Kinh Diệu Pháp Liên Hoa xin được gửi tiếp đến bạn đọc để chúng ta cùng nắm bắt được nội dung cuốn kinh nhé!
Các Ðấng Ðại Thánh Chúa
Biết tất cả thế gian
Trời người loại quần sinh
Trong thâm tâm ưa muốn.
Bèn dùng phương tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ nhất
Nếu có loại chúng sinh
Gặp chư Phật quá khứ.
Nếu nghe pháp bố thí
Hoặc trì giới nhẫn nhục
Tinh tấn thiền trí thảy
Tu đủ thứ phước huệ.
Tất cả những người đó
Ðều đã thành Phật đạo.
"Các Ðấng Ðại Thánh Chúa" : Tức là các Ðức Phật. Ðại Thánh Chúa là tên
khác của Phật. "Biết tất cả thế gian" : Thế gian phân ra gồm có hữu tình thế
gian và khí thế gian. Hữu tình thế gian còn gọi là chánh báo, khí thế gian còn
gọi là y báo. Chánh, y hai báo Phật đều biết đều thấy. "Trời người loại quần
sinh" : Người trên trời và người nhân gian cùng tất cả loại chúng sinh.
"Trong thâm tâm ưa muốn" : Ðủ thứ sự ưa muốn trong thâm tâm của họ, chư
Phật đều thấy biết rõ ràng. Do đó, "bèn dùng phương tiện khác, giúp bày
nghĩa đệ nhất" : Vì chư Phật biết sự ưa muốn của chúng sinh, cho nên bày
đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện, để độ thoát chúng sinh. Phương
tiện ở đây tức là đại thừa, tiểu thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và
Bồ Tát Thừa, đó gọi là phương tiện khác, đều vì hiển lộ Phật thừa nghĩa đệ
nhất mà bày ra. "Nếu nghe pháp bố thí" : Bố thí gồm tài thí, pháp thí và vô
úy thí. "Hoặc trì giới nhẫn nhục" : Hoặc tu trì giới độ, hoặc nhẫn nhục độ.
Hành bố thí độ xan tham, trì giới độ hủy phạm, nhẫn nhục độ sân hận. "Tinh
tấn thiền trí thảy" : Tinh tấn độ giải đãi, thiền định độ tán loạn, tán loạn tức
là chẳng có định lực, trí huệ độ ngu si. "Tu đủ thứ phước huệ" : Tu sáu độ
vạn hạnh, tức cũng là tu phước huệ. "Tất cả những người đó" : Hết thảy
những người nầy. "Ðều đã thành Phật đạo" : Họ đều đã thành Phật đạo. Vì
những người nầy ban đầu tu chút chút việc thiện, ngày tháng tích lũy, từ chút
chút mà biến thành nhiều, từ một việc phước mà trở thành nhiều việc phước
; từ một việc huệ mà trở thành nhiều việc huệ ; khi nào phước huệ tròn đầy
thì Phật đạo cũng thành tựu. Bây giờ chúng ta bắt đầu tu hành, không biết
trong quá khứ bạn đã gieo trồng phước huệ chưa, thì đời nầy chúng ta gặp
được Phật pháp vô thượng, nhất định phải bắt đầu dũng mãnh tinh tấn tu
hành cho đến khi thành Phật.
Sau chư Phật diệt độ
Nếu người tâm tốt lành.
Những chúng sinh như thế
Ðều đã thành Phật đạo
Chư Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá lợi.
Tạo vạn ức bảo tháp
Vàng bạc và pha lê
Xa cừ cùng mã não
Châu mai khôi lưu ly.
Thanh tịnh rộng nghiêm sức
Trang trí nơi các tháp
Hoặc dùng đá làm chùa
Chiên đàn và trầm thủy.
Gỗ mật và gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thảy
Nếu ở nơi đồng hoang
Chứa đất thành chùa Phật.
Cho đến trẻ con chơi
Vun cát làm tháp Phật
Tất cả những người đó
Ðều đã thành Phật đạo.
"Sau chư Phật diệt độ" : Sau khi chư Phật vào Niết Bàn. "Nếu người tâm tốt
lành" : Nếu người có tâm tốt lành hòa diệu, ban đầu xem ra tuy chỉ có chút
chút căn lành, nhưng lâu dần tích lũy được rất nhiều công đức. "Các chúng
sinh như thế, đều đã thành Phật đạo" : Như những chúng sinh đó cũng đều
đã thành Phật. "Chư Phật diệt độ rồi" : Sau khi chư Phật diệt độ. "Người
cúng dường xá lợi" : Tạo tháp cúng dường tất cả xá lợi của Phật. Tạo tháp
thí có từng cấp khác nhau, chỉ có tháp xá lợi của Phật là mười ba từng, Bích
Chi Phật thì năm từng, tứ quả A La Hán thì bốn từng, tam quả A Na Hàm là
ba từng, nhị quả Tư Ðà Hàm là hai từng, sơ quả Tu Ðà Hoàn là một từng.
"Tạo vạn ức bảo tháp" : Tạo dựng trăm ngàn vạn ức bảo tháp, dùng gì để tạo
? "Vàng bạc và pha lê" : Hoặc dùng vàng, bạc hoặc pha lê để tạo tháp. "Xa
cừ cùng mã não" : Hoặc dùng đá xa cừ để tạo, hoặc dùng đá mã não để tạo.
"Châu mai khôi lưu ly" : Hoặc dùng đá mai khôi, hoặc dùng đá lưu ly, hoặc
dùng chân châu để tạo tháp. "Thanh tịnh rộng nghiêm sức" : Dùng đồ thanh
tịnh trang nghiêm, để nghiêm sức tháp xá lợi của Phật. "Trang trí nơi các
tháp" : Lại dùng các thứ đồ vật để trang trí các tháp. "Hoặc dùng đá làm
chùa, chiên đàn và trầm thủy" : Hoặc có người dùng đá làm chùa, hoặc dùng
gỗ chiên đàn và gỗ thơm trầm thủy để làm chùa, làm tượng Phật. "Gỗ mật và
gỗ khác, gạch ngói bùn đất thảy" : Gỗ mật tức là gỗ thơm, hoặc dùng gạch
ngói hoặc dùng bùn đất làm chùa. "Nếu ở nơi đồng hoang, chứa đất thành
chùa Phật" : Hoặc ở nơi hoang dã, tích chứa đất thành ngôi chùa."Cho đến
trẻ con chơi, vun cát làm tháp Phật" : Nhẫn đến trẻ con chơi giỡn, vun một
đống cát làm tháp Phật. "Tất cả những người đó, đều đã thành Phật đạo" :
Tất cả những người như thế, tích lũy công đức cũng đều đã thành Phật.
Nếu như người vì Phật
Kiến tạo các hình tượng
Ðiêu khắc thành các tướng
Ðều đã thành Phật đạo.
"Nếu như người vì Phật, kiến tạo các hình tượng, điêu khắc thành các tướng"
: Dùng đủ thứ vật chất khác nhau để làm tượng Phật, những người nầy "đều
đã thành Phật đạo".
Hoặc làm bằng bảy báu
Vàng thau đồng trắng đỏ
Nhôm chì và chất kẽm
Sắt gỗ cùng với bùn.
Hoặc dùng keo sơn vải
Nghiêm sức làm tượng Phật
Hết thảy những người đó
Ðều đã thành Phật đạo.
"Hoặc làm bằng bảy báu" : Hoặc dùng bảy báu : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà
cừ, xích châu, mã não, để tạo tượng Phật. "Vàng thau đồng trắng đỏ" : Vàng
thau giống như vàng thật, nhưng chẳng phải vàng thật, hoặc là đồng trắng,
đồng đỏ. "Nhôm chì và chất kẽm" : Hoặc dùng chất nhôm, chì, kẽm để tạo
tượng Phật. "Sắt gỗ cùng với bùn" : Hoặc dùng sắt, hoặc dùng gỗ, hoặc dùng
bùn để tạo tượng Phật. "Hoặc dùng keo sơn vải" : Hoặc dùng keo, sơn, vải
để tạo tượng Phật. "Nghiêm sức làm tượng Phật" : Dùng để trang sức những
tượng Phật, trông rất đẹp vô cùng.
Tạo tượng Phật có mười một thứ công đức :
1. Ðời đời kiếp kiếp mắt sáng suốt thấy rõ. Tại sao có quả báo như thế ? Vì
trong đời quá khứ đã tạo tượng Phật cho nên mắt thấy rõ sáng suốt.
2. Sinh vào nơi chẳng có người ác, bất cứ chung quanh phải trái trước sau
chỗ của mình ở, họ hàng bạn bè đều là người tốt, chẳng gặp người ác, thú dữ
hoặc các hiểm nạn.
3. Sinh trưởng trong nhà giàu : sinh vào nhà giàu có, vừa có tiền vừa có địa
vị.
4. Thân thể màu hoàng kim. Tại sao thân thể của chúng ta chẳng phải màu
hoàng kim ? Vì trong quá khứ chẳng tạo tượng Phật.
5. Châu báu dồi dào. Nơi nào cũng đầy đủ châu báu.
6. Sinh vào nhà hiền lành. Sinh vào nhà người hiền lành.
7. Ðược sinh làm vua. Công đức tạo tượng Phật, đời sau được sinh làm vua.
Bây giờ có những nước chẳng có vua, nhưng làm tổng thống và vua đều
giống nhau.
8. Ðược làm Chuyển luân vương. Làm chuyển luân vương càng trân quý
hơn, Chuyển luân vương một khi mà tu thì thành Phật.
9. Không những làm vua ở nhân gian mà còn có thể sinh về cõi trời, sinh về
Phạm thiên, thọ mạng lâu dài.
10. Chẳng đoạ vào đường ác. Người đã từng làm tượng Phật thì sẽ không
đọa vào ba đường ác.
11. Ðời đời kiếp kiếp kính trọng Tam Bảo, quy y Tam Bảo, chẳng đọa lạc.
Ðó là mười một thứ công đức tạo tượng Phật.
Người tạo tượng Phật tướng mạo rất viên mãn. Tại sao tướng mạo của Phật
viên mãn như thế ? Vì trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp, chẳng biết Ngài đã
tạo bao nhiêu tượng Phật. Bạn thử tính xem, Ngài gặp bao nhiêu vị Phật ra
đời ? A Tăng Kỳ kiếp thứ nhất gặp hơn bảy vạn năm ngàn vị Phật, A Tăng
Kỳ kiếp thứ hai gặp hơn bảy vạn sáu ngàn vị Phật, A Tăng Kỳ kiếp thứ ba
gặp hơn bảy vạn bảy ngàn vị Phật. Gặp nhiều vị Phật như vậy thì tất nhiên
Ngài tạo tượng Phật càng nhiều hơn, nếu tính thì chẳng biết được số lượng,
cho nên tướng mạo của Ngài viên mãn phi thường. Tạo tượng Phật không
những tướng mạo viên mãn, mà còn khiến cho người sinh tâm ái kính tu
phước tu huệ. "Hết thảy những người đó, đều đã thành Phật đạo" : Những
người tạo tượng Phật cũng đều đã thành Phật.
Vẽ hoạ làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Ðều đã thành Phật đạo.
Cho đến trẻ con chơi
Dùng cỏ cây và bút
Hoặc là dùng móng tay
Mà vẽ họa tượng Phật.
Hết thảy những người đó
Từ từ tích công đức
Ðầy đủ tâm đại bi
Ðều đã thành Phật đạo.
Giáo hóa các Bồ Tát
Ðộ thoát vô lượng chúng.
Ðoạn Kinh văn ở trên, tuy nói dùng keo sơn vải để tạo tượng Phật, nhưng ở
trong giới luật chẳng đề xướng dùng keo sơn vải để tạo tượng Phật. Vì keo
sơn có một thứ mùi hôi. Và giới luật cũng nói, nếu tượng Phật đứng thì
chúng ta người học Phật không thể ngồi ở trước tượng Phật. Nếu tượng Phật
ngồi, thì chúng ta không thể nằm ở trước tượng Phật, các vị nên biết những
điều nhỏ nầy.
"Vẽ họa làm tượng Phật" : Vẽ họa thành tượng Phật. "Trăm tướng phước
trang nghiêm" : Vẽ họa tượng Phật rất trang nghiêm viên mãn. "Tự làm hoặc
bảo người" : Tự mình làm tượng hoặc bỏ tiền ra nhờ người khác làm tượng
Phật. "Ðều đã thành Phật đạo" : Những hạng người nầy đều đã thành Phật.
"Cho đến trẻ con chơi" : Nhẫn đến trẻ con đùa giỡn. "Dùng cỏ cây và bút" :
Hoặc dùng cỏ, hoặc dùng cây tạo tượng Phật, hoặc dùng bút vẽ tượng Phật.
"Hoặc dùng đến móng tay" : Hoặc dùng móng tay chấm mực. "Mà vẽ hoạ
tượng Phật."
Thuở xưa, tại Tứ Xuyên có một người chuyên đọc Kinh Kim Cang và dùng
tay biên Kinh Kim Cang ở trong hư không. Mỗi ngày đều đứng tại chỗ đó
biên. Về sau mỗi khi trời mưa thì chung quanh chỗ ông ta biên Kinh Kim
Cang mưa chẳng rớt xuống đất, người đã khai mở ngũ nhãn mới thấy được.
Tuy ông ta dùng tay biên Kinh Kim Cang ở trong hư không, song, thiên long
bát bộ cũng đều bảo hộ bộ Kinh Kim Cang nầy, khiến cho nước mưa chẳng
rớt vào chỗ nầy. Cho nên về sau cũng tại chỗ nầy tạo dựng một ngôi chùa.
Do đó, có thế thấy chỉ dùng tay biên ở trong hư không, mà có cảm ứng lớn
như thế. chuyện nầy ghi ở trong linh dị lục của Kinh Kim Cang, là chuyện
có thật.
"Hết thảy những người đó" : Những người nói ở trên là những người tạo
tượng Phật. "Từ từ tích công đức" : Tích lũy công đức dần dần. "Ðầy đủ tâm
đại bi, đều đã thành Phật đạo" : Hiện tại đều đã thành Phật đạo. "Giáo hóa
các Bồ Tát" : Phật giáo hóa các Bồ Tát, khiến cho bậc Duyên Giác, Thanh
Văn đều hồi tiểu hướng đại tu pháp Bồ Tát, sau đó hồi hướng Phật thừa. "Ðộ
thoát vô lượng chúng" : Ðộ thoát vô lượng vô biên chúng sinh, cũng đều
cùng thành Phật đạo.
Nếu người nơi chùa tháp
Tượng báu và tượng vẽ.
Dùng hương hoa, phan, lọng
Cúng kính mà cúng dường
Hoặc khiến người tấu nhạc
Ðánh trống thổi sừng ốc.
Tiêu, sáo, cầm, đờn sắt
Tì bà chụp chã đồng
Các tiếng hay như thế
Ðem hết để cúng dường.
"Nếu người nơi chùa tháp" : Nếu có người ở nơi chùa hoặc tháp. "Tượng báu
và tượng vẽ" : Bất cứ đối với tượng báu hoặc tượng vẽ. "Dùng hương hoa
phan lọng". Dùng hương hoa, phan báu và lọng báu, tức cũng bao gồm
những dụng cụ khác như tràng chuỗi, y phục, thực phẩm, âm nhạc .v.v.
"Cung kính mà cúng dường" : Dùng tâm cung kính để cúng dường tượng
Phật. "Hoặc khiến người tấu nhạc" : Hoặc mời người hòa tấu âm nhạc.
"Ðánh trống thổi sừng ốc" : Ðánh trống hoặc thổi kèn sứng hoặc kèn ốc.
"Tiêu, sáo, cầm, đờn sắt" : Hoặc thổi ống tiêu, ống sáo, hoặc gảy đàn cầm,
đàn sắt. "Tì bà chập chã đồng" : Hoặc gảy đàn tì bà, hoặc đánh chập chã.
Dùng những thứ âm nhạc nầy để tán thán Phật, Pháp, Tăng. Ví như đánh
mõ, đánh chuông cũng là âm nhạc ; tụng Kinh, đọc Chú, ngâm nga kệ tán,
đó cũng đều là dùng âm nhạc để tán thán cúng dường Phật. "Các diệu âm
như thế" : Những âm thanh vi diệu như thế. "Ðem hết để cúng dường" :
Dùng những âm thanh vi diệu trang nghiêm nầy để cúng dường Phật.
Hoặc dùng tâm vui mừng
Ca tụng công đức Phật.
Dù chỉ một vài lời
Họ đều đã thành Phật
Hoặc người tâm tán loạn
Cho đến dùng cành hoa.
Cúng dường trước tượng vẽ
Lần thấy vô số Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc là chỉ chắp tay.
Cho đến giơ một tay
Hoặc là hơi cúi đầu
Dùng để cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật.
Tự thành vô thượng đạo
Rộng độ vô số chúng
Vào Vô dư Niết bàn
Như củi hết lửa tắt.
"Hoặc dùng tâm vui mừng" : Hoặc có người dùng tâm vui mừng khen ngợi
Phật. "Ca tụng công đức Phật" : Tán khen ngợi đức hạnh của Phật. "Cho đến
một vài tiếng" : Dù chỉ ca ngợi tán thán đức hạnh của Phật một vài tiếng.
"Ðều đã thành Phật đạo" : Những người đó cũng đều đã thành Phật đạo, hà
huống là người tán thán Phật rất nhiều, thì càng sớm thành Phật đạo. "Nếu
người tâm tán loạn" : Nếu có người tâm tán loạn chẳng có định lực. "Cho
đến dùng cành hoa" : Cho đến dùng một cành hoa để cúng tượng Phật vẽ.
"Lần thấy vô số Phật" : Vì họ tích lũy công đức cúng dường tượng Phật vẽ,
cho nên họ từ từ thấy được vô số Ðức Phật. "Hoặc có người lễ lạy" : Hoặc
có người đảnh lễ Phật. "Hoặc chỉ là chấp tay" : Hoặc có người chắp tay ở
trước Phật. "Cho đến giơ một tay" : Hoặc là giơ một tay lên trán (đây là chỉ
hành động ít cung kính). Hoặc là hơi cúi đầu xuống. "Dùng để cúng dường
tượng" : Dùng tâm ít cung kính nầy để cúng dường tượng vẽ, tượng báu.
"Lần thấy vô lượng Phật" : Do ý niệm phát tâm ban đầu nầy, sẽ lần lần gặp
được vô lượng Ðức Phật. "Tự thành vô thượng đạo" : Vì mình tích công lũy
đức mà được thành tựu Phật đạo. "Rộng độ vô số chúng" : Chẳng những
mình thành Phật đạo, mà còn rộng độ vô lượng vô số chúng sinh. "Vào Vô
dư Niết Bàn" : Vào cõi Vô dư Niết Bàn. "Như củi hết lửa tắt" : Giống như
củi cháy hết thì lửa tắt. Cơ duyên của chúng sinh như củi, ứng hiện của Phật
như lửa, cơ củi của chúng sinh đã độ tận thì lửa cũng phải tắt.
Hoặc người tâm tán loạn
Vào đến trong chùa tháp
Miệng niệm Nam Mô Phật
Họ đều đã thành Phật.
"Nếu người tâm tán loạn" : Tâm tán loạn tức là tâm chẳng chuyên nhất,
chẳng có định lực, cũng giống như khách đến đây tham quan chùa, tham
quan tượng Phật, chứ chẳng vì lễ Phật, chỉ là đến tham quan, đó đều gọi là
tâm tán loạn, họ đều chẳng có tâm thành, tuy là đến chùa tham quan, nhưng
vốn chẳng biết có Phật, cho nên có thể nói là, tán loạn trong sự tán loạn.
"Vào đến trong chùa tháp" : Ðến chùa hoặc vào tháp Phật. "Miệng niệm
Nam Mô Phật, họ đều đã thành Phật" : Ít nhất họ niệm được một tiếng Nam
Mô Phật, do một niệm ban đầu nầy, mà cứu kính họ đều có thể thành Phật.
Tại sao ? Vì đi ngàn dặm do khởi đầu bước thứ nhất ; vạn đức viên dung ,
nhờ một niệm ban đầu. Nhờ trồng nhân Phật một tiếng niệm Phật ban đàu,
mà tương lai đắc được quả vị Phật.
Chúng ta niệm Nam Mô Phật, Nam Mô A Di Ðà Phật, Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly
Quang Vương Phật. Bạn thấy rất dễ niệm, nhưng cơ hội nầy chẳng dễ gì gặp
được. Bây giờ các bạn đều biết niệm danh hiệu Phật, nhưng mọi người hãy
nghĩ xem, trên thế giới nầy người không biết niệm Phật nhiều hay là người
biết niệm Phật nhiều ? Cũng có thể nói người chẳng biết niệm Phật thì nhiều
như sao trên bầu trời. Cho nên nói người biết niệm Phật, đều nhờ căn lành
của kiếp trước chín mùi, nên đời nầy mới gặp được pháp môn niệm Phật. Do
đó, các vị phải trân tiếc căn lành của mình, đừng có bỏ lỡ.
Khi Ðức Phật còn tại thế, thì Ðề Bà Ðạt Ðà (anh em chú bác với Ðức Phật)
luôn luôn làm trái ngược với Ðức Phật. Ðức Phật dạy đệ tử ăn chay không
ăn thịt, thì Ðề Bà Ðạt Ða nói với Phật và đệ tử của Phật không những không
ăn thịt mà muối cũng không ăn, đó là muốn biểu thị ông ta cao hơn Ðức Phật
một bậc. Song, ông ta chẳng chịu niệm Phật. Ông ta một đời tạo tội nghiệp,
khi ông ta sắp hãm vào địa ngục (tức là nhục thân sống nầy rơi vào địa ngục)
thì ông ta đột nhiên nghĩ muốn niệm Phật. Song, ông ta muốn niệm Phật mà
niệm chẳng ra, chỉ niệm được hai chữ "Nam Mô...", còn chữ Phật thì niệm
chẳng ra, đó là vì nghiệp chướng che đậy ông ta, cho nên niệm chẳng ra
được chữ Phật. Ðức Phật nói :"Người nầy cũng rất đáng thương ! Các con
đừng khinh thường ông ta, khi ông ta chịu hết khổ dưới địa ngục, được ra
khỏi địa ngục lại tu hành, lúc đó có thể sẽ chứng Bích Chi Phật, danh hiệu
của vị Bích Chi Phật đó là Nam Mô, vì ông ta lúc đó niệm được hai chữ
Nam Mô. Cho nên các bạn đừng coi thường niệm Phật quá dễ dàng như thế,
cho rằng lúc nào cũng có thể niệm Phật được. Hiện tại các bạn chẳng bị
nghiệp chướng che đậy, cho nên mới niệm được dễ dàng, một khi bị nghiệp
chướng che đậy thì bạn muốn niệm cũng niệm chẳng ra.
Và có câu chuyện nầy, cũng vào lúc Ðức Phật còn tại thế, thì có một ông già
rất nghèo. Ông ta thấy Ðức Phật mỗi ngày dẫn một ngàn hai trăm vị đệ tử
ôm bát đi khất thực, chẳng bận việc đời, rất thanh tịnh tự tại, do đó ông ta
cũng muốn xuất gia. Ông ta đến vườn Cấp Cô Ðộc để xin xuất gia, nhưng
ngày đó Ðức Phật đi vắng. Ðệ tử của Phật có những người khai mở ngũ
nhãn, khai mở pháp nhãn, khai mở huệ nhãn hoặc đã hoàn toàn chứng được
ngũ nhãn lục thông, cũng có những người chứng sơ quả, nhị quả, tam quả và
tứ quả A La Hán. Khai mở Phật nhãn chẳng phải là chứng quả, đó gọi là báo
đắc thông. Vì rất nhiều người đời đã từng tu 42 tay và mắt và Chú Lăng
Nghiêm, đủ thứ pháp môn, cho nên đắc được quả báo nầy. Bậc Thánh chứng
được sơ quả đến tứ quả, thì có thể biết được nhân duyên ở trong tám vạn đại
kiếp. Ông già nầy muốn xuất gia, nên những vị đệ tử đại A La Hán của Phật,
bèn quán sát xem căn cơ của ông già nầy thế nào, có thể xuất gia được chăng
? Sau khi quán sát thì thấy ông già nầy trong tám vạn đại kiếp chẳng cúng
dường Phật, cũng chẳng từng lễ Phật, cũng chẳng niệm Phật ; căn bản chẳng
có gieo trồng tơ hào căn lành nào, do đó cho rằng ông ta chẳng thể xuất gia.
Cho nên có câu : "Ðừng cho rằng việc xuất gia là dễ". "Ðều nhiều kiếp trồng
bồ đề" : Người xuất gia phải đời đời kiếp kiếp, gieo trồng nhiều căn lành,
phát bồ đề tâm, sau đó mới có thể xuất gia, chứ chẳng phải nói tôi muốn
xuất gia, thì có thể xuất gia. Nếu bạn chẳng có căn lành, thì dù muốn xuất
gia cũng có rất nhiều chướng ngại, tức là xuất gia rồi, qua một ngày, hai
ngày hoặc một tháng, hai tháng thì hoàn tục ; hoặc là xuất gia được một
năm, hai năm lại hoàn tục, thậm chí ba năm, năm năm, mười năm sau đều có
thể hoàn tục. Cho nên bạn đừng xem việc xuất gia quá dễ dàng.
Ðệ tử của Ðức Phật xem thấy ông già nầy, trong tám vạn đại kiếp chẳng có
gieo trồng căn lành, do đó bèn nói với ông ta : "Ông không thể xuất gia
được, vì ông đã lới tuổi, không thể tu hành được, ông nên trở về." Ông già
nghe nói rất buồn rầu, vừa đi vừa khóc tự nhủ :"Ta cho rằng xuất gia quá dễ
dàng, không ngờ đệ tử của Phật chẳng nhận ta, đại khái hiềm ta vừa già vừa
nghèo, ta một đời làm người cũng chẳng có ý nghĩa gì, chết đi cho xong !"
Cho nên ông ta vừa khóc vừa đi đến bờ biển. Lúc đó Ðức Phật đến bên ông
ta, hỏi ông ta :"Nầy ông lão, tại sao ông muốn tự tử ?" Ông ta nói : "Tôi
muốn xuất gia, đến vườn Cấp Cô Ðộc, đức Phật đi vắng, đệ tử của Ðức Phật
chẳng nhận tôi. Tôi nghĩ tôi chẳng còn muốn sống nữa, muốn chết đi cho rồi
! " Ðức Phật nói :"Ông muốn xuất gia phải chăng ? Chẳng có vấn đề gì hết !
Ông hãy theo ta trở về, ta hứa cho ông xuất gia." Ông già theo đức Phật xuất
gia tu hành, chẳng bao lâu thì chứng được quả A La Hán.
Ðệ tử của Phật chẳng minh bạch việc nầy, đều cảm thấy kì lạ : "Ông già nầy
chẳng có căn lành, sao lại chứng được quả A La Hán ? Trong tám vạn đại
kiếp ông ta cũng chẳng làm việc tốt, tại sao Phật cho ông xuất gia ?" Do đó,
bèn hỏi Ðức Phật.
Ðức Phật bèn giải thích : "Các con chỉ có thể thấy biết được nhân quả trong
tám vạn đại kiếp, còn việc ngoài tám vạn đại kiếp, các con chẳng biết được.
Ông già nầy trước tám vạn đại kiếp cũng rất nghèo, một ngày nọ, ông ta vào
rừng đốn củi, thì gặp con cọp muốn ăn thịt ông ta, ông ta leo lên cây trốn,
nhưng vẫn quá sợ hãi bèn niệm "Nam Mô Phật", vì niệm một tiếng "Nam
Mô Phật" thì cọp bỏ đi. Cho nên, đến bây giờ căn lành hạt giống ông ta niệm
"Nam Mô Phật" đã chín mùi, cho nên ông ta đến xuất gia và còn chứng được
quả A La Hán. Từ câu chuyện nầy xem ra, đủ thấy xuất gia chẳng phải là
việc dễ dàng.
Còn có câu chuyện nầy, tại Ấn Ðộ có một thứ ngoại đạo, họ chuyên cúng
dường một tượng thiên thần. Thân thể của tượng thiên thần nầy dùng bùn
hoặc gỗ tạo thành, còn cái đầu thì làm bằng vàng. Tin nầy bị kẻ trộm biết
được, y muốn đi trộm cắp đầu của thiên thần. Y đến nơi, vì oai đức của vị
thiên thần bèn sinh tâm sợ hãi, lúc đó y bèn khởi niệm "Nam Mô Phật", thì
tâm sợ hãi chẳng còn nữa. Do niệm một tiếng "Nam Mô Phật", mà khiến cho
oai đức của thiên thần chẳng còn linh hiển nữa, cho nên y bèn trộm cắp đầu
vị thiên thần. Trộm cắp đi rồi thì một số người nói : "Ê ! Bạn hãy xem kìa, vị
thiên thần mà các vị đều tin là vị thiên thần chẳng còn linh nữa, nếu Ngài
linh thì sao lại bị mất đầu ? Các vị tin vị thần nầy chẳng có ích gì." Vừa nói
như vậy thì linh tính của vị thiên thần lập tức hiển hiện. (Thần có khi có linh
khí, linh khí mà nhập vào ai, thì người đó bất tỉnh nhân sự.) Lúc đó, thiên
thần nhập vào thân người vừa nói bèn nói rằng : "Ta chẳng phải là không
linh ! Kẻ trộm đó vốn chẳng dám ăn cắp cái đầu của ta, nhưng y niệm Phật
một tiếng "Nam mô Phật", thì quang minh cuả Phật chiếu sáng, khiến cho
mắt của ta nhắm lại chẳng còn mở được, cho nên chẳng có cách chi giữ được
đầu của ta, mà bị y ăn cắp mất, chứ chẳng phải ta chẳng linh, mà là oai đức
của Phật quá lớn so với ta, cho nên ta chẳng cách chi giữ được đầu của ta."
Nói đến đây, có phải nói Phật giúp tên trộm ăn cắp đầu bằng vàng của vị
Thiên thần, kêu y đi tạo nghiệp chăng ? Chẳng phải, mà là công đức niệm
Phật không thể nghĩ bàn. Bất cứ người thiện niệm Phật hoặc người ác niệm
Phật, đều có công lực đồng nhau. Cho nên, tuy nhiên là tên trộm, nhưng y
biết niệm "Nam Mô Phật", cho nên y ăn cắp đầu bằng vàng của vị Thiên
thần đi, đó chẳng phải Phật giúp y trộm cắp, mà là Phật thành tựu căn lành
của y. Tại sao nói y ăn cắp đồ, mà còn có căn lành ? Trong Kinh Pháp Hoa
nói : "Xưng được Nam Mô Phật, đều cùng thành Phật đạo." Tuy lúc đó, y là
tên trộm, nhưng y có căn lành niệm Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật.
Ðây gọi là : "Thuận nghịch đều tinh tấn". Do đó, mới nói chẳng phải Phật
giúp y ăn cắp đầu vị Thiên thần, mà là Phật đối đãi với chúng sinh đều bình
đẳng. Bất cứ người thiện kẻ ác niệm Phật đều có cảm ứng như nhau.
Nói đến đây, mọi người đừng hiểu lầm, niệm Phật thì có thể ăn cắp đầu bằng
vàng của vị Thiên thần, vậy tôi cũng niệm Phật đi ăn cắp đầu bằng bạc của
vị Thiên thần, như thế thì không được. Tên trộm nầy chẳng hiểu Phật pháp,
chẳng qua nghe họ nói niệm "Nam Mô Phật" là tốt, y bèn ghi nhớ. Ðến lúc
sợ sệt, thì y niệm "Nam Mô Phật", song, y vốn chẳng học qua Phật pháp.
Chúng ta là người học Phật pháp, nên nhớ đừng ỷ vào oai đức niệm Phật,
nương quang minh của Phật mà đi trộm đồ, như thế thì chẳng được ! Vì bạn
đã hiểu biết Phật pháp, biết ăn cắp là phạm giới, bạn đã biết rõ mà cố phạm,
thì tội lại thêm tội, về điểm nầy, mỗi người đều phải nhận thức rõ ràng.
Tại sao phải nói về điểm nầy ? Vì xưa kia có vị Hòa Thượng, trước khi ông
ta xuất gia là một quân nhân, về sau học Phật pháp thì ông ta rất tin pháp
môn niệm Phật và còn luôn luôn hướng dẫn, một số người niệm Phật. Sau
khi xuất gia thọ giới cũng có tôi ở đó, khoảng năm, sáu năm sau thì ông ta
đến Hương Cảng.
Hương Cảng tân giới, có một cơ sở của cơ đốc giáo gọi là "đạo phong sơn",
chuyên môn phá hoại Phật giáo, phá hoại người xuất gia. Dùng tiền và nữ
sắc để dụ hoặc khiến cho họ hoàn tục. Có những người xuất gia chẳng có
tiền dùng, hoặc muốn tìm nữ sắc thì đều đi đến đó. Vị Hòa Thượng nầy cũng
đến đó và làm việc nấu ăn. Người xuất gia đến đó đều ăn mặn, chẳng ăn
chay, lại còn sát sinh, giết gà, giết vịt. Vị Hòa Thượng nầy làm bếp, cho rằng
niệm Phật thì có thể siêu độ chúng sinh, cho nên khi ông ta giết gà giết vịt,
thì vừa cầm dao giết thì vừa niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật ! Nam Mô A Di
Ðà Phật !" Ông ta cho rằng khi sát sinh niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật", thì
có thể siêu độ những con gà con vịt đó. Kết quả, ở chưa quá nửa năm, thì
phát sinh bệnh thần Kinh, chẳng bao lâu thì chết.
Do đó nên biết, biết rõ mà cố phạm thì tội tăng gầp ba. Không sai ! Niệm
Phật có thể siêu độ, nhưng đừng có cho rằng ta giết con vật, thì nó lập tức
được vãng sinh về thế giới Cực Lạc, khi bạn chưa có công phu, thì không thể
tùy tiện sát sinh, không thể nói ta giết nó, thì muốn nó vãng sinh về thế giới
Cực Lạc. Do đó, chúng ta đừng hiểu lầm niệm Phật, thì có thể tùy tiện tạo
nghiệp. Tình hình vị Hòa Thượng đó chính tôi thấy được. Khi ông ta bệnh
thần Kinh thì muốn đến gặp tôi, nhưng chẳng gặp được tôi. Tên của ông ta là
Hoành Huy, là đồ tôn của Lão Hòa Thượng Hư Vân.
Nơi chư Phật quá khứ
Tại thế hoặc diệt độ
Người nghe được pháp nầy
Ðều đã thành Phật đạo.
Các Thế Tôn vị lai
Số đông không thể lường
Các vị Như Lai đó
Cũng phương tiện nói pháp.
Tất cả các Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Ðộ thoát các chúng sinh
Vào trí Phật vô lậu.
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật.
"Nơi chư Phật quá khứ" : Ở nơi tất cả chư Phật trong quá khứ. "Tại thế hoặc
diệt độ" : Bất cứ tại thế gian hoặc vào Niết Bàn rồi. "Nếu nghe được pháp
nầy" : Nếu ai nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. "Ðều đã thành Phật đạo"
: Tất cả những người trong quá khứ nghe được Kinh Pháp Hoa, họ đều đã
thành Phật. "Các Thế Tôn vị lai" : Tất cả chư Phật vị lai. "Số đông không thể
lường" : Số đông vô lượng vô biên không thể lường. "Các đức Như Lai đó" :
Tất cả các Như Lai Thế Tôn. "Cũng phương tiện nói pháp" : Cũng dùng
pháp môn phương tiện, trước hết nói quyền giáo, sau mới nói thật giáo. "Tất
cả các Như Lai, dùng vô lượng phương tiện" : Mười phương tất cả chư Phật,
dùng vô lượng vô biên pháp môn phương tiện. "Ðộ thoát các chúng sinh,
vào trí Phật vô lậu" : Khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ vô
lậu của Phật. "Nếu có người nghe Pháp, không ai chẳng thành Phật" : Tất cả
những người đã nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chẳng có một người nào
mà tương lai không thành Phật.
Cho nên hiện tại chúng ta nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tương lai
mỗi người đều có cơ hội thành Phật, đừng xem thường chính mình, vì ba
ngàn năm về trước Ðức Phật sớm đã vì người thọ ký.
Bạn đừng cho rằng niệm Phật là việc quá dễ dàng, hiện tại chúng ta niệm
một câu danh hiệu Phật, cảm thấy chẳng khó khăn gì, tại sao ? Vì chúng ta
chẳng có nghiệp chướng sâu nặng, nếu người có nghiệp chướng, nghĩ muốn
niệm Phật cũng niệm chẳng được. Như Ðề Bà Ðạt Ða đã nói ở trước, ông ta
chỉ niệm được hai chữ "Nam Mô ..." Tại sao ? Vì nghiệp chướng của ông ta
quá nặng cho nên chữ Phật niệm chẳng ra.
Tại Trung Quốc, có câu chuyện nầy cũng chứng minh người nghiệp chướng
quá nặng thì không thể niệm Phật được. Vào thời Nam Tống, có một vị thừa
tướng tên là Tần Cối. Ông ta vốn cũng có chút căn lành, cho nên đời nầy rất
thông minh, thi đỗ trạng nguyên. Song, sau khi ông ta làm quan, thì đố kị
ghen ghét người tài giỏi, nhất là đối với Nhạc Phi như cái đinh trong con
mắt, do đó bày kế cho kẻ khác giết chết, và còn tạo đủ thứ tội nghiệp rất
nặng. Vì Bồ Tát Ðịa Tạng và ông ta có duyên mới tìm cách để độ ông ta bèn
nói : "Ta đến chỗ ông ta, sẽ tha thứ tất cả tội nghiệp của ông ta." Do đó, Bồ
Tát Ðịa Tạng bèn hóa thân hiện làm Tỳ Kheo đến gặp Tần Cối. Lúc đó, Tần
Cối là tể tướng, gặp Hòa Thượng đến cũng tiếp đón. Hòa Thượng nói với
ông ta : "Ông hãy nên niệm Phật, bây giờ địa vị của ông đã cao..." Nhưng
Tần Cối chẳng niệm, ông ta nói : "Hà tất phải niệm ?" Ông ta vốn một chữ
Phật cũng chẳng nói. Lúc đó, Bồ Tát hiển thần thông dùng cây phất trần của
Ngài, phất một cái thì thân của Tần Cối quỳ xuống đất, muốn đứng dậy cũng
chẳng đứng được. Do đó, Bồ Tát Ðịa Tạng dũi tay ra nói : "Ông hãy xem
đây ! Trong tay ta là chữ gì ?" Trong tay Bồ Tát Ðịa Tạng vẽ chữ Phật,
nhưng Tần Cối nhìn rồi bèn lớn tiến nói : "Ta đi học từ nhỏ, đậu tú tài, đậu
cử nhân, đậu tiến sĩ, đậu trạng nguyên. Hiện tại văn thư của các nước, đều
phải qua sự xét duyệt của ta trước, rồi mới quyết định xử lý như thế nào.
Nếu chữ nầy mà ta chẳng biết, thì làm sao mà làm thừa tướng ? Chữ nầy
chẳng phải ta chẳng biết, nhưng chỉ vì ta không niệm !" Bồ Tát Ðịa Tạng
thấy người nầy, thật là nghiệp chướng quá sâu nặng, chẳng cách chi độ được
ông ta, bèn bỏ đi, sau đó Tần Cối chết thì đọa vào địa ngục.
Do đó có thể thấy, niệm Phật chẳng phải là việc dễ dàng. Tại sao bình
thường chúng ta phải niệm Phật ? Bình thường niệm Phật là chuẩn bị cho lúc
lâm chung. Tại sao không đợi đến lúc lâm chung mới niệm ? Vì tập quán là
do sự tích lũy hằng ngày hằng tháng mà thành. Bình thường bạn chẳng có
thói quen niệm Phật, thì khi đến lúc lâm chung chẳng nghĩ đến niệm Phật,
hoặc chẳng biết niệm Phật. Do đó, bình thường phải học niệm Phật, tu pháp
môn tịnh độ, đến lúc lâm chung thì chẳng sợ hãi bối rối, mà được bình an
vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Tại sao phải vãng sinh về thế giới Cực Lạc ? Vì khi Phật A Di Ðà tại nhân
địa làm Tỳ Kheo Pháp Tạng, thì đã từng phát 48 đại nguyện. Trong đó có
nói : "Sau khi ta thành Phật, thì tất cả chúng sinh trong mười phương, nếu ai
niệm danh hiệu của ta, thì ta nhất định tiếp dẫn về thế giới của ta, tương lai
sẽ thành Phật. Ở trong thế giới của ta, chúng sinh đều từ hoa sen hóa sinh,
nên thân thể thanh tịnh không nhiễm". Vì Phật A Di Ðà phát đại nguyện nầy,
nên tất cả chúng sinh đều nên tu pháp môn niệm Phật, đây là pháp môn tu rất
dễ, rất hợp căn cơ. Trong Kinh nói : "Thời mạt pháp, một ức ngưới tu thì ít
có người đắc đạo, chỉ có pháp môn niệm Phật thì được độ." Nhất là thời đại
mạt pháp hiện nay, pháp môn niệm Phật rất hợp với nhiều người.
Nhưng tại tây phương, hiện tại chẳng phải là thời đại mạt pháp, có thể nói là
thời đại chánh pháp. Tại sao nói là thời đại chánh pháp ? Vì Phật pháp mới
truyền vào nước phương tây, đang thịnh vượng. Cho nên hiện nay tại nước
Mỹ, có rất nhiều người thích tham thiền đả tọa, đó là biểu hiện chánh pháp.
Thời kỳ chánh pháp cũng có thể tu pháp môn niệm Phật ; thời kỳ mạt pháp
cũng có thể tu pháp môn niệm Phật. Pháp môn niệm Phật thời đại nào cũng
có thể tu. Nếu ai chẳng hợp với pháp môn khác, thì có thể tu pháp môn niệm
Phật.
Ðại sư Vĩnh Minh Thọ nói : "Có thiền có tịnh độ như cọp có thêm cánh."
Vừa tu thiền vừa niệm Phật giống như cọp có thêm cánh. "Ðời nầy làm nhân
sư", đời hiện tại có thể làm sư biểu của người. "Tương lai làm Phật tổ",
tương lai có thể làm Phật làm tổ.
Cho nên người chân chánh tham thiền, tức là chân chánh niệm Phật ; người
chân chánh niệm Phật, tức là chân chánh tham thiền. Nói cao hơn một bậc là
người chân chánh trì giới, tức cũng chân chánh tham thiền, người chân
chánh tham thiền, tức cũng chân chánh trì giới. Người chân chánh giảng
Kinh thuyết pháp, thì họ vì giảng Kinh mà giảng Kinh, tức cũng là chân
chánh tham thiền. Trong Chứng Ðạo Ca của Vĩnh Gia đại sư có nói :
"Tông cũng thông, lời cũng thông,
Ðịnh huệ viên minh chẳng trệ không."
Vừa biết tham thiền, vừa biết giảng Kinh, đó là tông và lời đều thông, tiến
thêm một bước nữa, người chân chánh trì Chú, người chân chánh tu mật
tông, tức cũng chân chánh tham thiền.
Thiền, giáo, luật, mật, tịnh, tuy nói là năm, nhưng quy về gốc chỉ là một,
chẳng có hai. Kỳ thật, nếu nói sâu thêm bước nữa, thì cho đến một cũng
chẳng có, thì làm gì mà có tới năm ? Người chân chánh học Phật pháp, thì
tại điểm nầy nên minh bạch. Cho nên, có người cho rằng pháp môn niệm
Phật là tối cao, tham thiền thì chẳng đúng ; hoặc có người nói tham thiền là
tối cao, niệm Phật là sai lầm, đó đều là những người chẳng hiểu Phật pháp.
Người hiểu Phật pháp chân chính, thì biết rõ tất cả đều là Phật pháp, đều bất
khả đắc, tức vô pháp bất khả đắc, hà tất đầu lại thêm đầu ? Hà tất chẳng có
việc tìm việc làm ? Nếu bạn thật hiểu pháp thì vô pháp khả đắc. Song, đối
với những người chẳng hiểu pháp, dù bạn nói với họ pháp căn bản gì cũng
vô ích, sẽ thất vọng. Cho nên Phật thí quyền pháp, là vì nói thật pháp ; nói
quyền trí là vì thật trí. Thật trí là gì ? Thật trí là "quy vô sở đắc". Thật tướng
vô tướng, vô sở bất tướng, đó mới là trí huệ chân thật.
Chư Phật vốn thệ nguyện
Ta tu hành Phật đạo
Muốn hết thảy chúng sinh
Cũng đều được đạo nầy.
Chư Phật đời vị lai
Tuy nói trăm ngàn ức
Vô số các pháp môn
Thật tế vì một thừa.
Chư Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết pháp thường vô tánh
Giống Phật từ duyên sinh
Vì thế nói một thừa.
Pháp đó trụ pháp vị
Tướng thế gian thường trụ
Biết rồi nơi đạo tràng
Ðạo sư phương tiện nói.
Ðoạn Kinh văn ở trước có nói : "Tất cả các Như Lai, dùng vô lượng phương
tiện, độ thoát các chúng sinh, vào trí Phật vô lậu, nếu có ai nghe pháp, chẳng
ai không thành Phật" : Ðây là nhân dụ. Kinh Pháp Hoa vốn có "bổn môn
thập diệu, chi môn thập diệu". Song, sợ người không hiểu, cho nên cũng
chẳng nói tỉ mỉ. Bây giờ chỉ nói "nhân (người), hành, giáo, lý", đều một
dạng. Sáu câu vừa nói ở trên là nhân dụ, tất cả mọi người đều thành Phật
đạo. Tiếp theo là : "Chư Phật vốn thệ nguyện, ta tu hành Phật đạo, muốn hết
thảy chúng sinh, cũng đều được đạo nầy". Ðây là hành dụ, chỉ sự tu hành
đều như nhau. Cho nên nói : "Chư Phật vốn thệ nguyện" : Mười phương chư
Phật vốn thệ nguyện. "Ta tu hành Phật đạo" : Pháp môn Phật đạo của ta tu
hành. "Muốn hết thảy chúng sinh" : Muốn khiến cho hết thảy chúng sinh.
"Cũng đều được đạo nầy" : Cũng tu hành đạo nầy, chứng được đạo nầy.
Rõ là vô pháp không chỗ đắc được, sao lại nói được đạo nầy ? Ðạo nầy
chẳng phải được từ bên ngoài, như "Vô thượng chánh đẳng cháng giác".
Trong Kinh Kim Cang nói : "Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Ðăng, thật chẳng
được pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác". Vô thượng chánh đẳng
chánh giác nầy, là tự tính của chúng ta vốn đầy đủ, chẳng phải được từ bên
ngoài. Cho nên nói là "vô sở đắc", nhưng chúng ta chẳng biết. Ví như trong
túi áo có hạt minh châu, nhưng chúng ta chẳng biết có hạt minh châu. Hạt
minh châu nầy như Phật tánh vốn có của chúng ta, chẳng khác gì với Phật.
Vậy tại sao chúng ta chẳng thành Phật ? Vì chúng ta chẳng phát hiện được
Phật tánh vốn có của chính mình. Cho nên chẳng thành Phật. Thành Phật chỉ
bất quá khôi phục lại của báu vốn có của chúng ta mà thôi. "Cũng đều được
đạo nầy" : Khiến cho tất cả chúng sinh, cũng đều tu hành pháp môn nầy.
Ðây gọi là hành dụ, tu hành là như nhau. "Chư Phật đời vị lai". Tất cả chư
Phật đời vị lai. "Tuy nói trăm ngàn ức" : Tuy diễn nói trăm ngàn vạn ức thứ.
"Vô số các pháp môn" : Vô số phương tiện pháp môn. "Thật tế vì một thừa"
: Kỳ thật đều vì nói một thừa pháp.
"Chư Phật Lưỡng Túc Tôn" : Mười phương chư Phật là đấng Lưỡng Túc
Tôn đầy đủ phước và huệ. "Biết pháp thường vô tánh" : Chư Phật biết các
pháp vốn chẳng có tự tánh. "Giống Phật từ duyên sinh" : Chẳng qua các
pháp môn của Phật, đều do duyên mà sinh ra. "Vì thế nói một thừa" : Vì một
thừa Phật giáo mới hiển nói tạng giáo, thông giáo và biệt giáo. Trên thực tế
thì, vì một Phật thừa, đây gọi là giáo dụ, giáo hóa là như nhau. "Pháp đó trụ
pháp vị" : Pháp đó tức là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. "Trụ pháp vị", pháp vị
nầy, pháp đó tức là pháp vị. Pháp vị cũng tức là pháp đó. "Pháp đó trụ pháp
vị, tướng thế gian thường trụ" : Pháp đó trụ pháp vị, trụ ở đâu ? Tức trụ vào
tướng thế gian. Tướng thế gian thường trụ, pháp thế gian tức là pháp xuất
thế, pháp xuất thế tức là pháp thế gian. Do đó, Lục Tổ nói :
"Phật pháp tại thế gian,
Chẳng lìa thế gian giác,
Lìa thế gian cầu bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ."
Giác ở tại thế gian, nếu lìa khỏi pháp thế gian, lại đi tìm sự giác của giác ngộ
nầy, ví như tìm sừng trên đầu con thỏ. "Nơi đạo tràng biết rồi" : Ðức Phật
nói, ta ngồi tại Bồ Ðề đạo tràng, thành Phật rồi thì biết rõ đạo lý bên trong.
"Ðạo Sư phương tiện nói" : Cho nên Ðạo Sư của trời người, dùng đủ thứ
phương tiện, để xiển minh diệu pháp nầy, mà lý tánh đắc được đều là một.
Chỗ trời người cúng dường
Hiện tại mười phương Phật
Số đông như Hằng sa
Xuất hiện nơi thế gian.
Vì yên ổn chúng sinh
Cũng nói pháp như thế
Biết tịch diệt bậc nhất
Vì dùng sức phương tiện.
Tuy bày nhiều thừa pháp
Thật tế vì Phật thừa
Biết các hạnh chúng sinh
Nghĩ tưởng trong thâm tâm.
Nghiệp nhiễm trong quá khứ
Tánh dục sức tinh tấn
Và các căn lợi độn
Dùng đủ thứ nhân duyên.
Thí dụ và lời lẽ
Tùy theo phương tiện nói.
"Chỗ trời người cúng dường" : Chỗ đáng cúng dường của trời người. "Hiện
tại mười phương Phật, số đông như Hằng sa". "Xuất hiện nơi thế gian, vì
yên ổn Chúng sinh" : Vì muốn khiến cho chúng sinh đều đắc được an lạc.
"Cũng nói pháp như thế" : Cũng nói bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. "Biết
tịch diệt bậc nhất" : Phật biết pháp thật tướng, là tịch diệt bậc nhất. "Vì dùng
sức phương tiện" : Nếu ban đầu mà Phật nói diệu lý thật tướng, thì chẳng có
ai hiểu, cho nên trước hết dùng đủ thứ sức phương tiện khéo léo, vì thật thí
quyền. "Tuy bày nhiều thừa pháp" : Tuy khai thị đủ thứ pháp môn, đủ thứ
đạo lý. "Thật tế vì Phật thừa" : Mục đích cứu kính là vì nói Phật thừa, khiến
cho chúng sinh đều đặng thành Phật. "Biết các hạnh chúng sinh" : Phật cũng
biết tất cả hạnh nghiệp của chúng sinh. "Nghĩ tưởng trong thâm tâm" : Cũng
minh bạch trong tâm chúng sinh, nghĩ những gì tưởng những gì. "Nghiệp
nhiễm trong quá khứ" : Tất cả đều là nghiệp quả tập nhiễm của chúng sinh
trong quá khứ. "Tánh dục sức tinh tấn" : Sức dục niệm tinh tấn của họ. "Và
các căn lợi độn" : Còn có sự khác biệt về căn tánh của chúng sinh, có người
lợi căn có người độn căn, Phật đều biết đều thấy. "Dùng đủ thứ nhân duyên"
: Phật dùng đủ thứ nhân duyên. "Ví dụ và lời lẽ" : Ví dụ và lời lẽ. "Tùy theo
phương tiện nói" : Tùy thuận căn tánh của chúng sinh mà ứng cơ thuyết
pháp. Ví như : đối với chúng sinh cang cường khó điều phục, thì Phật dùng
pháp môn từ bi, để cảm hóa họ, đối với chúng sinh ngu si, thì nói Bát Nhã
khiến cho họ khai mở trí huệ, đối với chúng sinh tán loạn, thì dạy họ tu thiền
định, đối với chúng sinh giải đãi, thì kêu họ tu tinh tấn, đối với chúng sinh
phạm giới, thì bảo họ phải giữ giới, đối với chúng sinh tham lam, thì dạy họ
tu bố thí. Tóm lại, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hóa chúng
sinh.
Nay ta cũng như thế
Vì yên ổn chúng sinh.
Dùng đủ thứ pháp môn
Mở bày nơi Phật đạo
Ta dùng sức trí huệ
Biết tính chúng sinh muốn.
Phương tiện nói các pháp
Ðều khiến được vui mừng
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta dùng mắt Phật xem.
Thấy sáu đường chúng sinh
Bần cùng chẳng phước huệ
Vào đường hiểm sinh tử
Khổ liên tục chẳng dứt.
Chấp sâu nơi năm dục
Như trâu mao mến đuôi
Bởi tham ái tự che
Ðuôi mù chẳng thấy được.
Chẳng cầu thế của Phật
Và pháp diệt trừ khổ
Vào sâu các tà kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ.
Phật vì chúng sinh nầy
Mà sinh tâm đại bi.
"Nay ta cũng như thế" : Ta Thích Ca Mâu Ni nói pháp, cũng như chư Phật
ba đời quá khứ hiện tại và vị lai. "Vì yên ổn chúng sinh" : Muốn khiến cho
tất cả chúng sinh, đều đắc được yên ổn khoái lạc. "Dùng đủ thứ pháp môn,
mở bày nơi Phật đạo". "Ta dùng sức trí huệ" : Ta dùng sức trí huệ chân thật
của Phật. "Biết tánh dục chúng sinh" : Ðối với tánh dục của tất cả chúng sinh
rõ như chỉ bàn tay. "Phương tiện nói các pháp" : Hay dùng đủ thứ phương
tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh. "Ðều khiến được vui mừng" : Khiến
cho họ pháp hỷ sung mãn, đắc được chân chánh khoái lạc.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Ta dùng mắt Phật xem,
thấy sáu đường chúng sinh" : Thấy tất cả chúng sinh trong sáu nẻo. "Bần
cùng chẳng phước huệ" : Chúng sinh trong sáu nẻo, đều mê hoặc chẳng giác
ngộ, vì chẳng có trí huệ, chẳng có phước báu. Tại sao chẳng có phước báu,
chẳng có trí huệ ? Vì chẳng hiểu Phật pháp, cho nên bần cùng. Vậy phước
huệ từ đâu mà có ? Do tu đạo mà có. Sáu đường chúng sinh chẳng hiểu Phật
pháp, thật là đáng thương xót. "Vào đường hiểm sinh tử" : Một khi mà vào
trong đường hiểm ác sinh tử, tuần hoàn không ngừng, thì thật là nguy hiểm
vô cùng. Dó đó :
"Một khi mất thân người,
Vạn kiếp khó được lại".
Một lần nọ, Ðức Phật bốc một ít đất bỏ vào trong lòng bàn tay, hỏi Ngài A
Nan : "Ðất ở trong tay của ta nhiều, hay đất ngoài đại địa nhiều ?" Ngài A
Nan đáp : "Ðất ngoài đại địa nhiều, đất ở trong tay của Phật ít." Ðức Phật nói
: "Ðược thân người như đất trong lòng bàn tay, mất thân người như đất
ngoài đại địa." Có thể thấy, vào đường hiểm sinh tử thật là nguy hiểm !
"Khổ liên tục không ngừng" : Liên tục tức là đời nầy nối tiếp đời sau, thay
đổi liên tiếp nhân khổ, quả khổ, báo khổ, chẳng gián đoạn. "Chấp sâu nơi
năm dục" : Vì sao khổ nầy chẳng gián đoạn ? Vì chúng sinh chấp trước thâm
sâu nơi năm dục : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, tức cũng là sắc, thanh, hương, vị,
xúc, năm thứ dục trần. "Như trâu mao mến đuôi, bởi tham ái tự che" : Trâu
mao là một giống trâu, bản tánh của nó rất thích cái đuôi của nó, cho nên nó
luôn luôn bảo vệ đuôi của nó, bởi thế nên có nhiều người sinh tâm tham
muống được nó, cuối cùng trâu mao vì bảo vệ đuôi của nó mà mất mạng.
"Ðuôi mù chẳng thấy được" : Ðuôi mù đen tối chẳng thấy được gì. "Chẳng
cầu thế của Phật" : Người chẳng có trí huệ, giống như kẻ mù. Nếu chẳng có
thiện trí thức dẫn dắt, thì giống như ở trong bóng tối, chẳng thấy được ánh
sáng, chẳng biết gì cả, họ cũng chẳng cầu Phật trợ giúp họ. Phật có thế lực
rất lớn, hay cứu tất cả khổ nạn của chúng sinh. "Và pháp diệt trừ khổ" : Hoặc
là cầu Phật chỉ bày phương pháp dứt khổ. "Vào sâu các tà kiến" : Vì họ
chẳng cầu trí huệ, tự cho rằng đúng, cho nên đui mù dẫn dắt bọn tùy tùng,
lâu dần thì vào sâu các tà kiến. Con người, có lúc rất kì lạ, bạn dạy họ chánh
pháp, dạy đi dạy lại họ học cũng chẳng vào. Nếu dạy họ tà pháp, thì chỉ dạy
một lần thì họ lãnh hội. Ðó là nguyên nhân gì ? Vì đời đời kiếp kiếp đã chấp
chặt vào tà kiến, cho nên học pháp tà rất dễ dàng, còn chánh pháp thì chúng
ta đã lìa nó quá xa, do đó dù có học cũng chẳng dễ gì nhớ được. "Lấy khổ
muốn bỏ khổ" : Muốn bỏ hết các thứ khổ của mình đi, thật là việc chẳng dễ
dàng. Trước hết, phải minh bạch gì là gốc khổ của sự khổ ? Vô minh là gốc
rễ của khổ. Do đó, "đủ thứ vô minh là gốc khổ, gốc khổ trừ sạch tồn căn
lành, bằng sức oai thần kiếm trí huệ, vượt khỏi luân hồi trong sáu đường".
Vô minh là gốc khổ, nếu bạn đoạn trừ sạch vô minh, thì gốc khổ cũng dứt.
Làm cách nào mới đoạn được vô minh ? Chỉ dùng thanh kiếm trí huệ của
chính bạn, nếu bạn biết dùng kiếm trí huệ, thì có thể chặt đứt gốc rễ vô
minh, chặt đứt gốc rễ vô minh, mới có thể vượt ra khỏi luân hồi. "Phật vì
chúng sinh nầy" : Phật vì những người đang trôi nổi ở trong biển khổ, chúng
sinh khổ nạn chẳng có ngày ra. "Mà sinh tâm đại bi" : Phật sinh ra nguyện
lực đại từ đại bi để cứu độ tất cả chúng sinh.
Xưa ta ngồi đạo tràng
Xem cây cũng kinh hành.
Trong hai mươi mốt ngày
Suy nghĩ việc như vầy :
Trí huệ mà ta được
Rất nhiệm mầu bậc nhất.
Các chúng sinh độn căn
Tham vui si làm mù
Những loại người như thế
Làm sao mà độ được !
Lúc đó, có Phạm Vương
Và các trời Ðế Thích
Bốn Thiên Vương hộ đời
Cùng trời Ðại Tự Tại.
Và các chúng trời khác
Quyến thuộc trăm ngàn vạn
Cung kính chắp tay lễ
Thỉnh ta chuyển pháp luân.
Ta liền tự suy nghĩ :
Nếu chỉ khen Phật thừa
Chúng sinh đắm nơi khổ
Không thể tin pháp nầy.
Vì phá pháp chẳng tin
Ðọa trong ba đường ác
Ta thà không nói pháp
Mau vào cõi Niết bàn.
"Xưa ta ngồi đạo tràng" : Ðức Phật nói : Ta ban đầu ngồi bốn mươi chín
ngày, dưới cội Bồ Ðề đạo tràng thành Phật thì, "Xem cây cũng kinh hành" :
Ta thành Phật rồi, ngồi dưới cội bồ đề quán sát nhân duyên trong quá khứ và
trong tương lai, có lúc cũng đi kinh hành. Ði kinh hành là gì ? đi kinh hành
tức là đi chung quanh cây, để vận động và nhiếp tâm, khiến cho tâm chẳng
tán loạn. Tâm của Phật vốn chẳng tán loạn, cần gì phải đi kinh hành ? Sở dĩ
Phật làm như thế, là vì chúng sinh sau nầy cũng tu hành theo như thế.
"Trong hai mươi mốt ngày, tư duy việc như vầy" : Trong ba tuần lễ suy nghĩ
việc giáo hóa chúng sinh như thế nào. "Trí huệ mà ta được" : Trí huệ mà ta
đắc được. "Rất nhiệm mầu bậc nhất" : Là nhiệm mầu bậc nhất trong thiên
hạ. "Các chúng sinh độn căn" : Căn cơ của chúng sinh rất ngu si ám độn.
"Tham vui si làm mù" : Họ đam mê dục lạc mà biến thành ngu si. "Những
loại người như thế" : Loại chúng sinh chẳng có trí huệ giống như người mù
nầy. "Làm sao mà độ được" : Ta làm sao mà độ chúng được !
"Lúc đó, các Phạm Vương" : Lúc đó, Ðại Phạm Thiên Vương của cõi trời
sắc giới. "Và các trời Ðế Thích" : Và Thiên Chúa trời Ðao Lợi (Ðế Thích
Thiên Vương). "Tứ Thiên Vương hộ đời" : Và Tự Ðại Thiên Vương bảo hộ
thế giới. "Và Ðại Tự Tại Thiên" : Và Thiên Chúa Ma Hê Thủ La (Ðại Tự
Tại Thiên Vương). "Và các Thiên chúng khác" : Và Thiên chúng các cõi trời
khác. "Quyến thuộc trăm ngàn vạn" : Mỗi vị Thiên Vương suất lãnh trăm
ngàn vạn quyến thuộc. "Cung kính chắp tay lễ" : Ðều cung kính chắp tay
làm lễ ở trước Ðức Phật. "Thỉnh ta chuyển pháp luân" : Họ đều thỉnh cầu ta
chuyển bánh xe pháp. "Ta liền tự suy nghĩ" : Vì nhiều chúng sinh chư Thiên
thỉnh cầu Ðức Phật thuyết pháp, do đó Ngài lại phải một phen suy nghĩ.
"Nếu chỉ khen Phật thừa" : Nếu ta chỉ nói một Phật thừa, không nói các pháp
tiểu thừa khác. "Chúng sinh đắm nơi khổ" : Nếu chúng sinh khổ biết Phật
đạo lâu xa, khó khăn, phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp mới thành Phật,
đều nhìn biển mà thở dài, sợ pháp quá cao sâu mà chẳng muốn học. Ví như :
Có người chưa nghe Kinh, thì chẳng sinh tâm hoan hỉ đối với Kinh, một khi
thấy bộ Kinh Pháp Hoa quá dày, biết khi nào nghe cho hết ? Làm sao có
nhiều thời gian để nghe ? Do đó, cũng chẳng nghe. Nếu bạn đắc được từ vị
của Phật pháp, thì sẽ thấy rằng Phật pháp, chiếm địa vị quan trọng thiết yếu
trong cuộc sống, thậm chí không ăn, không ngủ, cũng nhất định phải học
Phật pháp. Chiếu theo quy cụ Phật giáo, nếu trong khoảng bốn mươi dặm có
người tụng Kinh thuyết pháp, thì cư sĩ học Phật đều nên đi nghe Kinh.
"Chúng sinh đắm nơi khổ, không thể tin pháp nầy" : Vì chúng sinh căn cơ
ngu độn, nếu Phật nói ra một thừa pháp thì họ chẳng tin. "Vì phá pháp chẳng
tin" : Chúng sinh chẳng những không tin, mà còn có hành vi hủy báng pháp.
Ðối với diệu pháp nầy, một khi sinh tâm hủy báng, thì tạo vô lượng vô biên
tội lỗi. "Ðọa trong ba đường ác" : Tương lai sẽ đọa vào ba đường ác : địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh. "Ta thà chẳng nói pháp" : Phật sợ chúng sinh hủy
báng pháp chẳng tin, mà đọa vào ba đường ác, cho nên thà chẳng nói Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa. "Mau vào cõi Niết Bàn" : Phải mau vào cõi Niết Bàn,
không nên ở tại thế gian chuyển pháp luân.
Liền nhớ Phật quá khứ
Thực hành sức phương tiện
Nay ta đắc được đạo
Cũng nên nói ba thừa.
Suy nghĩ như thế thì :
Mười phương Phật đều hiện
Tiếng Phạm an ủi ta
Lành thay Ðức Thích Ca !
Ðấng Ðạo sư bậc nhất
Ðược pháp vô thượng nầy
Thuận theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương tiện.
Chúng ta cũng đều được
Pháp tối diệu bậc nhất
Vì các loại chúng sinh
Phân biệt nói ba thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳng tự tin thành Phật
Cho nên dùng phương tiện
Phân biệt nói các quả.
Tuy là nói các quả
Chỉ vì dạy Bồ Tát.
"Liền nhớ Phật quá khứ" : Tuy nghĩ như thế, nhưng Phật lại nghĩ nhớ sâu xa,
tất cả pháp của Phật quá khứ. "Thực hành sức phương tiện" : Và sức phương
tiện của chư Phật thực hành trong quá khứ. "Nay ta đắc được đạo" : Hiện
nay ta đắc được Phật đạo. "Cũng nên nói ba thừa" : Cũng nên vì thật thí
quyền, nói giáo lý ba thừa. "Suy nghĩ như thế thì" : Ta vừa suy nghĩ như thế
thì. "Mười phương Phật đều hiện" : Mười phương chư Phật đều hiển hiện ở
trước mắt của ta. "Tiếng Phạm an ủi ta" : Các Ngài dùng tiếng phạm âm
thanh tịnh của Phật, để an ủi ta và còn nói với ta :"Lành thay Ðức Thích Ca !
Ðức Thích Ca Ngài tốt lắm". "Ðấng Ðạo Sư bậc nhất" : Ngài thật là đấng
Ðạo Sư bậc nhất của thế gian. "Ðược pháp vô thượng nầy" : Ngài đắc được
diệu pháp vô thượng nầy. "Thuận theo tất cả Phật" : Ngài tùy thuận tất cả
chư Phật trong mười phương. "Mà dùng sức phương tiện" : Cũng vận dụng
sức quyền xảo phương tiện. "Chúng ta cũng đều được" : Chúng ta mười
phương chư Phật, cũng đều đắc được diệu pháp như nhau. "Pháp tối diệu bậc
nhất" : Ðây là pháp tối vi diệu bậc nhất. "Vì các loại chúng sinh" : Chúng ta
vì quan hệ với chúng sinh. "Phân biệt nói ba thừa" : Cho nên phân biệt nói
Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát ba thừa. "Trí kém ưa pháp nhỏ" : Người
độn căn kém trí huệ chỉ ưa thích pháp nhỏ, họ chẳng có căn tánh đối với
pháp lớn, như trẻ nhỏ chỉ biết chơi vật nhỏ, nếu bạn cho chúng vật lớn, thì
chúng chẳng biết chơi. Cho nên đối với người tiểu thừa, chỉ nói pháp tiểu
thừa đối với họ, nếu nói pháp đại thừa, thì họ hồ đồ chẳng hiểu được.
"Chẳng tự tin thành Phật" : Sao họ muốn nghe pháp mà chẳng nói pháp lớn
cho họ nghe ? Vì họ chẳng tin mình sẽ thành Phật. "Cho nên dùng phương
tiện" : Do đó, trước hết dùng pháp môn quyền xảo phương tiện. "Phân biệt
nói các quả" : Phân biệt nói : sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả. "Tuy là nói
ba thừa" : Tuy nhiên phân biệt nói ba thừa. "Nhưng chỉ dạy Bồ Tát" : Song,
thật tế thì chỉ vì giáo hóa Bồ Tát, tu hành pháp môn Phật thừa.
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta nghe tiếng của Phật.
Rất thanh tịnh nhiệm mầu
Xưng Nam Mô chư Phật !
Ta lại nghĩ như vầy :
Ta ra đời ác trược.
Như chư Phật đã nói
Ta cũng thuận làm theo
Suy nghĩ việc nầy rồi
Bèn đến vườn Lộc Uyển.
Các pháp tướng tịch diệt
Không thể dùng lời nói
Bèn dùng sức phương tiện
Vì năm Tỳ Kheo nói.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Ta nghe tiếng của Phật"
: Ta nghe mười phương chư Phật khen ngợi ta, nói ta là đại Ðạo Sư bậc nhất.
"Rất thanh tịnh nhiệm mầu" : Âm thanh của chư Phật rất nhiệm mầu thanh
tịnh. "Xưng Nam Mô chư Phật" : Mười phương chư Phật cũng xưng Nam
Mô chư Phật, ta cũng xưng Nam Mô chư Phật, Phật với Phật khen ngợi với
nhau. "Ta lại nghĩ như vầy" : Ta lại suy nghĩ như thế nầy. "Ta ra đời ác
trược" : Ta hiện ra thế giới Ta Bà đời ác năm trược. "Như chư Phật đã nói, ta
cũng thuận làm theo" : Ta cũng tùy thuận theo phương thức giáo hóa, của
mười phương chư Phật mà hành sự. "Suy nghĩ việc nầy rồi" : Ta nghĩ sự
việc đã qua rồi. "Bèn đến vườn Lộc Uyển" : Vườn Lộc Uyển ở thành Ba La
Nại, đức Phật lập tức đi đến vườn Lộc Uyển.
Vì sao mà có tên là "vườn Lộc Uyển" ? Thuở xưa, có hai con nai chúa, một
con là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca, nhiều đời nhiều kiếp về trước, là
một con nai chúa rất từ bi. Và một con là tiền thân của Ðề Bà Ðạt Ða. Lúc
đó, có một vị vua rất thích đi săn, thường thường mang quân lính vào vườn
nai săn bắn, mỗi lần đi đều săn được rất nhiều nai. Do đó, hai con nai chúa
mới hội nghị, nai chúa Thích Ca Mâu Ni nói : "Chúng ta hãy đi đến thỉnh
nguyện với Ðức Vua !" Nai chúa Ðề Bà Ðạt Ða nói : "Chúng ta thỉnh
nguyện như thế nào ?" Nai chúa Thích Ca Mâu Ni nói : "Chúng ta yêu cầu
Ðức Vua mỗi ngày mình mang đến cho vua một con nai, để vua dùng, như
thế thì lũ nai chúng ta mới không tuyệt chủng, mà hằng ngày vua cũng có
thịt nai mới dùng. Nếu vua mà đi săn thì sẽ săn hết lũ nai chúng ta, mà mỗi
ngày vua chẳng ăn bao nhiêu, còn lại cũng bỏ đi. Tôi tin rằng vua sẽ đồng ý
với chúng ta." Nai chúa Ðề Bà Ðạt Ða nghe rồi nói : "Tốt lắm ! Vậy chúng
ta hãy đi thỉnh cầu !"
Do đó, hai con nai chúa bèn đi đến thỉnh cầu với Ðức Vua, vừa đến cửa cung
điện, thì quân lính thấy hai con nai to lớn, bèn cầm thương giáo muốn giết.
Hai con nai chúa nói : "Các ông đừng giết, hôm nay chúng tôi đến cầu kiến
Ðức Vua." Quân lính thấy nai biết nói, rất lấy làm lạ, lập tức đi báo cho vua
biết, nói có hai con nai biết nói. Ðức Vua rất ngạc nhiên, bàn truyền cho
chúng vào. Hai con nai chúa đem lời thỉnh cầu nói ra cho vua nghe. Vua
thấy nai biết nói, đã lấy làm lạ, lại nghe lời thỉnh cầu của họ rất hợp lý, do đó
đồng ý nói : "Ðược lắm ! Mỗi ngày các vị hãy mang một con nai đến !" Từ
đó về sau, mỗi ngày đều mang đến cho vua một con nai, vua mỗi ngày đều
thưởng thức thịt nai tươi.
Một ngày nọ, nai chúa Thích Ca Mâu Ni đột nhiên thân tự đến hiến cúng.
Vua ngạc nhiên hỏi : "Ngươi là nai chúa, sao lại có thể đến hiến thân, trừ khi
quyến thuộc của ngươi chẳng còn nữa ?" Nai chúa Thích Ca Mâu Ni nói :
"Quyến thuộc của ta chẳng những còn, mà càng ngày sinh sản càng nhiều.
Chúng tôi mỗi một nai chúa quản lý năm trăm con nai, mà mỗi ngày chỉ
dâng một con cho vua, nai mẹ còn lại lại sinh ra rất nhiều nai con, cho nên
hiện tại lũ nai của chúng tôi đã sinh sản phồn thịnh thêm nhiều, chẳng qua
bây giờ có một nguyên nhân, cho nên chính tôi tự đến đây hiến cúng. Ðức
Vua nói : "Nguyên nhân gì ?" Nai chúa nói : "Hôm nay đến phiên của một
con nai mẹ hiến cúng, nhưng con nai mẹ đó đang mang thai một con nai con,
chỉ còn ít hôm nữa thì sẽ sinh ra nai con, do đó nai mẹ đi yêu cầu các con nai
khác đổi phiên, đợi khi nào sinh ra nai con thì sẽ đến để hiến cúng, nhưng
chẳng có con nai nào chịu, cho nên con nai mẹ đó đến thương lượng với tôi,
chẳng còn cách nào khác, nên hôm nay chính tôi tự đến để thế nai mẹ đó."
Ðức Vua nghe xong, cảm thấy việc nầy rất kỳ lạ, vua minh bạch : "Nai cũng
đều là chúng sinh ! Tại sao ta hằng ngày phải ăn thịt nai ? Lúc đó, Ðức Vua
nói bài kệ :
"Ngài làm nai đầu người,
Ta làm người đầu nai,
Từ nay trở về sau,
Chẳng ăn thịt chúng sinh."
Nghĩa là : Tuy ngươi làm thân nai, nhưng tâm của ngươi nhân từ phi thường,
còn tốt hơn so với con người. Tuy nhiên ta là người, nhưng tâm ta chẳng
bằng tâm loài nai. Từ nay về sau, bất cứ thịt gì, ta cũng không ăn nữa. Nai
chúa làm cho Ðức Vua cảm động, từ đó vua bắt đầu ăn chay. Do quan hệ về
câu chuyện nầy, cho nên nơi đó có tên là vườn Lộc Uyển (vườn Nai).
Vườn Lộc Uyển là nơi non xanh nước biếc, có luồng linh khí, cho nên có rất
nhiều người tu hành đang tu hành tại đó.
Ban đàu, Ðức Phật xuất gia tu đạo, thì có năm người hầu hạ cho Ngài. Trong
năm người nầy, bà con phía cha ba người, và hai người bà con phía mẹ. Sau
nầy, họ đều lìa bỏ Ngài. Vì sao ? Ðức Phật tu tại núi tuyết, mỗi ngày chỉ ăn
một hạt mè, trong đó có ba người chịu chẳng đặng bỏ đi trước, đến Vườn
Lộc Uyển tu đạo. Còn lại hai người tu với Ðức Phật. Một lần nọ, thấy thiếu
nữ chăn dê dâng cúng cho Ðức Phật bát sữa bò, lúc đó Ðức Phật ốm gầy như
cây củi. Phật thấy sữa bò cũng vui mừng tiếp nhận sự cúng dường. Hai
ngưới thấy Phật uống sữa bò, thì cho rằng Ðức Phật hết chịu nổi sự khổ
hạnh, chẳng thể tu thành đạo mới nói : "Tu hành phải tu khổ hạnh, bây giờ
Ngài chẳng chịu được sự khổ hạnh, chúng tôi chẳng muốn ở đây, hầu hạ một
người chẳng thành tựu." Do đó, hai người nầy cũng bỏ đi luôn, chỉ còn lại
một mình Ðức Phật tu ở đó, sau đó Ðức Phật đến dưới cội bồ đề, tĩnh tọa
bốn mươi chín ngày, thấy sao mai mọc mà ngộ đạo.
Ðức Phật ban đầu tu đạo rất gian nan khốn khổ, bây giờ chúng ta tu đạo,
chịu một chút khổ mà chịu chẳng được.
"Các pháp tướng tịch diệt" : Ðức Phật biết tướng tịch diệt của tất cả các
pháp, nó chẳng có tướng mạo. "Không thể dùng lời nói" : Chỉ có thể lý hội
mà không thể nói ra, tức cũng là "ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt".
"Bèn dùng sức phương tiện" : Cho nên Phật phải dùng phương tiện khéo léo.
"Vì năm Tỳ Kheo nói" : Ðó là vì năm vị Tỳ Kheo Kiều Trần Như nói pháp.
Năm vị Tỳ Kheo là : Kiều Trần Như, Ngạch Tiên, Bạt Ðề, Thập Lực Ca
Diếp, Ma Nam Câu Lợi, tức cũng là năm người hầu nói ở đoạn trên. Ðức
Phật thành Phật rồi, biết năm vị Tỳ Kheo đó, đang tu tại Vườn Lộc Uyển.
Vừa quán nhân duyên thì biết, trước hết độ năm Tỳ Kheo nầy, do đó Phật
đến Vườn Lộc Uyển, vì năm vị Tỳ Kheo ba lần nói diệu pháp bốn Ðế.
Gọi là chuyển pháp luân
Bèn có tiếng Niết bàn
Cùng với A la hán
Tên Pháp, Tăng khác biệt.
Từ kiếp xưa đến nay
Khen ngợi pháp Niết bàn
Dứt hẳn khổ sinh tử
Ta thường nói như thế.
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta thấy các Phật tử
Người chí cầu Phật đạo
Vô lượng ngàn vạn ức.
Ðều dùng tâm cung kính
Ðồng đến chỗ chư Phật
Từng theo nghe chư Phật
Dùng phương tiện nói pháp.
Ta liền nghĩ thế nầy :
Sở dĩ Phật ra đời
Ðều vì nói Phật huệ
Nay đúng là phải thời.
Xá Lợi Phất nên biết !
Người độn căn trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu mạn
Chẳng thể tin pháp nầy.
Nay ta vui chẳng sợ
Ở trong chúng Bồ Tát
Ta bỏ ngay phương tiện
Chỉ nói đạo vô thượng.
Bồ Tát nghe pháp nầy
Lưới nghi đều đã trừ
Ngàn hai trăm La Hán
Thảy đều sẽ thành Phật.
"Gọi là chuyển pháp luân" : Phật vì năm vị Tỳ Kheo Kiều Trần Như, chuyển
bánh xe pháp bốn Diệu Ðế. Chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Ðế là gì ? Ban
đàu, Phật độ năm vị Tỳ Kheo nói :
"Ðây là khổ, tính bức bách.
Ðây là tập, tính chiêu cảm.
Ðây là diệt, tính có thể chứng.
Ðây là đạo, tính có thể tu."
Ðây gọi là chuyển lần thứ nhất. Sự khổ đối với con người có tính chất bức
bách. Tập, là chỉ phiền não kết tập, phiền não có tính chiêu cảm, do chiêu
cảm mà đến. Diệt, là tịch diệt Niết Bàn, thường lạc ngã tịnh, bốn đức Niết
Bàn. Ðạo, đạo nầy nên tu hành, đây là chuyển lần thứ nhất.
Kế tiếp lại chuyển lần thứ hai :
"Ðây là khổ, các ông nên biết".
"Ðây là tập, các ông nên đoạn", phiền não chỉ là khách trần mà thôi, chẳng
phải là chủ nhân, do bên ngoài chiêu cảm mà đến, do đó các ông phải đoạn
trừ. Lại nói :
"Ðây là diệt, các ông nên chứng". Niết Bàn thường lạc ngã tịnh khoái lạc,
các ông nên chứng đắc.
"Ðây là đạo, các ông nên tu."
Sau đó, chuyển lần thứ ba nói :
"Ðây là khổ, ta đã biết."
"Ðây là tập, ta đã đoạn."
"Ðây là diệt, ta đã chứng."
"Ðây là đạo, ta đã tu."
Ta cũng đã tu ba mươi bảy đạo phẩm. Ðây là chuyển lần thứ ba. Ðức Phật
vừa nói pháp lần thứ ba xong, thì Kiều Trần Như một trong năm vị minh
bạch được nguyên do của khách trần mà chứng quả. Ðây gọi là chuyển bánh
xe pháp bốn Diệu Ðế.
"Bèn có tiếng Niết Bàn" : Ðức Phật chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Ðế, có
nói đến tịch diệt Niết Bàn khoái lạc, cho nên phát ra diệu âm Niết Bàn.
"Cùng với A La Hán" : Cùng với danh từ A La Hán, sơ quả, nhị quả, tam
quả và tứ quả A La Hán. "Tên Pháp, Tăng khác biệt" : Pháp là bốn Diệu Ðế :
Khổ, tập, diệt, đạo. Tăng là A La Hán. Vì có Pháp, có Tăng nhiều danh từ
khác biệt. "Từ kiếp xưa đến nay" : Ta từ kiếp lâu xa, tu Phật đạo đến nay.
"Khen ngợi pháp Niết Bàn." "Dứt hẳn khổ sinh tử" : Nếu ông chứng được
diệu lý Niết Bàn, thì sẽ vĩnh viễn dứt khổ sinh tử. "Ta thường nói như thế" :
Từ kiếp lâu xa đến nay, ta vì các ông luôn luôn nói pháp nầy.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Ta thấy các Phật tử" : Ta
thấy tất cả Phật tử. "Người chí cầu Phật đạo" : Người lập chí trên cầu Phật
đạo. "Vô lượng ngàn vạn ức" : Số đông vô lượng ngàn vạn ức. "Ðều dùng
tâm cung kính" : Hết thảy đều dùng tâm cung kính. "Ðồng đến chỗ chư
Phật" : Thảy đều đến chỗ chư Phật. "Từng theo nghe chư Phật" : Trong quá
khứ, họ từng theo chư Phật để nghe Phật pháp. "Dùng phương tiện nói pháp"
: Chư Phật dùng phương tiện pháp môn mà nói pháp. "Ta liền nghĩ thế nầy" :
Ta lại suy nghĩ thế nầy. "Sở dĩ Phật ra đời" : Sở dĩ mà Phật xuất hiện ra đời.
"Ðều vì nói Phật huệ" : Ðều vì nói trí huệ chân thật của Phật. "Nay đúng là
phải thời" : Bây giờ là lúc nên nói trí huệ chân thật của Phật. "Xá Lợi Phất
nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Người độn căn trí nhỏ" : Người độn
căn chỉ có chút chút trí huệ. "Kẻ chấp trướng kiêu mạn" : Chẳng những họ
chấp trước tất cả hình tướng, mà còn tự cho rằng đúng, cho nên sinh ra tâm
cống cao ngã mạn. "Không thể tin pháp nầy" : Họ chẳng tin pháp đại thừa,
cũng chẳng tin nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên mới có năm ngàn
người lui về. "Nay ta vui chẳng sợ" : Bây giờ những người chẳng có căn
lành và những kẻ kiêu mạn đều đã lui về, cho nên ta chẳng còn lo chẳng còn
sợ. "Ở trong chúng Bồ Tát" : Ở trong các hàng Bồ Tát. "Ta bỏ ngay phương
tiện" : Ta bỏ ngay phương tiện nầy, chẳng dùng pháp quyền xảo nữa. Bây
giờ ta phải mở cửa để thấy núi, nói thẳng Phật huệ chân thật. "Chỉ nói đạo
vô thượng" : Chỉ nói pháp môn thành Phật. "Bồ Tát nghe pháp nầy" : Tất cả
Bồ Tát đều nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. "Lưới nghi đều đã
trừ" : Lưới nghi của các Ngài đều tiêu trừ. "Ngàn hai trăm La Hán" : Lúc đó,
có một ngàn hai trăm năm mươi vị A La Hán. "Thảy đều sẽ thành Phật" :
Tương lai họ cũng đều sẽ thành Phật. Ðây là Phật thọ ký cho tất cả đệ tử sẽ
thành Phật, phàm là người nghe pháp ở trong hội Pháp Hoa, chẳng ai mà
không thành Phật.
Như chư Phật ba đời
Nghi thức nói các pháp
Ta nay cũng như thế
Nói pháp không phân biệt.
Chư Phật hiện ra đời
Lâu xa khó gặp được
Gặp lúc Phật ra đời
Nói pháp nầy khó hơn.
Vô lượng vô số kiếp
Nghe pháp nầy cũng khó
Người nghe được pháp nầy
Người đó càng khó hơn.
Ví như hoa Ưu Ðàm
Tất cả đều ưa thích
Ít có trong trời người
Ðúng thời mới xuất hiện.
Nghe pháp vui mừng khen
Cho đến nói một lời
Tức là đã cúng dường
Tất cả Phật ba đời.
Người đó rất ít có
Hơn cả hoa Ưu Ðàm.
"Như chư Phật ba đời, nghi thức nói các pháp" : Ðức Phật nói, hiện tại ta nói
đạo lý Phật thừa thật trí, cũng như nghi thức thuyết pháp, của chư Phật ba
đời : quá khứ, hiện tại và vị lai. "Nay ta cũng như thế, nói pháp không phân
biệt" : Ta nay cũng chỉ nói một Phật thừa như nhau, chẳng có thừa pháp vi
diệu nào khác. Pháp không phân biệt nầy, chẳng phải một số người minh
bạch được. "Chư Phật hiện ra đời" : Mười phương chư Phật xuất hiện ra đời.
"Lâu xa khó gặp được" : Nếu gặp được chư Phật mười phương xuất hiện ra
đời, phải trải qua thời gian lâu dài. "Gặp lúc Phật ra đời, nói pháp nầy khó
hơn" : Tức gặp lúc bạn gặp Phật xuất hiện ra đời, mà nghe được Phật nói
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chẳng phải là việc dễ dàng. Ðức Phật nói pháp
bốn mươi chín năm, ban đầu nói Tam Tạng giáo, Kinh A Hàm, sau đó nói
Phương Ðẳng và Bát Nhã, cuối cùng mới nói Kinh Pháp Hoa, nhưng gặp
được nói bộ Kinh nầy, cũng chẳng dễ. "Vô lượng vô số kiếp" : Trải qua thời
gian lâu dài vô lượng vô số kiếp. "Nghe pháp nầy cũng khó" : Nghe được
pháp nầy cũng chẳng dể dàng. "Người nghe được pháp nầy" : Người đã nghe
được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. "Người đó càng khó hơn" : Người nầy
chẳng dể gì tìm được. "Ví như hoa Ưu Ðàm" : Như hoa Ưu Ðàm ít có. Hoa
Ưu Ðàm dịch là "tường đoan". Hoa nầy ba ngàn năm mới nở một lần, mà
một khi nở thì tàn, cho nên đặc biệt ít có. "Tất cả đều ưa thích, ít có trong
trời người" : Vì hoa Ưu Ðàm ít có, cho nên người trên trời, dưới nhân gian
đều ưa thích hoa nầy. "Ðúng thời mới xuất hiện" : Nếu chưa đến thời, thì
chẳng bao giời xuất hiện ra đời. "Nghe pháp vui mừng khen" : Nếu nghe
thấy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà người đó sinh tâm vui mừng khen ngợi.
"Cho đến nói một lời" : Hoặc chỉ nói một câu để khen ngợi Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa. "Tức là đã cúng dường, tất cả Phật ba đời" : Tức là đã cúng dường
tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. "Người đó rất ít có, hơn cả hoa
Ưu Ðàm" : Người nầy so với hoa Ưu Ðàm càng ít có hơn, do đó có thể thấy,
nghe pháp thật là không dễ dàng, trứ khi đến thời cơ mới nghe được.
Các ông chớ có nghi
Ta là vua các pháp.
Nói khắp các đại chúng
Chỉ dùng đạo một thừa
Giáo hóa các Bồ Tát
Không Thanh Văn đệ tử.
Xá Lợi Phất các ông !
Thanh Văn và Bồ Tát
Nên biết diệu pháp nầy
Bí yếu của chư Phật.
Ðức Phật lại nói : Pháp nầy so với hoa Ưu Ðàm càng khó gặp hơn. Pháp của
ta nói, các ông chớ có hoài nghi. Vì sao ? "Ta là vua các pháp" : Vì ta là vua
của tất cả các pháp, đã đắc được trí huệ chân thật. "Nói khắp các đại chúng"
: Bây giờ, ta nói khắp tất cả đại chúng trong pháp hội, và hết thảy chúng sinh
vị lai. "Chỉ dùng đạo một thừa" : Ta chỉ dùng một thừa Phật đạo. "Giáo hóa
các Bồ Tát" : Ðể giáo hóa tất cả Bồ Tát. "Không Thanh Văn đệ tử" : Pháp
nầy chẳng giáo hóa đệ tử Thanh Văn tiểu thừa. "Xá Lợi Phật các ông" : Xá
Lợi Phất ! Các ông những bậc Thanh Văn. "Thanh Văn và Bồ Tát" : Bây giờ
đều nên hồi tiểu hướng đại, đừng được ít mà cho là đủ, phải từ Thanh Văn
thừa mà chuyển qua Bồ Tát thừa. "Nên biết diệu pháp nầy" : Các ông nên
biết diệu pháp của Kinh Pháp Hoa nầy. "Bí yếu của chư Phật" : Là diệu pháp
vô thượng bí yếu nhất của chư Phật, nên nhớ đừng sinh tâm nghi hoặc.
Bởi đời ác năm trược
Chỉ ưa chấp các dục
Những chúng sinh như thế
Quyết chẳng cầu Phật đạo.
Người ác đời vị lai
Nghe Phật nói một thừa
Mê hoặc chẳng tin nhận
Phá pháp đọa đường ác.
Người hổ thẹn thanh tịnh
Quyết chí cầu Phật đạo
Ta sẽ vì người đó
Rộng khen đạo một thừa.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bí yếu của chư Phật, cho nên Ðức Phật thành
Phật rồi, rất lâu mà chẳng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Tại sao ? Vì rất là
quan trọng, một khi nói ra, mà chúng sinh không tin, thì sẽ đọa vào ba
đường ác, cho nên đức Phật thà không nói. "Bởi đời ác năm trược" : Năm
trược tức là : Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược,
mạng trược, đây là năm thứ trược hiện tại của thế giới nầy. "Chỉ ưa chấp các
dục" : Chúng sinh trong đời ác năm trược, tánh của họ ưa thích các dục.
Năm dục là : Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. "Những
Chúng sinh như thế, quyết chẳng cầu Phật đạo" : Họ chấp vào các dục, tham
trước nhất thời, chẳng phải là khoái lạc cứu kính. Ai ai cũng đều bị tiền tài,
sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ vây hãm, không thể tự cứu. Phật
sớm đã biết có loại chúng sinh mê muội nầy, cho nên nói : "Những chúng
sinh như thế" : Những chúng sinh mê muội đó. "Quyết chẳng cầu Phật đạo" :
Họ chẳng muốn cầu Phật đạo, nay mình đã khai mở trí huệ chân thật, phá tan
mê muội. "Người ác đời vị lai" : Người ác trược đời vị lai. "Nghe Phật nói
một thừa" : Họ nghe Phật nói một thừa pháp. "Mê hoặc chẳng tin nhận" :
Trong tâm mê hoặc, không thể tin nhận. "Phá pháp đọa đường ác" : Họ
chẳng tin mà còn phá hoại, nói là : "Các vị đó giảng Phật pháp, vốn chẳng có
đạo lý !" Vì phá pháp nên đọa vào ba đường ác. "Người chí cầu Phật đạo,
biết hổ thẹn thanh tịnh" : Người lập chí nhất định thành Phật, biết sinh tâm
hổ thẹn, sửa đổi lỗi lầm muốn cầu thanh tịnh. "Ta sẽ vì người đó" : Phật nói,
ta sẽ vì những chúng sinh đó. "Rộng khen đạo một thừa" : Rộng khen pháp
một thừa vô thượng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Xá Lợi Phất nên biết !
Pháp chư Phật như thế
Dùng vạn ức phương tiện
Tùy nghi mà nói pháp.
Người nào chẳng tu học
Không thể hiểu pháp nầy
Các ông tức đã biết
Chư Phật thầy trong đời.
Tùy nghi dùng phương tiện
Không nên sinh nghi hoặc
Sinh tâm vui mừng lớn
Biết mình sẽ thành Phật.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất và tất cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ
nam, cư sĩ nữ, Bồ Tát, trời, rồng, tám bộ chúng hết thảy đều nên biết. "Pháp
chư Phật như thế" : Mười phương chư Phật, Phật Phật đạo đồng, do đó có
câu :
"Ba đời mười phương Phật,
Ðều cùng một pháp thân".
Pháp của mười phương chư Phật đều như nhau, pháp chỉ có một, vì quán căn
cơ mà thí giáo, do đó, "Dùng vạn ức phương tiện" : Dùng vô lượng vô biên
phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh. "Tùy nghi mà nói pháp" :
Tùy thuận căn cơ của chúng sinh mà nói pháp. Do đó, vì người thí giáo, theo
bệnh cho thuốc. "Người nào chẳng tu học" : Phật nói ra pháp nầy, nếu chúng
sinh nào chẳng tu hành, "Không thể hiểu pháp nầy" : Không thể nào hiểu
được nghĩa của pháp nầy. "Các ông đều đã biết" : Xá Lợi Phất ! Các ông
những bậc đại A La Hán, đại Bồ Tát, đại Tỳ Kheo, hiện tại đều đã biết diệu
pháp chân thật nầy. "Chư Phật thầy trong đời" : Mười phương chư Phật và
Thích Ca Mâu Ni, đều là Ðạo Sư của thế gian. "Tùy nghi dùng phương tiện"
: Ðều tuỳ nghi nói pháp, dùng phương tiện để giáo hóa chúng sinh. "Không
nên sinh nghi hoặc" : Các ông đừng sinh tâm nghi hoặc. "Sinh tâm vui mừng
lớn" : Bây giờ các ông nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên sinh tâm
vui mừng lớn. "Biết mình sẽ thành Phật" : Bây giờ, các ông cũng nên biết,
tương lai mình nhất định cũng sẽ thành Phật. Do đó, tất cả chúng sinh ở
trong hội Pháp Hoa, nhất định đều sẽ thành Phật, vì đức Phật đều đã thọ ký
cho các Ngài, đều nghe pháp Phật thừa tối thượng.
---o0o---
Tập 02
Quyển 2
Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm
ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói
pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con
theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành
Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô
lượng tri kiến của Như Lai.
Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc
ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh,
tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con,
chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Ðây là phẩm thứ ba, Phẩm Thí Dụ. Thí dụ tức trong kinh thi nói là thể so
sánh. Trong kinh thi có thể phú (giải bày), thể so sánh và thể hứng (thấy
cảnh nảy ra lời thơ). Thí dụ tức thể so sánh. Vì đạo lý thâm áo, người khó
hiểu, cho nên đưa ra một ví dụ khiến cho người hiểu dễ dàng.
Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng đều trông mong đức Phật thọ ký. Ngài Xá Lợi
Phất thân miệng ý ba nghiệp đều thanh tịnh, sinh tâm vui mừng lớn, mới
đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của đức Phật, mà nói với Phật
rằng: "Con ở trước đức Thế Tôn, thân miệng ý đều thanh tịnh. Trước kia con
ở trong hội Phương Ðẳng và hội Bát Nhã, cũng chưa từng nghe qua diệu
pháp như vầy. Bây giờ, con nghe đức Phật nói diệu pháp nầy, thấy tất cả đại
Bồ Tát được Phật thọ ký sẽ thành Phật, bèn có cảm xúc, tâm rất bi thương
chưa được Như Lai thọ ký, mất đi vô lượng từ bi trí huệ tri kiến của Phật.
Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi núi rừng, dụng
công tham thiền. Vì núi rừng vắng lặng, cho nên một lần ngồi xuống thì cả
mấy ngày, ngồi đến mỏi mệt thì đứng dậy đi kinh hành. Mỗi lần tự nhủ:
Chúng con Thanh Văn Bồ Tát đều được pháp tính, vì sao đức Như Lai
chẳng dạy chúng con pháp đại thừa, mà dùng pháp tiểu thừa để giáo hóa ?
Phải chăng đức Như Lai đối với chúng con người tiểu thừa chẳng từ bi ?
Chúng con thường khởi vọng tưởng như thế. Song, hồi quang phản chiếu rồi
mới biết, đây là lỗi của chúng con. Chúng con người tiểu thừa căn mỏng huệ
cạn, khó phát tâm nguyện độ sinh, cho nên Phật nói pháp đại thừa mà chúng
con không thể tiếp thọ. Ðây là lỗi căn cơ hạn hẹp của chính chúng con."
Vì sao ? nếu chúng con chờ Phật nói nhân duyên thành tựu Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, tất dùng pháp đại thừa mà được độ thoát. Nhưng chúng con
chẳng hiểu Phật dùng phương tiện tùy nghi nói pháp. Mới nghe Phật pháp,
gặp được liền tin nhận, suy gẫm chứng lấy. Ðức Thế Tôn ! Con từ xưa đến
nay, suốt ngày trọn đêm tự khắc chế trách mình, mà nay được nghe Phật nói
pháp chưa từng có, dứt các nghi hoặc, thân tâm thơ thới, rất an vui tự tại.
Hôm nay mới biết thật là Phật tử, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh,
được pháp tính của Phật.
Sở dĩ chúng con là hàng Thanh Văn, nghe Phật nói nhân duyên thành tựu Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, tất dùng pháp đại thừa tu hành, mới được độ
thoát. Vô thượng chánh đẳng chánh giác tức là Phật vị. Chánh giác, chẳng
giống phàm phu, những gì phàm phu làm, đều là hồ đồ chẳng tự giác. Chánh
giác chưa đến được trình độ giác tha. Giác tha khác với nhị thừa. Người nhị
thừa chỉ đắc được Chánh giác mà chưa đắc được Chánh đẳng. Chánh đẳng là
bậc đại Bồ Tát, bậc Ðẳng giác Bồ Tát. Diệu giác là Phật. Ðẳng giác Bồ Tát
còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá, cho nên chưa đắc được Diệu
giác vị. Nếu phá sạch một phần sinh tướng vô minh, thì sẽ đắc được Diệu
giác. Ðẳng giác là hữu tình Thượng sĩ, Phật là Vô Thượng Sĩ.
"Muốn chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác", quả vị Phật, phải dùng
pháp Bồ Tát đại thừa mới được độ thoát. Chúng con hàng Thanh Văn, chẳng
biết Phật dùng pháp phương tiện giáo hóa chúng sinh, quán căn cơ thí giáo,
vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc. Chúng con vừa nghe Phật nói
pháp bốn Diệu Ðế và mười hai Nhân Duyên bèn tin nhận, dụng công tu hành
được chứng quả. Ðức Thế Tôn ! Con từ khi ở trong pháp hội Phương Ðẳng
cho đến hiện tại, từ sáng đến tối, tự khắc chế trách mình. Ngày đêm là gì ?
Ðêm tức là lúc trước chưa khai ngộ, giống như ban đêm; khai ngội rồi thì
như ánh sáng mặt trời chiếu ban ngày. Nếu so sánh tiểu thừa với đại thừa Bồ
Tát, thì tiểu thừa như ban đêm, đại thừa Bồ Tát như ban ngày, cho nên nói
"suốt ngày trọn đêm".
"Ðều khắc chế trách mình" : Khắc chế là chính mình đối trị với chính mình,
tức là trong Nho giáo có nói về công phu "khắc kỷ". Nhan Hồi hỏi Ðức
Khổng Tử làm thể nào đắc được "nhân". Khổng Tử đáp : "Khắc kỷ phục lễ
là nhân". Nghĩa là khắc chế chính mình, khôi phục thiên lý là nhân. Nhan
Hồi lại hỏi làm thế nào khắc kỷ phục lễ ? Khổng Tử đáp :
"Phi lễ vật thị,
Phi lễ vật thính,
Phi lễ vật ngôn,
Phi lễ vật động."
Nghĩa là : Việc gì chẳng hợp với lý đạo thì đừng xem, chẳng những không
xem mà cũng đừng nghe, như có ai nói thị phi thì đừng nghe. Lời chẳng hợp
với đạo lý thì đứng nói, việc chẳng hợp với đạo lý thì đừng làm. Xem, nghe,
nói, làm, đều hợp lễ, thì tức là khắc kỷ phục lễ. Ngài Xá Lợi Phất thường
khắc chế mình mà không phóng dật. Muốn học Phật pháp phải phát tâm
dũng mãnh, không sợ gian lao khốn khổ, phàm ai thành công cũng đều có sự
khắc chế công phu. Tại Hương Cảng có vị pháp sư Thọ Dã (bây giờ trụ trì
chùa Quang Minh ở Nữu Ước), lúc trước ông ta bế quan trên núi Ngũ Ðài,
dùng máu để biên Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có tám mươi
quyển, có hơn mấy chục vạn chữ. Thầy đó dùng máu biên bộ Kinh nầy, đủ
thấy Thầy đó có công phu "khắc kỷ".
Tôn giả Xá Lợi Phất tiếp tục nói : Nay học tập Phật pháp, nghe diệu pháp
của Kinh Pháp Hoa, dứt tất cả nghi hoặc, thân tâm đều thơ thới rất an vui tự
tại. Hôm nay mới biết con thật là Phật tử (con của Phật), từ miệng Phật sinh
ra, từ Phật pháp hóa sinh, đắc được Phật pháp tính.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:
Con nghe tiếng pháp nầy
Ðắc được chưa từng có
Tâm sinh vui mừng lớn
Lưới nghi đều đã trừ.
Xưa nay nhờ Phật dạy
Chẳng mất nơi đại thừa
Tiếng Phật rất ít có
Hay trừ khổ chúng sinh.
Con đã được sạch lậu
Nghe cũng trừ khổ não.
Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất muốn tường thuật lại ý nghĩa Kinh văn vừa nói
ở trên, bèn dùng kệ để nói: Con nay nghe được tiếng diệu pháp nầy, đắc
được diệu pháp chưa từng có, tâm sinh vui mừng lớn, lưới hoài nghi đã trừ
sạch. Thuở xưa, đời đời kiếp kiếp nhờ Phật giáo hóa, tài bồi hạt giống đại
thừa, đời nầy đã chín mùi. Tiếng của Phật vi diệu thanh tịnh sâu xa, rất ít có
trong đời, hay dứt trừ phiền não của chúng sinh. Con đã chứng tứ quả A La
Hán, đắc được lậu tận thông. Con vốn căn tính tiểu thừa, chưa thật sự minh
bạch đạo lý Bồ Tát. Hiện tại con nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho
khổ não của con đều trừ sạch.
Con ở nơi hang núi
Hoặc dưới cây trong rừng.
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Thường suy gẫm như vầy:
Than ôi ! Tự trách mình
Sao lại khi dối mình.
Chúng ta cũng Phật tử
Ðồng vào pháp vô lậu
Ðời vị lai chẳng được
Diễn nói đạo vô thượng.
Con ở nơi hang núi, hoặc trong rừng cây, hoặc ngồi hoặc đi, thường nghĩ
việc nầy, mà than thở sao lại tự trách mình ? Chúng con đều là Phật tử, đồng
vào pháp vô lậu, nhưng ở đời vị lai chẳng được diễn nói diệu pháp vô lậu.
Sắc vàng ba mươi hai
Mười lực các giải thoát
Ðồng trong một pháp tánh
Mà chẳng được việc nầy.
Tám mươi tướng tốt đẹp
Mười tám pháp bất cộng
Những công đức như thế
Mà con đều đã mất.
Lúc con kinh hành riêng
Thấy Phật trong đại chúng
Danh đồn khắp mười phương
Rộng lớn ích chúng sinh.
Nghĩ mình mất lợi nầy
Vì con tự khi dối
Con thường nơi ngày đêm
Ðều suy nghĩ việc nầy.
Muốn hỏi đức Thế Tôn
Là mất hay chẳng mất ?
Con thường thấy Thế Tôn
Khen ngợi các Bồ Tát.
Vì thế nên ngày đêm
Con nghĩ về việc nầy
Nay nghe tiếng Phật nói
Tùy nghi mà nói pháp.
Vô lậu khó nghĩ bàn
Khiến chúng đến đạo tràng
Con vốn chấp tà kiến
Làm thầy các Phạm chí.
Thế Tôn biết tâm con
Trừ tà nói Niết Bàn
Khiến con dứt tà kiến
Chứng đắc được pháp không.
Bấy giờ tâm tự bảo :
Ðến được nơi diệt độ.
Thân Phật là thân sắc vàng, có ba mươi hai tướng. Mười lực tức là mười thứ
trí huệ lực của Phật. Ba mươi hai tướng là :
1. Dưới chân bằng như đáy hộp.
2. Dưới chân có tướng bánh xe ngàn căm.
3. Gót chân như đảnh Phạm vương.
4. Ngón tay nhỏ dài.
5. Thân vuông thẳng.
6. Tay chân có màng lưới.
7. Tay chân mềm mại.
8. Mắt cá mập đầy.
9. Lông mình mượt.
10. Cánh tay như nai chúa.
11. Thân tròn đầy.
12. Tay thòng quá gối.
13. Ðảnh có nhục kế.
14. Vô kiến đảnh.
15. Mã âm tàng.
16. Da mịn trơn.
17. Lông mình vòng bên phải.
18. Thân tía màu hoàng kim.
19. Bảy chỗ bằng đầy.
20. Tiếng Phạm âm.
21. Xương vai sung mãn.
22. Thân trên như sư tử.
23. Khuỷu tay mập nhỏ.
24. Răng trắng đều nhau.
25. Bốn mươi cái răng.
26. Răng trắng như ngà.
27. Má như sư tử.
28. Trong miệng có thượng vị.
29. Lưỡi rộng dài.
30. Tướng bậc trượng phu.
31. Lông mi xanh biếc.
32. Tướng hào quang trắng giữa mày.
Mười lực :
1. Trí lực biết xứ phi xứ.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt.
5. Trí lực biết chủng chủng giải.
6. Trí lực biết chủng chủng giới.
7. Trí lực biết nhất thiết chí xứ đạo.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Các giải thoát bao quát tám giải thoát :
1. Nội hữu sắc tướng quán ngoại sắc giải thoát.
2. Nội vô sắc tướng quán ngoại sắc giải thoát.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô biên xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.
Ðó là tám giải thoát, người tu thiền tông phải biết.
Ðồng trong một pháp tính, mà hàng tiểu thừa chưa được thọ ký thành Phật.
Thân của Phật có tám mươi vẻ đẹp, mười tám pháp bất cộng. Pháp bất cộng
là chẳng chung với ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, chỉ có Phật
mới đầy đủ pháp nầy.
Mười tám pháp bất cộng :
1. Thân vô thất.
2. Khẩu vô thất.
3. Niệm vô thất.
4. Vô dị tưởng.
5. Vô bất định tâm.
6. Vô bất tri kỷ xả.
7. Dục vô diệt.
8. Tinh tấn vô diệt.
9. Niệm vô diệt.
10. Huệ vô diệt.
11. Giải thoát vô diệt.
12. Giải thoát tri kiến vô diệt.
13. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí huệ hành.
14. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hành.
15. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí huệ hành.
16. Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại.
17. Trí huệ tri vị lai thế vô ngại.
18. Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.
"Những công đức như thế" : Như vừa nói ở trên ba mươi hai tướng tốt, tám
mươi vẻ đẹp, mười lực, các giải thoát, mười tám pháp bất cộng, đủ thứ công
đức, mà con Xá Lợi Phất hành tiểu thừa đã mất các công đức. Xá Lợi Phất
khi một mình tham thiền hoặc đi kinh hành, thì thấy Ðức Phật ở trong đại
chúng, danh đồn khắp mười phương. Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh mà
chẳng xa lìa. Xá Lợi Phất nói : Con cảm thấy mình đã mất đi tất cả những lợi
ích mà mình tự khi dối mình, cho rằng mình đã mất đi lợi ích nầy. Con
thường ngày đêm sáu thời, suy gẫm về việc nầy của con cứu kính mất đi hay
chẳng mất ? Con thường thấy đức Thế Tôn tán thán ngợi khen các đại Bồ
Tát. Do đó, nên ngày đêm con đều nghĩ về việc nầy. Bây giờ, con nghe tiếng
của Phật nói, tùy cơ nghi của chúng sinh mà nói diệu pháp. Pháp nầy là vô
lậu, không thể nghĩ bàn, khiến cho chúng sinh đắc đạo bồ đề.
Tôn giả Xá Lợi Phất, trước kia từng có sự chấp trước, có tà tri tà kiến, muốn
làm thầy của tất cả Bà La Môn (Phạm chí) ngoại đạo. Ðức Thế Tôn hiểu rõ
căn cơ của con, mới trừ dứt tà kiến của con, còn vì con nói pháp Niết Bàn
quả Thánh. Cho nên, tất cả tà tri tà kiến của con đều đã dứt sạch, chứng
được pháp chân không. Lúc đó, tâm con cho rằng, chứng quá A La Hán, tức
là đã đạt được cứu kính tịch diệt.
Nay mới thật biết rõ
Chẳng phải thật diệt độ.
Nếu sẽ được thành Phật
Ðủ ba mươi hai tướng
Chúng trời người Dạ Xoa
Rồng Thần đều cung kính.
Lúc đó mới bảo rằng :
Vĩnh viễn vào Vô Dư
Phật ở trong đại chúng
Nói con sẽ thành Phật.
Nghe tiếng pháp như thế
Nghi hoặc đều đã trừ
Vừa nghe Phật nói ra
Trong tâm rất sợ nghi.
Phải chăng ma giả Phật
Nhiễu loạn tâm con chăng !
Tôn giả Xá Lợi Phất lại nói : Con lúc trước cho rằng mình đã được diệt độ,
té ra chưa đến được chốn Bảo sở, nay đã giác ngộ, trước kia con chỉ chứng
được lý không, chứ chẳng phải Niết Bàn chân chánh. Nếu như tương lai
được thành Phật, đủ ba mươi hai tướng, được chư Thiên, nhân loại, Dạ xoa,
Thiên long bát bộ, rồng và thần .v.v., đều đến cung kính, lúc đó mới có thể
cho rằng: Chân chánh diệt độ, được Vô Dư Niết Bàn. Phật ở trước đại chúng
nói, con tương lai sẽ thành Phật, con nghe được pháp âm như thế, thì tất cả
tâm nghi hoặc đều dứt sạch. Nhưng ban đầu vừa nghe Phật nói pháp, thì
trong tâm con sinh tâm rất sợ nghi, hoài nghi đây có phải là ma biến làm
Phật chăng ? Sao lại nói được diệu pháp nầy ? Có phải nó đến để nhiễu loạn
tâm tu định của con ?
Phật dùng đủ thứ duyên
Thí dụ khéo nói pháp.
Tâm Phật an như biển
Con nghe lưới nghi dứt
Phật nói đời quá khứ
Vô lượng Phật diệt độ.
An trụ trong phương tiện
Cũng đều nói pháp nầy
Phật hiện tại vị lai
Số đông không thể lường.
Cũng dùng các phương tiện
Diễn nói pháp như thế
Như Thế Tôn hôm nay
Từ sinh đến xuất gia.
Ðắc đạo chuyển pháp luân
Cũng dùng phương tiện nói
Thế Tôn nói thật đạo
Ba Tuần làm chẳng được.
Thế nên con biết chắc
Chẳng phải ma giả Phật
Vì con sa lưới nghi
Bảo là ma vương nói.
Nghe tiếng Phật êm diệu
Xâu xa rất vi diệu
Diễn xướng pháp thanh tịnh
Tâm con rất vui mừng.
Nghi hoặc đã dứt hẳn
An trụ trong thật trí
Con chắc sẽ thành Phật
Ðược trời người cung kính.
Chuyển pháp luân vô thượng
Giáo hóa các Bồ Tát.
Phật lại dùng đủ thứ phương tiện nhân duyên, thí dụ, dùng biện tài khéo léo,
vì con nói pháp nầy, tâm của Phật an định như biển cả, khiến cho tâm của
con cũng an định như biển. Phật nói đủ thứ pháp môn thiện xảo phương tiện,
cho nên đoạn trừ được tất cả nghi hoặc của con. Phật nói tất cả vô lượng chư
Phật diệt độ đời quá khứ, đều chiếu theo pháp môn phương tiện nầy, vì tất cả
Chúng sinh nói, tức là diệu pháp Kinh Pháp Hoa. Tất cả chư Phật hiện tại và
vị lai nhiều vô cùng vô tận, cũng dùng đủ thứ phương tiện nói diệu pháp
nầy. Hiện tại, Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn, từ cung trời Ðâu Suất hạ sinh
nhân gian, hiện tám tướng thành đạo.
Tám tướng :
1. Từ nội viện cung trời Ðâu Suất hạ sinh vào vương cung Vua Tịnh Phạn,
tại nước Ca Tì La Vệ xứ Ấn Ðộ.
2. Nhập thai : Phật ở trong thai mẹ ngày đêm đều vì trời người quỷ thần
thuyết pháp.
3. Trụ thai mười tháng.
4. Ra khỏi thai thì Phật dùng một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói : "Thiên
thượng thiên hạ duy ngã độc tôn."
5. Xuất gia tu khổ hạnh sáu năm.
6. Dưới cội Bồ Ðề thấy sao mai mọc mà ngộ đạo.
7. Thành đạo rồi chuyển bánh xe pháp, vì tất cả chúng sinh thuyết pháp.
8. Cuối cùng vào Niết Bàn.
Ðó là tám tướng thành đạo, nhưng Tông Thiên Thai sửa tướng thứ ba trụ
thai làm tướng thứ năm là hàng ma tức là :
1. Ðâu Suất hạ sinh.
2. Nhập thai.
3. Xuất thai.
4. Xuất gia.
5. Hàng ma.
6. Thành đạo.
7. Chuyển pháp luân.
8. Vào Niết Bàn.
Tám tướng nầy Tông Thiên Thai nói.
Trong đại thừa, tướng hàng ma bao quát ở trong tướng thành đạo. Mà nay
đức Phật, từ lúc hàng sinh nhân gian đến xuất gia, thành đạo rồi chuyển pháp
luân, tức cũng là dùng phương tiện pháp môn thuyết pháp. Hiện tại đức Thế
Tôn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là trí huệ chân thật, cũng là đạo lý thật
tướng. "Ba Tuần" tức là ma vương, y không thể nào nói được chân lý nầy.
Do đó, con biết chắc chắn chẳng phải ma giả Phật. Vì con sa vào lưới nghi,
cho rằng Phật nói pháp là ma vương nói. Bây giờ, nghe được tiếng êm diệu
từ bi hỷ xả của Phật. Tiếng của Phật sâu xa vi diệu (một trong tám mươi vẻ
đẹp), diễn xướng diệu pháp thanh tịnh. Tâm con rất vui mừng nghi hoặc
vĩnh viễn đoạn tuyệt, an trụ vào trong thật trí huệ. Trong tương lai con nhất
định sẽ thành Phật, được trời người rồng thần tôn kính, chuyển đại pháp luân
vô thượng, giáo hóa tất cả đại Bồ Tát.
Bấy giờ, đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất : Nay ta ở trong đại chúng trời
người Sa môn, Bà la môn mà nói, xưa kia ta đã từng ở chỗ hai vạn ức vị
Phật, vì đạo vô thượng, nên thường giáo hóa ông. Ông cũng theo ta tu học
lâu dài, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông, khiến cho sinh vào trong pháp của
ta.
Lúc đó, Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất: Nay ta vì trời, người, Sa môn, Bà La
Môn, đại chúng mà nói, ta đã từng ở chỗ hai vạn ức vị Phật, ta vì cầu đạo vô
thượng (có bảy vô thượng đạo : Thân vô thượng, thọ trì vô thượng, cụ túc vô
thượng, trí huệ vô thượng, bố thí vô thượng, giải thoát vô thượng, hành vô
thượng). Ta thường giáo hóa ông. Ông trước kia chưa khai ngộ, luôn luôn
theo ta tu học Phật pháp. Ta dùng đủ thứ phương tiện pháp môn dẫn dắt ông,
mới khiến cho sinh vào trong Phật pháp của ta Phật Thích Ca Mâu Ni.
Xá Lợi Phất ! Xưa ta dạy ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đã quên, mà bèn
tự bảo đã được diệt độ. Nay ta muốn khiến cho ông nhớ lại nguyện xưa đã
hành đạo, vì các Thanh Văn nói Kinh đại thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên
Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.
Xá Lợi Phất ! Ông ở đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên số kiếp không thể
nghĩ bàn, cúng dường hàng ngàn vạn ức vị Phật, phụng trì chánh pháp, đầy
đủ đạo tu hành của Bồ Tát, sẽ được thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai,
ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó
tên là Ly Cấu, cõi đó bằng phẳng thanh tịnh trang nghiêm, an ổn, giàu có,
sung sướng, trời người đông đảo. Dùng lưu ly làm đất, có tám đường giao
thông, dây bằng vàng dùng giăng bên đường, cạnh lề đường đều có hàng cây
bằng bảy báu, thường có hoa quả. Ðức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba
thừa giáo hóa chúng sinh.
Xá Lợi Phất ! Ðức Phật đó ra đời, tuy chẳng phải đời ác, nhưng vì nguyện
xưa cho nên nói pháp ba thừa.
Ðức Phật bảo Xá Lợi Phất: Thuở xưa, ta giáo hóa ông chí nguyện thành Phật
đạo, mà nay ông đã quên mất, tự nói đã được diệt độ. Ta muốn ông nhớ lại
nguyện lực đã phát ra xưa kia, nay vì hàng Thanh Văn nói Kinh điển đại
thừa tên là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dạy ông pháp Bồ Tát. Học pháp nầy,
thì được mười phương chư Phật hộ niệm. Xá Lợi Phất, ta vì ông thọ ký, ông
ở trong vô lượng kiếp vị lai cúng dường vô số chư Phật, phụng trì chánh
pháp, đầy đủ lục độ vạn hạnh, sẽ được thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như
Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước
của ông tên là Ly Cấu. Ở trên là mười danh hiệu chung của mỗi vị Phật. Cõi
nước của ông thanh tịnh bằng phẳng, an ổn giàu có sung sướng, trời người
đông đảo. Dùng lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dùng vàng làm
dây giăng bên đường, lề đường có những hàng cây bằng bảy báu, luôn luôn
có hoa quả. Ðức Hoa Quang Như Lai dùng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ
Tát ba thừa giáo hoá chúng sinh. Khi Xá Lợi Phất thành Phật, tuy chẳng phải
đời ác, nhưng bởi vì nguyện lực xưa cho nên nói pháp ba thừa.
Kiếp đó tên là Ðại Bảo Trang Nghiêm. Vì sao tên là Ðại Bảo Trang Nghiêm
? Vì trong nước đó dùng Bồ Tát làm đại bảo. Các Bồ Tát nhiều vô lượng vô
biên không thể nghĩ bàn. Toán số ví dụ cũng không thể tính được, ngoài trí
lực của Phật ra, không ai biết được. Nếu muốn đi thì có hoa báu đỡ chân.
Các vị Bồ Tát đó, chẳng phải mới phát tâm, các Ngài đều đã trồng gốc công
đức lâu xa, tu phạm hạnh thanh tịnh, nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chỗ các
đức Phật. Thường được chư Phật khen ngợi, thường tu trí huệ của Phật, đủ
đại thần thông, khéo biết tất cả các pháp môn, chân thật không hư dối, chí
niệm kiên cố, các Bồ Tát như thế đầy khắp nước đó.
Ðức Hoa Quang Như Lai thành đạo, vào kiếp đó tên là Ðại Bảo Trang
Nghiêm. Vì sao gọi là Ðại Bảo Trang Nghiêm ? Vì trong cõi nước đó, dùng
Bồ Tát làm đại bảo. Có nhiều Bồ Tát số đông không thể nghĩ bàn, đếm
chẳng hết được. Chỉ có Phật đầy đủ mười trí lực mới biết được số lượng.
Phật đi thì có hoa sen báu đỡ dưới chân. Các Bồ Tát cõi đó, chẳng phải mới
phát tâm tu hành, đều đã trồng căn lành lâu xa, nơi chỗ của vô lượng các đức
Phật, từng tu phạm hạnh thanh tịnh, thường được chư Phật tán thán. Các
Ngài thường tu trí huệ chân thật của Phật, đầy đủ đại thần thồng, thông đạt
các pháp thật tướng, tất cả hành vi đều chân thật chẳng hư dối, chí niệm kiên
cố chẳng thối lui, các đại Bồ Tát như thế đầy khắp nước đó.
Xá Lợi Phất ! Ðức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ làm vương tử
chưa thành Phật, thì nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Ðức Hoa Quang
Như Lai, trải qua mười hai tiểu kiếp, thì thọ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn, sẽ
thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bảo các Tỳ Kheo rằng : Bồ Tát
Kiên Mãn kế đây sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, ứng
cúng, Chánh biến tri. Cõi nước của Ðức Phật đó cũng lại như thế.
Xá Lợi Phất ! Phật Hoa Quang đó diệt độ rồi, chánh pháp trụ thế ba mươi
hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp.
Phật bảo Xá Lợi Phất ! Ðức Hoa Quang Như Lai thọ mạng mười hai tiểu
kiếp. Thọ mạng của con người bắt đầu từ tám vạn bốn ngàn tuổi, mỗi một
trăm năm thì giảm xuống một tuổi, thân cao mỗi một trăm năm cũng giảm
xuống một tất, giảm đến thọ mạng của con người chỉ còn mười tuổi, đây gọi
là kiếp giảm. Tuổi thọ của con người lại từ từ tăng lên, đến tám vạn bốn
ngàn tuổi, mỗi một trăm năm cũng tăng một tuổi, thân cao tăng thêm một tất,
một tăng một giảm như thế gọi là một kiếp. Một ngàn kiếp làm một tiểu
kiếp, hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn trung kiếp làm một đại
kiếp. Trừ lúc Ngài làm vương tử chưa thành Phật, thì nhân dân nước đó thọ
tám tiểu kiếp. Ðức Hoa Quang Như Lai trải qua mười hai tiểu kiếp, thì sẽ
thọ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác,
hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, cõi nước đó
cũng lại như thế. Phật Hoa Quang diệt độ rồi, chánh pháp trụ ở đời trải qua
ba mươi hai tiểu kiếp (thời đại chánh pháp thì thiền định kiên cố), tượng
pháp cũng trải qua ba mươi hai tiểu kiếp (thời đại tượng pháp thì chùa chiền
kiên cố).
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Xá Lợi Phất tương lai
Thành Phật đấng đại trí
Hiệu là Phật Hoa Quang
Sẽ độ vô lượng chúng.
Cúng dường vô số Phật
Ðầy đủ hạnh Bồ Tát
Mười lực các công đức
Chứng được vô thượng đạo.
Qua vô lượng kiếp sau
Kiếp tên Ðại Bảo Nghiêm
Thế giới tên Ly Cấu
Thanh tịnh chẳng dơ bẩn.
Dùng lưu ly làm đất
Dây vàng giăng bên đường
Hàng cây xen bảy báu
Thường có hoa quả thật.
Lúc đó, Phật dùng kệ để tường thuật lại ý nghĩa trường hàng vừa nói ở trên.
Xá Lợi Phất ! Trong tương lai ông sẽ thành Phật đấng đại trí, phổ độ chúng
sinh, hiệu là Hoa Quang Như Lai, độ vô lượng chúng sinh. Bởi ông từng
cúng dường vô số chư Phật, đầy đủ lục độ vạn hạnh Bồ Tát đạo, có mười lực
của Như Lai, tám giải thoát, thiền định công đức .v.v...
Ðức Phật đó chứng được quả vị đạo vô thượng, trải qua vô lượng kiếp sau,
kiếp tên Ðại Bảo Trang Nghiêm, thế giới tên Ly Cấu, thanh tịnh chẳng dơ
bẩn, dùng lưu ly làm đất, dây vàng giăng bên đường, hàng cây xen tạp bảy
báu, thường có hoa quả thật đầy khắp, khiến cho ngưới thấy mà phát bồ đề
tâm.
Các Bồ Tát nước đó
Chí niệm thường kiên cố
Thần thông Ba la mật
Thảy đều đã đầy đủ.
Nơi vô số chư Phật
Khéo học Bồ Tát đạo
Các Ðại Sĩ như thế
Do Phật Hoa Quang độ.
Khi Phật làm vương tử
Bỏ nước xả vinh hoa
Ở nơi thân cuối cùng
Xuất gia thành Phật đạo.
Phật Hoa Quang trụ thế
Thọ mười hai tiểu kiếp
Chúng nhân dân nước đó
Thọ mạng tám tiểu kiếp.
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp trụ ở đời
Ba mươi hai tiểu kiếp
Rộng độ các chúng sinh.
Chánh pháp diệt hết rồi
Tượng pháp ba mươi hai
Xá lợi rộng truyền khắp
Trời người đều cúng dường.
Sự việc Phật Hoa Quang
Ðại khái là như thế
Ðấng Lưỡng Túc Tôn kia
Tối thắng chẳng ai bằng.
Phật đó tức thân ông
Nên phải tự vui mừng.
Các đại Bồ Tát trong nước Ðại Bảo Trang Nghiêm nầy, chí niệm đã được ba
bất thối (vị bất thối, niệm bất thối, hạnh bất thối) và được đại thần thông, sáu
Ba la mật, thảy đều đầy đủ. Ở chỗ vô số chư Phật thường hành Bồ Tát đạo,
lục độ vạn hạnh. Tất cả các đại Bồ Tát đều do Phật Hoa Quang giáo hóa.
Ðức Hoa Quang Như Lai làm vương tử, thì xả bỏ tất cả vinh hoa phú quý,
một đời cuối cùng xuất gia làm Tỳ Kheo, tu hành mà thành Phật đạo. Ðức
Hoa Quang Như Lai trụ thế sống lâu đến mười hai tiểu kiếp, nhân dân nước
đó sống lâu đến tám tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời đến
ba mươi hai tiểu kiếp, rộng độ vô lượng chúng sinh. Sau khi thời đại chánh
pháp diệt, thì đến thời đại tượng pháp cũng ba mươi hai tiểu kiếp. Xá lợi
rộng truyền cho đời, trời người đều cúng dường bảo tháp xá lợi. Sự việc của
Phật Hoa Quang đại khái là như thế. Ðức Phật đầy đủ phước huệ chẳng ai
sánh bằng, là Ðức Hoa Quang Như Lai thân ông trong tương lai, nên mừng
được thành Phật rộng độ chúng sinh.
Bấy giờ, bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ
xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, đại chúng,
thấy Ðức Phật thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Phật Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, tâm rất vui mừng hớn hở vô cùng, ai nấy đều cởi y trên
thân, để cúng dường Ðức Phật. Thích Ðề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương,
và vô số Thiên tử cũng đem y trời đẹp, hoa trời mạn đà la, hoa ma ha mạn đà
la, cúng dường đức Phật, y trời tung lên bèn trụ ở trong hư không mà tự
xoay vòng. Âm nhạc của chư thiên trăm ngàn vạn thứ, cùng một lúc đều tấu
lên ở trong hư không, mưa xuống các hoa trời mà nói như vầy : Xưa kia đức
Phật ban đầu chuyển pháp luân ở thành Ba La Nại, cho đến hôm nay mới
chuyển pháp luân lớn nhất vô thượng.
Khi Ðức Phật thọ ký cho tôn giả Xá Lợi Phất rồi, thì bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, A Tu La (vô đoan chánh), Ca Lâu La (đại bành
kim sí điểu), Khẩn Na La (thần nhạc), Ma Hầu La Gìa (đại mãng xà), tám bộ
quỷ thần đều tụ tập nghe Phật thuyết pháp. Thấy Xá Lợi Phất ở trước Phật,
được thọ ký vô thượng chánh đẳng chánh giác, tương lai sẽ thành Phật Hoa
Quang, mọi người đều sinh tâm vui mừng. Ai nấy đều cởi y trên thân của
mình đem cúng dường cho Ðức Phật. Người xuất gia thì đem tổ y cúng
dường (người xuất gia có ba y : Ðại y còn gọi là tổ y, là y hai mươi lăm điều
có 108 ô; thất y là y bảy điều; ngũ y là y năm điều; người xuất gia phải có ba
vật thường bên mình tức là y, bình bát, tọa cụ).
Người tại gia cư sĩ thì cởi y phục tốt đẹp nhất trên thân đem cúng dường.
Thích Ðề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương và vô số Thiên tử cũng đem y
phục trời tốt đẹp, hoa trời mạn đà la (hoa nhỏ màu trắng), hoa ma ha mạn đà
la (hoa lớn màu trắng) để cúng dường. Y của chư thiên cúng dường cho đức
Phật, lơ lửng xoay vòng ở trong hư không, và có trăm ngàn vạn thứ nhạc trời
đồng tấu lên ở trong hư không, đều cùng nhau nói: Xưa kia đức Phật ở thành
Ba La Nại, ban đầu chuyển bánh xe pháp, cho đến hôm nay, mới diễn nói
diệu pháp lớn nhất vô thượng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khai quyền hiển
thật.
Lúc đó, các Thiên tử muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Xưa tại Ba La Nại
Chuyển pháp luân bốn đế
Phân biệt nói các pháp
Sinh diệt của năm uẩn.
Nay lại chuyển pháp luân
Vô thượng diệu bậc nhất
Pháp đó rất thâm áo
Ít có người tin được.
Chúng con từ xưa nay
Thường nghe Thế Tôn nói
Chưa từng nghe diệu pháp
Thâm diệu như thế nầy.
Thế Tôn nói pháp nầy
Chúng con đều tùy hỉ
Ðại trí Xá Lợi Phất
Nay được Phật thọ ký.
Chúng con cũng như thế
Tất sẽ được thành Phật
Trong tất cả thế gian
Tôn quý vô thượng nhất.
Phật đạo không nghĩ bàn
Phương tiện tùy nghi nói
Những phước đức con có
Ðời nầy hoặc quá khứ.
Và công đức gặp Phật
Hồi hướng đến Phật đạo.
Các vị thiên tử vì muốn làm rõ nghĩa ở trên, nên dùng kệ để tường thuật lại.
Lúc trước, đức Phật ở tại vườn Lộc Uyển ba lần chuyển bánh xe pháp bốn
Diệu Ðế, độ năm vị Tỳ Kheo mà phân biệt nói pháp: Khổ, tập, diệt, đạo,
mười hai Nhân Duyên và sinh diệt của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức). Năm uẩn là: Khổ đế, khổ đế thì có sinh, có sinh thì có diệt, diệt được
khổ đế, tập đế, thì đến đạo đế. Cho nên, pháp bốn Diệu Ðế khổ tập diệt đạo,
và năm uẩn có quan hệ mật thiết. Nay lại nói diệu pháp tối thượng Kinh
Pháp Hoa, là vua của tất cả các pháp, Phật nói Kinh nầy, là bỏ quyền trí mà
nói thật trí. Pháp thâm áo nầy, nếu căn tính của một số người có hạn, thì
chẳng đạt được cảnh giới của nó, cho nên chẳng tin. Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa nói, ai ai cũng đều có thể thành Phật, nhưng vẫn có người chẳng tin đạo
lý nầy ! Ðức Phật và chúng ta đều là người. Ngài khuyên tu thiện đạo thì
thành Phật, song, một số người chấp trước tướng ta, đầy dẫy tham sân si,
chẳng tu hành, cho nên chưa thành Phật.
Chúng con các vị Thiên tử, từ vô lượng kiếp đến nay, tuy nhiều lần nghe
Ðức Phật thuyết pháp, nhưng chưa từng nghe qua diệu pháp chí cao vô
thượng nầy. Bây giờ Phật nói diệu pháp nầy, các chư Thiên nghe nói đều vui
mừng. Nhất là Ngài Xá Lợi Phất là người có trí huệ bậc nhất trong hàng
Thanh Văn. Tôn giả được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con các Thiên tử,
cũng có hy vọng tương lai sẽ thành Phật. Trong tất cả thế gian, Phật là tôn
quý bậc nhất. Phật đạo thật là không thể nghĩ bàn. Phật vì phương tiện mà
quán cơ thí giáo, theo căn cơ của chúng sinh mà nói pháp. Chư Thiên chúng
con, có những phước đức nghiệp lành gì, trong đời hiện tại hoặc đời vị lai,
công đức gặp được Phật nầy, thảy đều hồi hướng hết Phật đạo trong tương
lai của chúng con.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con chẳng
còn nghi hoặc, ở trước Ðức Phật được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Một ngàn hai trăm vị tâm được tự tại nầy, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật
thường giáo hóa rằng : Pháp của ta hay khỏi sinh già bệnh chết, được cứu
kính Niết Bàn. Các vị hữu học vô học nầy, ai nấy cũng đã lìa ngã kiến,
thường kiến và đoạn kiến, cho rằng được Niết Bàn, mà nay ở trước Ðức Thế
Tôn, nghe những điều chưa nghe, đều sa vào nghi hoặc. Lành thay Ðức Thế
Tôn ! Xin vì bốn chúng mà nói nhân duyên đó, khiến cho họ lìa nghi hoặc.
Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất nói với Ðức Phật : Con nghe Phật nói diệu pháp,
chẳng còn sinh nghi hoặc nữa, con ở trước Ðức Phật được thọ ký Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, hiệu Phật của con là Hoa Quang Như Lai. Nhưng
một ngàn hai trăm vị đệ tử tâm được tự tại nầy, lúc trước đầy đủ hữu học vị
(trước chưa chứng được tứ quả A La Hán gọi là hữu học vị). Phật thường
giáo hoá họ, ở trong Phật pháp hay thoát khỏi khổ sinh gìa bệnh chết, được
cứu kính Niết Bàn khoái lạc. Những vị hữu học vô học nầy, tự cho rằng đã
lìa ngã kiến, thường kiến (hữu kiến) và đoạn kiến (vô kiến), tự nói rằng đã
được Niết Bàn. Mà nay ở trước Phật nghe diệu pháp chưa từng nghe, tức là
họ nghi hoặc chẳng hiểu, mong cầu Phật từ bi vì Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ
nam, cư sĩ nữ, bốn chúng nói tất cả nhân duyên, khiến cho họ được lìa nghi
hoặc.
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Phất, trước kia ta đâu chẳng nói, chư Phật Thế
Tôn dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ ví dụ, phương tiện nói pháp, đều vì Vô
thượng chánh đẳng chánh giác ư ? Nói những điều đó, đều vì giáo hóa các
Bồ Tát. Nhưng Xá Lợi Phất, nay ta sẽ dùng thí dụ để làm rõ nghĩa nầy,
những người có trí do thí dụ mà được hiểu.
Phật nghe Ngài Xá Lợi Phất, vì bốn chúng mà thỉnh pháp, khiến cho họ lìa
tất cả nghi hoặc, mới vì Xá Lợi Phất nói : Trước kia, chẳng phải ta đã nói rõ,
mười phương chư Phật dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ thí dụ phương tiện
pháp môn, đâu chẳng vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nói pháp
chăng ? Chỉ vì giáo hoá chúng Bồ Tát, mà nói nhân duyên của các pháp. Bây
giờ ta dùng ví dụ để giải thích đạo lý nầy, người có trí huệ thì nhờ ví dụ mà
lãnh hội được.
Xá Lợi Phất ! Như quốc ấp tụ lạc, có vị đại trưởng giả tuổi đã già nua, của
cải giàu có vô lượng, có nhiều ruộng vườn nhà cửa và các tôi tớ.
Phật bảo Xá Lợi Phất, bây giờ ta đưa ra một ví dụ. "Quốc gia" dụ cho cõi
Thật báo trang nghiêm. "Ấp" dụ cho cõi Phương tiện hữu dư, là nơi ở của
hàng nhị thừa. "Tụ lạc" dụ cho cõi phàm Thánh đồng ở. Cõi Thường Tịch
Quang tịnh độ là gốc, còn ba cõi kia là tích, cuối cùng đều quy về gốc, cõi
Thường Tịch Quang tịnh độ.
"Có vị đại trưởng giả" là dụ cho đức Phật, dùng pháp thế gian mà nói vị đại
trưởng giả. Trưởng giả đầy đủ có mười đức hạnh:
1. Dòng dõi tôn quý.
2. Ðịa vị cao.
3. Giàu có.
4. Uy đức.
5. Trí sâu rộng.
6. Tuổi cao.
7. Hạnh thanh tịnh.
8. Ðầy đủ oai nghi.
9. Ðược khen ngợi.
10. Tất cả đều nương tựa.
Nay ví dụ Phật là vị trưởng giả xuất thế, cũng đầy đủ mười đức.
1. Phật ba đời đều sinh vào trong chân như thật tế, cho nên gọi là dòng dõi
tôn quý.
2. Phật chứng được mười danh hiệu, đây mới là địa vị cao.
3. Phật pháp tài vạn đức viên dung, có thể nói rằng là giàu có.
4. Phật đủ mười trí lực, hàng phục được thiên ma ngoại đạo, cho nên gọi là
uy đức.
5. Phật có một tâm ba trí (tu quán không đắc Nhất thiết trí, tu quán giả đắc
Ðạo chủng trí, tu quán trung đạo đắc Nhất thiết chủng trí) hổ tương thông
đạt, đây gọi là trí sâu rộng.
6. Phật trong vô lượng kiếp về trước, sớm đã thành chánh giác, đây là lớn
tuổi.
7. Phật ba nghiệp (thân, khẩu, ý) tùy trí huệ hành, đây là hạnh thanh tịnh.
8. Phật đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tức là đầy đủ oai nghi.
9. Mười phương chư Phật đều khen ngợi Phật.
10. Bảy phương tiện (chiếu theo Tông Thiên Thai):
a. Nhân thừa.
b. Thiên thừa.
c. Thanh Văn thừa.
d. Duyên Giác thừa.
e. Tạng giáo Bồ Tát thừa.
f. Thông giáo Bồ Tát thừa.
g. Biệt giáo Bồ Tát thừa.
Chúng sinh đều đến quy y với Phật, đó là tất cả đều nương tựa.
Mười đức của Phật chẳng ra ngoài một niệm tâm, trí nương quán tâm từ thật
tướng mà ra:
1. Sinh vào chủng tính chân chánh nhà Phật, tức là dòng dõi tôn quý.
2. Phật chẳng khởi hoặc (kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc), đã mặc y
Như Lai, xưng tịch diệt nhẫn, tức địa vị cao.
3. Ba đế (không đế, giả đế, trung đế) đầy đủ pháp tài, tức là giàu có.
4. Dùng trí huệ hàng phục ái kiến, tức uy đức.
5. Hợp với trung đạo, thấy suốt hai pháp quyền và thật, tức là trí huệ sâu
rộng.
6. Hay tu quán nầy thì vượt lên trên bảy phương tiện, tức là lớn tuổi.
7. Quán tâm tính gọi là thượng định, hay khiến thân khẩu ý ba nghiệp đều
thanh tịnh, tức là hạnh tịnh.
8. Gặp duyên đối cảnh, hợp với pháp chẳng mất oai nghi, tức là đầy đủ oai
nghi.
9. Tu quán nầy hay tin hiểu sâu các pháp thật tướng, được mười phương chư
Phật khen ngợi.
10. Tuy có trời rồng tám bộ chúng và bốn chúng, đều đến cúng dường cũng
chẳng lay động, tức là tất cả nương tựa.
Lại dùng "vị trưởng giả" lớn tuổi, tức là bác đạt cổ kim, ví dụ trí huệ của
Phật.
1. Phật có trí đức mà hay đương cơ lập đoạn.
2. "Già nua" tức là căn chí thuần thục, dụ cho đoạn đức của Phật, lại dùng
"của cải giàu có" dụ cho Phật vạn đức trang nghiêm. "Có nhiều ruộng vườn
nhà cửa": Ruộng tốt nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng, người tu hành tham
thiền, phải nhờ sức trí huệ làm tăng trưởng pháp thân huệ mạng. Nhà cửa dụ
cho cảnh thật trí chân. Nếu luận về phước đức, thì Phật rộng tu sáu độ vạn
hạnh, nếu luận về trí huệ, thì Phật chẳng có cảnh nào mà không chiếu đến.
Cho nên nói rằng Phật "có nhiều ruộng vườn nhà cửa". "Tôi tớ" là ví dụ
nhiều môn phương tiện tri kiến viên mãn, chúng sinh trong sáu nẻo hòa
quang đồng trần, là tứ thuận quần cơ mà thật trí như tôi tớ vậy.
Nhà đó rộng lớn, chỉ có một cửa, có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, cho
đến năm trăm người, đều ở trong đó.
Nhà mà trưởng giả dùng nầy, là dụ cho tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc
giới) luân hồi rộng lớn. "Một cửa" là dụ cho một thừa Phật đạo, chỉ một thừa
Phật đạo lìa khỏi tam giới.
Bao quát năm nẻo chúng sinh đều ở trong đó, dùng "một trăm" là dụ cho nẻo
cõi trời, dùng "hai trăm" là dụ cho nẻo nhân loại, dùng "ba trăm" là dụ cho
đường súc sinh, dùng "bốn trăm" là dụ cho đường ngạ quỷ, dùng "năm trăm"
là dụ cho đường địa ngục. Trong đường cõi trời đều có A Tu La, có phước
trời mà chẳng có đức trời, rất thích đấu tranh.
Ðoạn Kinh văn nầy nói, tam giới năm đường chúng sinh, cùng ở trong một
nhà.
Vì sao trên thế gian có người thông minh, có người ngu si ? Những người
thông minh có trí huệ vì thích tụng Kinh, học Phật và ấn tống Kinh điển, còn
những người ngu si vì ganh ghét tài giỏi của người.
Lầu gác hư mục, tường vách sụp đổ, cột kèo xiêu vẹo, nóc mái nghiêng ngã.
"Lầu" dụ cho dục giới, "gác" dụ cho sắc giới, vô sắc giới, "hư mục" dụ cho
tam giới vô thường, chúng sinh luân hồi ở trong tam giới không ngừng.
"Tường vách" dụ cho bốn đại (đất, nước, gió, lửa), tửu, sắc, tài, khí, như
gông cùm con người, do đó có bài kệ :
"Tửu sắc tài khí bốn vách tường,
Rất nhiều chúng sinh ẩn trong đó,
Có người vượt ra khỏi ngoài tường,
Tức là trường sinh bất lão ông."
Tường dụ cho thân thể của con người, tam giới dễ hư mục. "Cột kèo xiêu
vẹo" dụ cho mạng người chẳng lâu dài. "Nóc mái" dụ cho ý thức. "Nóc mái
nghiêng ngã", dụ cho ý thức thay đổi không ngừng, con người sắp mạng
chung.
Nên biết mạng người vô thường, người trên thế gian chuyên tranh danh đoạt
lợi, tất cả tướng hữu vi đều có sinh diệt, Chúng ta hãy trở về nguồn cội,
minh tâm kiến tánh. Tính của con người vốn không dơ không sạch, không
sinh không diệt, không tăng không giảm. Kinh Lăng Nghiêm nói rằng :
"Thường trụ chân tâm,
Tính tịnh minh thể."
Nếu nhận thức được bổn lai diện mục (bộ mặt thật), thì phiền não sẽ biến
thành bồ đề, nếu không thì bồ đề cũng biến thành phiền não, do đó :
"Thiên hạ vốn vô sự,
Kẻ ngu tự quấy nhiễu."
Người thế tục phần nhiều làm việc hồ đồ, nhưng lại chấp trước là chánh đạo,
họ cho trái là phải. Người tu đạo nên :
"Mắt thấy hình sắc chẳng dính mắc,
Tai nghe âm thanh tâm chẳng hay".
Thông thường người thấy sắc là sắc, thấy hình là hình; nhưng nếu ngộ triệt
bổn thể, thì thấy sắc vô sắc, thấy hình vô hình, liền trở về bổn lai Phật tánh.
Ðạo lý ở trên, có thể bạn đã từng nghe nhiều lần, nhưng biết mà chẳng thực
hành cũng như không. Các bạn nên áp dụng thực hành, cung hành thực tiễn,
hành Bồ Tát đạo, lợi mình lợi người, tự giác giác tha, tự độ độ tha, làm trách
nhiệm của mình, lấy Bồ Tát Ðịa Tạng làm mô phạm, nguyện độ tất cả chúng
sinh tội khổ, do đó :
"Ðịa ngục chưa trống,
Thề không thành Phật".
Chúng sinh có: Tửu, sắc, tài, khí. Bồ Tát cũng có. Bồ Tát lấy sự độ sinh làm
tửu, lấy Tam Tạng mười hai bộ Kinh điển làm sắc, lấy diệu pháp làm tài, lấy
sáu độ vạn hạnh làm khí. Tuy sở hữu của Bồ Tát và chúng sinh giống nhau,
song nghĩa thì khác biệt một trời một vực.
Chung quanh cùng một lúc, lửa bỗng nổi lên thiêu đốt nhà cửa.
"Chung quanh cùng một lúc lửa bỗng nổi lên" : Tám khổ (sinh, già, bệnh,
chết, cầu chẳng được, thương mà xa lìa, ghét mà gặp nhau, năm uẩn thiêu
đốt) khắp cùng nơi bốn đại (đất, nước, gió, lửa), bốn sự sinh (sinh bằng thai,
bằng trứng, ẩm thấp và biến hóa), cho nên nói "chunh quanh". Bốn sự sinh,
bốn đại, tám khổ, đều vô thường, cho nên nói "cùng một lúc". Dùng "thiêu
đốt nhà cửa", dụ cho bốn đại của thân con người, bị đủ thứ sự khổ ràng buộc
vây hãm khắp chung quanh, vì có lửa phiền não, tùy thời tùy lúc sẽ nổi lên
thiêu đốt, mà sinh ra vô tận thống khổ, vì do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức) sinh ra lửa thiêu đốt rừng công đức trong tâm con người.
Các người con của ông trưởng giả, hoặc mười, hai mươi, cho đến ba mươi
người, đều ở trong nhà đó.
"Các người con của ông trưởng giả" dụ cho Bồ Tát thừa, Duyên Giác thừa,
Thanh Văn thừa, ba thừa đệ tử ở trong tam giới. Nếu chẳng có người ba thừa
nầy, tức là "năm trăm người". Người ba thừa nầy xưa kia đã nghe Phật pháp,
có mật cảm thân thiết với Phật, cho nên làm bậc pháp vương tử (con của
đấng Pháp Vương). Pháp vương tử gồm có đại, trung và tiểu thừa. Ðại thừa
là Bồ Tát, trung thừa là Duyên Giác, Bích Chi Phật, tiểu thừa là Thanh Văn.
Con của ba thừa nầy là quyến thuộc của Phật, đều cùng ở trong nhà lửa.
Ông trưởng giả thấy lửa lớn từ bốn phía nổi lên, bèn rất sợ hãi, mà nghĩ như
vầy : Tuy ta ở nơi cửa nhà cháy ra ngoài được an ổn, mà các người con của
ta đang ở trong nhà lửa, đùa giỡn chẳng hay biết gì, chẳng kinh sợ lửa sẽ đốt
thân, rất đau khổ lắm, mà chúng chẳng lo lắng, chẳng có ý cầu ra ngoài.
Dùng Phật nhãn xem, thì thấy sáu nẻo chúng sinh, bị lửa năm uẩn vây hãm,
từ bốn phía nổi lên (tức bốn sự thấy điên đảo : Chẳng phải thường cho là
thường, chẳng vui cho là vui, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng phải tịnh cho
là tịnh).
Trong bài Quy Khứ Lai của người xưa có nói rằng :
"Quy khứ lai hề !
Ðiền viên tương vu, hồ tất quy ?
Tức tự dĩ tâm vi hình dịch,
Hền chù trướng nhi độc bi.
Ngộ dĩ vãng chi bất luyện,
Tri lai giả chi khả truy,
Thật mê đồ kỳ vị viễn,
Giác kim thị nhi tạc phi."
Nghĩa là : Con người thường vì thân giả chẳng sạch sẽ nầy, mà làm tôi tớ
cho nó, tức biết ruộng vườn tự tánh của chúng ta bỏ hoang vu, mà nay bừng
dậy tỉnh ngộ, trở về nẻo chánh Phật đạo, mới biết hôm nay đúng mà hôm
qua sai lầm vậy !
Trong Kinh dùng "mười, hai mươi, hoặc ba mươi người" dụ cho ba thừa,
mười, hai mươi và ba mươi, cộng thành sáu mươi, sáu mươi dụ cho sáu
đường. Từ bậc Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn thừa đều có mười trí :
1. Trí thế gian (cũng bao quát trí xuất thế gian, giác ngộ tất cả pháp thế gian,
sau cầu pháp xuất thế gian).
2. Tha tâm trí (từ trong định sinh, trong định của Thanh Văn thừa có tha tâm
trí, Duyên Giác thừa chỉ cần nghĩ đến thì có tha tâm trí, còn Bồ Tát thì lúc
nào cũng có tha tâm trí).
3. Khổ trí (biết khổ dứt khổ).
4. Tập trí.
5. Diệt trí (diệt phiền não được bồ đề, chứng được thường lạc ngã tịnh).
6. Ðạo trí.
7. Pháp trí (có mắt chọn pháp, trừ khử mười điều ác).
8. Tỉ trí (lựa thiện mà theo).
9. Tận trí.
10. Vô sinh trí (đắc vô sinh pháp nhẫn).
Bốn niệm xứ :
1. Quán thân bất tịnh : Thân thể của chúng ta có chín lỗ thường chảy ra vật
bất tịnh, hai con mắt chảy ra nước mắt, hai lỗ tai có cức ráy, hai lỗ mũi chảy
mũi, miệng chảy nước dãi, đàm, nơi đại tiểu tiện bài tiết nước tiểu và phân,
máu thịt cũng bất tịnh.
2. Quán thọ là khổ : Tất cả mọi sự hưởng thọ đều vô nghĩa, cho nên không
nên chấp trước.
3. Quán tâm vô thường : Ý niệm của con người thay đổi luôn luôn. Trong
Kinh Kim Cang có nói:
"Tâm quá khứ không thể được,
Tâm hiện tại không thể được,
Tâm vị lai không thể được."

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét