GIẢNG KINH CHIẾC LƯỚI ÁI ÂN
Thích Nhất Hạnh
Đây là bài Pháp thoại Thiền sư giảng vào ngày 02 tháng 5 năm 2010, tại thiền đường Trăng Rằm, chùa Từ Nghiêm, xóm Mới, Làng Mai.
mang nhenKinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”. Trong kinh có sử dụng hình ảnh chiếc lưới để ví với sự mất tự do của một người khi bị vướng vào ái dục. Chữ “lưới” được lặp lại hai lần (ái võng và dục võng), vì vậy ý niệm về chiếc lưới chúng ta có thể thấy rất rõ trong kinh. Mới đọc qua, chúng ta có cảm tưởng kinh được dạy riêng cho người xuất gia; nhưng nghiên cứu kỹ, chúng ta thấy những người tại gia cũng có thể thừa hưởng rất nhiều từ kinh này. Những người tại gia, dù sống đời sống lứa đôi, dù đã có vợ, có chồng, nhưng vẫn có thể bị sa vào lưới ân ái rồi gây khổ đau và làm tan nát gia đình của mình và gia đình người khác.
Đứng về phương diện hành trì, người xuất gia dễ thực tập hơn người tại gia, vì người xuất gia sống trong một môi trường rất thuận lợi cho sự thực tập. Những vị xuất gia tại Làng Mai, vì không xem truyền hình, không đọc tiểu thuyết tình cảm, nên không thấy những hình ảnh khêu khợi ái dục trong phim ảnh hay sách báo, do đó hạt giống ái dục không bị tưới tẩm. Trong khi đó, người tại gia sống ngoài đời, phải tiếp xúc, chung đụng, lại không có những giới luật và uy nghi bảo hộ, nên những hạt giống của ái dục rất dễ bị tưới tẩm. Đứng về phương diện này, đúng là tu tại gia và tu chợ khó hơn tu chùa. Con đường xuất gia vốn là con đường dễ nhất. Hành trì với tính cách cư sĩ khó hơn. Vì vậy, ban đầu đức Thế Tôn có ý dạy kinh này cho những người xuất gia, nhưng những người tại gia cũng phải nên học.
Ngày hôm qua, các thầy, các sư cô có trách nhiệm dịch kinh ra tiếng Anh và tiếng Pháp hơi băn khoăn, không biết nên dịch chữ “ái dục” như thế nào. Mình có thể dịch chữ ái là love. Ái, không phải chỉ là tình cảm giữa nam và nữ, nó còn có nghĩa khác là lòng nhân ái, là tình người, tình yêu nhân loại. Yêu nước là ái quốc. Ái nhân như ái thân (thương người như thể thương thân). Chữ ái không có nghĩa là vướng mắc, mà có nghĩa là thương yêu.
Chữ dục, đứng riêng thì có nghĩa là khao khát, thèm muốn, mình có thể dịch là desire. Khi hai chữ đứng riêng ra thì rất dễ dịch: một bên là tình thương (ái) và một bên là ham muốn (dục). Nhưng khi gộp hai chữ lại thành chữ ái dục thì hơi khó dịch, vì trong ái có dục. Giới thứ ba của Năm Giới có nói: Tình yêu và tình dục là hai cái khác nhau. Khi văn bản của Năm giới tân tu mới ra đời, các vị có gốc Tây phương tiếp nhận liền không một chút khó khăn. Các bạn chấp nhận một cách dễ dàng câu: Tình yêu và tình dục là hai cái khác nhau.
Tên của kinh, trong nguyên văn là Ái Dục Phẩm, mình có thể dịch là “Sensual love”, “L’amour sensuel”. Ở Tây phương, có thứ tình yêu gọi là tình yêu suông (amour platonique), tức là tình yêu không có sự chung đụng xác thịt. Thi sĩ Pháp Félix Arvers có làm một bài thơ rất nổi tiếng, tên “Sonnet d’Arvers” nói về tình yêu không có xác thịt:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Đọc bài thơ của thi sĩ Arvers, ta thấy trong đó chất chứa một khối khổ đau. Mình yêu người đó, nhưng người đó không biết và mình vẫn cứ âm thầm yêu. Yêu mà mang một nỗi thảm sầu, thì tình yêu ấy chẳng vui vẻ, hạnh phúc gì. Tình yêu suông (l’amour platonique ) cũng đem lại biết bao nhiêu khổ đau, vì trong đó có sự vướng mắc; vướng vào đó rồi, mình đánh mất tự do. Tình yêu ấy không nằm trong Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ và xả).
Hỡi ơi người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi
Người dù ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen.
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên mối tình.
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng:
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?
Người dịch bài thơ này là nhà văn Khải Hưng. Bài thơ của Félix Arvers rất nổi tiếng, người Pháp hầu như ai cũng thuộc bài thơ này. Thi sĩ sống vào nửa đầu thế kỷ thứ 19 và làm bài thơ này lúc 25 tuổi. Dưới đây là nguyên văn tiếng Pháp của bài thơ:
Mon âme a son secret, ma vie a son mystère
Un amour éternel en un moment conçu:
Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taire,
Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su.
Hélas! j'aurai passé près d'elle inaperçu,
Toujours à ses côtés et pourtant solitaire;
Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.
Pour elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,
Elle ira son chemin, distraite et sans entendre
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas.
l'austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle:
"Quelle est donc cette femme ?" Et ne comprendra pas!

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét