GIẢNG KINH CHIẾC LƯỚI ÁI ÂN phần 9

Bài kệ 11



Nhất thiết ý lưu diễn                      一  切  意  流  衍
Ái kết như cát đằng                       愛  結  如  葛  藤
Duy tuệ phân biệt kiến                   唯  慧  分  別  見
Năng đoạn ý căn nguyên              能  斷  意  根  原



Dòng tâm ý tham dục ấy cứ mặc tình trôi chảy khiến cho những nút thắt ái dục đan kết lại với nhau chằng chịt. Chỉ có tuệ giác chân thật mới có thể có khả năng phân biệt và thấy rõ điều này, giúp ta đoạn trừ được căn nguyên của nó nơi tâm ý.



Nhất thiết ý lưu diễn: Nhất thiết là tất cả. Ý là tâm ý. Tất cả dòng tâm ý chảy tràn (lưu diễn).

Ái kết như cát đằng: Kết là những nút thắt, được dịch từ chữ samyojana, tiếng Anh là fetters. Trong bản tiếng Pali có chữ sanyojana, sanyojana và có cùng nghĩa như samyojana, tức là những sợi dây ràng buộc. Ngoài ra, còn có chữ sanga, sanga có nghĩa là trước 著, tức sự vướng mắc. Vô trước (asanga) là không vướng mắc. Asanga là tên một thầy lớn, anh ruột của thầy Vasubandhu (Thế Thân). Trong bản Pali có hai chữ dùng để chỉ sự ràng buộc, vướng mắc: chữ sanyojana (kết) và chữ sanga (trước), dịch ra tiếng Anh là bonds. Cát đằng là những dây leo, tiếng Anh là creeper, tiếng Phạn là lata. Chữ lata đồng thời cũng có nghĩa là tham dục. Lata là một épithète của chữ tanha, tanha là dục.

Cả dòng tâm ý chảy mạnh làm cho những nút thắt và những vướng mắc của ái dục kết thành những dây leo chằng chịt.

Duy tuệ phân biệt kiến: Chỉ có tuệ giác mới có thể thấy, có thể phân biệt được

Năng đoạn ý căn nguyên: và đoạn trừ được nguồn gốc của tâm ý tham dục. Ý là ái ý, dục ý. Đoạn là cắt đứt.

Vấn đề giải thoát không phải là ép xác cho khô để hết năng lượng tình dục. Giải thoát là vấn đề có tuệ giác. Có tuệ giác và tình thương rồi, thì tuy năng lượng tình dục còn có đó, nhưng mình có thể xử lý nó dễ dàng. Đó gọi là đào tận gốc. Có đủ trí tuệ và tình thương nên mình thấy rõ rằng, mình không được làm chuyện đó, vì nó sẽ đưa tới khổ đau cho chính mình và cho người khác. Ví dụ, có một người có khuynh hướng muốn lạm dụng tình dục một em bé. Có thể người đó đã được sinh ra với tập khí này từ tổ tiên để lại. Dù cho có đi xuất gia làm một ông thầy hay một ông cha, thì tập khí đó vẫn còn. Dù người này không muốn lạm dụng tình dục của trẻ em, nhưng tiềm tàng trong con người họ vẫn có hạt giống đó. Khi bắt đầu thấy được điều đó, thì sự giận dữ, sự thù hận của mình đối với những người lạm dụng tình dục trẻ em sẽ bớt đi nhiều lắm. Và mình sẽ thấy xót thương cho cả hai bên, vì kẻ phạm tội cũng là một nạn nhân của tập khí. Con đường giải thoát cho người đó không phải là hủy hoại thân thể. Có nhiều người rất tức giận, vì trong họ cái tập khí đó hơi mạnh; họ không muốn như vậy, nên họ tự hủy hoại thân thể của mình. Trong truyền thống Tây phương cũng như Đông phương, có người đã lấy dao tự cắt bộ phận sinh dục của mình, gọi là đoạn âm, bởi vì họ không chấp nhận năng lượng đó của họ. Họ không muốn như vậy! Thi sĩ Huy Cận hỏi tại sao Thượng đế sinh ra cơ thể con người kỳ cục như vậy?

Thân quá nặng nên hồn sa xuống thấp

Chớ giận chi những kẻ mất thiên đường.

Thi sĩ trách tại sao Thượng đế lại sinh ra cơ thể con người quá nặng nề như vậy. Mình không muốn, nhưng cơ thể mình muốn như vậy. Ngày xưa, trong giáo đoàn của Bụt có người đã tự đoạn âm và bị Bụt la rầy, Bụt nói: "Đoạn âm không bằng đoạn tâm" (đoạn âm bất như đoạn tâm), cắt đứt cái tâm chứ không nên cắt đứt cái thân.

Ta phải tìm phương pháp để đối xử với năng lượng đó, chứ tự hủy hoại thân thể thì không giải quyết được vấn đề. Phương pháp Bụt đưa ra là phải có tuệ giác, có tuệ giác là có từ bi. Nhìn một em bé, mình có thể có khuynh hướng muốn lạm dụng nó, nhưng nếu có đủ trí tuệ, mình sẽ thấy nếu mình làm chuyện đó là mình làm hỏng cả cuộc đời của nó và làm hỏng luôn cả cuộc đời mình. Đứa bé ấy nó mới có sáu, bảy tuổi, nếu bị lạm dụng tình dục thì vết thương sẽ đi theo nó khiến nó đau khổ suốt đời. Thấy được như vậy, tự nhiên mình có từ bi. Chính trí tuệ và từ bi cứu mình và cứu em bé. Muốn làm được chuyện đó, mình phải có Bụt, có Pháp, có Tăng hộ niệm và yểm trợ. Làm một mình rất khó, nhất là khi sống một mình, không có sự hướng dẫn của thầy, của bạn, của giáo pháp. Có những trường hợp tập khí quá nặng, người đó phải được đặt trong một hoàn cảnh có sự giữ gìn của một đoàn thể những người hiểu biết phương pháp. Nếu thả lỏng người đó vào trong hoàn cảnh tự do, người đó sẽ gây tàn hại cho những em bé khác và cho chính họ. Đó mới gọi là thương.

Theo tuệ giác của Bụt, có bốn cái thấy sai lạc gọi là Tứ điên đảo (viparyasa). Điên đảo có nghĩa là đảo lộn trật tự (upside down). Có bốn cái thấy trái ngược với sự thật, mình phải làm sao cho bốn cái thấy đó đúng trở lại:

1. Thường (nitya): Sự vật là vô thường (anitya) mà mình thấy là thường (nitya). Đó là đệ nhất điên đảo, một trong bốn cái thấy đảo lộn.

2. Lạc (sukha): Đó là khổ mà mình tưởng là lạc. Ví dụ như mình đi tìm hạnh phúc trong ma túy, trong tửu sắc. Những thứ đó không phải là lạc (sukha), nó là khổ (dukha).

3. Ngã (atma): Bông hoa không có chủ thể riêng biệt, con người không có chủ thể riêng biệt, cha không có chủ thể riêng biệt mà con cũng không có chủ thể riêng biệt. Cha có trong con và con có trong cha, đám mây có trong bông hoa và bông hoa có trong đám mây. Thấy được điều đó là thấy vô ngã, thấy được vô ngã thì không có mặc cảm. Chưa thấy được vô ngã thì cái thấy của mình còn đảo ngược. Mình phải tu tập như thế nào để có chánh kiến, có cái thấy chân thật (right view).

4. Tịnh (suddhi): Tịnh là tinh khiết. Nó không tinh khiết mà mình cho là tinh khiết. Nó là ái nhiễm (unhealthy, unsane) mà mình cho là tinh khiết. Đó gọi là điên đảo.

Thường - lạc - ngã - tịnh, đó là bốn cái thấy đảo ngược, gọi là Tứ điên đảo. Khi quán chiếu thấy được nó là tà kiến (wrong view), chúng ta đạt tới tuệ giác. Nhìn vào đối tượng của ái dục, thấy được bản chất của nó không phải thường, không phải lạc, không phải ngã, không phải tịnh, nó gây khổ đau cho mình và cho người kia trong tương lai, tự khắc chúng ta có tuệ giác. Có tuệ giác là có từ bi, có khả năng thấy và phân biệt được. Chỉ khi có tuệ giác rồi, ta mới đoạn trừ được cái nguồn và cái gốc của dục ý mà thôi.

Chúng ta phải cùng nhau đặt ra những câu hỏi rất thực tế, để cùng quán chiếu và đi tới tuệ giác, đó là: Trong cuộc phiêu lưu ân ái vướng mắc này, mình sẽ đi về đâu và người kia sẽ đi về đâu? Nếu tiếp tục đi sâu vào sự liên hệ đó, thì ngày mai mình sẽ đi về đâu trong cuộc đời người tu của mình và người kia sẽ đi về đâu? Nếu tiếp tục đi vào chuyện vướng mắc, mình và người kia sẽ trở thành ra cái gì? Trong giây phút hiện tại, mình đã có thể thấy được tương lai.

Câu hỏi thứ hai là: Chí nguyện của mình là gì? Mình có thật sự muốn thực hiện chí nguyện đó hay không? Nếu mình thật sự muốn hoàn thành chí nguyện lớn lao đó, thì tại sao mình lại còn muốn đi vào con đường này? Con đường ngược lại với chí nguyện ban đầu của mình, nó làm cho mình không còn năng lượng để có thể tu học và độ đời.

Câu hỏi thứ ba là: Nếu ta để cho sự kiện vướng mắc đó đưa ta và người kia đi xa, ta không muốn nghe lời khuyên nhủ và giáo giới của tăng thân thì ta sẽ đi tới đâu? Ta nói mình có đủ tuệ giác để tự lo cho mình thì mọi người trong tăng thân sẽ đối xử với ta như thế nào? Chúng ta có thể có câu trả lời là mình sẽ trở thành đối tượng "khó gần" của tăng thân, vì tăng thân thấy không thể tới chuyện trò được với mình, không thể tới chơi được với mình. Lúc ấy, mình sẽ thấy mình như một kẻ lưu lạc và mọi người đang nhìn mình bằng con mắt khác. Khi đó mình là một giọt dầu trong bát nước của tăng thân. Nếu mình vẫn cứ tiếp tục đi về hướng đó, chắc chắn một ngày nào đó mình sẽ từ bỏ con đường hiện giờ mình đang đi và mình sẽ đánh mất tăng thân. Có những người ngoan cố đi con đường mà tăng thân không ngăn cản được, nên đã đánh mất tăng thân và không trở về được với tăng thân nữa.

Tất cả dòng suối tâm ý tuôn chảy tạo ra những nút thắt, những ràng buộc khiến cho cây ái dục đan vào nhau chằng chịt. Trong trường hợp đó, chỉ có tuệ giác mới giúp cho ta thấy và phân biệt được rõ ràng cái gì đang xảy ra, giúp ta chấm dứt được dục ý, chấm dứt được cái nguồn và cái gốc của ái dục.

Đây là bài Pháp thoại ngày 13.05.2010, tại thiền đường Trăng Rằm, chùa Từ Nghiêm, xóm Mới, Làng Mai.

Chúng ta cùng đọc lại những bài kệ đã học:

1. Tâm ý đi về hướng ái dục thì cây ái dục sẽ đâm chồi, trổ nhánh rất mau. Tâm ý phân tán vì đối tượng ái dục sẽ làm cho lửa ái dục bừng cháy trong ta. Kẻ đi tìm ái dục cũng giống như một con vượn chuyền cành tìm trái, chuyền  từ cành này sang cành khác.

2. Ái dục buộc mình phải gánh chịu khổ đau, ái dục làm cho mình bị vướng mắc vào cuộc sống trần tục. Những lo lắng và hoạn nạn do ái dục đem tới cứ tăng trưởng đêm ngày, mọc kín như cỏ tranh.

3. Bị ái ân mê hoặc người ta sớm muộn gì cũng bị vướng vào dục tình. Cái lo lắng kia càng ngày càng lớn giống như dòng nước rỉ, rỉ mãi cũng đầy hồ.

4. Ở đời có nhiều thứ lo lắng và đau buồn, nhưng không có thứ lo buồn nào lớn hơn cái lo buồn do ái dục đem lại. Buông bỏ được ái dục mới hết lo buồn.

5. Muốn tâm ý được an vui thì phải quyết tâm vứt bỏ ái ân. Không ân ái thì không đi vòng quanh trong cõi luân hồi, không còn phải mang nặng ưu tư, không còn thấp thỏm mong cầu những gì ô nhiễm. Không còn ái nhiễm thì sẽ được thật sự an vui.

6. Ân ái thâm trọng thì đến giờ lâm chung bao quanh bởi những người thân thuộc, sẽ thấy con đường của lo lắng và sầu khổ dài như thế nào. Cái khổ do ân ái gây nên thường đưa ta tới những hoàn cảnh không an toàn, đầy tai ách.

7. Là người tu đạo ta không nên đi về hướng ái dục, phải bắt đầu bằng cách tìm diệt tận gốc cái cây ái dục để cho những cái rễ của nó không còn có thể đâm chồi lên được. Đừng làm như cắt cỏ lau để sau khi được cắt rồi thì lau lại mọc lên như cũ.

8. Gốc cây ái dục sâu và vững, tuy cây đã bị đốn nhưng các cành lá vẫn có thể sinh ra trở lại. Tâm ái dục chưa dứt trừ thì theo lẽ thường cái khổ do ái dục đem tới vẫn còn trở lại như thường.

9. Như con vượn nhảy ra khỏi cây này thì lại nhảy vào cây khác, người đời cũng thế, ra khỏi được ngục tù ái dục này rồi lại lao vào ngục tù ái dục khác.

10. Tâm ái dục là một dòng chảy thường xuôi theo dòng tập khí và dòng kiêu mạn. Những mong cầu và nhận thức của ta đều có thể được tô điểm theo màu sắc ái dục và do đó chính mình tự che lấp sự thật và không thấy được sự thật.

11. Dòng tâm ý ái dục ấy cứ mặc tình trôi chảy khiến cho những gút thắt ái dục đan kết lại với nhau chằng chịt. Chỉ có tuệ giác chân thật mới có thể có khả năng phân biệt và thấy rõ điều này, giúp ta đoạn trừ được căn nguyên của nó nơi tâm ý.

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét