở đời sau
Sẽ được thành Phật
Các pháp bí tàng
Của tất cả Phật.
Chỉ vì Bồ Tát
Diễn nói việc thật
Mà chẳng vì con
Nói đạo chân yếu.
Phật vì đại chúng nói pháp vô thượng, ai tu tập pháp nầy đều sẽ thành tựu
Phật quả. Con nghe Phật dạy Bồ Tát, Phật dùng đủ thứ phương tiện ví dụ để
giáo hóa, khiến cho chúng con tu chứng, và trong thời gian đó, chư Phật
đồng âm ấn chứng thọ ký bồ đề nói rằng: Các ngươi vô lượng kiếp đời vị lai
sẽ được thành Phật. Tàng bí mật của tất cả mười chư Phật Như Lai, chỉ vì
căn cơ của đại Bồ Tát, diễn nói việc vi diệu như thật, mà chẳng phải vì hàng
nhị thừa nói đạo chân thật chí yếu nầy.
Như cùng tử kia
Được gần người cha
Tuy biết mọi thứ
Tâm chẳng mong cầu.
Chúng con tuy nói
Bảo tàng Phật pháp
Tự chẳng chí nguyện
Cũng lại như thế.
Gã cùng tử được gần gũi Ðức Phật, nghe pháp đại thừa, song nơi pháp chẳng
tu hành, dừng nơi nhị thừa, dù có bảo tàng Phật pháp trước mắt, cũng không
đắc được tơ hào pháp ích. Như nay gã cùng tử dần dần hiểu rõ pháp đại thừa,
thâm nhập tạng pháp của Phật.
Chúng con nội diệt
Tự cho là đủ
Chỉ rõ việc nầy
Chẳng biết việc khác.
Nếu chúng con nghe
Tịnh cõi nước Phật
Giáo hóa chúng sinh
Đều chẳng vui thích.
Đó là tại sao ?
Vì tất cả pháp
Thảy đều không tịch
Không sinh không diệt.
Không lớn không nhỏ
Vô lậu vô vi
Suy gẫm như thế
Chẳng sinh vui thích.
Chúng con từ lâu
Nơi trí huệ Phật
Không tham không chấp
Chẳng có chí nguyện.
Nơi pháp của mình
Cho là cứu kính
Chúng con từ lâu
Tu tập pháp không.
Thoát được hoạn nạn
Khổ não ba cõi
Ở thân cuối cùng
Hữu dư Niết Bàn.
Pháp Phật giáo hóa
Đắc đạo chẳng sai
Tức đã báo đáp
Ân đức của Phật.
Ðại Ca Diếp bạch Phật rằng: ‘’Chúng con nội diệt‘’: Ðã diệt tư hoặc, tự cho
đã đủ. Thường ở trong định diệt trừ phiền não, phá trừ vô minh. Ngừng nơi
trí nhỏ mà chẳng ưa thích trí lớn, tịnh cõi nước Phật, hồi tiểu hướng đại và
việc giáo hóa chúng sinh. Vì sao hàng nhị thừa chẳng tu tập pháp lớn ? Vì họ
chấp nơi pháp không, tự cho rằng mình đắc được các pháp không tịch, thì
không cần giáo hóa chúng sinh, đây là hành vi ích kỷ, chỉ biết lợi mình mà
chẳng biết lợi kẻ khác. Tất cả các pháp, tính tuy là không tịch, vẫn cứu độ
chúng sinh. Sự thật thì chư Phật và chúng sinh hợp hai làm một, Phật tức
chúng sinh, chúng sinh tức Phật. Hàng nhị thừa ngừng ở nơi hóa thành, ví
như những người nầy, trước khi chưa xuất gia thì tinh tấn tu đạo; sau khi
xuất gia rồi, dần dần thối bồ đề tâm, và còn thường biện hộ cho mình: ‘’Tôi
đã thọ giới cụ túc, chẳng tu hành cũng chẳng quan hệ gì, mao bệnh chẳng
cần lo, giải đãi lại có ngại gì’’ ? Ðây là hành vi của hàng nhị thừa, được ít
cho là đủ, tức chẳng lợi mình cũng chẳng lợi kẻ khác.
Chúng con ở trong mê mờ, đêm dài tối tăm, chỉ biết vui nhỏ, sợ khổ cầu
không, phá trừ vô minh phiền não, thoát khỏi ba cõi, trụ nơi hữu dư Niết
Bàn, cho là cứu kính, vì báo ân Phật, song nơi trí huệ của Phật, chẳng biết
trên cầu Phật quả, dưới độ chúng sinh, chỉ cầu sự vui thích của riêng mình,
các vị phải thấy rõ, vì sao Ðức Phật thường trách hành nhị thừa tiêu nhạ bại
chủng, chẳng hành Phật đạo.
Chúng con tuy là
Các hàng Phật tử
Nói pháp Bồ Tát
Ðể cầu Phật đạo.
Mà nơi pháp đó
Tâm chẳng ưa thích
Ðạo sư thấy bỏ
Vì thấy tâm con.
Ban đầu chẳng siêng
Nói có lợi thật
Như trưởng giả giàu
Biết con chí hèn.
Dùng sức phương tiện
Hòa phục tâm con
Sau đó mới giao
Tất cả của cải.
Phật cũng như thế
Hiện việc ít có
Biết thích tiểu thừa
Dùng sức phương tiện.
Ðiều phục tâm con
Mới dạy trí lớn.
Chúng con tuy là đệ tử của Phật, ở trong hội Bát Nhã, mong Phật gia bị, vì
Bồ Tát nói kinh đại thừa, song đối với pháp lớn, chẳng có một tâm niệm ưa
thích, Ðức Như Lai thấy vậy, bèn tạm bỏ pháp lớn, chỉ nói tu tứ diệu đế,
mười hai nhân duyên, thì có thể chứng tứ quả La Hán, chẳng cổ lệ chúng
con tu lục độ vạn hạnh, đạo Bồ Tát, mới có thể thành quả vị Phật, vì Phật
thấy tâm của chúng con chẳng mong cầu pháp lớn vậy.
Phật dùng sức phương tiện, thị hiện làm một vị Tỳ Kheo bình thường để độ
hàng nhị thừa, bày pháp quyền xảo phương tiện, để điều phục tâm của họ,
rồi sau mới khiến cho họ vào trí huệ của Phật.
Chúng con hôm nay
Ðược chưa từng có.
Chẳng phải trước mong
Mà nay tự được
Như gã cùng tử
Ðược vô lượng báu.
Thế Tôn con nay
Ðắc đạo chứng quả
Nơi pháp vô lậu
Ðược mắt thanh tịnh.
Chúng con từ lâu
Giữ giới trong sạch
Mới ngày hôm nay
Ðược quả báo đó.
Pháp của Pháp Vương
Lâu tu phạm hạnh
Nay được vô lậu
Ðại quả vô thượng.
Chúng con hôm nay
Thật là Thanh Văn
Dùng tiếng Phật đạo
Khiến thảy đều nghe.
Chúng con hôm nay
Thật là La Hán
Nơi các thế gian
Trời người ma Phạm.
Khắp trong chúng đó
Ðáng thọ cúng dường.
Chúng con may mắn được truyền thọ mật ý, chỗ xưa kia chưa có, chẳng phải
bổn tâm trước kia mong muốn, mà ngày hôm nay được Phật khai thị, tự
nhiên mà được, thanh tịnh Phật nhãn mà khai tri kiến của Phật. ‘’Ðắc đạo‘’
tức là được đạo thật tướng. Ðắc quả tức là đắc Vô thượng bồ đề đại thừa
Thánh quả. Pháp vô lậu trung đạo bất lậu hai bên .
Chúng con xưa kia lâu dài ở nơi vô minh, tu trì giới hạnh thanh tịnh của Như
Lai, hôm nay mới được nghe Ðức Phật khai quyền hiển thật, chúng con nghe
pháp của Phật như vầy, ngộ biết quả báo thành Phật chân thật. Tóm lại, giữ
gìn giới thanh tịnh mới thành chân thật nhân duyên, cho nên được diệu báo.
Phạm hạnh là thành chân thật liễu nhân, cho nên được diệu quả. Sở tri sở
kiến tức là chánh nhân lý tính pháp thân đức vậy.
Thật là Thanh Văn, thật là A La Hán, xưa kia chúng con nghe tiếng nhập
đạo, tên tiểu thừa Thanh Văn, nay là đại thừa Thanh Văn A La Hán. Viên
mãn sơ trụ vị, một phần chân, tất cả phần chân, tức là phân chứng thập giới
tam đức, song đó là khai quyền hiển thật, cho nên gọi là Thanh Văn A La
Hán. Ở trong tam giới, chư thiên loài người ma vương Phạm vương, ở trong
khắp đại chúng trời người, vì tu trí huệ của Như Lai, đều đáng thọ nhận sự
cung kính cúng dường.
Thân làm người xuất gia, không được vì lợi dưỡng, mà tùy tiện tiếp thọ sự
cúng dường của thí chủ, phải biết nếu như ba tâm chưa đoạn, thì một giọt
nước cũng khó tiêu. Trong kinh có nói: ‘’Tam tâm bất khả đắc‘’. Tam tâm là
tâm quá khứ bất kả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc. Quá
khứ, đã thành quá khứ, cho nên bất khả đắc. Tâm hiện tại, trong sát na thành
ra quá khứ, vô thường. Vị lai thì chưa đến, cho nên nói là bất khả đắc.
Người xuất gia nếu ba tâm chưa thấu rõ, mà thiếp thọ sự cúng dường của thí
chủ, đừng nói đến cơm ăn khó tiêu, dù chỉ một ly nước sạch cũng khó tiêu.
Khi ăn thì quán tưởng ngũ quán. Người chân tu thì dù thép cũng tiêu hóa
được. Ngũ quán là:
1. Kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ: Nghĩa là tính xem công đức của mình
nhiều hay ít, thức ăn đó từ đâu đến.
2. Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng: Nghĩa là xem đức hạnh của
mình đủ hay thiếu, có đáng thọ lãnh sự cúng dường chăng !
3. Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông: Nghĩa là phòng ngừa tâm tạo tội lỗi,
tham lam là gốc.
4. Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô: Nghĩa là thức ăn như thuốc hay,
chữa trị sự khô héo.
5. Vi thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực: Vì thành đạo nghiệp mới thọ thức
ăn nầy.
‘’Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông‘’: Biểu thị bất cứ là thức ăn ngon dở,
chẳng phân biệt, không tham trước, một luật bình đẳng đều thọ dụng.
‘’Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô‘’: Vì trừ tham dục cho nên quán
tưởng thức ăn như uống thuốc để thân thể nầy khỏi khô gầy.
Ân lớn Thế Tôn
Là việc ít có.
Thương xót giáo hóa
Lợi ích chúng sinh
Vô lượng ức kiếp
Ai báo đáp được.
Tay chân cung cấp
Cuối đầu đảnh lễ
Cúng dường tất cả
Ðều chẳng báo được.
Nếu dùng đầu đội
Hai vai mang vác
Trải Hằng sa kiếp
Hết lòng cung kính.
Lại dùng vật ngon
Vô lượng y báu
Và các ngọa cụ
Ðủ thứ thuốc thang.
Ngưu đầu chiên đàn
Và các châu báu
Tạo lập chùa tháp
Y báu trải đất.
Những việc như thế
Ðem cúng dường Phật
Trải Hằng sa kiếp
Cũng chẳng báo được.
Chư Phật ít có
Vô lượng vô biên
Không thể nghĩ bàn
Sức đại thần thông.
Vô lậu vô vi
Vua của các pháp
Hay vì hạ liệt
Nhẫn nơi việc đó.
Hiện tướng phàm phu
Tùy họ mà nói
Phật nơi các pháp
Ðược tự tại nhất.
Biết các chúng sinh
Ðủ thứ ưa muốn
Và những chí lực
Tùy sự kham thọ.
Dùng vô lượng dụ
Vì họ nói pháp
Tùy các chúng sinh
Căn lành đời trước.
Biết đã thành thục
Hoặc chưa thành thục
Ðủ thứ suy lường
Phân biệt biết rõ.
Nơi đạo nhất thừa
Tùy nghi nói ra.
Phật dùng đại từ bi, thí đại ân đức, cứu vớt sáu nẻo tội khổ chúng sinh, khiến
cho các Ngài, trước hết tu tứ Diệu đế, được quả vui lìa biển khổ, kế tiếp phổ
độ mười pháp giới chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, nhập vào tứ
hoằng thệ nguyện, đó là ân lớn của Như Lai.
Vô lượng kiếp đến nay, Phật đều hành Bồ Tát đạo, từng giáo hóa chúng con
pháp đại thừa, tuy tạm thời không thể tự cứu tự độ, song chí nguyện chưa
mất. Nay được nghe lục đô vạn hạnh pháp Bồ Tát, đức hạnh tự lợi lợi tha,
mới là chánh nhân thành Phật. Như việc ít có nầy, chúng con làm sao báo
được ân đức lớn của Phật ?
Nhà lửa ba cõi, đủ thứ khổ thiêu đốt bức bách, Phật hiện ra đời phổ độ chúng
sinh, lợi ích quần sinh, khiến cho chúng con có chỗ về nương tựa.
Sau khi Phật thành đạo, đáng thọ sự vui tịch diệt vô vi, song vì thương xót
chúng sinh, chẳng sợ sinh tử, vào đời ác năm trược nầy để cứu độ, dùng
pháp quyền xảo phương tiện dạy năm giới, mười điều lành, rưới nước lạnh
vào mặt, khiến cho tỉnh ngộ, trừ khử đi tham dục.
Phật dùng tâm đại bi, muốn cho chúng sinh sớm thành Phật đạo, mà diễn nói
Kinh Hoa Nghiêm, song chúng sinh căn cơ còn nông cạn, cơ duyên chưa
chín mùi, chưa hiểu pháp lớn, vì lẽ đó cho nên Phật ẩn lớn hiện nhỏ, hiện
tướng Tỳ Kheo cao một trượng sáu, mới được gần gũi chúng sinh, xem căn
cơ của họ mà tuỳ nghi hoá độ. Phương tiện gần gũi, với giá một ngày, đây là
Phật trợ giúp chúng sinh đoạn trừ kiến hoặc.
Hàng nhị thừa trừ kiến, tư, hai hoặc rồi, thì dần dần tâm thể tương ưng với
Phật, cho nên Phật quở trách, khiến cho họ hổ thẹn pháp nhỏ mà hâm mộ
pháp lớn, đây là Phật khiến cho họ trông coi gia nhiệp của Như Lai, vàng
bạc kho tàng đều phải biết hết, đây là ân trang nghiêm do Phật ban tặng.
Như vậy rồi, Phật thấy cơ duyên thành thục, bèn nhóm họp thân tộc, ở trong
chúng hội, tuyên nói họ là con của Phật, và giao phó cho gia nghiệp, chẳng
cầu mà tự được, nghĩa là hàng nhị thừa tương lai cũng sẽ thành Phật, ngồi ở
trên tòa báu Pháp vương, đây là Như Lai ban tặng tòa ân vậy.
Ngồi trên Phật tòa, thân ý thơ thới, khoái lạc yên ổn, dùng tiếng Phật đạo
khiến cho tất cả chúng sinh được nghe, rộng khắp trong trời người, đáng thọ
nhận sự cúng dường, khiến cho chúng con đầy đủ ân đức tự lợi lợi tha, đó là
thâm ân do Phật ban tặng cho, dù chúng con dùng chân tay cung cấp, cuối
đầu đảnh lễ cung kính, cho đến đầu đội hoặc hai vai mang vác, cũng không
thể báo đáp được ân đức của Phật.
Ngưu đầu chiên đàn, trong Kinh Hoa Nghiêm nói, lìa khỏi núi cấu, nếu dùng
để đốt thân, lửa không thể cháy.
Vô lượng thần thông việc không thể nghĩ bàn của Phật, vô lậu vô vi, vua của
các pháp, vì dùng từ bi, hay vì kẻ căn cơ hạ liệt hèn kém, nhẫn nại điều hoà,
tùy theo loài đáng giáo hóa mà hiện tướng phàm phu. Phẩm tính của chúng
sinh hèn kém, song Phật dùng đại trí huệ biết được căn tính của họ thành
thục, lại dùng đại bi trải qua ngàn kiếp, chẳng từ khổ nhọc cứu vớt tất cả tội
khổ chúng sinh.
Ðời người như một tuồng hí kịch, đời nầy đóng vai cha, đời sau đóng vai
con. Cha con, con cha, quan hệ như thế, nên đời đời tiếp nối không ngừng,
hoặc chẳng làm con với cha, mà làm thân tộc bạn bè .v.v. Tóm lại, đời người
ở trên sân khấu, ai ai cũng đều đóng vai của mình, vỡ kịch chấm dứt thì
người lìa tan, lại đi diễn vỡ tuồng khác, cứ như thế mà trải qua vô lượng kiếp
đến nay chúng sinh đều diễn kịch, luân hồi trong sáu nẻo. Chúng ta hãy sớm
tỉnh giác, biết đường mê mà quay về !
Phật khéo dùng pháp môn đốn tiệm, nhậm vận tự tại, giáo hóa chúng sinh,
tùy theo các căn cơ hạnh nghiệp của mỗi loài đáng giáo hóa, thì hiển thị
phân biệt nói pháp tối hy hữu nhất, nơi một Phật thừa đạo vô thượng, mà
phương tiện tùy nghi nói làm ba thừa.
---o0o---
Quyển 3
Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
Dược là thuốc trị bệnh, thảo là thảo mộc (cỏ), cũng dụ cho chúng sinh thế
tục. Nếu có bệnh thì giáo pháp của Như Lai là thuốc, quán sát căn cơ nói
pháp, tùy theo bệnh mà cho thuốc. Cần phải có căn cơ và giáo pháp tương
ưng, thì thuốc chữa trị mới hay. Cho nên phẩm nầy, Ðức Phật dùng cỏ thuốc
làm ví dụ, chữa trị bệnh thân và tâm của chúng sinh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ngài Ma Ha Ca Diếp, và các vị đại đệ tử : Lành
thay, lành thay ! Ca Diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai, đúng
như lời các ông vừa nói. Như Lai còn có vô lượng vô biên A tăng kỳ công
đức, dù các ông trải qua vô lượng ức kiếp, nói cũng không hết được.
Lúc đó, Ðức Phật bảo Ngài Ca Diếp và các vị đệ tử trong pháp hội : Lành
thay, lành thay ! Ca Diếp nói thật là hay, ông thật lãnh hội được tâm ý của
Như Lai, pháp của Như Lai nói, đạo lý của ông nói, tơ hào chẳng sai. Như
Lai chẳng có bờ mé, A tăng kỳ, vô lượng số mà công đức của Phật cũng vô
lương vô biên. Dù các ông có trải qua vô lượng ức kiếp, nói cũng chẳng bao
giờ hết được, các ông hằng ngày giảng nói, cũng không nói hết được công
đức nầy.
Ca Diếp nên biết ! Như Lai là vua của các pháp, nếu có nói ra lời gì, đều
không hư vọng, trong tất cả các pháp, Phật đều dùng trí huệ phương tiện mà
diễn nói, pháp của Phật nói ra, thảy đều đến nơi Nhất thiết trí.
Ca Diếp ông nên biết, Như Lai là vua của tất cả các pháp, pháp của Như Lai
nói, đều là pháp chân thật không hư. Tất cả pháp bao quát đại thừa, nhị thừa,
và tam thừa. Ðại thừa là Phật thừa, nhị thừa là Thanh Văn Duyên Giác thừa,
tam thừa là Bồ Tát thừa. Như Lai đều khéo léo, dùng phương tiện diễn nói
diệu pháp, đều dùng (trí huệ) Bát nhã ba la mật đa, Nhất thiết trí, Nhất thiết
chủng trí để nói pháp.
Như Lai quán sát, biết được chỗ quy về của tất cả các pháp, cũng biết được
tâm lý trong thâm tâm của tất cả chúng sinh, thông đạt vô ngại, và thấu rõ rốt
ráo hết các pháp, mở bày Nhất thiết trí huệ cho chúng sinh.
Phật có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông. Ba thân là :
Pháp thân
Hóa thân
Báo thân.
Bốn trí là :
Ðại viên cảnh trí
Diệu quán sát trí
Bình đẳng tính trí
Thành sở tác trí.
Năm nhãn là :
1. Phật nhãn
2. Pháp nhãn
3. Huệ nhãn
4. Thiên nhãn
5. Nhục nhãn.
Sáu thông là :
1. Thiên nhãn thông
2. Thiên nhĩ thông
3. Tha tâm thông
4. Túc mạng thông
5. Thần túc thông
6. Lậu tận thông.
Như Lai dùng trí huệ quán sát, mà biết được tất cả các pháp. Pháp có tám
muôn bốn ngàn thứ, nếu dùng mỗi một pháp để nói, thì phí thời gian lâu dài,
cho nên nói tất cả các pháp. Các pháp quy về đâu ? Phật nói tất cả các pháp
chẳng lìa tất cả tâm, tất cả pháp sinh ra, cũng vì sở hiện của tâm vậy, do đó,
Phật mới biết được tâm lý của tất cả chúng sinh. Như trong Kinh Kim Cang
có nói:
‘’Chúng sinh có bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy‘’.
Chúng sinh khởi tâm động niệm, Phật đều thấy rõ như chỉ bàn tay, chẳng có
gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy, thông đạt vô ngại, mới có thể
mở bày Nhất thiết trí huệ cho tất cả chúng sinh.
Ca Diếp ! Ví như núi sông, khe suối, đất đai, trong ba ngàn đại thiên thế
giới, sinh ra cây cối lùm rừng, và các cỏ thuốc, bao nhiêu thứ, loại, tên gọi,
màu sắc, đều khác nhau. Mây dày phủ khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đồng
thời đều mưa xuống như nhau, thấm nhuần hết thảy cây cối lùm rừng và các
cỏ thuốc. Cây nhỏ rễ nhỏ, nhánh nhỏ lá nhỏ; cây vừa rễ vừa, nhánh vừa lá
vừa; cây lớn rễ lớn, nhánh lớn lá lớn. Các cây lớn nhỏ, tùy theo sự lớn, vừa,
nhỏ, mà hấp thụ khác nhau. Một đám mây mưa xuống, mà tùy theo giống
loại cây cỏ, mà được sinh trưởng, đơm hoa kết trái, tuy là một mảnh đất sinh
ra, một trận mưa thấm nhuần, mà các cây cỏ mỗi thứ, đều có sự khác nhau.
Ca Diếp ! Ví như ba ngàn đại thiên thế giới, một mặt trời mặt trăng, một núi
Tu Di, một bốn châu thiên hạ, cộng lại làm một thế giới. Một ngàn mặt trời
mặt trăng, một ngàn núi Tu Di, và một ngàn bốn thiên hạ làm một tiểu thiên
thế giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới, làm một trung thiên thế giới. Một ngàn
trung thiên thế giới, làm một đại thiên thế giới, vì ba lần một ngàn, cho nên
gọi là ba ngàn đại thiên thế giới.
Ở trong sơn, hà, đại địa, khe suối, sinh ra các thứ cây cối, hoa, cỏ, lùm rừng,
đều có tên gọi và màu sắc khác nhau. Trên bầu trời phủ đầy mây dày đặc,
che khắp ba ngàn đại thiên thế giới đều như nhau, mưa xuống cũng đều như
nhau. Tất cả thân, rễ, cành, lá, của cây cối hoa cỏ, đều tùy theo giống loại
lớn, vừa, nhỏ, mà hấp thụ lượng nước khác nhau. Thân rễ cành lá lớn, thì
hấp thụ nhiều, thân rễ cành lá vừa, thì hấp thụ ít hơn, thân rễ cành lá nhỏ, thì
hấp thụ càng ít hơn. Ðây cũng là phẩm ví dụ phân biệt lớn, vừa, nhỏ. Tất cả
cây cỏ vốn từ một mảnh đất sinh ra lớn lên, mà mưa xuống cũng một lượng
nước giống nhau, song vì thân rễ cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, nên sức hấp thụ
lượng nước đều khác nhau. Song, vẫn lớn lên đơm hoa kết quả như nhau. Ðó
là Phật ví dụ căn cơ của chúng sinh, tất cả cây cối hoa cỏ lùm rừng, có phân
ra lớn, vừa và nhỏ.
Ca Diếp nên biết ! Như Lai cũng lại như thế, xuất hiện ra đời như vầng mây
lớn, dùng âm thanh lớn, vang khắp thế giới trời, người, A tu la. Như vầng
mây lớn kia, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ở trong đại chúng mà
xướng lời nầy : Ta là Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc,
Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư,
Phật, Thế Tôn. Người chưa được độ, thì khiến cho được độ, người chưa
hiểu, thì khiến cho được hiểu, người chưa an, thì khiến cho được an, người
chưa được Niết bàn, thì khiến cho được Niết bàn. Ðời nầy đời sau, Phật đều
biết đúng như thật. Ta là bậc Nhất thiết trí, bậc thấy tất cả, bậc biết đạo, bậc
khai mở đạo, bậc thuyết đạo. Các ông : Trời, người, A tu la, đều nên đến đây
để nghe pháp.
Ca Diếp ! Ông nên biết, Như Lai cũng như thế. Ta xuất hiện ra đời giống
như vầng mây lớn hiện ra đời, vì đại sự nhân duyên giáo hóa chúng sinh,
mới xuất hiện ra đời. Do đó, dùng tiếng pháp âm lớn nhất vang khắp, nói với
thế gian trời, người, A tu la, pháp của ta nói như vầng mây lớn, che khắp ba
ngàn đại thiên thế giới, ở trước mọi người nói : Ta là Như Lai.
Tại sao Phật vẫn còn có cái ‘’Ta‘’? Kỳ thật, nếu minh bạch được ‘’Như Lai‘’
thì chẳng có cái ‘’ta‘’; Như Lai tức là ngồi đạo như thật, lai thành chánh
giác. Ví như lúc giảng Kinh, người thông minh thì nhớ nhiều nhất, người
trung bình thì nhớ ít hơn một chút, người ngu si thì nhớ rất ít. Cũng như trời
mưa xuống, tùy theo cây cối hoa cỏ lớn nhỏ khác nhau, nên hấp thụ lượng
nước cũng khác nhau. Ðồng lý ấy, bậc trí huệ cao thì được huệ nhiều một
chút, kẻ trí huệ ít thì được ít huệ. Mọi người đều đang nghe Kinh, song trình
độ hiểu biết đạo lý chẳng giống nhau. Có người nghe rồi, thì biết những cây
cối hoa cỏ nầy là ví dụ cho người, hoặc có người biết mưa xuống hoặc mây
dày phủ giăng, là chỉ Phật đang nói pháp. Nếu chẳng hiểu thì sẽ nói : ‘’Tôi
chẳng hiểu chút nào, sao cứ nói nào là cây cối hoa cỏ‘’ ! Nếu biết mình một
chút cũng chẳng minh bạch, tức là có một sự biết mình chẳng minh bạch, tức
cũng là đang bắt đầu đi trên con đường minh bạch. Nhất là người chưa nghe
qua Phật pháp, khi nghe lần đầu tiên, thì chắt chắn chẳng hiểu. Song, nếu
biết mình không minh bạch, đó là đã minh bạch một chút. Hôm nay một
chút, ngày mai một chút, từng chút từng chút tích lũy dần dần, sẽ tụ ít thành
nhiều.
‘’Như Lai‘’ còn có mười ý nghĩa khác :
1. Ứng Cúng: Ðáng tiếp nhận sự cúng dường.
2. Chánh Biến Tri: Biết vạn pháp duy tâm là chánh tri, biết tâm sinh vạn
pháp là biến tri.
3. Minh Hạnh Túc: Có trí huệ quang minh, tu hành đến quả vị viên mãn.
4. Thiện Thệ: Ðã đi đến nơi tốt lành.
5. Thế Gian Giải: Trên thế gian chẳng có ai hiểu biết hơn Ngài.
6. Vô Thượng Sĩ: Chẳng có ai cao hơn Ngài.
7. Ðiều Ngự Trượng Phu: Bậc đại trượng phu điều phục và chế ngự được tất
cả chúng sinh.
8. Thiên nhân sư: Thầy của chư thiên và loài người.
9. Phật.
10. Thế Tôn: Là bậc tôn kính ở thế gian và xuất thế gian.
Cho nên, Phật có đủ thứ nhân duyên công đức, hay khiến cho người chưa
được độ thì được độ, độ họ đến chỗ chẳng còn thị phi tốt xấu, thiện ác sinh
tử. Ðồng thời cũng khiến cho người không an lạc thì được an lạc, khiến cho
người chưa được Niết Bàn thì được: Thường, lạc, ngã, tịnh, vui tịch diệt. Ðối
với đời này, đời sau và tất cả, ta đều thấu rõ biết được chân thật, thấy được,
mà còn biết khai ngộ tu đạo, giảng kinh thuyết pháp, khai diễn đủ thứ pháp
môn tu hành. Các ông trời, người, A tu la đều nên đến đây để nghe kinh
nghe pháp.
Ðồng lý ấy, tại pháp hội nghe kinh nầy, ngoài các vị ra, còn có thiên long bát
bộ. Nếu bạn đã khai mở ngũ nhãn lục thông thì sẽ nhìn thấy rất rõ ràng.
Bấy giờ, có vô số ngàn vạn ức loại chúng sinh, đều đến chỗ đức Phật để
nghe pháp. Lúc đó, đức Như Lai quán sát các căn lợi độn, tinh tấn, hay giải
đãi, của các chúng sinh đó. Tùy theo sự kham nhận của họ, mà vì họ nói
pháp, đủ thứ vô lượng, đều khiến cho họ vui mừng, mau được lợi lành. Các
chúng sinh đó, nghe pháp đó rồi, hiện đời được yên ổn, đời sau sinh vào chỗ
tốt lành, được thọ hưởng niềm vui trong đạo, cũng được nghe pháp. Nghe
pháp rồi, lìa được các chướng ngại, ở trong các pháp, tùy theo sức của mình
kham được, dần dần được vào đạo.
Lúc đó, có vô số ngàn vạn ức loài chúng sinh, đến pháp hội nầy, nghe Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa. Ðức Như Lai quán sát tỉ mỉ nhân duyên của chúng
sinh, biết họ có rất nhiều căn cơ, có người lợi căn rất thông minh, cũng có
những người ngu si ám độn, có những người dũng mãnh tinh tấn, cũng có
người lười biếng giải đãi. Do đó, Phật vì người tinh tấn nói pháp tinh tấn, vì
người giải đãi nói pháp giải đãi, khiến cho họ nỗ lực tiến tới, tùy thuận căn
tính của họ, đáng tiếp thọ pháp gì thì nói pháp đó, nếu không thể tiếp thọ thì
chẳng vì họ nói pháp nầy. Cho nên, ban đầu Phật chẳng nói thật pháp, chỉ
nói quyền pháp, dùng đủ thứ vô lượng pháp môn, vì vô lượng loài chúng
sinh mà nói, mục đích khiến cho chúng sinh vui mừng tin nhận thọ trì. Do sự
thích nghe pháp, mà dần dần sẽ đi trên con đường của Phật tu học, sẽ nhanh
chóng đắc được lợi ích. Chúng sinh nghe pháp rồi, hiện đời được yên ổn, đời
sau được sinh về cõi trời, hoặc sinh vào chỗ giàu sang ở nhân gian, đời đời
kiếp kiếp có thể nghe pháp. Tu Phật đạo đắc được đủ thứ khoái lạc, cũng chỉ
có nghe Phật pháp mới thấu rõ lý, mới lìa được đủ thứ phiền não chướng
ngại. Như vậy, rất dễ dàng tùy sức của mỗi người mà vào đạo. ‘’Ðạo‘’ là
giai đoạn khai ngộ, dần dần đạt đến được quả vị liễu sinh thoát tử.
Như vầng mây lớn đó, mưa xuống khắp tất cả cây cối lùm rừng, và các cỏ
thuốc, tùy theo giống loài mà thấm nhuần đầy đủ, đều được lớn lên. Như Lai
nói pháp, một tướng một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ, tướng sinh
diệt, rốt ráo đến nơi Nhất thiết chủng trí. Nếu có chúng sinh nào, nghe được
pháp của Như Lai nói, hoặc thọ trì đọc tụng, theo lời nói mà tu hành, thì sẽ
được công đức, tự mình chẳng hay biết. Tại sao ? Vì chỉ có Như Lai mới biết
được, chủng tử sắc tướng thể tính của chúng sinh đó, nghĩ việc gì, niệm việc
gì, tu việc gì, nghĩ thế nào, nhớ thế nào, tu thế nào ? Dùng pháp gì để nghĩ,
dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để tu ? Dùng pháp gì được pháp gì ?
Chúng sinh trụ đủ thứ các bậc, chỉ có Như Lai thấy được như thật, thấu rõ
chẳng có chướng ngại.
Phật nói pháp giống như vầng mây mưa xuống, cây cối hoa cỏ lùm rừng, là
chỉ tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh gồm có: Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh
Văn, Trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Tùy theo chủng
tính khác nhau của họ mà thuyết pháp, khiến cho họ được sinh trưởng.
Giống như trời mưa xuống thấm nhuần đầy đủ, cây cối cỏ thuốc đều được
lớn lên. Phật nói pháp là một tướng một vị: Một tướng là chân như thật
tướng của tất cả chúng sinh. Chân tướng tức là nhất địa. Ðã chứng được
chân lý nhất thừa gọi là nhất vị. Tất cả chúng sinh chưa giải thoát, đều khiến
cho họ được giải thoát; chúng sinh chưa sinh trưởng thì khiến cho họ sinh
trưởng; chúng sinh đã được sinh trưởng thì khiến cho được giải thoát, lìa
khỏi tướng khổ não, tướng sinh diệt. Ðắc được trí huệ của Phật, tức cũng là
Nhất thiết chủng trí. Giả như, có loại chúng sinh nghe Phật pháp rồi, bèn y
theo pháp tu hành, thì Phật dạy họ tu như thế nào. Phật pháp là đại đồng tiểu
dị, giống như chúng ta hiện nay nghe pháp, công đức và quả báo đắc được
không thể nghĩ bàn, song chính mình chẳng biết ! Tại sao ? Chỉ có Ðức Như
Lai mới biết bốn pháp của loại chúng sinh nầy: Chủng tướng thể tính.
‘’Chủng‘’ là chủng tử bổn thân của chúng sinh, chủng tử nầy có thể gieo
trồng vào một trong mười pháp giới nào bất cứ, hoặc hạt giống Phật, hạt
giống bồ đề, hạt giống Duyên Giác, hạt giống Thanh Văn, hạt giống chư
thiên, hạt giống loài người, hạt giống địa ngục, hạt giống ngạ quỷ, hạt giống
súc sinh. ‘’Tướng‘’ là pháp bên ngoài, cũng là sắc. ‘’Thể‘’ là chủ thể, trong
thân thể có chủ tể. ‘’Tính‘’ là đối bên trong mà nói, tức là bốn pháp nầy.
Ba pháp là pháp nghe, pháp suy nghĩ, pháp tu (văn, tư, tu). Văn huệ tức là
nghe kinh nghe pháp nhiều lần, thì sau đó trong sự bất tri bất giác sinh ra trí
huệ. Nếu chẳng nghe pháp, thì dù người thông minh thế nào cũng chẳng
hiểu, đừng nói đến khai mở trí huệ. Tư huệ tức là đả tọa tham thiền, dùng tư
duy huệ tu tập. ‘’Thiền na‘’ dịch là tĩnh lự, tẩy sạch niệm lự cho thanh tịnh
thì sẽ phát huệ. Con người trước hết phải có văn huệ, sau đó mới phát tư
huệ; phải đạo thì tiến, trái đạo thì lùi. Tư tưởng sáng suốt thì phải dụng công
tu hành, sớm cũng suy gẫm, tối cũng suy gẫm, sớm tối đều phải dũng mãnh
tinh tấn tu hành, song phải dùng trí huệ để tu, đừng có tu đuôi luyện mù, mọi
người tiến tới con đường Phật đạo, còn bạn thì ngược lại chạy hướng khác.
Hai pháp là nhân quả. Một pháp là pháp Nhất thiết đạo chủng trí, là chân
thật trí, tức cũng là một thật tướng. ‘’Niệm việc gì’’ ? Dùng tâm niệm, niệm
việc Phật. ‘’Nghĩ việc gì’’ ? Nghĩ việc pháp. ‘’Tu việc gì’’ ? Tu việc Tăng.
Thế thì làm thế nào để nhớ nghĩ tu Phật, pháp, Tăng ? Tức là từ từ, mỗi phút
mỗi giây cũng không sao quên được Phật pháp tăng. Trên phương diện tư
tưởng phải bình tâm tĩnh khí, không khởi vọng tưởng, suy gẫm đạo lý Phật
pháp tăng, tinh tấn tu hành. ‘’Dùng pháp gì niệm’’ ? Dùng chánh pháp niệm.
‘’Dùng pháp gì nghĩ’’ ? Dùng chánh pháp nghĩ. Ai dùng pháp gì tu thì được
pháp đó. Dùng Phật pháp thì được pháp của Phật, dùng ma pháp thì được
pháp của ma. Trồng nhân gì thì được quả đó, nhân như vầy, quả như vầy.
Thế mà chúng sinh gặp đủ thứ cảnh giới mà không tự biết được, chỉ có Phật
thấy như thật, triệt để thấu hiểu chúng sinh bậc thượng trung hạ, thấu suốt
thủy chung trong ngoài tất cả sinh tử. Thế mà, chúng ta chúng sinh minh
bạch sinh, mà chẳng hiểu rõ tử; minh bạch tử, mà chẳng minh bạch sinh.
Chẳng biết bắt đầu cũng chẳng biết điểm cuối, vì chẳng thấu suốt mới có
chướng ngại. Chỉ có Phật mới chân chánh thấu suốt chẳng có gì chướng
ngại. Do đó, có bài kệ rằng:
‘’Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não
Nguyện được trí huệ hiểu chơn thật
Nguyện khắp tai chướng đều tiêu trừ
Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo‘’.
Ba chướng là: Nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Ý của bài
kệ nầy là nguyện tất cả tai chướng khắp thế giới như động đất, nạn gió, nạn
nước, nạn hạn hán, nạn lửa .v.v., đều tiêu trừ, lại nguyện đời đời kiếp kiếp
đều tu Bồ Tát đạo.
Như các cây cối lùm rừng cỏ thuốc kia, chẳng tự biết tính thượng trung hạ.
Như Lai biết pháp một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ,
tướng sinh diệt, tướng rốt ráo Niết bàn thường tịch diệt. Cuối cùng trở về
không. Phật biết vậy rồi, bèn quán tâm mong muốn của chúng sinh, mà dìu
dắt họ, cho nên chẳng vì họ vội nói Nhất thiết chủng trí.
Ca Diếp ! Các ông rất là hi hữu, biết Như Lai tùy nghi nói pháp, hay tin nhận
thọ trì. Tại sao ? Vì chư Phật Thế Tôn tùy nghi nói pháp, khó hiểu khó biết.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:
Tất cả chúng sinh, đắc được sự thấm nhuần mưa pháp của Phật mà chẳng tự
biết, đây cũng giống như cây cối lùm rừng, hoa, cỏ, cỏ thuốc, chẳng biết tính
chất của mình có phân ra thượng trung hạ. Ðức Như Lai biết tâm tính của
chúng sinh vốn đầy đủ tướng chân như. Pháp một vị, cùng tu hành chứng
được diệu lý, gọi là pháp một vị.
‘’Tướng giải thoát‘’, bổn lai cũng chẳng có tướng giải thoát, chẳng lìa
tướng, chẳng diệt tướng, chỉ vì chúng sinh có chấp trước, mới nói có tướng
giải thoát. Tức nhiên ‘’lìa tướng‘’ sao còn có ‘’tướng‘’? Tóm lại, quét tất cả
pháp, lìa tất cả tướng, một pháp cũng chẳng tồn tại, mới được rốt ráo Niết
Bàn thường lạc ngã tịnh, tức là tướng thường tịch diệt, cho đến một cái diệt
cũng chẳng có; cũng là tướng không, cho đến không cũng chẳng có. Phật
biết tất cả tướng nầy, vốn chẳng có pháp có thể nói, vô tướng khả đắc, song
trong tâm chúng sinh còn có tham dục, nếu ban đầu đối với họ nói gì cũng
chẳng có, ‘’một pháp chẳng lập, vạn pháp đều không‘’, thì chúng sinh sẽ
không tin, mà còn phỉ báng Phật pháp. Phật quán sát tâm của chúng sinh, họ
có rất nhiều tập khí mao bệnh, muốn cho họ từ từ trừ khử tập khí thì họ mới
tin; nếu muốn họ một phen trừ khử đi nhiều mao bệnh tập khí, để trở về
không, thì không thể nào được. Cho nên, một mặt vì hộ trì Phật pháp, mặt
kia cũng không để cho họ sinh tâm phỉ báng, do đó Phật chẳng vội vàng nói
liền pháp Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí là thật tướng Bát Nhã,
Phật thấy căn tính của chúng sinh chưa thành thục, nên chẳng nói thật tướng
Bát Nhã.
Phật nói: ‘’Ca Diếp ! Các ông hàng Thanh Văn rất là hi hữu. Tại sao ? Vì
các ông hiểu được Phật tùy theo cơ nghi, căn tính, nhân quả của chúng sinh,
mà vì họ nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh tin nhận lãnh thọ, vì pháp của
Phật nói là diệu pháp thù thắng vô thượng, song chẳng dễ gì minh bạch,
cũng chẳng dễ gì hiểu được, cho nên Phật dùng tâm đại từ bi thuật lại nghĩa
lý ở trên, bèn dùng kệ để nói.
Pháp Vương phá các cõi
Xuất hiện ra nơi đời
Tùy sở thích chúng sinh
Nói đủ thứ diệu pháp.
Phá các cõi (hữu), ‘’hữu‘’ là gì ? Nhân quả chẳng mất là hữu. Phật có thể
phá được nhân quả, trước kia nhân quả của bạn trồng, lúc bạn học Phật rồi,
thì có thể dừng lại. Trồng nhân lành được quả lành, trồng nhân ác được quả
ác. Tại cảnh giới của chúng sinh mà nói, thì nhân quả đều là hữu. Thành
Phật quả rồi, thì siêu việt được nhân quả, song đây tuyệt đối chẳng phải bát
vô nhân quả. Phật đã vượt ra ‘’phá các cõi‘’.
‘’Pháp vương‘’ là vua của các pháp, cũng là vua thuyết pháp. Tương lai các
bạn xuất gia thuyết pháp, cũng phải giống như vua của các pháp. Học âm
thanh "bát âm tứ biết" của Phật. Bây giờ, giảng kinh thuyết pháp, cũng là
thay thế vua của các pháp thuyết pháp. Phật là vì phá ‘’ngã‘’ mà xuất hiện ra
đời, song vẫn phải tùy sở thích của chúng sinh, trước hết phải khiến cho họ
hoan hỉ, sau mới nói đủ thứ pháp. Pháp của Phật nói được phân ra năm thời
tám giáo. Năm thời là:
1. Thời Hoa Nghiêm.
2. Thời A Hàm.
3. Thời Phương Ðẳng.
4. Thời Bát Nhã.
5. Thời Pháp Hoa, Niết Bàn.
Tám giáo là: Tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, mật, bất định giáo.
Ðức Như Lai tôn trọng
Trí huệ rất sâu xa
Lâu chẳng nói pháp nầy
Không vội vàng nói ra.
Ðức Như Lai tôn trọng thật tướng Bát Nhã, tức cũng là cung kính hộ trì Bát
nhã. Bát nhã là Bát nhã của chúng sinh, vì Bát nhã thật tướng nầy quá cao
sâu, rộng lớn, chẳng đối cơ với một số hạng người tiểu thừa, cho nên không
thể vì họ nói pháp đại thừa. Cho nên, từ thời Hoa Nghiêm đến thời Pháp Hoa
Niết Bàn, trải qua hơn ba mươi năm, mà Phật chẳng nói thật giáo, chỉ nói
quyền giáo. Thật giáo là thật tướng Bát nhã, chỉ một Phật thừa, chứ chẳng có
thừa nào khác. Ðạo lý nầy rất lâu cũng không nói, vì sao không nói ? Vì
chúng sinh chẳng những không tin mà còn phỉ báng. Vì đây là pháp môn thù
thắng tạm thời chẳng nói, đủ thấy Phật đầy đủ sức nhẫn nại.
Người trí nếu nghe được
Bèn sinh tâm tin hiểu
Kẻ vô trí nghi hoặc
Vĩnh viễn mất giống Phật.
Chúng sinh nào có trí huệ nghe được diệu pháp nầy rồi, thì sinh tâm tin
nhận, biết đây là pháp đại thừa thì họ sẽ khai ngộ. Song, đối với kẻ vô trí mà
nói thật pháp, thì họ sẽ sinh nghi hoặc, họ bảo pháp thật là pháp giả. Trong
Phật giáo đại thừa, người vốn vô vật, cũng chẳng cần giải nói, vốn chẳng có
tướng hợp, tự nhiên cũng chẳng có tướng lìa; vốn chẳng có tướng sinh cũng
chẳng có tướng diệt. Nếu đối với kẻ vô trí mà nói các pháp đều là không,
không, có phải gì cũng là không chăng ? Chẳng có gì để học chăng ?
Một khi họ sinh ra tâm nghi hoặc, thì đoạn trừ hạt giống đại thừa, tức cũng
là đoạn hạt giống Phật, cũng là đoạn hạt giống chúng sinh, cho nên nói là
‘’Vĩnh viễn mất giống Phật‘’.
Do đó, nầy Ca Diếp !
Tùy sức họ nói pháp
Dùng đủ thứ nhân duyên
Khiến họ được chánh kiến.
Vì cớ đó, nầy Ca Diếp ! Ông phải minh bạch Phật tùy theo phương tiện thiện
xảo nói pháp, dùng đủ thứ pháp, đủ thứ duyên, khiến cho chúng sinh được
chánh tri chánh kiến, chẳng sinh tà kiến.
Ca Diếp ông nên biết !
Ví như vầng mây lớn
Nổi lên trong thế gian
Che phủ khắp tất cả.
Ca Diếp ! Các ông đều phải biết, Như Lai nói pháp giống như vầng mây lớn,
xuất hiện nơi thế gian, ở trong hư không che khắp tất cả ba ngàn đại thiên
thế giới.
Mây trí huệ đượm nhuần
Ánh chớp sáng chói lòa
Tiếng sấm vang động xa
Khiến chúng sinh vui đẹp.
Vầng mây lớn nầy là vầng mây trí huệ, lượng mưa đượm nhuần tất cả tâm
chúng sinh. Quang minh Phật giáo như ánh chớp chiếu sáng. Âm thanh Phật
thuyết pháp như tiếng sấm chấn động, khiến cho trong tâm của chúng sinh
vui đẹp.
Nhật quang bị che lấp
Trên mặt đất mát mẻ
Mây giăng phủ mù mịt
Như có thể nắm lấy.
Trí huệ quang minh của Phật, che lấp chín mươi lăm thứ tà quang của ngoại
đạo. Phật lại dùng trí huệ mát mẻ, phá chín mươi sáu thứ phiền não trên thế
gian. Mây che giăng mù mịt, đám mây rất dày, tựa như có thể dùng tay nắm
bắt được.
Trận mưa lớn nhuận khắp
Ðều xối xuống bốn phương
Nước chảy tuôn vô lượng
Thấm ngầm vào lòng đất.
Trận mưa nầy đượm nhuần tất cả, bốn phương đều mưa xuống vô số lượng
nước mưa, khắp lòng đất đều có nước mưa, hết thảy chúng sinh đều đượm
nhuần được mưa pháp.
Nơi núi sông hang hiểm
Chỗ thâm u sinh ra
Các cây cối cỏ thuốc
Ðủ thứ cây lớn nhỏ.
‘’Nơi núi sông hang hiểm’’: Núi dụ cho đại Bồ Tát. Sông chỉ cho đại địa,
hang hiểm chỉ nơi nguy hiểm.
‘’Chỗ thâm u sinh ra’’: Dụ cho chỗ đen tối sinh ra tất cả thực vật. Tam thảo
nhị mộc nầy, tam thảo chỉ là người, trời, Thanh Văn Duyên Giác thừa. Nhị
mộc dụ cho thông giáo và biệt giáo Bồ Tát, cây nhỏ là chỉ thông giáo Bồ
Tát, cây lớn là chỉ biệt giáo Bồ Tát.
Trăm giống lúa mộng mạ
Các thứ mía và nho
Nhờ nước mưa đượm nhuần
Thảy đều tốt tươi cả.
Lúa mộng mạ là chỉ tất cả chúng sinh, mía là dụ cho thiền định thần thông.
Nho dụ cho Bát Nhã, có thể đoạn trừ các hoặc. Mưa đượm nhuần khiến cho
cây cối đều tươi tốt.
Ðất khô khắp thấm nhuần
Thuốc cây đều sum sê
Vầng mây kia mưa xuống
Nước mưa thuần một vị.
‘’Ðất khô khắp thấm nhuần’’: Chỉ cho chúng sinh chẳng nghe pháp, chẳng
có căn lành, cũng được đượm nhuần. Thuốc cỏ và cây cối đều sum sê, vầng
mây kia mưa xuống thuần một vị, là chỉ cho một thừa Phật pháp, khiến cho
hết thảy chúng sinh đều được đượm nhuần.
Các cây cối lùm rừng
Tùy theo sự đượm nhuần
Tất cả các cây cối
Bậc thượng trung và hạ.
Cây cối và cỏ thuốc tùy theo thân cây lớn nhỏ, tức cũng phân ra bậc thượng
thì hấp thụ nước mưa bậc thượng, bậc trung thì hấp thụ nước mưa bậc trung,
bậc hạ thì hấp thụ nước mưa bậc hạ.
Tùy theo tính lớn nhỏ
Thảy đều được lớn lên
Thân gốc rễ cành lá
Hoa quả đơm đủ màu.
Mỗi thứ cây cối cỏ thuốc, đều được sinh trưởng đượm nhuần, thân gốc rễ
cành lá, nhất là hoa quả, mỗi thứ đều hiển màu sắc của nó, trông rất xinh đẹp
tốt tươi.
Một trận mưa rưới xuống
Thảy đều được tươi thấm
Theo thể tướng của nó
Tính phân ra lớn nhỏ
Nước đượm nhuần vẫn một.
Tùy thể tướng và căn tính của cây cỏ, hoặc lớn hoặc nhỏ, nước mưa rưới
xuống vẫn như nhau, song cây cối mỗi thứ đượm nhuần, tùy theo sức hấp
thụ của nó.
Ðức Phật cũng như thế
Xuất hiện ra nơi đời
Ví như vầng mây lớn
Che trùm khắp hết thảy.
Ðã xuất hiện ra đời
Vì tất cả chúng sinh
Phân biệt và diễn nói
Thật tướng của các pháp.
Ðức Phật cũng như thế, xuất hiện ra nơi đời, giống như vầng mây lớn, che
trùm khắp hết thảy, vì chúng sinh diễn nói Phật pháp. Chúng sinh nghe minh
bạch, thì trừ khử được mao bệnh tập khí, pháp thân trí huệ khai sáng, quang
minh hiện ra mà chẳng tự biết. Ðức Phật vì người thế gian nói pháp thế gian,
vì chư thiên nói pháp chư thiên, vì Thanh Văn nói pháp Thanh Văn, vì
Duyên giác nói pháp Duyên giác, vì đại thừa nói pháp đại thừa. Phân biệt
diễn nói, là quán căn cơ mà thí giáo, vì người thuyết pháp, tùy theo đủ thứ
căn tính khác nhau, mà nói đủ thứ Phật pháp, tức là vì thật thí quyền. Trước
kia dùng pháp quyền xảo phương tiện, đều vì muốn nói giáo nghĩa chân thật
cuối cùng.
Ðấng đại Thánh Thế Tôn
Nơi chư thiên loài người
Trong tất cả chúng hội
Mà tuyên nói lời nầy:
Ta là bậc Như Lai
Là đấng Lưỡng Túc Tôn
Xuất hiện ra nơi đời
Dường như vầng mây lớn
Thấm nhuần khắp tất cả
Những chúng sinh khô khan
Ðều khiến cho lìa khổ
Ðược yên ổn vui sướng
Hưởng sự vui thế gian
Và sự vui Niết Bàn.
Ðấng đại Thánh Thế Tôn, nơi chư thiên loài người, trong tất cả chúng sinh,
tuyên nói: ‘’Ta là bậc Như Lai Ðấng Lưỡng Túc Tôn’’. Lưỡng Túc là :
1. Phước đầy đủ: Tu đủ thứ công đức lành.
2. Huệ đầy đủ: Có phước cũng phải tu huệ, tu sáu độ, bốn pháp nhiếp .v.v.
Do đó, có câu:
‘’Tu phước chẳng tu huệ,
Thân voi mang chuỗi ngọc.
Tu huệ chẳng tu phước,
La Hán ôm bát không’’.
Nếu chỉ tu phước mà chẳng tu huệ, tích tụ rất nhiều phước báu, thành con
voi lớn, trên thân thể đeo mang chuỗi ngọc quý giá, lại ích gì ? Còn ngược
lại, chỉ nghe kinh nói pháp, chẳng làm công đức, chẳng làm việc lành, thì
tương lai chứng được quả A La Hán, ôm bình bát đi khất thực chẳng có ai
cúng dường. Hôm nay có cơm ăn, ngày mai chẳng có cơm ăn, thường bị đói
khác, đó là quả báo tu huệ chẳng tu phước. Cho nên, đức Phật phước huệ
đều tu, phước đầy đủ, huệ đầy đủ, nên gọi là Lưỡng Túc Tôn, chứ chẳng
phải là hai chân, vì tiếng tàu lưỡng là hai, túc là chân. Phật xuất hiện ra đời
như vầng mây lớn, thấm nhuần tất cả chúng sinh. Chúng sinh đắc được nước
pháp đượm nhuần, thì sẽ không khô khan.
Pháp vũ hay khiến cho chúng sinh, hưởng được sự vui thế gian và xuất thế
gian.
Hết thảy chúng trời người
Một lòng khéo lóng nghe
Ðều nên đến chỗ nầy
Hầu đấng Vô thượng tôn.
Ta là bậc Thế Tôn
Chẳng có ai bằng được
Vì an ổn chúng sinh
Nên xuất hiện ra đời.
Vì các đại chúng nói
Pháp cam lồ trong sạch
Pháp đó thuần một vị
Vị giải thoát Niết bàn.
Dùng một tiếng diệu âm
Diễn xướng nghĩa nhiệm mầu
Thường vì pháp đại thừa
Mà kết làm nhân duyên.
Trời người đều nên đến đây, một lòng khéo nghe Phật pháp, lễ bái cung kính
Phật. Ta là bậc tôn kính trong thế gian và xuất thế gian, cho nên chẳng có ai
sánh bằng. Có bài kệ lễ Phật rằng :
‘’Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ,
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.’’
Nghĩa là :
‘’Chư thiên loài người chẳng ai bằng Phật
Mười phương thế giới cũng chẳng sánh bằng
Hết thảy thế gian ta thấy hết
Tất cả chẳng có ai như Phật‘’.
Phật vì an ổn chúng sinh mà xuất hiện ra đời, vì đại chúng nói pháp cam lồ
thanh tịnh. Pháp nầy là một thừa pháp, dùng một tiếng diệu âm diễn xướng
nghĩa pháp đại thừa, dùng đủ thứ nhân duyên để nói nghĩa Phật pháp nầy.
Ta xem tất cả chúng
Hết thảy đều bình đẳng
Chẳng phân biệt đó đây
Cùng với tâm thương ghét.
Ta xem tất cả thảy đều bình đẳng, đủ thấy Phật rất từ bi. Phật chẳng nói:
‘’Ta chí cao vô thượng, chúa tể sáng tạo vạn vật.’’ Phật chỉ nói Ngài chuyển
hóa vạn vật, khiến cho chúng sinh bỏ tà về chánh, bỏ tối về sáng. Phật chẳng
nói: ‘’Ta là chánh, các vị đều là tà, các vị là do ta một tay sáng tạo‘’! Nếu tất
cả là do chúa tể nào đó sáng tạo, thì sao lại cứ tạo những điều xấu ? Nói
thẳng ra là chẳng có tơ hào năng lực thuyết phục, hóa được người. Cho nên
Ðức Phật chẳng nói Ngài tạo tất cả, mà là cứu độ tất cả. Ai chẳng minh bạch
Phật pháp, thì khiến cho họ minh bạch Phật pháp, ai chẳng giác ngộ thì
khiến cho họ giác ngộ. Tuy Phật độ chúng sinh, song chẳng có một chúng
sinh có thể độ, đó mới là chân chánh bình đẳng.
Chẳng phân biệt đó đây, vì có đó thì có đây, có thương có ghét, khởi tâm
niệm vui mừng, khởi sân hận chẳng vui mừng. Song, nếu chẳng vui cũng
chẳng giận tất cả, chẳng có đó đây, thì chẳng có thương ghét. Nếu Thượng
đế Ngài một mình làm được, còn ta không thể, thì học Ngài để làm gì ?
Ta chẳng có tham trước
Cũng chẳng có hạn ngại
Luôn luôn vì tất cả
Bình đẳng mà nói pháp.
Dù chỉ vì một người
Trong chúng đông cũng thế
Thường diễn nói các pháp
Từng không việc gì khác.
Phật nói ta chẳng có tham trước, tức chẳng có tâm thương ghét. Vì có
thương thì có chấp, không thương thì ghét. Chẳng có tham trước, thì cũng
chẳng có chướng ngại. Phật luôn luôn vì tất cả chúng sinh bình đẳng nói
pháp, cũng giống như nói với một người. Cho nên, các bạn luyện tập thuyết
pháp, đừng nói: ‘’Ngài thuyết pháp thì có nhiều người đến nghe, còn tôi
thuyết pháp thì chẳng có ai đến nghe‘’! Ðó là chướng ngại, luôn luôn vì tất
cả, một là tất cả, một người tức là nhiều người, nhiều người tức là nhiều
người.
‘’Bình đẳng mà nói pháp’’: Nhiều chẳng biết nhiều, ít chẳng biết ít; không
nhiều không ít, không xa không gần. Giống như tôi tại Hương cảng thuyết
pháp, cũng là vì nước Mỹ thuyết pháp; tại nước Mỹ thuyết pháp, cũng là vì
Hương Cảng thuyết pháp, đó là không gần không xa. Ðây là chân lý thật,
chẳng có cười đùa, cũng chẳng có không cười đùa, đối với nhiều người cũng
nói như thế, trừ khi hết hơi tôi mới không nói, bằng không còn sống, thì còn
diễn thuyết pháp.
‘’Từng không việc gì khác’’. Thấm nhuần Phật pháp rồi, thì phải thuyết
pháp, như các vị thọ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải cung hành thực tiễn, làm mô
phạm cho tốt. Khi mọi người nhìn vào thì thấy, Ồ ! Làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni vốn là tốt như thế, khoái lạc như thế ! Ðói chết cũng chẳng sợ, suốt ngày
đến tối đều chẳng nóng giận, thường sinh tâm vui vẻ, trì giới tinh nghiêm.
Do đó, xuất gia ở đây, xuất gia ở kia, mà vô lượng vô biên người đều đến
đây xuất gia. Song, nếu bạn suốt ngày đến tối ngủ nghỉ li bì, ăn ngon mặc
đẹp, thì Phật giáo ở nước Mỹ chẳng có ai tin. Cho nên, Phật giáo ở nước Mỹ
mới bắt đầu, các bạn là người tiên phong, nên dũng mãnh tinh tấn vô úy khai
thác. Tại nước Mỹ, đây là lần đầu tiên tiếp thọ Phật pháp đại thừa. Nếu họ
hỏi các bạn thầy của các bạn là ai ? Thì bạn nói là Phật Thích Ca Mâu Ni,
đừng nói riêng một vị thầy nào khác, người khác hỏi bạn học Phật với ai ?
Thì bạn cũng nói học Phật với Ba La Ðề Mộc Xoa, bạn nói lấy Ba La Ðề
Mộc Xoa làm thầy, đây chẳng phải là nói dối, vì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
đã từng nói hãy lấy giới làm thầy.
Ngồi đứng hoặc đến đi
Thảy đều chẳng mỏi nhàm
Ðầy đủ cho thế gian
Như mưa thấm nhuần khắp.
‘’Ngồi đứng hoặc đến đi‘’: Phật đi đứng nằm ngồi, bốn oai nghi đều nói
pháp, chưa từng phóng dật. Ngài ngồi cũng nói pháp, đứng cũng nói pháp,
cho đến ngủ cũng độ hóa chúng sinh, giáo hóa chúng sinh ngủ mộng.
‘’Ðầy đủ cho thế gian, như mưa thấm nhuần khắp’’. Tại sao phải nói pháp ?
Vì chúng sinh đang sắp chết khô, trước khi họ chưa chết, thì ban cho họ mưa
pháp khiến cho họ sống lại.
Kẻ sang hèn trên dưới
Người trì giới, phạm giới
Oai nghi đều đầy đủ
Và chẳng được đầy đủ
Kẻ chánh kiến, tà kiến.
‘’Kẻ sang, hèn, trên, dưới‘’: Chỉ người bậc trên là hạng sang làm quan chức,
bậc dưới là thường dân. Trì giới hoặc phạm giới là chỉ người xuất gia. Oai
nghi có ba ngàn, ‘’có uy đáng sợ, có nghi đáng kính’’: Ði đứng nằm ngồi
bốn đại oai nghi, đều giữ được viên mãn, song nếu chẳng giữ giới, thì chẳng
có bốn đại oai nghi.
‘’Chánh kiến và tà kiến’’: Nói lời chẳng chánh đáng là tà kiến. Chánh kiến là
chẳng hợp lễ giáo thì đừng xem (phi lễ vật thị), chẳng hợp lễ giáo thì đừng
nói (phi lễ vật ngôn). Nếu như chẳng hợp với lễ giáo, mà đi xem đi nghe là
tà kiến.
Lợi căn hoặc độn căn
Thảy đều mưa pháp vũ
Mà chẳng biết mệt mỏi
Hết thảy các chúng sinh.
Ai nghe pháp của ta
Tùy sức mà lãnh thọ
Trụ ở nơi các địa
Hoặc ở trong trời người.
‘’Lợi căn‘’: Là người thông minh, nghe pháp thì sẽ khai ngộ. ‘’Ðộn căn’’:
Là kẻ ngu si, nghe rất nhiều về Phật pháp, nhưng vẫn chẳng biết Phật pháp
là gì. Họ chẳng giữ giới, chẳng nhẫn nhục, chẳng tinh tấn, cũng chẳng thiền
định, chẳng lãnh thọ được Phật pháp, còn Phật thì chẳng có tơ hào phân biệt,
Phật chỉ mưa pháp vũ xuống khắp, để đượm nhuần chúng sinh. Phật nói
pháp chẳng tiếc thân mạng, cũng chẳng mệt mỏi. Tất cả chúng sinh phi tiềm
động thực, thai noãn thấp hóa, tùy theo thân của họ mà tiếp thọ lợi ích.
‘’Hoặc ở trong trời người’’: Hoặc trụ ở nhân gian hoặc trên trời.
Làm Chuyển luân thánh vương
Và các vua Thích Phạm
Ðó là cỏ thuốc nhỏ
Biết được pháp vô lậu.
Sẽ chứng được Niết bàn
Khởi sáu phép thần thông
Và đắc được ba minh.
‘’Làm Chuyển Luân Thánh Vương‘’: Có kim, đồng, thiết, ngân, bốn vua
chuyển luân. Kim luân vương cai trị bốn thiên hạ : Ðông Thắng Thần châu,
Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu và Bắc Câu Lưu Châu.
Kim Luân Vương có bảy báu, toại tâm như ý, biến hóa vô cùng, các nước
của Kim Luân vương cai trị, nhân dân đều giữ năm giới và làm mười điều
lành.
Ngân Luân Vương cai trị ba thiên hạ, tức là Ðông Thắng Thần Châu, Nam
Thiệm Bộ Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Ðồng Luân Vương quản lý Ðông,
Nam, hai thiên hạ. Thiết Luân Vương quản lý một thiên hạ. Hiện tại chúng
ta là Nam Thiệm Bộ Châu, nếu tất cả các nước hợp lại với nhau chọn ra một
vị lãnh tụ, có thể nói là Thiết Luân Vương. Nếu như Thiết Luân Vương có
thể tu hành thì có thể thành Phật. Ðức Phật lúc ban đầu nếu không tu hành,
thì sẽ thành Kim Luân Vương.
Chuyển Luân Thánh Vương và các vua Thích, Phạm (vua Ðế Thích, vua Ðại
Phạm Thiên), thuộc về cỏ thuốc nhỏ, có thể được pháp vô lậu và được Niết
Bàn. Các Ngài hay khởi sáu thứ thần thông. Ba minh là Thiên nhãn minh,
túc mạng minh và lậu tận minh.
Ở riêng nơi núi rừng
Thường tu hành thiền định
Chứng được quả Duyên Giác
Là cỏ thuốc bậc trung.
Một mình ở trong thâm sơn cùng cốc tu hành, thường tu tập thiền định, đây
là quả vị Thanh Văn Duyên Giác, là cỏ thưốc bậc trung.
Cầu pháp nơi Thế Tôn
Ta sẽ được thành Phật
Tinh tấn tu thiền định
Là cỏ thuốc bậc thượng.
Nếu có người đến chỗ đức Thế Tôn cầu Phật pháp, Biết mình nhất tâm tu
hành thì tương lai sẽ thành Phật, tinh tấn tu thiền định, đó là cỏ thuốc bậc
thượng.
Lại có các Phật tử
Chuyên tâm cầu Phật đạo
Thường tu hạnh từ bi
Biết mình sẽ thành Phật
Quyết định chẳng còn nghi.
Lại có các Phật tử chuyên tâm học Phật, thường tu hạnh từ bi, biết mình
tương lai cũng sẽ thành Phật, chẳng có tơ hào hoài nghi, đây là cây nhỏ, tức
là thông giáo Bồ Tát.
An trụ sức thần thông
Chuyển pháp luân bất thối
Ðộ hóa vô lượng ức
Trăm ngàn loài chúng sinh
Hạng Bồ Tát như thế
Ðó gọi là cây lớn.
An trụ sức đại thần thông, chuyển pháp luân bất thối, giảng Kinh thuyết
pháp, lợi khắp trời người, vĩnh viễn chẳng thối tâm, giáo hoá vô lượng ức
chúng sinh, chẳng sợ hạnh khổ gian nan, đây là đại Bồ Tát, dụ cho cây lớn.
Phật bình đẳng nói pháp
Như nước mưa một vị
Tùy căn tánh chúng sinh
Tiếp thọ đều khác nhau.
Như các cỏ cây kia
Ðược đượm nhuần khác nhau
Phật dùng ví dụ nầy
Phương tiện mà khai thị.
Ðủ thứ những lời lẽ
Ðể diễn nói một pháp
Nơi trí huệ của Phật
Như giọt nước trong biển.
Ta rưới mưa pháp vũ
Ðầy khắp trong thế gian
Nói pháp thuần một vị
Tùy sức mà tu hành.
Như lùm rừng cây kia
Cỏ thuốc các cây cối
Tùy theo thân lớn nhỏ
Dần dần lớn sum sê.
Pháp của Phật nói là bình đẳng, như một vầng mây mưa xuống thuần một vị,
song tùy theo căn cơ của chúng sinh khác nhau, như cỏ thuốc nhỏ, lùm rừng,
cây lớn và cây nhỏ, đều đắc được lợi ích. Cho nên Phật dùng pháp phương
tiện để khai thị, dùng đủ thứ lời lẽ nói diệu pháp nhất thừa. Nơi trí huệ của
Phật, đây chỉ là một giọt nước trong biển mà thôi. Trí huệ của Phật vô lượng
vô biên, pháp được nói ra, cũng giống như một giọt trong biển cả, mà nước
thì vô lượng vô biên, cho nên nói pháp vũ của Phật nói, đầy khắp chúng sinh
thế gian. Diệu pháp nhất thừa, tùy theo sức tu hành của chúng sinh, cũng
giống như cỏ thuốc các cây cối lùm rừng, tùy theo thân lớn nhỏ và hấp thụ
lượng nước, mà lớn lên sum sê tươi tốt.
Pháp của các đức Phật
Thường chỉ thuần một vị
Khiến cho các thế gian
Thảy đều được đầy đủ.
Thứ tự mà tu hành
Ðều đắc được đạo quả
Hàng Thanh Văn Duyên Giác
Thường ở nơi núi rừng.
Trụ thân cuối cùng nầy
Nghe pháp được chứng quả
Ðó gọi là cỏ thuốc
Thảy đều được lớn lên.
Nếu các bậc Bồ Tát
Trí huệ rất kiên cố
Thấu suốt được ba cõi
Cầu chứng tối thượng thừa.
Ðó gọi là cây nhỏ
Mà được tăng trưởng lên
Lại có vị trụ thiền
Ðắc được sức thần thông.
Nghe các pháp không tướng
Trong tâm rất vui mừng
Phóng vô số quang minh
Ðộ tất cả chúng sinh.
Ðó gọi là cây lớn
Mà được tăng trưởng lên.
Diệu pháp của chư Phật thường chỉ thuần một vị, khiến cho các thế gian
cũng đắc được đầy đủ, từng chút từng chút dần dần tu hành đều sẽ thành đạo
chứng quả. Còn có hàng Thanh Văn Duyên Giác, chứng tứ quả A La Hán ở
trong núi rừng chẳng thọ sinh tử, tức là thân cuối cùng, các ngài nghe pháp
mà chứng quả, dụ cho cỏ thuốc được lượng nước mưa mà sinh trưởng lớn
lên. Các vị Bồ Tát trí huệ kiên cố, thấu suốt ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô
sắc), cầu chứng tối thượng thừa, dụ cho cây nhỏ, cũng đắc được lượng nước
mà lớn lên. Còn có những vị trụ ở trong thiền định, có sức thần thông, khi
nghe được các pháp không tướng, thì trong tâm rất vui mừng, phóng vô số
quang minh cứu độ tất cả chúng sinh, dụ cho cây lớn, cũng hấp thụ được
lượng nước mưa mà lớn lên.
Như thế nầy Ca Diếp !
Pháp của Phật nói ra.
Ví như vầng mây lớn
Dùng nước mưa một vị
Ðượm nhuần nơi hoa người
Thảy đều được thành Phật.
Ca Diếp ông nên biết !
Dùng các thứ nhân duyên
Và đủ thứ ví dụ
Ðể mở bày Phật đạo.
Là phương tiện của ta
Các đức Phật cũng thế
Nay ta vì các ông
Nói pháp chân thật nhất.
Các chúng hàng Thanh Văn
Ðều chưa thật diệt độ
Sở hành của các ông
Ðều là Bồ Tát đạo
Nếu từ từ tu học
Tất sẽ được thành Phật.
Ca Diếp ! Pháp của Phật nói giống như vầng mây lớn, dùng một thừa mưa
pháp, đượm nhuần nơi hoa người, tất cả mọi người thảy đều sẽ thành Phật.
Ca Diếp ! Ông nên biết, dùng tất cả nhân duyên và đủ thứ ví dụ, để mở bày
con đường cho chúng sinh thành Phật, là phương tiện của ta, mười phương
chư Phật cũng như thế. Hiện tại, ta vì các ông nói pháp chân thật nhất. Hàng
nhị thừa chưa được pháp chân chính, chỉ chứng được hữu dư Niết Bàn,
chẳng phải là vô dư Niết Bàn, chưa thật sự diệt độ.
Song, các ông thực hành đều là Bồ Tát đạo, nếu hằng ngày từ từ tu hành, thì
tương lai chắc chắn sẽ thành Phật. Ðây là Phật vì Ngài Ca Diếp và các đệ tử
lớn, đưa ra ví dụ tam thảo nhị mộc, tán dương pháp đại thừa, như vầng mây
lớn mưa xuống, thảy đều bình đẳng, đượm nhuần các loài chúng sinh, tùy
theo căn tính khác nhau, khiến cho họ đều được lợi ích đượm nhuần tăng
trưởng.
---o0o---
Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
Phẩm thứ sáu là Phẩm Thọ Ký. Thọ ký còn gọi là thọ quyết. Phật dự ghi nói
bạn tương lai vào lúc nào, tại nước gì thành Phật, danh hiệu gì, cõi nước của
bạn có gì đặc sắc, thọ mạng của Phật dài bao lâu .v.v. Bạn được dự ghi như
vậy, thì gọi là ‘’thọ ký’’. Thọ quyết là gì ? Quyết là quyết sở chân lý, bạn tự
mình sở quyết định một Phật hiệu. Danh hiệu của bạn và danh hiệu các đức
Phật khác nhau chẳng giống, vì mỗi vị Phật đều có một danh hiệu đặc biệt,
giống như mỗi người đều có tên của mình. Thọ quyết là nói bạn tương lai
quyết định có thể thành Phật, do chính Ðức Phật thọ ký, người khác chẳng
có tư cách.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng, xướng lời như
vầy : Ðệ tử Ma Ha Ca Diếp của ta đây, ở đời vị lai, sẽ phụng thờ ba trăm vạn
ức các đức Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, rộng
tuyên nói vô lượng đại pháp của các đức Phật.
Lúc đó, tức là lúc Ðức Phật nói xong bài kệ Phẩm Dược Thảo Dụ, bèn nói
với tất cả đại chúng : ‘’Ðệ tử Ðại Ca Diếp của ta đây, các ông mọi người nên
biết’’. Lúc Phật còn tại thế, thì tôn giả Ca Diếp đã là một trăm sáu mươi tuổi,
đến nay Ngài vẫn chưa nhập diệt ! Hiện nay Ngài đang ngồi thiền nhập định
ở trong núi Kê Túc tại Vân Nam Trung Quốc. Có thể nhìn thấy Ngài chăng ?
Có thể, nếu bạn có tâm thành thì có thể thấy được Ngài, Phật giáo tức là nói
một chữ ‘’thành’’. Bất cứ làm gì, nếu có tâm thành, thì nhất định có biện
pháp. Ví như người tu hành, nếu có tâm thành chân chánh, thì chẳng sợ
không có người đến cúng dường. Tại sao chẳng có ai đến cúng dường ? Vì
kiếp trước bạn tu huệ chẳng tu phước. Do đó, có câu :
‘’Tu huệ chẳng tu phước,
La Hán ôm bát không’’.
Nếu biết đạo lý nầy, thì nên mau tu phước huệ, làm nhiều việc thiện, khiến
cho phước huệ đều tròn đầy.
Ngài Ma Ha Ca Diếp ở đời vị lai, sẽ cúng dường cung kính, và phụng thờ ba
trăm vạn ức các Ðức Phật Thế Tôn, Ngài cúng dường, cung kính, tôn trọng,
tán thán, tất cả chư Phật, rộng tuyên nói vô lượng đại pháp của chư Phật.
Ở nơi thân cuối cùng, được thành Phật, hiệu là Quang Minh Như Lai, ứng
cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Ðiều ngự, Trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Thân cuối cùng của Ngài, được thành Phật đạo, hiệu là Quang Minh Như
Lai, vì thân của Ngài phóng ra kim quang, cho nên Ngài được tên là Quang
Minh Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn. Ðây là mười hiệu của mỗi vị Phật đều có.
Nước tên là Quang Ðức, kiếp tên là Ðại Trang Nghiêm.
Cõi nước của Ngài thành Phật tên là Quang Ðức, vì nhân dân trong cõi nước
đó, đều có quang minh và đức hạnh, cho nên gọi là Quang Ðức. Kiếp tên là
Ðại Trang Nghiêm, kiếp Trang Nghiêm đó, có vô lượng vô biên đại Bồ Tát.
Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại ở đời hai mươi tiểu
kiếp, tượng pháp lưu lại ở đời cũng hai mươi tiểu kiếp.
Vị Phật Quang Minh đó, sống lâu đến hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp của
Phật lưu lại thế gian hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng thế.
Cõi nước trang nghiêm tốt đẹp, chẳng có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc, và
đồ tiện lợi chẳng sạch.
Cõi nước đó rất trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng có một chút nào không sạch sẽ,
cũng chẳng có những thứ dơ xấu, càng chẳng có ngói sỏi hoặc gai góc.
Người dân cõi nước đó, cũng chẳng có đại tiểu tiện dơ bẩn, vì họ đều là
thiền định tướng, lìa đời thanh tịnh.
Cõi đó bằng phẳng, chẳng có cao thấp, hầm hố gò đống, dùng lưu ly làm đất,
cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây, dùng để giăng bên đường, rải các
hoa báu khắp nơi đều trong sạch. Bồ tát ở nước đó, có vô lượng ngàn ức, các
chúng hàng Thanh Văn cũng vô số, chẳng có việc ma, tuy có ma và dân ma,
nhưng chúng đều hộ trì Phật pháp.
Ðất đai ở nước đó bằng phẳng, chẳng có sự cao thấp, cũng chẳng có hầm hố,
gò đất, núi hang. Nước đó dùng lưu ly làm đất, có bảy hàng cây báu thẳng
hàng. Dùng vàng ròng làm dây, dùng để giăng ở bên đường, thường rải đủ
thứ hoa báu, khắp nơi ba bên bốn phía đều sạch sẽ, có vô lượng ngàn ức đại
Bồ Tát để trang nghiêm cõi nước đó. Còn có tất cả chúng hàng Thanh Văn
số lượng cũng vô cùng vô tận. Cõi đó chẳng có ma chướng, chẳng có ma
chướng tức cũng chẳng có phiền não. Tại sao chẳng có phiền não ? Vì tất cả
nhân dân đều tu thiền định, cho nên tuy có ma vương và dân ma, song chúng
đều hộ trì Phật pháp, chẳng phá hoại Phật pháp. Sao lại có cảnh giới thù
thắng như thế ? Vì khi tôn giả Ca Diếp tu hành tại nhân địa, thì bắt đầu tu đủ
thứ hạnh đầu đà thanh tịnh, chiến thắng tất cả ma quân, cho nên hàng phục
được tất cả ma vương, khiến cho chúng đều biến thành hộ pháp trong Phật
giáo.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Ðức Phật muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên, bèn dùng kệ để nói với đại
chúng.
Bảo các Tỳ Kheo
Ta dùng mắt Phật
Thấy Ca Diếp nầy
Ở đời vị lai.
Trải vô số kiếp
Sẽ được thành Phật
Ở đời mai sau
Cúng dường phụng thờ.
Ba trăm vạn ức
Chư Phật Thế Tôn
Vì trí huệ Phật
Tịnh tu phạm hạnh.
Cúng dường tối thượng
Lưỡng Túc Tôn rồi
Tu tập tất cả
Trí huệ vô thượng.
Nơi thân cuối cùng
Sẽ được thành Phật.
Ðức Phật nói với tất cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cũng bao quát tất cả cư sĩ
nam, cư sĩ nữ, tất cả Bồ Tát, Thanh Văn La Hán, Thiên Long bát bộ, ở trong
đại hội. Phật nói: Ta dùng mắt Phật quán sát, thấy Ca Diếp ở đời vị lai, trải
qua vô lượng số đại kiếp sẽ thành Phật.
Ngài Ca Diếp trước khi chưa thành Phật, ở trong đời vị lai, sẽ cúng dường
cung kính gần gũi ba trăm vạn ức các đức Phật Thế Tôn. Ngài đều dùng tâm
kiên thành khẩn thiết cung kính, cúng dường, lễ bái, khen ngợi tất cả chư
Phật Thế Tôn. Vì muốn đắc được trí huệ của Phật, cho nên Ngài tu đủ thứ
khổ hạnh thanh tịnh, do sự cúng dường đấng Lưỡng Túc Tôn phước huệ tối
thượng, tu tập tất cả trí huệ tối cao, nên thân cuối cùng của Ngài tất sẽ được
thành Phật.
Cõi đó thanh tịnh
Lưu ly làm đất.
Nhiều các cây báu
Thẳng hàng bên đường
Dây vàng giăng đường
Người thấy vui mừng.
Thường tỏa hương thơm
Rải các hoa quý
Ðủ loại kỳ diệu
Dùng để trang nghiêm.
Mặt đất bằng phẳng
Chẳng có hầm hố
Các chúng Bồ Tát
Không thể tính kể.
Tâm đều nhu hòa
Có đại thần thông
Phụng trì kinh điển
Của các đức Phật.
Các chúng Thanh Văn
Thân cuối vô lậu
Làm Pháp vương tử
Cũng không thể đếm.
Dù dùng thiên nhãn
Cũng chẳng biết được.
Cõi nước của Ngài Ca Diếp rất thanh tịnh, vì khi Ngài ở tại nhân địa tu hạnh
đầu đà thanh tịnh, cho nên đắc được quả báo nầy, đất trong nước của Ngài
bằng chất lưu ly, có đủ các thứ cây báu, những cây báu đó thẳng hàng ở bên
đường, ai thấy sự trang nghiêm của cõi nước đó đều rất vui mừng.
Cõi nước đó và tất cả nhân dân đều phóng ra hương thơm, tiên nữ thường ở
trong hư không rải hoa quý, dùng đủ thứ hoa, đủ thứ hương kỳ diệu trang
nghiêm cõi nước đó. Mặt đất cõi đó đều bằng phẳng, chẳng có hầm hố gò
núi.
Ðây là do Ngài Ca Diếp, khi ở tại nhân địa tu hạnh từ bi bình đẳng, nên
được quả báu như thế. Tất cả chúng Bồ Tát nhiều không thể tính kể. Tâm
của các Ngài đều điều thuận nhu hòa, cũng đều đắc được ngũ nhãn lục
thông, tu trì kinh điển đại thừa. Tất cả Thanh Văn đệ tử đều đắc được thân
vô lậu, làm pháp vương tử, số đông không thể nào tính kể, dù dùng thiên
nhãn cũng đếm chẳng hết được.
Phật đó sống lâu
Hai mươi tiểu kiếp.
Chánh pháp ở đời
Hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp cũng trụ
Hai mươi tiểu kiếp.
Thế Tôn Quang Minh
Việc Ngài như thế.
Vị Phật đó, sống lâu đến hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại ở đời hai
mươi tiểu kiếp, tượng pháp lưu lại ở đời cũng hai mươi tiểu kiếp. Nước đó
tên là Quang Ðức. ‘’Quang’’ là chỉ trí huệ quang minh, ‘’Ðức’’ là chỉ Bát
nhã đức. Vì làm các hạnh lành, cho nên cõi nước đó và nhân dân, đều đầy đủ
trí huệ quang minh và Bát nhã đức hạnh, một chút si mê cũng chẳng có, cho
nên được hiệu là Quang Minh Thế Tôn, nước tên là Quang Ðức.
Khi đó, Ngài Ðại Mục Kiền Liên, Ngài Tu Bồ Ðề, Ngài Ma Ha Ca Chiên
Diên, thảy đều run sợ, một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng tôn nhan của đức
Phật, mắt chẳng tạm rời, bèn cùng nhau đồng thanh nói bài kệ rằng.
Ðức Phật thọ ký cho Ngài Ca Diếp xong rồi, thì Ngài Ðại Mục Kiền Liên,
Tu Bồ Ðề, Ma Ha Ca Chiên Diên, các đại đệ tử của Phật cũng cấp tốc đứng
lên. Trong thâm tâm các Ngài đều nghĩ : ‘’Phật đã thọ ký cho Ngài Ca Diếp
rồi, mà chúng ta không biết lúc nào mới được Phật thọ ký’’?
Do đó, trong tâm của các Ngài đều lo lắng, sau đó các Ngài đều bình tâm
cung kính chắp tay, mắt nhìn Phật chẳng nhấp nháy, lập tức mọi người dị
khẩu đồng âm nói kệ rằng:
Thế Tôn rất hùng mãnh
Pháp Vương của dòng Thích
Vì thương xót chúng con
Mà ban giọng tiếng Phật.
Phật là bậc đại anh minh thánh hùng, đầy đủ oai đức trong thế gian, là đấng
Pháp Vương sinh ra trong dòng dõi Thích Ca. Xin Phật từ bi hỷ xả, thương
xót chúng con tất cả chúng sinh, mà ban tặng giọng tiếng của Phật cho
chúng con.
Nếu biết thâm tâm con
Ðược Phật thọ ký cho
Như dùng cam lồ rưới
Trừ nóng được mát mẻ.
Như từ nước đói đến
Bỗng gặp cỗ tiệc vua
Còn ôm lòng nghi sợ
Chưa dám tự ăn liền.
Nếu được lệnh vua bảo
Sau đó mới dám ăn.
Hiện tại, Phật nên biết trong tâm của chúng con nghĩ những gì, chúng con
nhìn thấy Ngài Ca Diếp được Phật thọ ký, giống như được Phật dùng nước
cam lồ rưới lên thân của chúng con, khiến cho được mát mẻ, tiêu trừ đi mọi
sự nóng bức. Chúng con giống như vừa mới từ nước đói đến, bỗng gặp cỗ
tiệc của vua, trong tâm còn hoài nghi và sợ chẳng dám ăn liền. Nếu được
lệnh của vua bảo, thì mới dám ăn những món ăn nầy.
Chúng con cũng như thế
Thường nghĩ lỗi tiểu thừa.
Chẳng biết làm thế nào
Ðược Phật huệ vô thượng
Tuy nghe tiếng của Phật
Nói chúng con thành Phật.
Tâm còn hoài nghi sợ
Như chưa dám ăn liền
Nếu được Phật thọ ký
Lúc đó mới an vui.
Chúng con và tất cả chúng sinh đều như thế, chúng con là người căn tính
tiểu thừa, chẳng biết nên làm sao mới được trí huệ vô thượng của Phật. Tuy
nghe được tiếng của Phật nói chúng con đều sẽ thành Phật, trong tâm còn có
chút không tin và hoài nghi. Chúng con người nhị thừa cũng có thể thành
Phật chăng ? Cũng giống như gặp cỗ tiệc của vua chẳng dám ăn liền, nếu
như chúng con được Phật thọ ký, thì lúc đó mới thật sự an vui.
Thế Tôn rất hùng mãnh
Thường muốn an thế gian
Xin thọ ký chúng con
Như đói cần bảo ăn.
Thế Tôn rất oai mãnh đại anh hùng, Ngài luôn luôn muốn khiến cho tất cả
chúng sinh an vui, hiện nay hy vọng Phật cũng vì chúng con mà thọ ký. Ngài
Ca Diếp đã thọ ký rồi, có phải chúng con cũng có phần ? Hiện nay chúng
con như người đói khát, cần Phật bảo chúng con ăn.
Khi đó, đức Thế Tôn biết tâm niệm của các đại đệ tử, bèn bảo các Tỳ Kheo
rằng : Ông Tu Bồ Ðề nầy, ở đời vị lai, sẽ phụng thờ ba trăm vạn ức Na do
tha vị Phật, cúng dường cung kính tôn trọng, khen ngợi, thường tu phạm
hạnh, đầy đủ đạo bồ đề.
Kinh văn ở trước, ba vị đệ tử của Phật dùng kệ thỉnh Phật ban cho thọ ký.
Phật đã biết trong tâm của các vị đại đệ tử nghĩ gì. Trong Kinh Kim cang có
nói :
‘’Hết thảy bao nhiêu tâm của chúng sinh,
Như Lai đều biết đều thấy’’.
Tất cả chúng sinh có đủ thứ tâm niệm, Phật đều hoàn toàn biết hết. Do đó,
Phật bảo tất cả hàng Tỳ Kheo ở trong pháp hội : Ông Tu Bồ Ðề ở đời vị lai,
gặp ba trăm vạn ức Na do tha vị Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng khen
ngợi tất cả các vị Phật, luôn luôn đều tu hành phạm hạnh thanh tịnh, đầy đủ
lục độ vạn hạnh của Bồ Tát.
Nơi thân cuối cùng, sẽ được thành Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai, ứng
cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Ngài Tu Bồ Ðề thân cuối cùng, hành Bồ Tát đạo sẽ được thành Phật, hiệu là
Danh Tướng Như Lai. Ngài Tu Bồ Ðề là giải không đệ nhất, Ngài biết các
pháp không tướng. Tất cả các pháp không cũng là danh tướng, do đó Ngài
thành Phật rồi hiệu gọi là ‘’Danh Tướng’’. Danh tướng cũng là thật danh, có
một tướng, hoặc gọi là hư không.
Như Lai : Tức là hành đạo của chư Phật, Lai thành chánh giác.
Ứng Cúng : Xứng đáng thọ lãnh trời người cúng dường.
Chánh Biến Tri : Biết tâm sinh vạn pháp gọi là chánh tri, biết vạn pháp duy
tâm gọi là biến tri.
Minh Hạnh Túc : Vì tu hành cho nên trí huệ quang minh thanh tịnh đều hiện
ra.
Thiện Thệ Thế Gian Giải : Một bậc giải thoát viên mãn, đã đạt đến chỗ tốt
cùng cực.
Vô Thượng Sĩ : Trên thế gian chẳng có ai cao hơn Ngài.
Ðiều Ngự Thượng Phu : Bậc đại trượng phu điều ngự chúng sinh ba cõi.
Thiên Nhơn Sư : Ðại đạo sư của dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Phật : Phật là gì ? Phật tức là người, người tức là Phật. Phật là người tu
thành. Song, chúng ta phải tu hành mới có thể thành Phật, không thể nói
hiện tại mình là Phật. Phải tu hành như thế nào ? Trước hết phải giác ngộ
chính mình, do đó :
‘’Giác là Phật, mê là chúng sinh‘’.
Khi bạn giác ngộ, tức là một vị Phật tương lai trong chúng sinh, khi bạn mê
thì biến thành Phật tính chẳng giác ngộ trong chúng sinh. Giác ngộ tức là
chân chánh minh bạch tất cả đạo lý trong vũ trụ. Tại sao chúng ta không giác
ngộ ? Vì có nhiều tập khí mao bệnh, vô minh phiền não, thân khẩu ý đều
không thanh tịnh, đủ thứ nghiệp lực chướng ngại, nên không thể giác ngộ.
Nếu chúng ta muốn giác ngộ, thì phải đừng làm ác, làm điều lành, đoạn dục
khử ái, siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si, đó gọi là tự giác.
Nếu chỉ là tự giác, mà không giác tha, thì vẫn không đủ ! Phải dùng phương
pháp mình giác ngộ, đi giác ngộ tất cả chúng sinh, đó cũng là phát đại bồ đề
tâm, hành Bồ Tát đạo, với tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo, đây gọi là
‘’tự giác giác tha’’. Tuy nhiên tự giác giác tha, song hạnh nguyện vẫn chưa
viên mãn, nếu viên mãn thì xưng là Phật.
Thế Tôn : Bậc tôn kính của người thế gian và xuất thế gian.
Kiếp tên là Hữu Bảo, nước tên là Bảo Sinh, cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha
lê, cây báu trang nghiêm, chẳng có hầm hố, cát sỏi gai góc, đồ tiện lợi do
bẩn. Hoa báu rải đất khắp nơi đều sạch sẽ. Nhân dân cõi đó, đều ở đài báu
lầu các trân quý. Hàng đệ tử Thanh Văn đông vô lượng vô biên, dùng toán
số ví dụ cũng không thể biết được. Các chúng Bồ Tát đông vô số ngàn vạn
ức Na do tha. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp. Chánh pháp lưu lại đời hai
mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp. Ðức Phật đó,
thường ở trong hư không vì đại chúng nói pháp, độ thoát vô lượng Bồ Tát và
chúng hàng Thanh Văn.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng.
Danh Tướng Như Lai sẽ ra đời tại một thế giới, kiếp đó gọi là Hữu Bảo. Vì
trong kiếp đó, có đủ Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cho nên gọi là Hữu Bảo. Vì
có Phật Pháp Tăng Tam Bảo sinh vào nước của Ngài, cho nên nước của
Ngài gọi là Bảo Sinh. Cõi nước đó bằng phẳng, vì Ngài Tu Bồ Ðề tu tâm địa
bình đẳng. Ðất làm bằng chất lưu ly, cũng do Ngài Tu Bồ Ðề có đầy đủ trí
huệ quang minh chiếu sáng. Lại có bảy hàng cây báu trang nghiêm, chẳng có
núi đồi, hầm hố, cát sỏi, ngói đá, gai góc. Nhân dân chẳng có đại tiểu tiện dơ
dáy. Mặt đất rải hoa bảy báu, khắp nơi đều rất trang nghiêm sạch sẽ. Nhân
dân ở trong đài bằng bảy báu, tất cả lầu các cũng bằng bảy báu làm thành.
Tại cõi nước đó, hàng Thanh Văn nhị thừa đông vô lượng vô biên, dù dùng
toán số tính đếm cũng chẳng biết được số lượng. Tất cả các chúng Bồ Tát
cũng đông vô số ngàn vạn ức Na do tha. Ðức Phật đó sống lâu đến hai mươi
tiểu kiếp. Chánh pháp và tượng pháp lưu lại đời đều hai mươi tiểu kiếp. Ðức
Như Lai Danh Tướng thường ở trong hư không vì đại chúng nói vi diệu
pháp, độ thoát vô lượng chúng Bồ Tát và chúng hành nhị thừa.
Khi ấy, Phật muốn đem ý nghĩa trường hàng ở trên nói rõ hơn để đại chúng
nghe, do đó dùng kệ để nói.
Ðại chúng Tỳ Kheo !
Nay bảo các ông
Ðều nên một lòng
Lóng nghe ta nói.
Ðại đệ tử ta
Ông Tu Bồ Ðề
Sẽ được thành Phật
Hiệu là Danh Tướng.
Sẽ cúng vô số
Vạn ức đức Phật
Tu hành theo Phật
Dần đủ đại đạo.
Thân cuối cùng được
Ba mươi hai tướng
Tốt đẹp trang nghiêm
Dường như núi báu.
Phật bảo các đại chúng Tỳ Kheo, các ông đều nên một lòng lóng nghe ta nói
pháp. Ðệ tử lớn của ta ông Tu Bồ Ðề, tương lai sẽ thành Phật, hiệu là Danh
Tướng. Khi Ngài chưa thành Phật, sẽ cúng dường vô lượng số vạn ức các
Ðức Phật. Ngài theo Phật tu hành, thường hành những gì Phật hành, tu
những gì Phật tu, nhận chân tu đạo, từng bước từng bước mà đạt được đại
đạo thành Phật.
Người chân chánh tu đạo, thì phải tu từng bước từng bước, ngày ngày dụng
công biện đạo, lâu ngày thì đạo hạnh tự nhiên sẽ viên mãn. Do đó :
‘’Căng thì đứt, chậm thì chùng,
Không căng không chậm mới thành công‘’.
Ngài Tu Bồ Ðề hành Bồ Tát đạo, nơi thân cuối cùng đắc được ba mươi hai
tướng. Tướng mạo trang nghiêm tốt đẹp, giống như tòa núi báu. Ai thấy
được Ngài, đều sinh tâm vui mừng cung kính.
Cõi nước Phật đó
Nghiêm sạch bậc nhất
Chúng sinh thấy được
Thảy đều ưa thích.
Phật ở nơi đó
Ðộ vô lượng chúng
Trong pháp hội đó
Ðông các Bồ Tát.
Thảy đều lợi căn
Chuyển bánh xe pháp
Nước đó thường dùng
Bồ Tát trang nghiêm.
Các chúng Thanh Văn
Không thể tính kể
Ðều được ba minh
Ðủ sáu thần thông.
Trụ tám giải thoát
Có oai đức lớn
Phật đó thuyết pháp
Hiển hiện vô lượng.
Thần thông biến hóa
Không thể nghĩ bàn
Trời người nhân dân
Ðông như Hằng sa.
Ðều cùng chắp tay
Nghe Phật nói pháp
Phật đó sống lâu
Hai mươi tiểu kiếp.
Chánh pháp ở đời
Hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp cũng trụ
Hai mươi tiểu kiếp.
Cõi nước của đức Danh Tướng Như Lai, trang nghiêm sạch sẽ bậc nhất, tất
cả chúng sinh trong cõi nước đó thảy đều hoan hỉ. Ðức Danh Tướng Như
Lai ở trong cõi nước đó, độ thoát vô lượng vô biên chúng sinh. Có rất đông
các chúng Bồ Tát đều là lợi căn, chuyển bánh xe pháp bất thoái, giáo hóa
chúng sinh. Cõi nước đó thường dùng chúng Bồ Tát để trang nghiêm đạo
tràng, hết thảy chúng Thanh Văn đông cũng nói chẳng hết được. Các Ngài
đều đắc được ba minh : Thiên nhãn minh, Thiên nhĩ minh, lậu tận minh,
cũng đầy đủ lục thông : Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông,
túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông, và trụ ở tám giải thoát.
Tất cả Bồ Tát, Thanh Văn chúng đệ tử đều đầy đủ tướng đại oai đức. Khi
Phật thuyết pháp, thì hiện đủ thứ vô lượng thần thông biến hóa, ở trong hư
không thuyết pháp có đông trời người, nhiều như số cát sông Hằng, đều
chắp tay lại, một lòng nghe Phật nói pháp.
Phật đó sống lâu đến hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại ở đời hai mươi
tiểu kiếp, tượng pháp lưu lại ở đời cũng hai mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ Kheo : Nay ta nói với các ông,
ông Ca Chiên Diên nầy, ở đời vị lai, dùng các đồ cúng dường, để cúng
dường phụng thờ tám ngàn ức đức Phật, cung kính tôn trọng. Chư Phật diệt
độ rồi, xây dựng các tháp miếu cao một nghìn do tuần, bề ngang rộng năm
trăm do tuần. Dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu,
bảy báu tạo thành. Dùng các thứ chuỗi hoa, hương đốt, hương thoa, hương
bột, lọng thêu, tràng phan, để cúng đường tháp miếu. Cúng dường như vậy
xong rồi, lại cúng dường hai vạn ức đức Phật, cũng lại như thế. Cúng dường
các đức Phật đó rồi, đầy đủ đạo Bồ Tát, sẽ được thành Phật, hiệu là Diêm
Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc,
Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư,
Phật, Thế Tôn.
Ðức Phật thụ ký cho Ngài Tu Bồ Ðề rồi, lại bảo các đại Tỳ Kheo ở trong
pháp hội : Hôm nay ta đối với các ông nói pháp, các ông đều phải bình tâm
một lòng lóng nghe. Ông Ca Chiên Diên ở đời vị lai, cũng dùng đủ thứ đồ
cúng dường, để cúng dường cung kính tám ngàn ức Ðức Phật. Ngài dùng
chánh pháp cung kính khen ngợi, tôn trọng tất cả các Ðức Phật Thế Tôn đó.
Sau khi các Ðức Phật đó vào Niết Bàn rồi, Ngài lại dựng tháp làm chùa để
cúng dường. Tất cả tháp cao khoảng một ngàn do tuần, bề ngang rộng năm
trăm do tuần. Ðều dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu, xích
châu, bảy báu tạo thành. Ngài lại dùng đủ thứ chuỗi hoa, hương thoa, hương
bột, hương đốt, lọng thêu, tràng phan, để cúng dường tháp miếu.
Cúng dường xong rồi, Ngài lại cung kính cúng dường hai vạn ức vị Phật.
Cúng dường hai vạn ức vị Phật rồi, Ngài đầy đủ đạo Bồ Tát, sẽ được thành
Phật, hiệu là Diêm Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, Ũng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm
dây để giăng bên đường, hoa quý rải trên mặt đất, khắp nơi sạch sẽ, ai thấy
cũng hoan hỉ. Chẳng có bốn đường ác : Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la.
Trời người rất đông, các chúng hàng Thanh Văn và Bồ Tát, đông vô lượng
vạn ức trang ngiêm cõi nước đó.
Vì Ngài Ca Chiên Diên tại nhân địa tu hành pháp môn bình đẳng, cho nên
mặt đất cõi nước tương lai của Ngài bằng phẳng. Mặt đất dùng pha lê tạo
thành, đủ thứ cây quý bằng bảy báu trang nghiêm, dây làm bằng vàng ròng
giăng bên vệ đường, tiên nữ từ trên trời rải xuống hoa báu tốt đẹp thơm tho,
phủ đầy mặt đất, khắp nơi đều sạch sẽ.
Tại sao cõi nước đó trang nghiêm sạch sẽ như thế ? Vì khi tại nhân địa, thì
Ngài tu hành thanh tịnh, làm tất cả các điều lành. Ai thấy được cõi nước đó,
đều sinh tâm hoan hỉ. Trong cõi nước đó chẳng có bốn đường ác : Ðịa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh và A tu la. Tại sao mà có địa ngục ? Vì con người có tâm
sân hận, nên đọa vào địa ngục. Người có tâm tham thì đọa làm ngạ quỷ,
chuyên môn đố kị người khác, thì tương lai sẽ đọa làm súc sinh. Nếu người
nào tranh cường háo thắng, thì tương lai sẽ đọa vào loài A tu la.
Nhân dân trong cõi nước đó, tâm địa đều lương thiện, làm các điều lành,
thanh tịnh tâm mình, chẳng chịu quả báo ác, nên cõi nước đó chẳng có bốn
đường ác.
Trời người đông vô lượng vạn ức, còn có hàng nhị thừa A La Hán, Thanh
Văn, Duyên Giác, và chúng đại Bồ Tát, đều đến cõi nước đó để trang
nghiêm cõi nước đó.
Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp,
tượng pháp cũng lưu lại hai mươi tiểu kiếp.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng.
Ðức Phật đó, sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời hai mươi
tiểu kiếp, tượng pháp lưu lại đời cũng hai mươi tiểu kiếp. Phật muốn nói rõ
ràng hơn pháp vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để thuật lại.
Các chúng Tỳ Kheo !
Ðều một lòng nghe
Pháp của ta nói
Chân thật không khác.
Này các Tỳ Kheo ! Các ông nên một lòng lắng nghe, pháp ta nói với các ông
là chân thật hằng thường bất biến.
Ca Chiên Diên nầy
Sẽ dùng đủ thứ
Ðồ cúng tốt đẹp
Cúng dường chư Phật.
Chư Phật diệt rồi
Dựng tháp bảy báu
Cũng dùng hoa hương
Cúng dường xá lợi.
Nơi thân cuối cùng
Ðược trí huệ Phật
Thành Ðẳng chánh giác.
Ngài Ca Chiên Diên biện tài vô ngại, luận nghị bậc nhất, sẽ ở đời vị lai,
dùng đủ thứ đồ cúng dường trang nghiêm tốt đẹp nhất, để cung kính cúng
dường tất cả chư Phật. Các Ðức Phật đó diệt độ rồi, Ngài dùng bảy báu để
dựng tháp làm chùa, lại dùng hoa và hương để cúng dường xá lợi của Phật.
Thân cuối cùng của Ngài Ca Chiên Diên sẽ được trí huệ của Phật, thành
Chánh đẳng chánh giác.
Cõi nước sạch sẽ
Ðộ thoát vô lượng
Vạn ức chúng sinh
Ðều từ mười phương.
Ðến để cúng dường
Quang minh Phật đó
Không ai sánh bằng
Phật đó hiệu là.
Diêm Phù Kim Quang
Bồ Tát Thanh Văn
Dứt tất cả cõi
Vô lượng vô số
Trang nghiêm nước đó.
Cõi nước của Ngài rất thanh tịnh sạch sẽ, độ thoát vô lượng vô biên chúng
sinh, có hàng vạn ức chúng sinh đều từ mười phương đến cúng dường Ngài.
Quang minh và trí huệ của Phật đó hơn hết tất cả, cho nên hiệu là Diêm Phù
Kim Quang. Các chúng đại Bồ Tát, hàng Thanh Văn, đều đã đoạn trừ cõi
dục, cõi sắc và cõi vô sắc, số đông vô lượng vô biên, đều đến trang nghiêm
cõi nước của Phật đó.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại chúng : Nay ta nói với các ông, Ðại Mục
Kiền Liên nầy, sẽ dùng đủ thứ đồ cúng dường, để cúng dường tám ngàn các
đức Phật, cung kính tôn trọng. Các đức Phật đó diệt độ rồi, đều xây dựng
tháp miếu, cao một ngàn do tuần, bề ngang rộng năm trăm do tuần. Dùng
vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, bảy báu tạo thành.
Dùng các thứ chuỗi hoa, hương thoa, hương bột, hương đốt, lọng báu, tràng
phan, để cúng dường. Việc làm đó xong rồi, lại cúng dường hai trăm vạn ức
các đức Phật, cũng lại như thế.
Khi đó, Phật lại bảo đại chúng nói : Hôm nay ta muốn nói với các ông rằng,
tôn giả Ðại Mục Kiền Liên ở đời vị lai, sẽ dùng đủ thứ đồ cúng dường để
cúng dường tám ngàn vị Phật. Ngài dùng tâm cung kính tôn trọng như là
cúng dường. Sau khi các Ðức Phật đó diệt độ rồi, Ngài lại dựng tháp làm
chùa, cao một ngàn do tuần, bề ngang rộng năm trăm do tuần. Ðều dùng
vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, để tạo thành.
Ngài lại dùng đủ thứ hoa, chuỗi, hương thoa, hương bột, hương đốt, lọng
thêu, tràng phan, để cúng dường tháp chùa. Cúng dường những tháp chùa đó
rồi, Ngài lại tiếp tục như ở trên, cúng dường hai trăm vạn ức các Ðức Phật.
Sẽ được thành Phật, hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Như Lai, ứng
cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Sau khi Ngài cúng dường hai trăm vạn ức các Ðức Phật rồi, sẽ được thành
Phật, hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Như Lai. Ða Ma La là tiếng
Phạn, nghĩa là "tự tính thanh tịnh, bụi trần chẳng nhiễm". Chiên Ðàn Hương
là một thứ gỗ thơm tối thượng nhất.
Kiếp tên là Hỉ Mãn. Nước tên là Ý Lạc. Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê,
cây báu trang nghiêm, rải các thứ hoa trân châu, khắp nơi đều sạch sẽ, ai
thấy cũng đều hoan hỉ. Rất đông trời người, các chúng Bồ Tát và Thanh Văn
số đông vô lượng.
Kiếp tên là Hỉ Mãn. Vì trong kiếp đó đầy dẫy sự vui thích, cho nên cõi nước
cũng có tên là Ý Lạc. Mặt đất cõi nước đó, dùng pha lê tạo thành, bảy hàng
cây báu trang nghiêm. Từ trên trời rải xuống các thứ hoa bằng trân châu,
khắp nơi đều sạch sẽ, ai thấy được nước đó, cũng đều sinh tâm hoan hỉ vui
thích. Có rất đông trời người, Thanh Văn và Bồ Tát không thể nào tính kể
hết được.
Phật sống lâu hai mươi bốn tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời bốn mươi tiểu
kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời bốn mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng.
Ðức Phật đó sống lâu đến hai mươi bốn tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời bốn
mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời bốn mươi tiểu kiếp. Khi Phật
nói đoạn kinh trên đây xong rồi, lại muốn dùng kệ thuật lại khiến cho đại
chúng hiểu rõ hơn.
Ðệ tử ta đây
Ðại Mục Kiền Liên
Bỏ thân nầy rồi
Ðược thấy tám ngàn.
Hai trăm vạn ức
Chư Phật Thế Tôn
Vì thành Phật đạo
Cung kính cúng dường.
Ở chỗ chư Phật
Thường tu phạm hạnh
Trong vô lượng kiếp
Phụng trì Phật pháp.
Chư Phật diệt rồi
Dựng tháp bảy báu
Cao rộng tốt đẹp
Dùng các hương hoa.
Kỹ nhạc cúng dường
Tháp chùa chư Phật.
Vị đại đệ tử Mục Kiền Liên của ta đây, khi bỏ thân nầy rồi, sẽ được gặp tám
nghìn hai trăm vạn ức các Ðức Phật Thế Tôn. Vì tu thành Phật đạo, Ngài rất
cung kính cúng dường tất cả các vị Phật. Ngài ở trước các Ðức Phật, thường
học theo các Ðức Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh, ở trong vô lượng kiếp,
Ngài nhất tâm phụng trì Phật pháp. Khi các Ðức Phật diệt độ rồi, Ngài lại
xây tháp chùa bằng bảy báu, cao rộng tốt đẹp trang nghiêm. Dùng các thứ
hoa, hương, kỹ nhạc, để cúng dường những tháp chùa đó.
Dần dần đầy đủ
Bồ Tát đạo rồi
Ở nước Ý Lạc
Mà được thành Phật
Hiệu Ða Ma La
Bạt Chiên Ðàn Hương
Phật đó sống lâu
Hai mươi bốn kiếp.
Ngài dần dần đầy đủ viên mãn lục độ vạn hạnh, hàng sinh ở nước Ý Lạc mà
thành Phật đạo, hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Phật. Vì Ngài tại
nhân địa tu hành thanh tịnh, cho nên được thanh tịnh trang nghiêm không
nhiễm, trên thân thoảng ra mùi hương chiên đàn, Phật đó sống lâu hai mươi
bốn tiểu kiếp.
Thường vì trời người
Diễn nói Phật đạo
Thanh Văn vô lượng
Như cát sông Hằng.
Có oai đức lớn
Ba minh sáu thông
Bồ Tát vô số
Chí bền tinh tấn.
Ðều chẳng thối chuyển
Nơi trí huệ Phật.
Ngài thường vì trời người diễn nói Phật pháp, trong cõi nước của Ngài có vô
lượng chúng hàng Thanh Văn, đông nhiều như cát sông Hằng, các Ngài đều
đầy đủ tam minh, lục thông và có đủ tướng oai đức, lại có vô lượng số đại
Bồ Tát, các Ngài chí nguyện đều bền vững, dũng mãnh tinh tấn, đắc được trí
huệ vô lượng của Phật, đều được bất thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác.
Phật diệt độ rồi
Chánh pháp trụ thế.
Bốn mươi tiểu kiếp
Tượng pháp cũng thế
Các đệ tử ta
Oai đức đầy đủ.
Số đông năm trăm
Ðều được thọ ký
Ở đời vị lai
Ðều được thành Phật.
Ta và các ông
Ðời trước có duyên
Nay ta sẽ nói
Các ông khéo nghe.
Phật đó diệt độ rồi, chánh pháp lưu lại thế gian bốn mươi tiểu kiếp, tượng
pháp cũng như thế.
Trong các vị đệ tử của ta, có năm trăm vị đầy đủ tướng oai đức, đều được
thụ ký, ở đời vị lai sẽ được thành Phật. Ta với các ông đều có nhân duyên
trong quá khứ, cho nên nay ta phải nói với các ông pháp nầy. Các ông phải
khéo lắng nghe cho kỹ.
---o0o---
Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
‘’Hóa’’ là từ huyễn hóa mà ra, chứ chẳng phải thật có. Nó từ tinh thần giác
ngộ triệt để của Phật hiển hiện ra. Nghĩa là gì ? Tức là muốn hàng nhị thừa
phát đại tâm, xa lìa hiện chứng tất cả tướng, Phật hiện ra cảnh giới vi diệu
không thể nghĩ bàn. Kì thật, Phật vốn nói ‘’hóa thành’’ chẳng tồn tại, như
nay hóa hiện ra, cho nên tên phẩm nầy là ‘’Phẩm Hóa Thành Dụ’’.
Trước hết, chúng ta phải hiểu hóa thành nầy, vốn một vật cũng chẳng có, nó
là hư vọng không thật, nên gọi là hóa thành, do Phật biến hóa ra. Phật mở
bày môn phương tiện nầy, để cứu độ chúng sinh, đều chẳng phải là chân
thật. Một thật pháp môn đại thừa mới là mục đích cứu kính.
Có người hỏi : ‘’Nếu tất cả đều không chân thật, vậy ích lợi của nó ở chỗ
nào‘’ ? Nếu bạn chẳng hiểu rõ gì là không chân thật, thì bạn cũng chẳng
cách chi tìm ra được chân thật. Hóa thành nầy là ví dụ pháp môn nhị thừa :
Pháp của hành Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa. Vì pháp nhị thừa nầy
đều là pháp của Phật phương tiện dẫn dắt, cho nên nói hóa thành nầy là vì
hàng nhị thừa nói hữu dư Niết bàn chẳng cứu kính. Ý nghĩa Niết Bàn là
không sinh không diệt.
Phật dùng phương tiện trí huệ mở bày ra pháp nhị thừa. Tại sao ? Ví như
chúng ta đi học phải từ tiểu học đến trung học, từ trung học đến đại học.
Hàng nhị thừa giống như trình độ tiểu học, Bồ Tát thừa thuộc về trình độ
trung học, Phật thừa thì trình độ cao nhất, tức dũng là đại học. Thật chẳng
phải đại học có thể so sánh. Phật pháp vốn chẳng có gì cao thấp, song Phật
dùng pháp môn phương tiện để dẫn dắt tất cả chúng sinh, giống như trẻ con,
trước hết phải để cho chúng học tiểu học, hấp thụ được kiến thức tiểu học.
Trong Phật pháp, mục tiêu và điểm chủ yếu nhất là thấy, thấy cả chúng sinh
đều có Phật tính, đều sẽ thành Phật. Song, nếu Phật ban đầu nói pháp nầy
cho chúng sinh nghe, thì chúng sinh chắt chắn sẽ sợ khổ chẳng muốn tin
nhận, tâm sinh sợ hãi, cho nên Phật mở bày pháp môn quyền xảo phương
tiện, để giáo hóa dẫn dụ chúng sinh.
Có bốn phương pháp để giải thích ý nghĩa Phật nói phẩm nầy :
1. Căn cứ nhân duyên.
2. Căn cứ về chính yếu của giáo pháp.
3. Căn cứ về căn tính của chúng sinh.
4. Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
1- Căn cứ về nhân duyên : Chúng sinh dừng lại ở trên con đường tu hành,
chẳng muốn tiến bước về trước, trụ nơi pháp không, cho rằng đã đạt được
chỗ cứu kính, đây là một quan niệm của hàng nhị thừa, các Ngài đạt được
hữu dư Niết Bàn, làm cảnh giới cao nhất vô thượng, cho nên Phật khai
quyền hiển thật, phá chấp trước của các Ngài, khiến cho các Ngài thâm nhập
đại trí huệ tạng của Phật, liễu ngộ pháp chân thật chẳng có thể tính, vì hàng
nhị thừa trên đường tu đạo chẳng tiến bước nữa, mà bỏ giữa đường, do đó
Phật dùng pháp môn phương tiện, dùng ‘’hóa thành’’ làm ‘’thành tạm nghỉ‘’
cho hàng nhị thừa, để họ khỏi đọa lạc vào đường ác, do đó tạm thị hiện ‘’hoá
thành’’.
2- Căn cứ về chính yếu của giáo pháp : Hàng nhị thừa coi giáo pháp của tiểu
thừa, là giáo pháp viên mãn nhất, cho rằng hữu dư Niết Bàn là vô dư Niết
Bàn, cứu kính không sinh không diệt, cho nên họ chỉ nguyện tự cầu giải
thoát, mà chẳng muốn độ thoát chúng sinh, Phật thấy họ là tiêu nha bại
chủng của Phật giáo, nên Phật chê trách hàng nhị thừa, chẳng giống như Bồ
Tát, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Bồ Tát rất sợ tất cả sáu nẻo chúng sinh
đọa lạc vào đường ác, cho nên luôn luôn cứu độ chúng sinh, thoát khỏi biển
khổ, Bồ Tát có tâm từ bi bình đẳng, có tinh thần vô úy đảo giá từ thuyền,
phát nguyện ‘’độ hết tất cả chúng sinh, mới chứng Bồ đề‘’, mà Phật muốn
hàng nhị thừa cũng hồi tiểu hướng đại, phát tâm đại Bồ đề, học hạnh Bồ Tát,
cho nên phải vì họ nói ra giáo pháp đại thừa.
3- Căn cứ vào căn tính chúng sinh : Phật là đấng Thế Tôn đại từ đại bi, khi
Phật thành đạo rồi, trong hai mươi mốt ngày, vì Bồ Tát đại thừa mà nói Kinh
Hoa Nghiêm.
Lúc đó hàng nhị thừa có mắt chẳng thấy được Lô Xá Na, có tai chẳng nghe
được giáo lý viên đốn, đủ thấy căn tính của hàng nhị thừa cạn hẹp. Song,
Phật chẳng muốn bỏ không cứu độ một chúng sinh nào, cho nên vì hàng nhị
thừa nói pháp tứ diệu đế và mười hai nhân duyên, để cho các Ngài tinh tấn
tu hành, tăng trưởng căn lành, siêu phàm nhập thánh, cuối cùng mới hiển
bày một thừa giáo pháp chân thật.
4- Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh: Phật quán sát tất cả
chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể sẽ thành Phật, nên mới khai quyền
hiển thật, nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, để phá trừ chấp trước và tâm ích kỷ tự
lợi của chúng sinh, chẳng chướng ngại cơ hội các Ngài thành Phật.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : Về thuở quá khứ, vô lượng vô biên A tăng
kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, bấy giờ có đức Phật hiệu là Ðại Thông Trí
Thắng Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian
giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Nước đó tên là Hảo Thành, kiếp đó tên là Ðại Tướng.
Các Tỳ Kheo ! Ðức Phật đó diệt độ đến nay, rất là lâu xa.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các chúng Tỳ Kheo rằng : Trong quá khứ vô
lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn.
Lúc đó, có một vị Phật hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, Ngài có thần
thông quảng đại và đại trí huệ, đầy đủ mười hiệu của Phật, tức là :
Như Lai : Như như bất động, tịch chiếu thường minh, biểu thị thể tính đức.
Ứng Cúng : Những gì cần làm đã làm xong, biểu thị từ bi nguyện đức.
Chánh Biến Tri : Lý trí vô ngại, viên dung khắp hết thảy, đầy đủ chánh tri
chánh kiến, chẳng có gì mà không biết, biểu hiện lý trí đức.
Minh Hạnh Túc : Minh tức là được quả bồ đề vô thượng, hạnh túc là giới
huệ đầy đủ, biểu thị tu nhân đắc quả đức, cũng gọi là biểu thị thần thông
đức.
Thiện Thệ Thế Gian Giải : Vào vô dư Niết Bàn, biết rõ tất cả việc hữu tình
và phi hữu tình, biểu thị đoạn chứng trí đức.
Vô Thượng Sĩ : Trong tất cả chúng, Phật là vô thượng, biểu thị trụ vị đức.
Ðiều Ngự Trượng Phu : Dùng lời diệu hòa, lời khổ thiết, khiến cho họ vào
đường lành, biểu thị giáo chủ đức.
Thiên Nhân Sư : Như mặt trời chiếu khắp, hết thảy đều được lợi ích, đạo sư
của trời người, biểu thị phổ lợi đức.
Phật : Ba giác cứu kính viên mãn, biểu thị giác quả đức.
Thế Tôn : Vạn đức tròn, phước đức đầy, bậc tôn kính của thế gian và xuất
thế gian, biểu thị viên mãn đức.
Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng có một cõi nước tên là Hảo Thành, vì nhân
dân trong cõi nước của Ngài đều rất thiện lương, kiếp đó tên là Ðại Tướng.
Các Tỳ Kheo ! Vị Phật đó, ở trong kiếp quá khứ lâu xa không thể nói, đã vào
cảnh giới Niết Bàn không sinh không diệt, thời gian bao lâu ? Phật nói ra ví
dụ ở dưới đây.
Ví như tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử có người đem mài
ra thành mực, rồi đi qua phương đông, cách một ngàn cõi nước, mới chấm
xuống một chút, lớn như hạt bụi. Rồi đi qua một ngàn cõi nước nữa, lại
chấm xuống một chút. Như thế, lần lược chấm hết mực mài bằng đất đai, ý
của các ông nghĩ sao ? Các cõi nước đó, hoặc thầy toán, hoặc đệ tử của thầy
toán, có thể biết được bờ mé của số đó chăng ?
- Không vậy, đức Thế Tôn.
Các Tỳ Kheo ! Cõi nước của người đó đi qua, hoặc chấm mực, hoặc không
chấm mực, đều nghiền hết ra làm bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Từ khi đức
Phật đó diệt độ đến nay, lại lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn
ức A tăng kỳ kiếp.
Ví như, có người dùng cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới mài ra thành mực,
rồi đi qua phương đông cách một ngàn cõi nước, thì chấm xuống một chấm
mực nhỏ như hạt bụi, lại trải qua một ngàn cõi nước, lại chấm xuống một
chấm mực, cứ như thế chấm hết số mực đã mài ra, có tính đếm được số cõi
nước chấm mực chăng ? Bạn thấy như thế nào ? Giả sử, nhà toán thuật, hoặc
đệ tử của họ cùng nhau tính đếm số mực nầy, họ có tính được số mực nầy
chăng ? Tất cả các vị Tỳ Kheo đều thưa : ‘’Không thể được, đức Thế Tôn‘’.
Các chúng Tỳ Kheo ! Cõi nước của người đó đi qua, có chấm mực hoặc
không chấm mực, đều nghiền ra làm bụi, dùng một hạt bụi làm một kiếp, mà
Phật Ðại Thông Trí Thắng đã vào Niết Bàn, trải qua số kiếp lâu hơn số đó,
vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A Tăng kỳ kiếp.
Ta dùng sức tri kiến của Như Lai, xem thuở lâu xa đó, như ngày hôm nay.
Phật là bậc Nhất thiết trí, dùng thiền định tam muội, nên đức Phật thấy kiếp
lâu xa như thế, như ngày hôm nay, chẳng lâu dài.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng.
Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng Túc Tôn
Hiệu Ðại Thông Trí Thắng.
Khi đó, đức Phật muốn thuật lại ý nghĩa kinh trường hàng ở trên, nên dùng
kệ để nói.
Ta nhớ thuở trong đời quá khứ vô lượng vô biên kiếp số, có một vị Phật, đầy
đủ phước huệ viên mãn, Phật đó hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Phật.
Như người dùng sức mài
Ba ngàn cõi đại thiên
Hết tất cả đất đai
Thảy đều làm thành mực.
Qua khỏi ngàn cõi nước
Mới chấm xuống chút mực
Lần lược chấm như thế
Hết sạch số mực đó.
Các cõi nước như thế
Chấm mực hoặc chẳng chấm
Lại nghiền ra làm bụi
Một bụi là một kiếp.
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như thế.
Ví như có người đem cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới, đều mài ra làm
mực, sau đó đi qua một ngàn cõi nước, chấm xuống một chấm nhỏ, rồi lại đi
qua một ngàn cõi nước, cũng chấm xuống một chấm mực, cho đến lần lược
chấm hết số mực đó. Các cõi nước người đó đi qua, chấm mực hoặc chẳng
chấm mực, đều nghiền ra làm bụi, mỗi hạt bụi là một kiếp, Phật Ðại Thông
Trí Thắng diệt độ đến nay, nhiều hơn số bụi đó vô lượng kiếp.
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh Văn Bồ Tát
Như thấy nay diệt độ.
Các Tỳ Kheo nên biết!
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu chẳng gì ngại
Thông đạt vô lượng kiếp.
Phật đầy đủ trí huệ viên dung vô ngại, đều biết Phật Ðại Thông Trí Thắng và
hàng Thanh Văn Bồ Tát đã diệt độ, như thấy được các Ngài hiện tại vừa diệt
độ. Các Tỳ Kheo ! Các ông phải biết trí huệ của Phật rất thanh tịnh, vi tế và
áo diệu, chẳng có lậu, cũng chẳng có gì quái ngại, thông đạt vô lượng số
kiếp.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo ! Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng, sống lâu năm
trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi đức Phật đó, ngồi đạo tràng phá
ma quân rồi, sắp được đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà các Phật
pháp chẳng hiện ra ở trước, đức Phật ngồi kiết già như thế một tiểu kiếp, cho
đền mười tiểu kiếp, thân và tâm đều bất động, mà các Phật pháp cũng chẳng
hiện ra.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Ðao Lợi, trước đã vì đức Phật đó, làm tòa sư tử ở
dưới cội bồ đề cao một do tuần. Ðức Phật ngự lên tòa đó, sẽ được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Khi Phật ngồi lên tòa đó, thì các vị Phạm Thiên
Vương mưa xuống các hoa trời, khắp một trăm do tuần. Gió thơm lại đến
thổi đi các hoa héo, rồi mưa xuống hoa tươi, cứ như thế không ngừng, trọn
mười tiểu kiếp, để cúng dường đức Phật. Cho đến sau khi đức Phật diệt độ,
vẫn luôn luôn mưa xuống các hoa trời.
Bốn vị Tứ Thiên Vương vì cúng dường đức Phật, mà thường đánh trống trời,
còn các vị trời khác, thì tấu nhạc trời, trọn mười tiểu kiếp, đến khi đức Phật
diệt độ cũng lại như thế.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các Tỳ Kheo ở trong hội rằng : Phật Ðại
Thông Trí Thắng sống lâu đến năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp.
Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng ngồi dưới Bồ Ðề đạo tràng, phá tất cả ma
quân rồi. Phàm là người tu đạo chứng quả, đều phải trải qua cửa ải ma khảo
nghiệm. Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi thành Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, cũng phải trải qua sự khảo nghiệm. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni
ngồi dưới cội Bồ đề nhập định, thì ma vương phái một đám biến thành thiếu
nữ xinh đẹp, để nhiễu loạn thiền định của Phật.
Lúc đó, Phật đã đoạn sạch tất cả mọi dục niệm và vọng tưởng, xa lìa sự ràng
buộc. Quán vạn sự vạn vật trong vũ trụ như mộng như huyễn, hà huống là
đối với một đám mỹ nữ ở trước mặt, càng như như bất động, liễu liễu
thường minh, Phật bèn nói với chúng rằng: ‘’Tuy bây giờ các người còn trẻ
đẹp đẽ, song khi về già thì tóc bạc mặt nhăn xấu xí như bà lão, các ngươi bất
quá chỉ là túi da hôi thối chứa đầy đồ dơ bẩn mà thôi’’ ! Khi đám mỹ nữ
nghe Phật nói như thế, thì chúng biết mỹ nhân kế của chúng chẳng thành
công, do đó chúng nhìn xem diện mạo của chúng, thì quả nhiên biến thành
những bà già xấu xí, bỏ nhau chạy đi hết.
Trước khi tất cả các vị thành Phật đạo, đều phải trải qua sự khảo nghiệm,
cho nên hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo, mới đạt được Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc đó, Phật Ðại Thông Trí Thắng ngồi kiết già,
thân tâm bất động, nhập định, song vẫn chưa thành Phật đạo, cho nên Phật
pháp chưa xuất hiện ra trước, như thế trải qua một tiểu kiếp, cho đến mười
tiểu kiếp, Phật pháp vẫn chưa hiện tiền.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Ðao Lợi, vì Ðức Phật đó, chuẩn bị thiết lập tòa sư
tử dưới cội bồ đề, cao một do tuần (bốn mươi dặm). Ðức Phật bèn ngồi trên
tòa đó, sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc đó, chư thiên
Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, rải khắp nơi một trăm do tuần,
một trận gió thơm thổi đến, thổi các hoa héo đi, lại mưa xuống các hoa tươi,
tiếp tục như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Phật.
Sau khi Phật diệt độ rồi, chư thiên vẫn mưa hoa trời xuống như thường lệ.
Khi đó, Tứ Thiên Vương thường đánh trống trời, tấu nhạc trời để cúng
dường Phật, còn chư thiên các cõi trời khác, thì thường tấu đủ thứ nhạc trời,
tiếp tục như thế trọn mười tiểu kiếp, cho đến khi Phật diệt độ rồi cũng lại
như thế.
Các Tỳ Kheo ! Phật Ðại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, các Phật
pháp mới hiện ra ở trước, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo nói rằng : Phật Ðại Thông Trí Thắng trải
qua mười tiểu kiếp, Phật pháp mới xuất hiện ở trước, Ngài mới thật sự thành
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh, chuyển đại pháp
luân.
Khi đức Phật đó chưa xuất gia, thì có mười sáu người con. Người con thứ
nhất tên là Trí Tích. Các người con đều có đồ chơi tốt đẹp, quý báu lạ
thường, nghe cha đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bỏ đồ
chơi báu lạ, đi đến chốn Phật. Các bà mẹ khóc rơi lệ, đi theo tiễn đưa. Ông
nội của các vị đó, là chuyển luân thánh vương, với một trăm vị đại thần, và
trăm ngàn vạn ức nhân dân khác, đều cùng nhau vây quanh theo đến đạo
tràng. Ðều muốn gần gũi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường
cung kính, tôn trọng khen ngợi.
Ðến rồi, thảy đều cuối đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu Phật xong rồi,
một lòng chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, dùng kệ nói rằng.
Trước khi vị Phật đó chưa xuất gia, thì Ngài có mười sáu người con. Người
con cả thứ nhất tên là Trí Tích. Ngài đầy đủ đại trí huệ, mỗi người con đều
có công đức báu phước đức quý khác nhau, đầy đủ đồ chơi quý báu đẹp lạ.
Song, khi các vị đó nghe người cha đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, đều lập tức bỏ hết các đồ chơi quý báu đẹp lạ, đi đến chỗ Phật
thành đạo. Bà mẹ của các Ngài khóc lóc rơi lệ, cùng đi với các Ngài đến gặp
Phật. Tại sao bà mẹ đau buồn như thế ? Vì mười sáu người con của bà ta,
đều muốn bỏ mẹ đi theo Phật tu đạo.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét