GIẢNG KINH CHIẾC LƯỚI ÁI ÂN phần 13

Bài kệ 20 



Dĩ dục võng tự tệ                           以  欲  網  自  蔽
Dĩ ái cái tự phú                               以  愛  蓋  自  覆
Tự tứ phược ư ngục                       自  恣  縛  於  獄
Như ngư nhập cú khẩu                 如  魚  入  笱  口



Tự cuốn lấy mình trong chiếc lưới ái dục, tự che mình bằng chiếc dù ái dục là tự trói mình trong vòng hệ lụy như con cá tự chui vào trong một chiếc nơm.



Dĩ dục võng tự tệ: Võng là cái lưới, tệ là che lấp. Lấy cái lưới dục vọng mà tự che lấp mình.

Dĩ ái cái tự phú: Cái là cái ô. Phú là phủ lên, là che lấp. Lấy cái ô tham ái mà tự che đậy mình.

Tự tứ phược ư ngục: Tứ là phóng túng, phược là trói lại. Tự mình phóng túng, tự mình trói mình lại trong ngục thất.

Như ngư nhập cú khẩu: Như con cá đi vào miệng nơm. Cú (có thể đọc là cẩu) là cái nơm. Nơm là một cái bẫy để bắt cá, đan bằng tre có hai cửa, cá đi vào rất dễ nhưng không đi ra được.


Bài kệ 21
Vi lão tử sở tứ                                 為  老  死  所  伺
Nhược độc cầu mẫu nhũ               若  犢  求  母  乳
Ly dục diệt ái tích                           離  欲  滅  愛  迹
Xuất võng vô sở tệ                         出  網  無  所  弊



Bị cái già và cái chết bắt theo và lẩn quẩn bên cạnh đối tượng ấy như một con bê đi tìm vú mẹ. Lìa bỏ được dục, không đi theo vết xe của ái thì có thể vượt thoát ra ngoài chiếc lưới ái ân, không còn bị bất cứ một cái gì làm hại mình nữa.



Vi lão tử sở tứ: Vi là bị. Tứ có nghĩa là hầu hạ, là đi theo không rời. Bị cái già và cái chết thăm hỏi, đi theo sát nút.

Nhược độc cầu mẫu nhũ: Nhược là giống như. Độc là con bê (con bò con). Cầu là đi tìm. Mẫu nhũ là sữa mẹ. Khi bị lọt vào lưới ái ân rồi thì mình đi quanh quẩn xung quanh đối tượng giống như một con bê đi tìm vú mẹ, không thể đi xa được.

Ly dục diệt ái tích: Khi thoát ly được ái dục và xóa được vết tích của nó (diệt ái tích).

Xuất võng vô sở tệ: Xuất võng là ra khỏi lưới, Tệ là tệ hại, là hệ lụy. Vô sở tệ là không có gì làm mình hệ lụy, không có gì che lấp được mình nữa.

Các bài kệ 20 và 21 có thể được xem như là trung tâm điểm của kinh. Cụm từ  “chiếc lưới ái ân” được lấy ra từ bài kệ thứ 20 để làm tên kinh. Chúng ta có thể gọi kinh này là Ái Võng Kinh 愛 網 經, kinh Chiếc Lưới Ái Ân (The net of love sutra). Khi mình đã lấy cái lưới tham dục tự quấn mình, đã lấy chiếc ô ái ân tự che mình rồi, thì mình buông lung và tự đưa mình vào tù ngục như con cá đi vào miệng chiếc nơm. Khi bị lọt vào lưới ái ân rồi, mình bị cái già và cái chết dõi theo như con bê đi tìm cầu sữa mẹ, không cách gì thoát ra được. Đây là những hình ảnh rất hay, đầy chất thi ca! Thi ca được làm bằng hai yếu tố: hình ảnh và âm điệu. Kinh kệ cũng vậy, cũng là thi ca, bởi vì trong đó có rất nhiều hình ảnh và âm điệu tuyệt vời. Theo dõi kinh chúng ta thấy khi nói về ái dục, Bụt đã đưa ra rất nhiều hình ảnh sinh động và thực tế, nào là cái cây, con vượn, dây leo, dòng nước lũ, con bê tìm vú mẹ, con cá chui vào nơm v.v… Và chúng ta đã chọn hình ảnh chiếc lưới đại diện cho các hình ảnh ấy để làm tên kinh.

Chỉ khi nào lìa xa được ái dục, xóa hết những vết tích của nó thì khi đó mình mới thực sự ra khỏi được cái lưới, không còn bị bất cứ một cái gì gây hệ lụy và làm hại được nữa.

Mình là chàng dũng sĩ, là người có chí nguyện thực tập, mình phải dũng mãnh dang tay xé toạc lưới ái ân. Mỗi vị xuất sĩ và mỗi vị cư sĩ nên viết một chứng từ thuật lại kinh nghiệm của mình về ái ân, viết cho thật, thì tự nhiên sẽ hay. Chúng ta hãy đọc lại bản dịch:

Tự cuốn lấy mình trong chiếc lưới ái dục, tự che mình bằng chiếc dù ái dục là tự trói mình trong vòng hệ lụy như con cá tự chui vào trong một chiếc nơm.

Bị cái già và cái chết bắt theo và lẩn quẩn bên cạnh đối tượng ấy như một con bê đi tìm vú mẹ. Lìa bỏ được dục, không đi theo vết xe của ái thì có thể vượt thoát ra ngoài chiếc lưới ái ân, không còn bị bất cứ một cái gì làm hại mình nữa.


Bài kệ 22 
Tận đạo trừ ngục phược                盡  道  除  獄  縛
Nhất thiết thử bỉ giải                      一  切  此  彼  解
Dĩ đắc độ biên hành                       已  得  度  邊  行
Thị vi đại trí sĩ                                 是  為  大  智  士

Đi trọn được con đường, cởi bỏ được mọi ràng buộc hệ lụy, giải phóng được mọi phân biệt kỳ thị, vượt qua được các ý niệm lưỡng nguyên, đó mới thật là bậc xuất sĩ đại trí.



Tận đạo trừ ngục phược: Đạo là con đường. Tận đạo là đi cho hết con đường, không bỏ dở nửa chừng. Trừ ngục phược là cắt đứt, diệt trừ những sợi dây ràng buộc vào chốn ngục tù.

Nhất thiết thử bỉ giải: Thử là cái này, bỉ là cái kia, chỉ cho sự phân biệt kỳ thị (discrimination), cái này không phải là cái kia, cái kia không phải là cái này. Giải là thấu suốt và cũng có nghĩa là cởi trói.  Hiểu thấu và cởi trói tất cả mọi ý niệm phân biệt, kỳ thị.

Dĩ đắc độ biên hành: Độ là vượt thoát, biên là một bên, biên hành là vướng mắc vào một bên. Vượt thoát sự vướng mắc vào một bên.

Thị vi đại trí sĩ: Đó mới thật là bậc đại sĩ có trí tuệ lớn.

Chân lý là cái này nằm trong cái kia, không thể lấy cái này ra khỏi cái kia. Trái và phải dường như đối lập nhau, nhưng nếu không có trái thì không có phải và không có phải thì không có trái. Cha và con cũng vậy, nếu không có cha thì không có con và không có con thì không có cha. Người đàn ông đó nếu không có đứa con thì ông ta không thể được gọi là cha và đứa con cũng vậy, cũng nhờ có cha mà nó được gọi là con. Cha và con không thể tách rời nhau được. Nếu thấy được như vậy tức là ta đã có thể  Nhất thiết bỉ thử giải, hiểu được và cởi trói cho tất cả mọi sự phân biệt, kỳ thị.

Nếu bị kẹt vào những quan niệm như “cái này không phải là cái kia”, “cha và con là hai cái khác nhau”, “vật thể và tâm thức là hai cái khác nhau”, “sinh-tử là hai cái khác nhau”, “có-không là hai cái khác nhau” thì đó là bị vướng vào cái thấy lưỡng nguyên (dualistic view), vướng vào biên hành. Trong truyền thống Cơ Đốc giáo, chúng ta quan niệm rằng có một Thượng đế tạo ra thế giới và có thế giới này là do Thượng đế tạo ra, Thượng đế và thế giới là hai cái khác nhau. Đó là một cách nhìn lưỡng nguyên. Chúng ta hãy thử đặt lại một câu hỏi là nếu không có tạo vật thì làm sao có thứ gọi là tạo hóa? Trả lời được câu hỏi đó rồi thì ta còn có thể thấy Đấng Sáng Tạo và vật được sáng tạo là hai thực tại đứng ngoài nhau không?

Con đường của đạo Bụt là con đường Trung Đạo (The Middle Way), không vướng vào bờ nào và vượt thoát mọi ý niệm phân biệt. Cũng như một khúc gỗ trôi trên một dòng sông, khúc gỗ đó muốn đi tiếp để trôi ra biển, nó phải không bị vướng vào một trong hai bờ, nó phải đi con đường Trung Đạo; bằng không, nó sẽ không bao giờ ra biển được.

Khoa học bây giờ cũng bắt đầu thấy được những gì đức Thế Tôn đã khám phá từ rất lâu. Họ đã nhận ra rằng tâm thức quán sát và thế giới được quán sát dính chặt vào nhau, không thể tách riêng ra được. Khi lấy tâm quán sát một đối tượng thì đối tượng đó bị thay đổi bởi sự quán sát kia. Khi một lượng tử (quantum) không bị quán sát, nó rất tự do, nó có mặt khắp nơi; nhưng khi mình quán sát nó, nó bắt đầu có vị trí trong không gian và thời gian. Vì vậy, các nhà khoa học đã bắt đầu đi tới kết luận là đối tượng quán sát và tâm thức quán sát không phải là hai cái riêng biệt tách rời nhau. Các nhà khoa học bây giờ đang vùng vẫy trong cái lưới nhị nguyên.

Chúng ta may mắn được là học trò của Bụt, vì vậy chúng ta phải tinh chuyên đi con đường của Bụt để trở thành một con người tự do, một bậc đại sĩ có trí tuệ lớn. Muốn được như vậy, mình phải làm ba điều:

Phải cởi được sợi dây ái dục để đi trọn vẹn con đường.
Không kỳ thị “cái này” và “cái kia”.
Không bị vướng vào cái nhìn lưỡng nguyên.
Bài kệ thứ 22 rất là sâu, nó là hạt giống của giáo lý Trung Đạo sau này. Chúng ta có Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận, những bộ luận lớn đó được đặt nền móng trên những câu kinh này. Những tư tưởng vĩ đại của Đại Thừa không phải là những cái gì mới, mà đã có sẵn trong đạo Bụt nguyên thỉ. Bài kệ thứ 22 đủ để chứng minh cho điều đó.

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét