Một trong những vị tổ tịnh tông là Ấn Quang Đại Sư, blog xin chia sẻ thêm về một trong nhưng cuốn sách nổi tiếng của Đại Sư để nâng cao hiểu biết trên con đường tịnh độ.
Ấn Quang Pháp Sư
Gia Ngôn Lục
Tục Biên
印 光 法 師
嘉 言 錄 續 編
Hậu học Thích Quảng Giác & quy y đệ tử Từ Chí Giác đảnh lễ cung
kính biên tập
Pháp sư Đức Sâm giám định
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang & Đức Phong
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 2
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 3
Ấn Quang Pháp Sư
Gia Ngôn Lục Tục Biên
印 光 法 師
嘉 言 錄 續 編
Hậu học Thích Quảng Giác & quy y đệ tử Từ Chí Giác đảnh lễ cung
kính biên tập
Pháp sư Đức Sâm giám định
oOo
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang & Đức Phong
(dịch theo bản in của Cổ Tấn Báo Ân Phật Học Đường, năm 2002)
Lời Tựa
Kinh Pháp Hoa dạy: “Chư Phật Thế Tôn do một đại sự nhân duyên
mà xuất hiện trong cõi đời”. Đại sự nhân duyên vừa nói ấy không ngoài
muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Chúng
sanh vốn sẵn đủ tri kiến của Phật, hiềm rằng phiền não Hoặc nghiệp
chướng lấp diệu minh, nếu không được chư Phật khơi gợi, dẫn dắt,
chúng sanh sẽ không có cách nào khai thị ngộ nhập được! Do vậy, đức
Thích Ca Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác đã than rằng: “Lạ thay!
Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng
do vọng tưởng, chấp trước, chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì
Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí liền được hiện tiền”. Do vậy,
chư Phật Thế Tôn hưng khởi lòng Từ, vận dụng lòng Bi, xuất hiện trong
thế gian, nói đủ mọi pháp, không gì chẳng nhằm làm cho chúng sanh phá
trừ vọng tưởng, chấp trước, hoàn toàn trở thành trí huệ, đức tướng, đều
cùng khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Nhưng do chúng sanh căn tánh
thiên sai vạn biệt, trọn đủ tám vạn bốn ngàn phiền não, đức Như Lai
thương xót, xét soi căn cơ để lập giáo, nói rộng rãi tám vạn bốn ngàn
pháp môn để đối trị.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 4
Trong số ấy, tìm lấy một pháp viên đốn, siêu diệu, thẳng chóng, rốt
ráo, thỏa đáng, thực hiện dễ thành công, dùng sức ít mà hiệu quả nhanh
chóng, thích hợp khắp ba căn, gồm trọn các pháp thì chỉ có cách nương
theo các vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, các đại tôn
giả Ca Diếp, A Nan, Mã Minh, Long Thọ, và lịch đại tổ sư cõi này là
Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh. [Các vị ấy] đã sớm đặc
biệt chọn lấy pháp môn Tịnh Độ trong Tu Đa La Giáo, [bởi lẽ pháp này]
là thuốc A Già Đà trị chung vạn bệnh, dạy cho khắp mọi chúng sanh đều
cùng nên tu tập. Vạn người tu, vạn người đến, đều cùng được khai thị
ngộ nhập tri kiến của Phật hòng thỏa thích bổn hoài xuất thế của đức
Phật. Pháp môn tối thượng thù thắng siêu tuyệt này từ lúc được khai
sáng tại núi Khuông Lô vào thời Đông Tấn, đời nào cũng có cao nhân
hoằng dương rạng ngời. Điều này có thể thấy cặn kẽ trong sách vở,
chẳng cần phải rườm lời.
Hơn một trăm năm gần đây, pháp vận cũng nguy ngập theo vận đời,
đến nỗi đại pháp như vậy cũng ít có ai đề xướng. May mắn là lúc thoi
thóp tột cùng lại sống dậy, được vị Thân Giáo Sư của chúng ta là Ấn
Công Lão Nhân thừa nguyện tái lai, đặc biệt hoằng dương đạo này. Đạo
đức, văn chương của lão nhân như mặt trời, mặt trăng giữa không trung,
như sông rạch chảy khắp cõi đất. Văn Sao Chánh Biên, Tục Biên được
lưu thông khắp cõi. Không những hàng đệ tử Phật đua nhau ngưỡng mộ,
mà cũng có lắm kẻ chê bai Phật pháp mà đọc văn Ngài, hoặc nghe nói
tới đức hạnh của Ngài, lòng cũng chẳng khỏi kính phục. Đức tót vời cảm
hóa con người sâu đậm như thế, nhằm đúng thời Mạt Pháp này, thật
hiếm người sánh bằng! Nào ngờ do nghiệp cảm của chúng sanh, pháp
tràng chợt gãy, mùa Đông năm Canh Thìn (1940), đại sư về Tây, thoáng
chốc đã tròn ba năm. Trong ba năm ấy, bồi hồi nghĩ tưởng, hối hận sâu
xa lúc ban đầu mình đã xem thường để lỡ, vì sao vậy? Do lúc đại sư tại
thế, trí huệ vô ngại, đức hạnh, danh vọng vòi vọi. Dẫu cho ma vương,
ngoại đạo tung hoành, chúng sanh ngu muội, không phân biệt được đúng
- sai, chỉ cần đại sư ban một lời, quá nửa đã đột nhiên giác ngộ, tâm vui
vẻ, chân thành khâm phục. Dẫu lũ quyến thuộc ma cũng chẳng thể hoành
hành oai thế được!
Nay thì tiếng sư tử hống chẳng còn nghe nữa, huệ nhật ẩn bóng, cố
nhiên những kẻ viết lách phô phang phá hoại di giáo của đại sư gây hại
rất nặng, nhưng vẫn còn có những người có đủ con mắt giống như bảy
mươi vị [đệ tử] thấu hiểu Trọng Ni (Khổng Tử) chẳng thể phá hoại được.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 5
Chúng ta cũng chỉ đành ai nấy tận hết sức mình tu hành là được rồi, hơi
đâu để so đo với bọn họ. Mặc cho bọn họ “chữ Phật ta chẳng thích
nghe”, chúng ta chỉ có A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, chỉ niệm đức Phật,
chỉ cầu Tịnh Độ mà thôi! Nhưng lại có chuyện khiến cho con người đau
lòng buốt óc nhất, khôn ngăn lương tâm xao xuyến, dẫu biết rõ là nhọc
sức vô bổ, nhưng chẳng thể không nói đến, không gì bằng chuyện những
kẻ dùng đến bút gỗ, mâm cát (cầu cơ) để tưởng chừng như ca ngợi,
ngưỡng mộ đại sư, nhưng [thật ra là] vu báng, khinh miệt Ngài!
Nay tôi chẳng phân biệt hết thảy những vị công khai phản đối, hoặc
vu báng ngấm ngầm, hoặc thật sự hộ trì, xin hãy đều tâm bình khí hòa
thương lượng. Đạo đức, văn chương của đại sư thuở sinh tiền cao tột như
thế nào, ta hãy khoan bàn tới. Chỉ căn cứ vào chuyện đại sư biết trước
lúc mất, tuổi đã tám mươi, vẫn có thể từ chõng nằm tự mình đi đến ghế
tựa, ngồi ngay ngắn hướng về Tây, các căn vui vẻ, chánh niệm phân
minh, an tường về Tây giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Sau khi tràduy (hỏa thiêu), linh cốt trắng sạch, có những miếng màu như vàng ròng
hoặc Phỉ Thúy, cũng như xá-lợi thật lắm, linh dị thật nhiều, lắm người
thấy nghe. Sự ứng hiện tốt lành như thế, hạng Tăng nhân tầm thường có
thể đạt được hay chăng?
Đối với học vấn, phẩm hạnh của đại sư, xin các vị cứ dựa theo sự
thật để phê bình, rốt cuộc có ai chê trách Ngài chẳng hiểu giáo lý, tu mù
luyện đui hay chăng? Trộm sợ rằng, bất luận là ai nếu dám thốt ra lời ấy,
ắt sẽ bị ngàn vạn người lớn tiếng thóa mạ, quở là kẻ chẳng biết tự lượng,
ăn nói bừa bãi1, hủy báng Tam Bảo, tội chẳng thể dung tha, trốn tránh
được!
1 Nguyên văn “tín khẩu thư hoàng” (信 口 雌 磺). Theo Thành Ngữ Tự Điển, Thư
Hoàng là một khoáng chất có màu vàng, mềm, dễ nghiền thành bột. Do thời cổ, giấy
thường được nhuộm vàng bằng chất Hoàng Bá để tránh mối mọt, nên khi viết sai chữ
nào, người ta dùng bột Thư Hoàng bôi lên, rồi viết chữ đúng chồng lên trên. Vào thời
Đông Tấn, Vương Diễn vốn là một người hâm mộ tư tưởng Lão Trang, thích biện
bác với người khác, nhưng thường ăn nói bừa bãi, câu sau mâu thuẫn câu trước. Hễ
có ai chỉ ra chỗ sai, bèn nói lấp liếm, hoặc cãi chày cãi cối “tôi không hề nói câu ấy”,
nên người thời ấy thường bảo ông ta “khẩu trung Thư Hoàng”, ngụ ý châm biếm
miệng ông ta ngậm sẵn Thư Hoàng để bôi sửa những chỗ nói bậy. Sau này, câu
“khẩu trung Thư Hoàng” bị biến đổi thành “tín khẩu Thư Hoàng” và được sử dụng
với ý nghĩa ăn nói bừa bãi, rồ dại, không suy nghĩ, không cần biết đến hậu quả!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 6
Những người thật sự hiểu biết đại sư trong thế gian cũng chẳng cần
phải đề cao Ngài ra sao, nói Ngài có thần thông tiên tri này nọ, là bậc Bồ
Tát nào đó tái lai v.v... (Chúng ta được dự vào hàng đệ tử, đối với mật
hạnh tự ẩn giấu chẳng lộ của đại sư, chưa thấy chứng cứ thật sự nào. Dẫu
có chuyện ấy đi nữa, cũng chẳng nên tự phô phang), nhưng nhận biết đại
sư là bậc hạnh giải siêu việt, trác tuyệt, thâm nhập kinh tạng, khéo léo
khế hợp Phật tâm, hạnh làm khuôn mẫu cho đời, lời lẽ làm pháp tắc cho
cõi thế, nhất cử, nhất động đều hữu ích cho pháp môn, đều nêu khuôn
phép cho hàng hậu học.
Bình luận như thế, tôi sợ trộm rằng bất luận ai nghe tới (trừ hạng ma
vương chuyên cầu danh văn lợi dưỡng, ghen ghét, chướng ngại, ôm lòng
hoại loạn pháp môn) ắt sẽ đều cùng gật đầu. Thế mà nhiều người vẫn
còn cho rằng chưa thể khen ngợi đại sư xứng với sự thật, ngay cả hạng
giả vờ xưng tụng, ngưỡng mộ cũng không thể phủ nhận. Hạnh giải của
Ngài thuở đương thời, tướng lành lúc lâm chung, thiết thực như vậy đó,
chắc chắn cao đăng thượng phẩm, chẳng còn phải ngờ vực dị nghị mảy
may chi nữa! Đã lên Thượng Phẩm cõi Tây Phương thì chứng Vô Sanh
Nhẫn, viên mãn Phật quả chỉ là vấn đề thời gian, có thể nói Ngài đã hoàn
tất nhiệm vụ học Phật, đương nhiên chẳng còn có mảy may thiếu sót,
tiếc nuối gì!
Kẻ hơi biết giáo lý hãy nên thấu hiểu sâu xa. Có lắm kẻ cầu cơ,
thường mạo nhận là được đại sư giáng đàn, tự lược thuật những chuyện
thật lúc sinh tiền (tợ hồ là đúng, nhưng thật ra là sai), tự nói chính mình
đã sanh về Tây Phương, lại còn buồn bã hối hận thoạt đầu chẳng tin lời
cơ bút. Lời lẽ vu hãm oan uổng ấy, người hơi hiểu biết Phật pháp nghe
xong liền đau lòng, buốt óc, hoặc đến nỗi phun cả cơm ra! Vì sao vậy?
Xin hỏi là thật hay giả, thì những người cùng tự xưng là đệ tử Phật hãy
đều cùng nhau bình tâm hòa khí để đáp lời. Trong thế gian, có học
thuyết, lý lẽ nào cao siêu, huyền diệu hơn Tam Tạng gồm mười hai thể
loại do kim khẩu [của đức Thế Tôn] giảng ra hay chăng? Tôi trộm sợ
rằng ngoài những kẻ công khai phản đối Phật pháp ra, chẳng có một ai
dám đáp một chữ Có!
Như vậy thì kinh điển gồm mươi hai thể loại trong Tam Tạng của
đức Phật ta chính là học thuyết, giáo lý tối cao vô thượng, được thế giới
công nhận đã lâu; đại sư lại thông hiểu rộng khắp Tam Tạng, khế hợp
Phật tâm khéo léo, do cầu lòng Nhân mà đạt được lòng Nhân, đích xác
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 7
đã sanh về Tây Phương, tấn tu Bồ Đề như trong phần trên đã thuật. Thế
mà lũ bút gỗ mâm cát vẫn lắm phen vu cáo đại sư, bảo Ngài thốt lời hối
hận vì trước kia đã chẳng tin theo lời cơ bút. Đúng là còn dữ dằn, tai hại
hơn những kẻ công khai phản đối, phá hoại rất nhiều!
Đối với lũ thanh đồng2 phò cơ ấy chuyên bám vào bút gỗ, mâm cát
để kiếm ăn, một bề chẳng dính líu gì tới đại sư cho mấy thì đều đáng bỏ
qua, chẳng buồn tính toán tới. Nhưng có lắm đệ tử đã từng quy y với đại
sư, vẫn khoác lấy danh xưng là kẻ tin tưởng, ngưỡng mộ đại sư, mà vẫn
tin tưởng những lời lẽ vu cáo ấy, coi như là khuôn vàng thước ngọc do
chính đại sư tự thuật. Hạng người ấy càng đáng gọi là mất trí điên cuồng,
kém cỏi đến cùng cực! Vì sao vậy? Bởi chính họ tà - chánh chẳng phân,
thối - thơm chẳng biết, vu báng đại sư cũng hồ đồ giống hệt như bọn
[cầu cơ] kia!
Kiểu ăn nói bịa đặt trong đàn cầu cơ như vậy chẳng những khinh rẻ,
nhục mạ đại sư, mà còn khinh rẻ, nhục mạ toàn bộ Phật giáo! Bởi lẽ, đức
Phật giảng kinh nhằm dạy con người cầu sanh Tây Phương, cầu chứng
Phật quả. Những điều đại sư dạy người khác cũng là cầu sanh Tây
Phương, chứng Phật quả. Đương nhiên, điều đại sư tự hành cũng là cầu
sanh Tây Phương, chứng Phật quả. Nay lời bịa đặt trong đàn cầu cơ lại
bảo khi chưa sanh về Tây Phương, đại sư chẳng biết Tịnh Độ ở nơi đâu,
tức là những gì đại sư dạy dỗ người khác đều là nói dối! Như vậy là đã
khinh miệt, nhục mạ đại sư đến mức độ nào? Lại còn nói đại sư đang
sống trong cõi Khí Thiên do bọn họ bịa ra (Danh xưng Khí Thiên chẳng
những trong Phật pháp không có, ngay cả sách Nho cũng chẳng có. Chỉ vì bọn họ
uống nhiều mực quá đến nỗi toàn thân hồ đồ, chính mình không có mắt để biện định
đen - trắng trong đàn cơ nên mới nói nhăng, nói cuội như vậy). Lại còn nói nhăng,
nói càn đại sư vẫn chưa thể đạt tới Lý Thiên!
Xét ra, giáo lý thông thường của đức Phật đã dạy đều nhằm làm cho
con người thoát khỏi tam giới, tu thánh quả. Nói tới Tam Giới thì một là
Dục Giới, tức sáu tầng trời thuộc cõi Dục cùng nhân gian và bốn ác đạo;
hai là mười tám tầng trời thuộc cõi Sắc; ba là bốn tầng trời thuộc cõi Vô
Sắc. Dục giới, Sắc Giới, Vô Sắc giới được gọi chung là tam giới, đều
cùng thuộc biển khổ sanh tử luân hồi. Thoát khỏi tam giới thì mới chứng
thánh quả. Nay bọn họ gọi quàng là “Khí Thiên, Lý Thiên”, lại lầm lạc
2
Những kẻ vịn cơ bút để “thần tiên” giáng cơ thường được gọi là đồng tử, hoặc
thanh đồng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 8
bảo Khí Thiên là quả vị tột bậc, chẳng những khinh miệt, nhục mạ đại sư
mà còn khinh miệt, nhục mạ hết thảy Phật, Bồ Tát!
Họ chẳng biết trong cổ thư, một chữ Lý (理) chỉ có nghĩa là trị lý, tu
lý (sửa chữa, giồi mài), vốn từ ý nghĩa “trị ngọc” (mài giũa ngọc) được
mở rộng ra. Sau này, nó lại được mở rộng thành đạo lý, đến khi ngài
Thanh Lương chú giải kinh Hoa Nghiêm, mới lập ra danh từ Lý pháp
giới. Tống Nho ăn trộm nghĩa ấy, lập ra Lý Học, biến chính mình trở
thành trò đùa. Bởi lẽ, từ ngữ “Lý pháp giới” chỉ tự thể của các pháp,
chính là thật cảnh. Tống Nho không hiểu được cái vốn sẵn chân thật, cứ
hiểu theo mặt chữ, nên đến nỗi suốt một ngàn năm qua, trong môn hộ
xung đột, xúm nhau tranh cãi chẳng ngớt. Như chư thiên vốn thuộc vào
hàng chúng sanh, được sanh lên cõi trời chính là do thiện nghiệp và sức
Thiền Định. Nay bọn họ ghép bừa chữ Lý với chữ Thiên, bịa ra danh
xưng Lý Thiên, đúng là cứ tưởng khai phá một bầu trời mới lạ, nào ngờ
đáng gọi là “con vẹt học nói tiếng người”, trọn chẳng biết chuyện của
con người, nực cười quá đỗi!
Đại sư tri kiến siêu việt, trác tuyệt, đời này hiếm có mấy ai sánh
bằng, cố nhiên chẳng [thốt lời] tầm ruồng, thừa thãi. Đối với chuyện cầu
cơ, trong Văn Sao Chánh Biên lẫn Tục Biên, đại sư đều có lời răn nhắc,
cảnh tỉnh. Chẳng hạn như:
- Chuyện cầu cơ đều do linh quỷ nương theo tri thức của kẻ phò cơ
để xoay chuyển cơ bút, thậm chí còn có những kẻ phò cơ tự bịa đặt lời
giáng cơ! Tuy chẳng phải là hoàn toàn không có bậc chân tiên giáng
đàn, nhưng chỉ là trong trăm ngàn lần mới ngẫu nhiên có một lần giáng
đàn mà thôi! Còn những kẻ xưng là Phật, Bồ Tát đều toàn là hạng giả
mạo. Nhưng người phò cơ phần nhiều khuyên người khác làm lành, tuy
chẳng chân thật, nhưng do họ đã khoác cái danh làm lành, so với những
kẻ công khai làm ác, đương nhiên cao hơn một bậc. Lại còn có thể
chứng minh những chuyện họa phước, quỷ thần v.v... khiến cho con
người có cái để e sợ; do vậy, chúng ta cũng chẳng cần phải cố ý công
kích.
Hiềm rằng những lời giáng cơ, chẳng những không phù hợp Phật
pháp (Kẻ hơi biết Phật pháp phò cơ thì lời giáng cơ thường nói tới
những thứ “Phật pháp” nông cạn hoặc gần giống như Phật pháp. Kẻ
chẳng biết gì về Phật pháp hầu cơ thì toàn là nói nhăng, nói cuội!) Rốt
cuộc phần nhiều là coi mắt cá như minh châu, hoại loạn Phật pháp, gây
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 9
hại quá lớn! (Người thật sự hiểu biết Phật pháp quyết chẳng phụ họa
chuyện cầu cơ, đức Phật chế định Tam Quy, tức là đã bảo ban, răn dạy
phân minh, tường tận, thiết thực, huống hồ còn có những nghĩa lý sâu
xa). Vì thế, phàm là đệ tử thật sự của đức Phật, chớ nên tùy tiện tán
đồng. Những lời trên đây dành để nói với hai người các ông, chớ nên nói
công khai, sợ kẻ vô tri cho là tôi bịa đặt đồn thổi để hủy báng người
khác thì chẳng những không có lợi ích mà còn có hại nữa!”
Lời dạy này có thể thấy trong phần Di Giáo đăng trong Hoằng Hóa
Nguyệt San số 24. Lại đọc trong Văn Sao Tục Biên, thấy có đoạn:
- Cầu cơ là do tác dụng của linh quỷ, chúng nó nói ta là vị Phật này,
hay vị Bồ Tát nọ, vị tiên kia, đều là mạo danh. Chân tiên có khi giáng
cơ, nhưng sợ rằng trong trăm ngàn lần chưa được một lần, huống là
Phật, Bồ Tát ư? Dùng cầu cơ để đề xướng Phật pháp tuy có lợi ích nhỏ
nhoi, nhưng đã sai từ căn bản. Người thật sự học Phật quyết chẳng cậy
vào đấy để đề xướng Phật pháp. Vì sao vậy? Do nó là tác dụng của quỷ
thần. Nếu có linh quỷ thông minh thì vẫn chưa đến nỗi hỏng chuyện; chứ
nếu lỡ một con quỷ hồ đồ giáng đàn, ắt sẽ đến nỗi hỏng đại sự! Người ta
do cầu cơ bị lỡ làng đại sự sẽ bảo Phật pháp sai lầm! Kiểu đề xướng ấy
chính là đầu mối phá diệt Phật pháp vậy!”
Ngài còn dạy: “Vào đời Đạo Quang nhà Thanh trước kia, có một vị
Cử Nhân ở Nam Xương, truyền cho một môn nhân cầu cơ xem bệnh ở
tỉnh thành, rất linh nghiệm. Nhằm lúc mẹ quan Tuần Phủ bị bệnh, thuốc
men vô hiệu, có người thưa ông X... cầu cơ xem bệnh rất linh. Do vậy,
quan mời đến thăm bệnh, kê toa, bà cụ uống vào chết tươi! Quan vội sai
thầy lang đọc toa thuốc, thì ra trong ấy có những vị thuốc công phạt
nhau. Tra khảo, người ấy thưa: „Đấy là do thầy tôi dạy‟, do vậy quan
bắt thường thầy anh ta, quở: “Ngươi lừa dối hại người đời‟, sai giết chết
ông thầy. Ông cho rằng không cầu cơ sẽ thiếu pháp duyên lay động tâm
người lớn lao, chẳng biết nỗi họa cầu cơ lớn tầy trời, công đức khuyên
người [của cơ bút] chẳng thể bù đắp được! Bậc chánh nhân quân tử,
quyết chẳng dự vào đàn tràng ấy v.v...”
Những lời cảnh tỉnh, răn dạy như thế, xin hãy đọc từ thư gởi cho ông
Trần Tích Châu và thư trả lời cư sĩ X... ở Vĩnh Gia trong Văn Sao Chánh
Biên cũng như thư trả lời ông Giang Cảnh Xuân trong Văn Sao Tục
Biên, những lời dạy trong các bức thư ấy rất tường tận, thiết thực! Đại sư
ngăn ngừa bịa đặt, cả đời cẩn thận, cho ấn loát công khai như thế tức là
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 10
đã cân nhắc kỹ lưỡng. Xin hãy đọc lời Phi Lộ trong tờ nguyệt san số 24,
Ngài đã răn chớ nên phát biểu công khai, đủ chứng tỏ những gì chưa
được Ngài công bố, chỉ nói riêng tư với người khác, càng hết sức răn
nhắc, cảnh tỉnh thống thiết hơn nữa, vẫn chưa biết là bao nhiêu (Năm Dân
Quốc 28, 29, ông X... do cái tâm say sưa, đã đem lời cơ bút bảo Sâm lần lượt thông
cáo cho các nơi. Những lời xấu ác sâu đậm, gây đau lòng cùng cực ấy vẫn còn rất
nhiều).
Thuở sinh tiền, đại sư có thái độ như vậy đối với cầu cơ, kinh sách
vẫn còn đấy, mọi người đều biết, thế mà [bọn cầu cơ] vẫn dùng lời lẽ
“hối hận vì lúc sống chẳng tin tưởng cầu cơ” để vu báng đại sư! Há
chẳng phải đã bảo đại sư sống hồ đồ suốt tám mươi năm trên cõi đời ư?
Đến khi sanh về Tây Phương mới giác ngộ. Như vậy là đại sư kém rất xa
bọn đệ tử một mực tin tưởng cầu cơ như các ngươi rồi! Xin hỏi kiểu vu
báng oan uổng ấy đã chèn ép đại sư đến mức nào? Thế mà bọn họ vẫn
dương dương đắc ý, tự khoe ta là tín đồ của đại sư, tôn kính, sùng phụng
đại sư. Tri kiến kiểu đó, tôi chẳng biết là đã hồ đồ đến bực nào, hay là có
dụng tâm chi khác vậy?
Những lời dông dài, phiền phức trên đây đều là nói về đàn cầu cơ.
Đối với mỗi một đàn cầu cơ linh thiêng nào, đại sư cũng đều thống trách
chúng ta chớ nên phụ họa. Ngay như Sâm cũng thường nói: “Phàm ai là
đệ tử Phật mà vẫn mê tín lời cơ bút thì tuy là do kiến địa chẳng chân thật
nhưng cũng không có ai [trong số ấy] chẳng tin vào thứ ma túy mang
tiếng linh nghiệm đó! Họ chẳng biết chuyện linh thiêng trong thế gian
thật nhiều, có gì đáng coi là kỳ lạ đâu!” Sâm sống sáu mươi năm trên
đời, trải qua những chuyện linh dị dẫu có sạch trúc cũng không thể chép
hết được!
Năm mười bảy tuổi, Sâm bệnh nặng sắp chết, lạy ma một lạy, lập tức
có linh nghiệm đặc biệt, trở thành một người khỏe mạnh, chắc là tất cả
những chuyện linh dị trên thế gian đều khó thể nhanh chóng hơn chuyện
này được! Xin hãy đọc trong Hoằng Hóa nguyệt san số 23 có bài viết
vụng về của tôi bàn về quả báo rõ ràng của việc sát sanh và phóng sanh
thì sẽ biết đại khái. Năm lên mười tám, do bị hoàn cảnh xấu hèn tiêm
nhiễm, mê cờ bạc, chơi bài Hoa Hội3, thường tới những chỗ ô uế khôn
3 Hoa Hội (花會) là một loại bài phổ biến vào triều Đạo Quang nhà Thanh, thoạt đầu
chỉ lưu hành ở vùng Chiết Giang, về sau lan truyền khắp các tỉnh Quảng Đông,
Phước Kiến, Giang Tô, Thượng Hải. Do bộ bài gồm ba mươi sáu quân bài, tượng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 11
kham để van vái quỷ thần. Thường là sáng hôm sau chơi Hoa Hội thì tối
hôm nay liền cầu được tên con bài ấy, tôi nghĩ sự linh dị cũng chẳng
thua hết thảy đàn cầu cơ. Tới năm hai mươi tuổi, sau khi ăn chay, theo
học với vị sư phụ Không Kiến ngoại đạo là Tế Công; ông ta cùng sư
huynh đều là hạng giỏi bói toán. Do vậy, Sâm cũng biết đại lược đôi
chút; vì thế, bèn đoán thử họa phước tương lai, tiên đoán linh nghiệm
càng khó thể viết trọn! Những chuyện quỷ thần thông linh như vậy kể
sao cho xiết!
Nhưng những sự linh dị ấy chẳng những hoàn toàn vô ích cho thân
tâm tánh mạng mà còn gây chướng ngại cho đại sự sanh tử (Giới luật
của đức Phật ngăn cấm rõ ràng). Ngay cả chuyện con người trong thế
gian muốn cầu may tránh dữ cũng thường gặp cảnh trái ngược, huống hồ
đàn cầu cơ các nơi trọn chẳng phải là linh dị không sai xuyển mảy may
nào! Nếu các vị không tin, tôi sẽ lược thuật chứng cứ như sau:
Ngày mồng Một tháng Mười âm lịch năm nay, có hai cư sĩ đến thăm,
kể lại sự khảo nghiệm họ đã từng trải qua. Trong pháp hội các nơi, họ
thường nghe nhiều người tán dương đàn cầu cơ X... nọ lừng lẫy một
thời, linh dị phi thường. Lòng họ vẫn nửa tin nửa ngờ, tự nhủ: “Nếu thật
sự linh thiêng ta sẽ tin tưởng, sùng phụng, đặc biệt hoằng dương” bèn
đến đàn ấy xem thử ra sao, trong tâm ngầm khấn rằng: “Ngài X... (chỉ vị
chúa đàn cầu cơ đặc sắc nhất ấy) đã dự vào dòng thánh, ắt có Tam Minh, Lục
Thông thì Tha Tâm Thông cố nhiên chẳng cần phải nói nữa. Đệ tử là...
chẳng cầu chuyện gì khác, chỉ mong sao khi con chí thành đảnh lễ ba lạy
xong, xin bút gỗ của Ngài sẽ ngưng lại bất động, liền có thể chứng tỏ
ngài có Tha Tâm đạo nhãn, đệ tử sẽ trọn hết lòng thành sùng phụng, tận
lực tuyên dương”. Khấn thầm rồi lễ đủ ba lạy xong, bút gỗ hoàn toàn
chẳng ngưng chạy, họ liền chẳng bị đàn tràng ấy mê hoặc.
Chỉ thấy một vị Tăng thông minh sáng láng tôi từng quen biết mà
cũng mê tít đàn cầu cơ ấy. Ông X... nọ nghĩ vị tăng ấy tài năng xuất sắc
bất phàm, ai nấy đều mong vị ấy sẽ hoằng dương pháp hóa to lớn trong
trưng cho 36 nhân vật trong xã hội như hoàng đế, tể tướng, tướng quân, trạng
nguyên, công chúa, ăn mày, hòa thượng, đạo sĩ, nho sĩ, tiều phu v.v... Lưng quân bài
vẽ hình rồng, ngựa, bướm, cá v.v.. đẹp đẽ, nên gọi là Hoa Hội. Người chơi bài sẽ đặt
tiền, nói tên một quân bài trước khi rút. Nếu rút trúng sẽ được nhà cái chung món
tiền lớn gấp 30 lần tiền đặt nếu chỉ có một người chơi. Nếu hai người chơi thì chỉ
được chung món tiền gấp 15 lần tiền đã đặt v.v...
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 12
tương lai; nếu lọt vào tà ma, ngoại đạo, vị tăng ấy sẽ chuyên cậy vào bút
gỗ để đề cao giá trị bản thân, dù có khả năng viết lách, thuyết giảng, đầy
đủ thế trí biện thông, rốt cuộc cũng thuộc về một trong tám nạn, gây
chướng ngại to lớn cho việc học Phật, bèn chẳng tiếc sức hiện thân
thuyết pháp nhằm lôi kéo ông ta.
Phương cách như thế nào? Do vị cư sĩ ấy đã mồ côi từ nhỏ, nhưng vị
Tăng ấy không biết, cư sĩ bèn giả vờ viết một bức thư nói: Mẹ ông ta
hiện thời đã sáu mươi bảy tuổi, vốn thường khỏe mạnh, nay nhằm ngày
kia tháng nọ, mắc phải bệnh nọ, dây dưa lâu ngày, thuốc men vô hiệu.
Bất đắc dĩ, kính xin vị Tăng ấy hãy chuyển lời cầu chẩn trị tới đàn cầu
cơ ấy, xem thử tuổi thọ của bà cụ như thế nào, cầu cho cụ chóng lành
bệnh có được hay không?
Vị Tăng ấy liền xin giùm ông ta, rồi chuyển lời phủ dụ từ đàn cầu cơ
ấy như sau: “Mẹ ngươi tuổi gần bảy mươi, tuổi thọ đến mức ấy kể như
đã cao. Bệnh tình trước mắt như vậy, thật sự chẳng đáng ngại. Nay ta
ban cho một toa thuốc, hãy cho bà cụ uống trước, sẽ dần dần khỏi bệnh.
Tới mười một giờ đêm ngày ấy, ta là X... (chỉ vị chúa đàn ấy) sẽ đích thân
tự phóng quang tiếp độ, cụ sẽ liền bệnh hết, thân yên v.v...” Vị cư sĩ ấy
đọc lời luận đoán, ra vẻ cảm kích, đợi tới ngày chúa đàn hẹn sẽ phóng
quang dẫn dắt, lại tới gặp vị Tăng ấy, tán dương sự linh dị của đàn X...
như sau: “Mẹ tôi đã lành bệnh quá nửa, muốn cầu được lành bệnh hoàn
toàn”.
Vị chúa đàn X... ấy nghe tin, lại ban lời dụ rằng: “Sau khi ta là X...
phóng quang dẫn dắt, bệnh mẹ ngươi đã bị trừ sạch, nay còn khó chịu
đôi chút, chẳng có mảy may vấn đề gì đâu! Lại đến mười một giờ tối bữa
kia, ta sẽ trị lần nữa, sẽ liền được khỏe mạnh hoàn toàn v.v...” Qua lại
một lần nữa, sau khi vị cư sĩ ấy tiếp nhận lời phủ dụ lần thứ ba từ đàn
X... xong mới kể thực tình là mẹ mình đã mất nhiều năm cho vị Tăng ấy
nghe, cũng như đưa ba lời dụ từ đàn cầu cơ cho vị Tăng ấy xem, khiến
cho vị Tăng ấy ngượng rát mặt. Nghe nói hiện thời vị Tăng ấy đã giác
ngộ, thoát khỏi cái kén của lũ ma rồi. Ba lời dụ từ đàn cầu cơ ấy vị cư sĩ
Y... vẫn còn giữ, đủ chứng tỏ sự khôi hài của những lời giáng cơ!
Năm Dân Quốc 19 (1930), cuộc đại chiến gây thành nội loạn ở tỉnh
Sơn Đông nước ta, nghe nói là do vị tai to mặt lớn X... nọ mê tín thần
thông của gã ma Y... vội vàng đứng lên lật đổ chánh quyền Trung Ương
hòng hai người đó sẽ chia nhau làm Chánh Phó Tổng Thống. Vị tai to
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 13
mặt lớn X... nọ dục vọng quá mạnh, mê tín lời ma đến nỗi mắc họa ấy.
Chuyện này do chính cư sĩ Khuất Văn Lục đích thân kể lại cho Ấn Công
lão nhân nghe. Lúc ấy, ông Khuất cũng là một người họ hàng của ông
X.... Sau khi thất bại, gã ma Y... trốn xa, thay hình đổi dạng nhiều phen.
Năm Dân Quốc 25 (1936), ở Việt Đông (Quảng Đông), một viên
chức có thế lực lớn tên X... chống đối chánh quyền Trung Ương, cũng
do bút gỗ, mâm cát xúi giục nổi dậy. Những chuyện như thế đã đăng tải
trên báo chí chắc là nhiều người đã mắt thấy tai nghe rất thường!
Dựa trên ba chuyện này, đủ chứng tỏ rằng kẻ hiếu kỳ thích đồn đại
chuyện linh dị sẽ xui nhiều, hên ít. Hiềm rằng chúng sanh tâm hiếu kỳ
nặng nề, thấy chánh đạo thông thường, chân thực, thỏa đáng, sát sao, bèn
khinh dễ, coi nhẹ, lắc đầu không màng tới; nghe lời xảo trá đồn chuyện
hiếm có, lạ lùng, quái dị, bèn kính vâng như chiếu chỉ, đua nhau xúm
theo. Không có gì khác cả, chúng ta do đồng nghiệp cảm vời, chẳng thể
làm sao được. Đại sư Ngẫu Ích còn phải cảm khái, thốt lời than thở “một
ngày mua được ngàn gánh giả, ngàn năm khó mua được một gánh thật”,
huống chi bọn ta sanh nhằm thời này, ở trong đời này, làm sao có thể lôi
kéo hết các đồng luân cùng ra khỏi hang tối lên được cây cao ư?
Hãy nên biết rằng những lời lụn vụn, dông dài, phiền phức thiếu trí
huệ [của Sâm] vốn chẳng phải là cố ý công kích. Đối với các đàn cầu cơ
và những đoàn thể từ thiện do các ngoại đạo lập ra, Sâm luôn giữ tông
chỉ “không phá hoại mà cũng không phụ họa”; nói chung là giống như
lời đại sư đã dạy trong Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên. Không riêng
gì một mình Đức Sâm như thế, hễ ai là bậc đại đức thật sự hiểu biết,
phần lớn đều không có lòng riêng tư khác lạ, lẽ nào lại mang tâm hạnh
cố ý công kích? Ở đây tôi lại phải rườm lời như thế quả thật là vì các đàn
cầu cơ ở nhiều nơi hay bịa chuyện đại sư giáng lâm, đều bảo là Ngài hối
hận thuở trước đã chẳng tin cầu cơ! Đủ các lẽ bịa đặt, quả thật đã vu
báng, miệt thị đại sư quá đáng!
Sâm theo hầu đại sư hai mươi năm, tuy chưa thể thâm nhập được chỗ
sâu kín, nhưng đã biết được đại khái hạnh nghiệp cả đời đại sư, lại chịu
ơn đại sư từ bi che chở sâu xa; xét lẽ báo ân, tính kế hộ pháp, đều chẳng
thể mặc kệ cho kẻ khác vu báng, chẳng thanh minh mảy may nào! Ví
như kẻ làm con nghe kẻ khác vu báng, miệt thị cha mẹ, chẳng có ai
không tranh biện. Nếu các vị cầu cơ ở các nơi giữ yên môn đình của
chính mình, chẳng muốn hoại loạn Phật pháp, chẳng toan dính dấp đến
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 14
đại sư của chúng ta thì Sâm một mực chẳng ưa tranh cãi, lẽ nào lại khổ
sở đa sự như vậy?
Hơn nữa, để phòng ngừa bịa đặt, đại sư mong đệ tử Phật hiểu rõ
“trong một trăm đàn cầu cơ, có đến chín mươi chín đàn là do quỷ thần
chủ trì, mạo danh Phật, tiên giáng lâm, nguy hiểm quá sức”, bèn cho ấn
hành, lưu thông sách Tây Phương Xác Chỉ. Trong sách ấy qua những lời
giáng cơ, [Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã] giảng rõ lẽ lợi hại, căn dặn
mọi người đừng tin vào cơ bút, những mong ai nấy đều biết tự thương
thân. Nào ngờ những kẻ mê tít thò lò đàn cơ lại ngược ngạo viện dẫn
hành động ấy của đại sư như một tấm bùa hộ thân! Trầm luân, mê muội
khó cứu đến tột bậc như thế, quả thật cũng khiến cho người ta phải thở
dài sườn sượt!
Vì các lẽ ấy, nhằm hộ trì chánh pháp, Sâm tính báo đáp đại sư, nay
lại gặp pháp sư Quảng Giác và cư sĩ Từ Chí Nhất, hai vị đã khổ tâm biên
tập, giảo đính cuốn Đại Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên. Bản thảo hoàn
thành, họ sai Sâm giám định, viết lời tựa để ấn hành, lại nhằm đúng dịp
kỷ niệm đại sư khuất bóng đã ba năm, khổ nỗi bản thân văn chương kém
cỏi, không thể nào tỏa rạng đạo mầu của đại sư, bèn viết lôi thôi như thế
này cho xong hai chuyện ấy.
Chỉ mong độc giả kính tuân theo lời đại sư ra rả bảo ban, răn dạy,
đừng cầu những thứ bàng môn nào khác nữa để khỏi phải lo sầu, chuyên
lấy “đôn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành” (giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ
lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành) làm cơ sở trọn
đạo làm người, lấy “chân vị sanh tử, phát Bồ Đề tâm, trì giới niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương” (thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, trì giới niệm
Phật, cầu sanh Tây Phương) để làm con đường tắt bước vào cảnh Phật.
Lấy ba mươi hai chữ ấy làm chuẩn mực để tiến hơn nữa, sẽ tùy duyên
đọc tụng các kinh điển chân chánh do đức Phật đã nói thì sẽ tự có thể lúc
sống trở thành bậc thánh bậc hiền, khi mất sẽ về cõi Như Lai, mãi cho
đến khi viên mãn Bồ Đề. Những đạo mầu nhiệm khác đã có sẵn trong
toàn thư (tức Ấn Quang Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên), Sâm chẳng
cần phải rườm lời chi nữa! Kính cẩn đề lời tựa.
Phật lịch 2970, ngày lành tháng Mười thiếu, thân giáo đệ tử Khổ Não tỳ-
kheo Đức Sâm hòa-nam kính soạn.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 15
Ấn Quang Đại Sư
Gia Ngôn Lục Tục Biên
印 光 法 師
嘉 言 錄 續 編
I. Tán Tịnh Độ siêu thắng (Khen ngợi Tịnh Độ siêu việt, thù thắng)
* Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, nhiếp trọn các
pháp thuộc chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối, thích hợp khắp ba căn
thượng - trung - hạ, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít mà được
hiệu quả nhanh chóng, chắc chắn thoát sanh tử trong đời hiện tại! Chẳng
trải qua tăng-kỳ4 [kiếp số] mà đích thân chứng được Pháp Thân, chính là
pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, quả thật
là đạo trọng yếu để thoát khổ trong hết thảy sự tu trì của chúng sanh. Do
pháp này cậy vào Phật từ lực, nên lợi ích so với những pháp chuyên cậy
vào tự lực sẽ khác biệt vời vợi một trời, một vực! Vì vậy, kẻ sắp đọa A
Tỳ do mười niệm liền được vãng sanh, bậc đã chứng Đẳng Giác phát ra
mười nguyện để hồi hướng Tịnh Độ.
Do vậy biết: Pháp môn này chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy
thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bởi đó, từ hội Hoa Nghiêm hướng dẫn về,
từ lúc được diễn thuyết tại Kỳ Viên đến nay, vãng thánh tiền hiền người
người hướng đến, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ về (Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa duyên khởi cho Phật Giáo Tây Phương Liên Hoa Hội ở Côn
Sơn)
* Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công
mở liên xã đầu tiên, khi ấy bậc cao tăng, đại nho dự vào hội cả một trăm
hai mươi ba người. Từ đấy về sau, đời nào cũng có cao nhân tục diệm
truyền đăng, truyền khắp trong ngoài nước. Đại pháp của đức Như Lai
có năm thứ là Luật, Giáo, Tông (Thiền), Mật, Tịnh, nhưng chỉ có một
4 Tăng Kỳ, gọi đủ là A Tăng Kỳ (Asamkhya), là một trong hai mươi lăm con số lớn
nhất của Ấn Độ. Đôi khi còn được phiên âm là A Tăng Già, A Tăng Xí Da, hay A
Tăng, có nghĩa là “chẳng thể tính toán được”. Một A Tăng Kỳ là một vạn vạn vạn
vạn vạn vạn vạn vạn triệu (tám chữ vạn).
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 16
pháp Tịnh Độ là tu trì dễ dàng nhất, thành tựu dễ dàng nhất, là chỗ quy
túc của Luật, Giáo, Tông, Mật. Vì thế các vị thiện tri thức Luật, Giáo,
Tông, Mật xưa nay đều chăm chú ngầm tu, rất nhiều vị cực lực hoằng
dương công khai. Pháp này chân - tục viên dung, vừa khế cơ vừa khế lý,
chẳng những vì người học đạo lập ra một môn mầu nhiệm chung để
thoát luân hồi, mà thật ra còn là đạo trọng yếu để người cai trị đất nước
ngồi hưởng thái bình. Do đó, vãng thánh tiền hiền, bậc thông suốt, người
trí sáng đều cùng tu trì, như mọi ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, như các
dòng nước chảy xuôi về biển Đông. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ,
Duyên khởi của Xí Lô Liên Xã)
* Phật pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy chúng sanh, Phật, phàm,
thánh, ai nấy đều có. Chúng sanh thì toàn thể là mê trái nên dẫu có vẫn
như không. Phật thì triệt ngộ, triệt chứng, đích thân được thọ dụng, lại
còn dấy lòng đại từ bi, đem sở ngộ sở chứng của chính mình chỉ dạy hết
thảy chúng sanh, ngõ hầu họ đều triệt ngộ, triệt chứng mới thôi! Nhưng
vì chúng sanh mê muội, trái nghịch đã lâu, dù nghe đủ mọi pháp môn đối
trị, nhưng bởi Hoặc nghiệp sâu dầy, phước huệ cạn mỏng nên khó lòng
đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này. Do đã khó thể đạt
được hiệu quả thành công ngay trong đời này nên lại phải thọ sanh, quá
nửa bị mê mất, đến nỗi trải qua kiếp lâu xa luân hồi sanh tử, không thể
do đâu thoát lìa được! Đức Như Lai thương xót, đặc biệt mở ra pháp
môn “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” ngõ hầu hết thảy dù
thánh hay phàm, thượng, trung, hạ căn đều nương vào đại bi nguyện lực
của đức Phật Di Đà, cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây, sanh về cõi
Cực Lạc kia, khiến cho kẻ đã đoạn Hoặc mau chứng Vô Sanh, kẻ chưa
đoạn Hoặc cũng đạt lên Bất Thoái.
Pháp này vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền, vừa là Thật, bậc thượng
thượng căn chẳng thể vượt khỏi cửa thành này. Vì thế, bậc đã chứng
Đẳng Giác còn phải dùng mười nguyện dẫn về. Kẻ hạ hạ căn cũng có thể
đạt đến cõi này. Do vậy, kẻ sắp đọa địa ngục A Tỳ vẫn có thể dự vào
chín phẩm. Thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt hiệu quả
nhanh, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai, là đạo thông đạt để
chúng sanh thoát khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Minh, Long Thọ… các vị tổ sư như Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương,
Vĩnh Minh… đều cùng hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương, phát tâm
Kim Cang để lưu truyền rộng khắp; bởi pháp này chính là pháp môn
tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 17
Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh vậy (Ấn Quang Văn Sao
Tục Biên, quyển Hạ, lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã)
* Con người có cùng một cái tâm này, tâm cùng một lý này, chúng
sanh và Phật chẳng hai, phàm - thánh như một. Do Phật rốt ráo ngộ được
tâm này nên triệt chứng Niết Bàn, chúng sanh do rốt ráo mê cái tâm này
nên luân hồi sanh tử dài lâu. Nghĩ lại từ vô thủy đến nay, bọn chúng sanh
ta và đức Thích Ca Thế Tôn cùng là phàm phu, cùng chịu nỗi khổ sanh
tử dữ dội. Đức Thế Tôn do tự phát khởi hùng tâm, trọn đủ sức đại hùng
mãnh, tu ròng Giới - Định - Huệ, nên đoạn trọn vẹn Tam Hoặc, hai thứ
Tử (Biến Dịch và Phần Đoạn) vĩnh viễn mất, an trụ trong Tam Đức bí
tạng, phổ độ quần manh thuộc chín giới. Luận về thời kiếp, dù có dùng
hết số vi trần trong một cõi nước cũng chẳng thể tính toán được! Luận về
pháp môn thì cạn hết biển mực vẫn khó thể chép được!
Trong thời kiếp ấy, ban sự pháp hóa này, bọn chúng sanh ta há chẳng
nghe pháp tu hành, muốn chứng được tâm này ngay trong một đời hay
sao? Chỉ vì Phiền Hoặc sâu dầy, không sức nào đoạn trừ được, hễ thọ
sanh lần nữa sẽ lại bị mê mất. Cũng như do chưa gặp được pháp cậy vào
Phật từ lực để vãng sanh ngay trong đời này, hoặc do tu pháp này, nhưng
tự lực mỏng yếu, không người giúp đỡ, hoặc tuy tự lực sung túc nhưng
khi lâm chung bị quyến thuộc lắm cách phá hoại! Do đấy, trải cả kiếp
dài lâu, luân hồi trong sanh tử. Dẫu được Phật giáo hóa, vẫn y như cũ
uổng mang cái tâm chẳng khác gì tâm Phật, nhưng chẳng thể chứng
được quả chân thường giống như đức Phật! Trên đã cô phụ sự giáo hóa
của Phật, dưới phụ bạc tánh linh của chính mình. Mỗi phen nghĩ đến,
ngũ tạng5 như lửa đốt.
Nay may mắn được nghe đức Như Lai vì thương xót chúng sanh
thuở mạt kiếp không có sức đoạn Hoặc, đặc biệt mở ra pháp môn tín
nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ để hết thảy dù thánh hay phàm đều
cùng trong đời này vãng sanh Tây Phương: Kẻ đã đoạn Hoặc sẽ cao
đăng Bổ Xứ, kẻ vẫn còn đầy dẫy phiền não cũng dự vào dòng thánh.
Thật là một pháp môn đặc biệt trong suốt cả một đời giáo hóa của đức
Như Lai; thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều thâu tóm. Trên
là bậc Đẳng Giác Bồ Tát còn chẳng thể vượt ra ngoài [pháp môn] này
được; dưới là phàm phu Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong
5 Nguyên văn “ngũ nội”, tức là một danh xưng khác của Ngũ Tạng, tức tim, gan, lá
lách, phổi, thận.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 18
số ấy. Vì thế, [pháp môn này] được mười phương cùng khen ngợi, chín
giới cùng tuân hành. Huống hồ bọn phàm phu chúng ta bỏ đi pháp này
thì lấy đâu để nhờ cậy? (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách
Sức Chung Tân Lương)
* Đức Đại Giác Thế Tôn khéo trị những căn bệnh nơi thân nơi tâm
chúng sanh, khéo làm cho thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Tâm
bệnh có những thứ nào? Chính là tham - sân - si. Đã có những bệnh ấy,
tâm chẳng thể chánh được, những ý niệm thuận theo tình kiến, trái
nghịch lý sẽ ồ ạt dấy lên. Những niệm ấy đã khởi, ắt sẽ muốn thỏa lòng
ham muốn của chính mình, cái tâm hèn tệ giết - trộm - dâm sẽ ngay lập
tức biến thành sự thực. Đấy gọi là “do Hoặc (phiền não) tạo nghiệp, do
nghiệp chuốc khổ trải trần điểm kiếp6 chẳng thuở nào xong!”
Đức Như Lai thương xót, tùy theo từng căn bệnh của chúng sanh mà
ban thuốc, bảo họ: “Tâm tham - sân - si chẳng phải là cái tâm vốn có
của các ngươi. Tâm các ngươi vốn viên minh tịnh diệu như tấm gương
sáng sạch, trọn chẳng có một vật nào! Hễ có vật ở trước gương thì
không vật nào chẳng được soi trọn vẹn. Vật đến chẳng cự tuyệt, vật đi
chẳng lưu giữ. Giữ được tánh thiên chân của ta, chẳng bị chuyển theo
vật. Mê tâm đuổi theo cảnh thì gọi là ngu phu. Trái trần hợp giác liền dự
vào dòng thánh”. Nếu con người biết được điều này, tâm bệnh sẽ lành.
Tâm bệnh đã lành, thân bệnh chẳng có cội gốc nữa, dẫu cảm xúc lạnh nóng cũng chẳng bị nguy hiểm. Tâm đã chánh thì thân sẽ chánh theo. Do
đã không có tình niệm tham - sân - si, sẽ do đâu mà có những hạnh hèn
tệ giết - trộm - dâm cho được? Ai nấy đều như thế thì dân là đồng bào,
loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng, nào còn có chuyện tranh đất,
giành thành, tàn sát lẫn nhau nữa ư?
Vì thế, những bậc vua quan thông minh duệ trí thuở xưa không vị
nào chẳng sùng phụng, hộ trì, bởi [Phật pháp] giữ yên đất nước khi chưa
loạn, bảo vệ bờ cõi khi chưa nguy, nên đạt đến thái bình mà chẳng hay
chẳng biết, chẳng tỏ lộ dấu vết vậy! Tiếc cho những nhà Nho đời sau
tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen, lấy diệu nghĩa từ kinh Phật để giúp cho
những chuyện bàn xuông của bọn họ, nhưng lại bài xích thật lý do đức
Phật đã nói, bảo là bịa đặt! Sự lý nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo chính
là đại kinh đại pháp khiến cho người hiền mau lên cảnh thánh, kẻ ngu
gắng sức làm người dân lương thiện, [thế mà] bọn chúng bảo “thật ra
6
Trần điểm kiếp: Kiếp số nhiều như số vi trần.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 19
chẳng có chuyện nhân quả báo ứng, con người chết đi, thần hồn đã diệt,
còn ai để chịu tội và thác sanh?”
Từ đấy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt,
đến nỗi hùa nhau phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, bỏ thẹn,
chẳng hề xấu hổ, ngược ngạo coi đó là vinh, đều là do những thứ học
thuyết ấy ươm thành! Cõi đời đã loạn đến cùng cực, ai nấy đều lo sợ,
muốn cứu vãn thì chẳng thể không noi theo đại pháp của đức Như Lai.
Do vậy, các nơi đều lập Tịnh nghiệp xã hoặc Cư Sĩ Lâm để đề xướng
nhân quả, chuyên tu Tịnh nghiệp. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi
ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây
dựng Tam Thánh Điện)
* Đức Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong cõi đời.
Gọi là “đại sự” là vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều khai - thị - ngộ -
nhập tri kiến Phật, ai nấy đều được thành Phật mới thôi. Do chúng sanh
căn tánh lớn - nhỏ khác biệt, nên pháp môn của đức Như Lai có Quyền Thật bất đồng. Vì vậy, tâm phổ độ chúng sanh của Như Lai chưa được
thỏa mãn lớn lao.
Bởi thế, Ngài đặc biệt mở ra một pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương” để dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này thoát
khỏi cõi khổ này, sanh sang nước vui sướng kia. Bậc thượng căn sẽ mau
chứng Pháp Thân, kẻ [căn cơ] trung - hạ cũng đều cùng lên Bất Thoái,
khiến cho chúng sanh cùng thoát sanh tử, thỏa thích bản hoài xuất thế
của Như Lai. Lợi ích ấy chẳng thể diễn tả được! (Ấn Quang Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại
Nam Kinh)
* Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp
suốt cả một đời đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn
lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài
được, tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Chẳng đoạn Hoặc
nghiệp mà thoát khỏi luân hồi; ngay trong một đời này quyết định lên cõi
Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này làm sao
yên được?
Phàm những ai tu Tịnh nghiệp thì điều thứ nhất là phải giữ tịnh giới
nghiêm ngặt; điều thứ hai là phải phát Bồ Đề tâm; điều thứ ba là phải
trọn đủ lòng tín nguyện chân thật. Giới là cơ sở, nền tảng của mọi pháp,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 20
Bồ Đề tâm là chủ soái của tu đạo, tín nguyện nhằm dẫn đường cho việc
vãng sanh. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Tịnh Độ Chỉ Yếu)
* Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy chúng sanh và Phật đều
cùng có, bình đẳng giống hệt như nhau, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi
chúng sanh chẳng giảm bớt. Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế
Tôn than thở sâu xa: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng
của Như Lai, nhưng vì chưa ngộ nên chẳng tránh khỏi biến trí huệ, đức
tướng ấy thành vô minh nghiệp thức, mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác,
hiệp trần, ví như đi mãi trong đêm dài, chẳng thấy được đường chánh,
chẳng va tường đụng vách thì cũng đọa hầm, sụp hố, luân hồi trong lục
đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra!” Đức Như Lai thương xót, thị hiện
giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi,
diễn nói các pháp, chỉ dạy thể tướng của nhất tâm, nói ra nhân quả ba
đời, pháp thế gian lẫn xuất thế gian không gì chẳng trọn khắp.
Lại muốn lợi lạc khắp ba căn nên đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ,
ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào
Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử, đích thân chứng được tâm quang mà Phật và chúng sanh đều
cùng có, cũng như [chứng được] tánh thể vô lượng quang thọ.
Lại còn rủ lòng Từ tiếp dẫn đến tột cùng đời vị lai, ngõ hầu pháp
giới chúng sanh đều được đẫm Phật quang, cùng chứng tâm quang.
Quang quang chiếu sáng lẫn nhau, thành một thế giới Thường Tịch
Quang mới thôi! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Nêu tỏ ý nghĩa ẩn tàng
của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên)
* Tịnh Độ đại pháp môn lớn lao không gì ở ngoài nó được, như trời
che khắp, như đất chở trọn. Bậc Đẳng Giác sắp thành Phật còn phải cậy
nhờ pháp này; kẻ nghịch ác sắp đọa A Tỳ mười niệm lên cõi sen, thích
hợp căn cơ khắp chín pháp giới, đều cùng siêng gắng đảnh lễ kính vâng,
sướng thỏa tâm độ sanh của Phật, duy nhất không còn pháp thứ hai nào
nữa! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn
Lục)
* Đại pháp của Như Lai bao trùm pháp giới, bao quát có - không, chỉ
dạy chân tâm sẵn có, tỏ rõ diệu dụng tùy duyên. Tâm thể ấy chúng sanh
và Phật giống hệt như nhau, phàm - thánh chẳng hai, chân thường bất
biến, tịch chiếu viên dung. Do Phật chứng rốt ráo nên được Ngũ Uẩn đều
là không, vượt khỏi các khổ, chẳng lập mảy trần, phô bày trọn vẹn vạn
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 21
đức. Do chúng sanh triệt để mê nên đến nỗi mê chân đuổi theo vọng, trái
giác, hiệp trần, luân hồi sanh tử, trọn không có lúc thoát ra. Do vậy, đức
Như Lai tùy theo căn cơ của chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho ai
nấy đều theo đường về nhà, đích thân thấy được cha mẹ vốn có. Lần
chéo áo tìm được hạt châu, liền được của báu vô tận nhà mình sẵn có.
Bậc thượng căn cố nhiên được giải thoát, nhưng hàng trung - hạ vẫn
trong luân hồi, nên đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ “vượt ngang ra
khỏi tam giới”, khiến cho khắp các hạng trung - hạ nối gót bậc thượng
căn. Lợi ích ấy không thể nào diễn tả được! Nghĩa này tuy phát xuất từ
hội Phương Đẳng, nhưng thật ra đạo ấy bắt nguồn từ hội Hoa Nghiêm,
chỉ vì phàm phu, tiểu thánh chẳng thể dự hội [Hoa Nghiêm] nên không
có cách chi vâng nhận được.
Trước khi kinh Hoa Nghiêm được truyền đến [Trung Quốc, pháp
môn Tịnh Độ] thường bị coi là đạo phương tiện hay Tiểu Thừa. Sau khi
phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện được dịch ra rồi, mới biết đây là lời
giảng chân thật về pháp thành Phật. Xưa kia, Viễn Công ở Lô Sơn đã
vâng lời Phật phó chúc, thừa nguyện tái lai. Chưa được thấy kinh Niết
Bàn đã soạn luận Pháp Tánh Thường Trụ; chưa xem kinh Hoa Nghiêm
đã xiển dương tông chỉ hướng dẫn về Cực Lạc, lập pháp ngầm hợp với
các kinh, đạo thích hợp khắp ba căn, thông trên, thấu dưới, thỏa thích
bản hoài xuất thế của đức Như Lai, giải quyết trọn vẹn đại sự sanh tử của
hàm thức. Nếu chẳng phải là bậc Đại Quyền thị hiện7, làm sao có thể dự
đoán như vậy được?
Vì thế, pháp sư La Thập nói: “Kinh dạy: Trong đời Mạt sau này,
phương Đông sẽ có vị Bồ Tát hộ pháp. Gắng lên nhân giả! Hãy khéo
hoằng dương chuyện này”. Tăng chúng Tây Vực đều nói đất Hán có bậc
Khai Sĩ8 Đại Thừa, liền hướng về phương Đông cúi lạy, dâng lòng lên
rặng Lô Sơn. Tung tích thần lý chẳng thể lường được! (Ấn Quang Văn Sao
7 Đại Quyền: Phật, Bồ Tát vì cứu vớt chúng sanh nên hiện ra đủ mọi thân hình sai
khác, thậm chí thị hiện những hạnh Ngũ Nghịch, Thập Ác để hóa độ chúng sanh.
Như Vy Đề Hy phu nhân và vua A Xà Thế đều là những bậc đại quyền thị hiện.
8 Khai Sĩ là một cách dịch khác của chữ Bồ Tát. Khai có nghĩa là mở thấu hiểu thông
đạt, chỉ dạy chánh đạo, dẫn dắt chúng sanh. Sách Thích Thị Yếu Lãm, quyển
Thượng, viết: “Trong kinh thường gọi Bồ Tát là Khai Sĩ, thời Phù Kiên nhà Tiền Tần
thường phong tặng danh hiệu Khai Sĩ cho những vị Tăng có đức hạnh, thông suốt
giáo lý”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 22
Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư
Văn Sao)
* Xem cặn kẽ khắp những bậc đại trung đại hiếu thuở xưa, lập đại
công, dựng đại nghiệp, đạo che trùm thời ấy, đức thấu đến hậu thế, hạo
khí lấp trời đất, lòng tinh trung mờ nhật nguyệt đều do học Phật đắc lực
mà ra. Những nhà Nho trong cõi đời chẳng biết gốc đạo, chỉ thấy được
dấu vết đã bộc lộ, chẳng biết đến cội nguồn của cái tâm, khiến cho cái
gốc bị ẩn kín chẳng hiển lộ, tiềm tàng chẳng tỏ rõ. Do những Nho sĩ câu
nệ thường đố kỵ Phật, nên [những vị danh nhân] phần nhiều chú trọng
tiềm tu mật chứng, chẳng tự bộc lộ. Nếu xét kỹ hành vi của bọn họ, ắt sẽ
có những điểm chẳng thể giấu được. Nếu con cháu họ chẳng đầy đủ
chánh tri kiến, ắt chỉ sợ bị kẻ tục Nho chê cười, nên cũng chẳng chịu
xiển dương. Do nhân duyên này, khiến cho tiềm đức u quang9 ẩn mất
không được nghe đến nhiều lắm!
Trong bộ Cựu Đường Thư10, phàm những sự tích về Phật pháp và
ngôn luận trao đổi giữa các bậc sĩ đại phu và cao tăng đều được chọn lọc
những điều trọng yếu để ghi chép lại. Âu Dương Tu soạn bộ Tân Đường
Thư11 đã gạt bỏ hơn hai ngàn điều. Bộ Ngũ Đại Sử12 cũng vậy. Ấy là do
9
Tiềm đức u quang: Những đức hạnh tốt đẹp ngầm kín, không bộc lộ.
10 Cựu Đường Thư được biên soạn dưới đời Hậu Tấn. Năm Thiên Phúc thứ sáu
(941), Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sai bọn văn thần Trương Chiêu Viễn, Giả
Vĩ… soạn bộ sử về triều Đường do tể tướng Triệu Oánh làm Tổng Giám Tu (Chief
Editor). Đến năm Khai Vận thứ hai (945) sách mới hoàn thành. Lúc ấy, Lưu Hú đã
thay Triệu Oánh làm Tể Tướng nên sách ghi tên vị Tổng Giám Tu là tể tướng Lưu
Hú. Thoạt đầu, sách mang tên là Đường Thư, đến đời Tống khi nhóm các văn thần
do Âu Dương Tu cầm đầu biên soạn bộ sử mới về nhà Đường, liền đổi tên tác phẩm
này thành Cựu Đường Thư. Bộ Cựu Đường Thư dày đến 200 quyển, chép những sự
kiện lịch sử từ năm Vũ Đức nguyên niên (618) đời Đường Cao Tổ đến năm Thiên
Hựu thứ tư (907) đời Đường Ai Đế.
11 Bộ Tân Đường Thư do các văn thần Âu Dương Tu, Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lã Hạ
Khanh cùng biên soạn, tổng cộng gồm 225 quyển. Do Tống Nhân Tông chê bộ
Đường Thư biên chép lộn xộn, nhiều chi tiết thừa thãi, văn phong không rõ ràng, nên
năm Khánh Lịch thứ tư (1044), vua xuống chiếu sai Âu Dương Tu, Phạm Kỳ v.v…
sửa chữa, tu đính bộ Đường Thư để tạo thành một bộ sử mới. Bộ sử mới biên soạn
trong suốt 17 năm mới xong. So với bộ Cựu Đường Thư, văn phong Tân Đường Thư
tao nhã hơn, những bài viết dài hơn, hoa mỹ hơn, nhưng nội dung, dữ liệu chỉ bằng
7/10 bộ sử cũ. Tư Mã Quang khi soạn bộ Tư Trị Thông Giám chỉ sử dụng dữ liệu từ
bộ Cựu Đường Thư; ông chê Tân Đường Thư chỉ có ưu điểm văn phong tao nhã, chứ
đã tùy tiện lược bớt quá nhiều những sự kiện lịch sử, nhất là những dữ kiện về mối
quan hệ ngoại giao giữa Đại Đường và các nước lân cận, lược bỏ truyện ký của
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 23
chỉ sợ thiên hạ đời sau biết Phật pháp hữu ích cho thân tâm tánh mạng,
cho nền chánh trị của nước nhà, rồi sẽ học theo! Những sử quan khác đa
phần thuộc loại tri kiến hẹp hòi câu nệ ấy. Vì vậy, sự tiềm tu mật chứng
của những bậc đại nhân xưa kia đều chẳng được biết đến!
những nhân vật có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng học thuật thời ấy như các ngài
Huyền Trang và Nhất Hạnh (vì các vị đó là cao tăng nhà Phật), cũng như thiếu hẳn
khí thế bi tráng khi mô tả các sự kiện như trong bộ Cựu Đường Thư. Nhiều sự kiện
bị họ Âu tùy tiện sửa đổi theo thiên kiến nên không đáng được coi như một sử liệu
khả tín. Sau này, Ngô Chẩn đã viết cuốn Tân Đường Thư Củ Mậu (uốn nắn những
sai lầm trong bộ Tân Đường Thư) để nêu lên bốn trăm sáu mươi điều sai lầm trong
bộ Tân Đường Thư, đồng thời phê phán rất nặng: “Không biết cách san định những
điểm trọng yếu, chỉ biết tuân theo những gì mình ưa thích!”. Học giả Vương Hân
Phu còn chê thẳng thừng: “Bọn Âu Dương Tu chỉ biết viết văn, coi thường khảo
chứng!”
12 Ngũ Đại Sử gồm hai bộ Cựu và Tân. Cựu Ngũ Đại Sử vốn có tên là Lương Đường
Tấn Hán Châu Thư, nên thường được gọi tắt là Ngũ Đại Sử, được biên soạn từ tháng
Tư năm Khai Bảo thứ sáu (973) đến tháng Mười năm Khai Bảo thứ bảy (974) theo
lệnh của Tống Thái Tổ, do Tiết Cư Chánh cầm đầu một nhóm văn thần chấp bút. Bộ
sử này chép những sự kiện lịch sử từ năm Khai Bình nguyên niên (907) đời Hậu
Lương đến năm Hiển Đức thứ bảy (960) đời Châu Thế Tông (tức năm nhà Hậu Châu
bị Bắc Tống diệt), gồm 150 quyển. Về sau, Âu Dương Tu tự biên soạn tu chỉnh bộ
Ngũ Đại Sử, đặt tên là Ngũ Đại Sử Ký (đến thời Càn Long được gọi là Tân Ngũ Đại
Sử), bộ sử mới được hoàn tất vào năm Hoàng Hựu thứ năm (1053), nhưng chỉ cất
giữ tại tư gia, không phổ biến. Đến khi Âu Dương Tu mất, người nhà dâng lên triều
đình, được phê chuẩn lưu hành. Khi bộ này được lưu hành, bộ Cựu Ngũ Đại Sử dần
dần biến mất. Theo những sử quan thời cổ như Tư Mã Quang nhận định, khi biên
soạn Tân Ngũ Đại Sử, Âu Dương Tu đã tùy tiện cắt xén những dữ liệu lịch sử theo
thiên kiến yêu - ghét cá nhân, thiếu hẳn tính công bình, cẩn trọng cần có nơi một sử
quan. Do vậy, đến thời Càn Long, dựa vào những phần được bảo tồn trong bộ Vĩnh
Lạc Đại Điển đời Minh và hai mươi bộ sách giá trị khác như Sách Phủ Nguyên
Giám, Thái Bình Ngự Lãm, Tư Trị Thông Giám Khảo Dị, Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc,
Thiên Trung Ký, Cổ Kim Tánh Thị Thư Biện Chứng v.v… Thanh triều đã cố gắng
phục hồi diện mạo của bộ Cựu Ngũ Đại Sử, quy định bộ Cựu Ngũ Đại Sử là chánh
sử, còn Tân Ngũ Đại Sử chỉ được coi như một tác phẩm văn chương. Ngô Chẩn (một
học giả đời Thanh) đã biên soạn cuốn Ngũ Đại Sử Toản Ngộ (tập hợp những sai lầm
trong bộ Ngũ Đại Sử) ba quyển để nêu lên những điều sai lầm nặng nề trong bộ Tân
Ngũ Đại Sử. Sau đấy, Ngô Lan Đình đời Thanh cũng soạn bộ Ngũ Đại Sử Ký Toản
Ngộ Phụ gồm sáu quyển để nêu tiếp những sai lầm trong bộ sử của Âu Dương Tu mà
Ngô Chẩn chưa nhắc đến. Các sĩ phu nổi tiếng đời Thanh như Cố Viêm Vũ, Tiền Đại
Hân cũng chê Âu Dương Tu luôn tự phụ đã viết sử theo phong cách kinh Xuân Thu,
nhưng hoàn toàn chẳng hiểu thấu đáo cách viết sử của kinh Xuân Thu cũng như
không phân biệt được sự khác biệt giữa chép sử và viết văn!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 24
Văn Trung Công Lâm Tắc Từ học vấn, trí thức, chí khí, tiết tháo,
trung nghĩa đều ít thấy trong đời Thanh trước kia. Tuy bận bịu việc
nước, ông chẳng hề gián đoạn việc tu trì Tịnh nghiệp chút nào vì học
Phật chính là căn bản của học vấn, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa vậy. Đã
có được căn bản này thì ứng xử đều thích đáng, xử sự đều hợp lẽ. Đấy
chính là nguyên do vì sao bậc đại nhân đời xưa vượt trỗi những hạng
tầm thường. Một bữa nọ, chắt của Văn Trung Công là ông Tường, tự là
Bích Dư, đưa cho tôi xem cuốn kinh gồm các bài kinh chú Di Đà, Kim
Cang, Tâm Kinh, Đại Bi, Vãng Sanh do Văn Trung Công đã đích thân
viết, trang bìa ghi “Tịnh Độ Tư Lương”. Trên mặt cái hộp đựng sách đề
Hành Dư Nhật Khóa (Khóa tụng hằng ngày trong lúc ngồi xe).
Đủ biết Văn Trung Công ngầm tu pháp môn Tịnh Độ, tuy ra vào, đi
lại, vẫn chẳng chịu bỏ phế. Do dùng để trì tụng lúc đi xe, cuốn kinh ấy
chỉ dài khoảng bốn tấc, rộng ba tấc. Chữ viết cung kính, mực thước,
không một nét bút nào cẩu thả, đủ thấy lòng cung kính, chí thành của
ông, chẳng dám coi thường, chểnh mảng chút nào! (Ấn Quang Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Trình bày ý nghĩa ẩn kín nơi cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm
Văn Trung Công)
* Thánh giáo của Như Lai pháp môn vô lượng, tùy ý nương theo một
pháp nào đó, dùng Bồ Đề tâm tu trì cũng đều có thể liễu sanh thoát tử,
thành Phật đạo. Nhưng khi đang tu còn chưa chứng, sẽ có sự khó - dễ,
nhanh - chậm rất lớn. Cầu lấy pháp viên mãn nhất, nhanh chóng nhất,
đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa khế cơ lẫn khế lý, vừa là tánh, vừa là
tu, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn, là
chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt để
trời, người, phàm, thánh chứng Chân thì không chi bằng một pháp “tín
nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”.
Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm
Phật cậy thêm Phật lực. Cậy tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ
chẳng thể vượt thoát tam giới, còn cậy vào Phật lực thì tín nguyện chân
thành, thiết tha sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Người trong thời hiện
tại muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp
này sẽ trọn chẳng có hy vọng gì!
Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ pháp nào cũng viên thông, như
vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa trời, con sông nào cũng đều hiện
bóng. Thủy ngân rớt xuống đất, viên nào cũng tròn xoe. Chẳng riêng gì
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 25
cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, giữ yên cõi
bờ đều có lợi ích lớn lao, mà ngay cả sĩ, nông, công, thương, muốn phát
triển sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt bệnh tật khổ sở, không gì
chẳng tùy theo lòng cảm mà ứng, thỏa lòng, mãn nguyện. (Ấn Quang Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi trùng tu Niệm Phật Đường và mở liên xã tại
chùa Tư Phước, Phụ Dương)
* Pháp môn Tịnh Độ lớn lao [không gì] ra ngoài [phạm vi của nó]
được, như trời che khắp, như đất nâng đều. Không một pháp nào chẳng
được kiến lập từ pháp này, không một ai chẳng được pháp này un đúc.
Do hết thảy các pháp Đại, Tiểu Thừa đức Như Lai đã nói trong suốt một
đời đều là tùy theo căn tánh của chúng sanh mà nói, hoặc khế lý nhưng
chẳng thể khế hợp khắp mọi căn cơ; hoặc khế cơ nhưng chẳng thể khế
hợp chí lý (lý tột cùng) một cách triệt để. Vì thế, bản hoài xuất thế độ
sanh của đức Như Lai bị khuất lấp chưa được thông suốt, đại pháp khiến
cho chúng sanh được liễu thoát ngay trong đời này còn bị ẩn kín chưa
được tỏ bày. [Pháp hội] Hoa Nghiêm tuy đã hướng dẫn về Tây Phương,
nhưng hàng Nhân, Thiên, Quyền Thừa [Bồ Tát] chưa được nghe. Các
kinh cũng nhiều phen nói đại lược những đầu mối tốt lành, nhưng cương
yếu pháp môn chưa được đặt để.
Do vậy, đức Như Lai khởi lòng Vô Duyên Từ, vận tâm Đồng Thể
Bi, trong hội Phương Đẳng, đặc biệt nói ba kinh Tịnh Độ Di Đà, độ khắp
ba căn, thâu trọn chín giới, xiển dương đạo mầu thành thủy thành chung
của Như Lai, dạy cho chúng sanh quy mô vĩ đại “tâm làm, tâm là”. Cơ
lẫn lý đều khế hợp, phàm lẫn thánh đều được nhờ, như thuốc A Già Đà
trị chung vạn bệnh, như mười phương hư không bao hàm trọn muôn
hình tượng, khiến cho khắp thánh - phàm đều thành tựu đạo nghiệp trong
đời hiện tại, tỏ bày thông suốt bản hoài xuất thế độ sanh của Như Lai!
Nếu đức Như Lai chẳng nói pháp này thì chúng sanh đời Mạt Pháp
không một ai có thể liễu thoát sanh tử ngay trong một đời này. (Ấn Quang
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Lời Tựa Ấn Tống Ấn Quang Văn Sao Tục Biên)
* Pháp môn Tịnh Ðộ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người
thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem [Tịnh Ðộ] là pháp tu
của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào có biết đây là pháp
môn rốt ráo thành thủy, thành chung để mười phương ba đời hết thảy
chư Phật trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh! Họ thấy kẻ ngu phu,
ngu phụ tu được pháp này bèn coi thường pháp môn, sao chẳng xét trong
hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 26
vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc hòng viên mãn Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Ðộ
chẳng xứng đáng để tu, tức là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc
hạng người gì? Hơn nữa, chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm
có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây?
[Có thái độ như vậy], không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ
nguyên do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như sự
lớn, nhỏ, khó, dễ giữa tự lực và Phật lực, nên mới đến nỗi như thế! Nếu
đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành
cùng cầu vãng sanh ư? (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Đề từ và lời tựa
cho bộ Gia Ngôn Lục)
* Một pháp Tịnh Độ chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành
chung để mười phương tam thế hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh, lắm kẻ muốn làm bậc cao nhân đệ nhất xưa nay
bèn coi thường, hủy báng [pháp này]. Chúng ta nên lấy chư Phật, chư Tổ
làm thầy, chớ nên lấy những hạng cao nhân ấy làm căn cứ, sẽ được
nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Nếu
không, liễu sanh thoát tử sẽ là chuyện lâu xa lắm đấy! (Ấn Quang Văn Sao,
quyển Thượng, Thư trả lời đại sư Tế Thiện)
* Những pháp môn khác tuy cao sâu huyền diệu, nhưng phàm phu
sát đất ai có thể đích thân chứng được ngay trong đời này để đạt được lợi
ích thật sự? Chỉ có tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương là có thể
cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Đã vãng sanh Tây Phương bèn
siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Kẻ thấp nhất đã bằng với Tứ
Quả A La Hán trong Tiểu Thừa và bậc Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín
trong Viên giáo. Do vậy, biết pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc
biệt trong các pháp môn do đức Phật đã nói ra trong cả một đời Ngài,
chớ nên dùng sự tu chứng của hết thảy các pháp môn để so sánh, bàn
định [pháp này]!
Hiện thời có rất nhiều kẻ đại thông minh, coi Tịnh Độ là Tiểu Thừa,
chẳng những chính mình không tu trì, mà còn lắm cách chê bai, bài bác,
phá hoại sự tu trì của người khác. Chẳng biết pháp này chính là pháp để
phàm lẫn thánh cùng tu: Kẻ phàm phu do nghiệp lực sắp đọa địa ngục
mà niệm danh hiệu Phật liền có thể lập tức vãng sanh. Bậc Đẳng Giác
Bồ Tát sắp thành Phật đạo vẫn phải dùng công đức của mười đại nguyện
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 27
vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên
mãn Phật quả.
Pháp môn Tịnh Độ lớn lao thay! Đáng thương thay, những kẻ đại
thông minh chẳng những không tu trì lại còn chê bai, bài bác! May mắn
thay, ngu phu ngu phụ tín nguyện trì danh được cùng với Quán Âm, Thế
Chí, Thanh Tịnh hải chúng làm bạn lữ. Những kẻ đại thông minh kia dẫu
có túc phước nên chẳng ngay lập tức đọa vào tam đồ, nhưng mong được
kề vai sát cánh với ngu phu ngu phụ vẫn chẳng thể được! Huống hồ đã
báng pháp này, khó khỏi bị đọa lạc! Những kẻ ấy mắc bệnh ham cao
chuộng xa, nhưng thật sự chẳng biết cội nguồn của sự cao xa. Nếu họ
thấy chư vị trong Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành, dùng mười đại
nguyện vương cầu sanh Tây Phương sẽ hổ thẹn muốn chết, đâu dám coi
pháp môn này là Tiểu Thừa chẳng đáng để tu trì ư? (Ấn Quang Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời Trần Huệ Cung và Tôn Huệ Giáp)
* Hơn nữa, pháp Tịnh Độ lợi khắp mọi căn cơ, quả thật là pháp môn
đặc biệt trong giáo pháp của suốt một đời đức Như Lai, lợi ích vượt trỗi
những giáo lý thông thường trong cả một đời [giáo hóa của đức Phật].
Câu nói của cổ đức: “Dĩ Quả Địa Giác vi Nhân Địa Tâm, cố đắc nhân
cai quả hải, quả triệt nhân nguyên” (Do dùng sự giác ngộ nơi quả vị để
làm cái tâm trong khi tu nhân nên nhân bao trùm biển quả, quả thấu tột
nguồn nhân), có thể nói là khéo hình dung nhất, không còn gì hay tuyệt
hơn được nữa!
Huống chi Liên Tông Tứ Tổ là đại sư Pháp Chiếu đích thân gặp đức
Văn Thù dạy niệm Phật. Há có nên chẳng ngửa tuân theo thánh ý chuyên
chú niệm Phật, vẫn cứ muốn cậy vào tự lực, vứt bỏ Phật lực, chỉ mong
chống đỡ môn đình cho lớn lao, chẳng tính đến chuyện có được lợi ích
hay không? Hâm mộ hư danh, khinh rẻ lợi ích thật sự, sao lại mất trí
điên cuồng quá mức như thế ấy?
Theo tập ba của Cao Tăng Truyện, trong truyện của Pháp Chiếu đại
sư có nói: Vào năm Đại Lịch thứ hai (767), Sư trụ tại chùa Vân Phong ở
Hành Châu, nhiều lần thấy thánh cảnh hiện trong bát cháo, chẳng biết là
danh sơn nào. Có vị Tăng đã từng đến Ngũ Đài, bảo cảnh đấy ắt phải là
Ngũ Đài. Về sau, Sư bèn đi triều bái. Năm Đại Lịch thứ năm (770), Sư
đến huyện Ngũ Đài, nhìn thấy phía xa có ánh sáng trắng, lần theo ánh
sáng đi tìm, đến Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Sư vào chùa, đến giảng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 28
đường, thấy đức Văn Thù ở phía Tây, đức Phổ Hiền ở phía Đông, ngồi
trên tòa sư tử, thuyết pháp thâm diệu. Sư lễ hai vị thánh, thưa hỏi:
- Phàm phu đời Mạt, thời gian cách thánh đã xa, tri thức ngày càng
kém cỏi, cấu chướng thật sâu, Phật tánh không do đâu hiển hiện được!
Phật pháp mênh mông, chưa rõ tu hành pháp môn nào là thiết yếu nhất?
Kính mong Đại Thánh đoạn trừ lưới nghi cho con.
Đức Văn Thù bảo: “Nay ông niệm Phật là hợp thời nhất. Các môn tu
hành không gì hơn được niệm Phật, cúng dường Tam Bảo, phước huệ
song tu. Hai môn này nhanh chóng, quan trọng nhất. Vì sao vậy? Trong
đời quá khứ, ta do quán Phật, do niệm Phật, do cúng dường, nên nay
đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do vậy biết Niệm Phật là vua trong các pháp.
Ông hãy nên thường niệm Vô Thượng Pháp Vương chớ để dừng nghỉ”.
Sư lại hỏi: “Nên niệm ra sao?” Ngài Văn Thù nói: “Phía Tây thế
giới này có A Di Đà Phật, đức Phật ấy nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn.
Ông hãy nên niệm liên tục đừng để gián đoạn, sau khi mạng chung chắc
chắn vãng sanh, vĩnh viễn không thoái chuyển”. Nói lời ấy xong, khi đó
hai vị Đại Thánh đều duỗi cánh tay sắc vàng xoa đầu Sư, thọ ký: “Do
ông niệm Phật chẳng bao lâu sau sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề. Nếu hàng thiện nam, thiện nữ nguyện mau chóng thành Phật thì
không gì hơn niệm Phật, sẽ mau chóng chứng Vô Thượng Bồ Đề”. Nói
xong, khi ấy hai vị Đại Thánh cùng nhau nói già-đà (kệ). Sư nghe xong,
hoan hỷ hớn hở, lưới nghi đều trừ. Đây là đại sư Pháp Chiếu đích thân
đến Trúc Lâm Thánh Tự được hai vị Đại Thánh khai thị.
Trong Thanh Lương Chí bản cũ, [chuyện này] bị một Thiền tăng vô
tri sửa đổi lời khai thị, biến thành thiền ngữ, thật đáng thống hận! Bộ
Sơn Chí được tu chỉnh gần đây đã sao chép theo đúng truyện Pháp Chiếu
Đại Sư trong tập ba của bộ Cao Tăng Truyện. Tôi chẳng dẫn Thanh
Lương Chí vì sợ người ta không biết, cứ đọc theo bộ Sơn Chí cũ, sẽ đâm
ra nghi báng. Làm mù con mắt chánh pháp, đoạn thiện căn của người
khác, chẳng tội gì lớn hơn được nữa! Phần trước và phần sau đoạn trích
dẫn này đều lược đi, [sao lục] chỗ khai thị chẳng sót một chữ nào, chỉ có
với chữ “Chiếu” là vì thuận theo cách nói bèn viết là chữ Sư cho rõ.
Ngũ Đài chính là đạo tràng ứng hóa của ngài Văn Thù. Văn Thù
chính là thầy của bảy đức Phật, tự nói: “Ta trong quá khứ do quán Phật,
do niệm Phật nên nay đắc Nhất Thiết Chủng Trí”. Do vậy, hết thảy các
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 29
pháp, Bát Nhã Ba La Mật, thiền định rất sâu, thậm chí chư Phật đều sanh
từ niệm Phật. Quá khứ chư Phật còn sanh từ niệm Phật, huống chi chúng
sanh đời Mạt Pháp nghiệp nặng, phước nhẹ, chướng sâu, huệ cạn mà
miệt thị niệm Phật chẳng chịu tu hành, ý muốn siêu thoát, vào thẳng địa
vị Như Lai, chẳng biết rằng [dù có muốn] nối gót hít bụi của Ngũ Tổ
Giới, Thảo Đường Thanh vẫn còn chưa được nữa ư?
Thiền Tông bắt nguồn từ đời Lương, pháp ngữ nhằm dạy người đích
thân thấy tự tánh của họ tuy cao siêu huyền diệu, nhưng mỗi câu còn ý
nghĩa. Sau thời Lục Tổ, hai vị tổ Nam Nhạc, Thanh Nguyên liền dùng cơ
phong chuyển ngữ, chỉ sợ người ta tưởng hiểu nghĩa là ngộ, chẳng thể
thật chứng, nên dùng pháp này hòng dứt bặt cái tệ [hành nhân] tưởng
lầm là đã ngộ đạo. Nhưng công phu tham cứu ấy chẳng dễ gì đạt được,
có nhiều kẻ [tham cứu] mấy chục năm vẫn chưa thể nào thấu hiểu triệt
để được! Ngài Triệu Châu tám mươi tuổi còn tham khấu13 khắp Bắc Nam, nên có câu nói: “Triệu Châu bát thập do hành cước, chỉ vị tâm
đầu vị tiêu nhiên” (Triệu Châu tám chục còn hành cước, chỉ bởi trong
lòng chửa rỗng rang). Đủ biết là bậc hành nhân đại căn còn phải siêng
nhọc như thế, huống gì kẻ căn tánh hèn kém ư?
Đến đời Tống, đạo Thiền vẫn hưng thịnh lớn lao, nhưng kẻ thật
chứng đã ít ỏi hẳn đi. Ngay như Ngũ Tổ Giới vẫn chẳng phải là kẻ tầm
thường, Sư thuộc pháp hệ của ngài Vân Môn Yển14, là pháp tổ của quốc
sư Đại Giác Liên đời Tống, môn đình cao ngất như long môn15, kẻ học
thường dõi nhìn vách đá [chót vót] mà chùn bước, thuở đương thời danh
vọng hiển hách chi bằng! Nhưng một thứ Kiến Hoặc còn chưa đoạn
được, nói gì đến liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh nữa ư?
13 Tham khấu: Đến tham học với các bậc tôn túc đã ngộ đạo.
14 Vân Môn Văn Yển (864-949) là sơ tổ tông Vân Môn, quê ở huyện Gia Hưng, tỉnh
Chiết Giang. Sư mang chí hướng xuất gia từ nhỏ, xin thế độ với ngài Chí Trừng tại
chùa Không Vương ở Gia Hưng. Không lâu sau, được thọ Cụ Túc, học rộng khắp
các kinh điển, đặc biệt nghiên cứu tinh tường Tứ Phần Luật. Sau đó sang Mục Châu
tham học với ngài Đạo Minh, thấu hiểu Thiền chỉ. Rồi Sư tham học với Tuyết Phong
Nghĩa Tồn, được ấn khả. Năm Càn Hóa nguyên niên (911), đến Tào Khê lễ tháp Lục
Tổ, tham học với ngài Linh Thọ Như Mẫn, được nối pháp vị này. Do Sư trụ tại chùa
Quang Thái núi Vân Môn nên tông phong của Ngài được gọi là Vân Môn.
15 Long Môn còn gọi là Vũ Môn, là nơi theo truyền thuyết con cá chép nào vượt
ngược sóng, nhảy qua được ba bậc của thác Vũ Môn sẽ biến thành rồng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 30
Thân sau của Giới công là Tô Đông Pha, Tăng - tục đều biết. Lúc [họ
Tô] giữ đất Hàng, vẫn chẳng cự tuyệt kỹ nữ lui tới; đủ biết vẫn là phàm
phu đầy dẫy triền phược, ngay cả Sơ Quả Tu Đà Hoàn vẫn chưa hề
chứng được. Người bây giờ ai có được đạo lực như Ngũ Tổ Giới mà vẫn
muốn cậy vào tự lực để liễu sanh tử, lại còn đề cao Thiền Tông, miệt thị
Tịnh Độ, là do cớ gì vậy?
Một là do ít đọc kinh điển và kinh Hoa Nghiêm, hoặc đã từng đọc
qua nhưng hoàn toàn chẳng chú ý! Hai là do chẳng biết tông chỉ của
Thiền Tông: “Bất luận hỏi đến Phật, hỏi đến pháp, dù hỏi đến tất cả
những thứ gì trong thế gian, khi đáp đều chỉ về bổn phận, chứ tuyệt đối
chẳng luận trên Phật, trên pháp, và trên mặt Sự để đáp!” Đó gọi là “hỏi
tại nơi đáp, đáp tại nơi hỏi”; nếu hiểu là nói về mặt Sự thì hoàn toàn
hiểu lầm mất rồi, nhưng người đời nay nghiệp sâu, huệ cạn, thường đem
những lời trực chỉ bổn phận giải nghĩa theo mặt văn tự. Như ngài Triệu
Châu nói: “Lão tăng niệm Phật một tiếng, súc miệng ba bữa” và “một
chữ Phật, ta chẳng thích nghe”, ai nấy đều lầm tưởng đấy là lời nói thật,
bèn coi niệm Phật là không ra gì, rồi miệt thị! Chẳng biết sau câu “một
chữ Phật ta chẳng thích nghe” của ngài Triệu Châu, có kẻ hỏi: “Hòa
thượng có còn vì người khác hay không?” Triệu Châu nói: “Phật, Phật”
đó ư?
Có kẻ hỏi: “Hòa Thượng được đại vương cúng dường như thế (cha
con vua nước Triệu và Yên Vương đều cung kính cúng dường Sư), báo đáp như
thế nào?” Triệu Châu nói: “Niệm Phật!” đó ư? Lại có ông Tăng hỏi:
“Mười phương chư Phật còn có thầy hay không?” Triệu Châu nói:
“Có!” Hỏi: “Thế nào là thầy của chư Phật?” Triệu Châu nói: “A Di Đà
Phật, A Di Đà Phật!” đó ư? Phàm “niệm Phật một tiếng, súc miệng ba
ngày” và “một chữ Phật ta chẳng thích nghe” và “dùng Phật Phật để vì
người khác”, “dùng niệm Phật để báo ân”, “lấy A Di Đà Phật làm thầy
của mười phương chư Phật” đều là chuyển ngữ chỉ về bổn phận.
Nếu hiểu hai câu trước là lời thật bèn thật hành theo (tức “niệm Phật
một tiếng, súc miệng ba ngày” và “một chữ Phật ta chẳng thích nghe” ),
ắt sẽ đến nỗi báng Phật, báng pháp, báng tăng, vĩnh viễn đọa trong ác
đạo! Nếu coi ba câu sau (“dùng Phật Phật để vì người khác”, “dùng
niệm Phật để báo ân”, “lấy A Di Đà Phật làm thầy của mười phương
chư Phật”) là lời thật rồi thật hành, ắt sẽ được nghiệp tận, tình không,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 31
đời này chứng thánh, vãng sanh Thượng Phẩm, dần dần đạt đến thành
Phật. Hai cách nói này các sách Thiền đều cùng sao lục.
Hai câu nói trước ấy, hết thảy mọi người đều thường đề xướng, ba
câu nói sau, mấy chục năm qua, tôi chưa hề thấy có một ai nhắc đến một
câu nào! Những câu nói trước và sau đều quy về bổn phận. Đối với ba
câu sau, dẫu chẳng hiểu ý của ngài Triệu Châu, đem so với chuyện hiểu
được ý ngài Triệu Châu, lợi ích vẫn lớn hơn! Bởi lẽ, không hiểu được ý
của tổ Triệu Châu, nhưng vẫn là tuân theo lời Phật dạy chân thật phát
xuất từ kim khẩu của đức Như Lai. Đối với hai câu trước, dẫu có hiểu ý
của ngài Triệu Châu cũng chẳng qua là khai ngộ mà thôi, còn cách liễu
sanh thoát tử xa lắm! Cớ sao đối với lời nói của cùng một người, nếu
không hiểu, coi [hai câu trước] là lời đúng thật thì họa hại khôn lường,
nhưng ai nấy đều đề xướng; còn [ba câu sau] nếu không hiểu, coi là lời
nói đúng thật lại lợi ích vô cùng, nhưng cả cõi đời chẳng ai thèm nghe?
Ấy là vì thuở ban đầu chưa hề gặp được thiện tri thức thật sự, do bản
thân chẳng ra sức nghiên cứu, vừa nghe lời bài bác liền tưởng như hy
hữu, lạ lùng, trong tâm bèn vui sướng, thường xuyên đề xướng. Chẳng
biết đấy là lời nói thẳng chóng nhằm dạy người khác đích thân thấy được
bản lai của cổ nhân, cứ hiểu thành lời báng pháp, dè bỉu, chê bỏ niệm
Phật. Trong đời Mạt, loại người như vậy nhiều lắm! Trừ kẻ biết tự
lượng, có hàm dưỡng, quyết chẳng chịu coi cách suy lường mặt chữ là
tham cứu pháp Thiền thì chẳng mắc phải bệnh ấy. Nếu không, ắt sẽ là kẻ
tưởng “ngộ” (誤: hiểu lầm) là “ngộ” (悟: ngộ đạo), vẫn cứ noi theo lề lối
ấy mà tu hành, chẳng nghĩ đến sửa đổi chi cả! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi hòa thượng Quảng Huệ)
* Pháp môn Niệm Phật chính là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo,
Thiền, Mật, là đường tắt thành Phật của trời, người, thánh, phàm. Hết
thảy các pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết
thảy các pháp môn không pháp nào chẳng trở về pháp này. Kẻ tri kiến
nhỏ nhoi cho [Niệm Phật] là pháp môn của ngu phu, ngu phụ; nào biết
trong hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài sau khi chứng trọn mười tâm Tín,
vâng lời ngài Văn Thù dạy, đi tham học với khắp các thiện tri thức, hễ
nghe dạy liền chứng. Cuối cùng, đến chỗ Phổ Hiền Bồ Tát, được Ngài
gia bị, khai thị, sở chứng ngang với Phổ Hiền và chư Phật. Đức Phổ
Hiền bèn vì Thiện Tài xưng tán công đức thù thắng, mầu nhiệm của Như
Lai, dạy Thiện Tài phát mười đại nguyện vương, dùng công đức này hồi
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 32
hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật
Quả, và khuyến tấn trọn hết các Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải nhất
trí tiến hành cầu sanh Tây Phương.
Hoa Tạng hải chúng không một ai là phàm phu, Nhị Thừa hay
Quyền Vị Bồ Tát chưa phá vô minh; [vị nào chứng ngộ] thấp nhất đã là
bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo. Vị ấy đã có thể hiện thân làm Phật trong thế
giới không có Phật và tùy theo mỗi loài hiện đủ mọi thân để độ thoát
chúng sanh. Sau đó, từ Nhị Trụ cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, mỗi địa vị càng thù thắng hơn. Các vị Bồ
Tát ấy đều dùng mười đại nguyện vương cầu sanh Tây Phương, những
kẻ kia (tức kẻ phỉ báng Niệm Phật) là hạng người nào mà dám chống đối
các Ngài ấy?
Do vậy, biết pháp môn Niệm Phật quả thật là pháp môn tổng trì để
mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh, thành thủy, thành chung. Vì thế, [pháp này] được chín giới
hướng về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương,
muôn luận đều tuyên nói. Do pháp này dùng Quả Địa Giác làm Nhân
Địa Tâm, nên liền được “nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân”. (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi hòa thượng Quảng Huệ)
* Phật pháp rộng sâu như biển cả, chỉ có Phật với Phật mới có thể
thấu tột nguồn đáy. Chín pháp giới kia dù thánh - phàm, lợi - độn khác
nhau, ai nấy đều tùy theo khả năng của chính mình để tu tập hòng chứng
nhập. Ví như Tu La, hương tượng16 và muỗi mòng uống nước biển cả,
mỗi loài uống no bụng rồi đi. Nếu muốn một hơi hút cạn hết, trừ phi là
kẻ có dung lượng bằng biển cả mới làm được. Nếu không, chỉ có thể
đích thân nếm vị nước biển, chưa dễ gì thấu tột nguồn đáy được!
Nhưng Phật pháp chính là pháp sẵn có trong tâm của hết thảy chúng
sanh, ngoài cái tâm của chúng sanh ra, trọn chẳng có pháp nào thêm vào
được vì bản thể của tâm hết thảy chúng sanh và tâm Phật chẳng hai!
Nhưng do mê muội chưa ngộ, bèn khởi Hoặc tạo nghiệp, theo nghiệp
16 Hương tượng (Gandha-hastin) là một loài voi lớn thân có mùi thơm nồng gắt
thường tỏa mùi rất hăng trong thời kỳ nó động dục. Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận, quyển
30 chép: “Trong thời kỳ ấy, hương tượng rất mạnh, tánh chất cực hung bạo, khó thể
chế ngự, sức của nó mạnh bằng mười con voi thường”. Vì loài voi này rất mạnh có
thể vượt sông dễ dàng, nên kinh thường dùng hình ảnh “hương tượng độ hà” (voi
thơm vượt sông) để chỉ bậc đại căn đại lực có thể dũng mãnh thoát dòng sanh tử.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 33
chịu khổ, đến nỗi trí huệ, đức tướng sẵn có nơi cái tâm ấy bị phiền não,
ác nghiệp che lấp, giống như mây phủ kín mặt trăng, chẳng thấy được
tướng sáng. Tuy chẳng thấy được tướng sáng, nhưng tướng sáng của mặt
trăng vẫn tự thường chẳng biến đổi, trọn chẳng bị giảm suy.
Do vậy, đức Như Lai khởi lòng Từ Vô Duyên, vận lòng Bi Đồng
Thể, tùy thuận cơ nghi thuyết pháp. Tuy tùy theo căn cơ đặt ra Đại, Tiểu,
Quyền, Thật, Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, đủ mọi thứ sai khác, nhưng bổn ý
của đức Phật không lúc nào chẳng nhằm làm cho hết thảy chúng sanh
đều trái trần, hiệp giác, bỏ mê về với ngộ, thoát khỏi sanh tử huyễn
vọng, thành tựu Phật đạo vốn sẵn có mới thôi!
Do chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng chưa dễ gì tiêu trừ, nên Phật
đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ tín nguyện niệm Phật để hết thảy dù
phàm hay thánh, dù ngu hay trí, đều cùng nương vào hoằng thệ nguyện
lực của đức Di Đà vãng sanh Tây Phương hòng khôi phục tâm tánh sẵn
có, thành vô thượng Bồ Đề dễ dàng.
Từ khi Phật pháp được truyền vào Chấn Đán (Trung Hoa), hơn một
ngàn tám trăm năm qua, phàm là bậc vua thánh, tôi hiền, vĩ nhân, danh
sĩ, không ai chẳng tuân phụng lời Phật dặn dò mà hộ trì, lưu truyền, bởi
lẽ Phật pháp tuy thuộc pháp xuất thế, nhưng tất cả đạo xử thế trong cõi
đời đều được bao gồm chẳng sót. Phàm những gì Phật pháp đã nói về
cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân
từ, tớ trung thành, đều chẳng khác gì với những điều thánh nhân thế gian
đã nói. Thánh nhân thế gian chỉ dạy dỗ con người trọn hết tình nghĩa,
trọn hết bổn phận, còn đức Phật dạy rõ báo ứng thiện - ác của việc trọn
hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận và không trọn hết tình nghĩa, không
trọn hết bổn phận.
Trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận thì chỉ có thể dạy bậc thượng
trí; còn nếu là kẻ bẩm tánh ương bướng, kém cỏi, nếu không giả vờ làm,
ắt sẽ chống trái. Nếu họ biết báo ứng thiện - ác thì muốn làm lành ắt sẽ
gắng sức, muốn làm ác ắt chẳng dám làm. Đối với những pháp nhân quả
ba đời, luân hồi lục đạo v.v... do đức Như Lai đã nói, kẻ sâu sắc sẽ thấy
là sâu sắc, kẻ nông cạn sẽ thấy là nông cạn. Dùng những pháp ấy để tu
tâm sẽ có thể đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử. Dùng những
pháp ấy để giữ yên cõi đời thì sẽ thắng được tàn bạo, bỏ được giết chóc,
bỏ sự bạc ác trở thành thuần lương. Gần đây, thế đạo nhân tâm đã suy
hãm đến cực điểm, đua nhau đề xướng cách thức mới, vứt bỏ đường lối
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 34
cũ. Ngay như cả mối quan hệ cha - con, vợ - chồng họ còn muốn đạp đổ,
huống chi những mối quan hệ nhỏ hơn ư?
Vì thế, thiên tai, nhân họa liên tục giáng xuống, vận nước nguy ngập,
dân không lẽ sống! Những người có tâm lo cho thế đạo, nhân tâm, muốn
cứu vãn, đều khuyên khắp mọi người nghiên cứu Phật học, kiêng giết,
phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, đừng làm các điều ác, vâng giữ những
điều lành, từ một truyền mười, từ mười truyền trăm, cho đến ngàn, đến
vạn, không ai chẳng ngả theo chiều gió, mong sao thiên hạ thái bình,
nhân dân yên vui. Đây quả thật là pháp luân căn bản để dứt đời loạn, vãn
hồi vận nguy, uốn nắn thế đạo lòng người vậy. Đang trong thời này, nếu
chẳng dùng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi để dạy dỗ, dù thánh hiền
đều cùng xuất hiện trong cõi đời cũng chẳng biết phải làm như thế nào!
Nếu chẳng lấy “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” để tu, dẫu
là kẻ thiên tư cao thượng, cũng khó lòng đoạn Hoặc chứng Chân, liễu
sanh thoát tử! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Học
Phật Thiển Thuyết)
* Sa Bà là cõi khổ sở cùng cực, vì thế cõi này thuộc về quán trọ trên
đường lữ thứ; An Dưỡng là chốn vui sướng tột bậc, vốn là quê nhà sẵn
có. Nhưng do chúng sanh mê muội chưa ngộ, bèn cứ khăng khăng coi
quán trọ là quê nhà, chẳng biết có trụ xứ thanh tịnh an ổn tột bậc do cha
ông đã tạo dựng. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, luân
hồi trong sáu nẻo, chìm đắm trong tam đồ từ kiếp này sang kiếp khác,
không cách nào thoát ra.
Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, tùy
thuận căn cơ thuyết pháp để các chúng sanh bỏ mê về với ngộ, theo
đường về nhà. Do chúng sanh căn cơ chẳng phải chỉ có một, nên mỗi
pháp đức Như Lai nói ra đều khác biệt. Nhưng các pháp ấy đều phải cậy
vào tự lực, chỉ bậc thượng căn cao nhất mới có thể hoàn thành được
ngay trong đời này. Nếu là kẻ kém hơn thì sẽ hai đời, ba đời mới giải
quyết xong. Những kẻ trải kiếp dài lâu vẫn chưa thể giải quyết xong vẫn
chiếm đa số! Lòng Như Lai phổ độ chúng sanh chan chứa nhưng chưa
thỏa mãn được; do vậy, bèn đặc biệt mở ra một pháp “tín nguyện niệm
Phật, cầu sanh Tây Phương” để thượng thánh hạ phàm đều cùng trong
đời này thoát cõi Sa Bà đây lên cõi An Dưỡng kia. Bậc thánh sẽ mau
thành Phật đạo, kẻ phàm cũng sẽ dần dần chứng được Bồ Đề. Phổ độ
chúng sanh cô đơn, quạnh quẽ, không nơi nương tựa, thỏa thích lớn lao
bổn hoài xuất thế của đức Như Lai. Trên là Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 35
Minh, Long Thọ, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch, Thập Ác cực nặng đều là
căn cơ được thâu nhiếp bởi pháp này. Chúng ta trên chẳng bằng được
các vị như Văn Thù v.v… dưới chưa đến nỗi giống như hàng Ngũ
Nghịch, Thập Ác, há lẽ đâu chẳng mạnh mẽ phát ra đại chí ngõ hầu vượt
ngang ra khỏi tam giới ư?
Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, tuy có môn đình
Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh bất đồng, nhưng không một môn nào chẳng
lấy vãng sanh Tịnh Độ làm chỗ quy túc! Núi Thiên Thai là đạo tràng của
Trí Giả đại sư. Đại sư dùng Ngũ Thời Bát Giáo17 để phán thích18 giáo
pháp cả một đời đức Như Lai, nhưng vẫn chú trọng nơi một môn Tịnh
Độ. Tuy chưa thấy được phần kinh văn quy tông cuối cùng của kinh Hoa
Nghiêm nhưng đã lập pháp ngầm hợp, đủ thấy Phật và Tổ vốn [thở]
cùng một lỗ mũi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký về việc
chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ
niệm)
* Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp
suốt một đời đức Phật: Tuy là phàm phu sát đất đầy dẫy Hoặc nghiệp,
chỉ cần tín nguyện niệm Phật sẽ có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh
Tây Phương. Dù là vị Bồ Tát đã chứng địa vị Đẳng Giác cao cả vẫn phải
hồi hướng vãng sanh thì mới viên mãn Phật quả được!
Do vậy biết: Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được,
thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn. Chúng
sanh trong chín giới bỏ pháp này thì trên sẽ chẳng có gì để viên thành
Phật đạo; mười phương chư Phật lìa pháp này thì dưới chẳng có gì để
phổ độ quần manh19. Hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất
từ pháp giới này, hết thảy hạnh môn không hạnh nào chẳng trở về pháp
giới này, bởi đây là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười
17 Ngũ Thời: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn.
Bát Giáo: Tám loại giáo hóa, gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (bốn phương thức dùng để
giáo hóa) gồm: Đốn, Tiệm, Bí Mật, Bất Định và Hóa Pháp Tứ Giáo (bốn nội dung
giáo hóa) gồm Tạng, Thông, Biệt, Viên.
18 Phán thích: Phán định, giải thích.
19
Quần manh (Bahu-Jana) còn dịch là Quần Sanh, có nghĩa là các loài chúng sanh.
Đây là tên gọi khác của Chúng Sanh. Chữ “manh” (萌 ) hàm nghĩa giống như cây cỏ
mới nẩy mầm, chưa thấy được rõ ràng. Chúng sanh vừa mới phát đạo tâm, nhưng
vẫn còn bị vô minh che lấp giống như cây cỏ vừa mới nảy mầm, nên mới gọi là Quần
Manh.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 36
phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng
sanh. Vì thế, được chín giới cùng hướng về, mười phương cùng khen
ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.
Nhưng pháp môn này do hai đức Thế Tôn hai cõi tạo lập, đức Thích
Ca nơi Sa Bà dạy rõ Tịnh Độ để đưa con người đi về [cõi Cực Lạc], đức
Di Đà nơi Cực Lạc đợi lúc họ lâm chung tiếp dẫn [từ Sa Bà] về tới [Cực
Lạc]. Ấy là muốn cho chúng sanh thoát được nỗi khổ sanh tử ngay trong
đời này, chứng sự vui chân thường. Tâm thương xót, che chở, bảo vệ ấy
dẫu hết cả kiếp vẫn khó thể nói trọn.
Có kẻ bảo: “Đã là đệ tử Phật Thích Ca, hãy nên niệm Thích Ca Mâu
Ni Phật, cầu sanh Hoa Tạng thế giới trong cõi này”, họ chẳng biết đức
Thích Ca dạy niệm A Di Đà Phật nhằm làm cho hàng phàm phu sát đất
nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập
thánh. Chỉ có bậc Đại Sĩ đã phá vô minh chứng Pháp Thân mới thấy
được Hoa Tạng thế giới của cõi này; phàm phu chỉ thấy uế độ, chẳng
thấy được cõi Thật Báo Trang Nghiêm, há nên mong tưởng quá phận!
Huống chi Tây Phương cũng nằm trong Hoa Tạng thế giới, mà trong
hội Hoa Nghiêm, hết thảy các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải đều
dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương để
mong viên mãn Phật Quả. Ông là hạng người như thế nào mà dám chống
đối các vị ấy?
Kể từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công lập
Liên Xã đầu tiên, một người xướng, trăm người hòa, không ai chẳng noi
theo, thỏa thích bổn hoài của Phật chỉ có mỗi một mình pháp môn này là
bậc nhất! Từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân, tục diệm truyền
đăng20, rạng rỡ trong ngoài nước mãi cho đến tận hiện thời, tông phong
chẳng suy sụp, nhưng Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai, Thanh
Lương quốc sư thuộc tông Hiền Thủ, Khuy Cơ pháp sư thuộc tông Từ
Ân, Bách Trượng thiền sư thuộc Thiền tông, Đại Trí luật sư21 thuộc Luật
20
Tục diệm truyền đăng: Tiếp nối ánh sáng ngọn đèn, ý nói “nối tiếp, lưu truyền mối
đạo từ đời này sang đời khác”.
21
Đại Trí Luật Sư, tức là ngài Linh Chi Nguyên Chiếu (1048-1116), người đất Dư
Hàng, tự là Trạm Nhiên, hiệu An Nhẫn Tử. Xuất gia từ bé, 18 tuổi thọ Cụ Túc giới,
học giáo nghĩa tông Thiên Thai với ngài Thần Ngộ Xử Khiêm, nhưng dốc chí nơi
Luật Tông. Về sau lễ ngài Quảng Từ thọ Bồ Tát giới, nối pháp Nam Sơn Chánh
Truyền của ngài Doãn Kham. Trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085), Sư trụ tại
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 37
tông, không vị nào chẳng giải thích kinh, soạn luận, khuyên khắp mọi
người tu trì. Những sự tích của họ đã được chép tường tận trong Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục. Do vậy biết những vị tri thức các tông Thiền, Giáo,
Luật đều noi theo Hoa Tạng hải hội, nhất trí tiến hành cầu sanh Cực Lạc,
huống chi kẻ căn cơ cạn mỏng đời Mạt Pháp ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao, quyển Hạ, Bài ký về chuyện xây dựng đại điện của đạo tràng chuyên tu Tịnh
nghiệp tại núi Linh Nham)
* Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong một đời Ngài
đều nhằm dạy chúng sanh tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si,
hiểu rõ sanh tử huyễn vọng, chứng tâm tánh chân thường. Nhưng chúng
sanh căn tánh có lợi - độn, Hoặc (phiền não) có dày - mỏng. Kẻ căn tánh
nhạy bén, Phiền Hoặc mỏng nhẹ thì sẽ có thể liễu sanh tử ngay trong đời
này hay trong hai ba bốn năm đời sẽ liễu sanh tử. Kẻ căn độn, Phiền
Hoặc dầy thì mười trăm ngàn vạn đời hay mười trăm ngàn vạn kiếp vẫn
chẳng thể liễu được! Đấy là luận trên sự tu trì theo giáo lý thông thường,
cậy vào sức tu Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn sạch tham sân - si phiền hoặc, khó khăn cũng dường như lên trời! Mặc cho anh kiến
địa cao siêu, công phu sâu đậm, công đức to tát, trí huệ lớn lao; nếu Kiến
Tư Hoặc trong tam giới chưa hết, quyết chẳng thể vượt ra ngoài tam giới
để liễu sanh tử được!
Chỉ có pháp môn Niệm Phật là hoàn toàn cậy vào nguyện lực đại từ
bi của A Di Đà Phật. Nếu đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha,
chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận
lợi căn hay độn căn, Phiền Hoặc dầy hay mỏng đều có thể ngay trong
đời này vào lúc lâm chung được nương theo Phật từ lực đích thân rủ
lòng tiếp dẫn mà vãng sanh Tây Phương. Đã được vãng sanh rồi, Kiến
Tư phiền não chẳng đoạn mà tự đoạn, bởi cảnh duyên trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới thù thắng, mỗi mỗi đều có thể tăng trưởng công đức, trí
huệ của con người, trọn chẳng khiến cho con người dấy lên tham - sân si. Đấy chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức
Chiêu Khánh hoằng truyền Luật Tông, đến tuổi già, dời sang ở tại chùa Linh Chi ở
đó suốt ba mươi năm nên người đời thường gọi Sư là Linh Chi Hòa Thượng. Khi
mất, Sư được ban thụy hiệu là Đại Trí Luật Sư. Sư viết chú giải cho hai kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật Kinh và A Di Đà Kinh, chú giải bộ Tứ Phần Luật San Phiền Bổ
Khuyết Hành Sự Sao của ngài Đạo Tuyên, soạn thành bộ Tứ Phần Luật Hành Sự Sao
Tư Trì Ký.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 38
Như Lai, chẳng thể dùng những giáo lý theo đường lối thông thường để
luận định pháp môn Tịnh Độ được!
Trong cõi đời có những kẻ thông hiểu Tông - Giáo sâu xa, nhưng
chẳng tin vào pháp môn Tịnh Độ, ấy là vì đã dùng giáo lý theo đường lối
thông thường để luận định pháp môn đặc biệt. Nếu họ biết đây là pháp
môn đặc biệt thì sẽ tự hành, dạy người, nào dám chống trái! (Hoằng Hóa
Nguyệt San kỳ thứ ba - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển thứ tư, Những
căn cứ để làm cho hết thảy mọi người niệm Phật được vãng sanh hay không vãng
sanh)
* Phải biết: Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, muốn nương theo
[những pháp môn ấy] để tu trì hòng liễu sanh thoát tử, ắt phải đạt đến địa
vị “nghiệp tận, tình không” thì mới được. Nếu không, có mộng cũng mơ
chẳng được! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ, nếu đầy đủ lòng tin chân thành,
nguyện thiết tha, lại thêm chí thành khẩn thiết niệm Phật bèn có thể
nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Hễ được vãng sanh là đã
liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Nếu chẳng nương vào pháp
này, tu những pháp môn khác thì chắc chắn khó thể liễu sanh thoát tử
ngay trong đời này. Đời này đã gặp được pháp này mà chẳng chú ý,
tương lai há thể lại được gặp pháp này để liền chú ý tu trì hay sao? Do
vậy, hãy nên sớm chú ý nơi pháp này. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời một cư sĩ ở Diêu Duy)
II. Khuyến tín nguyện chân thiết (Khuyên hành nhân Tịnh nghiệp phải
có tín và nguyện chân thật, thiết tha)
* Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông:
Không tin sao có thể phát nguyện cho được? Không có nguyện làm sao
khởi hạnh? Không có diệu hạnh Trì Danh, làm sao chứng điều đã tin,
mãn điều đã nguyện cho được? Được vãng sanh hay không hoàn toàn là
do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do trì danh
sâu hay cạn! Tín - Nguyện - Hạnh như ba chân của cái đỉnh, thiếu một sẽ
đổ nhào.
Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, chỉ mong trì danh cho đạt được
nhất tâm, dẫu đạt được nhất tâm sâu xa, cũng khó thể liễu sanh thoát tử!
Vì sao vậy? Do Phiền Hoặc chưa hết sạch, chẳng thể cậy vào tự lực để
liễu sanh tử được. Tín nguyện đã không có, chẳng thể cậy vào Phật lực
để liễu sanh tử! Đời có kẻ ham cao chuộng xa, thường phô phang tự lực,
miệt thị Phật lực; chẳng biết từ sống đến chết không chuyện gì chẳng cậy
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 39
vào sức người khác nhưng chẳng lấy đó làm thẹn, sao riêng đối với đại
sự liễu sanh tử và Phật lực lại chẳng muốn tiếp nhận, [chắc là] mất trí
điên khùng nên mới đến nỗi như vậy! Hành giả Tịnh tông hãy nên thống
thiết răn dè! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Tịnh Độ Chỉ Yếu)
* Cần biết rằng: Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, nhưng đều
phải đạt đến nghiệp tận tình không mới có thể liễu sanh thoát tử, khó
cũng như lên trời. Hiện thời trên cả thế giới, sợ rằng cũng khó có mấy
người làm được! Nếu chí thành khẩn thiết niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương, bất luận là ai đều chắc chắn được vãng sanh Tây Phương, liễu
sanh thoát tử. Chỉ có kẻ chẳng sanh lòng tin, chẳng phát nguyện là không
thể vãng sanh! Nếu có lòng tin thật sự, nguyện thiết tha, không một ai
chẳng được sanh! Một pháp này chính là hoàn toàn cậy vào Phật từ lực
gia bị, tiếp dẫn vậy. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
gởi tiên sinh Thích Hữu Khanh)
* Pháp môn Tịnh Độ chú trọng nơi Tín - Nguyện, có kẻ do chẳng
biết cho nên hoặc cầu phước báo nhân thiên, hoặc cầu đời sau làm Tăng
để hoằng dương Phật pháp, độ thoát chúng sanh. Những loại tâm niệm
ấy đều phải trừ khử sạch sẽ; nếu có mảy may sẽ chẳng thể vãng sanh!
Vãng sanh là siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Không vãng sanh
thì tuy một đời, hai đời chẳng mê, chắc chắn khó lòng vĩnh viễn chẳng
mê. Hễ mê thì do có phước tu trì, bèn tạo nghiệp đáng sợ lắm! Ác nghiệp
đã tạo, ác báo tự xảy đến, cầu thoát tam đồ chỉ sợ chẳng có ngày nào
đâu! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô
Huệ Di và La Huệ Chú)
* Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn bình thường nhất nhưng cao sâu
nhất trong Phật pháp. Nếu không phải đời trước sẵn đủ huệ căn, quả thật
khó thể sanh chánh tín sâu xa. Đừng nói nhà Nho chẳng dễ sanh lòng tin,
ngay cả bậc tri thức thông Tông thông Giáo cũng thường dựa theo ý
nghĩa trong Tông - Giáo để luận định, phán đoán, đến nỗi đối với pháp
“khiến cho hàng phàm phu sát đất chưa đoạn Phiền Hoặc mà được liễu
sanh thoát tử siêu phàm nhập thánh ngay trong đời hiện tại” chẳng thể
nghĩ bàn này, họ chẳng những không chịu tự tu mà còn chẳng chịu dạy
người khác tu; vì họ chẳng biết pháp này chính là pháp môn đặc biệt
trong Phật pháp, cứ lấy giáo nghĩa của Tông - Giáo để làm chuẩn, nên
mới phạm những lỗi lầm ấy. Nếu thoạt đầu họ liền biết được nghĩa này
thì lợi ích lớn lắm.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 40
Người thông minh phần nhiều chú trọng “hiểu lý để ngộ cái tâm”,
chẳng biết niệm Phật chính là đường tắt để hiểu lý ngộ tâm. Nếu có thể
niệm niệm tương ứng thì sẽ tự hiểu được lý, ngộ được tâm. Dẫu chưa
làm được, bèn cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, so với những
kẻ “hiểu được lý, ngộ được tâm, nhưng chưa đoạn Phiền Hoặc, vẫn cứ
luân hồi sanh tử, trọn không có lúc thoát ra”, thì [sự khác biệt giữa] trời
và đất đã chẳng đủ để sánh ví giữa hay và dở.
Huống chi đã vãng sanh liền thân cận Phật Di Đà và thánh chúng,
sẽ đích thân chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn, há nào phải chỉ hiểu được
lý, ngộ được tâm mà thôi ư! Pháp môn Tịnh Độ chỉ có bậc Thượng
Thượng Căn và ngu phu ngu phụ mới được lợi ích thật sự, còn kẻ thông
minh thông Tông thông Giáo phần nhiều do chí lớn, ăn nói lớn lối,
chẳng chịu cậy vào Phật từ lực, cứ dốc chí cậy vào đạo lực của chính
mình, cam lòng nhường cho ngu phu ngu phụ sớm dự vào dòng thánh!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Minh Quang)
* Pháp Niệm Phật khẩn yếu nhất là có lòng tin chân thật, nguyện
thiết tha. Hễ có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt đến
nhất tâm bất loạn vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh.
Nếu không có tín - nguyện, dẫu tâm không có vọng niệm thì vẫn chỉ là
phước báo nhân thiên vì chẳng tương ứng với Phật. Do vậy, đương nhiên
phải chú trọng nơi tín - nguyện cầu sanh Tây Phương. Thật sự có tín nguyện, vọng sẽ tự hết. Nếu lúc bình thường có vọng tưởng quá mức,
muốn đắc thần thông, được danh dự, được duyên pháp, đắc đạo v.v…
hoàn toàn lấy vọng tưởng làm bản tâm của chính mình như vậy thì càng
tinh tấn, dũng mãnh, những thứ vọng tưởng ấy càng nhiều càng lớn! Nếu
chẳng giác chiếu để dứt trừ vĩnh viễn những vọng tưởng ấy thì sau này
vẫn bị ma dựa phát cuồng, há nào phải chỉ có vọng tưởng mà thôi ư? Vì
thế, phải miệt mài đoạn dứt những thứ vọng tưởng quá mức ấy. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời sư Hựu Chân và cư sĩ Giác
Tam)
* Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài, toàn thể Sự chính là
Lý, toàn thể Tu chính là Tánh, hạnh cực bình thường, lợi ích cực thù
thắng. Ấy là vì dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, nên được nhân
trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Hết thảy pháp môn không gì chẳng
lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở
về pháp giới này. Thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn
độn căn. Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, tội nhân Ngũ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 41
Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong ấy. Thống nhiếp các tông
Luật, Giáo, Thiền, Mật, xuyên suốt các giáo Quyền, Thật, Đốn, Tiệm.
Trong cả một đời giáo hóa của đức Phật, riêng một pháp môn này là đặc
biệt. Chớ nên dùng giáo nghĩa theo đường lối thông thường để phân định
nhân quả tu chứng của pháp này.
Xưa nay có nhiều kẻ thâm nhập kinh tạng, triệt ngộ tự tâm, nhưng
chẳng sanh lòng tin tưởng đối với pháp môn này vì chấp chặt vào giáo
nghĩa “cậy vào tự lực” của đường lối thông thường để luận định nhân
quả đặc biệt “cậy vào Phật lực” mà nên nỗi! Nếu họ biết nghĩa này thì
tấm lòng tin tưởng, tu trì ngay đến cả đức Phật cũng chẳng thể ngăn trở
được, vì pháp môn này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành
chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh. Bởi thế, [pháp này] được chín giới cùng quay
về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn
luận đều tuyên nói.
Xét đến chỗ phát khởi pháp này thì quả thật từ cuối hội Hoa
Nghiêm, Thiện Tài tham học khắp các tri thức, đến chỗ Phổ Hiền Bồ Tát
được oai thần của đức Phổ Hiền gia bị, sở chứng bằng với Phổ Hiền,
ngang với chư Phật, trở thành Đẳng Giác Bồ Tát. Phổ Hiền bèn xưng tán
công đức Như Lai thù thắng nhiệm mầu, khuyến tấn Thiện Tài và Hoa
Tạng hải chúng đều cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương
hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn
Phật Quả. Do Hoa Tạng hải chúng đều là các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn
mươi mốt địa vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác. [Do các vị ấy] đi trọn khắp các cõi Phật số nhiều như vi trần,
nên thệ nguyện Di Đà, cảnh duyên Cực Lạc, nhân quả vãng sanh, mỗi
mỗi đều hiểu rõ, không cần phải nói nữa. Nhưng trong hội Hoa Nghiêm,
trọn chẳng có ai là phàm phu Nhị Thừa và Quyền Vị Bồ Tát22; do vậy,
tuy hoằng dương lớn lao pháp này, nhưng phàm phu, tiểu căn không
cách chi vâng nhận được!
22 Quyền Vị Bồ Tát là những vị Bồ Tát chứng ngộ giáo pháp thuộc Quyền Đại Thừa.
Gọi là Quyền Đại Thừa (hay Đại Thừa Quyền Giáo, hoặc Quyền Giáo Đại Thừa) vì
những giáo pháp ấy do phương tiện quyền xảo (quyền biến, khéo léo) của chư Phật
lập ra nhằm tùy thuận căn cơ, hòng khơi gợi, dẫn dắt căn cơ từ Tiểu Thừa hướng về
Đại Thừa, chứ chưa phải là giáo pháp Đại Thừa thật sự (Thật Đại Thừa), hoặc chưa
phải là giáo pháp Nhất Thừa tối hậu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 42
Đến hội Phương Đẳng, đức Phật vì khắp hết thảy trời, người, phàm,
thánh, nói kinh Vô Lượng Thọ, chỉ rõ nhân hạnh quả đức xưa kia của A
Di Đà Phật, cảnh duyên Cực Lạc đủ mọi thứ thù thắng, nhiệm mầu, nhân
quả, phẩm vị tu chứng của hành nhân. Kinh này chính là chỗ quy tông
cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm vậy. Tuy được nói trong thời Phương
Đẳng, nhưng giáo nghĩa quả thật thuộc thời Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm
chỉ hạn cuộc nơi Pháp Thân đại sĩ, nhưng kinh này nhiếp trọn khắp
thánh - phàm trong chín giới. Dẫu dùng thời Hoa Nghiêm để luận thì
kinh này vẫn là đặc biệt, huống là các thời khác ư? Nếu đức Như Lai
chẳng mở ra pháp này, chúng sanh đời Mạt không một ai có thể liễu
sanh tử! Do lòng đại từ, đức Phật rất sợ chúng sanh chẳng thuận tiện thọ
trì được, bèn lại nói kinh A Di Đà, ngõ hầu họ thường đọc tụng hằng
ngày. Lại nói kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật để y báo, chánh báo trang
nghiêm cõi Tây Phương thường hiện hữu trong tâm mục của các hành
nhân.
Ba kinh này tuy kinh văn tuy rộng - lược khác nhau, nhưng lý chẳng
hề khác biệt. Người học đời Mạt Pháp nếu trí lực sung mãn, chẳng ngại
gì tu trọn vạn hạnh, hồi hướng vãng sanh. Nếu không, đương nhiên nên
chuyên tu Tịnh nghiệp, để mong nương vào Phật từ lực vượt ngang ra
khỏi tam giới, lên thẳng chín phẩm sen. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ)
* Một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh,
chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất
tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật,
nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật
từ lực để vãng sanh. Những người tu hành ngoài rìa phần nhiều cầu giác
ngộ, cầu được các thứ cảnh giới, chẳng lấy chuyện quyết định cầu sanh
làm chánh yếu, đấy gọi là “bỏ gốc chạy theo ngọn” vậy! Vì sao? Vì ngộ
đến cùng cực, nhưng nếu chưa đoạn hết sạch Phiền Hoặc, vẫn là kẻ luân
hồi trong lục đạo. Nếu được vãng sanh, so với chuyện ngộ đến mức cùng
cực nhưng chưa đoạn Phiền Hoặc, lẽ cao - thấp khác biệt dường như trời
với vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Tập Hoài Tân)
* Pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chính là pháp môn đặc
biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn,
bình đẳng nhiếp thọ phàm lẫn thánh. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát
chẳng thể vượt ra ngoài, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 43
thể dự vào trong số ấy. Dạy dỗ không phân biệt, hễ ai sanh lòng chánh
tín đều được lợi ích thật sự, hoàn thành ngay trong đời này. Kẻ trọn đủ
Phiền Hoặc vẫn dự vào dòng thánh. Dường như biển cả dung nạp khắp
trăm sông, như thái hư chứa khắp muôn hình tượng. Nếu đức Như Lai
chẳng lập ra pháp này thì chúng sanh đời Mạt ai có thể đoạn Phiền Hoặc
để liễu sanh tử, thoát Ngũ Trược, vượt khỏi tam giới?
Ấy là vì hết thảy pháp môn đều phải nương vào đạo lực Giới - Định
- Huệ để đoạn Phiền Hoặc tham - sân - si. Nếu đạt đến mức có sức Định
Huệ sâu, đoạn sạch được Phiền Hoặc thì mới có phần liễu sanh tử! Nếu
chưa thể đoạn sạch Phiền Hoặc, dẫu cho anh có đại trí huệ, có đại biện
tài, có đại thần thông, biết được quá khứ, vị lai, muốn đi liền đi, muốn
đến liền đến, vẫn chẳng thể liễu thoát được; huống chi những kẻ kém cỏi
hơn ư? Cậy vào tự lực để liễu sanh tử sẽ khó lắm, thật khó như lên trời
vậy!
Nếu nương theo pháp môn Niệm Phật, sanh lòng tin phát nguyện
niệm thánh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận xuất gia hay tại gia,
sĩ, nông, công, thương, già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, hiền, ngu, chỉ cần
nương theo giáo pháp tu trì, đều có thể nương vào Phật từ lực đới nghiệp
vãng sanh. Hễ được vãng sanh thì Định - Huệ chẳng mong được mà tự
được, Phiền Hoặc chẳng mong đoạn mà tự đoạn. Thân cận Di Đà, thánh
chúng, vẫy vùng nơi đất vàng, ao báu. Nương theo duyên thù thắng ấy
để trợ thành đạo nghiệp, để những người đới nghiệp vãng sanh sẽ lên
thẳng [địa vị] Bất Thoái, những vị đã đoạn được Hoặc vãng sanh sẽ mau
chứng Vô Sanh. Đấy toàn là cậy vào đại bi nguyện lực của A Di Đà Phật
và sức tín nguyện niệm Phật của chính người ấy, cảm ứng đạo giao mà
được lợi ích lớn lao ấy; so với kẻ chuyên cậy vào tự lực thì sự khó - dễ
khác biệt vời vợi như trời với đất.
Nhưng thường có kẻ ngu cam phận kém hèn, chẳng dám gánh vác.
Cũng có kẻ học đạo tự xưng là Đại Thừa, nghĩ [pháp này] chẳng xứng để
tu tập. Cần biết rằng: Kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác khi lâm chung tướng địa
ngục hiện, được bạn lành dạy Niệm Phật, chưa đủ mười tiếng đã được
Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương thì kẻ cam phận kém hèn sẽ dấy
lòng [tu trì].
Kinh Hoa Nghiêm là vua cả Tam Tạng, trong chỗ quy tông cuối
cùng [của bộ kinh ấy], Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương
hồi hướng vãng sanh Tây Phương, khuyên Thiện Tài và khắp Hoa Tạng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 44
hải chúng nhất trí tiến hành cầu sanh Tây Phương để mong viên mãn
Phật Quả. Sao lại dám coi pháp môn này là Tiểu Thừa? Huống chi Thiện
Tài đã chứng Đẳng Giác, hải hội [thánh chúng] đều chứng Pháp Thân,
các vị ấy còn cầu sanh, ta là hạng người nào mà [dám nghĩ pháp này]
chẳng xứng để tu tập? Chẳng những là dựng cao tràng kiêu mạn mà còn
là hủy báng kinh Hoa Nghiêm. Muốn phô trương hư danh Đại Thừa,
đích thân tạo cái họa báng pháp cùng cực vậy!
Nếu kẻ ấy một hơi thở ra không hít vào được nữa, cảnh giới Hoa
Tạng thế giới chẳng thể nghĩ bàn vốn thường mong mỏi đều biến thành
cảnh khổ A Tỳ địa ngục, chịu đựng đầy ắp [những hình phạt] để đền cái
lỗi thuyết pháp trái nghịch kinh điển, tự lầm, lầm người. Đến khi nghiệp
báo sắp mãn, mới tỉnh ngộ, liền phát tâm niệm Phật, liền được Phật tiếp
dẫn vãng sanh Tây Phương. Khổ thay! May mắn thay! Nguyện những ai
học Đại Thừa đều dự ghé vào Hoa Tạng hải hội thì tự lợi, lợi người cũng
lớn lắm.
Phàm những ai tu pháp môn Niệm Phật thì phải chú trọng giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm
các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm,
khuyên khắp những người cùng hàng cầu sanh Cực Lạc. Nếu làm được
như thế thì “vạn người tu, vạn người đến”, quyết chẳng sót một ai! (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Niệm Phật Khẩn Từ)
* Cổ nhân nói: “Túng nhiên sanh đáo Phi Phi Tưởng, bất như Tây
Phương quy khứ lai” (Phi Phi Tưởng dẫu được sanh, chớ hề bằng được
trở về Tây Phương). Nếu có thể chất phác niệm Phật thì nương theo
nguyện thuyền của đức Di Đà, trở về quê hương Cực Lạc Tịnh Độ là
điều có thể đoán chắc. Đây chính là điều ngàn kinh muôn luận, đâu đâu
cũng chỉ dẫn hướng về. Nếu chẳng trở về đây, chắc chắn sẽ như đứa con
nghèo túng, chẳng biết quê cũ, chẳng nhớ cha lành, cam phận lênh đênh
quê người, lê la khe rãnh!
Nếu chẳng so đo, chẳng bàn đi tính lại, cứ nhất tâm quay về, mới
biết tự tánh vốn sẵn thanh tịnh, còn có chỗ nào để cầu tướng quay về và
tướng tịnh nữa ư? Cổ nhân lại nói: “Tự thị bất quy, quy tiện đắc. Cố
hương phong nguyệt hữu thùy tranh?” (Tự mình chẳng về, về liền được.
Gió trăng quê cũ há ai giành?) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 45
* Chúng ta từ bao kiếp đến nay cố nhiên đã có lúc gieo thiện căn,
nhưng chưa gặp được pháp môn cậy vào Phật lực để liễu thoát ngay
trong một đời, cho nên vẫn luân hồi trong lục đạo y như cũ, chẳng thể tự
thoát được. Ông thuở bé theo mẹ tin Phật, ấy là thiên tánh. Về sau, lậm
nặng chất độc của Âu - Hàn, đấy chính là tập thói xấu ác. Còn những
cảnh được thấy trong giấc mộng thì cũng là do thiện căn từ đời trước mà
ra, nhưng mê đã quá sâu, cho nên trong nhất thời chẳng thể lập tức quay
đầu lại được. Sự quan hệ này hết sức nguy hiểm! Nếu chẳng tự chấn
chỉnh, sẽ mê muội dài lâu, sợ rằng ngay cả danh hiệu Phật cũng không
cách gì nghe được! Nay đã biết rồi, hãy nên nỗ lực!
Hơn nữa, pháp môn Tịnh Độ khác với các pháp môn khác. Các thứ
pháp môn khác đều cậy vào tự lực, chỉ có pháp môn này hoàn toàn cậy
vào Phật lực. Phương Nam, Tông môn khá nhiều, ông chớ nên xen nhập
Tông môn, mong được cái danh đẹp đẽ là “Thiền - Tịnh song tu”. Nói
chung, Tông môn lấy việc khán câu “người niệm Phật là ai” để được
khai ngộ, tuyệt chẳng nói đến “tín nguyện cầu sanh”. Đừng nói chưa
ngộ, dẫu khán đến mức thấy được diện mục vốn có của người niệm Phật
thì chỉ được kể là Ngộ, còn cách liễu sanh tử rất xa! Nếu chưa đạt đến
địa vị “nghiệp tận, tình không”, chắc chắn chẳng thể cậy vào tự lực để
liễu sanh tử được!
Thêm nữa, chẳng chú trọng tín nguyện, cầu sanh Tây Phương là trái
nghịch với Phật, chẳng thể cậy vào Phật lực để liễu sanh tử được! Vì thế,
người niệm Phật hễ xen kèm hơi hướng Tông môn thì chỗ đạt được lợi
ích ít ỏi mà chỗ mất mát lợi ích lại nhiều. Giáo lại càng khó đắc lực hơn
nữa! Mật Tông ăn nói quá lớn lối, nguy hiểm cùng cực23.
Ông hãy nên chuyên chú một môn tín nguyện niệm Phật, kèm thêm
là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành,
đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Dùng những điều ấy để tự
hành, lại còn đem những điều ấy dạy người, chắc chắn sẽ được vãng
sanh. Phàm suy nghĩ, động niệm, cư xử đều phải lấy chân thật chẳng dối
23 Xin chú ý ở đây Tổ không có ý đả kích Mật Tông mà chỉ quở trách những kẻ
không học hiểu giáo nghĩa Mật Tông đến nơi đến chốn, được truyền thụ vài ấn
quyết, đọc một số kinh sách Mật Tông rồi ngạo nghễ coi thường các tông khác, cũng
như không hiểu rõ ý nghĩa “hiện thân thành Phật”, tự xưng là đã đắc đạo, tự xưng là
Thượng Sư, thâu nhận đồ chúng tràn lan, cũng như chuyên chú trọng thần thông,
không hiểu mục tiêu cuối cùng của mọi pháp môn trong Phật giáo đều là hướng tới
mục đích liễu sanh thoát tử, tấn tu cho đến khi thành Phật Quả.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 46
làm chánh, ngõ hầu chẳng luống uổng cuộc đời này, chẳng phí dịp gặp
gỡ này! (Vĩnh Tư Tập trang 42 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển Hai,
Thư trả lời cư sĩ Cung Tông Nguyên - 1)
* Như ông nói “gặp phải đại họa, do công hạnh cạn mỏng, không
có gì để nắm níu, rất có thể hoảng sợ quẫn trí, đánh mất chánh niệm”
thì chỉ nên tin tưởng sâu xa rằng Phật lực, pháp lực, tự tánh công đức
lực, sức trì tụng chí thành đều chẳng thể nghĩ bàn. Đừng nói là không có
tai họa, dẫu gặp đại họa cũng chẳng đến nỗi quẫn trí, vì có những lực ấy
gia bị! Phàm là con người hãy nên hành xử đúng theo địa vị thì chẳng
đến nỗi do cảnh ngộ không tốt đẹp mà bị quẫn trí.
Phàm những kẻ quẫn trí vì gặp cảnh ngộ không tốt đẹp phần lớn là
do không có tín lực sâu xa, lại kèm thêm có ý niệm tiếc nuối cảnh trước,
chẳng chịu buông xuống mà ra. Như lúc gặp nạn, chỉ nghĩ cách tránh né,
những chuyện khác đều chẳng lo liệu tới, nhất loạt chẳng bận lòng nghĩ
đến. Do bận tâm vương vấn chẳng cởi gỡ được nên bị tổn hại vô ích. Do
vậy, nói: “Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập nhi bất tự
đắc yên” (Gặp cảnh hoạn nạn sống theo hoạn nạn; không trong hoàn
cảnh nào, người quân tử chẳng được tự tại) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Du Huệ Úc)
* Triệu pháp sư24 nói: “Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu
giấu kín trong núi hình”. Lời này nói về kẻ chưa ngộ chưa chứng, chứ
thật ra vật báu ấy bao quát thái hư, cùng tột theo chiều dọc, trọn khắp
theo chiều ngang, hằng cổ, hằng kim, luôn luôn hiển lộ! Đấy chính là
như câu nói: “Thời thời thị thời nhân, thời nhân tự bất thức” (Luôn luôn
24 Triệu Pháp Sư chính là ngài Tăng Triệu (384-414), môn nhân nổi tiếng nhất của
đại sư Cưu Ma La Thập. Sư là con nhà nghèo, phải chép sách thuê để kiếm sống. Do
vậy, thông hiểu kinh sử rất sâu. Thoạt đầu, Sư hâm mộ thuyết Lão Trang, về sau, do
đọc kinh Duy Ma Cật bèn cảm ngộ, đi xuất gia. Ngài thông hiểu kinh Phương Đẳng,
thanh danh lẫy lừng miền Bắc Trung Hoa. Nghe pháp sư Cưu Ma La Thập đến đất
Lương, bèn xin theo học, được ngài Cưu Ma La Thập khen là bậc kỳ tài. Đến khi
Diêu Tần diệt nhà Lương, Sư bèn theo ngài La Thập sang Trường An. Tuân sắc lệnh
của Diêu Hưng, Tăng Triệu cùng với Tăng Duệ lo phù tá ngài La Thập phiên dịch
kinh điển. Do vậy, giải ngộ càng sâu, được tôn xưng là bậc Giải Không Đệ Nhất.
Năm Hoằng Thỉ thứ sáu (404), khi ngài La Thập dịch xong bộ Đại Phẩm Bát Nhã,
Sư soạn cuốn Bát Nhã Vô Tri Luận trình lên, được hai vị La Thập và Huệ Viễn nồng
nhiệt tán thán. Sau đó, Sư còn soạn Phá Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn
Vô Danh Luận, Chú Duy Ma Cật Kinh v.v… Tiếc là Sư mất rất sớm, chỉ thọ được 31
tuổi. Những bài luận của Sư được thâu thập thành cuốn Triệu Luận.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 47
chỉ dạy cho người, mà người vẫn cứ chẳng hề biết cho), chẳng đáng
buồn sao? Chỉ có mình đức Thích Ca Thế Tôn ta đích thân thụ dụng
được, những chúng sanh khác trải kiếp này sang kiếp khác dựa vào sức
oai thần của vật báu ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi trong sáu nẻo,
trọn chẳng có thuở ra! Ví như kẻ mù đích thân lên núi báu chẳng những
không thụ dụng được, trái lại còn bị thương!
Do vậy, đức Thế Tôn tùy thuận cơ nghi mà khai thị, khiến cho bọn họ
ai nấy đều theo đường trở về nhà, nơi sáu căn, sáu trần, sáu thức, bảy
đại, tùy theo từng hoàn cảnh mà quán sát kỹ càng mong họ đích thân
thấy được vật báu ấy. Nhưng bậc có đủ trí chiếu Bát Nhã liền lập tức
rỗng không các Uẩn, hết sạch mọi khổ ách, tuy có nhiều vị [làm được]
như vậy, nhưng đấy chẳng phải là điều bọn chúng sanh độn căn đời Mạt
mà hòng mong mỏi được!
Bởi vậy, [đức Phật] mở ra một pháp môn đặc biệt, ngõ hầu thượng trung - hạ căn đều đạt được lợi ích thật sự ngay trong đời này, dạy họ
dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha chuyên niệm thánh hiệu A Di Đà
Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, lâu ngày chầy tháng, chính
cái tâm nghiệp thức chúng sanh này sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng;
tức là do báu Tam Muội chứng được báu Thật Tướng, mới biết vật báu
này trọn khắp pháp giới, lại đem vật báu này thí khắp hết thảy. Do vậy,
từ khi đức Phật mở ra pháp môn này, hết thảy Bồ Tát, tổ sư, thiện tri
thức thảy đều tuân hành pháp này bởi lẽ pháp này trọn đủ tự lực và tha
lực, so với những pháp chuyên cậy vào tự lực thì khó - dễ khác nào một
trời, một vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách
Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận Sớ)
* Pháp môn Niệm Phật chú trọng Tín - Nguyện, có Tín - Nguyện
nhưng chưa đắc nhất tâm cũng có thể vãng sanh. Đắc nhất tâm nhưng
không có Tín - Nguyện, vẫn chẳng được vãng sanh! Người đời phần
nhiều chú trọng nhất tâm, chẳng chú trọng Tín - Nguyện, tức là đã đánh
mất điều quan trọng cốt lõi nhất. Nếu lại còn sanh khởi mối nghi “chưa
đắc nhất tâm, sợ rằng chẳng được vãng sanh” thì hoàn toàn trái nghịch
với lòng tin chân thành, nguyện thiết tha mất rồi! Kiểu suy nghĩ này tợ
hồ là suy nghĩ tốt, nhưng thật ra, nếu do đây sẽ càng tăng thêm tín
nguyện để đạt đến nhất tâm thì đó là cách suy nghĩ tốt. Còn nếu do chưa
được nhất tâm bèn thường nghĩ chẳng thể nào vãng sanh được thì sẽ trở
thành cách suy nghĩ xấu, chẳng thể không biết! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Châu Đức Đại )
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 48
* Nếu chúng ta có thể đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha như
con nhớ mẹ, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối để niệm, thì hai tầng
công phu “xoay cái niệm để niệm nơi tự tánh” của đức Thế Chí và “xoay
cái nghe để nghe nơi tự tánh” của đức Quán Âm sẽ hòa lẫn trong một
tâm để niệm hồng danh vạn đức của Như Lai. Lâu ngày chầy tháng, cái
tâm nghiệp thức chúng sanh sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng, đấy gọi
là “dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển
quả, quả tột nguồn nhân”. Người có duyên gặp được, mong chớ coi rẻ!
Đấy là đường vào cửa Niết Bàn của vi trần đức Phật, huống gì chúng ta
là người đời Mạt Pháp há dám chẳng noi theo? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng)
* Đời Mạt, ngoại đạo lừng lẫy. Dẫu là kẻ có tín tâm phần nhiều theo
về ngoại đạo, bởi lẽ chẳng có chánh pháp để nghe vậy. Gần đây, giao
thông tiện lợi, kinh điển Phật pháp được lưu thông, quả thật là may mắn
lớn lao. Nhưng chớ nên đã học Phật pháp lại còn tu pháp của ngoại đạo,
đến nỗi tà - chánh hỗn loạn sẽ gây hại chẳng cạn!
Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng; cầu lấy một pháp môn thực
hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng thì
không chi hơn được pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ấy là vì hết
thảy pháp môn đều phải cậy vào tự lực để tu Giới - Định - Huệ hòng
đoạn tham - sân - si. Nếu đoạn sạch tham - sân - si sẽ liền có thể liễu
sanh thoát tử. Nếu kẻ nào đoạn chưa hết thì sẽ vẫn chẳng thể liễu được,
huống là kẻ chưa thể đoạn ư?
Pháp môn Niệm Phật chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết
tha, chí thành niệm Phật, đến khi lâm chung ắt được Phật từ tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương. Ví như trẻ thơ do cha mẹ nâng dắt, liền có thể về
thẳng đến nhà của chính mình. Con người gần đây thích lập dị, chẳng
chịu thực hiện công phu thật thà, nên mới có kẻ học Thiền tông, Tướng
tông, Mật Tông. Ba pháp môn này đều chẳng thể nghĩ bàn, nhưng đều
thuộc về tự lực. Mật Tông tuy có giáo nghĩa “hiện thân thành Phật”
(thành Phật ngay trong thân này), nhưng rốt cuộc có mấy ai thành Phật
ngay trong đời này? Đừng nói chi người học Mật chẳng thể thành Phật
ngay trong thân hiện tại, ngay cả các vị Hoạt Phật25 truyền dạy Mật Tông
25 Hoạt Phật là từ ngữ do người Trung Hoa dịch chữ Tây Tạng Hpbrulsku (thường
được biết dưới dạng ghi âm phổ biến hơn là Tulku, là một từ ngữ Tây Tạng nhằm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 49
cũng chẳng phải là người có thể thành Phật ngay trong thân hiện tại
được!
Các ông đừng bị xoay chuyển bởi những vị tri thức của các pháp môn
ấy thì sẽ có thể thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên cõi chín phẩm kia, làm
đệ tử Phật Di Đà, làm bạn tốt trong hải hội. Người niệm Phật cần phải
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thì mới có thể dùng thân để
hướng dẫn người khác, tự lợi, lợi tha vậy. Nếu luân thường khiếm
khuyết, người ta sẽ chẳng sanh lòng khâm phục, kính trọng; cho nên đối
với kẻ hiểu lý còn khó thể khuyến hóa; đối với kẻ chẳng hiểu lý, do
chính ta còn thiếu sót trong chuyện tận tụy thực hành, họ sẽ chẳng chịu
diễn dịch chữ Nirmanakaya (Hóa Thân) của tiếng Phạn). Tiếng Mông Cổ tương ứng
là Khutukhu (hoặc Khutukutu, Hobilghan. Do vậy Chương Gia đại sư thường được
gọi là Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ). Truyền thống này được bắt nguồn từ thời ngài
Tsongkhapa cải cách tôn giáo tại Tây Tạng: Tăng sĩ không được lấy vợ, nên phải
chọn người kế vị các ngôi tu viện trưởng hoặc trưởng dòng tu từ hóa thân. Ngoại trừ
phái Sakya vẫn theo lệ truyền ngôi pháp vương cho con cháu trong dòng họ, các phái
khác dẫu là Hoàng Giáo (Gelugpa), Cổ Mật (Nyingmapa), hoặc Cát Cư (Kargyupa)
đều theo lệ này tuy các lạt-ma thuộc phái Nyingmapa hay Kargyupa vẫn được phép
lấy vợ. Người Tây Tạng tin rằng các vị lạt-ma cao cấp có khả năng tự tại chuyển
sanh, liên tục trở lại thế gian này để hóa độ chúng sanh. Trước khi mất, vị lạt-ma ấy
sẽ để lại những sấm ngữ hoặc huyền ký dự báo mình sẽ tái sanh ở nơi nào. Các đệ tử
đi tìm, thấy đứa bé nào phù hợp với sấm ký, sẽ tiến hành những xét nghiệm cần thiết,
rồi đưa về tu viện, đào tạo và tấn phong để bảo đảm ngôi lãnh đạo của dòng tu được
truyền thừa liên tục. Đồng thời để tạo sự chánh thống cho ngôi vị và thu hút tín đồ,
các vị Hóa Thân nổi tiếng thường tự xưng hóa thân của các vị Phật, Bồ Tát, thánh
tăng, như Đại Lai Lạt Ma thứ năm tự xưng là hóa thân của Quán Thế Âm, ban chỉ dụ
công nhận Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A Di Đà Phật, Karmapa tự xưng là hóa
thân của Quán Thế Âm, trưởng dòng tu Sakyapa tự xưng là hóa thân của Văn Thù
Bồ Tát, Tai Situpa Rinpoche tự xưng là hóa thân của Di Lặc Bồ Tát v.v… Có lẽ vì
thế, người Trung Hoa đã gọi các vị này là Hoạt Phật (Phật Sống). Hiện thời tại Tây
Tạng, Mông Cổ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Khang, Buriat, Kalmyk v.v... tức những
nơi theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng đều có những hóa thân. Hầu như các tu
viện lớn nhỏ đều có hóa thân; nổi tiếng nhất là Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma,
Karmapa, Sakyapa của Tây Tạng, Jetsundampa của Ngoại Mông Cổ, Chương Gia
thuộc Nội Mông (dòng truyền thừa của vị này đã chấm dứt). Thậm chí tài tử Steven
Seagal của Mỹ cũng được Drubwang Pema Norbu Rinpoche (tu viện trưởng tu viện
Palyul Ling, người được coi như là trưởng tông phái Nyingmapa hiện thời) công
nhận là hóa thân của lạt-ma Chungdrag Dorje, một vị Tăng chuyên phát hiện những
Mật điển (Terton) sống vào thế kỷ 17 ở Tây Tạng, gây nên rất nhiều tranh luận ồn ào
trong giới Phật Tử Tây Phương theo Mật Tông Tây Tạng!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 50
nghe theo lời ta nói. Đấy chính là “dĩ ngôn giáo giả tụng, dĩ thân giáo
giả tùng” (dùng lời nói để dạy sẽ bị tranh cãi; dùng thân để dạy, người ta
nghe theo). Phàm mọi chuyện đều phải lấy thân làm gốc, huống chi dạy
người khác niệm Phật liễu sanh tử ư? (Hoằng Hóa Nguyệt San số 10 - Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời hai cư sĩ Hàn Tông Minh và
Trương Tông Thiện)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 51
III. Thị Tu Trì Phương Pháp (Chỉ dạy phương pháp tu trì)
1. Chỉ dạy phương pháp niệm Phật
* Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ Phật Tánh, tức là đều sẵn đủ Phật
Huệ; nhưng do tham - sân - si v.v… xen tạp vào trong ấy nên Phật Huệ
bèn trở thành tri kiến của chúng sanh. Nay đã biết Phật Huệ vốn sẵn có,
bèn chú tâm kiểm điểm nơi khởi tâm động niệm, xử sự, chẳng để cho tri
kiến tham - sân - si v.v… phát sanh. Lại hãy nên dùng lòng tín nguyện
sâu để trì danh hiệu Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh
mạng loài vật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tự hành,
dạy người cùng tu Tịnh nghiệp thì Huệ ấy sẽ dần dần thuần. Nếu giữ
được điều này chẳng để mất thì vãng sanh Tây Phương sẽ vừa thuần vừa
dễ. Đến khi Phiền Hoặc hết sạch, phước trí viên mãn thì Huệ sẽ thuần
đến tột bậc, viên thành Phật đạo.
Người đời thường lầm lạc bảo mình có trí huệ, chẳng biết trí huệ là
vàng còn trong quặng, hoàn toàn chưa sử dụng được, cần phải luyện
ròng khiến cho những chất xỉ quặng (những tạp chất) hoàn toàn tiêu hết
thì mới được lợi ích. Đại ý là như vậy, mong hãy chuyển [những ý nghĩa
này] đến cho [ông ta]. Người học Phật chú trọng vào việc tận tụy thực
hành. Con người hiện thời phần nhiều mong sao miệng lưỡi nhạy bén,
[tức là] kể tên những món ăn thật hay, thật đẹp, nhưng vô ích cho cái
bụng rỗng tuếch, đáng buồn thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thiệu Huệ Viên)
* Đối với pháp tắc tu trì, hãy nên thường như con nhớ mẹ, đi, đứng,
nằm, ngồi, nói năng, im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật
mật! [Dẫu gặp] bất cứ sự duyên nào cũng chẳng để cho gián đoạn, nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như thế chắc chắn vãng
sanh!
Lại phải nên tâm niệm nhân từ, rộng lượng, tánh khí khiêm nhường,
thuận thảo, nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành
được những điều người khác chẳng thể hành, chịu cực nhọc thế cho
người khác, thành tựu điều tốt đẹp cho người ta. Thường nghĩ mình sai
quấy, đừng bàn lỗi của kẻ khác! Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong mười hai
thời lễ mười phương Phật để sám trừ túc nghiệp, huống là kẻ còn đang
trong địa vị phàm phu! Hãy nên thường hổ thẹn, nào dám ỷ y! Nếu ỷ y,
dẫu có tu trì thảy đều thuộc về ma nghiệp. Con người như thế chớ nên
thân cận, để khỏi đến nỗi lâu ngày đều bị biến đổi giống như họ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 52
Phải vâng giữ chắc tông chỉ, chẳng bị xoay chuyển bởi kinh giáo và
lời lẽ của thiện tri thức rồi bỏ pháp này tu pháp khác. Pháp môn này
chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba
đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Hết
thảy pháp môn không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy
hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Vì thế, [pháp này]
được chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn
kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Bọn ta là hạng mạt học
sao lại lập dị, tự chuốc lấy tội khiên tự lầm, lầm người ư? Nguyện hãy
suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu xa! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, Quyển Hạ, Tịnh Độ Chỉ Yếu)
* Lúc niệm Phật cần phải thâu nhiếp tai lắng nghe, từng chữ từng câu
chẳng để luống qua; lâu ngày chầy tháng, thân tâm sẽ quy nhất. Một
pháp Lắng Nghe đúng là pháp quan trọng trong [pháp môn] Niệm Phật;
bất luận là ai đều có lợi chứ không có điều tệ, công đức rất sâu. Chẳng
như những pháp quán tưởng v.v… người biết pháp sẽ được lợi ích, kẻ
chẳng biết pháp phần nhiều bị tổn hại. Vì thế, chẳng thể dạy kẻ chẳng
hiểu giáo lý, chẳng thông Tánh Thể tu tập những pháp quán tưởng v.v…
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lưu Huệ
Dân)
* Ông chưa biết tông chỉ Tịnh Độ. Hãy nên y theo những gì đã nói
trong Một Lá Thư Gởi Khắp mà sanh lòng tin thật sự, phát nguyện thiết
tha, chí thành khẩn thiết, niệm danh hiệu Phật. Đừng dùng cách niệm
quán tâm, hãy nên dùng cách niệm nhiếp tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm,
Đại Thế Chí Bồ Tát nói “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam
Ma Địa, ấy là bậc nhất”. Khi niệm Phật trong tâm (ý căn) phải niệm cho
rõ ràng, rành rẽ, nơi miệng (thiệt căn) phải niệm cho rõ ràng, rành rẽ, nơi
tai (nhĩ căn) phải nghe cho rõ ràng, rành rẽ. Ý, thiệt, nhĩ ba căn mỗi mỗi
đều nhiếp thủ Phật hiệu thì mắt cũng chẳng ngó Đông, dòm Tây, mũi
cũng chẳng ngửi những thứ khí vị khác, thân cũng chẳng lười trễ, biếng
nhác, đó gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. Nhiếp trọn sáu căn để niệm tuy
chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng so với kẻ chẳng nhiếp
[sáu căn để niệm] thì trong tâm thanh tịnh hơn nhiều lắm, vì thế gọi là
“tịnh niệm”.
Nếu thường giữ được tịnh niệm liên tục chẳng bị gián đoạn, tâm sẽ tự
được quy về một chỗ. Ở mức cạn là đắc nhất tâm, mức sâu là đắc tammuội. Tam Ma Địa cũng là tên gọi khác của Tam Muội, ở đây (Trung
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 53
Hoa) dịch là Chánh Định, hay còn dịch là Chánh Thọ. Chánh Định nghĩa
là tâm an trụ nơi Phật hiệu, chẳng còn rong ruổi theo bên ngoài nữa.
Chánh Thọ ngụ ý những gì được nạp thọ (thâu nhận) trong tâm chỉ là
cảnh duyên công đức của Phật hiệu, hết thảy cảnh duyên đều chẳng thể
được!
Có thể thật sự nhiếp cả sáu căn để niệm, chắc chắn nghiệp chướng
tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng. Chẳng cần phải quán tâm mà tâm tự
thanh tịnh, sáng tỏ, sao lại đến nỗi mắc bệnh tâm hỏa bốc lên nữa ư? Do
ông là phàm phu nghiệp lực cực nặng, lầm lạc dùng pháp quán tâm nên
mới đến nỗi như thế. Pháp quán tâm chính là pháp tu Quán bên Giáo,
chẳng thích hợp lắm đối với người niệm Phật! Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối mới là vô thượng diệu pháp thích hợp khắp hết thảy căn cơ
thượng, trung, hạ, cả phàm lẫn thánh.
Hãy nên biết: “Nhiếp trọn” chú trọng tại Nghe! Dẫu niệm thầm trong
tâm cũng vẫn phải nghe, bởi lẽ, trong tâm khởi niệm liền có tướng của
tiếng. Tai chính mình nghe tiếng trong tâm của chính mình, vẫn rành rẽ
rõ ràng. Nếu có thể nghe được từng câu, từng chữ rõ ràng thì sáu căn đều
quy về một, so với tu những pháp Quán khác sẽ là ổn thỏa, thích đáng
nhất, ít tốn sức nhất, khế lý, khế cơ nhất. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Vĩ Chương)
* Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ
trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng, rành
mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng
niệm, nhưng vọng niệm cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ
mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu
quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự.
Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ
nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính
mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao. Lại nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh
niệm tương kế, đắc Tam Ma Địa26, tư vi đệ nhất” (nhiếp trọn sáu căn,
26 Tam Ma Địa (Samādhi), còn dịch là Tam Muội, Tam Ma Đề, Tam Ma Đế. Dịch ý
là Đẳng Trì, Chánh Định, Định Ý, Điều Trực Định, hay Chánh Tâm Hạnh Xứ, có
nghĩa là xa lìa hôn trầm, lao chao, chuyên tâm trụ vào một cảnh. Do quá nhiều ý
nghĩa, chữ này thường được dùng dưới dạng dịch âm, chứ không dịch nghĩa. Thông
thường, Tam Ma Địa được hiểu là quán tưởng ngưng lặng cho trí huệ rạng ngời, để
đoạn trừ được hết thảy phiền hoặc, hòng chứng đắc chân lý.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 54
tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa (tức tam-muội), ấy là bậc nhất). Nói
“khiến cho tâm, miệng, tai đều được rõ ràng” chính là pháp tắc nhiếp
trọn sáu căn vậy (Tâm là Ý Căn, miệng là Thiệt Căn). Tâm và miệng
niệm hợp cùng tai nghe thì mắt, mũi quyết định chẳng đến nỗi rong ruổi
theo bên ngoài, thân cũng chẳng đến nỗi láo xược, phóng túng. Người
đời nay niệm Phật phần nhiều đều chẳng chịu nỗ lực nên không có hiệu
quả gì!
Lại nữa, khi không niệm Phật, vọng tưởng tuy nhiều nhưng không
cách nào biết được, chứ không phải là lúc không niệm thì không có vọng
tưởng! Ví như đối với hư không trong nhà, dẫu mắt cực tốt cũng chẳng
thể thấy được bụi bặm. Nếu từ khe cửa sổ soi vào một tia nắng, sẽ thấy
bụi bặm trong tia nắng chao lên đảo xuống không khi nào ngừng, khi
ánh sáng chưa chiếu đến nơi, vẫn chẳng thấy có bụi bặm! Vì thế, biết
rằng: Khi niệm Phật mà nhận biết có vọng tưởng thì đấy vẫn là cái hay
của việc niệm Phật. Lúc không niệm Phật, hoàn toàn bị vùi lấp trong
vọng tưởng cho nên không biết! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời sư Hựu Chân và cư sĩ Giác Tam)
* Đối với chữ Niệm (念) trong Niệm Phật (念 佛), muôn phần chớ
nên thêm chữ Khẩu (口 ), có rất nhiều người viết là Niệm (唸), đánh mất
ý nghĩa đến tột cùng! Một pháp Trì Danh Niệm Phật lợi khắp ba căn, còn
Quán Tượng, Quán Tưởng thì chỉ có người thấu hiểu pháp môn tâm địa
mới tu tập được. Nếu không, chắc sẽ đến nỗi khởi lên các ma sự. Trì
danh niệm Phật lại thêm lắng tai nghe kỹ là ổn thỏa, thích đáng nhất. Bất
luận thượng - trung - hạ căn đều có lợi ích, đều không bị khuyết điểm.
Ông thích niệm kinh Kim Cang, hãy nên đem công đức ấy hồi
hướng vãng sanh thì đấy chính là Trợ Hạnh cho Tịnh Độ. Nhưng Tịnh
Độ Ngũ Kinh công đức cũng chẳng kém gì kinh Kim Cang. Đối với
những kinh sách đã gởi, hãy nên đọc kỹ lời Tựa do Quang viết, sẽ có thể
hiểu rõ được ý nghĩa chánh yếu. Tiếp đó, lắng lòng cung kính đọc thì sẽ
đích thân đạt được vô biên lợi ích (Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ 8 - Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Đường Thụy Nham - 1)
* Đối với việc niệm Phật, có thể chiếu theo thời mà niệm cũng
được. Nếu không, suốt ngày thừa dịp thuận tiện [mà niệm], chẳng luận
đi - đứng - ngồi - nằm (hễ nằm thì nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng). Nói
chung, lấy niệm Phật làm chánh. Nhưng cần phải sanh lòng tin, phát
nguyện, cầu sanh Tây Phương, vạn phần chớ nên cầu phước báo đời sau.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 55
Nếu cầu phước báo đời sau thì chính là phá giới trái pháp, vì pháp môn
Niệm Phật chính là pháp môn dạy người cầu sanh Tây Phương. Ông đã
niệm Phật, chẳng cầu sanh Tây Phương, lại muốn cầu đời sau, tức là
chẳng tuân lời Phật dạy. Đấy là pháp Phật dạy người như thế, phải nhất
định tuân theo, ông chẳng chịu tuân theo, nên gọi là “phá giới, trái
pháp”. Nếu đời này còn có tu trì, đời sau chắc chắn có phước thế gian để
hưởng. Hễ hưởng phước, chắc chắn phải tạo ác nghiệp (nay cõi đời loạn lạc
đến như thế, quá nửa là do những kẻ đời trước tu si phước ươm thành). Đã tạo ác
nghiệp thì khổ báo về sau chẳng nỡ nói ra! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời sư Truyền Đức)
* Con người sống trong thế gian điều quan trọng nhất là thân cận
thầy lành bạn tốt. Có thầy lành bạn tốt thì sẽ có thể trở về chánh đạo.
Nếu không, bạn bè nhậu nhẹt tụ họp, hằng ngày xen lộn với phường hạ
lưu, bệnh tật cũng do đó thường chẳng lành được!
Pháp môn Tịnh Độ không gì lớn lao ra ngoài được, nhưng kẻ thiếu
hiểu biết thường coi nhẹ. Ông đã trì danh, nhưng tâm chưa quy nhất là vì
nghiệp chướng sâu đậm vậy! Lúc niệm phải giữ tấm lòng kính sợ, niệm
khởi từ nơi tâm, tiếng phát ra từ miệng, âm thanh lọt vào tai, phải sao
cho nghe từng câu rõ ràng, từ sáng đến tối [lúc nào] không phải dùng
tâm để làm việc thì thường niệm. Niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, hay niệm
thầm trong tâm đều phải nghe, bởi tâm vừa khởi niệm liền có tướng của
tiếng. Tai của chính mình nghe tiếng trong tâm của chính mình là
chuyện hết sức rõ ràng. Sáng tối lập một công khóa, hoặc tụng một biến
kinh Di Đà, ba biến chú Vãng Sanh, rồi niệm kệ Tán Phật, niệm Phật,
hoặc một ngàn hay tám trăm câu, hay năm trăm câu, tùy theo mỗi người
mà lập ra công phu. Nếu quá bận thì dùng cách sáng tối Thập Niệm.
Ngoại trừ lúc thực hiện công khóa sáng tối ra, đi, đứng, nằm, ngồi
đều phải niệm. Chỉ cầu tâm quy nhất, chẳng nhất định phải cầu tướng
lành. Vì nếu tâm đã quy nhất sẽ khác với lúc tâm phập phều, tán loạn.
Nếu chẳng chú trọng tâm quy nhất, thường mong thấy được tướng lành,
rất có thể ma sự khởi lên, chẳng thể không biết! Chí thành khẩn thiết
lắng nghe, chắc chắc chẳng đến nỗi ma sự dấy lên! “Nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối” chính là cách niệm Phật mầu nhiệm nhất!
Phải thường xem Tịnh Độ Ngũ Kinh, cần phải cung kính, chớ nên
khinh nhờn! Đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh sẽ biết đại nguyện của đức Di Đà,
sự trang nghiêm của cõi Tịnh Độ, và sự thích hợp trọn khắp của pháp
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 56
môn. Những kẻ nói pháp môn Tịnh Độ là Tiểu Thừa, là pháp tu của ngu
phu ngu phụ, thì biết là họ trong đời trước chưa từng gieo thiện căn Tịnh
Độ, nên mới nói nhăng nói càn như vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Hy Đạo)
* Làm đệ tử Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành, giữ tâm lành, nói lời lành, làm chuyện lành, hành như vậy mới là
đệ tử Phật thật sự. Nếu miệng tuy niệm Phật, nhưng tấm lòng chẳng lành
sẽ tương phản với khí phận của Phật, chẳng thể được lợi ích thật sự nơi
niệm Phật! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Giang Cảnh Xuân)
* Người học Phật nhất cử nhất động đều phải lưu tâm. Đối với việc
niệm Phật phải chí thành. Nếu khi nào trong tâm khởi lên đau buồn, đấy
cũng chính là tướng thiện căn phát hiện, chớ nên để thường xảy ra như
thế. Nếu không, sẽ bị ma bi thương dựa vào. Phàm có chuyện gì thích ý,
chớ nên hoan hỷ quá mức. Nếu không, ắt bị ma hoan hỷ dựa.
Lúc niệm Phật, mí mắt nên rủ xuống, tinh thần chớ nên căng thẳng
quá mức đến nỗi tâm hỏa bốc lên, rất có thể bị những chứng bệnh ngứa
đầu, đau đầu v.v... cần phải điều hòa cho thích đáng. Niệm lớn tiếng thì
chẳng được cố sức quá mức để khỏi bị bệnh. Lần chuỗi niệm có thể ngừa
được sự lười nhác, nhưng lúc tịnh tọa chẳng được lần chuỗi, hễ lần chuỗi
thì ngón tay động nên tâm chẳng định được, lâu ngày ắt thành bệnh. (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư răn nhắc những người mới
phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Trong đời trước, con người nghiệp nào chẳng tạo? May mắn được
nghe Phật pháp, hãy nên sốt sắng tu trì để mong tiêu trừ túc nghiệp, siêu
độ oán gia. Tất cả oán gia tuy khó cởi gỡ nhưng nếu chịu phát tâm Bồ
Đề và thành tâm siêu độ sẽ không có [mối oán kết nào] chẳng cởi gỡ
được! Ông niệm Phật bị nghẹn hơi chẳng phải vì thân thể yếu đuối mà là
do nghiệp chướng tạo ra, ông chỉ nên khẩn thiết, chí thành niệm. Nếu
niệm không được thì tâm hãy thường tưởng nhớ. Nếu niệm được thì vẫn
cần phải dùng miệng để niệm, không thể niệm được thì chỉ tâm chuyển,
tâm nhớ, lâu ngày nghiệp ấy sẽ tiêu. Từ rày, phàm khởi tâm, làm việc,
đều phải hướng theo phương diện ăn ở cho có tình nghĩa nồng hậu mà
làm. Ăn ở trọn vẹn tình nghĩa thì thêm phước, ăn ở bạc bẽo thì chẳng đạt
được phước gì! Nếu lại còn khắc nghiệt, hiểm độc, gian xảo thì giống
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 57
như đảnh núi chót vót, mưa đẫm cách nào cũng không nhận được, bất cứ
cây cỏ gì cũng không mọc được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Kim Thiện Sanh)
* Một pháp Niệm Phật chính là pháp môn tổng trì lời Phật dạy,
nhưng có người chuyên niệm Tự Phật, có người chuyên niệm Tha Phật,
hoặc niệm Tự Phật lẫn Tha Phật bất đồng! Kẻ chuyên niệm Tự Phật là
như tham cứu sâu xa Thật Tướng trong các kinh đến mức cùng tận để
mong ngộ chứng, dùng trí chiếu Bát Nhã để thấu hiểu trọn vẹn đương
thể của hết thảy các pháp Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát
Giới, Thất Đại v.v… toàn là Không, đích thân thấy được tánh Chân Như
mầu nhiệm vốn sẵn có, hoặc như Thiền Tông khán những câu thoại đầu
như “người niệm Phật là ai?” v.v… để mong đích thân thấy được “bản
lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”. Trong bốn loại Niệm Phật,
[cách này] được gọi là Thật Tướng Niệm Phật.
Chuyên niệm Tha Phật thì có ba cách niệm:
1) Một là quán tưởng, nghĩa là dựa theo Thập Lục Quán Kinh để
quán, hoặc chuyên quán tướng bạch hào27, hoặc chỉ quán thân Phật một
trượng sáu, hay thân tám thước, hoặc quán Pháp Thân rộng lớn và quán
trọn vẹn mười sáu phép Quán.
2) Hai là quán tượng, tức là đối trước hình tượng Phật, tưởng tướng
hảo, quang minh của Phật v.v…
3) Ba là trì danh, tức là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu A Di Đà
Phật.
Ba cách niệm Phật này tuy cách thức khác nhau, nhưng đều cần
phải có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì mới cảm ứng đạo giao
27 Bạch Hào Tướng (Ūrna-laksana): Đôi khi còn dịch là hào tướng, hào mi, bạch mao
tướng, mi gian bạch hào tướng, bạch hào trang nghiêm tướng, mi gian bạch hào
nhuyễn bạch đâu-la-miên tướng v.v…là một trong ba mươi hai tướng của đức Như
Lai. Đấy chính là một sợi lông trắng trong ngần, sáng ngời như ngọc lưu ly, thường
tỏa quang minh, nằm giữa hai chân mày, cuộn tròn lại, quấn quanh theo chiều bên
phải, nếu kéo dài ra sẽ dài đến một tầm (Tầm là đơn vị đo lường thời cổ, có chiều dài
bằng khoảng cách giữa hai cánh tay giang thẳng ra hai bên). Theo kinh Vô Thượng
Y, quyển Hạ, tướng này do lúc tu nhân Phật thường tán thán mỗi khi thấy có chúng
sanh nào tu tập Giới - Định - Huệ. Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải thì quang
minh tỏa ra từ tướng bạch hào có công năng trừ được tội lỗi trong trăm ức na-do-tha
hằng sa kiếp sanh tử, nên là tướng thù thắng nhất trong vô lượng tướng của đức Phật.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 58
cùng đức Phật được, mới có thể chắc chắn trong đời này lìa khỏi cõi Sa
Bà này, sanh sang cõi Cực Lạc kia.
Trong bốn thứ niệm Phật này, chỉ có Thật Tướng Niệm Phật là đế lý
sâu xa nhất, nhưng chẳng dễ gì tu được! Do cậy vào Giới - Định - Huệ
và sức tham cứu, quán chiếu, soi xét của chính mình, chứ không có Tha
Lực nào khác phụ trợ; nếu chẳng phải là hạng túc căn chín muồi thì ngộ
còn chưa dễ gì đạt được, huống là thật chứng! Chỉ có Trì Danh Niệm
Phật, thực hiện dễ dàng nhất, thành công nhanh nhất! Nếu có thể nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục ắt sẽ đích thân chứng được Niệm Phật
tam-muội ngay trong đời này, lâm chung chắc chắn vãng sanh Thượng
Phẩm. Dẫu căn cơ hèn kém, chưa chứng được tam-muội, chỉ dùng lòng
tin chân thành trì danh hiệu Phật như con nhớ mẹ, luôn luôn chẳng gián
đoạn, đến khi lâm chung cảm ứng đạo giao, nương theo Phật từ lực đới
nghiệp vãng sanh. Chúng sanh đời Mạt chỉ có pháp này để nhờ cậy. Nếu
không, chỉ gieo được cái nhân cho đời sau, khó đạt được lợi ích thật sự!
Nếu có thể chí tâm trì niệm, niệm đến khi “toàn tâm là Phật, toàn
Phật là tâm, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, không niệm
mà niệm, niệm mà không niệm, tâm lẫn Phật cùng tỏ rạng, lại cùng mất
hẳn” thì diệu lý Thật Tướng sẽ hiện rõ rành rành, y báo, chánh báo cõi
Tây Phương triệt để hiện trọn vẹn. Tuy trì danh nhưng đạt Thật Tướng
sâu xa, chẳng quán tưởng mà đích thân thấy được Tây Phương! [Pháp trì
danh] nhiếp thọ căn cơ phổ biến nhất, được lợi ích sâu xa nhất, lợi lạc
nhất cho kẻ độn căn trong đời Mạt Pháp, thỏa thích lớn lao bản hoài xuất
thế của Như Lai. Vì thế, từ xưa hàng tri thức phần nhiều đều chuyên chú
nơi một môn Trì Danh. Đây là nói đại lược về cách niệm Tha Phật vậy.
Còn như niệm Tự Phật lẫn Tha Phật thường được gọi là Thiền Tịnh
Song Tu, có người chuyên khán câu “người niệm Phật là ai?” để mong
minh tâm kiến tánh, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Tuy tợ hồ
Thiền Tịnh Song Tu, nhưng thật ra là “có Thiền, chẳng có Tịnh”. Đã
không có tín nguyện, sẽ không có cách nào cậy vào Phật lực để đới
nghiệp vãng sanh được! Nếu chưa đạt đến địa vị nghiệp tận tình không,
vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Do vậy biết: Đối với
Thiền Tịnh Song Tu, chỉ hạng người có đầy đủ tín nguyện sâu xa mới có
thể đạt được lợi ích. Nếu không, đương nhiên chẳng bằng chuyên dốc
sức nơi một môn trì danh hiệu Phật! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 59
* Lý tức là Lý Tánh, tức là Phật Tánh mà Phật và chúng sanh đều
sẵn có. Tánh ấy có đủ hết thảy công đức. Sự chính là tu trì và đoạn Hoặc
chứng Chân v.v… Do trong tự tánh sẵn đủ những công đức ấy nên tu
đến mức cùng cực sẽ xứng tánh hiển hiện. Do vậy, gọi là “lý sự viên
dung”. Nếu chỉ biết bản tánh sẵn đủ, chẳng tu trì thêm thì đến tột cùng
đời vị lai cũng chẳng thể đích thân chứng được lý “tánh sẵn đủ” ấy. Đó
gọi là “chấp Lý phế Sự, Lý cũng chẳng viên”. Vì thế, người tu hành hễ
đã ngộ được lý “tánh sẵn đủ”, ắt phải thiết thực tu trì.
Phương pháp tu trì chỉ có trì danh niệm Phật thật là bậc nhất. Vì thế,
hãy nên chuyên chú nơi tín nguyện trì danh. Lại còn lấy “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành” làm Trợ Hạnh, lợi ích sẽ lớn lao. “Hồ
đến, Hồ hiện” nghĩa là tâm như gương sáng, gương vốn rỗng lặng, trọn
chẳng có một vật gì, nhưng lại tùy theo cảm mà ứng. Người Hồ đến thì
trong gương liền hiện bóng người Hồ, người Hán đến [gương cũng hiện
bóng người Hán] giống như thế. Ngồi ngay ngắn niệm Thật Tướng chính
là nhất tâm chuyên chú nơi Chân Như Phật Tánh bất sanh bất diệt để
mong triệt ngộ, thật chứng. Loại công phu này thật chẳng dễ dàng đạt
được; nếu chẳng hiểu rõ Lý, chắc sẽ khởi ma sự, bất tất phải dùng loại
công phu này! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ tám - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 6)
* Ông nói vọng niệm quá nhiều là vì ông cứ một mực ứng phó
ngoại duyên đến nỗi trong lòng tạp niệm tưng bừng diễn ra. Hãy nên
nghĩ mình sắp chết, tưởng sắp đọa địa ngục, nhất tâm niệm Phật thì vọng
niệm sẽ liền tiêu diệt, chứ không phải vì thông thuộc kinh hay không!
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 7 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2,
Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 5)
* Niệm Phật tu trì giống như uống thuốc. Nếu hiểu rõ giáo lý, giống
như biết cặn kẽ nguồn gốc căn bệnh, dược tánh, mạch lý, rồi sẽ uống
thuốc thì có thể gọi là “tự lợi, lợi tha”, không chi tốt lành bằng! Nếu
không được như thế, trước hết chỉ chịu uống thuốc A Già Đà28 đã được
[đức Phật] thay ta bào chế sẵn thì bệnh cũng được lành. Cũng có thể đem
thuốc này cho hết thảy mọi người uống để được lành bệnh. Chỉ mong
sao lành bệnh, không cần phải buồn lòng vì chẳng biết nguồn gốc căn
28 A Già Đà (Agada), còn phiên là A Yết Đà hoặc A Kiệt Đà, có nghĩa là mạnh khỏe,
trường sanh bất tử, không bệnh, trừ khử khắp mọi thứ. Đây là một loại thuốc theo
huyền thoại Ấn Độ có tác dụng trị tất cả mọi bệnh, giá trị vô lượng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 60
bệnh, dược tánh, mạch lý! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật )
* Cha ông đã cho phép ông xuất gia, hãy nên phát tâm chí thành
khẩn thiết, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay ở trong lục đạo không nghiệp
nào chẳng tạo. Nếu không có tâm tu hành, sẽ đâm ra chẳng cảm thấy có
những ác niệm cổ quái, hiếm lạ ấy. Nếu phát tâm tu hành [sẽ cảm thấy]
những thứ ý niệm ấy càng nhiều hơn thêm (Đây chính là do chân - vọng soi
lẫn nhau mà hiển hiện, chứ không phải là trước kia không có, chỉ là do chúng chẳng
hiện rõ mà thôi). Lúc ấy, hãy nên tưởng A Di Đà Phật ở trước mặt ta,
chẳng dám có một tạp niệm vọng tưởng, chí thành, khẩn thiết niệm
thánh hiệu Phật (hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm), ắt phải sao cho từng
câu từng chữ trong tâm niệm rõ ràng phân minh, miệng niệm rõ ràng
phân minh, tai nghe rõ ràng phân minh. Thường niệm được như thế thì
hết thảy tạp niệm tự nhiên tiêu diệt.
Khi tạp niệm khởi lên, hãy đặc biệt đề khởi toàn bộ tinh thần niệm
Phật, chẳng để cho nó tác quái trong tâm ta. Nếu có thể thường niệm
được như thế thì ý địa tự nhiên thanh tịnh; lúc tạp niệm vừa mới dấy sẽ
giống như một người chống lại vạn người, tâm chẳng thể có chút [ý
niệm] thong thả, dễ dãi nào. Nếu không, nó sẽ thành chủ của ta, ta sẽ bị
nó hại. Nếu liều hết tánh mạng chống lại nó, nó sẽ bị ta xoay chuyển,
đấy gọi là “chuyển phiền não thành Bồ Đề”.
Hiện thời ông có thể thường đem vạn đức hồng danh của Như Lai
để cực lực kháng cự thì lâu ngày chầy tháng tâm sẽ tự thanh tịnh. Tâm
đã thanh tịnh rồi, vẫn cứ niệm y như cũ chẳng buông lung, thì nghiệp
chướng sẽ tiêu, trí huệ mở mang. Chớ nên sanh lòng gấp rút, vọng động!
Bất luận ở tại nhà hay ở nơi am đều phải kính trên, hòa dưới, nhẫn được
những điều người khác chẳng thể nhẫn, làm được những chuyện người
khác chẳng thể làm, chịu nhọc nhằn thay cho người khác, thành tựu sự
tốt đẹp cho người ta. Khi tịnh tọa thường nghĩ đến lỗi mình, lúc chuyện
gẫu chẳng bàn lỗi của kẻ khác, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, từ
sáng tới tối, từ tối tới sáng, một câu Phật hiệu chẳng để gián đoạn, hoặc
niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm, trừ niệm Phật ra, chẳng khởi lên niệm
nào khác.
Nếu lỡ vọng niệm dấy lên, hãy lập tức làm cho nó tiêu diệt. Thường
sanh lòng hổ thẹn và sanh lòng sám hối. Dẫu có tu trì, luôn cảm thấy
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 61
mình công phu rất cạn, chẳng tự khoe khoang, kiêu căng, chỉ bận tâm
đến chuyện trong nhà của chính mình, chẳng dính tới chuyện nhà người
khác, chỉ thấy những gương tốt, chẳng thấy những gương xấu. Thấy hết
thảy mọi người đều là Bồ Tát, chỉ có mình ta quả thật là phàm phu. Nếu
ông có thể làm theo những điều tôi đã nói, chắc chắn sẽ sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. (Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ số 5 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Diệp Phước Bị - 1)
* Bế quan chuyên tu Tịnh nghiệp thì hãy nên lấy niệm Phật làm
Chánh Hạnh. Khóa sáng vẫn chiếu theo lệ thường tụng Lăng Nghiêm,
Đại Bi, Thập Tiểu Chú. Nếu không thuộc chú Lăng Nghiêm thì chẳng
ngại gì hằng ngày cứ xem kinh mà tụng. Đến khi thật thuộc rồi hãy niệm
thuộc lòng. Khóa tối thì kinh A Di Đà, Đại Sám Hối, Mông Sơn cũng
phải thường niệm hằng ngày. Ngoài ra, nên niệm Phật từ sáng đến tối, đi
- đứng - nằm - ngồi thường niệm.
Lại lập một quy củ, sáng niệm một lần; trước khi chưa niệm, lạy
bao nhiêu đó lạy (Trước hết lạy Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lạy, rồi lạy A
Di Đà Phật bao nhiêu đó lạy, rồi lễ Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
mỗi vị ba lạy, rồi lễ thường trụ thập phương hết thảy chư Phật, hết thảy tôn pháp, hết
thảy hiền thánh tăng ba lạy). Hoặc niệm Phật một ngàn tiếng, hoặc nhiều
hơn hay ít hơn. Niệm xong lại lễ chừng đó lạy, buổi sáng một lần, buổi
chiều một lần, rồi nghỉ một khắc để tụng khóa tối, đầu hôm niệm Mông
Sơn, sau đó niệm Phật bao nhiêu đó tiếng, lễ bao nhiêu đó lạy, phát
nguyện hồi hướng, tam quy y xong, trong tâm thầm niệm Phật hiệu để
dưỡng hơi. Lúc nằm chỉ nên niệm thầm trong tâm, đừng nên niệm ra
tiếng. Niệm ra tiếng sẽ tổn khí, lâu ngày sẽ thành bệnh. Dẫu là ngủ nghỉ,
trong tâm vẫn thường giữ lòng cung kính, chỉ cầu tâm chẳng rong ruổi
theo bên ngoài, niệm niệm tương ứng với Phật hiệu. Nếu tâm khởi lên
tạp niệm, liền lập tức nhiếp tâm kiền thành niệm, tạp niệm sẽ tiêu diệt
ngay.
Đừng nên mù quáng dấy lên vọng tưởng, mong đắc thần thông, đắc
duyên pháp, được tiếng tăm, mong xây chùa, dựng miếu. Nếu có những
thứ ý niệm ấy, lâu ngày chầy tháng ắt sẽ bị ma dựa. Nếu chẳng nói toạc
những điều này với ông, sợ rằng ông sẽ tưởng những ý niệm ấy là tốt,
vọng tưởng ngày ngày tăng trưởng, chắc chắn sẽ bị ma dựa không còn
ngờ chi! Dẫu cho tâm đã tịnh, vọng bị khuất phục, cũng chớ nên sanh
lòng hoan hỷ, tự khoe khoang với người khác, có một phần bèn nói tới
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 62
mười phần, đấy cũng là cái gốc để bị ma dựa! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ
10 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời sư Minh Tâm)
2. Chỉ cách đối trị tập khí
* Người học đạo phải lấy đối trị tập khí làm bước thứ nhất trong
công phu tu hành. Nếu có thể trừ khử được một phần tập khí thì công
phu mới thật sự đạt được một phần. Nếu không, chỉ có nhân, không có
quả, khó được tương ứng với Phật! Ông đã biết [chính mình] tánh tình
hung bạo, hãy nên luôn luôn nghĩ “ta chuyện gì cũng chẳng bằng người
khác”; dẫu cho người ta phụ bạc ân đức của chính mình, vẫn thường
nghĩ mình đã phụ bạc ân đức của người khác! Cảm thấy đối với hết thảy
mọi người, ta đều đáng hổ thẹn, thiếu sót khôn cùng, thì tánh khí hung
bạo sẽ không còn do đâu phát sanh được nữa! Phàm tánh khí hung bạo
đều là do ngạo mạn mà dấy lên. Đã biết chính mình chỗ nào cũng có lỗi,
tự nhiên tánh khí sẽ hòa hoãn, tâm bình lặng, chẳng tự ngã mạn, cao
ngạo, lấn hiếp người khác! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Hác Trí Hy)
* Khi tập khí hãy còn thì chính mình chẳng biết, [chẳng hạn] như tập
khí của thói quan liêu, chỉ những ai không có thói ấy mới biết! Tự mình
có thói tập khí ấy dẫu người khác có nói thì chính mình vẫn chẳng nhận
biết những điều đã được chỉ ra. Người học đạo cần phải trừ tập khí. Tập
khí ngạo mạn quả thật là chướng ngại cho sự nhập đạo. Các hạ hãy xét
kỹ, quan sát lời nói, hành vi chắc sẽ biết được! Hễ biết thì còn đạt được
lợi ích thù thắng. Lời lẽ này không ai chịu nói, Quang một mực lòng dạ
thẳng băng, ăn nói thẳng tuột, chẳng nề hà kiêng kỵ, muốn cho các hạ
thật sự được lợi ích chân thật cho nên tôi lược thuật nguyên do. (Hoằng
Hóa Nguyệt San số thứ bảy - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư
trả lời cư sĩ Dương Điển Thần).
* Căn bệnh chung của cả cõi đời hiện thời là nhờ công để lợi tư,
khiến cho dân cùng khốn, nước nguy ngập, chiến tranh liên miên. Chúng
ta xuất gia làm đệ tử Phật, cố nhiên phải lấy lòng bình đẳng đại từ, đại bi
của đức Phật làm chí hướng, chẳng nên giữ mãi thói kiêu mạn tự đại của
người tại gia, coi thường hết thảy, mặc tình xử sự, chẳng tuân theo lề lối
cũ. Phải nghĩ chúng ta được trời che đất chở, được cha mẹ giáo dục, nếu
chẳng bắt chước tấm lòng của trời đất, cha mẹ, sẽ thành kẻ nghịch trời
trái lý, gây nhục sâu xa cho đấng sanh thành. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi thầy Minh Bổn)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 63
* Người xưa nói: “Ninh khả thiên sanh bất ngộ, vật giao nhất thời
trước ma” (Thà cho ngàn đời chẳng ngộ, chẳng để ma dựa một lúc).
Người thông minh tự kiêu, đa phần phạm phải căn bệnh này. Do trước
đó tự tâm đã chứa sẵn chí khí phô trương, sai trái, hung hăng này, ma
bèn thừa cơ xen vào. Nếu chẳng nông nổi, bộp chộp, tự kiêu, ma sẽ lánh
xa! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm
Phật)
* Những gì ông nói đều toàn là cậy vào ý kiến của chính mình,
chẳng lấy thật lý, thật sự làm chuẩn. Nay ông đã biết sai, ắt phải cực lực
đối trị tập khí ấy. Không trừ được tập khí ấy thì mỗi một cử động đều có
thể tổn phước, chuốc họa. Câu nghi vấn đầu tiên của ông chính là lời hủy
báng, chứ tuyệt đối chẳng phải là nghi vấn! [Dùng chữ] “nghi vấn” chính
là chơi chữ để che đậy. So với chuyện nói thẳng thừng là không tin, lỗi
lầm ấy còn lớn hơn nữa! Nếu vẫn cứ giữ thói ấy, chẳng biết sửa đổi ắt sẽ
có ngày bị ma dựa phát cuồng! Thuốc hay đắng miệng, không biết cư sĩ
có chịu uống hay không? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Cát Chí Lượng)
* Tu hành chẳng si ngốc29, quyết khó thể thành tựu! Nhất tâm niệm
Phật chính là chánh niệm Chân Như lớn lao. Khi chuyện chẳng ngờ
trước xảy đến, dẫu là chuyện chẳng thể thoái thác được, hãy nên bình
tâm, hòa khí, suy xét cẩn thận, đấy chính là “xét lời nói, xem vẻ mặt” hết
sức kỹ càng. Tâm gấp rút chính là chướng ngại lớn cho người tu hành.
Buông được cái tâm này xuống thì đương thể sẽ thanh lương.
Trong lúc cõi đời rối loạn này, tuổi ông đã gần năm mươi rồi, nếu
chẳng chịu chết lòng30 niệm Phật, do đọc sách có chỗ không biết bèn
muốn học Giáo. Suy tính kiểu ấy, nếu đem hỏi vị pháp sư khác, chắc [vị
ấy sẽ bảo là] rất tốt. Nếu đem hỏi Quang, [Quang sẽ bảo] đấy chính là
suy tính chẳng tuân giữ bổn phận! Kẻ ngu một chữ không biết kia còn
29 Ở đây không có nghĩa là người ngu si, đần độn mới tu hành được, mà có nghĩa là
hành nhân phải hiểu mình là phàm phu độn căn, không tự kiêu, ngạo nghễ, không
cậy mình thông minh, mà thật thà, chất phác tu hành, không mong ngóng trở thành
bậc thông gia diễn giảng Phật pháp hoạt bát hòng phô tài thế trí biện thông, đến nỗi
không có sự tu tập thật hạnh.
30
Chết lòng niệm Phật (tử tâm niệm Phật): Ý nói chỉ còn một bề chuyên niệm Phật,
cầu vãng sanh, tin sâu, nguyện chắc, không mong ngóng, tìm kiếm quẩn quanh,
không cầu phước báo nhân thiên, không tham học rộng nghe nhiều để biện luận cho
lưu loát, chứ không thực tu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 64
được vãng sanh Tây Phương, nhưng bậc đại thông gia thông Tông thông
Giáo sâu xa vẫn không được hưởng lợi ích ấy! Sao ông lại xem đó là
điều tiếc nuối vậy? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả
lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Ông hai mươi mốt tuổi, biết làm văn, làm thơ, chính là đời trước có
thiện căn, nhưng hãy nên khiêm tốn náu mình, đừng cậy thông minh
khinh người! Học vấn càng rộng rãi, càng cảm thấy không đủ thì sự
thành tựu sau này sẽ khó thể suy lường được! Mười năm trước, pháp sư
Đế Nhàn có một đồ đệ tên Hiển Ấm là người cực thông minh, xuất gia
năm mười bảy, mười tám tuổi, nhưng khí lượng quá nhỏ, không chịu
thua kém một chút nào! Lần đầu tiên giảng Tiểu Tòa31 xong, lễ sư phụ,
sư phụ trọn chẳng chê ông ta giảng không hay, chỉ nói âm thanh quá
nhỏ. Do một câu nói ấy liền ngã bệnh, mà ngài Đế Nhàn là người một
mực làm cho ông ta thường sanh tâm hoan hỷ. Vì thế, [Hiển Ấm] tánh
kiêu ngạo tăng trưởng hằng ngày, hằng tháng.
Sau này, Hiển Ấm qua Nhật Bản học Mật Tông, những bài viết
nhằm hoằng dương Mật Tông của ông ta đều gởi đăng trên tờ lâm san
của Thượng Hải Cư Sĩ Lâm. Ông ta tự đặt mình vào vị trí cao cả, cho
rằng chỉ có ta là cao. Sau đó về nước, đến chùa Quán Tông32 thăm thầy.
Ngài Đế Nhàn nói: “Ông thanh danh rất lớn, tiếc là chưa thật sự dụng
công, hãy nên bế quan ba năm để dụng công thì mới nên”. Ông ta vừa
nghe câu nói ấy như dao cứa tim, ngay bữa ấy liền sanh bệnh. Ngày hôm
sau ôm cơn bệnh đi qua Thượng Hải Cư Sĩ Lâm, được hơn một năm liền
mất.
Ông ta mất không lâu, Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải,
một thành viên của Cư Sĩ Lâm là Châu Thạch Tăng đến thăm, hỏi tình
hình lúc Hiển Ấm mất, [ông Châu] nói: “Hồ đồ! Phật chẳng niệm được,
mà chú cũng chẳng niệm được luôn!” Đấy chính là hạng đại pháp sư
hiển mật viên thông, tự cảm thấy trong đời không có ai sánh bằng, do
không tự lượng, cậy vào huệ căn đời trước, thành ra mới hai mươi hai,
31
Giảng Tiểu Tòa là một hình thức tập giảng. Trong một buổi giảng Tiểu Tòa chỉ có
thầy và các đồng học tham dự hầu rút kinh nghiệm diễn giảng.
32 Chùa Quán Tông thuộc thành phố Ninh Ba, vốn có tên là Thập Lục Quán Đường,
được xây dựng vào thời Nguyên Phong (1078-1085) đời Bắc Tống, vốn là nơi tỳ-
kheo Giới Nhiên tu quán tưởng Niệm Phật, quyên mộ dựng ra chùa này, gồm hơn
mười sáu gian. Ngài Đế Nhàn trụ trì chùa này từ năm 1912, đổi tên chùa thành Quán
Tông, biến thành một đạo tràng chuyên hoằng dương Thiên Thai Tông.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 65
hai mươi ba tuổi đã đoản mạng, chết thành con quỷ hồ đồ, chẳng đáng
buồn quá đỗi ư? Nếu như Hiển Ấm chẳng tự cao, khiêm tốn náu mình thì
e rằng những học giả Trung Quốc chưa chắc trỗi hơn ông ta được!
Quang thương Hiển Ấm do đó mà chết nên lấy chuyện xe trước [bị đổ]
để làm gương cho ông. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Du Hữu Duy)
* Tiên sinh Trần Kiếm Đàm tin nhân quả, tính muốn nêu rõ [nhân
quả], nhưng lại không chịu niệm Phật, ấy chính là tập khí của văn nhân!
Thuở trước, tổ Huệ Viễn do thấy Đào Uyên Minh33 bụng dạ trống rỗng,
khoảng khoát, có thể học đạo, liền mời dự vào Liên Xã. Nhưng ông ta
lấy rượu làm tánh mạng, biết Phật môn cấm rượu, chẳng dám nhận lời
mời, nên nói: “Cho tôi uống rượu thì tôi đến”. Tổ Huệ Viễn tâm đại từ bi
bèn chấp nhận. Ông ta đến niệm Phật được ba ngày, cau mày bỏ đi, do
chỉ có thể buông xuống, chẳng thể đề khởi! Như bọn ông Kỷ Văn Đạt,
Viên Tử Tài34 đều cùng một bệnh. Họ Kỷ, họ Viên khá tin tưởng nhân
quả, thường hay ghi chép sự thật cảm ứng trong Phật pháp, nhưng đều
chưa từng lắng lòng nghiên cứu, nên những lời luận định phần nhiều đều
33 Đào Uyên Minh (365-427), tên thật là Đào Tiềm, Uyên Minh là tên tự. Có thuyết
lại nói ông ta vốn tên thật là Uyên Minh, tên tự là Nguyên Lượng, sau sang đất Tống
bèn đổi tên thành Đào Tiềm. Từ đời Đường, do kỵ húy Đường Cao Tổ (Lý Uyên,
cha Đường Thái Tông) nên Đào Uyên Minh thường bị viết trại thành Đào Thâm
Minh hoặc Đào Tuyền Minh. Ông Đào tự xưng hiệu là Ngũ Liễu Tiên Sinh, vốn là
người xứ Tầm Dương (nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây) là một nhà văn
học lỗi lạc thời Tấn, có rất nhiều bài thơ được truyền tụng trong đời.
34
Kỷ Văn Đạt (1724-1805), tên thật là Kỷ Quân, tự Hiểu Lam, thụy hiệu là Văn Đạt,
người huyện Hiến, tỉnh Hà Bắc, rất thông minh, văn tài lỗi lạc, làm quan đến chức Lễ
Bộ Thượng Thư Hiệp Biện Đại Học Sĩ thời Càn Long, rất được vua hâm mộ. Ông
chính là người làm công tác Tổng Toản Tu (tổng biên tập) bộ Tứ Khố Toàn Thư Hội
Yếu.
Viên Tử Tài (1716-1797), tên thật là Viên Mai, hiệu Tử Tài, bút hiệu Tùy Viên Lão
Nhân, người Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Từng ra làm quan, nhưng do tính tình
phóng khoáng bèn từ quan, trở về sống trong núi Tiểu Thương thuộc Nam Kinh, lập
ra vườn cảnh, đặt tên là Tùy Viên để xướng họa, ăn nhậu, trước tác và nghiên cứu
ẩm thực. Ông làm thơ rất hay, văn chương rất ưu nhã. Ông lại soạn riêng một cuốn
sách ghi chép những món ăn ngon và cách nấu nướng chúng đặt tên là Tùy Viên
Thực Đơn. Cuốn sách này cho đến tận giờ vẫn được coi là một trong những tác phẩm
nổi tiếng về nghệ thuật ẩm thực cổ Trung Quốc. Thậm chí, người Nhật còn cho dịch
ra Nhật ngữ và tái bản nhiều lần. Cũng giống như Kỷ Hiểu Lam, họ Viên rất thông
hiểu và hâm mộ đạo Phật, nhưng do quen thói phóng túng, thích ngâm vịnh, ăn uống,
xướng họa, thù tạc nên rốt cuộc cả hai ông đều không thể nào tu tập được
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 66
là bàn về chuyện thực hành bề ngoài. Ông Viên thoạt đầu báng Phật, về
sau lại tin Phật, tuy tin nhưng chẳng thể nghiên cứu, tu trì, đó gọi là
“thông minh văn tự chướng”. Ông Trần sẽ có ngày thiện căn phát hiện,
chưa chắc đã suốt đời như thế. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư gởi cư sĩ Ngụy Mai Tôn - 10)
* Ở ngân hàng, trong hết thảy mọi lúc, ông phải chú tâm cẩn thận,
đừng học thói ăn nói lớn lối, chẳng tích cực dốc lòng vào mọi chuyện
nhỏ nhặt. Phải biết thái độ ấy là thái độ của kẻ bại hoại, bởi chưa làm
chuyện lớn đã coi thường chuyện nhỏ, tưởng mình tài năng lớn lao, cớ gì
phải ràng buộc bởi chuyện này? Phải biết đấy là mầm mống của phường
hạ lưu dối mình, lừa người!
Phàm người làm việc lớn, quyết chẳng chịu khinh thường chuyện
nhỏ. Phàm ai khinh thường chuyện nhỏ, chắc chắn chẳng thể đảm nhiệm
chuyện lớn. Vì sao biết vậy? Do quân tử hành xử đúng với địa vị. Ông
thuộc địa vị làm chuyện nhỏ, nhưng chẳng chịu trọn hết chức trách và
bổn phận, cho rằng ta cần gì phải dụng tâm nơi chuyện này thì khi được
làm chuyện lớn, kiêu căng, phóng túng, buông lung sẽ dấy lên, ấy là vì
cội rễ chưa lập, do đâu mà cành nhánh tươi tốt, tỏa rộng cho được? Ví
như một người có chút tài mọn, cũng có đôi chút tu trì, trong tâm bèn
cảm thấy ta rất cao minh, tu trì dữ lắm. Do đó, cái tâm ngạo nghễ, ngã
mạn sẽ chiêu khởi những oán gia đối đầu từng bị ta hãm hại trong đời
trước nhập vào thân tâm hiện thời, đến nỗi tài chẳng thành gì, tu chẳng
ra chi! Nếu kẻ ấy khiêm cung, hiếu thuận, do sức tu trì ấy sẽ tiêu diệt
được túc nghiệp, tăng trưởng thiện căn, mai sau lâm chung sẽ vãng sanh
Tây Phương, được lợi ích thật sự là siêu phàm nhập thánh. So với những
kẻ tự lầm lạc ngạo nghễ, lợi - hại nào phải chỉ khác biệt như trời với
vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Châu
Pháp Lợi - 3)
* Ai nấy đều có điều ưa thích; kẻ chuộng danh xuông ắt sẽ chẳng
chú trọng lợi ích thật sự. Bà nội kế của ông tuy có mấy chục năm tu trì
nhưng vẫn là một kẻ phàm tục, đối với việc vãng sanh sợ rằng càng khó
khăn hơn nữa. Nhưng cũng có thể coi điều này như một mũi kim đâm
vào đỉnh đầu người niệm Phật: Cần phải buông xuống hoàn toàn sự ham
chuộng thể diện tốt đẹp thì mới là người thật sự niệm Phật. Quang cũng
chẳng phải là bậc thánh nhân [có đủ] thần thông, chỉ có thể chí thành hồi
hướng cho cụ, chẳng thể làm cho cụ quyết định được vãng sanh!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 67
Bà nội kế của ông hành trì đã quy về thuần nhất, nhưng trong lúc ấy,
nói đến sự lợi ích cầu sanh Tây Phương [thì cụ] vẫn hơi hàm hồ, càng
khó vãng sanh. Do có chút phước tu hành, chắc chắn đời sau bị phước
làm mê, sẽ rộng tạo ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, chắc chắn bị đọa mãi
trong tam đồ ác đạo. Biết sự lợi - hại này rồi, hãy chớ si tâm vọng tưởng,
luyến tiếc trần cảnh thế gian, chẳng nguyện vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Bà là một phụ nữ, do muốn học theo một trường phái văn chương
nào đó, bèn muốn bái một đại văn gia làm thầy ư? Tôi dạy bà một cách
giản tiện nhất: Mỗi ngày bà chí thành niệm Phật và niệm Quán Thế Âm,
cầu Phật, Bồ Tát gia bị cho bà nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng
trưởng. Nếu được như thế thì vừa đọc sách của cổ nhân liền hiểu đạo lý,
hiểu cách viết văn, do vậy chẳng cần phải bái sư học văn nữa! Hết thảy
kinh, hết thảy sách đều là văn chương. Nếu tâm địa mở mang, lo chi
chẳng biết cách viết văn! Tâm địa chẳng mở mang, dù có học cũng
chẳng có thành tựu lớn lao! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư gởi nữ sĩ Hoàng Châu Phước Thuần)
* Nhận được thư, biết lòng Từ khá sâu; vì thế chẳng tiếc nhiều tiền,
hễ thấy [con vật sắp bị giết] liền mua để thả, tôi cảm kích, bội phục cùng
cực. Nếu nói niệm Đa Bảo Như Lai hoặc Thất Như Lai35, hoặc Vãng
Sanh Chú, hoặc Chuẩn Đề Chú, hoặc Đại Bi Chú thì đều được, há nên
tụng chú do người đời soạn ra? Quang chẳng cho như vậy là đúng lắm!
Các hạ đã hiểu sâu xa Phật lý, sao vẫn nghĩ những chú văn [do người đời
soạn ra] ấy là hữu ích, còn những chú do đức Phật nói đâm ra chẳng có
ích gì? Đấy cũng là tập khí trong đời trước tin đạo chẳng chuyên dốc mà
ra. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 7 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển
2, Thư trả lời cư sĩ Dương Điển Thần - 2)
* Chúng sanh tập khí quá sâu, muốn làm cho họ thay đổi thật chẳng
dễ dàng. Cơ duyên niệm Phật của vợ chồng Tử Cần vẫn chưa chín muồi,
35 Đây là danh hiệu của bảy đức Như Lai thường được xướng tụng trong khi thí thực
hoặc cúng dường. Danh hiệu của bảy vị này xuất phát từ Diệm Khẩu Du Già Đà La
Ni Kinh, gồm: Bảo Thắng Như Lai, Đa Bảo Như Lai, Diệu Sắc Thân Như Lai,
Quảng Bác Thân Như Lai, Ly Bố Úy Như Lai, Thế Gian Quảng Đại Oai Đức Tự Tại
Quang Minh Như Lai và A Di Đà Như Lai. Nhưng theo nghi thức phổ biến hiện thời,
danh hiệu của bảy vị Như Lai là Bảo Thắng Như Lai, Đa Bảo Như Lai, Diệu Sắc
Thân Như Lai, Quảng Bác Thân Như Lai, Ly Bố Úy Như Lai, Cam Lộ Vương Như
Lai và A Di Đà Như Lai.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 68
chớ nên miễn cưỡng! Cư sĩ đã lập cách huân tập, chắc dần dần họ sẽ
sanh lòng tin. Một phụ nữ ở Tào Hành Trấn thuộc vùng phụ cận Thượng
Hải mỗi khi niệm Phật liền bị mẹ chồng chửi mắng, ngăn cấm, người
con dâu ấy vẫn chẳng thay đổi. Lâu ngày mẹ chồng cũng niệm Phật,
cũng quy y. Nay thì bà cụ còn tinh tấn hơn con dâu nữa! Xin ông hãy từ
từ, đừng sanh ưu phiền (Hoằng Hóa Nguyệt San, số thứ 8 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 6)
* Con người hiện thời đa số tánh tình có phần mang thói ưa khoe
khoang, lớn lối; [chẳng hạn như] chưa hoằng pháp nhưng trước hết đã
cầu tìm kinh điển chưa được dịch [sang tiếng Hán] ở ngoại quốc; vậy thì
đối với những kinh đã được dịch trong nước, có từng nghiên cứu mỗi
một kinh cho đến tột cùng hay chưa? Huống chi nếu đã nhận hiểu được
một hai nghĩa lý trong kinh Phật sẽ liền có thể thượng hoằng hạ hóa!
Huống nữa, [kinh Phật đã được dịch sang tiếng Hán] dẫu nhiều đến
mấy ngàn quyển vẫn [cho rằng] chẳng đủ dùng, cứ muốn tìm tòi tại các
nước thuộc Ấn Độ ư? Phàm với những kiểu đề xướng như vậy, Quang
đều chẳng cho là đúng! Những ý kiến như vậy đều xuất phát từ thói ham
cao, chuộng xa, thấy khác lạ, nghĩ đi tận đâu đâu, hòng khiến cho mình
được nổi bật lên giữa mọi người; nếu người ta nói sao mình cũng nói hệt
như vậy thì chẳng đáng gọi là kỳ lạ, đâu thể hiện được bản lãnh của ta!
(Hoằng Hóa Nguyệt San, số thứ 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển
1, Thư trả lời cư sĩ Diệp Ngọc Phủ)
* Ông gởi thư đến lời lẽ khá khẩn thiết, nhưng vẫn còn có tập khí
khinh Tăng mạn pháp. Tập khí ấy thật sự chướng ngại cho việc học đạo.
Nếu đích thân đến quy y, [pháp sư truyền giới] thăng tòa [thuyết giới] thì
phải dập đầu chừng hai mươi, ba mươi lượt trở lên; dẫu nói dễ dãi thì
cũng phải dập đầu mấy lượt. Ông gởi thư xin quy y, chỉ nói “chắp tay
khải thỉnh” rồi thôi. Chắp tay vái chào là nghi thức giữ lễ của người đi
đường hỏi thăm đường. Ông muốn quy y Tam Bảo để giúp cho chuyện
liễu sanh thoát tử, lại muốn báo đáp ân đức của hiền thê và độ thoát hết
thảy chúng sanh. Kỳ vọng rất lớn, nhưng lại khuất mình rất ít, hơi mắc
nỗi tệ “nhân quả chẳng phù hợp”!
Xưa kia, hoàng đế Thuận Trị viết thư cho môn nhân của Ngọc Lâm
quốc sư còn dùng [từ ngữ] “pháp đệ Hành Si hòa-nam36” (Hành Si là pháp
danh của Thuận Trị). Đem đây - kia so sánh nhau, chẳng khác biệt như trời
36 Hòa nam (Vandanam) có nghĩa là kính lễ, quy kính.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 69
với đất ư? Quang hoàn toàn chẳng phải vì cầu người khác cung kính mà
nói như vậy. Nếu dựa theo lý tánh thì cố nhiên không có tướng nhân ngã để được, huống chi từ vô thủy đến nay, lần lượt làm cha mẹ, anh em
v.v… của nhau, tương lai đều cùng thành Phật để độ chúng sanh! Do
vậy, nói: “Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư
Phật trong vị lai”, cung kính còn không xuể, sao còn dám trách móc
những thiếu sót của người ta ư? Nhưng duy trì Phật pháp mà không lập
ra nghi lễ nghiêm túc thì không sao khiến cho người khác sanh lòng kính
ngưỡng, tận lực tu trì được! Do vậy, trong Luật [quy định] “hễ thỉnh
pháp mà thiếu nghi thức cung kính thì chẳng nói!”
Ngài Thường Bất Khinh thấy người khác liền lễ bái, người ta dùng
roi, gậy, ngói, đá đánh, ném, vẫn chạy tránh ra xa lễ bái, đấy chính là căn
cứ trực tiếp trên bản thể để gieo chủng tử, chứ không phải là lề lối duy
trì pháp đạo của kẻ phàm phu. Chỉ sợ ông chấp vào danh nghĩa ấy, cho là
cái nhìn của Quang hẹp hòi, nên mới trình bày đại lược cùng ông, đó
cũng là một cách để trừ khử phiền não vậy! Mạn là căn bản phiền não,
học Phật dùng cách này đối trị phiền não hữu ích lắm, cho nên chẳng thể
không bảo cùng ông. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Trần Dật Hiên)
* Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, theo tiếng cứu khổ37.
Nếu gặp phải những hoạn nạn như đao binh, nước, lửa, đói kém, sâu rầy,
châu chấu, ôn dịch, hạn hán, lụt lội, giặc cướp, oan gia, ác thú, rắn độc,
ác quỷ, yêu mị, bệnh tật do oán nghiệp, tiểu nhân hãm hại…. mà có thể
phát tâm sửa lỗi hướng thiện, tự lợi lợi người, chí thành khẩn thiết niệm
Quán Thế Âm, niệm niệm không gián đoạn, chắc chắn sẽ được Ngài từ
bi che chở, chẳng bị nguy hiểm gì. Nếu vẫn giữ tấm lòng chẳng lành,
dẫu có xưng niệm, chẳng qua chỉ tạm gieo căn lành cho vị lai, chẳng
được cảm ứng trong hiện thời. Bởi lẽ Phật, Bồ Tát đều là thành tựu thiện
niệm cho người, trọn chẳng thành tựu ác niệm cho người. Nếu chẳng
phát tâm sửa lỗi hướng thiện, lầm lạc muốn niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát
để mong thành tựu ác sự cho mình thì quyết định không được cảm ứng,
chớ có dấy lên cái tâm điên đảo ấy!
37
Tầm thanh cứu khổ: Quán Thế Âm Bồ Tát quán sát tiếng kêu cầu cứu khổ cứu nạn
của chúng sanh trong mười phương pháp giới bèn tùy thuận cơ nghi hiện thân cứu
độ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 70
Niệm Phật khẩn yếu nhất là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt đẹp. Có sức làm
được thì tích cực làm, chẳng thể làm được thì cũng phải phát thiện tâm
ấy, hoặc khuyên người có sức làm, hoặc thấy người khác làm bèn phát
tâm hoan hỷ, thốt lời khen ngợi thì cũng là thuộc về công đức nơi tâm và
miệng. Nếu chẳng thể tự làm được, thấy người khác làm bèn sanh ganh
ghét, liền thành ra tâm hạnh tiểu nhân gian ác, chắc chắn bị tổn phước,
giảm thọ, chẳng được kết quả tốt lành, hãy nên thống thiết răn dè. Chẳng
được làm chuyện giả dối để được tiếng, buôn danh chuốc dự, tâm hạnh
ấy quả thật bị thiên địa, quỷ thần đều cùng ghét. Nếu có thì phải sửa đổi,
nếu không thì càng thêm cố gắng. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
* Người tu hành tâm chớ nên lệch lạc. Nếu lệch lạc chắc sẽ mắc
bệnh. Thân thể yếu đuối thì hãy nên lắng lòng chánh niệm để tâm thần
chẳng rong ruổi theo bên ngoài, tâm tự quy nhất thì thân cũng dần dần
được yên ổn, khỏe mạnh. Nếu muốn được vãng sanh mà tâm này kết
chặt chẳng cởi gỡ được, chắc sẽ dấy lên ma sự. Mặc cho nghiệp đến - đi,
chính mình tự trấn định. Nếu muốn được [thành tựu] ngay, sẽ như dưa
chưa chín đã hái trước, há còn dùng được nữa hay chăng?
Ông bạn X… nọ thần kinh suy nhược, một là do tham sắc, hai là do
quá mức vọng tưởng muốn làm chuyện sức mình không thể làm được
mà ra. Nếu cởi gỡ được hai điều này, bệnh sẽ tự lành. Nếu không, sau
này bị mất trí phát cuồng cũng chẳng biết chừng! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật )
* Đoạn trừ dâm niệm, sân niệm thật chẳng dễ dàng gì. Nếu chẳng có
sở chứng, quyết chẳng thể rốt ráo thanh tịnh! Như mười hai câu trong
sách Cảm Ứng Thiên: “Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc” (Thấy người
khác đạt được điều gì, giống như chính mình đạt được) v.v… nếu có thể
đối với mỗi chuyện đều có thể xét soi tự tâm, dẫu [tâm] chưa thể thuần
ngay, vẫn có thể thường được như vậy. Nhan Tử (Nhan Uyên) ba tháng
chẳng trái nghịch điều nhân, nhưng vẫn hơi bị gián đoạn, chưa thể hoàn
toàn hòa lẫn thành một khối với lòng nhân được. Mong thành thánh
thành hiền là do con người tự gắng sức. Nếu phóng túng thì sẽ chẳng thể
nào diễn tả được, giống như những kẻ “vì nước vì dân” hiện thời vậy!
Chẳng đáng buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả
lời thư cư sĩ Niệm Phật )
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 71
* Trong cõi đời gần đây, bọn thiếu niên do tình dục quá nặng, nên
buông lung chơi bời, hoặc mê mệt thê thiếp, hoặc do ý chuyên nghĩ đến
điều dâm mà tinh thần ngầm bị tổn thương, hoặc thủ dâm để rò rỉ, phung
phí thứ quý báu nhất. Do vậy, thân yếu, tâm hèn, chưa già đã suy; học
vấn, sự nghiệp đều chẳng thành tựu. Thậm chí con cái sanh ra đều bấy
bớt hoặc khó khôn lớn, thành người được! Mà thọ mạng của chính mình
cũng khó thể dài lâu như trong số mạng đã định, chẳng đáng buồn ư?
(Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ hai - Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả
lời cư sĩ Vĩnh Nghiệp)
3. Bàn về chuyện giữ gìn tấm lòng, lập phẩm đức
* Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng (tức
thầy dạy ta và những vị có đạo đức), từ tâm không giết (nên ăn chay trường, hoặc
ăn chay kỳ. Nếu chưa dứt được ăn mặn thì đừng đích thân giết), tu Thập Thiện
nghiệp (tức là thân chẳng làm chuyện sát sanh, trộm cắp, tà dâm; miệng chẳng nói
dối, thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời ác; tâm chẳng khởi niệm tham dục, nóng giận,
ngu si). Lại còn phải cha nhân từ, con hiếu thuận, anh nhường, em kính,
chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, nghiêm túc tận hết bổn
phận của chính mình. Chẳng cần biết người khác có trọn hết bổn phận
đối với ta hay không, ta phải luôn trọn hết phận ta. Nếu có thể đối với
gia đình và xã hội trọn hết tình nghĩa, tận hết bổn phận thì gọi là “thiện
nhân”. Thiện nhân niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chắc chắn khi lâm
chung liền được vãng sanh bởi tâm hợp với Phật, nên cảm được Phật từ
tiếp dẫn. Nếu tuy thường niệm Phật, nhưng tâm chẳng nương theo đạo,
hoặc đối với cha mẹ, anh em, thê thiếp, con cái, bạn bè, xóm làng chẳng
thể tận hết bổn phận thì tâm đã trái nghịch Phật, khó thể vãng sanh! Do
tự tâm phát sanh chướng ngại, Phật cũng không có cách nào rủ lòng từ
tiếp dẫn được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư
gởi khắp)
* Người học Phật nên giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành, làm
chuyện tốt lành. “Giữ tấm lòng tốt lành” là phàm những ác niệm nghịch
trời trái lý, tổn người lợi mình v.v... đều chẳng cho khởi lên. Nếu khởi
lên bèn lập tức sanh lòng hổ thẹn, sám hối khiến cho nó tiêu diệt ngay.
Phàm những tâm hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, lợi người, lợi vật
đều thường gìn giữ, hễ có sức làm được bèn sốt sắng làm. Chẳng thể làm
thì tâm cũng thường nghĩ đến điều ấy. “Nói lời tốt lành” là phải nói
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 72
những lời có ích cho người, hữu ích cho vật; chứ không phải là muốn
cho người khác nghe xong vui sướng mà gọi là lời tốt lành! Như giáo
huấn con cái và khuyên người làm lành, khuyên người kiêng ác, khuyên
người giữ vẹn luân thường, khuyên người tu phước v.v… “Làm việc tốt
lành” là tích cực làm những chuyện hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính anh,
hòa thuận với họ hàng, sửa đổi phong tục [cho tốt đẹp hơn]. Phàm tụng
kinh, lễ Phật, niệm Phật, bái sám, các Phật sự đều phải [thực hiện bằng]
thân tâm cung kính! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
răn nhắc những người mới phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Học thánh, học Phật đều lấy “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành” làm gốc. Lại còn phải giữ phận khiêm nhường, ẩn giấu tài
năng, noi theo cổ nhân, tận tụy dõi theo đường lối thực tiễn. Làm được
như vậy thì học vấn lẫn phẩm hạnh đều vượt trỗi những kẻ tầm thường.
Thông thường những kẻ thông minh đều kiêu căng, khoe khoang, phô
tài, chua ngoa, khắc bạc, tâm hoàn toàn thiếu sự hàm dưỡng; kẻ ấy nếu
không suốt đời trắc trở, ắt sẽ chết yểu lúc trẻ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Từ Thư Dung)
* Tám chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chính là quy củ,
mực thước để làm người. Nếu ai chẳng tận sức nơi tám chữ ấy chính là
đã mất đi tám chữ. Tám chữ đã mất thì là loài cầm thú đội mũ mặc áo!
Người tuổi còn trẻ thì cái khó chế ngự nhất là tình dục. Thế đạo hiện thời
chuyên lấy việc hướng dẫn khêu gợi dâm dục làm mục đích. Các con tuy
có âm đức của tổ tiên, chẳng đến nỗi sa đà lắm, nhưng cần phải dè dặt tự
giữ gìn mới hòng chẳng thẹn với cha ông. Nếu chẳng dốc sức tạo lập
phẩm hạnh, bị dâm dục khống chế, sau này quyết định chẳng có thành
tựu, hoặc đến nỗi đoản mạng mà chết. Nay ta gởi cho các con hai bộ
Lịch Sử Thống Kỷ – đây là những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng
trích từ hai mươi bốn bộ sử ra, hai cuốn Gia Ngôn Lục – đây chính là
đạo trọng yếu để học Phật, là quy củ thường hằng để tu thân, hãy nên
đọc kỹ!
Câu “nam-mô A Di Đà Phật” như đã nói chính là diệu pháp để tiêu
nghiệp chướng, chuyển phàm thành thánh, nếu có thể thường niệm thì
tâm địa tự nhiên mở mang, thông suốt, tri kiến tự trở về chánh lý, học
hành, làm việc đều có lợi ích lớn. Huống hồ nay đang lúc thế đạo hoạn
nạn, niệm Phật sẽ có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn trở thành chuyện may,
lợi ích chẳng thể nói trọn hết, các con hãy nên hành theo Gia Ngôn Lục.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 73
Đọc Thọ Khang Bảo Giám, Thanh Niên Bảo Thân v.v… thì chẳng đến
nỗi buông lung theo tình dục hoặc thủ dâm. Thiếu niên hiện thời quá nửa
mắc chứng thủ dâm. Đấy thật sự là một con dao thật sắc giết hại cái thân
vậy, hãy nên đau đáu răn dè!
Anh các con là Đức Tấn mong mỏi các con sẽ do Phật pháp mà giữ
vẹn hạnh nhà Nho, đã sớm xin Quang viết thư khuyên lơn các con.
Quang sợ các con bị nhiễm theo trào lưu thời thượng, trái nghịch với
Phật, uổng phí tâm ta, vô ích cho các con, nên không viết thư ngay. Nay
các con đã biết tấm lòng sâu đậm của anh mình, gởi thư xin dạy dỗ, nên
ta chỉ nói những điều khẩn yếu. Những điều khác hãy tự mình chịu tận
lực thực hiện, lâu ngày sẽ chẳng khó gì mà dần dần biết được! Phải biết
con người và trời đất cùng xưng là Tam Tài. Trời đất cao dầy ai có thể
biết được; con người với tấm thân sáu thước sao lại có thể cùng trời cao
đất dầy khôn lường cùng xưng [là Tam Tài] cho được? Ấy là vì con
người có thể kế tục bậc thánh đời xưa, mở lối cho hàng hậu học đời sau,
dự phần vào cuộc sanh thành, dưỡng dục của trời đất vậy.
Con người không thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt
lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành thì
đã mất cái danh nghĩa con người, huống hồ kẻ chuyên ôm lòng mưu
mẹo, dối trá, ỷ mạnh nuốt yếu ư? Người như thế còn thua kém sài lang,
hổ, báo, rắn độc, rết dữ nữa, còn có thể gọi là người được ư? Thường
nghĩ đến lời ta đừng quên thì sẽ dần dần tự có thể dự vào bậc thánh,
hưởng được phước nhân từ, sống thọ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Ninh Đức Hằng và Ninh Đức Phục)
* Những người cùng một sắc áo với tôi hãy thường nghĩ “ta là đệ tử
Phật phải nên hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật, giáo hóa chúng
sanh để làm cầu bến cho cõi đời, báo ân đức của Phật”. Nếu chính mình
vẫn chẳng tự gắng sức thì hóa ra đã tạo căn cứ cho những kẻ đuổi Tăng
chiếm đoạt tài sản [biện minh cho hành động của chúng], bị kẻ tại gia
chuyên ròng tu hành coi thường, há chẳng phải là tự mình chuốc lấy nỗi
lo hay sao? Con người ai mà không mong được người khác tung hô, nếu
chẳng gắng sức tu trì thì chính là tự chuốc lấy sự chán ghét.
Phật pháp chẳng thể bị bại hoại bởi thiên ma, ngoại đạo, mà chỉ bị
bại hoại bởi tăng sĩ không tuân phụng giáo pháp và giới luật của đức
Phật! Ví như trùng trên thân sư tử tự ăn thịt sư tử. Chỉ vì thánh mất niệm
thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh, con người ai
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 74
cũng có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng có thể thành Phật, điều đáng quý
là tự gắng sức vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời thông
cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng
các tự viện)
4. Chỉ dạy quy củ thơm thảo trong chốn Thường Trụ
* Linh Nham38 là đạo tràng cổ đã một ngàn một trăm năm, sau cơn
biến loạn trở thành chốn hoang tàn. Tuy còn một ít kiến trúc, nhưng
không có người chống đỡ, vẫn suy tàn như cũ. May là vào cuối thời
Quang Tự, vị đại hộ pháp họ Nghiêm nghe tiếng thầy Chân39 bèn nghênh
thỉnh; ấy là vì mong Sư sẽ khôi phục đạo tràng vậy. Thầy Chân tuy tiếp
nhận, hiềm rằng các sự ràng buộc, chẳng thể đích thân trụ trì. Năm
ngoái, Giới pháp sư40 đến đây, Sư mừng tìm được người bèn giãi bày
mọi lẽ, đích thân đưa lên núi để làm Trụ Trì. Lại còn thỉnh vời quan
viên, thân sĩ, lên tiếng minh xác biến chùa này thành chốn thập phương
thường trụ. Thầy Giới phẩm đức, học nghiệp, tiếng tăm đều xuất sắc,
38 Chùa Linh Nham tên gọi đầy đủ là Linh Nham Sơn Tự, thuộc Ngô Huyện, Tô
Châu. Khởi đầu từ Tư Không Lục Ngoạn biến nhà riêng thành chùa, nhưng rất nhỏ.
Đến niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời Lương Vũ Đế, chùa mới được mở rộng và
mang tên là Tú Phong Tự. Theo kinh Đại Ai (ngài Trúc Pháp Hộ dịch), đây chính là
đạo tràng ứng hóa của Trí Tích Bồ Tát. Vào thời Thiên Bảo (742-755) đời Đường
Huyền Tông, tổ trung hưng tông Thiên Thai là ngài Đạo Tuân từng tu Pháp Hoa tammuội tại chùa này. Đầu đời Tống, chùa trở thành học viện giới luật của Luật Tông.
Vào thời Nguyên Phong (1078-1085), chùa trở thành thiền viện. Chùa bị cháy rụi chỉ
còn sót lại một cái tháp đá vào năm Vạn Lịch 18 (1600) đời Minh Thần Tông. Sau
khi được trùng tu, chùa lại bị loạn quân Thái Bình Thiên Quốc đốt phá một lần nữa.
Mãi đến năm Tuyên Thống thứ ba (1911), hòa thượng Chân Đạt mới đứng ra dựng
lại chùa như hiện nay.
39
Thầy Chân (Chân sư) ở đây chính là hòa thượng Chân Đạt, vị trụ trì có công đứng
ra trùng tu Linh Nham vào năm Tuyên Thống thứ ba (1911).
40 Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là người xứ Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ Khưu, tự
là Địch Ngô, xuất gia năm mười chín tuổi, chuyên tu khổ hạnh, sống trong núi
Chung Nam, toàn tâm toàn ý tu Thiền. Sau Sư chuyên tu niệm Phật. Dưới thời
Quang Tự, Sư vào núi Kê Túc ở Vân Nam chuyên tu pháp Ban Châu Niệm Phật.
Năm Dân Quốc thứ ba (1914), Sư đến mở Hoa Nghiêm Đại Học tại Hàng Châu. Về
sau, Sư bế quan tại chùa Phật Thản ở Thường Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp. Năm Dân
Quốc thứ chín (1920), cùng với các vị Liễu Trần, Từ Châu v.v… lập Hoa Nghiêm
Đại Học tại chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm nhiệm Trụ Trì chùa Linh
Nham một thời gian. Sư thị tịch vào năm Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở
Côn Minh, thọ 71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước tác gồm Hoa Nghiêm Nhất Trích,
Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu Hội Đồ, Liên Xã Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ v.v…
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 75
thật đáng làm khuôn phép cho hàng hậu học. Nay thầy đã đáp ứng lời
thỉnh cầu [thuyết giảng một thời gian tại] Ngu Sơn, ông hãy nên hết sức
gắng công thay thầy Giới lãnh chúng tu trì, chớ nên lẩn tránh, lười nhác,
mong được an nhàn.
Phàm những ai đến núi này ở lại đều là người phát tâm tu đạo, ai nấy
đều phải tích cực dụng công, khuyến khích, cổ vũ lẫn nhau, hòng được
sự lợi ích “lệ trạch”41, chẳng được rong chơi, chuyện gẫu, cũng như
chẳng tuân theo quy củ nhà chùa, tự làm theo ý mình. Chùa này đã là
chùa thập phương, con cháu của Tam Thánh Đường42 sống ở đây cũng
phải tu chung với đại chúng, đều cùng hưởng nhọc nhằn hay nhàn nhã,
đều đồng cam cộng khổ. Nếu không, sẽ trở thành kẻ quấy loạn Thường
Trụ, khinh dối thầy Chân. Đã là đồ đệ của thầy Chân thì hãy nên vô cùng
đúng pháp để khỏi đến nỗi vì chính mình chẳng đúng pháp mà khiến cho
người ta nói động đến thầy Chân. Nay dạy giản lược đại khái để làm căn
cứ hòng duy trì tiền đồ vậy:
1) Thời thế bất ổn, chỉ nên nhất tâm tu đạo, chớ nên vọng động tính
xây dựng. Nếu bất đắc dĩ thì chỉ nên xây dựng thêm nho nhỏ, cốt vừa đủ
dùng là được, chớ nên xây cất nhiều, mong cho thật rộng lớn. Không
những vì tài lực không đủ mà còn là để khỏi vì lẽ đó mà bị chuốc họa!
2) Đường đời gian nan, cơm áo ai nấy đều nên tiết kiệm. Chi phí
cho Thường Trụ phải dựa theo thâu nhập mà chi tiêu. Nếu chẳng tiết
kiệm, sau này khó duy trì được. Tất cả các khoản thâu vào, chi ra đều
phải phân minh, chớ nên mua sắm những vật phù phiếm, xa hoa: Một là
phí tiền, hai là chuốc lấy tiếng chê bai. Phải dành dụm chỗ dư ra để bù
đắp chỗ thiếu hụt [sau này], chẳng được nói: “Có thầy Chân tiếp tế, cứ
mặc tình tiêu xài phù phiếm”.
3) Khóa tụng hằng ngày nơi Phật đường nên y theo quy củ đã định
hiện thời, tu trì thiết thực, nhưng chớ nên một mực chuyên chú dụng
công nơi sự tướng, mà hãy nên tâm tâm niệm niệm đối trị những căn
bệnh tập khí của chính mình. Làm được như thế thì mới thật sự là người
niệm Phật. Nếu không, sẽ như bọt nước vỗ vào tảng đá, hoàn toàn chẳng
41 Kinh Dịch có câu “Lệ Trạch Đoài, quân tử dữ bằng hữu giảng tập” (Lệ Trạch
Đoài: quân tử cùng bè bạn nghiên cứu, tu tập) nên chữ “lệ trạch” thường dùng để chỉ
bạn bè thân thiết, tốt lành cùng nhau học hỏi, nghiên cứu.
42 Tam Thánh Đường tức Tây Phương Tam Thánh Đường, chỉ Niệm Phật Đường.
“Con cháu Tam Thánh Đường” là những vị Tăng chuyên tu Tịnh nghiệp.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 76
có tâm đắc chi! Chỉ nên căn cứ theo quy củ Tịnh Độ thông thường, chớ
có bày vẽ kiểu cách hoa dạng nào khác. Nếu có kẻ muốn lập dị, như đốt
ngón tay, [dùng thân] đốt đèn, hãy thỉnh người đó đến chùa A Dục
Vương43 mà làm, núi này vĩnh viễn chẳng bày ra thói ấy.
4) Giới pháp sư đã nhận lời giảng dạy một thời gian ở Ngu Sơn, sợ
rằng khó thể trở về ngay được, nhưng danh vị Trụ Trì vẫn thuộc về thầy
Giới, chuyện lãnh chúng tu trì ông tạm thay thế. Phải nên hết sức siêng
năng, cẩn thận, khiêm cung, chẳng nên tự đại, tự cao. Ông là vãn bối,
thay thầy ấy trông nom mọi việc, chẳng được nói năng dường như [chính
mình là] vị Trụ Trì để đại chúng khâm phục tấm lòng rỗng rang của ông,
đạo tâm càng thêm chân thành, thiết tha.
5) Phàm xử sự tiếp vật hãy nên khiêm hòa công bình, chẳng được
cố chấp ý kiến của chính mình, mạt sát chánh lý. Cần nhất là mọi người
khích lệ, khuyên lơn lẫn nhau tu ròng Tịnh nghiệp. Thường giảm lỗi
mình, đừng bàn lỗi người, cực lực đối trị căn bệnh tập khí. Tập khí khử
được một phần thì đạo nghiệp mới tăng được một phần. Chẳng được
kiêu ngạo, luông tuồng, hãy chú ý giữ cho đúng chừng mực. Nói chung,
phải chịu thương, chịu khó, an bần, thủ phận.
6) Chùa này là chùa thập phương, dù ông mang vật gì đến cũng
thuộc về thập phương, nên giữ tinh thần chí công vô tư. Phàm con cháu
của Tam Thánh Đường trụ trong núi này cũng phải đả phá tình cảm
riêng, đặt mình vào địa vị của mười phương Tăng chúng, chẳng được tự
tiện cậy vào ý riêng để được hưởng sự ưu đãi, mặc sức phóng túng, hủy
hoại quy củ đã thành lập. Nếu không, sẽ trở thành tội nhân trong Phật
43 Chùa A Dục Vương ở trên núi A Dục Vương thuộc huyện Cận tỉnh Chiết Giang.
Theo truyền thuyết, vào năm Thái Khang thứ hai (281) đời Tấn Vũ Đế, có người tên
là Lưu Tát Ha xứ Tinh Châu bị hôn mê trên núi, mộng thấy một vị tăng người Ấn
Độ, cho biết tội ông ta sẽ đọa địa ngục, rồi khuyên ông ta nên đến đảnh lễ tháp của A
Dục Vương (tháp thờ xá-lợi đức Phật do vua A Dục kiến tạo, sai quỷ thần đem chôn
trong các nơi khắp Nam Thiệm Bộ Châu, khi nào Phật giáo hưng thạnh nơi ấy, tháp
sẽ tự động trồi lên) để sám hối các tội. Ông này thức dậy bèn xuất gia, đổi tên là Huệ
Đạt. Sư đi tìm tháp khắp nơi, nhưng không thấy, đau lòng than khóc. Một đêm, bỗng
nghe dưới đất có tiếng chuông vẳng lên. Ba hôm sau, bảo tháp và xá-lợi từ dưới đất
cùng vọt lên. Huệ Đạt bèn dựng chùa miếu phụng thờ tháp. Đó là căn nguyên của
chùa A Dục Vương. Những người phỏng theo phẩm Dược Vương Bổn Sự trong kinh
Pháp Hoa thường đến trước tháp xá-lợi lễ bái đốt ngón tay hay đốt cánh tay để cúng
dường.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 77
pháp, là oan gia của thầy Chân, hãy cho kẻ đó ra đi để khỏi bị người
khác chê cười.
Thời sự gian nan, tiền đồ đáng lo, nếu chẳng có cách tốt đẹp thì sao
trở thành đạo tràng cho được? Chỉ sợ ông có lẽ chưa nghĩ tới, cho nên tôi
mới dài dòng một phen. Lúc đầu vốn muốn nói chung chung, sau lại
muốn cho rõ ràng, dễ xem, nên chia thành sáu điều, chẳng qua nhằm
biểu thị tấm lòng ngu thành của Quang nhằm bảo vệ đạo tràng Linh
Nham, xin chớ vì “vượt chén thay thớt”44 mà chê cười thì Linh Nham
may mắn lắm, mà thầy Chân cũng may mắn lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi thầy Minh Bổn)
* Đính kèm quy ước của chùa Linh Nham
1. Trụ Trì bất luận thuộc tông phái nào, chỉ lấy “tin sâu pháp môn
Tịnh Độ, giới hạnh tinh nghiêm” làm chuẩn. Chỉ truyền hiền, chẳng
truyền pháp45 để dứt thói tệ pháp quyến riêng tư.
2. Truyền thừa Trụ Trì luận theo thứ tự, chẳng luận theo thế hệ, để
tránh thói tệ bậc cao đức phải ở dưới kẻ đức hạnh tầm thường.
3. Không truyền giới, không giảng kinh, để khỏi bị chèo kéo, dao
động, nhiễu loạn chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng,
nhưng chẳng thăng tòa và níu kéo người ngoài đến nghe.
4. Chuyên nhất niệm Phật, trừ đả Phật thất ra, nhất loạt không làm
hết thảy Phật sự thù tiếp.
5. Bất luận là ai chẳng được thâu nhận, thế độ đồ đệ trong chùa.
Trong năm điều hễ trái một điều nào, lập tức ra khỏi chùa. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo
tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự)
44
“Việt tôn đại trở” (Vượt chén rượu, thay đổi thớt) là một thành ngữ, thường dùng
dưới dạng thông dụng hơn là “việt bào đại trở” (vượt quyền đầu bếp mà thay cái
thớt). Tổ dùng thành ngữ này với ý tự khiêm, đối với Linh Nham, Ngài chỉ là một vị
trưởng lão danh dự, không phải là Đương Gia hay Trụ Trì, không có tư cách gì lên
mặt chỉ dạy vị quyền Trụ Trì là thầy Minh Bổn. Ngài khuyên dạy những lời này thì
cũng giống như kẻ tự tiện vượt quyền, dạy dỗ người khác, cắt đặt quy củ theo ý
mình, nên mới nói là “việt tôn đại trở”.
45 Ý nói: Chỉ truyền ngôi Trụ Trì theo đức hạnh của người đáng làm Trụ Trì, chứ
không vì người ấy thuộc cùng sơn môn hay là pháp quyến mà truyền ngôi Trụ Trì.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 78
5. Khuyến khích hành nhân hãy nỗ lực
* Con người đức hạnh sung mãn, lập được sự nghiệp, đầu mối là do
lúc thiếu niên có lập được chí hay không? Ông sanh trưởng trong nhà
giàu có, hãy nên hết lòng bỏ sạch tập khí phú quý thì mới có phần học
đạo liễu sanh tử. Nếu không, thanh, sắc, của cải, bạn bè ăn nhậu, tà vạy
thừa cơ chen vào. Tuy mong thành thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ,
nhưng chẳng thể được! Muốn học Phật pháp, trước hết phải tận hết chức
trách, bổn phận của chính mình. [Nếu] không thể giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành, dù có học Phật pháp cũng khó đạt được lợi ích
lớn lao, bởi tâm địa chưa được lương thiện vậy! Nếu làm được [những
điều] như vừa nói trên đây thì gọi là “thiện nhân”. Như nền tảng kiên cố,
lầu cao vạn trượng mặc lòng xây cất, chắc chắn chẳng bị sụp đổ. Chúng
sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, toan dùng tự lực để ngộ hiểu tâm tánh,
đoạn sạch Phiền Hoặc, hòng liễu sanh tử, ngàn người chưa được một!
Hãy nên y theo pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương, cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đấy là pháp môn
“vạn người tu, vạn người đến” thẳng chóng, ổn thỏa, thích đáng nhất!
Trước hết, phải thấu hiểu nguồn cội của pháp môn này, tâm hiểu cho
rõ ràng. Nếu thừa sức, sẽ lại nghiên cứu hết thảy kinh luận, các pháp
môn đều có thể giúp cho pháp môn này. Nếu chưa hiểu rõ nguyên do của
pháp môn này, lại tùy ý nghiên cứu các kinh luận khác và thân cận tri
thức các tông để trở thành bậc đại thông gia và gieo thiện căn cho đời vị
lai thì quả thật là có như thế, nhưng muốn liễu sanh thoát tử ngay trong
đời này, sợ rằng có mộng cũng mộng chẳng được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ La Thế Phương)
* Hiện thời, vận đời nguy ngập, nếu có thể chí thành niệm Phật, chắc
chắn sẽ gặp dữ hóa lành. Nếu không, họa hại trong hiện thời khác hẳn
khi trước, đúng là [muốn] tránh né nhưng không thể nào tránh né được,
[muốn] ngăn ngừa nhưng không thể nào phòng ngừa được, cuộc sống
người dân lúc này đáng thương đến cùng cực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Đàm Thiếu Phủ)
* Kinh Phạm Võng chép: “Ngươi là Phật sẽ thành, ta là Phật đã
thành, thường tin được như vậy thì giới phẩm đã đầy đủ”. Kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh sẵn đủ trí huệ, đức tướng của Như
Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 79
vọng tưởng, [chấp trước] thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí
đều được hiện tiền”. Do vậy biết tâm tánh chúng sanh và tâm Phật vốn
đồng, ba pháp “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt, chỉ vì mê hay ngộ
mà phân biệt vậy!
Hiềm rằng khi chúng sanh còn mê chưa giác, dẫu sẵn đủ Phật tánh
viên mãn rộng lớn theo chiều dọc cùng tột ba đời, theo chiều ngang trọn
khắp mười phương, nhưng tánh ấy hoàn toàn bị vùi lấp trong trần lao,
ngược ngạo nương theo sức công đức của Phật tánh ấy để khởi Hoặc tạo
nghiệp, hủy báng Tam Bảo, tự hại, hại người. Thật giống như giòng suối
chảy ngầm dưới đất, hoàn toàn chẳng hay biết, ắt phải đợi thời tiết nhân
duyên khơi mở mới dần dần tỏ lộ được.
Vì thế, xưa nay nhiều bậc vĩ nhân có quyền lực thuở bé mê muội,
chuyên lo hủy báng Phật pháp, đến khi sự lịch duyệt đã dần dần sâu hơn,
gặp cảnh, chạm duyên, đột nhiên giác ngộ, bèn quy y Tam Bảo, tận lực
phụng hành cũng chẳng thể kể xiết! Đủ chứng tỏ Phật pháp rộng lớn,
quả thật là tâm pháp vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh vậy. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời bạt ấn tống Tịnh Độ Ngũ Kinh)
* Ông có thời gian rộng rãi, sức lực mạnh mẽ, hãy nên nỗ lực nghiên
cứu, tu trì pháp Tịnh Độ. Đây chính là đại pháp để phàm phu liễu sanh tử
ngay trong đời này. Pháp này nếu không có túc căn thì đừng nói là người
tầm thường không thể thấu hiểu triệt để, ngay cả bậc cao nhân lỗi lạc
triệt ngộ tự tâm thâm nhập kinh tạng cũng quá nửa là không thể thấu
hiểu triệt để được! Do họ chẳng biết đây là pháp môn đặc biệt trong Phật
pháp, luôn chiếu theo nghĩa lý của các pháp môn thông thường nên
chẳng chịu tin. Hoặc là có người tin, nhưng sợ chuyên hoằng dương
Tịnh Độ, người ta sẽ coi thường mình, vì thế chẳng chịu đề xướng.
Phải biết: Tu bất luận pháp môn nào, nếu Phiền Hoặc chưa đoạn,
chắc chắn không có phần liễu được sanh tử. Chỉ có một pháp này, chỉ
cần đầy đủ tín nguyện liền có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây
Phương. Ông chớ nên coi qua loa, mà phải đọc kỹ nghĩ chín mới biết lời
Quang không lầm! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Du Hữu Duy)
* Cổ nhân nói: “Bậc quân tử tận lực thực hành thì được một câu nói
tốt lành sẽ thọ dụng suốt đời không hết. Nếu chẳng chăm chú tận tụy
thực hành, dẫu đọc hết sách vở thế gian, đối với chính mình vẫn vô ích!”
Như rồng thật hễ được một giọt nước liền có thể làm mưa khắp cả thế
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 80
giới; rồng đất dẫu ngâm trong nước cũng chẳng khỏi cái họa táng thân!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ X...)
* Hiện tượng Hoàng Hậu Giác khá có lợi ích lớn lao cho người học
Phật. Bất luận là rốt cuộc ông ta vãng sanh hay đọa lạc, thôi đừng bàn
đến! Nếu người niệm Phật biết được hiện tượng khi lâm chung của ông
ta chắc chắn chẳng dám theo đuổi pháp liễu sanh tử một cách hời hợt
nữa! Xem hành vi, cử chỉ của ông ta dường như rất chí thành, nhưng coi
những cảnh tượng được biểu hiện khi ông ta lâm chung thì trong lúc
thường nhật, ông ta chưa hề nỗ lực dụng công nơi tâm địa, cũng như có
lẽ trước kia ông ta có những nghiệp như keo tiếc tiền của khiến cho
người khác bị mất mạng, hoặc keo tiếc lời nói khiến cho người khác táng
mạng v.v…mà thành ra như vậy (“Keo tiếc lời nói khiến cho người khác mất
mạng” là như ta biết chỗ có giặc cướp và biết chỗ có thể trốn tránh được, nhưng vì
tâm không từ bi, thích thấy người khác mắc họa cho nên chẳng chịu nói. Chuyện ấy,
tâm ấy khiến cho thiên địa quỷ thần rất phẫn nộ. Do vậy, lúc lâm chung chẳng nói
được, cũng như có chuyện như ghét nghe tiếng niệm Phật v.v…) Hiện ra tình
cảnh không chết trong khi ấy (tức không chết trong khi đang có người
niệm Phật để trợ niệm) và khi người trợ niệm đi rồi thì không lâu sau
liền chết; điều này hoàn toàn tương đồng với chuyện keo kiệt tiền của,
keo kiệt lời nói khiến cho người khác bị tổn mạng. Tuy không đọa làm
ngạ quỷ, nhưng tánh khí ấy là tánh khí của ngạ quỷ.
Có người nói ông ta được vãng sanh là nhờ vào chú lực của ông
Dịch Tử Tuấn. Chú lực cố nhiên chẳng thể nghĩ bàn, nhưng với người
nghiệp lực nặng nề thì cũng chẳng dễ gì được hưởng lợi ích! Do vậy,
nếu biết [chắc chắn ông ta] đã được vãng sanh Tây Phương thì may ra
mới có chuyện đó. Đã không có chứng cớ, chớ nên đoán mò. Có người
nói: [Ông ta] đã đọa vào ngạ quỷ đạo; căn cứ vào những gì đã nói và
những biểu hiện thì tựa hồ [lời đoán ấy] có căn cứ. Nhưng không chừng
do ông ta trong tâm sám hối, hoặc do mọi người và con cái thành khẩn
nên được giảm nhẹ, chẳng đến nỗi đọa thẳng vào ngạ quỷ.
Phương kế hiện thời là con cái và các quyến thuộc ai nấy đều hãy
nghĩ đến nỗi khổ của ông ta, cùng phát tâm tự lợi, lợi tha niệm Phật cho
ông ta, cầu Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn vãng sanh. Nếu thật sự thành khẩn
thì [ông ta được] vãng sanh là điều có thể dự đoán được. Do cha con có
mối tương quan tự nhiên, tâm Phật hễ cảm bèn ứng. Nếu quyến thuộc
thực hiện hờ hững, lơ là thì khó thể tiêu nghiệp chướng để được Phật
tiếp dẫn vậy! Ngàn cân treo sợi tóc, quan hệ cực nặng!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 81
Phàm là người niệm Phật ai nấy hãy chuyên chú thật sự đối trị tập
khí của chính mình, tạo thuận tiện cho người khác. Chuyện gì nên nói,
dù người ta có thù với mình cũng phải nói, khiến cho người ta hướng
lành, lánh dữ, lìa khổ được vui. Thường luôn nói thẳng thắn, rành rọt với
người khác những chuyện nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi và đạo
niệm Phật liễu sanh thoát tử, dạy dỗ con cái nhằm lập nền tảng thái bình,
tâm như sợi dây đàn thẳng tắp, lời nói chẳng lấp lửng, tâm niệm có thể
phô bày thẳng thắn cùng quỷ thần, quyết chẳng làm chuyện trái nghịch
thiên lý thì quyết chẳng có hiện tượng đáng thương ấy!
Như vậy thì Hoàng Hậu Giác chính là tiếp dẫn đạo sư của mọi
người; nhờ ông ta mọi người sẽ đạt được lợi ích lớn lao trong tương lai.
Ông ta cũng sẽ nhờ vào tâm lực của mọi người mà diệt tội, vãng sanh.
Lời Quang nói đây chẳng phải là lời nói huề vốn46 mà chính là lời bàn
luận quyết định chẳng khi dối vậy. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Đức Quán)
* Phàm là người tu hành tâm phải có chủ ý, thấy cảnh giới tốt chẳng
sanh hoan hỷ, thấy cảnh giới không tốt chẳng sanh sợ hãi. Được như thế
thì các cảnh giới đã hiện đều trở thành duyên trợ đạo. Nếu không, chúng
đều trở thành duyên chướng đạo. Thêm nữa, phàm là người tu hành đều
nên lấy chí thành cung kính làm gốc, giữ lòng từ bi, khiêm tốn. Lòng
nghĩ, thân làm tuy chẳng thể hoàn toàn tương ứng với Phật, nhưng cần
phải nỗ lực gắng công ngõ hầu chẳng trái nghịch tâm hạnh của Phật, thì
mới đáng gọi là người tu hành thật sự, là đệ tử Phật thật sự. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Phật Điển)
* Phật là giác; tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì mới gọi là
Phật, tức là hết sạch Phiền Hoặc, phước huệ trọn đủ, Ngũ Uẩn đều
không, chứng triệt để ba đức47, là danh hiệu cao đẹp của bậc “thánh
trong các thánh, trời trong chư thiên”, là danh hiệu chung của mười
phương ba đời hết thảy chư Phật.
Thích Ca Mâu Ni chính là tên riêng của đấng giáo chủ cõi Sa Bà.
Tiếng Phạn “Thích Ca Mâu Ni” cõi này dịch là Năng Nhân Tịch Mặc.
Năng Nhân (能 仁) nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc (寂 默) là
46 Nguyên văn là “thủ thử lưỡng phụ” là một thành ngữ hàm nghĩa do dự, không
quyết định, đón gió xuôi chiều, nói cách nào cũng được. Chúng tôi tạm dịch là “nói
huề vốn”.
47 Tam đức: ba đức tánh của chân tâm, tức giải thoát, Niết Bàn và Bát Nhã.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 82
chứng triệt để tự tánh. “Học” là bắt chước theo, tức là tùy phần, tùy sức
tu hành theo lời dạy. Đã tu hành theo lời dạy, sao lại nói “tùy phần, tùy
sức”? Là vì đức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Do
căn tánh chẳng chỉ có một nên tùy theo sự hiểu biết, khả năng của họ mà
nói pháp thích hợp. Tùy theo căn cơ ban bố giáo pháp, đối bệnh cho
thuốc, sao cho giáo pháp phù hợp căn cơ, khiến cho ai nấy đều được lợi
ích. Dạy chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử quy y Tam Bảo
Phật - Pháp - Tăng để làm chỗ nương tựa, dạy họ giữ năm giới “chẳng
sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống
rượu”, dạy họ tu Thập Thiện, đối với ba điều nơi thân, bốn điều nơi
miệng, ba điều nơi ý đều dạy dứt ác làm lành. Tức là thân chẳng làm
chuyện giết - trộm - dâm, miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi
chiều, nói ác độc, ý chẳng khởi ý niệm tham dục, nóng giận, ngu si.
“Ngu si” nghĩa là không tin nhân quả, nói ra những lời tà kiến như “làm
lành làm ác chẳng có báo ứng, con người chết đi thần hồn diệt mất,
không có đời sau” v.v…
Lại còn gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính,
chồng hòa, vợ thuận, khuyên bạn bè hướng thiện sửa lỗi, chủ giữ lòng
nhân, tớ giữ lòng trung, mỗi mỗi đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành. Đấy chính là pháp Nhân Thừa. Tu theo pháp này sẽ đời đời
làm người. Nhân Thừa là căn bản của Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, như đắp nền đất vững vàng, có thể
tùy ý xây dựng lầu cao.
Thiên Thừa thì ngoài Ngũ Giới, Thập Thiện ra, còn tu thêm các thứ
Thiền Định để sanh vào các cõi trời Lục Dục, Tứ Thiền, Tứ Không
v.v… Nhân Thừa lẫn Thiên Thừa đều chẳng phải là pháp liễu sanh tử.
Thanh Văn Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ, tu pháp Tứ Đế để liễu
sanh tử.
Duyên Giác Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ, quán sát hai môn
Lưu Chuyển và Hoàn Diệt48 của Thập Nhị Nhân Duyên hòng liễu sanh
tử.
48 Lưu Chuyển (Pravrtti) ngụ ý sanh tử tiếp nối không ngừng, xoay lăn trong tam
giới, luân hồi trong lục đạo. Quán Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, tức là
quán từ vô minh cho đến lão - tử thì gọi là Lưu Chuyển Môn hoặc Thuận Quán.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 83
Bồ Tát Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ tu lục độ, vạn hạnh, dưới
hóa độ chúng sanh để mong trên là thành Phật đạo.
Nhưng pháp ba thừa này đều thuộc vào pháp phổ thông cậy vào tự
lực, người tối thượng thượng căn mới có thể liễu sanh tử ngay trong đời
này, dẫu khi Phật đang còn tại thế cũng là trong trăm người mới có được
một. Nếu như hiện thời, e rằng cả thế giới cũng không có được một hai
người!
Nhưng do tâm đại từ bi, đức Phật biết trước chúng sanh đời sau
không có kẻ nào cậy vào tự lực để liễu sanh tử ngay trong đời này được,
bèn mở riêng một pháp môn đặc biệt là tín nguyện niệm Phật cầu sanh
Tây Phương; bất luận già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí, ngu, sĩ, nông, công,
thương, công chức, quân nhân, giới giáo dục học thuật, tại gia, xuất gia,
thượng thánh, hạ phàm đều trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh
Tây Phương. Phàm phu sát đất đới nghiệp vãng sanh. Đã vãng sanh Tây
Phương, ba thứ Hoặc - Nghiệp - Khổ thảy đều tiêu diệt. Ví như mảnh
tuyết rớt vào lò to, chưa đến nơi đã tan mất. Hàng Nhị Thừa đã liễu sanh
tử và Quyền Vị Bồ Tát vãng sanh sẽ mau chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Bậc Pháp Thân đại sĩ đã chứng Vô Sanh mà vãng sanh sẽ mau chứng
Phật quả.
Hết thảy các pháp Đại Thừa, Tiểu Thừa do đức Thế Tôn đã nói trong
cả một đời Ngài đều cậy vào tự lực, cho nên khó khăn; chỉ có một pháp
này hoàn toàn cậy vào sức từ bi thệ nguyện nhiếp thọ của A Di Đà Phật
và sức tín nguyện thành khẩn ức niệm của hành nhân nên được cảm ứng
đạo giao, giải quyết xong xuôi ngay trong một đời này. Nhưng đã muốn
vãng sanh Tây Phương thì phải nghĩ hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ
trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, nghĩ báo ân ấy sẽ càng thêm mến
tiếc, che chở, chẳng dám giết ăn, thấy hết thảy những người cùng hàng
và các quỷ thần cùng với chim, thú, côn trùng đều tâm niệm miệng nói,
dạy bọn họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nếu như ba nghiệp thanh
tịnh, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đem pháp môn Tịnh Độ
khuyên lơn thì người ta sẽ nhìn theo bắt chước nhau làm lành, ắt sẽ có hy
vọng thay đổi cảm hóa ngấm ngầm, khiến cho phong tục tốt đẹp thuần
Hoàn Diệt có nghĩa từ mê trở về với lẽ chân, diệt hết phiền não, tiến nhập Niết Bàn.
Quán Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, từ lão - tử quán ngược lại cho đến
cội nguồn của mọi đau khổ là vô minh, sẽ phá được vô minh nên gọi là Hoàn Diệt
hoặc Nghịch Quán.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 84
hậu. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi của Phước
Châu Phật Học Đồ Thư Quán)
6. Đánh giá các phương pháp tu trì
* Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật; đó gọi là
Chánh Nhân, thuộc về Tánh đức, cũng còn gọi là Bổn Giác. Tuy có
Chánh Nhân, nhưng nếu chẳng nghe Phật pháp sẽ như đồ báu trong kho,
như viên châu buộc trong chéo áo; do không biết nên phải oan uổng chịu
bần cùng. Đã được nghe Phật pháp, biết “Phật là vị Phật đã thành, ta và
hết thảy chúng sanh đều là những vị Phật chưa thành”, từ đấy tu Giới -
Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, bỏ vọng về với chân, trái trần, hiệp
giác. Đấy gọi là Duyên Nhân, thuộc về Tu đức, cũng gọi là Thỉ Giác
vậy!
Công Tu đức sâu thì thể của Tánh đức hiển lộ, mới biết từ xưa đến
nay đã nương theo sức của Chánh Nhân Phật tánh ấy để làm đủ mọi
chuyện trái nghịch tánh, chịu đủ mọi nỗi khổ huyễn vọng, giống như
trong nhà tối đụng phải của báu, đâm ra bị tổn thương! Nay đã đích thân
thấy được Phật tánh sẵn có thì cái gốc cũ chẳng mất, mà [Phật tánh mới
giác ngộ] hiện thời cũng chẳng được49, toàn vọng chính là chân, toàn tu
chính là tánh. Đấy gọi là Liễu Nhân, chính là Tánh và Tu dung hợp, Thỉ
- Bổn hợp nhất vậy!
Phàm hết thảy những pháp môn Đại - Tiểu - Quyền - Thật do đức
Phật đã nói, không môn nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đích thân
chứng được điều này mà thôi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Hạ, Duyên khởi quyên mộ tu bổ tháp Báo Ân chùa Báo Ân, Tô Châu)
* Phàm tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối và cứu tai nạn, giúp kẻ
nghèo, mọi thứ công đức từ thiện đều phải hồi hướng vãng sanh Tây
Phương, chớ nên cầu phước báo nhân - thiên trong đời sau. Hễ có tâm ấy
sẽ chẳng có phần vãng sanh! Hễ sanh tử chưa giải quyết xong, phước
càng lớn ắt nghiệp càng nặng. Hễ sanh lần nữa, khó khỏi đọa trong ba
đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu muốn lại được thân người, lại
được gặp pháp môn Tịnh Độ liễu thoát ngay trong một đời, khó như lên
trời vậy! Đức Phật dạy người niệm Phật cầu sanh Tây Phương là để con
người liễu thoát sanh tử ngay trong đời này. Nếu cầu phước báo nhân -
49 Do luôn thường hằng sẵn có, nên nói “chẳng mất mà cũng chẳng được”, chỉ là
thấy được Phật tánh hay không mà thôi!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 85
thiên đời sau thì là trái nghịch lời Phật dạy, giống như đem một viên bảo
châu vô giá trong khắp cõi đời đổi lấy một thẻ đường để ăn, chẳng đáng
tiếc ư? Người ngu niệm Phật chẳng cầu sanh Tây Phương, cầu phước
báo nhân thiên đời sau thì cũng chẳng khác gì! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
* Khổng Tử nói: “Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã” (Tánh thì
gần giống như nhau, nhưng do rèn luyện mà thành khác xa nhau). Tánh
chính là bản thể của Giác, Tập chính là công dụng của Giác. Tánh thì
phàm - thánh, chúng sanh - Phật trọn chẳng khác nhau, nên nói “tương
cận”, cũng giống như nói: “Nhân đồng thử tâm, tâm đồng thử lý” (Con
người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một lý này).
“Tập” thì có thuận tánh, nghịch tánh sai khác. Thuận theo tánh thì
suy tư, nẩy sanh ý niệm, xử sự đều tự có thể nén giận, khắc chế được
ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành. Cho đến khi nhân dục hết sạch,
thiên lý thông suốt, sẽ khôi phục trọn vẹn giác tánh nơi bản thể, cho đến
trở thành hiền, thành thánh, vượt khỏi điều mong đợi lúc ban đầu. Người
như thế gọi là Giác Giả (bậc giác ngộ) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Giác Hậu Biên)
* “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc” là bốn câu khó lãnh hội nhất. Lời chú giải của mỗi tác giả
đều dựa trên cái thấy của chính mình. Theo ngu kiến của Quang, bản thể
của Sắc chẳng thể đạt được, há Không còn có thực tế để đạt được hay
sao? Hai câu sau nhằm giải thích thêm về ý nghĩa của hai câu trước đó.
Thật sự, ngay cả Không lẫn Sắc đều chẳng thể đạt được, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng giống như thế; đấy chính là “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai
không”. Ngũ Uẩn đều chẳng thể đạt được, ấy chính là Thật Tướng của
Chân Không. Vì thế, gọi là “chư pháp Không tướng” (tướng Không của
các pháp).
Do “chư pháp Không tướng” này bèn chẳng có sanh, diệt, cấu, tịnh,
tăng, giảm và Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ và Trí Huệ cùng với Niết Bàn! (Niết Bàn
là thật tế của chữ Đắc). Chỉ vì trong Thật Tướng, chẳng có các pháp: thánh,
phàm v.v… ấy nên có thể tu nhân chứng quả từ phàm đến thánh. Ví như
nhà trống, người mới ở trong ấy được. Nếu chẳng trống, con người làm
sao ở được? Do Không nên mới có thể chân tu thật chứng. Nếu chẳng
Không, sẽ chẳng có tác dụng này! Chớ nên hiểu lầm! Hiểu lầm sẽ phá
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 86
hoại chánh pháp của chư Phật, coi Lý là Sự, đấy gọi là “tà kiến”, chẳng
gọi là “biết pháp”, hãy nên suy nghĩ cặn kẽ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Tam Quán, Tam Đế chính là cương yếu của Phật pháp. Nói theo lý
tánh thì gọi là Đế (諦), Đế tức là Lý. Nói theo mặt tu trì thì gọi là Tam
Quán, Quán tức là Tu. Chân Đế: Một pháp chẳng lập, Tục Đế: Vạn pháp
trọn đủ! Quán cái lý nơi Chân Đế thì gọi là Không Quán. Quán cái lý nơi
Tục Đế thì gọi là Giả Quán. Không Quán chính là quán Chân Như Pháp
Tánh “một pháp chẳng lập”, điều này chính là cái Không “chẳng có cả
Không lẫn Hữu”. Đấy chính là tướng Không trong “chư pháp Không
tướng” của Tâm Kinh. Chẳng những Sắc Không, Không Không, mà Bồ
Đề, Niết Bàn cũng không, nếu có một pháp nào chẳng không sẽ chẳng
thể gọi là Chân Không. Cái không này của Không Quán trong Tam Quán
sao có thể hiểu là “muôn sự chẳng quan tâm, chẳng làm” cho được? Tục
của Tục Đế chẳng phải là tục theo kiểu thô tục hay nhã tục, mà do vì tạo
dựng, đặt bày nên gọi là Tục. Giả cũng chẳng phải là giả trong Chân Giả (thật - giả), mà cũng là cái giả của sự tạo dựng, đặt bày.
Phép Quán nhằm quán lý của Tục Đế được gọi là Giả Quán vì tánh
thể của Chân Đế là “chẳng lập một pháp” nhưng trọn đủ công đức của
sáu độ, vạn hạnh, và các pháp toàn vẹn. Đây chính là “chư pháp” trong
câu “chư pháp Không tướng” (tướng Không của các pháp) của Tâm
Kinh, sao lại coi đó là phàm phu cho được? Phàm phu thuộc về hai đế
Khổ và Tập, còn Không và Giả đây thuộc đạo lý viên diệu của Viên
giáo, Nhị Thừa còn chẳng có phần, huống gì phàm phu? (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên)
* Người thông minh trong thế gian phần nhiều chẳng tự lượng, coi
pháp môn Tịnh Độ là lười nhác, muốn nương theo các pháp môn thâm
diệu cậy vào tự lực hòng được lợi ích lớn lao, rốt cuộc chỉ biết giáo
nghĩa, chưa thể tâm đắc! Dẫu có tâm đắc, cũng chẳng thể thực hiện trọn
khắp. Bỏ dễ cầu khó, biến khéo thành vụng, người thông minh mười kẻ
hết chín phạm phải tâm bệnh này! Chẳng bị xoay chuyển bởi những thứ
tri kiến ấy, lại còn giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà,
giữ lòng thành, không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, thì chính
là đệ tử thật sự của đức Phật, chắc chắn có thể liễu sanh thoát tử trong
đời này. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Châu Nam Phố)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 87
* Cậy vào tự lực thì phải đoạn hết sạch Kiến Tư phiền não trong tam
giới, hàng lợi căn có thể đoạn được [phiền não] ngay trong đời này; còn
độn căn thì trước hết phải đoạn phiền não trong Dục Giới, sanh lên Sắc
Giới. Kế đó, đoạn phiền não trong Sắc Giới, sanh lên Vô Sắc Giới. Mãi
cho đến khi đoạn hết sạch phiền não trong Vô Sắc Giới, chứng Chân Đế
Niết Bàn, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh vậy! Chư thiên trong
tam giới ngoại trừ các vị đại Bồ Tát thuộc Đâu Suất Nội Viện (sanh về Nội
Viện50 đều là Pháp Thân đại sĩ) và tam quả thánh nhân thuộc năm tầng trời
Bất Hoàn (Ngũ Bất Hoàn Thiên) tức Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến,
Thiện Hiện, Sắc Cứu Cánh, thì đều là người trong lục đạo luân hồi,
chẳng thể coi sanh lên Vô Sắc Giới Thiên là đã thoát tam giới! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên - 4)
* Gần đây, người ta thường ưa ham cao chuộng xa, hơi thông minh
bèn học Thiền Tông, Tướng Tông51, Mật Tông, phần nhiều coi niệm
Phật là vô dụng. Họ chỉ biết sự huyền diệu của cơ ngữ52 nhà Thiền, sự
tinh vi của pháp tướng trong Tướng Tông, oai thần rộng lớn của Mật
Tông, nhưng chẳng biết: Thiền dẫu đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ,
nhưng nếu chưa hết sạch Phiền Hoặc thì vẫn sanh tử y như cũ, chẳng thể
liễu thoát được! Với Tướng Tông thì nếu không phá sạch Ngã Chấp và
Pháp Chấp, dù có hiểu rành rẽ đủ mọi danh tướng53, cũng giống như “kể
chuyện ăn, đếm của báu”, rốt cuộc có ích gì đâu! Với Mật Tông thì tuy
nói là có thể “thành Phật ngay nơi thân hiện tại”, nhưng quyết chẳng
phải là chuyện của hạng phàm phu sát đất có thể thành tựu được! Phàm
phu lầm lạc sanh ý tưởng ấy bèn bị ma dựa phát cuồng, mười người hết
tám chín người [bị như vậy]. Do đó, hãy nên chuyên chí vào một môn
50 Nội Viện chính là Thiện Pháp Đường của tầng trời Đâu Suất, do đại thần Lao Độ
Bạt Đề kiến tạo, là trụ xứ của Bồ Tát Di Lặc. Tất cả các vị Phật thị hiện trong Sa Bà
đều trụ tại Đâu Suất Nội Viện trước khi giáng sanh trong nhân gian. Các phàm thiên
không thể nào thấy được Đâu Suất Nội Viện.
51
Tướng Tông: Gọi đủ là Pháp Tướng Duy Thức Tông. Do tông này chú trọng
nghiên cứu tướng trạng của các pháp, phân chia các trạng thái tâm thức tỉ mỉ, nên gọi
là Tướng Tông.
52 Cơ ngữ: Gọi tắt của cơ phong chuyển ngữ, tức những câu đối đáp thuận theo căn
cơ, nhằm giúp cho người hỏi kiến tánh, chẳng hạn như “Phật là gì?” Thiền Sư bèn
đáp “con mèo trèo lên cây cột”.
53 Danh là tên gọi của sự vật, Tướng là hình trạng của sự vật. Dùng danh xưng để nêu
rõ tướng trạng của sự vật nên gọi là “danh tướng”. Một cách giải thích khác: Những
gì nghe được thì gọi là Danh, thấy được thì gọi là Tướng. Danh và Tướng đều không
có thật thể, chỉ là giả lập để tiện giáo hóa.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 88
Niệm Phật là pháp tắc vô thượng bậc nhất ngàn phần ổn thỏa, vạn phần
thích đáng vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời một cư sĩ ở Diêu Duy)
* Muốn đọc tụng Đại Thừa để giúp cho Tịnh nghiệp mà không thật
sự có chánh tri chánh kiến hiểu biết Tịnh Độ sâu xa sẽ không được. Nếu
không, sẽ coi những pháp môn cao sâu huyền diệu trong kinh giáo là bậc
thượng, hoàn toàn xem pháp môn Tịnh Độ là sự tu trì của ngu phu ngu
phụ. Gần đây, những người giảng Hoa Nghiêm, giảng Pháp Tướng, phần
nhiều đả phá Tịnh Độ. Ông X… ở Hồ Nam hiểu sâu Tịnh Độ và còn cực
lực đề xướng, do học Pháp Tướng Tông, những gì ông ta nói về sau này
đều là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Ông đã phát cái tâm lớn lao
này, khá là khó có, nhưng chưa chắc đã không bị lay chuyển bởi những
tri thức từ kinh giáo. Chẳng bị chuyển thì đáng gọi là chân Phật tử. Hễ bị
chuyển thì sẽ trở thành bỏ dễ chọn khó, hoặc giống như ông X… ở Hồ
Nam thì ô hô, ai tai rồi!
Khi xưa, một vị pháp sư dùng niệm Phật để bán đậu Ngũ Hương54,
dùng giảng kinh để mở ngân hàng, niệm Phật lại biến thành cơm trộn lẫn
cát, làm sao ăn được? Do vậy, biết rằng: Không có đại thiện căn sẽ
chẳng thể tin tưởng sâu xa pháp này! Nói với ông điều này nhằm làm
cho trước khi ông cất bước đã nhận biết chắc chắn [hướng chỉ] của kim
chỉ nam. Nếu không, có thể mạo xưng là bậc đại thông gia, sợ khó lòng
đạt được liễu sanh tử. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Ân Đức Tăng)
* Một pháp Mật Tông thật sự chẳng thể nghĩ bàn, nhưng tiểu trượng
phu dùng đến chưa chắc được lợi ích mà sẽ bị tổn hại trước. Xin đừng
vói quá cao, may ra sẽ tự được lợi ích thật sự. Nếu không, hơi bị nguy
hiểm đấy! Sư Hiển Ấm55 được chân truyền của Mật Tông, lại thông hiểu
54 Ngũ Hương Đậu là một món ăn vặt nổi tiếng của Hoa Nam, nổi tiếng nhất là Đậu
Ngũ Hương ở miếu Thành Hoàng, Thượng Hải. Món này dùng đậu ván tẩm hồi
hương, quế, muối, đường, và một số hương liệu nữa rồi chiên bằng bơ.
55 Hiển Ấm (1902-1925), pháp tự Đại Minh, người huyện Côn Minh, tỉnh Giang Tô,
là đệ tử xuất gia của ngài Đế Nhàn. Thiên tư thông mẫn, thông suốt kinh tạng, văn
chương lỗi lạc. Do có tài văn chương, Sư từng giữ các chức vụ biên tập các tờ nguyệt
san của Cư Sĩ Lâm, đăng rất nhiều bài viết trên tờ Hải Triều Âm. Năm Dân Quốc 12
(1923), Sư vượt biển sang Nhật đến Thiên Đức Học Viện trên Cao Dã Sơn
(Koyasan) để học Mật Tông và được truyền Quán Đảnh. Năm Dân Quốc 1 4, Sư trở
về Hàng Châu truyền thọ Mật Pháp, nổi danh lừng lẫy. Tháng Năm cùng năm đó, Sư
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 89
[giáo nghĩa] tông Thiên Thai, đã là bậc Quán Đảnh Đại A-xà-lê hiển mật
viên thông56. Phàm ai được thọ quán đảnh từ nơi sư đều có thể thành
Phật ngay trong thân này, nhưng Hiển Ấm khi mất rất hồ đồ (Sư chết tại
Cư Sĩ Lâm, một đệ tử đích thân chứng kiến), chú cũng chẳng niệm được, mà
Phật cũng chẳng thể niệm, cho nên biết: Pháp ấy chẳng bằng pháp Niệm
Phật ổn thỏa, thích đáng hơn nhiều! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Vương Hiểu Hy)
* Chú Đại Bi nếu khẩn thiết, chí thành niệm sẽ có cảm ứng chẳng thể
lường được! Nếu hướng đến người học Mật Tông để cầu cách đọc thì
cũng chẳng phải là không được, nhưng người học Mật Tông phần nhiều
chẳng chú trọng niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chỉ sợ bị họ đoạt mất
chí hướng vãng sanh trong đời này, để mong “được thành Phật ngay nơi
thân này”. Thành Phật ngay nơi thân này, nói dễ dàng sao! Nếu cho là
điều ấy [bản thân ông] chắc chắn thật sự làm được, sợ rằng còn chưa
thành Phật mà đã thành ma trước rồi! Những kẻ đem phàm lạm thánh,
bộp chộp, lầm lạc, khoe khoang rỗng tuếch, phần nhiều phạm phải căn
bệnh này, chẳng thể không biết! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Châu Nam Phố)
*Phật pháp viên thông vô ngại, cố nhiên Mật Tông có chuyện “chẳng
được A Xà Lê truyền dạy [mà cứ tu học Mật pháp] thì là trộm pháp”
chính là nhằm thể hiện ý tôn trọng pháp đến tột cùng, chứ không phải
nhằm vĩnh viễn đoạn trừ Mật Tông. Nếu theo như lời ông nói, chưa thọ
Tam Muội Da Giới57 chẳng thể niệm Mông Sơn Thí Thực, thì không
mất, chỉ hưởng thọ được 24 tuổi! Do quá thông minh, Sư thường có những bài viết
đề xướng Mật Tông là pháp vô thượng, chê bai tất cả các pháp môn khác, cũng như
nêu lên rất nhiều ý kiến cực đoan, võ đoán. Sư Đế Nhàn cũng không tán thành quan
niệm của Hiển Ấm, nhưng không làm gì được!
56 A Xà Lê (Acarya): Dịch nghĩa là Giáo Thọ, có nghĩa là vị thầy có đủ giới đức,
hành vi đoan nghiêm có thể dạy dỗ học trò đúng khuôn phép. Trong Mật Tông, vị sư
đầy đủ giới đức có sự hiểu biết uyên thâm về mật pháp, thông hiểu đàn pháp, ấn khế,
đã được quán đảnh và tu trì, đủ tư cách để truyền dạy Mật Pháp cho người khác mới
được gọi là A Xà Lê. Tiêu chuẩn để được xưng là A Xà Lê trong Mật Tông được
giảng rất rõ trong phẩm A Xà Lê của kinh Tô Tất Địa. Theo đó, những điều kiện để
xứng danh là một vị Mật Tông A Xà Lê rất khó và rất cao. “Hiển Mật viên thông” là
Hiển giáo lẫn Mật giáo đều thông hiểu sâu xa, viên dung.
57 Tam Muội Da Giới: Còn gọi là Tam Ma Da Giới, tức giới pháp bí mật trong Mật
Tông. Theo giáo nghĩa Mật Tông, giới này lấy Bồ Đề Tâm làm giới thể, lấy pháp
giới vô lượng đức viên mãn làm hành tướng cho Bí Mật Chân Ngôn Giới. Giới tướng
của giới này là chẳng bỏ chánh pháp, chẳng lìa bỏ tâm Bồ Đề, chẳng keo kiệt hết
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 90
riêng gì Mông Sơn Thí Thực, ngay cả hết thảy chú cũng đều chẳng được
niệm, vì chưa được A Xà Lê truyền dạy! Nhưng từ xưa đến nay, người
bình thường niệm các chú Đại Bi, Chuẩn Đề58 có cảm ứng rất nhiều!
Thậm chí nhà Nho do từ bia, thiếp mà biết có Tâm Kinh, mắc bệnh sốt
rét59 bèn gượng bệnh niệm kinh thì con quỷ gây bệnh sốt rét bèn tháo lui.
Nếu đúng như ông nói thì con quỷ gây bệnh sốt rét sẽ càng thêm đắc
thế60!
Nay kể cùng ông một thí dụ. Ví như bậc quân tử đức dầy lấy thân
làm gương để dìu dắt người khác, người trong một làng nghe theo sự chỉ
huy, thảy đều an phận giữ mình. Người ấy do lấy thân làm gương để dìu
dắt người khác, vượt hơn quan phủ phát ra hiệu lệnh buộc dân thi hành.
Chớ nói sự cảm hóa bằng đức của người ấy trỗi hơn quan phủ! Nếu bắt
thảy pháp, chẳng hề không lợi lạc chúng sanh. Đấy chính là bốn điểm trọng yếu của
giới này. Ngoài ra, còn có những điều phải tuân thủ riêng khi thọ trì một bộ chú pháp
nào đó, chẳng hạn như không được ăn một số thực phẩm nào đó, phải tẩy tịnh, gia trì
tam nghiệp trước khi vào đàn tràng theo một nghi thức chuyên biệt v.v… cũng như
phát thệ không tự tiện nói cho người khác biết những gì mình đã được học, nhằm
tránh tạo khẩu nghiệp báng pháp cho người thiếu căn duyên với Mật pháp khởi lòng
nghi rồi hủy báng. Trước khi vào đàn thọ pháp Mật Tông phải thọ giới này. Nói
chung, Tam Muội Da Giới vẫn lấy Ngũ Giới làm căn bản, những kẻ tự xưng là Mật
Tông bí truyền không vâng giữ Ngũ Giới đều là tà sư hoại loạn Phật pháp!
58 Chuẩn Đề (Cundī), còn được gọi là Chuẩn Chi, Chuẩn Nê, Chuẩn Đề Quán Âm,
Chuẩn Đề Phật Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn Đề, dịch nghĩa là thanh tịnh. Đây là một hóa
thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đặc biệt bảo hộ chúng sanh đoản mạng và chiết
phục oán quỷ. Thiền Tông đặc biệt tôn sùng vị Bồ Tát này, hầu như các tự viện tùng
lâm lớn của Trung Hoa đều thờ ngài. Thai Mật của Nhật Bản xếp ngài vào một trong
các vị Phật Mẫu thuộc Phật Bộ, còn Đông Mật Nhật Bản xếp ngài vào một trong số
sáu vị Quán Âm thuộc Liên Hoa Bộ (Thiên Thủ Quán Âm, Thánh Quán Âm, Mã
Đầu Quán Âm, Thập Nhất Diện Quán Âm, Chuẩn Đề Quán Âm, Như Ý Luân Quán
Âm). Đại Sĩ Quán Âm hiện thân này khi nói chú Chuẩn Đề. Ngài thường được tạc
tượng có mười tám tay, mỗi tay cầm một món pháp khí, nhằm thể hiện ý nghĩa phân
thân hóa độ khắp cả lục đạo ứng với mười tám giới.
59
Ngược bệnh: Chữ Ngược (瘧) ở đây không phải là bệnh sốt rét thông thường, mà
là bệnh do oán đối quỷ mị dựa vào khiến cho bệnh nhân lên cơn sốt rét mỗi ngày,
phải nhờ vào chú lực hoặc kinh lực để giải trừ oán kết thì mới hết bệnh được. Chúng
tôi vẫn dùng chữ “bệnh sốt rét” cho dễ hiểu.
60 Do cuối Tâm Kinh là một bài chú nên nếu hiểu như ông Thôi Đức Chấn “chưa
được A Xà Lê truyền dạy sẽ không được niệm; nếu tự tiện niệm sẽ mắc tội vượt
pháp” thì những Nho sĩ do không được truyền dạy mà khi bị bệnh Ngược cứ tự tiện
niệm Tâm Kinh sẽ mắc tội vượt pháp, phước đức càng bị sút giảm, con quỷ gây bệnh
Ngược do đó càng được tăng thêm thế lực.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 91
chước quan phủ phát ra hiệu lệnh buộc người ta thi hành thì mọi người
đều cho đó là phản nghịch. Chỉ [dùng tụng chú để] tự tu trì thì có ích,
còn nếu tự tiếm mạo sẽ có tội. Như thế thì sẽ chẳng đến nỗi đoạn diệt
Mật Tông, mà cũng chẳng đến nỗi phá hoại Mật Tông. Người thời nay
phần nhiều dùng tình kiến phàm phu để nói Phật pháp. Vì thế, khắp mọi
nơi đều trở thành gai góc, không chỗ nào để đặt chân bước đi được!
“Tiếm mạo”61 là dối xưng A Xà Lê. Tác pháp62 nào có trở ngại gì, vẽ
chữ Phạn để quán tưởng đều có thể chiếu theo nghi quỹ, nhưng chớ nên
tự xưng là đã được A Xà Lê quán đảnh. Ai biết được nghĩa này thì lời
khuyên của Quang càng thêm rõ ràng. Người thời nay học Phật đều bằng
cái tâm mù quáng khiến cho pháp nào cũng bị trở ngại, pháp nào cũng
chẳng thành, đáng than cùng cực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 5)
* Kẻ tại gia niệm Mông Sơn có gì là không được? Đây là [nghi thức]
để kết duyên với khắp các cô hồn. Nhỏ là Mông Sơn, trung là Diệm
Khẩu, lớn là Thủy Lục, cùng là một chuyện cả. Thường kết duyên với cô
hồn thì thường được sự tốt lành. Người ta chẳng dám niệm vì sợ sẽ vời
quỷ đến, chẳng biết quỷ và người sống lẫn lộn, không chỗ nào không có
quỷ! Dẫu không vời quỷ, nhà ai không có quỷ? Quỷ đông hơn người
trăm ngàn lần!
Nếu con người sợ quỷ, hãy nên tích đức làm lành thì quỷ liền kính
trọng, bảo vệ. Nếu con người làm chuyện ám muội, quỷ sẽ tranh nhau
quấy phá, cho nên khó thể tốt lành. Nếu con người biết điều này, dẫu ở
trong nhà tối cũng chẳng dám khởi lên ý niệm xấu xa, huống chi là
chuyện xấu? Loại quỷ này chính là thiện quỷ, người đến, chúng bèn
nhường, người đi, chúng lại chiếm khắp chỗ đất ấy. Nếu quỷ dữ xuất
hiện sẽ có chuyện chẳng tốt lành lớn.
Phóng Mông Sơn nếu chí thành, dẫu là loài quỷ dữ dằn cũng kính
cẩn vâng lời Phật sắc truyền, chẳng còn dữ dằn nữa. Do vậy, phàm là các
61
“Tiếm mạo” là vượt phận và mạo nhận. Ý nói có những người tu Mật Tông biết
được một vài nghi quỹ, được truyền thụ một vài Mật Pháp, nhưng chưa đủ tư cách,
giới hạnh của một bậc đạo sư, chưa thấu hiểu Mật pháp, nhất là chưa đủ sự hành trì,
đã tự tiện lập đàn truyền pháp, thâu nhận đệ tử, tự xưng là A Xà Lê, rồi lập tông, lập
phái.
62 Đây là một thuật ngữ Mật Tông, hành nhân vào đàn, quán tưởng, kết ấn, cúng
dường, tụng niệm, hỏa cúng dường (hộ-ma) đều gọi chung là “tác pháp”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 92
bệnh do oán nghiệp, thuốc chẳng thể chữa lành, hãy chí thành niệm Phật,
niệm Quán Âm sẽ liền được mau lành, do oán quỷ được nhờ ơn niệm
Phật, được sanh vào thiện đạo. Có thể biết là trước mặt mỗi người
thường có rất nhiều thiện quỷ hoặc ác quỷ. Người sợ quỷ thì nên giữ cái
tâm tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành thì tất cả các quỷ đều
trở thành kẻ hộ vệ. Loại quỷ ấy chỉ sợ không nhiều, chứ càng nhiều càng
tốt, đâu có sợ chi? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
gởi cư sĩ Trần Huệ Cung)
* Phương cách cầu siêu cho người đã khuất chỉ có niệm Phật thật là
bậc nhất. Thí Thực trong đời nay đều là hình thức mà thôi; do vậy, chẳng
bằng thỉnh Tăng niệm Phật, buổi tối phóng Mông Sơn sẽ có lợi ích thật
sự. Kinh sám pháp sự của Đạo Gia thường là trộm lấy những danh nghĩa
trong Phật pháp rồi bịa đặt ra! Tăng thí thực còn khó được lợi ích thật
sự, thì đạo sĩ thí thực há độ được vong ư? Chẳng qua mượn chuyện này
để dối người mà thôi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 4 )
* Nhiễu Phật nên giống như mặt trời, mặt trăng từ phương Đông
sang Nam, qua Tây, lên Bắc, đừng từ Đông lên Bắc, qua Tây, xuống
Nam, vì thuận nhiễu (nhiễu theo đúng chiều) có công đức, nghịch nhiễu
mắc tội lỗi. Tây Vực coi trọng nhất cách “vi nhiễu” (đi nhiễu quanh), họ
coi vi nhiễu (đi nhiễu quanh) tương đương với lễ bái, [vì đi nhiễu quanh]
mang ý nghĩa tùy thuận đức Phật. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn)
* Một pháp Tịnh Độ ai ai cũng tu được, hễ tu đều có cảm ứng.
Người thời nay phần đông ham cao chuộng xa, đến nỗi có thể là vì bầy
vẽ bề ngoài mà đâm ra gây trở ngại cho lợi ích thật sự. Con người bây
giờ hễ ra công [tu hành] liền nói đến chuyện xây dựng trước, chẳng biết
duyên do của Tịnh Độ, lại muốn nghiên cứu rộng khắp kinh luận Đại
Thừa, hoặc hâm mộ sự huyền diệu của Thiền Tông, hoặc hâm mộ sự tinh
vi của Tướng Tông, hoặc hâm mộ thần thông của Mật Tông, xem pháp
“cậy vào Phật lực để liễu sanh tử” như chuyện vô ích!
Thiền Tông dù có ngộ, nhưng ai đạt đến địa vị nghiệp tận tình
không? Tướng Tông dẫu có thể nhớ rõ ràng danh tướng, nhưng ai có thể
thật sự phá được Ngã Chấp và Pháp Chấp? Thần thông của Mật Tông và
“hiện thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân này) thì quả thật
cũng có chuyện ấy, nhưng chẳng phải là chuyện để hạng căn tánh như
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 93
ông và tôi mong mỏi được. Nếu muốn được thần thông, muốn được
thành Phật ngay, thì do đấy bị ma dựa phát cuồng rất nhiều! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Mẫn Tông Kinh)
* Điều ông chấp thuộc về Đoạn Kiến63, chẳng biết một niệm tâm
tánh của con người chúng ta chẳng phải thường, chẳng phải đoạn! Vì sao
chẳng phải đoạn? Trước không có khởi đầu, sau không có kết thúc. Nếu
có khởi đầu và kết thúc là rớt vào Đoạn Kiến! Vì sao chẳng phải
thường? Bản tánh thường nhiên bất biến, nhưng lại có ý nghĩa tùy
duyên. Hễ gặp duyên ngộ - tịnh, sẽ thành Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật. Tuy viên thành Phật đạo nhưng [tâm tánh] trọn chẳng tăng, chỉ
bỏ hết vọng tưởng, chấp trước, khôi phục tâm tánh sẵn có mà thôi! Nếu
gặp duyên mê - nhiễm bèn thành trời, người, Tu La, quỷ, súc sanh, địa
ngục. Tuy luân hồi trong sáu nẻo, [tâm tánh] trọn chẳng bị giảm, chỉ do
vọng tưởng, chấp trước che lấp bản tánh như mây che mặt trời nhưng
mặt trời vẫn y như cũ, không bị hao hụt!
Thuở ban đầu ông học phép Châu Thiên Đại Đạo64, đây chẳng những
không phải là Phật pháp, mà cũng chẳng phải là phép của Lão Tử. Hãy
63 Đoạn Kiến (Uccheda-Drsti): Còn gọi là Đoạn Diệt Luận, phản nghĩa với Thường
Kiến. Đây là tà kiến cho rằng rốt cuộc thế gian và ta đều mất hết, không còn nữa, hay
nói đơn giản là chấp rằng “chết đi là hết”! Do vậy, kẻ chủ trương Đoạn Kiến không
tin vào nhân quả, báo ứng. Quan điểm tà kiến có thể thấy rõ nhất qua cách nói của
ngoại đạo Phú Lan Na Ca Diếp được ghi trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Không thiện,
không ác, cũng không có quả báo thiện - ác”.
64 Châu Thiên là một thuật ngữ của Nội Đan trong Đạo Giáo. Trong ý nghĩa nguyên
thủy, Châu Thiên là sự chuyển vận tuần hoàn của trời đất. Từ ý nghĩa này, các nhà
Dịch học đã gán cho mỗi quẻ trong kinh Dịch một con số, gọi là Châu Thiên Số,
chẳng hạn quẻ Khôn khởi từ số 6, 6 lần 6 là 36, đấy chính là số thành của Âm. Quẻ
Càn khởi từ số 9, 6 lần 9 bằng 54, chính là số thành của Dương. Từ đó, các nhà Nội
Đan đi xa hơn, cho rằng 9 và 6 cộng thành 15 là số của Nhất Khí (tức Âm Dương
hợp nhất). Do vậy, họ cho rằng thân thể con người là một Tiểu Thiên Địa. Một hơi
thở hít vào, thở ra chính là một vòng Tiểu Châu Thiên giống như sự tuần hoàn của
Âm - Dương trong vòng trời đất. Thở ra hít vào đủ 360 lần là một Đại Châu Thiên.
Tuy vậy, sau này, dưới ảnh hưởng của Khí Công, Đại Châu Thiên và Tiểu Châu
Thiên được hiểu khác hẳn đi. Đại Châu Thiên và Tiểu Chân Thiên là cách vận công
hít thở theo hai mạch Nhâm và Đốc, tùy theo đường vận chuyển của Khí mà gọi là
Đại hay Tiểu Châu Thiên. Châu Thiên Đại Đạo là một phái luyện Nội Đan thịnh
hành ở Trung Hoa thời đó, trá xưng là Phật giáo chánh truyền để thu hút tín đồ. Do
phép vận khí này do các đạo sĩ đời sau chế ra, gán cho Lão Tử, nên Tổ Ấn Quang nói
“phép này cũng chẳng phải là của Lão Tử”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 94
thử xem Đạo Đức Kinh của Lão Tử có câu: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô
hữu thân” (Ta có mối lo lớn là vì ta có thân). Ngoại đạo đều chú trọng
trường sanh bất lão và thành Đại La thần tiên. Nếu trở thành thần tiên
nơi cung Đại La65, xưng “thần” (bầy tôi) dưới tòa của Ngọc Đế, liền cho
là vinh dự không chi hơn được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thái Tích Đỉnh ở Hải Môn - 3)
* Sách Trung Dung nói: “Nhân giai viết dư trí, khu nhi nạp chư cổ,
hoạch hãm tịnh chi trung, nhi mạc chi tri tỵ dã” (Con người ai cũng tự
cho là mình thông minh, nhưng nếu thân bị hãm vào lưới rập, sụp hầm
bẫy, chẳng biết tránh né ra sao)66. Do chỉ biết hướng ra ngoài theo đuổi,
chẳng biết hồi quang phản chiếu nên mới tai hại như thế. Nếu có thể
phản chiếu tự tâm, ẩn giấu cái trí để mong tự chiếu thì sẽ có thể học
thánh, học hiền, học Phật, học Tổ, ắt còn sống thì dự vào bậc thánh hiền,
mất sẽ lên cõi Cực Lạc. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển Thượng,
Thư chỉ dạy cư sĩ Sài Dã Ngu)
* Những kẻ đứng ngoài cửa thường chẳng cho những điều đã nói
trong sách là đúng, liền cầu bí pháp “miệng truyền, tâm trao”. Đây chính
là quen thói nghe theo tà thuyết “phải là miệng truyền tâm trao thì mới
có thể đắc đạo” của ngoại đạo, rồi tưởng lầm Phật pháp cũng giống như
vậy, đáng buồn, đáng đau, chớ nhiễm tà kiến ấy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lương Huệ Đống)
* Con buôn keo bẩn, bừa bãi, người ta dễ biết, chứ nhà Nho xấu xa,
bừa bãi, vẫn được người khác ngưỡng mộ! Nếu ông không có tri kiến lỗi
lạc, ắt sẽ bị hãm vào chỗ nước xoáy ấy. Ông chỉ học được thói ăn nói lớn
lối, chẳng biết “đạo Nghiêu - Thuấn là hiếu đễ mà thôi!” Đạo của quân
tử nằm trong vòng con cái, bầy tôi, em, bè bạn.
Thấu hiểu cùng tận lý của sự vật trong thiên hạ thì tuy là bậc thánh
nhân vẫn chưa chắc đã làm được! Nhưng trừ khử được món vật tư dục
trong tâm của chính mình thì sự lý của mọi sự vật trong thiên hạ sẽ đều
thấu hiểu cùng tận (Tư dục trong tâm, nêu lên những thứ nặng nề nhất thì chính là
65
Đại La Cung là chỗ ở của Ngọc Đế theo truyền thuyết Đạo Giáo. Câu nói quen
thuộc của đạo sĩ là: “Tam Thanh thượng, viết Đại La” (Phía trên Tam Thanh là Đại
La). Theo các đạo sĩ, chỗ cư trú trên thiên giới có ba mươi sáu nơi, chỗ cao nhất gọi
là trời Đại La. Cung Đại La nằm trên tầng trời Đại La.
66 Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích.
Theo sách ấy, chữ Chư (諸) ở đây chính là cách viết giả tá của chữ Ư (於).
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 95
tham, sân, si, tài, sắc, của cải, thanh danh, quyền thế, địa vị. Hễ có điều gì ham muốn
đều là tư dục cả. Ngay như bọn Lý Học nói lý trái lẽ là vì tư dục quá lớn vậy. Lúc
này đất nước lắm tai nạn, nhân dân thống khổ đều là vì bọn Lý Học phá nhân quả rồi
thai nghén thành hình, chẳng thể không biết). Thánh nhân dạy người phương
pháp “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” chính là dạy con người [tu dưỡng] từ gần đến xa, từ thân đến
sơ, sao cho tư dục trong lòng người bị trừ khử thì lương tri sẵn có sẽ tự
phát hiện. Từ đấy, ý thành, tâm chánh, thân tu, gia tề, nước trị, thiên hạ
bình! Há có phải thấu hiểu cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ rồi
mới có thể thành ý chánh tâm ư? Nếu nói như vậy thì kẻ chẳng đọc trọn
khắp hết thảy các sách thế gian và xuất thế gian, chẳng đi khắp các nước
sẽ chẳng có hy vọng “thành ý, chánh tâm” hay sao?
Phải biết: Trừ khử tư dục để thấu tỏ lương tri hòng thành ý chánh
tâm thì người tuy chẳng biết một chữ vẫn có thể làm được! Nếu do thấu
hiểu cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ để cầu đạt đến tột cùng, dù
có là thánh nhân vẫn chẳng thể làm được! Ông chẳng biết họ Châu (tức
Châu Hy) hiểu sai chữ “vật” và chữ “cách” nên báng Phật, phá nhân quả,
luân hồi; lại còn ăn trộm cách tham cứu của Thiền Tông để tự khoe tài,
vì thế nói: “Một mai bừng tỏ liền thông suốt”. Nếu ông nghĩ giải thích
chữ “cách vật”67 theo kiểu của họ Châu là đúng thì dẫu ông có “cách”
suốt cả đời vẫn chẳng đạt đến chỗ cùng tận, nói gì đến chuyện “bừng tỏ,
thông suốt”!
Lời bàn luận dài dòng lần này quan hệ rất lớn; do vậy, tôi khuyên
ông cũng nên đưa cho cha ông đọc [thư này]. Còn chuyện ông theo đuổi
nghề buôn bán hay nghề Nho, ông hãy tự suy xét. Nếu đọc đến phần nói
về căn bệnh của ông trong đoạn thư trước chẳng sanh lòng cảm kích, trái
lại sanh ra phiền não thì ông làm thương nhân cũng sẽ là ngụy thương,
làm nhà Nho cũng là ngụy Nho! Theo đuổi việc dạy dỗ người khác mà
lìa khỏi luân thường, nhân quả thì cũng chỉ rớt vào tình cảnh thật sự là
“tự lầm, lầm người” mà thôi! Sợ ông còn mơ màng chẳng thấy được
điều này, nên tôi phải nói sẵn! Nếu không tin tưởng, chẳng ngại gì giữ
lại [thư này] để sau này làm gương [nhằm biện định] thành hay bại do
tuân theo hay chống trái.
67 Châu Hy hiểu “cách vật” là thông đạt đến tột cùng hết thảy sự vật trong thế gian.
Do sự vật trong thế gian là vô tận, không thể nào thấu hiểu trọn hết được nên Tổ mới
nói: “Dẫu ông có Cách suốt cả đời vẫn chẳng đạt đến chỗ cùng tận”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 96
Quốc Học Chuyên Tu Quán ở Vô Tích do quan Hàn Lâm đời Thanh
trước kia là Đường Văn Trị sáng lập. Ông này hai mắt không thấy
đường. Bộ Thập Tam Kinh Độc Bản do ông ta chú giải, ông Thi Tỉnh
Chi bỏ ra mấy vạn đồng khắc ván, in được hai trăm bộ, cậy Quang viết
lời tựa; nhân đó, Quang xin gởi cho một bộ. Một bộ gồm hơn tám mươi
cuốn, không gắn dây đánh dấu, không in phần thư căn68, hơn tám mươi
cuốn sách ấy làm sao có thể kiểm nghiệm cho được? Do vậy, biết họ chỉ
tuân theo lối cổ, chẳng biết làm lợi cho người khác.
Quang bận bịu nhiều việc, chẳng thể nào đọc hết được [trọn bộ
sách]. Giở xem đại lược, thấy ông ta chỉ ra những thiên Thuấn Điển,
Thái Giáp, Hàm Hữu Nhất Đức, Thuyết Mạng v.v… trong kinh Thư đều
là ngụy tạo; đối với thiên Hàm Hữu Nhất Đức đều lấy những “sách” đã
dẫn [trên đây] để làm chứng, chẳng nghĩ kẻ ngụy tạo có thể dẫn những
đoạn kinh văn thuộc phần sau thiên Hàm Hữu Nhất Đức! Há những
người viết ra những sách69 ấy chẳng được trích dẫn phần trước của thiên
68 Dây đánh dấu (thư thiêm - bookmark): Cái thẻ để cài vào sách nhằm đánh dấu
phần đã đọc, hoặc sợi dây dẹp để đánh dấu phần sách đã đọc đều gọi là “thư thiêm”.
Trong cổ văn, Thư Thiêm còn có nghĩa là phần mục lục đầu sách và tiểu mục lục
trước mỗi chương sách để người đọc có thể tìm được chương và tiểu đoạn cần tìm dễ
dàng.
Thư căn: Vì không tìm được từ tương ứng để diễn tả chữ này, chúng tôi đành để
nguyên không dịch. Trong cách in sách chữ Hán, mỗi trang thường chừa một khoản
trống bên trái trang sách (tức phần “giáp lai”) để ghi tên sách, số trang, số quyển cho
tiện tra cứu; nói cách khác, nó tương ứng với phần header hay footer trong Microsoft
Word.
69 Kinh Thư, gọi đầy đủ là Thượng Thư, là một trong năm kinh của Nho Gia. Theo
Hán Thư, thiên Văn Nghệ Chí, sách này do Khổng Tử chỉnh lý, biên tập, gồm một
trăm thiên. Đến thời Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, quan Bác Sĩ Phục Sanh
(có thuyết nói là Phục Thắng) lén đem giấu trong vách, khi Lưu Bang lật đổ nhà Tần,
lập ra nhà Hán, Phục Sanh tìm lại thấy sách đã bị hư mất mấy chục thiên, chỉ còn sót
lại 29 thiên. Sau đấy, triều đình nhà Hán sai Tiều Thố đến nghe Phục Sanh giảng
sách, ghi chép lại thành bộ Thượng Thư hiện thời (mệnh danh là Kim Văn Thượng
Thư để phân biệt với Cổ Thượng Thư do những người khác sưu tập được, chẳng hạn
như bản của Khổng An Quốc – cháu đời thứ 11 của Khổng Tử). Nội dung của sách
Thượng Thư được chia thành bốn phần chánh, mỗi phần gọi là Thư (sách), tức Ngu
Thư, Hạ Thư, Thương Thư và Châu Thư, chép các điển chế từ thời Nghiêu Thuấn
đến đời Tần Mục Công thời Xuân Thu. Thuấn Điển, Thái Giáp, Hàm Hữu Nhất Đức,
Thuyết Mạng đều là những thiên sách trong Thượng Thư. Đôi khi, người ta cũng gọi
mỗi thiên của Thượng Thư là sách (điển hay thư). Ông Đường Văn Trị cho những
thiên vừa được nói trên đây đều là ngụy tạo vì thiên Hàm Hữu Nhất Đức trích dẫn
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 97
Hàm Hữu Nhất Đức ư? Do vậy, Quang sợ quá; sau này gặp ông Thi
Tỉnh Chi cho biết: Ông Đường muốn làm bậc cao nhân đệ nhất từ ngàn
xưa tới nay, bèn làm ra vẻ lập dị hòng lưu danh cho đời sau, đến nỗi mắt
của chính mình không thấy được ánh sáng mặt trời nữa, chẳng đáng
buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Châu
Pháp Lợi - 1)
* Khăn vuông lót tay để lễ Phật của nữ nhân ở phương Nam có in
danh hiệu của Phật, Bồ Tát, trên đó có đóng dấu các chùa, trải lên đất để
lễ Phật, hoặc dùng để lót ngồi. Phong tục xấu xa này lưu truyền khắp xa
gần. Năm Quang Tự 21 (1895), ở chùa A Dục Vương, Quang thấy một
phụ nữ dùng miếng vải ấy để lót ngồi, do đấy, bèn nói với vị điện chủ
điện Xá Lợi, điện chủ nói: “Đấy là phong tục của vùng này”, có ý cho
rằng Quang lắm chuyện! Vì thế, trong Phổ Đà Chí có nói đến tội lỗi ấy,
không biết có ai chịu lưu tâm hay chăng?
Thế gian chẳng biết có bao chuyện chẳng thể suy xét đến tận cùng,
do đã thành thói quen, ai cũng cho là có lý. Như người ăn mặn cho kẻ ăn
chay là không tốt lành, bất lợi cho con cháu; nếu ăn chay trường sẽ làm
cho con cháu đoạn tuyệt! Rốt cuộc có kẻ tin theo, chẳng bằng lòng cho
cha mẹ ăn chay trường. Những lời ngoa truyền ấy trọn khắp các nơi. Lại
nữa, hễ có người sanh nở thì có kẻ niệm Phật trọn chẳng dám gần. Lại có
người chẳng nhìn người chết, chẳng nhìn cô dâu mới cưới, cũng như phá
địa ngục, phá huyết hồ, trả tiền Thọ Sanh. Những chuyện vô lý ấy,
những ông sư phàm tục vì cầu lợi bèn làm cho người ta, kẻ vô tri vì để
tiêu tội bèn bỏ tiền mời người làm, còn đối với pháp môn Niệm Phật thật
sự được lợi ích lại coi thường!
Vào năm Dân Quốc 18 (1929), Long Tử Tu, Bộc Thu Thừa tính
dùng một ngàn sáu hay một ngàn bảy trăm đồng để làm một hội Thủy
Lục70 tại Bảo Hoa Sơn, nói với Quang. Quang bảo đem tiền ấy để tổ
những câu trong những thiên trước. Tổ Ấn Quang chỉ ra chỗ mâu thuẫn, khiên cưỡng
trong lập luận này: Kẻ ngụy tạo có thể dẫn cả những phần nằm trước Hàm Hữu Nhất
Đức hay sau thiên đó, đâu có gì buộc họ chỉ được quyền trích dẫn những phần nằm
trước mà thôi! Hơn nữa, khi viết sách, có ai cấm tác giả không được trích dẫn những
sách khác hoặc những điều đã được nói trong những chương trước!
70 Thủy Lục là pháp hội thí thực cho ngạ quỷ cũng như hết thảy những sinh vật sống
trên đất, dưới nước nhằm cứu bạt các loài quỷ. Theo Thích Môn Chánh Thống,
quyển 4: “Gọi tên là Thủy Lục là do ý nghĩa „chư tiên đến ăn trong các dòng nước,
quỷ đến ăn nơi đất sạch”. Duyên khởi của pháp hội này là do Tiêu Diễn (Lương Vũ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 98
chức Niệm Phật Thất, bọn họ liền bỏ đi không làm, chỉ dùng mấy trăm
đồng để niệm Phật. Nếu Quang tán thành họ làm đàn Thủy Lục thì hai
người [mỗi người] đều phải tốn hơn tám trăm đồng, đủ thấy người thế
gian phần nhiều thích chuyện náo nhiệt phô trương, chứ không phải là
chân thật cầu siêu cho người đã khuất và phổ độ cô hồn!
Giấy vàng bạc cũng chớ nên bỏ, mà cũng không nhất định phải thiêu
bao nhiêu. Cần biết: Đây là thứ dùng để cứu giúp cô hồn, chứ Phật, Bồ
Tát và người vãng sanh trọn chẳng dùng đến. Cũng là nhờ Phật lực, pháp
lực, tâm lực mà biến ít thành nhiều. Nếu mỗi người đều được một tờ thì
dù số đến ngàn vạn vạn tờ cũng chẳng thể trọn khắp được vì cô hồn và
quỷ thần trọn khắp hư không vậy! Nếu biết nghĩa “biến ít thành nhiều”
thì cái tâm cứu tế cô hồn cũng trọn hết, mà cũng không mắc lỗi quá sức
phung phí. Ấy là do lòng ai nấy chí thành làm thì tâm lực trọn khắp, của
cải trong cõi âm cũng được trọn khắp theo! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư gởi cho cư sĩ Lý Huệ Trừng bàn về chuyện [xử trí] tro
thiêu hóa kinh và tiền vãng sanh)
* Đức Phật vì chúng sanh trong chín pháp giới nói ra, chúng ta há
nên chẳng tự lượng, cứ chuyên chú theo cái nhìn của bậc tối thắng ư?
Thân trượng sáu hay tám thước, đức Phật đã từng giảng qua cho chúng
ta. [Đức Phật đã] vì kẻ Hạ Phẩm trước khi đọa địa ngục mà rộng mở
pháp Trì Danh, tức là Quán Kinh vẫn coi Trì Danh là hạnh thiết yếu
nhất. Vô Lượng Thọ Kinh nói cặn kẽ thệ nguyện của Phật và những
tướng thanh tịnh, đấy chính là bí quyết quan trọng cho người tu tập dựa
theo kinh Tiểu Bổn (kinh A Di Đà). Do có hai kinh này nên biết văn tự
của kinh Tiểu Bổn chỉ là toát yếu. Do vậy, biết rằng: Tuy y theo Tiểu
Bổn, chớ nên nghĩ hai kinh kia không khẩn yếu rồi coi thường!
Đối với sự tu trì, nếu thật sự chí thành thì một lần chiêm ngưỡng,
một lạy, một lượt xưng danh đều tiêu diệt được vô lượng tội, tăng vô
lượng phước, chứ không phải là nhất định phải tu theo một cách nào mới
được! Tâm địa thanh tịnh, thánh cảnh hiện tiền, nhưng đấy vẫn là những
Đế) mộng thấy thần tăng dạy lập trai hội nhằm phổ tế quần linh trong lục đạo tứ
sanh. Vua bèn cầu cao tăng đọc khắp các kinh điển, y theo chuyện A Nan gặp quỷ
Diện Nhiên, thiết lập pháp hội thí thực bình đẳng, soạn ra khoa nghi. Theo Phật Tổ
Thống Ký, pháp hội Thủy Lục đầu tiên được cử hành tại chùa Kim Sơn vào năm
Thiên Giám thứ tư (505) đời Hậu Lương. Về sau khoa nghi này thất truyền. Đến niên
hiệu Hàm Thuần đời Đường, pháp sư Đạo Anh chùa Pháp Hải tại Trường An được dị
nhân chỉ điểm, tìm lại được khoa nghi bèn tổ chức và lưu truyền pháp hội này.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 99
gì ta sẵn có. Há nên như đứa con nghèo nhặt được vàng bèn mừng vui
quá mức như điên, như cuồng? Đã có tình trạng ấy, hoàn toàn là tính
cách của phàm tình. Nếu chẳng suy xét phản tỉnh, khó khỏi bị ma dựa!
Xưa kia, đại sư Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa, đến chỗ “thị danh chân
tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” (đấy gọi là chân tinh
tấn, đấy gọi là chân pháp cúng dường Như Lai) hoát nhiên đại ngộ, lặng
lẽ nhập định, đích thân thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan.
Nếu có tướng trạng mừng rỡ điên cuồng không kiềm chế được thì làm
sao nhập định cho được? Suy nghĩ điều này sẽ biết: Thánh cảnh hiện bèn
mừng rỡ như điên thì đều là phàm tình, rất trái nghịch thánh trí. Nếu
chẳng tự lượng, cũng nguy hiểm lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời đại sư Tế Thiện)
* Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Nếu đời
trước không có Tịnh nhân, sẽ rất khó sanh lòng tin. Thiền giả lấy “kiến
tánh thành Phật” để tự khoe tài, Giảng giả (người học Giáo) lấy hoằng
dương Giáo Quán để tự khoe khoang. Họ chẳng những không chịu đề
xướng [pháp môn Tịnh Độ], mà còn cực lực đả phá, bài xích, đa phần là
như vậy. Chúng sanh đời Mạt Pháp chẳng gặp được pháp môn Tịnh Độ
dẫu có thể minh tâm kiến tánh, thông hiểu Giáo Quán sâu xa, ai có thể
chẳng đoạn Phiền Hoặc mà liễu sanh thoát tử được? Quang túc nghiệp
sâu nặng, mới sanh được sáu tháng liền bị bệnh mắt, từ đấy suốt một
trăm tám mươi ngày chưa từng mở được mắt, trừ lúc ăn ngủ ra, khóc
suốt ngày đêm. Đến khi lành bệnh, còn được thấy bầu trời. Vào trường
đi học, trúng phải chất độc của Hàn - Âu - Châu - Trình rất sâu, may
không có tài như các ông ấy. Nếu không, đã mang quả báo hãm vào đọa
địa ngục ngay trong khi còn sống rồi! Về sau biết họ sai trái, do vậy liền
xuất gia. Cửa ngõ Tông - Giáo cao vời, không sức nào ngóng dò được,
chỉ mong cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương.
Hai mươi năm trước, nhập chúng tại chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà, sống
nhàn tản. Hai chữ Ấn Quang trọn chẳng dùng trong các giấy tờ viết lách,
vì thế được yên vui không phiền nhiễu. Năm Dân Quốc thứ sáu (1917),
đã có hai người (tức Từ Úy Như và Châu Mạnh Do) đem những lá thư
Quang gởi cho bè bạn in thành mấy ngàn bản tặng cho người khác. Năm
sau, Từ Úy Như in Văn Sao. Từ đấy, hằng ngày không được rảnh rỗi.
Quang chỉ đem pháp môn Tịnh Độ nói với bọn họ, mặc cho người ta bảo
tôi “vô tri vô thức!”. Ông đã đọc Văn Sao, An Sĩ Toàn Thư, Liễu Phàm
Tứ Huấn v.v… hãy dùng những điều ấy để tự hành, dạy người, chắc
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 100
chắn thừa thãi có dư. Nếu còn nghiên cứu Tông, Giáo, trộm sợ rằng thấy
lời lẽ nhà Thiền huyền diệu, lý bên Giáo sâu xa, lại coi Tịnh Độ như
chuyện vặt vãnh, đâm ra chẳng ổn thỏa, thích đáng bằng kẻ chất phác
chẳng biết gì, cứ nhất tâm niệm Phật! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh
thần đều không đủ (Hoằng Hóa Nguyệt San số 12 - Ấn Quang Văn Sao Tam Biên,
quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Hóa Phàm)
* Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật lẽ đâu chẳng có chuyện
cứu khổ ách? Quán Âm Bồ Tát tùy cơ chỉ dạy, há lẽ nào chẳng tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương? Người niệm Phật lâm chung thấy Phật và thánh
chúng đích thân đến tiếp dẫn, há nên chấp chết cứng như thế? Nếu đúng
là như vậy thì Phật cũng chẳng đáng gọi là Phật, Bồ Tát cũng chẳng
đáng gọi là Bồ Tát!
Sanh về Tây hãy nên lấy tín nguyện làm gốc, nếu gặp nguy hiểm bèn
niệm Quán Âm. Có tín nguyện thì khi mạng chung quyết định sanh về
Tây Phương, hoặc chỉ chuyên nhất niệm A Di Đà thì gặp khổ ách cũng
được giải thoát. Những điều [cảm ứng như vậy được] sách cổ ghi chép
càng khó tính kể. Nay trong trần lao thì chuyện gì cũng viên thông,
nhưng trong tu trì thì chuyện gì cũng chấp chết cứng, chẳng đáng viên
thông mà lại lầm lạc viên thông, chẳng đáng chấp trước mà cứ chấp
trước chết cứng! Do điều này mà biển khổ sóng dậy liên tục, luân hồi
không ngừng nghỉ vậy. Người có kiến giải như vậy khác nào trẻ nít, con
người như vậy nào đáng để cùng bàn luận nữa! (Vĩnh Tư Tập - Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời sư Như Sầm hỏi thay cho bạn)
* Nếu người học Phật chẳng chú trọng tận tụy thực hành thì có khác
gì kép hát trong cõi đời đâu! Trên sân khấu, khổ - sướng, buồn - vui diễn
cho thật giống như đúc, nhưng thật ra cũng chẳng có mảy may gì liên
quan đến ta. Như vậy thì sẽ trở thành gã si ham danh ghét thật, tâm
muốn lừa người dối Phật, thật sự chỉ tạo thành cái lỗi lừa người dối Phật.
Người còn chẳng nên lừa, huống gì là Phật? Phải chú trọng thật sự thực
hiện thì mới nên. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời cư sĩ Hứa Hy Đường)
* Đức Như Lai chẳng xuất hiện, cõi đại thiên giống như đêm dài.
Phật nhật đã chiếu khắp, các pháp đều rạng rỡ. Chẳng riêng gì tam thừa
thánh nhân mau lên được bờ giác, mà còn khiến cho hàm thức trong sáu
đường đều dần dần thoát vòng khổ. Phật dùng một âm diễn thuyết pháp,
chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu. Ví như một trận mưa nhuần thấm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 101
trọn khắp, cây cỏ mỗi loài tự sum xuê; một vầng trăng hiện bóng khắp
nơi, nơi sông biển tùy mỗi người thấy khác. Chỉ rõ Phật tánh sẵn có,
chúng sanh và Phật vốn đồng. Dạy rõ do tu trì thuận hay nghịch [Phật
tánh] mà phàm - thánh thật khác biệt. Chia ra nói thành năm thừa, để
mong [chúng sanh] theo đường về nhà. Chẳng lập một pháp ngõ hầu
hiểu gốc mà biết ngọn. Ngũ tánh71, tam thừa cùng về một đạo; Tứ Đế,
Lục Độ chẳng ngoài một tâm. Hết thảy pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm,
pháp pháp dung nhiếp. Hết thảy hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thật, hạnh hạnh
viên thông. Đây chính là quy củ lớn lao nuôi dạy hàng ngàn căn cơ của
đức Như Lai, là nghĩa lý lớn lao trong giáo pháp suốt cả một đời đức
Phật.
Xét từ lúc đạo Phật được hưng khởi vào đời Chiêu Vương nhà
Châu72, đạo truyền khắp cõi Tây Càn (Ấn Độ), đến đời Hán Minh Đế,
pháp được truyền sang Đông Chấn (Trung Hoa). Thoạt đầu chỉ được
hoằng truyền nơi đất Bắc, đến đời Ngô mới bắt đầu truyền xuống
phương Nam. Từ đời Tấn trở đi, đạo được truyền khắp trong nước, ngoài
nước: Cao Ly, Nhật Bản, Tiêm La (Thái Lan), Miến Điện đều cùng được
gội pháp hóa của Phật trong thời ấy. Ngài La Thập ở Quan Trung73, Viễn
71 Ngũ Tánh là một khái niệm phân chia căn tánh theo tông Hoa Nghiêm, dựa trên
căn tánh thành Phật của chúng sanh mà chia thành năm loại:
1. Bất Định Tánh Bán Thành Phật, tức căn tánh bất định, nếu gặp được pháp Nhị
Thừa sẽ tu tập pháp Nhị Thừa, nếu gặp pháp Bồ Tát sẽ tu tập pháp Bồ Tát, khả năng
thành Phật tùy theo căn duyên nên gọi là “bán”.
2. Vô Chủng Tánh Bất Thành Phật: Chỉ hạng người không có thiện căn, chánh tín,
bài bác nhân quả, chẳng chịu nhận lãnh sự hóa độ, cam phận chìm đắm trong sanh
tử, chẳng cầu giải thoát.
3. Thanh Văn Tánh Bất Thành Phật: Những người mang căn tánh Thanh Văn, chỉ tu
tập pháp Tứ Đế, chứng chân không Niết Bàn, tham đắm không tịch, kinh sợ sanh tử,
chẳng muốn độ sanh, tấn tu Phật đạo.
4. Duyên Giác Tánh Thành Phật: Những người mang căn tánh Duyên Giác, chỉ quán
Thập Nhị Nhân Duyên, chứng chân không Niết Bàn, cố chấp thiên không, chẳng cầu
Phật đạo.
5. Bồ Tát Tánh Toàn Thành Phật: Bồ Tát có thể tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn, bi trí song vận, rộng tạo các nhân, chứng quả Bồ Đề.
72 Theo quan điểm cổ truyền của Phật môn Trung Hoa, đức Phật giáng sanh nhằm
thời Châu Chiêu Vương (995-977 trước Công Nguyên).
73 Lãnh thổ nhà Diêu Tần nằm trong địa phận tỉnh Thiểm Tây, do vùng này nằm lọt
giữa các cửa ải Hàm Cốc, Tán Quan, Vũ Quan và Hào Quan nên thường gọi là Quan
Trung.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 102
Công tại Lô Sơn, công huân hoằng pháp không ai to lớn bằng. Do vậy,
pháp được truyền đến các nước, đều được bình đẳng hưởng ơn Phật.
Từ đấy trở đi, đến thời Đại Đường, kinh, luận, pháp môn thảy đều
trọn vẹn. Tính chung những tông lớn thì có năm tông là Luật, Giáo,
Thiền, Mật, Tịnh. Cố nhiên tri thức các tông đều thông suốt các pháp,
nhưng để hoằng dương thì hoặc kiêm, hoặc chuyên, chỉ mong sao khế
cơ, nên không nhất định! Đa số là bậc đã chứng thánh quả, thừa nguyện
thị hiện, hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh. Khi sống được vua
quan khâm phục, kính ngưỡng, dân chúng tôn sùng; mất đi, trời người
buồn khóc, cầm thú kêu ai oán. Làm bậc thầy mô phạm cho cõi đời khi
ấy, làm cầu bến cho đời sau. Đạo đức, lợi ích nói chẳng thể cùng!
Rặng Côn Luân tuy sanh ngọc, vẫn có đá tảng; rừng chiên-đàn phần
nhiều thơm ngát, vẫn sanh cỏ thối. [Đó là vì chư Tăng] hoặc thừa
nguyện thị hiện bệnh hạnh74, hoặc do mê tâm nên phạm Thanh Quy. Dấu
tích của những lợi ích bị mất mát và những khổ báo chiêu cảm đều đáng
để khơi gợi thiện tâm cho người đời sau, răn dạy đời Mạt phải gắng chí,
vĩnh viễn là gương soi về sự trái đạo nghịch pháp trong pháp môn. Vì
thế, chưa chắc [những gương phạm giới ấy] đã là trái nghịch sự giáo hóa
của Phật, mà là nhằm khiến cho con người y giáo phụng hành vậy. (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao, quyển Hạ, Lời tựa cho cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục)
74 “Bệnh hạnh” là một trong năm hạnh của Bồ Tát, được nói đến trong kinh Đại Bát
Niết Bàn. Theo đó, Bồ Tát vận dụng lòng vô duyên đại từ, vận tâm bình đẳng, nhằm
cứu bạt những chúng sanh đang khổ sở phiền não mà thị hiện các hạnh gây tạo tội
nghiệp lớn lao. Chữ Bệnh ở đây chỉ cho những tội nghiệp, vì tội nghiệp chính là
bệnh nơi thân - khẩu - ý. Chẳng hạn như ngài Ưu Đà Di thị hiện phạm nhiều hạnh
bất tịnh để Phật có cơ duyên chế giới, cũng như ngài Đề Bà Đạt Đa thị hiện phá hòa
hợp Tăng, thị hiện phạm đại tội Ngũ Nghịch, thị hiện đọa địa ngục A Tỳ để cảnh tỉnh
người đời sau về quả báo Ngũ Nghịch, hoặc như các vị Hàn Sơn, Thập Đắc, Tế Điên
thị hiện điên khùng, không giữ Thanh Quy đều nhằm hóa độ chúng sanh.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 103
IV. Luận sanh tử đại sự
1. Chỉ ra nỗi nguy hiểm trong nẻo luân hồi
* Đại trượng phu sống trong thế gian, không chuyện nào chẳng tính
toán sẵn, nhưng chỉ có mỗi một chuyện sanh tử đa số đều ngược ngạo bỏ
mặc không hỏi tới, mãi cho đến khi báo hết mạng tận phải theo nghiệp
chịu báo, chẳng biết một niệm tâm thức này sẽ lại đi thọ sanh trong
đường nào! Cõi trời người là quán trọ, tam đồ là quê nhà! Mỗi lần thọ
báo trong tam đồ là trăm ngàn kiếp, trọn chẳng có dịp nào lại được sanh
trong cõi trời người! Do vậy nói rằng: “Đương nhiên không thể nào
không miệt mài cầu tìm pháp liễu sanh tử!” (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bản in gộp chung hai sách Tịnh Độ Vấn Biện và Công
Quá Cách)
* Mạng sống của con người trong thế gian chớp mắt đã qua, một hơi
thở ra không hít vào được nữa, chẳng biết lại đi về đâu! Nếu chẳng hiểu
chắc chắn một pháp Tịnh Độ, thật đáng sợ hãi đến cùng cực! Ông Tào
Tung Kiều kể: Khi cha ông ta đi học, một bạn học là con nhà phú ông,
hết sức đần độn. Thầy giáo dạy hắn, hắn còn chưa hiểu, cha ông Tào vừa
nghe liền thuộc được ngay. Gã con phú ông ấy chết sớm, về sau thấy hắn
đến [nhà ông Tào], rồi chợt chẳng thấy nữa; Tào Tung Kiều bèn sanh
được một gái, nay đã ba mươi mốt tuổi, cực thông minh, học hành hoàn
toàn chẳng phải tốn công. Thoạt đầu là con trai phú ông, [đời] sau làm
cháu nội gái của người bạn học. Con người luân hồi, thật đáng sợ thay!
Đây chỉ là thay đổi hình tướng nam - nữ, chứ kẻ biến đổi toàn thể thì
trong mười người đã hết tám, chín. Buồn thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Con chim Anh Vũ (két, vẹt) do gặp ngài A Nan giảng cho pháp Tứ
Đế bèn sanh lòng hoan hỷ, cũng như công đức do lúc bình thường trông
thấy Tăng bèn hoan hỷ, báo trước cho người nhà biết, nên được bảy lần
sanh lên Lục Dục Thiên75, rồi mới sanh trong loài người, chứng A La
75 Lục Dục Thiên, hiểu theo nghĩa rộng là sáu tầng trời trong cõi Dục từ Tứ Vương
Thiên cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên (tức Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi, Dạ Ma,
Đâu Suất, Hóa Lạc và Tha Hóa Tự Tại). Hiểu theo nghĩa hẹp, Lục Dục Thiên chỉ là
tầng trời Tha Hóa Tự Tại (Paranirmita-vaśa-vartin). Cõi trời này còn được dịch là
Tha Hóa Tự Chuyển Thiên, Tha Hóa Lạc Thiên, Tha Ứng Thanh Thiên, Ba La Ni
Mật Thiên, do Tự Tại Thiên Vương (Vaśavartti-devarāja) làm chúa tể. Trong Dục
giới, cõi trời này tự tại khoái lạc nhất, do có thể thụ hưởng những sự khoái lạc do
người khác biến hóa ra.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 104
Hán. Do vậy, biết liễu sanh tử khó khăn, chẳng thể tính toán được năm
tháng của bảy lần sanh trong Lục Dục Thiên! (Nhân gian năm mươi năm
bằng một ngày đêm nơi trời Tứ Vương, cứ lên một tầng trời là tính gấp đôi lên,
[chẳng hạn như] cõi trời Đao Lợi [một ngày đêm] bằng một trăm năm trong nhân
gian, trời Dạ Ma bằng hai trăm năm, Đâu Suất bằng bốn trăm năm, Hóa Lạc tám
trăm năm, Tha Hóa một ngàn sáu trăm năm, tuổi thọ cũng tăng gấp bội. Tứ Vương
thọ năm trăm tuổi, Đao Lợi một ngàn tuổi, càng lên trên càng tăng gấp bội). Đấy là
pháp Tiểu Thừa, mặc sức nhờ vào tự lực để liễu sanh tử.
Nếu sanh lòng tin phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì
không có ai chẳng trong đời này liền được sanh về Tây Phương. Sanh về
Tây Phương thì sanh tử đã xong. Hãy nên phát tâm khẩn thiết! Pháp môn
Niệm Phật này quả thật là đạo trọng yếu vô thượng đại từ bi của đức
Phật nhằm phổ độ hết thảy chúng sanh khiến cho họ là những kẻ không
có sức liễu sanh tử sẽ có thể mau chóng liễu sanh tử ngay trong đời này.
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ năm - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, quyển 1, Thư trả
lời cư sĩ Diệp Sính Thần)
* Con người sống trong thế gian nguy hiểm muôn vẻ, một hơi thở ra
không hít vào được, chẳng biết sẽ lại có hình dạng như thế nào. Ông đã
đầu thai vào loài người, may là tâm địa sáng suốt, một niềm hiếu thuận,
nhân từ, khôi phục được bản thể. Nếu như mê muội, sẽ khó quay về!
Phải biết: Đây vẫn còn là tin tức tốt lành nhất, nếu đầu thai vào dị loại thì
càng nguy hiểm hơn! Do vậy, biết rằng: Chúng sanh trong lục đạo đều
không có giống nhau hay khác biệt, đều theo nghiệp thọ báo, không sanh
ở chỗ nào nhất định. Ông đã trải qua nạn ấy, tâm hãy nên quyết định cầu
sanh Tây Phương, ngõ hầu do cơn nguy hiểm này sẽ vĩnh viễn hưởng
yên vui. Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Triệt Ngộ Ngữ
Lục đã thỉnh được. Lại còn các sách đã in gần đây đóng thành sáu gói
gởi đi, mong hãy xem xét, thâu nhận. Chuyện ăn chay là do chẳng biết
con người và súc vật luân hồi, sanh ra lẫn nhau, giết hại lẫn nhau, lầm
lẫn cho rằng con người nên ăn chúng nó, chúng nó [sanh ra là] để cho
con người ăn. Đến khi đầu thai vào loài ấy mới biết những suy tính trước
kia là sai lầm. Ông đã trải qua một phen nguy hiểm ấy, cố nhiên hãy nên
gắng sức tu học, ăn chay. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Hòa - 2 )
* Một hơi thở ra không hít vào được sẽ lại bị luân hồi trong sáu nẻo
thì khổ chẳng thể nào tưởng tượng được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 105
* Nghe nói [các hạ] muốn đến Kê Túc76, trộm nghĩ không cần phải
đi xa, chỉ cần chọn chỗ có thể an thân, tùy duyên niệm Phật là được rồi!
Đi đến núi Kê Túc, nếu theo đường biển sẽ rất tốn tiền; nếu theo đường
bộ sẽ khổ sở chẳng thể nói nổi! Sao bằng lật ngã cột phan ngay trước
cửa77, tùy thời tùy xứ gặp gỡ tôn giả Ca Diếp chẳng hay hơn ư? Tiếc cho
tinh thần có hạn, lo liệu sự nghiệp cuối cùng [của một đời người] là
chuyện khẩn yếu bậc nhất của người cao tuổi vậy! (Hoằng Hóa Nguyệt San
số thứ hai - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư gởi cư sĩ Cao Hạc
Niên - 2).
* Đã không sanh về Tây Phương được thì đời sau chắc chắn có si
phước để hưởng, do hưởng phước sẽ tạo nghiệp, chắc chắn khi một hơi
thở ra không hít vào được nữa sẽ đọa lạc trong tam đồ vì ác nghiệp ngăn
lấp vậy! Tâm thức chẳng rõ, dẫu có một vị Phật sống đến cứu bà cũng
chẳng cứu được, há chẳng đáng thương đáng xót lắm ư? (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên)
2. Khuyến khích chuyên cậy vào Phật lực
* Trộm nghĩ: Chúng sanh đời Mạt Pháp căn cơ cạn mỏng, nếu
không cậy vào Phật lực, chắc chắn khó thể liễu thoát. Do vậy, phải giữ
chắc một môn “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” thì mới có thể
thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên cõi chín phẩm sen kia. Nếu lầm lẫn
cho mình là cao quý, muốn cậy vào sức của chính mình để tu các pháp
76 Núi Kê Túc (Kukkutapāda-giri) còn dịch là Kê Cước, Tôn Túc, Lang Túc, Lang
Tích, là một ngọn núi thuộc nước Ma Kiệt Đà, cách Già Da (Gayā) hơn 25 km về
phía Đông Bắc là nơi ngài Ma Ha Ca Diếp nhập diệt. Đại Đường Tây Vực Ký quyển
chín đã mô tả: “Núi cao chót vót, hang sâu thăm thẳm không đáy, cây to phủ kín
hang núi… Sau này, tôn giả Ca Diếp Ba nhập diệt nơi ấy nên [người ta] không dám
gọi thẳng tên núi mà gọi là Tôn Túc”. Do tại huyện Bảo Xuyên tỉnh Vân Nam cũng
có một hòn núi mang tên Kê Túc nên Phật giáo Trung Hoa đã đồng nhất núi này với
núi Kê Túc tại Ấn Độ, và nơi ấy cũng được coi là đạo tràng ứng hóa của ngài Ma Ha
Ca Diếp.
77 Đây là một công án Thiền (được đánh số 22) trong bộ Vô Môn Quan với nhan đề
Ca Diếp Sát Can (Cột phan của Ca Diếp). Theo đó, ngài A Nan hỏi tôn giả Ca Diếp:
“Ngoài y ca-sa vàng truyền lại cho ngài, đức Thế Tôn còn để lại vật gì nữa hay
không?” Ngài Ca Diếp liền gọi: “A Nan!” A Nan thưa: “Dạ!”, ngài Ca Diếp bảo:
“Lật đổ cái cột phan trước cửa đi” (Đảo khước môn tiền sát can). Theo ngu ý, ở đây
Tổ Ấn Quang khuyên ông Cao Hạc Niên hãy lắng lòng tu tập, lãnh hội lời dạy của tổ
Ca Diếp thì chẳng khác gì ngày ngày gặp gỡ Ca Diếp tôn giả, hơn là bôn ba đến núi
Kê Túc.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 106
môn Thiền, Giáo, Mật hòng liễu sanh tử thì phần nhiều sẽ là “có nhân,
không quả”. Vì sao vậy? Dù có thể triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh
tạng, nhưng chưa đoạn hết sạch Phiền Hoặc, chắc chắn chẳng có phần
liễu sanh tử, huống hồ kẻ chưa thể triệt ngộ tự tâm và chưa thể thâm
nhập ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Phùng Thiên Tây và Trịnh Viên Oánh)
* Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí -
ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự
lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt
tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước
Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời
thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng)
* Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, bất luận Đại, Tiểu, Quyền,
Thật, hết thảy pháp môn đều phải dùng Giới - Định - Huệ để đoạn tham sân - si cho hết sạch không còn sót thì mới có thể liễu sanh thoát tử. Điều
này khó như lên trời, chẳng phải là chuyện hàng phàm phu sát đất đầy
dẫy triền phược như chúng ta mà hòng mong mỏi được. Nếu dùng lòng
tin chân thành, nguyện thiết tha, cầu sanh Tây Phương thì bất luận công
phu cạn hay sâu, công đức lớn hay nhỏ, đều có thể cậy vào Phật từ lực
vãng sanh Tây Phương. Điều này giống như ngồi chiếc tàu thủy to vượt
biển, chỉ chịu lên tàu liền có thể đến được bờ kia, ấy là nhờ sức tàu chứ
chẳng phải bản lãnh của chính mình. Tín nguyện niệm Phật cầu sanh
Tây Phương cũng giống như thế, hoàn toàn là Phật lực, chứ không phải
đạo lực của chính mình.
Hễ đã sanh về Tây Phương thì sanh tử đã liễu, phiền não chẳng sanh,
đã giống như người vận dụng công phu tại nơi ấy đã lâu, đã đoạn sạch
phiền não liễu sanh tử. Vì thế, niệm Phật quyết định phải cầu sanh Tây
Phương, chớ nên cầu phước báo trời người trong đời sau, chớ nên nương
theo những kẻ chỉ dẫn người khác niệm Phật cầu khai ngộ nhưng lại rời
lìa tín nguyện. Niệm Phật cốt yếu là nhiếp trọn sáu căn. Trong lúc niệm
Phật, nhiếp tai lắng nghe kỹ, đấy chính là biện pháp để nhiếp sáu căn. Có
thể chí tâm lắng nghe kỹ thì công đức so với việc “chẳng lắng nghe,
niệm tán loạn” khác biệt rất lớn. Pháp này bất luận người thượng, trung,
hạ căn đều dùng được, đều được lợi ích, chỉ có lợi, không điều tệ. Hãy
nên bảo hết thảy mọi người tu đều tu theo pháp này (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Trương Tịnh Giang)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 107
* Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực để liễu sanh tử; pháp môn
Niệm Phật cậy vào Phật lực để liễu sanh tử. Cậy vào tự lực để liễu sanh
tử chẳng phải là chuyện có thể thực hiện xong trong một hai đời. Bậc
chứng Sơ Quả còn phải bảy lần sanh trong cõi trời và nhân gian, mới
chứng Tứ Quả. Tứ Quả là liễu sanh tử! Người chưa chứng Sơ Quả thăng
trầm bất định. Kẻ đời này tu hành rất khá, đời sau tạo nghiệp lớn lao,
trong trăm kẻ có đến hơn chín mươi người.
Bậc chứng Sơ Quả, dẫu dùng oai lực bức bách họ tạo nghiệp, họ thà
chịu xả mạng, chẳng chịu tạo những ác nghiệp giết, trộm, dâm v.v…
Nếu không xuất gia, cũng sẽ cưới vợ. Nếu buộc họ tà dâm, họ thà chết
chẳng làm! Vị ấy tuy chưa liễu sanh tử, quyết định chứng Sơ Quả, dẫu
dùng oai lực bức bách họ tạo nghiệp, họ thà chịu xả mạng, chẳng chịu
tạo những ác nghiệp giết, trộm, dâm v.v… quyết định chẳng bị đọa
xuống, còn kẻ chưa chứng Sơ Quả thì không chắc! Dẫu một đời, hai đời
chẳng tạo nghiệp, chắc chắn khó thể vĩnh viễn không tạo nghiệp. Vì thế
biết: Cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân khó khăn như lên trời
vậy!
Người niệm Phật ắt phải sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết
tha, quyết định cầu Phật gia bị trong đời hiện tại, đến lúc lâm chung
được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Lúc bình thường niệm Phật,
phải [thành khẩn] như làm đám tang cho cha mẹ, [phải tích cực] như cứu
đầu cháy; lại phải đem pháp môn này tùy phần tùy sức nói với hết thảy
mọi người; lại còn đối với mọi chuyện đều phải trọn hết bổn phận của
chính mình để được mãn nguyện. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời thầy Tu Tịnh)
* Thuốc không quý - hèn, thuốc nào trị được bệnh [thì thuốc ấy] là
thuốc hay. Pháp chẳng cạn - sâu, [pháp nào] hợp căn cơ sẽ là pháp mầu
nhiệm. Đang thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, nếu chẳng
nương vào hoằng thệ nguyện lực của đức Như Lai, ai có thể đoạn Phiền
Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng vô sanh?
Ví như bệnh đã lậm vào tạng phủ, tuy [bệnh tình] hòa hoãn, vẫn
không thể làm gì được, nhưng nếu chịu uống thuốc A Già Đà trị chung
vạn bệnh này, thì chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được
bản tánh, chứng Vô Sanh” vừa nói trên đây ai nấy đều có thể đích thân
chứng được, hoàn toàn chẳng khó khăn gì! Vì sao vậy? Do người ấy
dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 108
Tây Phương, lâm chung chắc chắn sẽ được Phật tiếp dẫn, liền được vãng
sanh. Đã được vãng sanh, thân cận Phật Di Đà dài lâu, theo gót hải
chúng, còn có thể viên mãn Bồ Đề, triệt chứng Niết Bàn rốt ráo, huống
là những chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh,
chứng Vô Sanh” vừa mới nói đó ư?
Do vậy, biết rằng: Trong thời tiết78 này, chỉ có một pháp này là thích
hợp căn cơ nhất. Nếu bỏ pháp môn cậy vào Phật lực này để tu những
pháp môn tự lực khác, đừng nói hạng trung - hạ căn không có cách chi
mong mỏi, dẫu là thượng căn chắc chắn cũng khó lòng thành tựu ngay
trong một đời được; phần nhiều chỉ gieo nhân cho đời sau, khó được lợi
ích thật sự! Vì thế, hàng tri thức xưa nay cực lực hoằng dương pháp này
để mong trên báo ơn Phật, dưới độ những người cùng hàng. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Tịnh Độ Tập Yếu79)
* Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn vừa cực khó lại vừa cực dễ.
Nói là khó thì [là do vì] bậc đại triệt đại ngộ thâm nhập kinh tạng còn
chẳng tin được. Nói là dễ [là do vì] ngu phu, ngu phụ chí thành khẩn
thiết niệm, liền có thể lúc lâm chung hiện tướng lành, vãng sanh Tây
Phương. Những vị đại triệt đại ngộ, thông hiểu sâu xa kinh luận kia còn
chẳng mong ngang vai bằng lứa với họ! Ấy là vì một đằng bỏ Phật lực,
chuyên cậy vào tự lực; một đằng chuyên cậy vào Phật từ lực, lấy Phật
lực dẫn phát tự lực. Do Phật lực, pháp lực, sức sẵn có trong tự tâm, ba
pháp khế hợp, nên được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Pháp
này quan trọng nhất là Tín - Nguyện. Có Tín - Nguyện sẽ chắc chắn chịu
tích cực tu trì. Chịu tu trì liền được lợi ích vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân)
* Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong suốt cả một
đời Ngài, tuy là Đại, Tiểu, Đốn, Tạm bất đồng, Quyền, Thật, Thiên,
Viên sai khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm khiến cho hết thảy
chúng sanh đều theo đường về nhà, khôi phục tâm tánh mà thôi! Nhưng
những pháp ấy đều cần phải tự lực tu trì để đoạn Hoặc chứng Chân, liễu
78 Xin đừng hiểu lầm chữ “thời tiết” ở đây là weather, mà có nghĩa là thời thế, đúng
dịp, đúng lúc nhân duyên chín muồi, các duyên hội đủ, như trong thành ngữ “nhân
duyên thời tiết” thường được dùng trong kinh sách.
79
Tịnh Độ Tập Yếu như tên gọi là một cuốn sách tập hợp những lời dạy chánh yếu
về Tịnh Độ của chư Bồ Tát, chư tổ sư, đại đức, do hai ông Phan Huệ Thuần và Thiệu
Huệ Viên biên soạn. Xin đừng lẫn lộn với tác phẩm Tịnh Độ Thập Yếu của đại sư
Ngẫu Ích.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 109
sanh thoát tử, hoàn toàn không được một sức nào khác nhiếp trì hòng
chắc chắn được siêu phàm nhập thánh, thành tựu sở nguyện ngay trong
đời này!
Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào sức thệ nguyện, nhiếp thọ của
Phật và lòng thành tín nguyện niệm Phật của chính mình, bất luận đã
chứng ngộ hay không; thậm chí kẻ chưa đoạn mảy may Phiền Hoặc nào
vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực liền được vãng sanh Tây Phương
ngay trong đời này. Đã được vãng sanh, nếu là người đã chứng ngộ liền
lên thẳng Thượng Phẩm, kẻ chưa đoạn Hoặc vẫn dự vào dòng thánh.
Do vậy biết pháp môn Tịnh Độ rộng lớn không có gì ra ngoài được,
như trời che khắp, dường đất chở đều, thống nhiếp các căn cơ trọn chẳng
sót vật nào! Thật có thể nói là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành
chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn và độn
căn. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được; dưới là
phàm phu nghịch ác vẫn có thể dự vào trong đó. Thỏa thích bản hoài
xuất thế của đức Như Lai, mở ra con đường chánh để chúng sanh trở về
nguồn. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương
cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.
Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, bỏ
pháp này tu pháp khác thì chẳng những hàng phàm phu bộn bề phiền não
chẳng có cách nào thoát ly sanh tử, mà ngay cả bậc thánh nhân Thập Địa
cũng khó thể viên mãn Bồ Đề! Vì vậy, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh đều phát tâm
Kim Cang hoằng truyền, tán dương, ngõ hầu lục đạo, tam thừa đều được
vượt ngang ra khỏi tam giới, khôi phục tâm tánh vốn có. (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu)
* Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không.
Hết thảy các pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này,
hết thảy các hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này.
Người thiên tư thông minh thường vì [tưởng lầm pháp này] sự giản dị, lý
tầm thường nên chẳng bỏ công xét kỹ, chẳng những chính mình không
tu tập, lại còn thốt lời bàn luận, ngăn trở, phá hoại, bài xích người khác
tu trì, nhằm tỏ vẻ chính mình cao minh. Điều này đúng là “biến quán lục
hợp nhi bất kiến lai mao” (thấy trọn vũ trụ nhưng chẳng thấy được sợi
lông nơi khóe mắt), biết trọn các pháp nhưng chẳng biết chính mình thế
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 110
trí biện thông, tự nghĩ mình Tông - Giáo đều thông, đức Phật gọi [kẻ ấy]
là kẻ đáng thương xót!
Họ chẳng nghĩ chỗ quy tông của kinh Hoa Nghiêm là cầu sanh Tịnh
Độ. Văn Thù, Phổ Hiền thảy đều phát nguyện vãng sanh. Những vị ấy là
người như thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào? Dẫu bọn ta có hiểu
được chút giáo nghĩa, nhưng Phiền Hoặc chưa đoạn, sanh tử chưa giải
quyết xong, hễ trải qua một phen biến đổi, sanh sang kiếp sau, há có thể
chẳng mê mất được ư? Chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Nguyên do
đức Như Lai đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ này là nhằm làm cho
thượng thánh hạ phàm đều cùng thoát được sanh tử ngay trong đời này.
Huống chi hai vị Đại Sĩ kia thành Phật đã lâu, thị hiện thuộc địa vị Đẳng
Giác, lấy thân làm gương cho kẻ khác phát nguyện cầu sanh; ta là hạng
người nào mà dám chống đối các vị ấy?
Nghĩ kỹ như thế, chắc chắn sẽ nhanh nhảu thay đổi, tuân theo giáo
huấn phổ độ thánh - phàm của đức Như Lai, noi theo Văn Thù, Phổ
Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thiện Đạo, Vĩnh Minh
v.v… các vị đại Bồ Tát, Tổ Sư mà nhất trí tiến hành, dùng mười đại
nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngõ
hầu viên mãn Phật quả, làm bậc đại trượng phu rốt ráo. Ai chịu cam lòng
nhường đại lợi ích này cho người khác, rồi tự mình ở yên trong nhà lửa
tam giới, thường bị thiêu đốt vậy thay? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
* Nghe Di Đà thệ nguyện, dạy chúng sanh phương hướng “tâm làm,
tâm là” thích hợp khắp chín giới. Pháp môn Tịnh Độ là đạo thành thủy
thành chung của Như Lai, thỏa thích lớn lao bản hoài của Phật. Phật, Tổ
xuất thế đều lập pháp thuận theo cơ nghi. Kẻ độn căn đời Mạt nên chọn
lấy pháp vừa khế lý lại vừa khế cơ để chuyên ròng dốc sức, ngõ hầu
nương theo Phật từ lực, vượt ngang ra khỏi tam giới, ngay trong một đời
này sẽ giải quyết xong xuôi đại sự sanh tử chẳng thể dễ dàng giải quyết
trong trăm ngàn vạn kiếp. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời
tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự)
* Tâm đăng của Phật - Tổ thường luôn sáng ngời. Lý tột cùng Thiền
-Tịnh tràn ngập pháp giới, ai nấy đều sẵn có, cần chi phải tán dương? Do
vì kẻ chưa hiểu rõ mà phải ghi chú tỉ mỉ bên dưới! Kinh Phạm Võng
dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”. Lại nói: “Ngươi là Phật
sẽ thành, ta là Phật đã thành”. Trong kinh Pháp Hoa, Thường Bất
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 111
Khinh Bồ Tát trông thấy tứ chúng đều lễ bái thưa: “Tôi chẳng dám khinh
quý ngài, quý ngài sẽ đều thành Phật”. Trong hội Hoa Nghiêm, khi đức
Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, than rằng: “Lạ thay! Hết thảy chúng
sanh đều có đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng,
chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết
Trí, Tự Nhiên Trí sẽ được hiện tiền”. Do vậy biết chúng sanh về bản thể
là Phật, nhưng vì mê muội nên chưa ngộ, hoặc ngộ nhưng chưa chứng,
nên chẳng thể tránh khỏi vẫn là chúng sanh!
Pháp khiến cho họ được ngộ, không chi hơn tham Thiền, tức [tham
cứu] điều thường được gọi là “thấy được bản lai diện mục trước khi cha
mẹ sanh ra” nhằm dạy con người hướng về lúc trước khi dấy lên ý niệm
để đích thân thấy được chủ nhân ông. Nếu có thể thấy triệt để thì gọi là
Ngộ; nhưng phiền não chưa đoạn thì vẫn chẳng thể thoát khỏi luân hồi y
như cũ! Nếu có thể đoạn hết sạch Phiền Hoặc thế gian thì mới vượt khỏi
được ba cõi. Do vậy, biết rằng Chứng là chuyện lớn lao, chẳng dễ dàng
gì! Vì thế, chẳng thể không nương vào “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh
Tây Phương” để mong cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh! Suy
nghĩ chín chắn nghĩa này, sẽ biết Như Lai đặc biệt mở ra một môn Tịnh
Độ chẳng phải chỉ để tiếp dẫn riêng hạng hành nhân tầm thường, mà thật
ra còn nhằm bảo vệ những người đã có ngộ chứng trong Tông, trong
Giáo, nhưng chưa đạt đến mức “phàm tình lẫn thánh kiến đều bất khả
đắc”.
Phiền Hoặc hết sạch, đương nhiên sẽ giải thoát. Người đã ngộ đã
chứng nhưng chưa đạt đến mức cùng cực, nếu không có pháp môn Tịnh
Độ che chở, nhiếp trì thì những hành nhân ấy lại phải thọ sanh, kẻ bị
chìm đắm thì nhiều mà kẻ tấn tu thật ít! Cảm ân đức của Phật khiến con
người khôn ngăn nghẹn ngào ứa lệ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách Phật Tổ Tâm Đăng và
Thiền Tịnh Song Úc)
* Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng đều phải tu đến khi
nghiệp tận tình không thì mới có thể liễu sanh thoát tử! Nếu không, dù
có sở đắc, vẫn cứ y như cũ, chẳng làm gì được sanh tử! Như trong hiện
thời, sợ rằng khắp cõi đời cũng khó được một hai người đạt đến địa vị
nghiệp tận tình không! Chỉ có một pháp Niệm Phật nếu đầy đủ tín chân,
nguyện thiết, chí thành niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, dù toàn thân là
nghiệp lực, vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 112
ấy gọi là “đới nghiệp vãng sanh”. Hễ sanh về Tây Phương thì liễu sanh
thoát tử, siêu phàm nhập thánh.
Vì thế, thiện tri thức đời Mạt phần nhiều đều đề xướng Tịnh Độ; bởi
lẽ Tịnh Độ thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt được hiệu quả
nhanh chóng. Thường có những kẻ thông minh, hơi hiểu giáo nghĩa,
hoặc biết đôi chút lẽ Thiền, bèn tự cho mình là bậc thông suốt, miệt thị
niệm Phật, cho niệm Phật là chuyện dành cho bọn ngu phu, ngu phụ
làm! Đấy đều là những kẻ chẳng biết tự xét, là hạng cuồng đồ, cứ tưởng
“hiểu nghĩa lý theo văn tự chính là thật chứng”, chắc chắn là hạng “nói
không, làm có”, dùng thân báng pháp, tương lai ắt đọa tam ác đạo, được
những ngu phu, ngu phụ niệm Phật vãng sanh Tây Phương thương xót
nhưng chẳng thể cứu vớt! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Thương Châu - 1 )
* Tam giới không đâu chẳng phải là quán trọ, [chúng sanh trong] lục
đạo đều là kẻ nghèo cùng. Tuy hứng chịu khổ - vui tạm thời sai khác,
nhưng hết vui sẽ tới khổ, rốt cuộc chẳng phải là chỗ an thân lập mạng rốt
ráo! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, thị
hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy theo căn
cơ chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho khắp các chúng sanh đều theo
đường về nhà, nhận lãnh của gia bảo, vĩnh viễn hưởng an lạc.
Nhưng các pháp ấy mỗi pháp lợi lạc cho một loại căn cơ, lại chẳng
dễ tu tập, dẫu tu cũng khó thể liễu thoát ngay trong đời này, bởi hoàn
toàn cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn Hoặc chứng
Chân thì mới thoát sanh tử. Chúng sanh đời Mạt Pháp khó lòng trông
mong được! Do lòng đại từ bi, đức Như Lai lại bày ra một pháp môn đặc
biệt, đó là “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”, để những
người đã đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực mau chứng Bồ Đề, kẻ
chưa đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực liền thoát sanh tử. Thích hợp
khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn; thượng thánh hạ
phàm cùng nương về, kẻ mới phát tâm lẫn người tu lâu đều cùng tiến.
Pháp môn này không riêng gì phàm phu đầy dẫy phiền não nên chuyên
tu, ngay cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật cũng cần phải dùng
mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc thì mới có thể viên thành
Phật quả. Pháp môn lớn lao như hư không chứa đựng rộng khắp, pháp
môn lợi ích như mùa Xuân khiến cho khắp mọi loài sanh trưởng; trọn cả
kiếp tán dương cũng khó lòng cùng tận. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Kỹ Lộ Chỉ Quy)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 113
* Thế giới Cực Lạc không có nữ nhân. Nữ nhân, súc sanh hễ sanh về
thế giới ấy đều mang tướng đồng nam (trẻ trai), liên hoa hóa sanh. Vừa
từ trong hoa sen ra đều giống hệt như người trong thế giới Cực Lạc, chứ
không phải là trước hết bé nhỏ rồi sau đấy mới dần dần khôn lớn. Người
trong thế giới ấy không có phiền não, không có vọng tưởng, không có
chuyện tạo nghiệp. Do cậy vào Phật từ lực nên hết sức dễ vãng sanh,
nhưng phải lấy niệm Phật làm nhân; đã vãng sanh rồi thấy Phật nghe
pháp, nhất định viên thành Phật đạo. Mười phương thế giới chỉ có cõi
này là thù thắng vượt trội nhất. Trong hết thảy pháp môn tu trì, chỉ có
pháp này dễ tu nhất mà công đức lại lớn nhất. Ông đừng nghe lời người
khác thì sẽ tự đạt được lợi ích tối thắng này! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ
5 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Diệp Phước Bị
- 1)
3. Chỉ dạy thiết yếu về lúc lâm chung
* Người niệm Phật nếu đã chứng đạo thì lúc lâm chung mặc cho
dao cắt, hương bôi, trọn chẳng hề có chuyện động niệm, nên không có
những cái được gọi là tổn hại hay lợi ích. Nếu chỉ có sức tu trì, chưa đạt
đến địa vị nghiệp tận tình không, khi lâm chung được người khác trợ
niệm sẽ quyết định được vãng sanh. Nếu gặp phải quyến thuộc vô tri,
ngay trước khi chưa chết đã tắm rửa, thay quần áo sẵn, khiến cho [người
sắp mất] bị dời động, chịu khổ. Dù chẳng bị khổ, nhưng vừa bị dời động
thì tâm chẳng thể quy nhất nơi Phật (do thân thể bị động, tâm liền chẳng thể
triệt để thanh tịnh thuần nhất).
Nếu lại còn đối trước [người sắp mất] khóc lóc thì chính người [sắp
mất] ấy cũng sanh ái luyến, nên chẳng tương ứng cùng Phật, muốn được
vãng sanh sẽ chẳng có cách nào! Do vậy, lúc thường ngày phải làm cho
họ (tức thân quyến của chính mình) biết lợi - hại, phải thường bảo với họ
để đến khi chính mình lâm chung, bọn họ chính là người trợ đạo, không
chỉ có ích cho ta mà đối với bọn họ đều có lợi ích lớn lao. Nếu chỉ biết tự
mình tu trì, trọn chẳng thuật lẽ lợi - hại cùng bọn họ, lúc ông lâm chung,
chắc chắn bọn họ sẽ là kẻ phá hoại chánh niệm, chắc chắn chẳng giúp
cho ông tịnh tâm để được vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Hứa Hy Đường)
* Lại nữa, người niệm Phật phải nên khuyên quyến thuộc trong nhà
cùng sanh tín tâm, cùng thường niệm Phật để chuẩn bị cho cha mẹ và
các quyến thuộc trong nhà người ấy hễ có ai mạng chung liền trợ niệm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 114
cho. Nếu không, chẳng những không thể giúp cho [người sắp chết giữ
được] chánh niệm, mà trái lại còn làm cho [người ấy] sanh khởi những
tâm sân hận, ái luyến v.v… (Tắm rửa sẵn, thay áo làm mất chánh niệm. Nếu dời
động khiến cho [người sắp mất] bị đau đớn bèn sanh sân hận. Sân hận thì có thể đọa
vào loài độc trùng. Nếu đối trước [người sắp mất] khóc lóc, người ấy liền sanh ái
luyến. [Những chuyện này] đều làm mất chánh niệm, vĩnh viễn không mong chi
được vãng sanh, buồn thay!) Người không niệm Phật còn chẳng đến nỗi bị
tổn hại lớn, chứ người niệm Phật hễ bị phá hoại, chánh niệm mất sạch,
muốn được vãng sanh sẽ trọn không thể được! Từ đấy luân hồi trong lục
đạo suốt kiếp dài lâu, đều là do bị bọn quyến thuộc ấy gây nên. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Huệ Di và La Huệ
Chú)
* Người niệm Phật hãy nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, nhưng muốn cho cha mẹ lúc lâm chung quyết định vãng sanh
Tây Phương mà không nói sẵn cho quyến thuộc biết về việc trợ niệm khi
lâm chung, lợi - hại của việc phô trương mù quáng và khóc lóc sẽ chẳng
thể được!
( Xem tiếp phần 2)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét