Bài kệ 30
Vô dục vô hữu úy 無 欲 無 有 畏
Điềm đạm vô ưu hoạn 恬 惔 無 憂 患
Dục trừ sử kết giải 欲 除 使 結 解
Thị vi trường xuất uyên 是 為 長 出 淵
Hết tham dục thì không còn sợ hãi, lúc ấy ta mới được thảnh thơi an lạc. Dục hết thì kết sử cũng hết, do đó hành giả ra khỏi được vực sâu.
Vô dục vô hữu úy: Không còn đam mê thì không còn sợ hãi. Không sợ hãi, vô úy (abhaya) là nền tảng của hạnh phúc. Chừng nào còn sợ hãi thì hạnh phúc chưa có thật. Còn chạy theo đối tượng của đam mê thì mình vẫn còn sự sợ hãi. Cái sợ đi đôi với sự đam mê, buông bỏ được đam mê là buông bỏ được sợ hãi. Đây là tâm lý học có chiều sâu (deep psychology). Đôi khi mình sợ mà mình không biết mình sợ cái gì và tại sao mình sợ? Đức Thế Tôn nói: Cái sợ đi đôi với cái đam mê. Nếu buông bỏ được đam mê, thì không lý do gì mình cần phải sợ.
Điềm đạm vô ưu hoạn: Điềm đạm là thảnh thơi, không sôi nổi, không vụt chạc, không nóng nảy. Điềm đạm là sự thanh tịnh, sự an lạc. Khi buông được đam mê, trong lòng mình có liền sự thảnh thơi, không nôn nóng, không vụt chạc, hấp tấp nữa. Mình có cảm tưởng mình đã về đã tới.
Vô ưu hoạn là không có sự lo lắng và tai nạn. Hễ còn đam mê là còn hoạn nạn, hễ còn đam mê là còn lo lắng, hễ còn đam mê là còn lo sợ. Buông bỏ đam mê là thoát khỏi sợ hãi, đạt được an lạc, thoát khỏi lo lắng tai ương.
Dục trừ sử kết giải: Khi đã buông bỏ được đam mê (dục trừ) thì sử và kết được mở ra. Kết là những gút thắt, những nội kết (samnyojana). Giải là tháo ra, gỡ ra. Những phiền não như đam mê, giận hờn, si mê, ganh tị, tuyệt vọng được gỡ ra. Sử là sai sử, là cái sai sử mình. Đôi khi mình không muốn làm, không muốn nghĩ, không muốn nói như vậy; nhưng có một lực lượng nào trong người xúi mình, sai mình nói như vậy, làm như vậy, nghĩ như vậy. Đó là những cái sử. Những phiền não, những tập khí, thói quen thúc đẩy mình suy nghĩ những điều rất kỳ, nói những lời rất bậy, hay làm những chuyện có hại cho mình và cho người khác. Đó là sử, là xúi dại. Có mười sử và mười kết gọi là thập triền thập sử. Khi buông bỏ được đam mê, cởi bỏ được những sử và kết thì
Thị vi trường xuất uyên, lúc đó mới thật sự ra khỏi vực sâu. Vực sâu là cái lâu nay mình ngụp lặn trong đó chưa ra khỏi. Ra khỏi được vực sâu thì rất khỏe!
Bài kệ 31
Dục ngã tri nhữ bổn 欲 我 知 汝 本
Ý dĩ tư tưởng sanh 意 以 思 想 生
Ngã bất tư tưởng nhữ 我 不 思 想 汝
Tức nhữ nhi bất hữu 則 汝 而 不 有
Nầy ái dục ta ơi, ta biết gốc gác của mi rồi! Dục ý là từ ước muốn và nhận thức sai lầm mà phát khởi. Nay ta không còn ước muốn và nhận thức sai lầm về mi thì làm sao mi còn có thể phát sinh.
Chúng ta đã được học điều nầy trong bài kệ trước, dưới một hình thức hơi khác.
Dục ngã tri nhữ bổn: Đam mê của ta ơi! Ta biết được gốc gác của mi rồi, mi không làm gì được ta đâu.
Trong kinh thường nói tới Ma vương, Ma vương hiện ra để đánh lừa Bụt, đánh lừa mình. Mỗi khi Ma vương hiện ra nói những câu rất ngọt, Bụt nhận ra được Ma vương, Bụt nói: “Tôi biết anh rồi!“ thì Ma vương chịu thua. Sau khi Bụt thành đạo, Bụt về thăm thành Ca Tỳ La Vệ, thấy tình trạng trong nước bê bối Ngài hơi buồn. Vua cha thì bất lực và các quan đại thần trong triều không có ai giỏi. Ngài vào ngồi thiền trong một khu rừng gần đó, Ma vương tới nói:
- Đức Thế Tôn là một nhà chính trị đại tài. Nếu Ngài chịu khó ra làm chính trị thì thế nào cũng giải quyết được vấn đề của đất nước.
Bụt nói:
- Ta đã biết anh! Anh còn xúi dại ta nữa hả?
Ma vương mắc cỡ biến mất. Đó là những cái sai khiến mình, hấp dẫn mình, đánh vào tự ái của mình. Bụt nói:
- Ta muốn làm thầy tu, chứ không muốn làm chính trị. Ta đã bỏ ngôi vua, bây giờ không có lý ta lại trở lại làm vua. Làm thầy tu sướng hơn và ta giúp được nhiều người hơn. Anh không đánh lừa ta được đâu!
Ma vương thất vọng quá biến mất. Thỉnh thoảng Ma vương cũng hiện ra dưới hình thức nầy hoặc dưới hình thức khác. Cái dục là Mara tới quyến rũ sư chú, sư cô:
- Cái đó hay lắm, dễ thương lắm, tốt lắm!
Mình nhìn nó rồi nói:
- Ta biết mi rồi! My dear, Mara!
Mỗi chúng ta đều có Mara, nó cứ theo dụ mình. Mình phải nói chuyện với nó: “Mara yêu quí của ta ơi! Ta biết mi rồi, mi không làm gì ta được đâu!” Đó gọi là nhận diện đơn thuần. Chỉ nhận diện đơn thuần là đã có tự do rồi.
Ý dĩ tư tưởng sanh: Tâm ý ái dục từ tư và tưởng mà sanh. Tư (cetana) là ước muốn (volition). Tưởng (samjñā) là nhận thức (perception).
Có tà tư (ý muốn sai lạc) và vọng tưởng (nhận thức sai lạc) thì mới sanh dục. Dục ý là do tư duy và tri giác mà sanh ra.
Ngã bất tư tưởng nhữ: Nay ta không có ước muốn và tư duy sai lầm về ngươi
Tức nhĩ nhi bất hữu, dù ngươi còn đó nhưng cũng như ngươi không có, ngươi không làm gì được ta. Bất hữu là không có.
Khi con cá biết con mồi làm bằng plastic và có lưỡi câu ở trong thì con cá không dại gì cắn vào con mồi. Không có ước muốn và nhận thức sai lầm thì con cá tự do bơi lội. Ăn thua là nhận thức của mình cả.
Bài kệ 32 và 33 lặp lại ý mình đã học:
Bài kệ 32
Phạt thọ hốt hưu 伐 樹 忽 休
Thọ sanh chư ác 樹 生 諸 惡
Đoạn thọ tận chu 斷 樹 盡 株
Tỳ-kheo diệt độ 比 丘 滅 度
Đốn cây ái dục mà không đốn tận gốc thì cây ái dục sẽ mọc trở lại. Đốn cây ái dục mà tận gốc thì vị xuất sĩ đạt tới Niết Bàn.
Phạt thọ hốt hưu
Thọ sanh chư ác
Nếu đốn cây không tận gốc thì cây sanh trở lại những cái ác.
Đoạn thọ tận chu
Tỳ kheo diệt độ
Nếu đốn cây tận gốc thì vị Tỳ Kheo đạt tới Niết Bàn. Diệt độ là Niết Bàn.
Bài kệ 33
Phu bất phạt thọ 夫 不 伐 樹
Thiểu đa dư thân 少 多 餘 親
Tâm hệ ư thử 心 繫 於 此
Như độc cầu mẫu 如 犢 求 母
Nếu không chịu chặt cây ái dục thì cánh lá ái dục ít nhiều sẽ còn phát sinh. Tâm còn vướng vào ái dục thì người vẫn còn như một con bê, luôn luôn cần đến vú mẹ.
Phu bất phạt thọ
Thiểu đa dư thân
Nếu không đốn cây ái dục thì nó ít hay nhiều vẫn còn phát sinh ra.
Tâm hệ ư thử: Tâm mình còn bị ràng buộc vào nơi đó thì
Như độc cầu mẫu, cũng giống như con bò con không có tự do chỉ quanh quẩn đi theo bò mẹ. Mình đi quanh quẩn theo đối tượng ái dục của mình mà không thoát ra được. Đối tượng đó có thể là ma túy, là rượu chè, là ái dục. Mình không phải là một bậc trượng phu, mình không phải là anh hùng tại vì mình không biết cách sử dụng thanh gươm hay nếu có cũng chỉ dùng thanh gươm bằng gỗ. Làm sao có thể đoạn đứt mọi não phiền!
(Làng Mai)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét