GIẢNG KINH CHIẾC LƯỚI ÁI ÂN phần 11

Bài kệ 15



Tuệ thuyết ái vi ngục                     慧  說  愛  為  獄
Thâm cố nan đắc xuất                   深  固  難  得  出
Thị cố đương đoạn khí                   是  故  當  斷  棄
Bất thị dục năng an                        不  視  欲  能  安


Người có trí tuệ thấy ái dục là một ngục tù kiên cố khó thoát ra khỏi. Người ấy biết rõ rằng, phải đoạn trừ ái dục thì mới thật sự được an vui.


Tuệ thuyết ái vi ngục: Những người có trí tuệ nói rằng ái dục là ngục tù.

Thâm cố nan đắc xuất: Nó sâu vững khó mà đi ra khỏi.

Thị cố đương đoạn khí: Vì vậy cho nên phải chấm dứt, phải buông bỏ.

Bất thị dục năng an: Không vướng vào ái dục thì mới thật sự có an vui.

Bài kệ này tiếp nối bài kệ trên với hình ảnh ái dục như ngục tù sâu vững, những người muốn đạt tới giải thoát, an vui cần tìm cách thoát ra khỏi nó. Bài kệ nhắc tới sự thực tập đoạn khí, tức là chấm dứt và buông bỏ những đối tượng của dục vọng.



Bài kệ 16
Kiến sắc tâm mê hoặc                    見  色  心  迷  惑   
Bất duy quán vô thường                不  惟  觀  無  常
Ngu dĩ vi mỹ thiện                         愚  以  為  美  善
An tri kỳ phi chân                          安  知  其  非  真


Thấy sắc mà bị mê hoặc, đó là vì không biết quán vô thường. Kẻ u mê tưởng rằng cái sắc ấy là một cái gì lành và đẹp, không biết rằng cái bóng dáng bên ngoài kia không chứa đựng được một cái gì bền bỉ và chắc thật bên trong nó.


Kiến sắc tâm mê hoặc: Nếu thấy sắc mà tâm của mình bị mê hoặc, bị cuốn theo là tại vì

Bất duy quán vô thường: Mình không có tuệ giác vô thường.

Ngu dĩ vi mỹ thiện: Ngu là những người không có trí tuệ.  Những người thiếu trí tuệ cho đó là đẹp, là lành.

An tri kỳ phi chân: Không biết nó không phải là cái gì chân thật.


Trong bài kệ 11 chúng ta đã học rằng chỉ có tuệ giác mới giúp mình đào được gốc rễ của cây ái dục. Tuệ giác này là tuệ giác vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh. Nếu không có tuệ giác thì cái thấy của mình là vọng tưởng, là cái thấy đảo ngược (perverted view). Mình thấy là thường, là ngã, là lạc, là tịnh trong khi chúng là vô thường, là vô ngã, là khổ, là bất tịnh. Với bài kệ thứ 16, chúng ta học sâu hơn về tuệ giác vô thường để đoạn trừ ái nhiễm.

Văn dịch rất hay, bài kệ có chứa cả ba chữ: Chân (the truth), Thiện (the good) và Mỹ (the beauty). Còn hay hơn nữa khi bài kệ cho ta một cái thấy rằng bởi vì cái sắc (đối tượng của ái dục) là không thật (phi chân) như những ý niệm thường, lạc, ngã, tịnh của ta, nên nó cũng không đẹp (mỹ) và lành (thiện). It’s not true, it’s not good either and it’s not beautiful either.

Sắc có thể dịch là nhan sắc, tức là vẻ đẹp bề ngoài, vẻ đẹp có thể quyến rũ và mê hoặc tâm mình. Người có trí tuệ thấy nó là cái cần phải xa lìa và buông bỏ, nhưng hầu hết con người của xã hội này đang đua nhau chạy theo nó. Chỉ cần nhìn vào các thành phố là mình thấy rõ điều đó ngay. Sản phẩm làm đẹp cho đàn bà và đàn ông đang bán rất chạy. Khắp nơi nơi, những tiệm bán mỹ phẩm mọc lên như nấm. Chúng ta hãy tưởng tượng tới sự nực cười của nước hoa. Mình rất hôi, nhưng nếu rải vào vài giọt nước hoa thì nó sẽ át mùi hôi đi và mình tưởng rằng mình thơm thật. Khoa giải phẫu thẩm mỹ cũng đang rất thịnh hành, bao nhiêu người đang tới đó để bơm chất hóa học vào trong ngực, trong mặt cho phình lên, cho đẹp và nhờ dao kéo gọt tỉa, chỉnh trang những khiếm nhã trên thân thể.

Người nào cũng muốn trang điểm cho vẻ ngoài thêm hấp dẫn, nhưng bên trong thì không có gì thật cả. Đó gọi là phi chân, là không có thật mà mình tưởng là nó thật, nên mình tin là nó lành và đẹp. Bài kệ thứ 16 nhắc nhở chúng ta về sự thực tập quán vô thường. Hình dáng bên ngoài đó không chắc thật, mai mốt nó sẽ không còn như vậy nữa, vì vậy cho nên ta không nên vướng vào nó. Vô thường là một trong bốn phép quán quan trọng, chúng ta cần thực tập sâu sắc để thực sự vượt thoát được ngục tù của ái dục.

Cái gì thật sự Mỹ, thật sự Thiện thì trong đó phải có Chân.

Bài kệ 17
Dĩ dâm lạc tự lý                              以  婬  樂  自  裹
Thí như tàm tác kiển                      譬  如  蠶  作  繭
Trí giả năng đoạn khí                     智  者  能  斷  棄
Bất hễ trừ chúng khổ                     不  盻  除  眾  苦


Tự nhốt mình trong sắc dục thì cũng như con tằm kéo chiếc kén tự mình giam hãm lấy mình. Bậc trí giả có khả năng đoạn trừ và buông bỏ dục tưởng, không thiết tha gì đến cái đối tượng ái dục cho nên mới tránh thoát khỏi mọi khổ nạn.


Dĩ dâm lạc tự lý: Dâm lạc là lạc thú của dâm dục. Tự lý là tự nhốt mình. Lấy lạc thú của dâm dục mà tự nhốt mình vào.

Thí như tàm tác kiển: Tàm là con tằm. Kiển là cái kén. Tự nhốt mình vào dâm dục cũng giống như con tằm làm ra cái kén để tự giam mình.

Trí giả năng đoạn khí: Trí chỉ những người có trí tuệ. Đoạn là cắt đứt, khí là buông bỏ. Những người có trí có khả năng cắt đứt và buông bỏ.

Bất nghễ trừ chúng khổ: Chữ 盻 có thể đọc là nghễ hay hễ. Nghễ có nghĩa là nhìn trừng trừng, nhìn chăm chăm, nhìn một cách tức  giận. Kẻ trí giả không nhìn chăm chăm vào chuyện đó, nên có thể diệt trừ được tất cả mọi khổ nạn (trừ chúng khổ).

Đặc điểm của kinh là sử dụng nhiều hình ảnh rất tuyệt diệu. Một trong số đó là hình ảnh con tằm kéo cái kén làm thành tù ngục để tự giam hãm nó. Khi nghiên cứu và so sánh với bản tiếng Pali, chúng ta thấy trong bản Pali không dùng hình ảnh của con tằm với cái kén, mà dùng hình ảnh con nhện với cái lưới của nó. Lưới nhện là makkataka-jala (jala là cái lưới), kén tằm là kosa-kimi. Có lẽ dịch giả muốn sử dụng một hình ảnh thân thuộc với người Trung quốc hơn, vì vậy hình ảnh cái lưới nhện được thay thế bằng hình ảnh cái kén tằm. Tuy nhiên, cả hai hình ảnh đều cùng diễn tả một hành động của kẻ thiếu trí tuệ, đó là tự giam mình trong tù ngục của dâm dục, cái nhà tù do chính họ tự tạo ra mà không phải ai khác.

Người trí thì có khả năng chấm dứt và buông bỏ, không đoái hoài tới sắc dục cho nên có thể diệt trừ được tất cả khổ nạn.


Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét