Đây là phần 2 cuốn Gia Ngôn Lục của Ấn Quang Đại Sư, mời các bạn đọc:
Phàm những ai tu pháp môn Niệm Phật thì phải chú trọng giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm
các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm,
khuyên khắp những người cùng hàng cầu sanh Cực Lạc. Nếu làm được
như thế thì “vạn người tu, vạn người đến”, quyết chẳng sót một ai! (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Niệm Phật Khẩn Từ)
* Cổ nhân nói: “Túng nhiên sanh đáo Phi Phi Tưởng, bất như Tây
Phương quy khứ lai” (Phi Phi Tưởng dẫu được sanh, chớ hề bằng được
trở về Tây Phương). Nếu có thể chất phác niệm Phật thì nương theo
nguyện thuyền của đức Di Đà, trở về quê hương Cực Lạc Tịnh Độ là
điều có thể đoán chắc. Đây chính là điều ngàn kinh muôn luận, đâu đâu
cũng chỉ dẫn hướng về. Nếu chẳng trở về đây, chắc chắn sẽ như đứa con
nghèo túng, chẳng biết quê cũ, chẳng nhớ cha lành, cam phận lênh đênh
quê người, lê la khe rãnh!
Nếu chẳng so đo, chẳng bàn đi tính lại, cứ nhất tâm quay về, mới
biết tự tánh vốn sẵn thanh tịnh, còn có chỗ nào để cầu tướng quay về và
tướng tịnh nữa ư? Cổ nhân lại nói: “Tự thị bất quy, quy tiện đắc. Cố
hương phong nguyệt hữu thùy tranh?” (Tự mình chẳng về, về liền được.
Gió trăng quê cũ há ai giành?) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 45
* Chúng ta từ bao kiếp đến nay cố nhiên đã có lúc gieo thiện căn,
nhưng chưa gặp được pháp môn cậy vào Phật lực để liễu thoát ngay
trong một đời, cho nên vẫn luân hồi trong lục đạo y như cũ, chẳng thể tự
thoát được. Ông thuở bé theo mẹ tin Phật, ấy là thiên tánh. Về sau, lậm
nặng chất độc của Âu - Hàn, đấy chính là tập thói xấu ác. Còn những
cảnh được thấy trong giấc mộng thì cũng là do thiện căn từ đời trước mà
ra, nhưng mê đã quá sâu, cho nên trong nhất thời chẳng thể lập tức quay
đầu lại được. Sự quan hệ này hết sức nguy hiểm! Nếu chẳng tự chấn
chỉnh, sẽ mê muội dài lâu, sợ rằng ngay cả danh hiệu Phật cũng không
cách gì nghe được! Nay đã biết rồi, hãy nên nỗ lực!
Hơn nữa, pháp môn Tịnh Độ khác với các pháp môn khác. Các thứ
pháp môn khác đều cậy vào tự lực, chỉ có pháp môn này hoàn toàn cậy
vào Phật lực. Phương Nam, Tông môn khá nhiều, ông chớ nên xen nhập
Tông môn, mong được cái danh đẹp đẽ là “Thiền - Tịnh song tu”. Nói
chung, Tông môn lấy việc khán câu “người niệm Phật là ai” để được
khai ngộ, tuyệt chẳng nói đến “tín nguyện cầu sanh”. Đừng nói chưa
ngộ, dẫu khán đến mức thấy được diện mục vốn có của người niệm Phật
thì chỉ được kể là Ngộ, còn cách liễu sanh tử rất xa! Nếu chưa đạt đến
địa vị “nghiệp tận, tình không”, chắc chắn chẳng thể cậy vào tự lực để
liễu sanh tử được!
Thêm nữa, chẳng chú trọng tín nguyện, cầu sanh Tây Phương là trái
nghịch với Phật, chẳng thể cậy vào Phật lực để liễu sanh tử được! Vì thế,
người niệm Phật hễ xen kèm hơi hướng Tông môn thì chỗ đạt được lợi
ích ít ỏi mà chỗ mất mát lợi ích lại nhiều. Giáo lại càng khó đắc lực hơn
nữa! Mật Tông ăn nói quá lớn lối, nguy hiểm cùng cực23.
Ông hãy nên chuyên chú một môn tín nguyện niệm Phật, kèm thêm
là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành,
đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Dùng những điều ấy để tự
hành, lại còn đem những điều ấy dạy người, chắc chắn sẽ được vãng
sanh. Phàm suy nghĩ, động niệm, cư xử đều phải lấy chân thật chẳng dối
23 Xin chú ý ở đây Tổ không có ý đả kích Mật Tông mà chỉ quở trách những kẻ
không học hiểu giáo nghĩa Mật Tông đến nơi đến chốn, được truyền thụ vài ấn
quyết, đọc một số kinh sách Mật Tông rồi ngạo nghễ coi thường các tông khác, cũng
như không hiểu rõ ý nghĩa “hiện thân thành Phật”, tự xưng là đã đắc đạo, tự xưng là
Thượng Sư, thâu nhận đồ chúng tràn lan, cũng như chuyên chú trọng thần thông,
không hiểu mục tiêu cuối cùng của mọi pháp môn trong Phật giáo đều là hướng tới
mục đích liễu sanh thoát tử, tấn tu cho đến khi thành Phật Quả.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 46
làm chánh, ngõ hầu chẳng luống uổng cuộc đời này, chẳng phí dịp gặp
gỡ này! (Vĩnh Tư Tập trang 42 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển Hai,
Thư trả lời cư sĩ Cung Tông Nguyên - 1)
* Như ông nói “gặp phải đại họa, do công hạnh cạn mỏng, không
có gì để nắm níu, rất có thể hoảng sợ quẫn trí, đánh mất chánh niệm”
thì chỉ nên tin tưởng sâu xa rằng Phật lực, pháp lực, tự tánh công đức
lực, sức trì tụng chí thành đều chẳng thể nghĩ bàn. Đừng nói là không có
tai họa, dẫu gặp đại họa cũng chẳng đến nỗi quẫn trí, vì có những lực ấy
gia bị! Phàm là con người hãy nên hành xử đúng theo địa vị thì chẳng
đến nỗi do cảnh ngộ không tốt đẹp mà bị quẫn trí.
Phàm những kẻ quẫn trí vì gặp cảnh ngộ không tốt đẹp phần lớn là
do không có tín lực sâu xa, lại kèm thêm có ý niệm tiếc nuối cảnh trước,
chẳng chịu buông xuống mà ra. Như lúc gặp nạn, chỉ nghĩ cách tránh né,
những chuyện khác đều chẳng lo liệu tới, nhất loạt chẳng bận lòng nghĩ
đến. Do bận tâm vương vấn chẳng cởi gỡ được nên bị tổn hại vô ích. Do
vậy, nói: “Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập nhi bất tự
đắc yên” (Gặp cảnh hoạn nạn sống theo hoạn nạn; không trong hoàn
cảnh nào, người quân tử chẳng được tự tại) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Du Huệ Úc)
* Triệu pháp sư24 nói: “Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu
giấu kín trong núi hình”. Lời này nói về kẻ chưa ngộ chưa chứng, chứ
thật ra vật báu ấy bao quát thái hư, cùng tột theo chiều dọc, trọn khắp
theo chiều ngang, hằng cổ, hằng kim, luôn luôn hiển lộ! Đấy chính là
như câu nói: “Thời thời thị thời nhân, thời nhân tự bất thức” (Luôn luôn
24 Triệu Pháp Sư chính là ngài Tăng Triệu (384-414), môn nhân nổi tiếng nhất của
đại sư Cưu Ma La Thập. Sư là con nhà nghèo, phải chép sách thuê để kiếm sống. Do
vậy, thông hiểu kinh sử rất sâu. Thoạt đầu, Sư hâm mộ thuyết Lão Trang, về sau, do
đọc kinh Duy Ma Cật bèn cảm ngộ, đi xuất gia. Ngài thông hiểu kinh Phương Đẳng,
thanh danh lẫy lừng miền Bắc Trung Hoa. Nghe pháp sư Cưu Ma La Thập đến đất
Lương, bèn xin theo học, được ngài Cưu Ma La Thập khen là bậc kỳ tài. Đến khi
Diêu Tần diệt nhà Lương, Sư bèn theo ngài La Thập sang Trường An. Tuân sắc lệnh
của Diêu Hưng, Tăng Triệu cùng với Tăng Duệ lo phù tá ngài La Thập phiên dịch
kinh điển. Do vậy, giải ngộ càng sâu, được tôn xưng là bậc Giải Không Đệ Nhất.
Năm Hoằng Thỉ thứ sáu (404), khi ngài La Thập dịch xong bộ Đại Phẩm Bát Nhã,
Sư soạn cuốn Bát Nhã Vô Tri Luận trình lên, được hai vị La Thập và Huệ Viễn nồng
nhiệt tán thán. Sau đó, Sư còn soạn Phá Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn
Vô Danh Luận, Chú Duy Ma Cật Kinh v.v… Tiếc là Sư mất rất sớm, chỉ thọ được 31
tuổi. Những bài luận của Sư được thâu thập thành cuốn Triệu Luận.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 47
chỉ dạy cho người, mà người vẫn cứ chẳng hề biết cho), chẳng đáng
buồn sao? Chỉ có mình đức Thích Ca Thế Tôn ta đích thân thụ dụng
được, những chúng sanh khác trải kiếp này sang kiếp khác dựa vào sức
oai thần của vật báu ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi trong sáu nẻo,
trọn chẳng có thuở ra! Ví như kẻ mù đích thân lên núi báu chẳng những
không thụ dụng được, trái lại còn bị thương!
Do vậy, đức Thế Tôn tùy thuận cơ nghi mà khai thị, khiến cho bọn họ
ai nấy đều theo đường trở về nhà, nơi sáu căn, sáu trần, sáu thức, bảy
đại, tùy theo từng hoàn cảnh mà quán sát kỹ càng mong họ đích thân
thấy được vật báu ấy. Nhưng bậc có đủ trí chiếu Bát Nhã liền lập tức
rỗng không các Uẩn, hết sạch mọi khổ ách, tuy có nhiều vị [làm được]
như vậy, nhưng đấy chẳng phải là điều bọn chúng sanh độn căn đời Mạt
mà hòng mong mỏi được!
Bởi vậy, [đức Phật] mở ra một pháp môn đặc biệt, ngõ hầu thượng trung - hạ căn đều đạt được lợi ích thật sự ngay trong đời này, dạy họ
dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha chuyên niệm thánh hiệu A Di Đà
Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, lâu ngày chầy tháng, chính
cái tâm nghiệp thức chúng sanh này sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng;
tức là do báu Tam Muội chứng được báu Thật Tướng, mới biết vật báu
này trọn khắp pháp giới, lại đem vật báu này thí khắp hết thảy. Do vậy,
từ khi đức Phật mở ra pháp môn này, hết thảy Bồ Tát, tổ sư, thiện tri
thức thảy đều tuân hành pháp này bởi lẽ pháp này trọn đủ tự lực và tha
lực, so với những pháp chuyên cậy vào tự lực thì khó - dễ khác nào một
trời, một vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách
Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận Sớ)
* Pháp môn Niệm Phật chú trọng Tín - Nguyện, có Tín - Nguyện
nhưng chưa đắc nhất tâm cũng có thể vãng sanh. Đắc nhất tâm nhưng
không có Tín - Nguyện, vẫn chẳng được vãng sanh! Người đời phần
nhiều chú trọng nhất tâm, chẳng chú trọng Tín - Nguyện, tức là đã đánh
mất điều quan trọng cốt lõi nhất. Nếu lại còn sanh khởi mối nghi “chưa
đắc nhất tâm, sợ rằng chẳng được vãng sanh” thì hoàn toàn trái nghịch
với lòng tin chân thành, nguyện thiết tha mất rồi! Kiểu suy nghĩ này tợ
hồ là suy nghĩ tốt, nhưng thật ra, nếu do đây sẽ càng tăng thêm tín
nguyện để đạt đến nhất tâm thì đó là cách suy nghĩ tốt. Còn nếu do chưa
được nhất tâm bèn thường nghĩ chẳng thể nào vãng sanh được thì sẽ trở
thành cách suy nghĩ xấu, chẳng thể không biết! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Châu Đức Đại )
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 48
* Nếu chúng ta có thể đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha như
con nhớ mẹ, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối để niệm, thì hai tầng
công phu “xoay cái niệm để niệm nơi tự tánh” của đức Thế Chí và “xoay
cái nghe để nghe nơi tự tánh” của đức Quán Âm sẽ hòa lẫn trong một
tâm để niệm hồng danh vạn đức của Như Lai. Lâu ngày chầy tháng, cái
tâm nghiệp thức chúng sanh sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng, đấy gọi
là “dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển
quả, quả tột nguồn nhân”. Người có duyên gặp được, mong chớ coi rẻ!
Đấy là đường vào cửa Niết Bàn của vi trần đức Phật, huống gì chúng ta
là người đời Mạt Pháp há dám chẳng noi theo? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng)
* Đời Mạt, ngoại đạo lừng lẫy. Dẫu là kẻ có tín tâm phần nhiều theo
về ngoại đạo, bởi lẽ chẳng có chánh pháp để nghe vậy. Gần đây, giao
thông tiện lợi, kinh điển Phật pháp được lưu thông, quả thật là may mắn
lớn lao. Nhưng chớ nên đã học Phật pháp lại còn tu pháp của ngoại đạo,
đến nỗi tà - chánh hỗn loạn sẽ gây hại chẳng cạn!
Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng; cầu lấy một pháp môn thực
hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng thì
không chi hơn được pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ấy là vì hết
thảy pháp môn đều phải cậy vào tự lực để tu Giới - Định - Huệ hòng
đoạn tham - sân - si. Nếu đoạn sạch tham - sân - si sẽ liền có thể liễu
sanh thoát tử. Nếu kẻ nào đoạn chưa hết thì sẽ vẫn chẳng thể liễu được,
huống là kẻ chưa thể đoạn ư?
Pháp môn Niệm Phật chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết
tha, chí thành niệm Phật, đến khi lâm chung ắt được Phật từ tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương. Ví như trẻ thơ do cha mẹ nâng dắt, liền có thể về
thẳng đến nhà của chính mình. Con người gần đây thích lập dị, chẳng
chịu thực hiện công phu thật thà, nên mới có kẻ học Thiền tông, Tướng
tông, Mật Tông. Ba pháp môn này đều chẳng thể nghĩ bàn, nhưng đều
thuộc về tự lực. Mật Tông tuy có giáo nghĩa “hiện thân thành Phật”
(thành Phật ngay trong thân này), nhưng rốt cuộc có mấy ai thành Phật
ngay trong đời này? Đừng nói chi người học Mật chẳng thể thành Phật
ngay trong thân hiện tại, ngay cả các vị Hoạt Phật25 truyền dạy Mật Tông
25 Hoạt Phật là từ ngữ do người Trung Hoa dịch chữ Tây Tạng Hpbrulsku (thường
được biết dưới dạng ghi âm phổ biến hơn là Tulku, là một từ ngữ Tây Tạng nhằm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 49
cũng chẳng phải là người có thể thành Phật ngay trong thân hiện tại
được!
Các ông đừng bị xoay chuyển bởi những vị tri thức của các pháp môn
ấy thì sẽ có thể thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên cõi chín phẩm kia, làm
đệ tử Phật Di Đà, làm bạn tốt trong hải hội. Người niệm Phật cần phải
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thì mới có thể dùng thân để
hướng dẫn người khác, tự lợi, lợi tha vậy. Nếu luân thường khiếm
khuyết, người ta sẽ chẳng sanh lòng khâm phục, kính trọng; cho nên đối
với kẻ hiểu lý còn khó thể khuyến hóa; đối với kẻ chẳng hiểu lý, do
chính ta còn thiếu sót trong chuyện tận tụy thực hành, họ sẽ chẳng chịu
diễn dịch chữ Nirmanakaya (Hóa Thân) của tiếng Phạn). Tiếng Mông Cổ tương ứng
là Khutukhu (hoặc Khutukutu, Hobilghan. Do vậy Chương Gia đại sư thường được
gọi là Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ). Truyền thống này được bắt nguồn từ thời ngài
Tsongkhapa cải cách tôn giáo tại Tây Tạng: Tăng sĩ không được lấy vợ, nên phải
chọn người kế vị các ngôi tu viện trưởng hoặc trưởng dòng tu từ hóa thân. Ngoại trừ
phái Sakya vẫn theo lệ truyền ngôi pháp vương cho con cháu trong dòng họ, các phái
khác dẫu là Hoàng Giáo (Gelugpa), Cổ Mật (Nyingmapa), hoặc Cát Cư (Kargyupa)
đều theo lệ này tuy các lạt-ma thuộc phái Nyingmapa hay Kargyupa vẫn được phép
lấy vợ. Người Tây Tạng tin rằng các vị lạt-ma cao cấp có khả năng tự tại chuyển
sanh, liên tục trở lại thế gian này để hóa độ chúng sanh. Trước khi mất, vị lạt-ma ấy
sẽ để lại những sấm ngữ hoặc huyền ký dự báo mình sẽ tái sanh ở nơi nào. Các đệ tử
đi tìm, thấy đứa bé nào phù hợp với sấm ký, sẽ tiến hành những xét nghiệm cần thiết,
rồi đưa về tu viện, đào tạo và tấn phong để bảo đảm ngôi lãnh đạo của dòng tu được
truyền thừa liên tục. Đồng thời để tạo sự chánh thống cho ngôi vị và thu hút tín đồ,
các vị Hóa Thân nổi tiếng thường tự xưng hóa thân của các vị Phật, Bồ Tát, thánh
tăng, như Đại Lai Lạt Ma thứ năm tự xưng là hóa thân của Quán Thế Âm, ban chỉ dụ
công nhận Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A Di Đà Phật, Karmapa tự xưng là hóa
thân của Quán Thế Âm, trưởng dòng tu Sakyapa tự xưng là hóa thân của Văn Thù
Bồ Tát, Tai Situpa Rinpoche tự xưng là hóa thân của Di Lặc Bồ Tát v.v… Có lẽ vì
thế, người Trung Hoa đã gọi các vị này là Hoạt Phật (Phật Sống). Hiện thời tại Tây
Tạng, Mông Cổ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Khang, Buriat, Kalmyk v.v... tức những
nơi theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng đều có những hóa thân. Hầu như các tu
viện lớn nhỏ đều có hóa thân; nổi tiếng nhất là Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma,
Karmapa, Sakyapa của Tây Tạng, Jetsundampa của Ngoại Mông Cổ, Chương Gia
thuộc Nội Mông (dòng truyền thừa của vị này đã chấm dứt). Thậm chí tài tử Steven
Seagal của Mỹ cũng được Drubwang Pema Norbu Rinpoche (tu viện trưởng tu viện
Palyul Ling, người được coi như là trưởng tông phái Nyingmapa hiện thời) công
nhận là hóa thân của lạt-ma Chungdrag Dorje, một vị Tăng chuyên phát hiện những
Mật điển (Terton) sống vào thế kỷ 17 ở Tây Tạng, gây nên rất nhiều tranh luận ồn ào
trong giới Phật Tử Tây Phương theo Mật Tông Tây Tạng!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 50
nghe theo lời ta nói. Đấy chính là “dĩ ngôn giáo giả tụng, dĩ thân giáo
giả tùng” (dùng lời nói để dạy sẽ bị tranh cãi; dùng thân để dạy, người ta
nghe theo). Phàm mọi chuyện đều phải lấy thân làm gốc, huống chi dạy
người khác niệm Phật liễu sanh tử ư? (Hoằng Hóa Nguyệt San số 10 - Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời hai cư sĩ Hàn Tông Minh và
Trương Tông Thiện)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 51
III. Thị Tu Trì Phương Pháp (Chỉ dạy phương pháp tu trì)
1. Chỉ dạy phương pháp niệm Phật
* Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ Phật Tánh, tức là đều sẵn đủ Phật
Huệ; nhưng do tham - sân - si v.v… xen tạp vào trong ấy nên Phật Huệ
bèn trở thành tri kiến của chúng sanh. Nay đã biết Phật Huệ vốn sẵn có,
bèn chú tâm kiểm điểm nơi khởi tâm động niệm, xử sự, chẳng để cho tri
kiến tham - sân - si v.v… phát sanh. Lại hãy nên dùng lòng tín nguyện
sâu để trì danh hiệu Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh
mạng loài vật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tự hành,
dạy người cùng tu Tịnh nghiệp thì Huệ ấy sẽ dần dần thuần. Nếu giữ
được điều này chẳng để mất thì vãng sanh Tây Phương sẽ vừa thuần vừa
dễ. Đến khi Phiền Hoặc hết sạch, phước trí viên mãn thì Huệ sẽ thuần
đến tột bậc, viên thành Phật đạo.
Người đời thường lầm lạc bảo mình có trí huệ, chẳng biết trí huệ là
vàng còn trong quặng, hoàn toàn chưa sử dụng được, cần phải luyện
ròng khiến cho những chất xỉ quặng (những tạp chất) hoàn toàn tiêu hết
thì mới được lợi ích. Đại ý là như vậy, mong hãy chuyển [những ý nghĩa
này] đến cho [ông ta]. Người học Phật chú trọng vào việc tận tụy thực
hành. Con người hiện thời phần nhiều mong sao miệng lưỡi nhạy bén,
[tức là] kể tên những món ăn thật hay, thật đẹp, nhưng vô ích cho cái
bụng rỗng tuếch, đáng buồn thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thiệu Huệ Viên)
* Đối với pháp tắc tu trì, hãy nên thường như con nhớ mẹ, đi, đứng,
nằm, ngồi, nói năng, im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật
mật! [Dẫu gặp] bất cứ sự duyên nào cũng chẳng để cho gián đoạn, nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như thế chắc chắn vãng
sanh!
Lại phải nên tâm niệm nhân từ, rộng lượng, tánh khí khiêm nhường,
thuận thảo, nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành
được những điều người khác chẳng thể hành, chịu cực nhọc thế cho
người khác, thành tựu điều tốt đẹp cho người ta. Thường nghĩ mình sai
quấy, đừng bàn lỗi của kẻ khác! Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong mười hai
thời lễ mười phương Phật để sám trừ túc nghiệp, huống là kẻ còn đang
trong địa vị phàm phu! Hãy nên thường hổ thẹn, nào dám ỷ y! Nếu ỷ y,
dẫu có tu trì thảy đều thuộc về ma nghiệp. Con người như thế chớ nên
thân cận, để khỏi đến nỗi lâu ngày đều bị biến đổi giống như họ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 52
Phải vâng giữ chắc tông chỉ, chẳng bị xoay chuyển bởi kinh giáo và
lời lẽ của thiện tri thức rồi bỏ pháp này tu pháp khác. Pháp môn này
chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba
đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Hết
thảy pháp môn không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy
hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Vì thế, [pháp này]
được chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn
kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Bọn ta là hạng mạt học
sao lại lập dị, tự chuốc lấy tội khiên tự lầm, lầm người ư? Nguyện hãy
suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu xa! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, Quyển Hạ, Tịnh Độ Chỉ Yếu)
* Lúc niệm Phật cần phải thâu nhiếp tai lắng nghe, từng chữ từng câu
chẳng để luống qua; lâu ngày chầy tháng, thân tâm sẽ quy nhất. Một
pháp Lắng Nghe đúng là pháp quan trọng trong [pháp môn] Niệm Phật;
bất luận là ai đều có lợi chứ không có điều tệ, công đức rất sâu. Chẳng
như những pháp quán tưởng v.v… người biết pháp sẽ được lợi ích, kẻ
chẳng biết pháp phần nhiều bị tổn hại. Vì thế, chẳng thể dạy kẻ chẳng
hiểu giáo lý, chẳng thông Tánh Thể tu tập những pháp quán tưởng v.v…
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lưu Huệ
Dân)
* Ông chưa biết tông chỉ Tịnh Độ. Hãy nên y theo những gì đã nói
trong Một Lá Thư Gởi Khắp mà sanh lòng tin thật sự, phát nguyện thiết
tha, chí thành khẩn thiết, niệm danh hiệu Phật. Đừng dùng cách niệm
quán tâm, hãy nên dùng cách niệm nhiếp tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm,
Đại Thế Chí Bồ Tát nói “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam
Ma Địa, ấy là bậc nhất”. Khi niệm Phật trong tâm (ý căn) phải niệm cho
rõ ràng, rành rẽ, nơi miệng (thiệt căn) phải niệm cho rõ ràng, rành rẽ, nơi
tai (nhĩ căn) phải nghe cho rõ ràng, rành rẽ. Ý, thiệt, nhĩ ba căn mỗi mỗi
đều nhiếp thủ Phật hiệu thì mắt cũng chẳng ngó Đông, dòm Tây, mũi
cũng chẳng ngửi những thứ khí vị khác, thân cũng chẳng lười trễ, biếng
nhác, đó gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. Nhiếp trọn sáu căn để niệm tuy
chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng so với kẻ chẳng nhiếp
[sáu căn để niệm] thì trong tâm thanh tịnh hơn nhiều lắm, vì thế gọi là
“tịnh niệm”.
Nếu thường giữ được tịnh niệm liên tục chẳng bị gián đoạn, tâm sẽ tự
được quy về một chỗ. Ở mức cạn là đắc nhất tâm, mức sâu là đắc tammuội. Tam Ma Địa cũng là tên gọi khác của Tam Muội, ở đây (Trung
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 53
Hoa) dịch là Chánh Định, hay còn dịch là Chánh Thọ. Chánh Định nghĩa
là tâm an trụ nơi Phật hiệu, chẳng còn rong ruổi theo bên ngoài nữa.
Chánh Thọ ngụ ý những gì được nạp thọ (thâu nhận) trong tâm chỉ là
cảnh duyên công đức của Phật hiệu, hết thảy cảnh duyên đều chẳng thể
được!
Có thể thật sự nhiếp cả sáu căn để niệm, chắc chắn nghiệp chướng
tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng. Chẳng cần phải quán tâm mà tâm tự
thanh tịnh, sáng tỏ, sao lại đến nỗi mắc bệnh tâm hỏa bốc lên nữa ư? Do
ông là phàm phu nghiệp lực cực nặng, lầm lạc dùng pháp quán tâm nên
mới đến nỗi như thế. Pháp quán tâm chính là pháp tu Quán bên Giáo,
chẳng thích hợp lắm đối với người niệm Phật! Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối mới là vô thượng diệu pháp thích hợp khắp hết thảy căn cơ
thượng, trung, hạ, cả phàm lẫn thánh.
Hãy nên biết: “Nhiếp trọn” chú trọng tại Nghe! Dẫu niệm thầm trong
tâm cũng vẫn phải nghe, bởi lẽ, trong tâm khởi niệm liền có tướng của
tiếng. Tai chính mình nghe tiếng trong tâm của chính mình, vẫn rành rẽ
rõ ràng. Nếu có thể nghe được từng câu, từng chữ rõ ràng thì sáu căn đều
quy về một, so với tu những pháp Quán khác sẽ là ổn thỏa, thích đáng
nhất, ít tốn sức nhất, khế lý, khế cơ nhất. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Vĩ Chương)
* Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ
trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng, rành
mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng
niệm, nhưng vọng niệm cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ
mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu
quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự.
Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ
nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính
mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao. Lại nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh
niệm tương kế, đắc Tam Ma Địa26, tư vi đệ nhất” (nhiếp trọn sáu căn,
26 Tam Ma Địa (Samādhi), còn dịch là Tam Muội, Tam Ma Đề, Tam Ma Đế. Dịch ý
là Đẳng Trì, Chánh Định, Định Ý, Điều Trực Định, hay Chánh Tâm Hạnh Xứ, có
nghĩa là xa lìa hôn trầm, lao chao, chuyên tâm trụ vào một cảnh. Do quá nhiều ý
nghĩa, chữ này thường được dùng dưới dạng dịch âm, chứ không dịch nghĩa. Thông
thường, Tam Ma Địa được hiểu là quán tưởng ngưng lặng cho trí huệ rạng ngời, để
đoạn trừ được hết thảy phiền hoặc, hòng chứng đắc chân lý.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 54
tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa (tức tam-muội), ấy là bậc nhất). Nói
“khiến cho tâm, miệng, tai đều được rõ ràng” chính là pháp tắc nhiếp
trọn sáu căn vậy (Tâm là Ý Căn, miệng là Thiệt Căn). Tâm và miệng
niệm hợp cùng tai nghe thì mắt, mũi quyết định chẳng đến nỗi rong ruổi
theo bên ngoài, thân cũng chẳng đến nỗi láo xược, phóng túng. Người
đời nay niệm Phật phần nhiều đều chẳng chịu nỗ lực nên không có hiệu
quả gì!
Lại nữa, khi không niệm Phật, vọng tưởng tuy nhiều nhưng không
cách nào biết được, chứ không phải là lúc không niệm thì không có vọng
tưởng! Ví như đối với hư không trong nhà, dẫu mắt cực tốt cũng chẳng
thể thấy được bụi bặm. Nếu từ khe cửa sổ soi vào một tia nắng, sẽ thấy
bụi bặm trong tia nắng chao lên đảo xuống không khi nào ngừng, khi
ánh sáng chưa chiếu đến nơi, vẫn chẳng thấy có bụi bặm! Vì thế, biết
rằng: Khi niệm Phật mà nhận biết có vọng tưởng thì đấy vẫn là cái hay
của việc niệm Phật. Lúc không niệm Phật, hoàn toàn bị vùi lấp trong
vọng tưởng cho nên không biết! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời sư Hựu Chân và cư sĩ Giác Tam)
* Đối với chữ Niệm (念) trong Niệm Phật (念 佛), muôn phần chớ
nên thêm chữ Khẩu (口 ), có rất nhiều người viết là Niệm (唸), đánh mất
ý nghĩa đến tột cùng! Một pháp Trì Danh Niệm Phật lợi khắp ba căn, còn
Quán Tượng, Quán Tưởng thì chỉ có người thấu hiểu pháp môn tâm địa
mới tu tập được. Nếu không, chắc sẽ đến nỗi khởi lên các ma sự. Trì
danh niệm Phật lại thêm lắng tai nghe kỹ là ổn thỏa, thích đáng nhất. Bất
luận thượng - trung - hạ căn đều có lợi ích, đều không bị khuyết điểm.
Ông thích niệm kinh Kim Cang, hãy nên đem công đức ấy hồi
hướng vãng sanh thì đấy chính là Trợ Hạnh cho Tịnh Độ. Nhưng Tịnh
Độ Ngũ Kinh công đức cũng chẳng kém gì kinh Kim Cang. Đối với
những kinh sách đã gởi, hãy nên đọc kỹ lời Tựa do Quang viết, sẽ có thể
hiểu rõ được ý nghĩa chánh yếu. Tiếp đó, lắng lòng cung kính đọc thì sẽ
đích thân đạt được vô biên lợi ích (Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ 8 - Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Đường Thụy Nham - 1)
* Đối với việc niệm Phật, có thể chiếu theo thời mà niệm cũng
được. Nếu không, suốt ngày thừa dịp thuận tiện [mà niệm], chẳng luận
đi - đứng - ngồi - nằm (hễ nằm thì nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng). Nói
chung, lấy niệm Phật làm chánh. Nhưng cần phải sanh lòng tin, phát
nguyện, cầu sanh Tây Phương, vạn phần chớ nên cầu phước báo đời sau.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 55
Nếu cầu phước báo đời sau thì chính là phá giới trái pháp, vì pháp môn
Niệm Phật chính là pháp môn dạy người cầu sanh Tây Phương. Ông đã
niệm Phật, chẳng cầu sanh Tây Phương, lại muốn cầu đời sau, tức là
chẳng tuân lời Phật dạy. Đấy là pháp Phật dạy người như thế, phải nhất
định tuân theo, ông chẳng chịu tuân theo, nên gọi là “phá giới, trái
pháp”. Nếu đời này còn có tu trì, đời sau chắc chắn có phước thế gian để
hưởng. Hễ hưởng phước, chắc chắn phải tạo ác nghiệp (nay cõi đời loạn lạc
đến như thế, quá nửa là do những kẻ đời trước tu si phước ươm thành). Đã tạo ác
nghiệp thì khổ báo về sau chẳng nỡ nói ra! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời sư Truyền Đức)
* Con người sống trong thế gian điều quan trọng nhất là thân cận
thầy lành bạn tốt. Có thầy lành bạn tốt thì sẽ có thể trở về chánh đạo.
Nếu không, bạn bè nhậu nhẹt tụ họp, hằng ngày xen lộn với phường hạ
lưu, bệnh tật cũng do đó thường chẳng lành được!
Pháp môn Tịnh Độ không gì lớn lao ra ngoài được, nhưng kẻ thiếu
hiểu biết thường coi nhẹ. Ông đã trì danh, nhưng tâm chưa quy nhất là vì
nghiệp chướng sâu đậm vậy! Lúc niệm phải giữ tấm lòng kính sợ, niệm
khởi từ nơi tâm, tiếng phát ra từ miệng, âm thanh lọt vào tai, phải sao
cho nghe từng câu rõ ràng, từ sáng đến tối [lúc nào] không phải dùng
tâm để làm việc thì thường niệm. Niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, hay niệm
thầm trong tâm đều phải nghe, bởi tâm vừa khởi niệm liền có tướng của
tiếng. Tai của chính mình nghe tiếng trong tâm của chính mình là
chuyện hết sức rõ ràng. Sáng tối lập một công khóa, hoặc tụng một biến
kinh Di Đà, ba biến chú Vãng Sanh, rồi niệm kệ Tán Phật, niệm Phật,
hoặc một ngàn hay tám trăm câu, hay năm trăm câu, tùy theo mỗi người
mà lập ra công phu. Nếu quá bận thì dùng cách sáng tối Thập Niệm.
Ngoại trừ lúc thực hiện công khóa sáng tối ra, đi, đứng, nằm, ngồi
đều phải niệm. Chỉ cầu tâm quy nhất, chẳng nhất định phải cầu tướng
lành. Vì nếu tâm đã quy nhất sẽ khác với lúc tâm phập phều, tán loạn.
Nếu chẳng chú trọng tâm quy nhất, thường mong thấy được tướng lành,
rất có thể ma sự khởi lên, chẳng thể không biết! Chí thành khẩn thiết
lắng nghe, chắc chắc chẳng đến nỗi ma sự dấy lên! “Nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối” chính là cách niệm Phật mầu nhiệm nhất!
Phải thường xem Tịnh Độ Ngũ Kinh, cần phải cung kính, chớ nên
khinh nhờn! Đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh sẽ biết đại nguyện của đức Di Đà,
sự trang nghiêm của cõi Tịnh Độ, và sự thích hợp trọn khắp của pháp
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 56
môn. Những kẻ nói pháp môn Tịnh Độ là Tiểu Thừa, là pháp tu của ngu
phu ngu phụ, thì biết là họ trong đời trước chưa từng gieo thiện căn Tịnh
Độ, nên mới nói nhăng nói càn như vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Hy Đạo)
* Làm đệ tử Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành, giữ tâm lành, nói lời lành, làm chuyện lành, hành như vậy mới là
đệ tử Phật thật sự. Nếu miệng tuy niệm Phật, nhưng tấm lòng chẳng lành
sẽ tương phản với khí phận của Phật, chẳng thể được lợi ích thật sự nơi
niệm Phật! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Giang Cảnh Xuân)
* Người học Phật nhất cử nhất động đều phải lưu tâm. Đối với việc
niệm Phật phải chí thành. Nếu khi nào trong tâm khởi lên đau buồn, đấy
cũng chính là tướng thiện căn phát hiện, chớ nên để thường xảy ra như
thế. Nếu không, sẽ bị ma bi thương dựa vào. Phàm có chuyện gì thích ý,
chớ nên hoan hỷ quá mức. Nếu không, ắt bị ma hoan hỷ dựa.
Lúc niệm Phật, mí mắt nên rủ xuống, tinh thần chớ nên căng thẳng
quá mức đến nỗi tâm hỏa bốc lên, rất có thể bị những chứng bệnh ngứa
đầu, đau đầu v.v... cần phải điều hòa cho thích đáng. Niệm lớn tiếng thì
chẳng được cố sức quá mức để khỏi bị bệnh. Lần chuỗi niệm có thể ngừa
được sự lười nhác, nhưng lúc tịnh tọa chẳng được lần chuỗi, hễ lần chuỗi
thì ngón tay động nên tâm chẳng định được, lâu ngày ắt thành bệnh. (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư răn nhắc những người mới
phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Trong đời trước, con người nghiệp nào chẳng tạo? May mắn được
nghe Phật pháp, hãy nên sốt sắng tu trì để mong tiêu trừ túc nghiệp, siêu
độ oán gia. Tất cả oán gia tuy khó cởi gỡ nhưng nếu chịu phát tâm Bồ
Đề và thành tâm siêu độ sẽ không có [mối oán kết nào] chẳng cởi gỡ
được! Ông niệm Phật bị nghẹn hơi chẳng phải vì thân thể yếu đuối mà là
do nghiệp chướng tạo ra, ông chỉ nên khẩn thiết, chí thành niệm. Nếu
niệm không được thì tâm hãy thường tưởng nhớ. Nếu niệm được thì vẫn
cần phải dùng miệng để niệm, không thể niệm được thì chỉ tâm chuyển,
tâm nhớ, lâu ngày nghiệp ấy sẽ tiêu. Từ rày, phàm khởi tâm, làm việc,
đều phải hướng theo phương diện ăn ở cho có tình nghĩa nồng hậu mà
làm. Ăn ở trọn vẹn tình nghĩa thì thêm phước, ăn ở bạc bẽo thì chẳng đạt
được phước gì! Nếu lại còn khắc nghiệt, hiểm độc, gian xảo thì giống
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 57
như đảnh núi chót vót, mưa đẫm cách nào cũng không nhận được, bất cứ
cây cỏ gì cũng không mọc được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Kim Thiện Sanh)
* Một pháp Niệm Phật chính là pháp môn tổng trì lời Phật dạy,
nhưng có người chuyên niệm Tự Phật, có người chuyên niệm Tha Phật,
hoặc niệm Tự Phật lẫn Tha Phật bất đồng! Kẻ chuyên niệm Tự Phật là
như tham cứu sâu xa Thật Tướng trong các kinh đến mức cùng tận để
mong ngộ chứng, dùng trí chiếu Bát Nhã để thấu hiểu trọn vẹn đương
thể của hết thảy các pháp Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát
Giới, Thất Đại v.v… toàn là Không, đích thân thấy được tánh Chân Như
mầu nhiệm vốn sẵn có, hoặc như Thiền Tông khán những câu thoại đầu
như “người niệm Phật là ai?” v.v… để mong đích thân thấy được “bản
lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”. Trong bốn loại Niệm Phật,
[cách này] được gọi là Thật Tướng Niệm Phật.
Chuyên niệm Tha Phật thì có ba cách niệm:
1) Một là quán tưởng, nghĩa là dựa theo Thập Lục Quán Kinh để
quán, hoặc chuyên quán tướng bạch hào27, hoặc chỉ quán thân Phật một
trượng sáu, hay thân tám thước, hoặc quán Pháp Thân rộng lớn và quán
trọn vẹn mười sáu phép Quán.
2) Hai là quán tượng, tức là đối trước hình tượng Phật, tưởng tướng
hảo, quang minh của Phật v.v…
3) Ba là trì danh, tức là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu A Di Đà
Phật.
Ba cách niệm Phật này tuy cách thức khác nhau, nhưng đều cần
phải có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì mới cảm ứng đạo giao
27 Bạch Hào Tướng (Ūrna-laksana): Đôi khi còn dịch là hào tướng, hào mi, bạch mao
tướng, mi gian bạch hào tướng, bạch hào trang nghiêm tướng, mi gian bạch hào
nhuyễn bạch đâu-la-miên tướng v.v…là một trong ba mươi hai tướng của đức Như
Lai. Đấy chính là một sợi lông trắng trong ngần, sáng ngời như ngọc lưu ly, thường
tỏa quang minh, nằm giữa hai chân mày, cuộn tròn lại, quấn quanh theo chiều bên
phải, nếu kéo dài ra sẽ dài đến một tầm (Tầm là đơn vị đo lường thời cổ, có chiều dài
bằng khoảng cách giữa hai cánh tay giang thẳng ra hai bên). Theo kinh Vô Thượng
Y, quyển Hạ, tướng này do lúc tu nhân Phật thường tán thán mỗi khi thấy có chúng
sanh nào tu tập Giới - Định - Huệ. Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải thì quang
minh tỏa ra từ tướng bạch hào có công năng trừ được tội lỗi trong trăm ức na-do-tha
hằng sa kiếp sanh tử, nên là tướng thù thắng nhất trong vô lượng tướng của đức Phật.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 58
cùng đức Phật được, mới có thể chắc chắn trong đời này lìa khỏi cõi Sa
Bà này, sanh sang cõi Cực Lạc kia.
Trong bốn thứ niệm Phật này, chỉ có Thật Tướng Niệm Phật là đế lý
sâu xa nhất, nhưng chẳng dễ gì tu được! Do cậy vào Giới - Định - Huệ
và sức tham cứu, quán chiếu, soi xét của chính mình, chứ không có Tha
Lực nào khác phụ trợ; nếu chẳng phải là hạng túc căn chín muồi thì ngộ
còn chưa dễ gì đạt được, huống là thật chứng! Chỉ có Trì Danh Niệm
Phật, thực hiện dễ dàng nhất, thành công nhanh nhất! Nếu có thể nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục ắt sẽ đích thân chứng được Niệm Phật
tam-muội ngay trong đời này, lâm chung chắc chắn vãng sanh Thượng
Phẩm. Dẫu căn cơ hèn kém, chưa chứng được tam-muội, chỉ dùng lòng
tin chân thành trì danh hiệu Phật như con nhớ mẹ, luôn luôn chẳng gián
đoạn, đến khi lâm chung cảm ứng đạo giao, nương theo Phật từ lực đới
nghiệp vãng sanh. Chúng sanh đời Mạt chỉ có pháp này để nhờ cậy. Nếu
không, chỉ gieo được cái nhân cho đời sau, khó đạt được lợi ích thật sự!
Nếu có thể chí tâm trì niệm, niệm đến khi “toàn tâm là Phật, toàn
Phật là tâm, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, không niệm
mà niệm, niệm mà không niệm, tâm lẫn Phật cùng tỏ rạng, lại cùng mất
hẳn” thì diệu lý Thật Tướng sẽ hiện rõ rành rành, y báo, chánh báo cõi
Tây Phương triệt để hiện trọn vẹn. Tuy trì danh nhưng đạt Thật Tướng
sâu xa, chẳng quán tưởng mà đích thân thấy được Tây Phương! [Pháp trì
danh] nhiếp thọ căn cơ phổ biến nhất, được lợi ích sâu xa nhất, lợi lạc
nhất cho kẻ độn căn trong đời Mạt Pháp, thỏa thích lớn lao bản hoài xuất
thế của Như Lai. Vì thế, từ xưa hàng tri thức phần nhiều đều chuyên chú
nơi một môn Trì Danh. Đây là nói đại lược về cách niệm Tha Phật vậy.
Còn như niệm Tự Phật lẫn Tha Phật thường được gọi là Thiền Tịnh
Song Tu, có người chuyên khán câu “người niệm Phật là ai?” để mong
minh tâm kiến tánh, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Tuy tợ hồ
Thiền Tịnh Song Tu, nhưng thật ra là “có Thiền, chẳng có Tịnh”. Đã
không có tín nguyện, sẽ không có cách nào cậy vào Phật lực để đới
nghiệp vãng sanh được! Nếu chưa đạt đến địa vị nghiệp tận tình không,
vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Do vậy biết: Đối với
Thiền Tịnh Song Tu, chỉ hạng người có đầy đủ tín nguyện sâu xa mới có
thể đạt được lợi ích. Nếu không, đương nhiên chẳng bằng chuyên dốc
sức nơi một môn trì danh hiệu Phật! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 59
* Lý tức là Lý Tánh, tức là Phật Tánh mà Phật và chúng sanh đều
sẵn có. Tánh ấy có đủ hết thảy công đức. Sự chính là tu trì và đoạn Hoặc
chứng Chân v.v… Do trong tự tánh sẵn đủ những công đức ấy nên tu
đến mức cùng cực sẽ xứng tánh hiển hiện. Do vậy, gọi là “lý sự viên
dung”. Nếu chỉ biết bản tánh sẵn đủ, chẳng tu trì thêm thì đến tột cùng
đời vị lai cũng chẳng thể đích thân chứng được lý “tánh sẵn đủ” ấy. Đó
gọi là “chấp Lý phế Sự, Lý cũng chẳng viên”. Vì thế, người tu hành hễ
đã ngộ được lý “tánh sẵn đủ”, ắt phải thiết thực tu trì.
Phương pháp tu trì chỉ có trì danh niệm Phật thật là bậc nhất. Vì thế,
hãy nên chuyên chú nơi tín nguyện trì danh. Lại còn lấy “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành” làm Trợ Hạnh, lợi ích sẽ lớn lao. “Hồ
đến, Hồ hiện” nghĩa là tâm như gương sáng, gương vốn rỗng lặng, trọn
chẳng có một vật gì, nhưng lại tùy theo cảm mà ứng. Người Hồ đến thì
trong gương liền hiện bóng người Hồ, người Hán đến [gương cũng hiện
bóng người Hán] giống như thế. Ngồi ngay ngắn niệm Thật Tướng chính
là nhất tâm chuyên chú nơi Chân Như Phật Tánh bất sanh bất diệt để
mong triệt ngộ, thật chứng. Loại công phu này thật chẳng dễ dàng đạt
được; nếu chẳng hiểu rõ Lý, chắc sẽ khởi ma sự, bất tất phải dùng loại
công phu này! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ tám - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 6)
* Ông nói vọng niệm quá nhiều là vì ông cứ một mực ứng phó
ngoại duyên đến nỗi trong lòng tạp niệm tưng bừng diễn ra. Hãy nên
nghĩ mình sắp chết, tưởng sắp đọa địa ngục, nhất tâm niệm Phật thì vọng
niệm sẽ liền tiêu diệt, chứ không phải vì thông thuộc kinh hay không!
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 7 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2,
Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 5)
* Niệm Phật tu trì giống như uống thuốc. Nếu hiểu rõ giáo lý, giống
như biết cặn kẽ nguồn gốc căn bệnh, dược tánh, mạch lý, rồi sẽ uống
thuốc thì có thể gọi là “tự lợi, lợi tha”, không chi tốt lành bằng! Nếu
không được như thế, trước hết chỉ chịu uống thuốc A Già Đà28 đã được
[đức Phật] thay ta bào chế sẵn thì bệnh cũng được lành. Cũng có thể đem
thuốc này cho hết thảy mọi người uống để được lành bệnh. Chỉ mong
sao lành bệnh, không cần phải buồn lòng vì chẳng biết nguồn gốc căn
28 A Già Đà (Agada), còn phiên là A Yết Đà hoặc A Kiệt Đà, có nghĩa là mạnh khỏe,
trường sanh bất tử, không bệnh, trừ khử khắp mọi thứ. Đây là một loại thuốc theo
huyền thoại Ấn Độ có tác dụng trị tất cả mọi bệnh, giá trị vô lượng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 60
bệnh, dược tánh, mạch lý! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật )
* Cha ông đã cho phép ông xuất gia, hãy nên phát tâm chí thành
khẩn thiết, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay ở trong lục đạo không nghiệp
nào chẳng tạo. Nếu không có tâm tu hành, sẽ đâm ra chẳng cảm thấy có
những ác niệm cổ quái, hiếm lạ ấy. Nếu phát tâm tu hành [sẽ cảm thấy]
những thứ ý niệm ấy càng nhiều hơn thêm (Đây chính là do chân - vọng soi
lẫn nhau mà hiển hiện, chứ không phải là trước kia không có, chỉ là do chúng chẳng
hiện rõ mà thôi). Lúc ấy, hãy nên tưởng A Di Đà Phật ở trước mặt ta,
chẳng dám có một tạp niệm vọng tưởng, chí thành, khẩn thiết niệm
thánh hiệu Phật (hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm), ắt phải sao cho từng
câu từng chữ trong tâm niệm rõ ràng phân minh, miệng niệm rõ ràng
phân minh, tai nghe rõ ràng phân minh. Thường niệm được như thế thì
hết thảy tạp niệm tự nhiên tiêu diệt.
Khi tạp niệm khởi lên, hãy đặc biệt đề khởi toàn bộ tinh thần niệm
Phật, chẳng để cho nó tác quái trong tâm ta. Nếu có thể thường niệm
được như thế thì ý địa tự nhiên thanh tịnh; lúc tạp niệm vừa mới dấy sẽ
giống như một người chống lại vạn người, tâm chẳng thể có chút [ý
niệm] thong thả, dễ dãi nào. Nếu không, nó sẽ thành chủ của ta, ta sẽ bị
nó hại. Nếu liều hết tánh mạng chống lại nó, nó sẽ bị ta xoay chuyển,
đấy gọi là “chuyển phiền não thành Bồ Đề”.
Hiện thời ông có thể thường đem vạn đức hồng danh của Như Lai
để cực lực kháng cự thì lâu ngày chầy tháng tâm sẽ tự thanh tịnh. Tâm
đã thanh tịnh rồi, vẫn cứ niệm y như cũ chẳng buông lung, thì nghiệp
chướng sẽ tiêu, trí huệ mở mang. Chớ nên sanh lòng gấp rút, vọng động!
Bất luận ở tại nhà hay ở nơi am đều phải kính trên, hòa dưới, nhẫn được
những điều người khác chẳng thể nhẫn, làm được những chuyện người
khác chẳng thể làm, chịu nhọc nhằn thay cho người khác, thành tựu sự
tốt đẹp cho người ta. Khi tịnh tọa thường nghĩ đến lỗi mình, lúc chuyện
gẫu chẳng bàn lỗi của kẻ khác, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, từ
sáng tới tối, từ tối tới sáng, một câu Phật hiệu chẳng để gián đoạn, hoặc
niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm, trừ niệm Phật ra, chẳng khởi lên niệm
nào khác.
Nếu lỡ vọng niệm dấy lên, hãy lập tức làm cho nó tiêu diệt. Thường
sanh lòng hổ thẹn và sanh lòng sám hối. Dẫu có tu trì, luôn cảm thấy
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 61
mình công phu rất cạn, chẳng tự khoe khoang, kiêu căng, chỉ bận tâm
đến chuyện trong nhà của chính mình, chẳng dính tới chuyện nhà người
khác, chỉ thấy những gương tốt, chẳng thấy những gương xấu. Thấy hết
thảy mọi người đều là Bồ Tát, chỉ có mình ta quả thật là phàm phu. Nếu
ông có thể làm theo những điều tôi đã nói, chắc chắn sẽ sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. (Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ số 5 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Diệp Phước Bị - 1)
* Bế quan chuyên tu Tịnh nghiệp thì hãy nên lấy niệm Phật làm
Chánh Hạnh. Khóa sáng vẫn chiếu theo lệ thường tụng Lăng Nghiêm,
Đại Bi, Thập Tiểu Chú. Nếu không thuộc chú Lăng Nghiêm thì chẳng
ngại gì hằng ngày cứ xem kinh mà tụng. Đến khi thật thuộc rồi hãy niệm
thuộc lòng. Khóa tối thì kinh A Di Đà, Đại Sám Hối, Mông Sơn cũng
phải thường niệm hằng ngày. Ngoài ra, nên niệm Phật từ sáng đến tối, đi
- đứng - nằm - ngồi thường niệm.
Lại lập một quy củ, sáng niệm một lần; trước khi chưa niệm, lạy
bao nhiêu đó lạy (Trước hết lạy Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lạy, rồi lạy A
Di Đà Phật bao nhiêu đó lạy, rồi lễ Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
mỗi vị ba lạy, rồi lễ thường trụ thập phương hết thảy chư Phật, hết thảy tôn pháp, hết
thảy hiền thánh tăng ba lạy). Hoặc niệm Phật một ngàn tiếng, hoặc nhiều
hơn hay ít hơn. Niệm xong lại lễ chừng đó lạy, buổi sáng một lần, buổi
chiều một lần, rồi nghỉ một khắc để tụng khóa tối, đầu hôm niệm Mông
Sơn, sau đó niệm Phật bao nhiêu đó tiếng, lễ bao nhiêu đó lạy, phát
nguyện hồi hướng, tam quy y xong, trong tâm thầm niệm Phật hiệu để
dưỡng hơi. Lúc nằm chỉ nên niệm thầm trong tâm, đừng nên niệm ra
tiếng. Niệm ra tiếng sẽ tổn khí, lâu ngày sẽ thành bệnh. Dẫu là ngủ nghỉ,
trong tâm vẫn thường giữ lòng cung kính, chỉ cầu tâm chẳng rong ruổi
theo bên ngoài, niệm niệm tương ứng với Phật hiệu. Nếu tâm khởi lên
tạp niệm, liền lập tức nhiếp tâm kiền thành niệm, tạp niệm sẽ tiêu diệt
ngay.
Đừng nên mù quáng dấy lên vọng tưởng, mong đắc thần thông, đắc
duyên pháp, được tiếng tăm, mong xây chùa, dựng miếu. Nếu có những
thứ ý niệm ấy, lâu ngày chầy tháng ắt sẽ bị ma dựa. Nếu chẳng nói toạc
những điều này với ông, sợ rằng ông sẽ tưởng những ý niệm ấy là tốt,
vọng tưởng ngày ngày tăng trưởng, chắc chắn sẽ bị ma dựa không còn
ngờ chi! Dẫu cho tâm đã tịnh, vọng bị khuất phục, cũng chớ nên sanh
lòng hoan hỷ, tự khoe khoang với người khác, có một phần bèn nói tới
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 62
mười phần, đấy cũng là cái gốc để bị ma dựa! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ
10 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời sư Minh Tâm)
2. Chỉ cách đối trị tập khí
* Người học đạo phải lấy đối trị tập khí làm bước thứ nhất trong
công phu tu hành. Nếu có thể trừ khử được một phần tập khí thì công
phu mới thật sự đạt được một phần. Nếu không, chỉ có nhân, không có
quả, khó được tương ứng với Phật! Ông đã biết [chính mình] tánh tình
hung bạo, hãy nên luôn luôn nghĩ “ta chuyện gì cũng chẳng bằng người
khác”; dẫu cho người ta phụ bạc ân đức của chính mình, vẫn thường
nghĩ mình đã phụ bạc ân đức của người khác! Cảm thấy đối với hết thảy
mọi người, ta đều đáng hổ thẹn, thiếu sót khôn cùng, thì tánh khí hung
bạo sẽ không còn do đâu phát sanh được nữa! Phàm tánh khí hung bạo
đều là do ngạo mạn mà dấy lên. Đã biết chính mình chỗ nào cũng có lỗi,
tự nhiên tánh khí sẽ hòa hoãn, tâm bình lặng, chẳng tự ngã mạn, cao
ngạo, lấn hiếp người khác! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Hác Trí Hy)
* Khi tập khí hãy còn thì chính mình chẳng biết, [chẳng hạn] như tập
khí của thói quan liêu, chỉ những ai không có thói ấy mới biết! Tự mình
có thói tập khí ấy dẫu người khác có nói thì chính mình vẫn chẳng nhận
biết những điều đã được chỉ ra. Người học đạo cần phải trừ tập khí. Tập
khí ngạo mạn quả thật là chướng ngại cho sự nhập đạo. Các hạ hãy xét
kỹ, quan sát lời nói, hành vi chắc sẽ biết được! Hễ biết thì còn đạt được
lợi ích thù thắng. Lời lẽ này không ai chịu nói, Quang một mực lòng dạ
thẳng băng, ăn nói thẳng tuột, chẳng nề hà kiêng kỵ, muốn cho các hạ
thật sự được lợi ích chân thật cho nên tôi lược thuật nguyên do. (Hoằng
Hóa Nguyệt San số thứ bảy - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư
trả lời cư sĩ Dương Điển Thần).
* Căn bệnh chung của cả cõi đời hiện thời là nhờ công để lợi tư,
khiến cho dân cùng khốn, nước nguy ngập, chiến tranh liên miên. Chúng
ta xuất gia làm đệ tử Phật, cố nhiên phải lấy lòng bình đẳng đại từ, đại bi
của đức Phật làm chí hướng, chẳng nên giữ mãi thói kiêu mạn tự đại của
người tại gia, coi thường hết thảy, mặc tình xử sự, chẳng tuân theo lề lối
cũ. Phải nghĩ chúng ta được trời che đất chở, được cha mẹ giáo dục, nếu
chẳng bắt chước tấm lòng của trời đất, cha mẹ, sẽ thành kẻ nghịch trời
trái lý, gây nhục sâu xa cho đấng sanh thành. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi thầy Minh Bổn)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 63
* Người xưa nói: “Ninh khả thiên sanh bất ngộ, vật giao nhất thời
trước ma” (Thà cho ngàn đời chẳng ngộ, chẳng để ma dựa một lúc).
Người thông minh tự kiêu, đa phần phạm phải căn bệnh này. Do trước
đó tự tâm đã chứa sẵn chí khí phô trương, sai trái, hung hăng này, ma
bèn thừa cơ xen vào. Nếu chẳng nông nổi, bộp chộp, tự kiêu, ma sẽ lánh
xa! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm
Phật)
* Những gì ông nói đều toàn là cậy vào ý kiến của chính mình,
chẳng lấy thật lý, thật sự làm chuẩn. Nay ông đã biết sai, ắt phải cực lực
đối trị tập khí ấy. Không trừ được tập khí ấy thì mỗi một cử động đều có
thể tổn phước, chuốc họa. Câu nghi vấn đầu tiên của ông chính là lời hủy
báng, chứ tuyệt đối chẳng phải là nghi vấn! [Dùng chữ] “nghi vấn” chính
là chơi chữ để che đậy. So với chuyện nói thẳng thừng là không tin, lỗi
lầm ấy còn lớn hơn nữa! Nếu vẫn cứ giữ thói ấy, chẳng biết sửa đổi ắt sẽ
có ngày bị ma dựa phát cuồng! Thuốc hay đắng miệng, không biết cư sĩ
có chịu uống hay không? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Cát Chí Lượng)
* Tu hành chẳng si ngốc29, quyết khó thể thành tựu! Nhất tâm niệm
Phật chính là chánh niệm Chân Như lớn lao. Khi chuyện chẳng ngờ
trước xảy đến, dẫu là chuyện chẳng thể thoái thác được, hãy nên bình
tâm, hòa khí, suy xét cẩn thận, đấy chính là “xét lời nói, xem vẻ mặt” hết
sức kỹ càng. Tâm gấp rút chính là chướng ngại lớn cho người tu hành.
Buông được cái tâm này xuống thì đương thể sẽ thanh lương.
Trong lúc cõi đời rối loạn này, tuổi ông đã gần năm mươi rồi, nếu
chẳng chịu chết lòng30 niệm Phật, do đọc sách có chỗ không biết bèn
muốn học Giáo. Suy tính kiểu ấy, nếu đem hỏi vị pháp sư khác, chắc [vị
ấy sẽ bảo là] rất tốt. Nếu đem hỏi Quang, [Quang sẽ bảo] đấy chính là
suy tính chẳng tuân giữ bổn phận! Kẻ ngu một chữ không biết kia còn
29 Ở đây không có nghĩa là người ngu si, đần độn mới tu hành được, mà có nghĩa là
hành nhân phải hiểu mình là phàm phu độn căn, không tự kiêu, ngạo nghễ, không
cậy mình thông minh, mà thật thà, chất phác tu hành, không mong ngóng trở thành
bậc thông gia diễn giảng Phật pháp hoạt bát hòng phô tài thế trí biện thông, đến nỗi
không có sự tu tập thật hạnh.
30
Chết lòng niệm Phật (tử tâm niệm Phật): Ý nói chỉ còn một bề chuyên niệm Phật,
cầu vãng sanh, tin sâu, nguyện chắc, không mong ngóng, tìm kiếm quẩn quanh,
không cầu phước báo nhân thiên, không tham học rộng nghe nhiều để biện luận cho
lưu loát, chứ không thực tu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 64
được vãng sanh Tây Phương, nhưng bậc đại thông gia thông Tông thông
Giáo sâu xa vẫn không được hưởng lợi ích ấy! Sao ông lại xem đó là
điều tiếc nuối vậy? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả
lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Ông hai mươi mốt tuổi, biết làm văn, làm thơ, chính là đời trước có
thiện căn, nhưng hãy nên khiêm tốn náu mình, đừng cậy thông minh
khinh người! Học vấn càng rộng rãi, càng cảm thấy không đủ thì sự
thành tựu sau này sẽ khó thể suy lường được! Mười năm trước, pháp sư
Đế Nhàn có một đồ đệ tên Hiển Ấm là người cực thông minh, xuất gia
năm mười bảy, mười tám tuổi, nhưng khí lượng quá nhỏ, không chịu
thua kém một chút nào! Lần đầu tiên giảng Tiểu Tòa31 xong, lễ sư phụ,
sư phụ trọn chẳng chê ông ta giảng không hay, chỉ nói âm thanh quá
nhỏ. Do một câu nói ấy liền ngã bệnh, mà ngài Đế Nhàn là người một
mực làm cho ông ta thường sanh tâm hoan hỷ. Vì thế, [Hiển Ấm] tánh
kiêu ngạo tăng trưởng hằng ngày, hằng tháng.
Sau này, Hiển Ấm qua Nhật Bản học Mật Tông, những bài viết
nhằm hoằng dương Mật Tông của ông ta đều gởi đăng trên tờ lâm san
của Thượng Hải Cư Sĩ Lâm. Ông ta tự đặt mình vào vị trí cao cả, cho
rằng chỉ có ta là cao. Sau đó về nước, đến chùa Quán Tông32 thăm thầy.
Ngài Đế Nhàn nói: “Ông thanh danh rất lớn, tiếc là chưa thật sự dụng
công, hãy nên bế quan ba năm để dụng công thì mới nên”. Ông ta vừa
nghe câu nói ấy như dao cứa tim, ngay bữa ấy liền sanh bệnh. Ngày hôm
sau ôm cơn bệnh đi qua Thượng Hải Cư Sĩ Lâm, được hơn một năm liền
mất.
Ông ta mất không lâu, Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải,
một thành viên của Cư Sĩ Lâm là Châu Thạch Tăng đến thăm, hỏi tình
hình lúc Hiển Ấm mất, [ông Châu] nói: “Hồ đồ! Phật chẳng niệm được,
mà chú cũng chẳng niệm được luôn!” Đấy chính là hạng đại pháp sư
hiển mật viên thông, tự cảm thấy trong đời không có ai sánh bằng, do
không tự lượng, cậy vào huệ căn đời trước, thành ra mới hai mươi hai,
31
Giảng Tiểu Tòa là một hình thức tập giảng. Trong một buổi giảng Tiểu Tòa chỉ có
thầy và các đồng học tham dự hầu rút kinh nghiệm diễn giảng.
32 Chùa Quán Tông thuộc thành phố Ninh Ba, vốn có tên là Thập Lục Quán Đường,
được xây dựng vào thời Nguyên Phong (1078-1085) đời Bắc Tống, vốn là nơi tỳ-
kheo Giới Nhiên tu quán tưởng Niệm Phật, quyên mộ dựng ra chùa này, gồm hơn
mười sáu gian. Ngài Đế Nhàn trụ trì chùa này từ năm 1912, đổi tên chùa thành Quán
Tông, biến thành một đạo tràng chuyên hoằng dương Thiên Thai Tông.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 65
hai mươi ba tuổi đã đoản mạng, chết thành con quỷ hồ đồ, chẳng đáng
buồn quá đỗi ư? Nếu như Hiển Ấm chẳng tự cao, khiêm tốn náu mình thì
e rằng những học giả Trung Quốc chưa chắc trỗi hơn ông ta được!
Quang thương Hiển Ấm do đó mà chết nên lấy chuyện xe trước [bị đổ]
để làm gương cho ông. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Du Hữu Duy)
* Tiên sinh Trần Kiếm Đàm tin nhân quả, tính muốn nêu rõ [nhân
quả], nhưng lại không chịu niệm Phật, ấy chính là tập khí của văn nhân!
Thuở trước, tổ Huệ Viễn do thấy Đào Uyên Minh33 bụng dạ trống rỗng,
khoảng khoát, có thể học đạo, liền mời dự vào Liên Xã. Nhưng ông ta
lấy rượu làm tánh mạng, biết Phật môn cấm rượu, chẳng dám nhận lời
mời, nên nói: “Cho tôi uống rượu thì tôi đến”. Tổ Huệ Viễn tâm đại từ bi
bèn chấp nhận. Ông ta đến niệm Phật được ba ngày, cau mày bỏ đi, do
chỉ có thể buông xuống, chẳng thể đề khởi! Như bọn ông Kỷ Văn Đạt,
Viên Tử Tài34 đều cùng một bệnh. Họ Kỷ, họ Viên khá tin tưởng nhân
quả, thường hay ghi chép sự thật cảm ứng trong Phật pháp, nhưng đều
chưa từng lắng lòng nghiên cứu, nên những lời luận định phần nhiều đều
33 Đào Uyên Minh (365-427), tên thật là Đào Tiềm, Uyên Minh là tên tự. Có thuyết
lại nói ông ta vốn tên thật là Uyên Minh, tên tự là Nguyên Lượng, sau sang đất Tống
bèn đổi tên thành Đào Tiềm. Từ đời Đường, do kỵ húy Đường Cao Tổ (Lý Uyên,
cha Đường Thái Tông) nên Đào Uyên Minh thường bị viết trại thành Đào Thâm
Minh hoặc Đào Tuyền Minh. Ông Đào tự xưng hiệu là Ngũ Liễu Tiên Sinh, vốn là
người xứ Tầm Dương (nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây) là một nhà văn
học lỗi lạc thời Tấn, có rất nhiều bài thơ được truyền tụng trong đời.
34
Kỷ Văn Đạt (1724-1805), tên thật là Kỷ Quân, tự Hiểu Lam, thụy hiệu là Văn Đạt,
người huyện Hiến, tỉnh Hà Bắc, rất thông minh, văn tài lỗi lạc, làm quan đến chức Lễ
Bộ Thượng Thư Hiệp Biện Đại Học Sĩ thời Càn Long, rất được vua hâm mộ. Ông
chính là người làm công tác Tổng Toản Tu (tổng biên tập) bộ Tứ Khố Toàn Thư Hội
Yếu.
Viên Tử Tài (1716-1797), tên thật là Viên Mai, hiệu Tử Tài, bút hiệu Tùy Viên Lão
Nhân, người Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Từng ra làm quan, nhưng do tính tình
phóng khoáng bèn từ quan, trở về sống trong núi Tiểu Thương thuộc Nam Kinh, lập
ra vườn cảnh, đặt tên là Tùy Viên để xướng họa, ăn nhậu, trước tác và nghiên cứu
ẩm thực. Ông làm thơ rất hay, văn chương rất ưu nhã. Ông lại soạn riêng một cuốn
sách ghi chép những món ăn ngon và cách nấu nướng chúng đặt tên là Tùy Viên
Thực Đơn. Cuốn sách này cho đến tận giờ vẫn được coi là một trong những tác phẩm
nổi tiếng về nghệ thuật ẩm thực cổ Trung Quốc. Thậm chí, người Nhật còn cho dịch
ra Nhật ngữ và tái bản nhiều lần. Cũng giống như Kỷ Hiểu Lam, họ Viên rất thông
hiểu và hâm mộ đạo Phật, nhưng do quen thói phóng túng, thích ngâm vịnh, ăn uống,
xướng họa, thù tạc nên rốt cuộc cả hai ông đều không thể nào tu tập được
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 66
là bàn về chuyện thực hành bề ngoài. Ông Viên thoạt đầu báng Phật, về
sau lại tin Phật, tuy tin nhưng chẳng thể nghiên cứu, tu trì, đó gọi là
“thông minh văn tự chướng”. Ông Trần sẽ có ngày thiện căn phát hiện,
chưa chắc đã suốt đời như thế. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư gởi cư sĩ Ngụy Mai Tôn - 10)
* Ở ngân hàng, trong hết thảy mọi lúc, ông phải chú tâm cẩn thận,
đừng học thói ăn nói lớn lối, chẳng tích cực dốc lòng vào mọi chuyện
nhỏ nhặt. Phải biết thái độ ấy là thái độ của kẻ bại hoại, bởi chưa làm
chuyện lớn đã coi thường chuyện nhỏ, tưởng mình tài năng lớn lao, cớ gì
phải ràng buộc bởi chuyện này? Phải biết đấy là mầm mống của phường
hạ lưu dối mình, lừa người!
Phàm người làm việc lớn, quyết chẳng chịu khinh thường chuyện
nhỏ. Phàm ai khinh thường chuyện nhỏ, chắc chắn chẳng thể đảm nhiệm
chuyện lớn. Vì sao biết vậy? Do quân tử hành xử đúng với địa vị. Ông
thuộc địa vị làm chuyện nhỏ, nhưng chẳng chịu trọn hết chức trách và
bổn phận, cho rằng ta cần gì phải dụng tâm nơi chuyện này thì khi được
làm chuyện lớn, kiêu căng, phóng túng, buông lung sẽ dấy lên, ấy là vì
cội rễ chưa lập, do đâu mà cành nhánh tươi tốt, tỏa rộng cho được? Ví
như một người có chút tài mọn, cũng có đôi chút tu trì, trong tâm bèn
cảm thấy ta rất cao minh, tu trì dữ lắm. Do đó, cái tâm ngạo nghễ, ngã
mạn sẽ chiêu khởi những oán gia đối đầu từng bị ta hãm hại trong đời
trước nhập vào thân tâm hiện thời, đến nỗi tài chẳng thành gì, tu chẳng
ra chi! Nếu kẻ ấy khiêm cung, hiếu thuận, do sức tu trì ấy sẽ tiêu diệt
được túc nghiệp, tăng trưởng thiện căn, mai sau lâm chung sẽ vãng sanh
Tây Phương, được lợi ích thật sự là siêu phàm nhập thánh. So với những
kẻ tự lầm lạc ngạo nghễ, lợi - hại nào phải chỉ khác biệt như trời với
vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Châu
Pháp Lợi - 3)
* Ai nấy đều có điều ưa thích; kẻ chuộng danh xuông ắt sẽ chẳng
chú trọng lợi ích thật sự. Bà nội kế của ông tuy có mấy chục năm tu trì
nhưng vẫn là một kẻ phàm tục, đối với việc vãng sanh sợ rằng càng khó
khăn hơn nữa. Nhưng cũng có thể coi điều này như một mũi kim đâm
vào đỉnh đầu người niệm Phật: Cần phải buông xuống hoàn toàn sự ham
chuộng thể diện tốt đẹp thì mới là người thật sự niệm Phật. Quang cũng
chẳng phải là bậc thánh nhân [có đủ] thần thông, chỉ có thể chí thành hồi
hướng cho cụ, chẳng thể làm cho cụ quyết định được vãng sanh!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 67
Bà nội kế của ông hành trì đã quy về thuần nhất, nhưng trong lúc ấy,
nói đến sự lợi ích cầu sanh Tây Phương [thì cụ] vẫn hơi hàm hồ, càng
khó vãng sanh. Do có chút phước tu hành, chắc chắn đời sau bị phước
làm mê, sẽ rộng tạo ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, chắc chắn bị đọa mãi
trong tam đồ ác đạo. Biết sự lợi - hại này rồi, hãy chớ si tâm vọng tưởng,
luyến tiếc trần cảnh thế gian, chẳng nguyện vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Bà là một phụ nữ, do muốn học theo một trường phái văn chương
nào đó, bèn muốn bái một đại văn gia làm thầy ư? Tôi dạy bà một cách
giản tiện nhất: Mỗi ngày bà chí thành niệm Phật và niệm Quán Thế Âm,
cầu Phật, Bồ Tát gia bị cho bà nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng
trưởng. Nếu được như thế thì vừa đọc sách của cổ nhân liền hiểu đạo lý,
hiểu cách viết văn, do vậy chẳng cần phải bái sư học văn nữa! Hết thảy
kinh, hết thảy sách đều là văn chương. Nếu tâm địa mở mang, lo chi
chẳng biết cách viết văn! Tâm địa chẳng mở mang, dù có học cũng
chẳng có thành tựu lớn lao! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư gởi nữ sĩ Hoàng Châu Phước Thuần)
* Nhận được thư, biết lòng Từ khá sâu; vì thế chẳng tiếc nhiều tiền,
hễ thấy [con vật sắp bị giết] liền mua để thả, tôi cảm kích, bội phục cùng
cực. Nếu nói niệm Đa Bảo Như Lai hoặc Thất Như Lai35, hoặc Vãng
Sanh Chú, hoặc Chuẩn Đề Chú, hoặc Đại Bi Chú thì đều được, há nên
tụng chú do người đời soạn ra? Quang chẳng cho như vậy là đúng lắm!
Các hạ đã hiểu sâu xa Phật lý, sao vẫn nghĩ những chú văn [do người đời
soạn ra] ấy là hữu ích, còn những chú do đức Phật nói đâm ra chẳng có
ích gì? Đấy cũng là tập khí trong đời trước tin đạo chẳng chuyên dốc mà
ra. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 7 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển
2, Thư trả lời cư sĩ Dương Điển Thần - 2)
* Chúng sanh tập khí quá sâu, muốn làm cho họ thay đổi thật chẳng
dễ dàng. Cơ duyên niệm Phật của vợ chồng Tử Cần vẫn chưa chín muồi,
35 Đây là danh hiệu của bảy đức Như Lai thường được xướng tụng trong khi thí thực
hoặc cúng dường. Danh hiệu của bảy vị này xuất phát từ Diệm Khẩu Du Già Đà La
Ni Kinh, gồm: Bảo Thắng Như Lai, Đa Bảo Như Lai, Diệu Sắc Thân Như Lai,
Quảng Bác Thân Như Lai, Ly Bố Úy Như Lai, Thế Gian Quảng Đại Oai Đức Tự Tại
Quang Minh Như Lai và A Di Đà Như Lai. Nhưng theo nghi thức phổ biến hiện thời,
danh hiệu của bảy vị Như Lai là Bảo Thắng Như Lai, Đa Bảo Như Lai, Diệu Sắc
Thân Như Lai, Quảng Bác Thân Như Lai, Ly Bố Úy Như Lai, Cam Lộ Vương Như
Lai và A Di Đà Như Lai.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 68
chớ nên miễn cưỡng! Cư sĩ đã lập cách huân tập, chắc dần dần họ sẽ
sanh lòng tin. Một phụ nữ ở Tào Hành Trấn thuộc vùng phụ cận Thượng
Hải mỗi khi niệm Phật liền bị mẹ chồng chửi mắng, ngăn cấm, người
con dâu ấy vẫn chẳng thay đổi. Lâu ngày mẹ chồng cũng niệm Phật,
cũng quy y. Nay thì bà cụ còn tinh tấn hơn con dâu nữa! Xin ông hãy từ
từ, đừng sanh ưu phiền (Hoằng Hóa Nguyệt San, số thứ 8 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 6)
* Con người hiện thời đa số tánh tình có phần mang thói ưa khoe
khoang, lớn lối; [chẳng hạn như] chưa hoằng pháp nhưng trước hết đã
cầu tìm kinh điển chưa được dịch [sang tiếng Hán] ở ngoại quốc; vậy thì
đối với những kinh đã được dịch trong nước, có từng nghiên cứu mỗi
một kinh cho đến tột cùng hay chưa? Huống chi nếu đã nhận hiểu được
một hai nghĩa lý trong kinh Phật sẽ liền có thể thượng hoằng hạ hóa!
Huống nữa, [kinh Phật đã được dịch sang tiếng Hán] dẫu nhiều đến
mấy ngàn quyển vẫn [cho rằng] chẳng đủ dùng, cứ muốn tìm tòi tại các
nước thuộc Ấn Độ ư? Phàm với những kiểu đề xướng như vậy, Quang
đều chẳng cho là đúng! Những ý kiến như vậy đều xuất phát từ thói ham
cao, chuộng xa, thấy khác lạ, nghĩ đi tận đâu đâu, hòng khiến cho mình
được nổi bật lên giữa mọi người; nếu người ta nói sao mình cũng nói hệt
như vậy thì chẳng đáng gọi là kỳ lạ, đâu thể hiện được bản lãnh của ta!
(Hoằng Hóa Nguyệt San, số thứ 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển
1, Thư trả lời cư sĩ Diệp Ngọc Phủ)
* Ông gởi thư đến lời lẽ khá khẩn thiết, nhưng vẫn còn có tập khí
khinh Tăng mạn pháp. Tập khí ấy thật sự chướng ngại cho việc học đạo.
Nếu đích thân đến quy y, [pháp sư truyền giới] thăng tòa [thuyết giới] thì
phải dập đầu chừng hai mươi, ba mươi lượt trở lên; dẫu nói dễ dãi thì
cũng phải dập đầu mấy lượt. Ông gởi thư xin quy y, chỉ nói “chắp tay
khải thỉnh” rồi thôi. Chắp tay vái chào là nghi thức giữ lễ của người đi
đường hỏi thăm đường. Ông muốn quy y Tam Bảo để giúp cho chuyện
liễu sanh thoát tử, lại muốn báo đáp ân đức của hiền thê và độ thoát hết
thảy chúng sanh. Kỳ vọng rất lớn, nhưng lại khuất mình rất ít, hơi mắc
nỗi tệ “nhân quả chẳng phù hợp”!
Xưa kia, hoàng đế Thuận Trị viết thư cho môn nhân của Ngọc Lâm
quốc sư còn dùng [từ ngữ] “pháp đệ Hành Si hòa-nam36” (Hành Si là pháp
danh của Thuận Trị). Đem đây - kia so sánh nhau, chẳng khác biệt như trời
36 Hòa nam (Vandanam) có nghĩa là kính lễ, quy kính.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 69
với đất ư? Quang hoàn toàn chẳng phải vì cầu người khác cung kính mà
nói như vậy. Nếu dựa theo lý tánh thì cố nhiên không có tướng nhân ngã để được, huống chi từ vô thủy đến nay, lần lượt làm cha mẹ, anh em
v.v… của nhau, tương lai đều cùng thành Phật để độ chúng sanh! Do
vậy, nói: “Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư
Phật trong vị lai”, cung kính còn không xuể, sao còn dám trách móc
những thiếu sót của người ta ư? Nhưng duy trì Phật pháp mà không lập
ra nghi lễ nghiêm túc thì không sao khiến cho người khác sanh lòng kính
ngưỡng, tận lực tu trì được! Do vậy, trong Luật [quy định] “hễ thỉnh
pháp mà thiếu nghi thức cung kính thì chẳng nói!”
Ngài Thường Bất Khinh thấy người khác liền lễ bái, người ta dùng
roi, gậy, ngói, đá đánh, ném, vẫn chạy tránh ra xa lễ bái, đấy chính là căn
cứ trực tiếp trên bản thể để gieo chủng tử, chứ không phải là lề lối duy
trì pháp đạo của kẻ phàm phu. Chỉ sợ ông chấp vào danh nghĩa ấy, cho là
cái nhìn của Quang hẹp hòi, nên mới trình bày đại lược cùng ông, đó
cũng là một cách để trừ khử phiền não vậy! Mạn là căn bản phiền não,
học Phật dùng cách này đối trị phiền não hữu ích lắm, cho nên chẳng thể
không bảo cùng ông. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Trần Dật Hiên)
* Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, theo tiếng cứu khổ37.
Nếu gặp phải những hoạn nạn như đao binh, nước, lửa, đói kém, sâu rầy,
châu chấu, ôn dịch, hạn hán, lụt lội, giặc cướp, oan gia, ác thú, rắn độc,
ác quỷ, yêu mị, bệnh tật do oán nghiệp, tiểu nhân hãm hại…. mà có thể
phát tâm sửa lỗi hướng thiện, tự lợi lợi người, chí thành khẩn thiết niệm
Quán Thế Âm, niệm niệm không gián đoạn, chắc chắn sẽ được Ngài từ
bi che chở, chẳng bị nguy hiểm gì. Nếu vẫn giữ tấm lòng chẳng lành,
dẫu có xưng niệm, chẳng qua chỉ tạm gieo căn lành cho vị lai, chẳng
được cảm ứng trong hiện thời. Bởi lẽ Phật, Bồ Tát đều là thành tựu thiện
niệm cho người, trọn chẳng thành tựu ác niệm cho người. Nếu chẳng
phát tâm sửa lỗi hướng thiện, lầm lạc muốn niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát
để mong thành tựu ác sự cho mình thì quyết định không được cảm ứng,
chớ có dấy lên cái tâm điên đảo ấy!
37
Tầm thanh cứu khổ: Quán Thế Âm Bồ Tát quán sát tiếng kêu cầu cứu khổ cứu nạn
của chúng sanh trong mười phương pháp giới bèn tùy thuận cơ nghi hiện thân cứu
độ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 70
Niệm Phật khẩn yếu nhất là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt đẹp. Có sức làm
được thì tích cực làm, chẳng thể làm được thì cũng phải phát thiện tâm
ấy, hoặc khuyên người có sức làm, hoặc thấy người khác làm bèn phát
tâm hoan hỷ, thốt lời khen ngợi thì cũng là thuộc về công đức nơi tâm và
miệng. Nếu chẳng thể tự làm được, thấy người khác làm bèn sanh ganh
ghét, liền thành ra tâm hạnh tiểu nhân gian ác, chắc chắn bị tổn phước,
giảm thọ, chẳng được kết quả tốt lành, hãy nên thống thiết răn dè. Chẳng
được làm chuyện giả dối để được tiếng, buôn danh chuốc dự, tâm hạnh
ấy quả thật bị thiên địa, quỷ thần đều cùng ghét. Nếu có thì phải sửa đổi,
nếu không thì càng thêm cố gắng. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
* Người tu hành tâm chớ nên lệch lạc. Nếu lệch lạc chắc sẽ mắc
bệnh. Thân thể yếu đuối thì hãy nên lắng lòng chánh niệm để tâm thần
chẳng rong ruổi theo bên ngoài, tâm tự quy nhất thì thân cũng dần dần
được yên ổn, khỏe mạnh. Nếu muốn được vãng sanh mà tâm này kết
chặt chẳng cởi gỡ được, chắc sẽ dấy lên ma sự. Mặc cho nghiệp đến - đi,
chính mình tự trấn định. Nếu muốn được [thành tựu] ngay, sẽ như dưa
chưa chín đã hái trước, há còn dùng được nữa hay chăng?
Ông bạn X… nọ thần kinh suy nhược, một là do tham sắc, hai là do
quá mức vọng tưởng muốn làm chuyện sức mình không thể làm được
mà ra. Nếu cởi gỡ được hai điều này, bệnh sẽ tự lành. Nếu không, sau
này bị mất trí phát cuồng cũng chẳng biết chừng! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật )
* Đoạn trừ dâm niệm, sân niệm thật chẳng dễ dàng gì. Nếu chẳng có
sở chứng, quyết chẳng thể rốt ráo thanh tịnh! Như mười hai câu trong
sách Cảm Ứng Thiên: “Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc” (Thấy người
khác đạt được điều gì, giống như chính mình đạt được) v.v… nếu có thể
đối với mỗi chuyện đều có thể xét soi tự tâm, dẫu [tâm] chưa thể thuần
ngay, vẫn có thể thường được như vậy. Nhan Tử (Nhan Uyên) ba tháng
chẳng trái nghịch điều nhân, nhưng vẫn hơi bị gián đoạn, chưa thể hoàn
toàn hòa lẫn thành một khối với lòng nhân được. Mong thành thánh
thành hiền là do con người tự gắng sức. Nếu phóng túng thì sẽ chẳng thể
nào diễn tả được, giống như những kẻ “vì nước vì dân” hiện thời vậy!
Chẳng đáng buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả
lời thư cư sĩ Niệm Phật )
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 71
* Trong cõi đời gần đây, bọn thiếu niên do tình dục quá nặng, nên
buông lung chơi bời, hoặc mê mệt thê thiếp, hoặc do ý chuyên nghĩ đến
điều dâm mà tinh thần ngầm bị tổn thương, hoặc thủ dâm để rò rỉ, phung
phí thứ quý báu nhất. Do vậy, thân yếu, tâm hèn, chưa già đã suy; học
vấn, sự nghiệp đều chẳng thành tựu. Thậm chí con cái sanh ra đều bấy
bớt hoặc khó khôn lớn, thành người được! Mà thọ mạng của chính mình
cũng khó thể dài lâu như trong số mạng đã định, chẳng đáng buồn ư?
(Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ hai - Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả
lời cư sĩ Vĩnh Nghiệp)
3. Bàn về chuyện giữ gìn tấm lòng, lập phẩm đức
* Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng (tức
thầy dạy ta và những vị có đạo đức), từ tâm không giết (nên ăn chay trường, hoặc
ăn chay kỳ. Nếu chưa dứt được ăn mặn thì đừng đích thân giết), tu Thập Thiện
nghiệp (tức là thân chẳng làm chuyện sát sanh, trộm cắp, tà dâm; miệng chẳng nói
dối, thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời ác; tâm chẳng khởi niệm tham dục, nóng giận,
ngu si). Lại còn phải cha nhân từ, con hiếu thuận, anh nhường, em kính,
chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, nghiêm túc tận hết bổn
phận của chính mình. Chẳng cần biết người khác có trọn hết bổn phận
đối với ta hay không, ta phải luôn trọn hết phận ta. Nếu có thể đối với
gia đình và xã hội trọn hết tình nghĩa, tận hết bổn phận thì gọi là “thiện
nhân”. Thiện nhân niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chắc chắn khi lâm
chung liền được vãng sanh bởi tâm hợp với Phật, nên cảm được Phật từ
tiếp dẫn. Nếu tuy thường niệm Phật, nhưng tâm chẳng nương theo đạo,
hoặc đối với cha mẹ, anh em, thê thiếp, con cái, bạn bè, xóm làng chẳng
thể tận hết bổn phận thì tâm đã trái nghịch Phật, khó thể vãng sanh! Do
tự tâm phát sanh chướng ngại, Phật cũng không có cách nào rủ lòng từ
tiếp dẫn được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư
gởi khắp)
* Người học Phật nên giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành, làm
chuyện tốt lành. “Giữ tấm lòng tốt lành” là phàm những ác niệm nghịch
trời trái lý, tổn người lợi mình v.v... đều chẳng cho khởi lên. Nếu khởi
lên bèn lập tức sanh lòng hổ thẹn, sám hối khiến cho nó tiêu diệt ngay.
Phàm những tâm hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, lợi người, lợi vật
đều thường gìn giữ, hễ có sức làm được bèn sốt sắng làm. Chẳng thể làm
thì tâm cũng thường nghĩ đến điều ấy. “Nói lời tốt lành” là phải nói
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 72
những lời có ích cho người, hữu ích cho vật; chứ không phải là muốn
cho người khác nghe xong vui sướng mà gọi là lời tốt lành! Như giáo
huấn con cái và khuyên người làm lành, khuyên người kiêng ác, khuyên
người giữ vẹn luân thường, khuyên người tu phước v.v… “Làm việc tốt
lành” là tích cực làm những chuyện hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính anh,
hòa thuận với họ hàng, sửa đổi phong tục [cho tốt đẹp hơn]. Phàm tụng
kinh, lễ Phật, niệm Phật, bái sám, các Phật sự đều phải [thực hiện bằng]
thân tâm cung kính! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
răn nhắc những người mới phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Học thánh, học Phật đều lấy “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành” làm gốc. Lại còn phải giữ phận khiêm nhường, ẩn giấu tài
năng, noi theo cổ nhân, tận tụy dõi theo đường lối thực tiễn. Làm được
như vậy thì học vấn lẫn phẩm hạnh đều vượt trỗi những kẻ tầm thường.
Thông thường những kẻ thông minh đều kiêu căng, khoe khoang, phô
tài, chua ngoa, khắc bạc, tâm hoàn toàn thiếu sự hàm dưỡng; kẻ ấy nếu
không suốt đời trắc trở, ắt sẽ chết yểu lúc trẻ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Từ Thư Dung)
* Tám chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chính là quy củ,
mực thước để làm người. Nếu ai chẳng tận sức nơi tám chữ ấy chính là
đã mất đi tám chữ. Tám chữ đã mất thì là loài cầm thú đội mũ mặc áo!
Người tuổi còn trẻ thì cái khó chế ngự nhất là tình dục. Thế đạo hiện thời
chuyên lấy việc hướng dẫn khêu gợi dâm dục làm mục đích. Các con tuy
có âm đức của tổ tiên, chẳng đến nỗi sa đà lắm, nhưng cần phải dè dặt tự
giữ gìn mới hòng chẳng thẹn với cha ông. Nếu chẳng dốc sức tạo lập
phẩm hạnh, bị dâm dục khống chế, sau này quyết định chẳng có thành
tựu, hoặc đến nỗi đoản mạng mà chết. Nay ta gởi cho các con hai bộ
Lịch Sử Thống Kỷ – đây là những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng
trích từ hai mươi bốn bộ sử ra, hai cuốn Gia Ngôn Lục – đây chính là
đạo trọng yếu để học Phật, là quy củ thường hằng để tu thân, hãy nên
đọc kỹ!
Câu “nam-mô A Di Đà Phật” như đã nói chính là diệu pháp để tiêu
nghiệp chướng, chuyển phàm thành thánh, nếu có thể thường niệm thì
tâm địa tự nhiên mở mang, thông suốt, tri kiến tự trở về chánh lý, học
hành, làm việc đều có lợi ích lớn. Huống hồ nay đang lúc thế đạo hoạn
nạn, niệm Phật sẽ có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn trở thành chuyện may,
lợi ích chẳng thể nói trọn hết, các con hãy nên hành theo Gia Ngôn Lục.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 73
Đọc Thọ Khang Bảo Giám, Thanh Niên Bảo Thân v.v… thì chẳng đến
nỗi buông lung theo tình dục hoặc thủ dâm. Thiếu niên hiện thời quá nửa
mắc chứng thủ dâm. Đấy thật sự là một con dao thật sắc giết hại cái thân
vậy, hãy nên đau đáu răn dè!
Anh các con là Đức Tấn mong mỏi các con sẽ do Phật pháp mà giữ
vẹn hạnh nhà Nho, đã sớm xin Quang viết thư khuyên lơn các con.
Quang sợ các con bị nhiễm theo trào lưu thời thượng, trái nghịch với
Phật, uổng phí tâm ta, vô ích cho các con, nên không viết thư ngay. Nay
các con đã biết tấm lòng sâu đậm của anh mình, gởi thư xin dạy dỗ, nên
ta chỉ nói những điều khẩn yếu. Những điều khác hãy tự mình chịu tận
lực thực hiện, lâu ngày sẽ chẳng khó gì mà dần dần biết được! Phải biết
con người và trời đất cùng xưng là Tam Tài. Trời đất cao dầy ai có thể
biết được; con người với tấm thân sáu thước sao lại có thể cùng trời cao
đất dầy khôn lường cùng xưng [là Tam Tài] cho được? Ấy là vì con
người có thể kế tục bậc thánh đời xưa, mở lối cho hàng hậu học đời sau,
dự phần vào cuộc sanh thành, dưỡng dục của trời đất vậy.
Con người không thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt
lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành thì
đã mất cái danh nghĩa con người, huống hồ kẻ chuyên ôm lòng mưu
mẹo, dối trá, ỷ mạnh nuốt yếu ư? Người như thế còn thua kém sài lang,
hổ, báo, rắn độc, rết dữ nữa, còn có thể gọi là người được ư? Thường
nghĩ đến lời ta đừng quên thì sẽ dần dần tự có thể dự vào bậc thánh,
hưởng được phước nhân từ, sống thọ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Ninh Đức Hằng và Ninh Đức Phục)
* Những người cùng một sắc áo với tôi hãy thường nghĩ “ta là đệ tử
Phật phải nên hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật, giáo hóa chúng
sanh để làm cầu bến cho cõi đời, báo ân đức của Phật”. Nếu chính mình
vẫn chẳng tự gắng sức thì hóa ra đã tạo căn cứ cho những kẻ đuổi Tăng
chiếm đoạt tài sản [biện minh cho hành động của chúng], bị kẻ tại gia
chuyên ròng tu hành coi thường, há chẳng phải là tự mình chuốc lấy nỗi
lo hay sao? Con người ai mà không mong được người khác tung hô, nếu
chẳng gắng sức tu trì thì chính là tự chuốc lấy sự chán ghét.
Phật pháp chẳng thể bị bại hoại bởi thiên ma, ngoại đạo, mà chỉ bị
bại hoại bởi tăng sĩ không tuân phụng giáo pháp và giới luật của đức
Phật! Ví như trùng trên thân sư tử tự ăn thịt sư tử. Chỉ vì thánh mất niệm
thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh, con người ai
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 74
cũng có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng có thể thành Phật, điều đáng quý
là tự gắng sức vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời thông
cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng
các tự viện)
4. Chỉ dạy quy củ thơm thảo trong chốn Thường Trụ
* Linh Nham38 là đạo tràng cổ đã một ngàn một trăm năm, sau cơn
biến loạn trở thành chốn hoang tàn. Tuy còn một ít kiến trúc, nhưng
không có người chống đỡ, vẫn suy tàn như cũ. May là vào cuối thời
Quang Tự, vị đại hộ pháp họ Nghiêm nghe tiếng thầy Chân39 bèn nghênh
thỉnh; ấy là vì mong Sư sẽ khôi phục đạo tràng vậy. Thầy Chân tuy tiếp
nhận, hiềm rằng các sự ràng buộc, chẳng thể đích thân trụ trì. Năm
ngoái, Giới pháp sư40 đến đây, Sư mừng tìm được người bèn giãi bày
mọi lẽ, đích thân đưa lên núi để làm Trụ Trì. Lại còn thỉnh vời quan
viên, thân sĩ, lên tiếng minh xác biến chùa này thành chốn thập phương
thường trụ. Thầy Giới phẩm đức, học nghiệp, tiếng tăm đều xuất sắc,
38 Chùa Linh Nham tên gọi đầy đủ là Linh Nham Sơn Tự, thuộc Ngô Huyện, Tô
Châu. Khởi đầu từ Tư Không Lục Ngoạn biến nhà riêng thành chùa, nhưng rất nhỏ.
Đến niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời Lương Vũ Đế, chùa mới được mở rộng và
mang tên là Tú Phong Tự. Theo kinh Đại Ai (ngài Trúc Pháp Hộ dịch), đây chính là
đạo tràng ứng hóa của Trí Tích Bồ Tát. Vào thời Thiên Bảo (742-755) đời Đường
Huyền Tông, tổ trung hưng tông Thiên Thai là ngài Đạo Tuân từng tu Pháp Hoa tammuội tại chùa này. Đầu đời Tống, chùa trở thành học viện giới luật của Luật Tông.
Vào thời Nguyên Phong (1078-1085), chùa trở thành thiền viện. Chùa bị cháy rụi chỉ
còn sót lại một cái tháp đá vào năm Vạn Lịch 18 (1600) đời Minh Thần Tông. Sau
khi được trùng tu, chùa lại bị loạn quân Thái Bình Thiên Quốc đốt phá một lần nữa.
Mãi đến năm Tuyên Thống thứ ba (1911), hòa thượng Chân Đạt mới đứng ra dựng
lại chùa như hiện nay.
39
Thầy Chân (Chân sư) ở đây chính là hòa thượng Chân Đạt, vị trụ trì có công đứng
ra trùng tu Linh Nham vào năm Tuyên Thống thứ ba (1911).
40 Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là người xứ Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ Khưu, tự
là Địch Ngô, xuất gia năm mười chín tuổi, chuyên tu khổ hạnh, sống trong núi
Chung Nam, toàn tâm toàn ý tu Thiền. Sau Sư chuyên tu niệm Phật. Dưới thời
Quang Tự, Sư vào núi Kê Túc ở Vân Nam chuyên tu pháp Ban Châu Niệm Phật.
Năm Dân Quốc thứ ba (1914), Sư đến mở Hoa Nghiêm Đại Học tại Hàng Châu. Về
sau, Sư bế quan tại chùa Phật Thản ở Thường Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp. Năm Dân
Quốc thứ chín (1920), cùng với các vị Liễu Trần, Từ Châu v.v… lập Hoa Nghiêm
Đại Học tại chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm nhiệm Trụ Trì chùa Linh
Nham một thời gian. Sư thị tịch vào năm Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở
Côn Minh, thọ 71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước tác gồm Hoa Nghiêm Nhất Trích,
Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu Hội Đồ, Liên Xã Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ v.v…
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 75
thật đáng làm khuôn phép cho hàng hậu học. Nay thầy đã đáp ứng lời
thỉnh cầu [thuyết giảng một thời gian tại] Ngu Sơn, ông hãy nên hết sức
gắng công thay thầy Giới lãnh chúng tu trì, chớ nên lẩn tránh, lười nhác,
mong được an nhàn.
Phàm những ai đến núi này ở lại đều là người phát tâm tu đạo, ai nấy
đều phải tích cực dụng công, khuyến khích, cổ vũ lẫn nhau, hòng được
sự lợi ích “lệ trạch”41, chẳng được rong chơi, chuyện gẫu, cũng như
chẳng tuân theo quy củ nhà chùa, tự làm theo ý mình. Chùa này đã là
chùa thập phương, con cháu của Tam Thánh Đường42 sống ở đây cũng
phải tu chung với đại chúng, đều cùng hưởng nhọc nhằn hay nhàn nhã,
đều đồng cam cộng khổ. Nếu không, sẽ trở thành kẻ quấy loạn Thường
Trụ, khinh dối thầy Chân. Đã là đồ đệ của thầy Chân thì hãy nên vô cùng
đúng pháp để khỏi đến nỗi vì chính mình chẳng đúng pháp mà khiến cho
người ta nói động đến thầy Chân. Nay dạy giản lược đại khái để làm căn
cứ hòng duy trì tiền đồ vậy:
1) Thời thế bất ổn, chỉ nên nhất tâm tu đạo, chớ nên vọng động tính
xây dựng. Nếu bất đắc dĩ thì chỉ nên xây dựng thêm nho nhỏ, cốt vừa đủ
dùng là được, chớ nên xây cất nhiều, mong cho thật rộng lớn. Không
những vì tài lực không đủ mà còn là để khỏi vì lẽ đó mà bị chuốc họa!
2) Đường đời gian nan, cơm áo ai nấy đều nên tiết kiệm. Chi phí
cho Thường Trụ phải dựa theo thâu nhập mà chi tiêu. Nếu chẳng tiết
kiệm, sau này khó duy trì được. Tất cả các khoản thâu vào, chi ra đều
phải phân minh, chớ nên mua sắm những vật phù phiếm, xa hoa: Một là
phí tiền, hai là chuốc lấy tiếng chê bai. Phải dành dụm chỗ dư ra để bù
đắp chỗ thiếu hụt [sau này], chẳng được nói: “Có thầy Chân tiếp tế, cứ
mặc tình tiêu xài phù phiếm”.
3) Khóa tụng hằng ngày nơi Phật đường nên y theo quy củ đã định
hiện thời, tu trì thiết thực, nhưng chớ nên một mực chuyên chú dụng
công nơi sự tướng, mà hãy nên tâm tâm niệm niệm đối trị những căn
bệnh tập khí của chính mình. Làm được như thế thì mới thật sự là người
niệm Phật. Nếu không, sẽ như bọt nước vỗ vào tảng đá, hoàn toàn chẳng
41 Kinh Dịch có câu “Lệ Trạch Đoài, quân tử dữ bằng hữu giảng tập” (Lệ Trạch
Đoài: quân tử cùng bè bạn nghiên cứu, tu tập) nên chữ “lệ trạch” thường dùng để chỉ
bạn bè thân thiết, tốt lành cùng nhau học hỏi, nghiên cứu.
42 Tam Thánh Đường tức Tây Phương Tam Thánh Đường, chỉ Niệm Phật Đường.
“Con cháu Tam Thánh Đường” là những vị Tăng chuyên tu Tịnh nghiệp.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 76
có tâm đắc chi! Chỉ nên căn cứ theo quy củ Tịnh Độ thông thường, chớ
có bày vẽ kiểu cách hoa dạng nào khác. Nếu có kẻ muốn lập dị, như đốt
ngón tay, [dùng thân] đốt đèn, hãy thỉnh người đó đến chùa A Dục
Vương43 mà làm, núi này vĩnh viễn chẳng bày ra thói ấy.
4) Giới pháp sư đã nhận lời giảng dạy một thời gian ở Ngu Sơn, sợ
rằng khó thể trở về ngay được, nhưng danh vị Trụ Trì vẫn thuộc về thầy
Giới, chuyện lãnh chúng tu trì ông tạm thay thế. Phải nên hết sức siêng
năng, cẩn thận, khiêm cung, chẳng nên tự đại, tự cao. Ông là vãn bối,
thay thầy ấy trông nom mọi việc, chẳng được nói năng dường như [chính
mình là] vị Trụ Trì để đại chúng khâm phục tấm lòng rỗng rang của ông,
đạo tâm càng thêm chân thành, thiết tha.
5) Phàm xử sự tiếp vật hãy nên khiêm hòa công bình, chẳng được
cố chấp ý kiến của chính mình, mạt sát chánh lý. Cần nhất là mọi người
khích lệ, khuyên lơn lẫn nhau tu ròng Tịnh nghiệp. Thường giảm lỗi
mình, đừng bàn lỗi người, cực lực đối trị căn bệnh tập khí. Tập khí khử
được một phần thì đạo nghiệp mới tăng được một phần. Chẳng được
kiêu ngạo, luông tuồng, hãy chú ý giữ cho đúng chừng mực. Nói chung,
phải chịu thương, chịu khó, an bần, thủ phận.
6) Chùa này là chùa thập phương, dù ông mang vật gì đến cũng
thuộc về thập phương, nên giữ tinh thần chí công vô tư. Phàm con cháu
của Tam Thánh Đường trụ trong núi này cũng phải đả phá tình cảm
riêng, đặt mình vào địa vị của mười phương Tăng chúng, chẳng được tự
tiện cậy vào ý riêng để được hưởng sự ưu đãi, mặc sức phóng túng, hủy
hoại quy củ đã thành lập. Nếu không, sẽ trở thành tội nhân trong Phật
43 Chùa A Dục Vương ở trên núi A Dục Vương thuộc huyện Cận tỉnh Chiết Giang.
Theo truyền thuyết, vào năm Thái Khang thứ hai (281) đời Tấn Vũ Đế, có người tên
là Lưu Tát Ha xứ Tinh Châu bị hôn mê trên núi, mộng thấy một vị tăng người Ấn
Độ, cho biết tội ông ta sẽ đọa địa ngục, rồi khuyên ông ta nên đến đảnh lễ tháp của A
Dục Vương (tháp thờ xá-lợi đức Phật do vua A Dục kiến tạo, sai quỷ thần đem chôn
trong các nơi khắp Nam Thiệm Bộ Châu, khi nào Phật giáo hưng thạnh nơi ấy, tháp
sẽ tự động trồi lên) để sám hối các tội. Ông này thức dậy bèn xuất gia, đổi tên là Huệ
Đạt. Sư đi tìm tháp khắp nơi, nhưng không thấy, đau lòng than khóc. Một đêm, bỗng
nghe dưới đất có tiếng chuông vẳng lên. Ba hôm sau, bảo tháp và xá-lợi từ dưới đất
cùng vọt lên. Huệ Đạt bèn dựng chùa miếu phụng thờ tháp. Đó là căn nguyên của
chùa A Dục Vương. Những người phỏng theo phẩm Dược Vương Bổn Sự trong kinh
Pháp Hoa thường đến trước tháp xá-lợi lễ bái đốt ngón tay hay đốt cánh tay để cúng
dường.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 77
pháp, là oan gia của thầy Chân, hãy cho kẻ đó ra đi để khỏi bị người
khác chê cười.
Thời sự gian nan, tiền đồ đáng lo, nếu chẳng có cách tốt đẹp thì sao
trở thành đạo tràng cho được? Chỉ sợ ông có lẽ chưa nghĩ tới, cho nên tôi
mới dài dòng một phen. Lúc đầu vốn muốn nói chung chung, sau lại
muốn cho rõ ràng, dễ xem, nên chia thành sáu điều, chẳng qua nhằm
biểu thị tấm lòng ngu thành của Quang nhằm bảo vệ đạo tràng Linh
Nham, xin chớ vì “vượt chén thay thớt”44 mà chê cười thì Linh Nham
may mắn lắm, mà thầy Chân cũng may mắn lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi thầy Minh Bổn)
* Đính kèm quy ước của chùa Linh Nham
1. Trụ Trì bất luận thuộc tông phái nào, chỉ lấy “tin sâu pháp môn
Tịnh Độ, giới hạnh tinh nghiêm” làm chuẩn. Chỉ truyền hiền, chẳng
truyền pháp45 để dứt thói tệ pháp quyến riêng tư.
2. Truyền thừa Trụ Trì luận theo thứ tự, chẳng luận theo thế hệ, để
tránh thói tệ bậc cao đức phải ở dưới kẻ đức hạnh tầm thường.
3. Không truyền giới, không giảng kinh, để khỏi bị chèo kéo, dao
động, nhiễu loạn chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng,
nhưng chẳng thăng tòa và níu kéo người ngoài đến nghe.
4. Chuyên nhất niệm Phật, trừ đả Phật thất ra, nhất loạt không làm
hết thảy Phật sự thù tiếp.
5. Bất luận là ai chẳng được thâu nhận, thế độ đồ đệ trong chùa.
Trong năm điều hễ trái một điều nào, lập tức ra khỏi chùa. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo
tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự)
44
“Việt tôn đại trở” (Vượt chén rượu, thay đổi thớt) là một thành ngữ, thường dùng
dưới dạng thông dụng hơn là “việt bào đại trở” (vượt quyền đầu bếp mà thay cái
thớt). Tổ dùng thành ngữ này với ý tự khiêm, đối với Linh Nham, Ngài chỉ là một vị
trưởng lão danh dự, không phải là Đương Gia hay Trụ Trì, không có tư cách gì lên
mặt chỉ dạy vị quyền Trụ Trì là thầy Minh Bổn. Ngài khuyên dạy những lời này thì
cũng giống như kẻ tự tiện vượt quyền, dạy dỗ người khác, cắt đặt quy củ theo ý
mình, nên mới nói là “việt tôn đại trở”.
45 Ý nói: Chỉ truyền ngôi Trụ Trì theo đức hạnh của người đáng làm Trụ Trì, chứ
không vì người ấy thuộc cùng sơn môn hay là pháp quyến mà truyền ngôi Trụ Trì.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 78
5. Khuyến khích hành nhân hãy nỗ lực
* Con người đức hạnh sung mãn, lập được sự nghiệp, đầu mối là do
lúc thiếu niên có lập được chí hay không? Ông sanh trưởng trong nhà
giàu có, hãy nên hết lòng bỏ sạch tập khí phú quý thì mới có phần học
đạo liễu sanh tử. Nếu không, thanh, sắc, của cải, bạn bè ăn nhậu, tà vạy
thừa cơ chen vào. Tuy mong thành thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ,
nhưng chẳng thể được! Muốn học Phật pháp, trước hết phải tận hết chức
trách, bổn phận của chính mình. [Nếu] không thể giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành, dù có học Phật pháp cũng khó đạt được lợi ích
lớn lao, bởi tâm địa chưa được lương thiện vậy! Nếu làm được [những
điều] như vừa nói trên đây thì gọi là “thiện nhân”. Như nền tảng kiên cố,
lầu cao vạn trượng mặc lòng xây cất, chắc chắn chẳng bị sụp đổ. Chúng
sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, toan dùng tự lực để ngộ hiểu tâm tánh,
đoạn sạch Phiền Hoặc, hòng liễu sanh tử, ngàn người chưa được một!
Hãy nên y theo pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương, cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đấy là pháp môn
“vạn người tu, vạn người đến” thẳng chóng, ổn thỏa, thích đáng nhất!
Trước hết, phải thấu hiểu nguồn cội của pháp môn này, tâm hiểu cho
rõ ràng. Nếu thừa sức, sẽ lại nghiên cứu hết thảy kinh luận, các pháp
môn đều có thể giúp cho pháp môn này. Nếu chưa hiểu rõ nguyên do của
pháp môn này, lại tùy ý nghiên cứu các kinh luận khác và thân cận tri
thức các tông để trở thành bậc đại thông gia và gieo thiện căn cho đời vị
lai thì quả thật là có như thế, nhưng muốn liễu sanh thoát tử ngay trong
đời này, sợ rằng có mộng cũng mộng chẳng được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ La Thế Phương)
* Hiện thời, vận đời nguy ngập, nếu có thể chí thành niệm Phật, chắc
chắn sẽ gặp dữ hóa lành. Nếu không, họa hại trong hiện thời khác hẳn
khi trước, đúng là [muốn] tránh né nhưng không thể nào tránh né được,
[muốn] ngăn ngừa nhưng không thể nào phòng ngừa được, cuộc sống
người dân lúc này đáng thương đến cùng cực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Đàm Thiếu Phủ)
* Kinh Phạm Võng chép: “Ngươi là Phật sẽ thành, ta là Phật đã
thành, thường tin được như vậy thì giới phẩm đã đầy đủ”. Kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh sẵn đủ trí huệ, đức tướng của Như
Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 79
vọng tưởng, [chấp trước] thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí
đều được hiện tiền”. Do vậy biết tâm tánh chúng sanh và tâm Phật vốn
đồng, ba pháp “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt, chỉ vì mê hay ngộ
mà phân biệt vậy!
Hiềm rằng khi chúng sanh còn mê chưa giác, dẫu sẵn đủ Phật tánh
viên mãn rộng lớn theo chiều dọc cùng tột ba đời, theo chiều ngang trọn
khắp mười phương, nhưng tánh ấy hoàn toàn bị vùi lấp trong trần lao,
ngược ngạo nương theo sức công đức của Phật tánh ấy để khởi Hoặc tạo
nghiệp, hủy báng Tam Bảo, tự hại, hại người. Thật giống như giòng suối
chảy ngầm dưới đất, hoàn toàn chẳng hay biết, ắt phải đợi thời tiết nhân
duyên khơi mở mới dần dần tỏ lộ được.
Vì thế, xưa nay nhiều bậc vĩ nhân có quyền lực thuở bé mê muội,
chuyên lo hủy báng Phật pháp, đến khi sự lịch duyệt đã dần dần sâu hơn,
gặp cảnh, chạm duyên, đột nhiên giác ngộ, bèn quy y Tam Bảo, tận lực
phụng hành cũng chẳng thể kể xiết! Đủ chứng tỏ Phật pháp rộng lớn,
quả thật là tâm pháp vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh vậy. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời bạt ấn tống Tịnh Độ Ngũ Kinh)
* Ông có thời gian rộng rãi, sức lực mạnh mẽ, hãy nên nỗ lực nghiên
cứu, tu trì pháp Tịnh Độ. Đây chính là đại pháp để phàm phu liễu sanh tử
ngay trong đời này. Pháp này nếu không có túc căn thì đừng nói là người
tầm thường không thể thấu hiểu triệt để, ngay cả bậc cao nhân lỗi lạc
triệt ngộ tự tâm thâm nhập kinh tạng cũng quá nửa là không thể thấu
hiểu triệt để được! Do họ chẳng biết đây là pháp môn đặc biệt trong Phật
pháp, luôn chiếu theo nghĩa lý của các pháp môn thông thường nên
chẳng chịu tin. Hoặc là có người tin, nhưng sợ chuyên hoằng dương
Tịnh Độ, người ta sẽ coi thường mình, vì thế chẳng chịu đề xướng.
Phải biết: Tu bất luận pháp môn nào, nếu Phiền Hoặc chưa đoạn,
chắc chắn không có phần liễu được sanh tử. Chỉ có một pháp này, chỉ
cần đầy đủ tín nguyện liền có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây
Phương. Ông chớ nên coi qua loa, mà phải đọc kỹ nghĩ chín mới biết lời
Quang không lầm! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Du Hữu Duy)
* Cổ nhân nói: “Bậc quân tử tận lực thực hành thì được một câu nói
tốt lành sẽ thọ dụng suốt đời không hết. Nếu chẳng chăm chú tận tụy
thực hành, dẫu đọc hết sách vở thế gian, đối với chính mình vẫn vô ích!”
Như rồng thật hễ được một giọt nước liền có thể làm mưa khắp cả thế
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 80
giới; rồng đất dẫu ngâm trong nước cũng chẳng khỏi cái họa táng thân!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ X...)
* Hiện tượng Hoàng Hậu Giác khá có lợi ích lớn lao cho người học
Phật. Bất luận là rốt cuộc ông ta vãng sanh hay đọa lạc, thôi đừng bàn
đến! Nếu người niệm Phật biết được hiện tượng khi lâm chung của ông
ta chắc chắn chẳng dám theo đuổi pháp liễu sanh tử một cách hời hợt
nữa! Xem hành vi, cử chỉ của ông ta dường như rất chí thành, nhưng coi
những cảnh tượng được biểu hiện khi ông ta lâm chung thì trong lúc
thường nhật, ông ta chưa hề nỗ lực dụng công nơi tâm địa, cũng như có
lẽ trước kia ông ta có những nghiệp như keo tiếc tiền của khiến cho
người khác bị mất mạng, hoặc keo tiếc lời nói khiến cho người khác táng
mạng v.v…mà thành ra như vậy (“Keo tiếc lời nói khiến cho người khác mất
mạng” là như ta biết chỗ có giặc cướp và biết chỗ có thể trốn tránh được, nhưng vì
tâm không từ bi, thích thấy người khác mắc họa cho nên chẳng chịu nói. Chuyện ấy,
tâm ấy khiến cho thiên địa quỷ thần rất phẫn nộ. Do vậy, lúc lâm chung chẳng nói
được, cũng như có chuyện như ghét nghe tiếng niệm Phật v.v…) Hiện ra tình
cảnh không chết trong khi ấy (tức không chết trong khi đang có người
niệm Phật để trợ niệm) và khi người trợ niệm đi rồi thì không lâu sau
liền chết; điều này hoàn toàn tương đồng với chuyện keo kiệt tiền của,
keo kiệt lời nói khiến cho người khác bị tổn mạng. Tuy không đọa làm
ngạ quỷ, nhưng tánh khí ấy là tánh khí của ngạ quỷ.
Có người nói ông ta được vãng sanh là nhờ vào chú lực của ông
Dịch Tử Tuấn. Chú lực cố nhiên chẳng thể nghĩ bàn, nhưng với người
nghiệp lực nặng nề thì cũng chẳng dễ gì được hưởng lợi ích! Do vậy,
nếu biết [chắc chắn ông ta] đã được vãng sanh Tây Phương thì may ra
mới có chuyện đó. Đã không có chứng cớ, chớ nên đoán mò. Có người
nói: [Ông ta] đã đọa vào ngạ quỷ đạo; căn cứ vào những gì đã nói và
những biểu hiện thì tựa hồ [lời đoán ấy] có căn cứ. Nhưng không chừng
do ông ta trong tâm sám hối, hoặc do mọi người và con cái thành khẩn
nên được giảm nhẹ, chẳng đến nỗi đọa thẳng vào ngạ quỷ.
Phương kế hiện thời là con cái và các quyến thuộc ai nấy đều hãy
nghĩ đến nỗi khổ của ông ta, cùng phát tâm tự lợi, lợi tha niệm Phật cho
ông ta, cầu Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn vãng sanh. Nếu thật sự thành khẩn
thì [ông ta được] vãng sanh là điều có thể dự đoán được. Do cha con có
mối tương quan tự nhiên, tâm Phật hễ cảm bèn ứng. Nếu quyến thuộc
thực hiện hờ hững, lơ là thì khó thể tiêu nghiệp chướng để được Phật
tiếp dẫn vậy! Ngàn cân treo sợi tóc, quan hệ cực nặng!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 81
Phàm là người niệm Phật ai nấy hãy chuyên chú thật sự đối trị tập
khí của chính mình, tạo thuận tiện cho người khác. Chuyện gì nên nói,
dù người ta có thù với mình cũng phải nói, khiến cho người ta hướng
lành, lánh dữ, lìa khổ được vui. Thường luôn nói thẳng thắn, rành rọt với
người khác những chuyện nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi và đạo
niệm Phật liễu sanh thoát tử, dạy dỗ con cái nhằm lập nền tảng thái bình,
tâm như sợi dây đàn thẳng tắp, lời nói chẳng lấp lửng, tâm niệm có thể
phô bày thẳng thắn cùng quỷ thần, quyết chẳng làm chuyện trái nghịch
thiên lý thì quyết chẳng có hiện tượng đáng thương ấy!
Như vậy thì Hoàng Hậu Giác chính là tiếp dẫn đạo sư của mọi
người; nhờ ông ta mọi người sẽ đạt được lợi ích lớn lao trong tương lai.
Ông ta cũng sẽ nhờ vào tâm lực của mọi người mà diệt tội, vãng sanh.
Lời Quang nói đây chẳng phải là lời nói huề vốn46 mà chính là lời bàn
luận quyết định chẳng khi dối vậy. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Đức Quán)
* Phàm là người tu hành tâm phải có chủ ý, thấy cảnh giới tốt chẳng
sanh hoan hỷ, thấy cảnh giới không tốt chẳng sanh sợ hãi. Được như thế
thì các cảnh giới đã hiện đều trở thành duyên trợ đạo. Nếu không, chúng
đều trở thành duyên chướng đạo. Thêm nữa, phàm là người tu hành đều
nên lấy chí thành cung kính làm gốc, giữ lòng từ bi, khiêm tốn. Lòng
nghĩ, thân làm tuy chẳng thể hoàn toàn tương ứng với Phật, nhưng cần
phải nỗ lực gắng công ngõ hầu chẳng trái nghịch tâm hạnh của Phật, thì
mới đáng gọi là người tu hành thật sự, là đệ tử Phật thật sự. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Phật Điển)
* Phật là giác; tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì mới gọi là
Phật, tức là hết sạch Phiền Hoặc, phước huệ trọn đủ, Ngũ Uẩn đều
không, chứng triệt để ba đức47, là danh hiệu cao đẹp của bậc “thánh
trong các thánh, trời trong chư thiên”, là danh hiệu chung của mười
phương ba đời hết thảy chư Phật.
Thích Ca Mâu Ni chính là tên riêng của đấng giáo chủ cõi Sa Bà.
Tiếng Phạn “Thích Ca Mâu Ni” cõi này dịch là Năng Nhân Tịch Mặc.
Năng Nhân (能 仁) nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc (寂 默) là
46 Nguyên văn là “thủ thử lưỡng phụ” là một thành ngữ hàm nghĩa do dự, không
quyết định, đón gió xuôi chiều, nói cách nào cũng được. Chúng tôi tạm dịch là “nói
huề vốn”.
47 Tam đức: ba đức tánh của chân tâm, tức giải thoát, Niết Bàn và Bát Nhã.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 82
chứng triệt để tự tánh. “Học” là bắt chước theo, tức là tùy phần, tùy sức
tu hành theo lời dạy. Đã tu hành theo lời dạy, sao lại nói “tùy phần, tùy
sức”? Là vì đức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Do
căn tánh chẳng chỉ có một nên tùy theo sự hiểu biết, khả năng của họ mà
nói pháp thích hợp. Tùy theo căn cơ ban bố giáo pháp, đối bệnh cho
thuốc, sao cho giáo pháp phù hợp căn cơ, khiến cho ai nấy đều được lợi
ích. Dạy chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử quy y Tam Bảo
Phật - Pháp - Tăng để làm chỗ nương tựa, dạy họ giữ năm giới “chẳng
sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống
rượu”, dạy họ tu Thập Thiện, đối với ba điều nơi thân, bốn điều nơi
miệng, ba điều nơi ý đều dạy dứt ác làm lành. Tức là thân chẳng làm
chuyện giết - trộm - dâm, miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi
chiều, nói ác độc, ý chẳng khởi ý niệm tham dục, nóng giận, ngu si.
“Ngu si” nghĩa là không tin nhân quả, nói ra những lời tà kiến như “làm
lành làm ác chẳng có báo ứng, con người chết đi thần hồn diệt mất,
không có đời sau” v.v…
Lại còn gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính,
chồng hòa, vợ thuận, khuyên bạn bè hướng thiện sửa lỗi, chủ giữ lòng
nhân, tớ giữ lòng trung, mỗi mỗi đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành. Đấy chính là pháp Nhân Thừa. Tu theo pháp này sẽ đời đời
làm người. Nhân Thừa là căn bản của Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, như đắp nền đất vững vàng, có thể
tùy ý xây dựng lầu cao.
Thiên Thừa thì ngoài Ngũ Giới, Thập Thiện ra, còn tu thêm các thứ
Thiền Định để sanh vào các cõi trời Lục Dục, Tứ Thiền, Tứ Không
v.v… Nhân Thừa lẫn Thiên Thừa đều chẳng phải là pháp liễu sanh tử.
Thanh Văn Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ, tu pháp Tứ Đế để liễu
sanh tử.
Duyên Giác Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ, quán sát hai môn
Lưu Chuyển và Hoàn Diệt48 của Thập Nhị Nhân Duyên hòng liễu sanh
tử.
48 Lưu Chuyển (Pravrtti) ngụ ý sanh tử tiếp nối không ngừng, xoay lăn trong tam
giới, luân hồi trong lục đạo. Quán Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, tức là
quán từ vô minh cho đến lão - tử thì gọi là Lưu Chuyển Môn hoặc Thuận Quán.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 83
Bồ Tát Thừa thì y theo Giới - Định - Huệ tu lục độ, vạn hạnh, dưới
hóa độ chúng sanh để mong trên là thành Phật đạo.
Nhưng pháp ba thừa này đều thuộc vào pháp phổ thông cậy vào tự
lực, người tối thượng thượng căn mới có thể liễu sanh tử ngay trong đời
này, dẫu khi Phật đang còn tại thế cũng là trong trăm người mới có được
một. Nếu như hiện thời, e rằng cả thế giới cũng không có được một hai
người!
Nhưng do tâm đại từ bi, đức Phật biết trước chúng sanh đời sau
không có kẻ nào cậy vào tự lực để liễu sanh tử ngay trong đời này được,
bèn mở riêng một pháp môn đặc biệt là tín nguyện niệm Phật cầu sanh
Tây Phương; bất luận già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí, ngu, sĩ, nông, công,
thương, công chức, quân nhân, giới giáo dục học thuật, tại gia, xuất gia,
thượng thánh, hạ phàm đều trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh
Tây Phương. Phàm phu sát đất đới nghiệp vãng sanh. Đã vãng sanh Tây
Phương, ba thứ Hoặc - Nghiệp - Khổ thảy đều tiêu diệt. Ví như mảnh
tuyết rớt vào lò to, chưa đến nơi đã tan mất. Hàng Nhị Thừa đã liễu sanh
tử và Quyền Vị Bồ Tát vãng sanh sẽ mau chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Bậc Pháp Thân đại sĩ đã chứng Vô Sanh mà vãng sanh sẽ mau chứng
Phật quả.
Hết thảy các pháp Đại Thừa, Tiểu Thừa do đức Thế Tôn đã nói trong
cả một đời Ngài đều cậy vào tự lực, cho nên khó khăn; chỉ có một pháp
này hoàn toàn cậy vào sức từ bi thệ nguyện nhiếp thọ của A Di Đà Phật
và sức tín nguyện thành khẩn ức niệm của hành nhân nên được cảm ứng
đạo giao, giải quyết xong xuôi ngay trong một đời này. Nhưng đã muốn
vãng sanh Tây Phương thì phải nghĩ hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ
trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, nghĩ báo ân ấy sẽ càng thêm mến
tiếc, che chở, chẳng dám giết ăn, thấy hết thảy những người cùng hàng
và các quỷ thần cùng với chim, thú, côn trùng đều tâm niệm miệng nói,
dạy bọn họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nếu như ba nghiệp thanh
tịnh, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đem pháp môn Tịnh Độ
khuyên lơn thì người ta sẽ nhìn theo bắt chước nhau làm lành, ắt sẽ có hy
vọng thay đổi cảm hóa ngấm ngầm, khiến cho phong tục tốt đẹp thuần
Hoàn Diệt có nghĩa từ mê trở về với lẽ chân, diệt hết phiền não, tiến nhập Niết Bàn.
Quán Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, từ lão - tử quán ngược lại cho đến
cội nguồn của mọi đau khổ là vô minh, sẽ phá được vô minh nên gọi là Hoàn Diệt
hoặc Nghịch Quán.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 84
hậu. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi của Phước
Châu Phật Học Đồ Thư Quán)
6. Đánh giá các phương pháp tu trì
* Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật; đó gọi là
Chánh Nhân, thuộc về Tánh đức, cũng còn gọi là Bổn Giác. Tuy có
Chánh Nhân, nhưng nếu chẳng nghe Phật pháp sẽ như đồ báu trong kho,
như viên châu buộc trong chéo áo; do không biết nên phải oan uổng chịu
bần cùng. Đã được nghe Phật pháp, biết “Phật là vị Phật đã thành, ta và
hết thảy chúng sanh đều là những vị Phật chưa thành”, từ đấy tu Giới -
Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, bỏ vọng về với chân, trái trần, hiệp
giác. Đấy gọi là Duyên Nhân, thuộc về Tu đức, cũng gọi là Thỉ Giác
vậy!
Công Tu đức sâu thì thể của Tánh đức hiển lộ, mới biết từ xưa đến
nay đã nương theo sức của Chánh Nhân Phật tánh ấy để làm đủ mọi
chuyện trái nghịch tánh, chịu đủ mọi nỗi khổ huyễn vọng, giống như
trong nhà tối đụng phải của báu, đâm ra bị tổn thương! Nay đã đích thân
thấy được Phật tánh sẵn có thì cái gốc cũ chẳng mất, mà [Phật tánh mới
giác ngộ] hiện thời cũng chẳng được49, toàn vọng chính là chân, toàn tu
chính là tánh. Đấy gọi là Liễu Nhân, chính là Tánh và Tu dung hợp, Thỉ
- Bổn hợp nhất vậy!
Phàm hết thảy những pháp môn Đại - Tiểu - Quyền - Thật do đức
Phật đã nói, không môn nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đích thân
chứng được điều này mà thôi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Hạ, Duyên khởi quyên mộ tu bổ tháp Báo Ân chùa Báo Ân, Tô Châu)
* Phàm tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối và cứu tai nạn, giúp kẻ
nghèo, mọi thứ công đức từ thiện đều phải hồi hướng vãng sanh Tây
Phương, chớ nên cầu phước báo nhân - thiên trong đời sau. Hễ có tâm ấy
sẽ chẳng có phần vãng sanh! Hễ sanh tử chưa giải quyết xong, phước
càng lớn ắt nghiệp càng nặng. Hễ sanh lần nữa, khó khỏi đọa trong ba
đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu muốn lại được thân người, lại
được gặp pháp môn Tịnh Độ liễu thoát ngay trong một đời, khó như lên
trời vậy! Đức Phật dạy người niệm Phật cầu sanh Tây Phương là để con
người liễu thoát sanh tử ngay trong đời này. Nếu cầu phước báo nhân -
49 Do luôn thường hằng sẵn có, nên nói “chẳng mất mà cũng chẳng được”, chỉ là
thấy được Phật tánh hay không mà thôi!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 85
thiên đời sau thì là trái nghịch lời Phật dạy, giống như đem một viên bảo
châu vô giá trong khắp cõi đời đổi lấy một thẻ đường để ăn, chẳng đáng
tiếc ư? Người ngu niệm Phật chẳng cầu sanh Tây Phương, cầu phước
báo nhân thiên đời sau thì cũng chẳng khác gì! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
* Khổng Tử nói: “Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã” (Tánh thì
gần giống như nhau, nhưng do rèn luyện mà thành khác xa nhau). Tánh
chính là bản thể của Giác, Tập chính là công dụng của Giác. Tánh thì
phàm - thánh, chúng sanh - Phật trọn chẳng khác nhau, nên nói “tương
cận”, cũng giống như nói: “Nhân đồng thử tâm, tâm đồng thử lý” (Con
người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một lý này).
“Tập” thì có thuận tánh, nghịch tánh sai khác. Thuận theo tánh thì
suy tư, nẩy sanh ý niệm, xử sự đều tự có thể nén giận, khắc chế được
ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành. Cho đến khi nhân dục hết sạch,
thiên lý thông suốt, sẽ khôi phục trọn vẹn giác tánh nơi bản thể, cho đến
trở thành hiền, thành thánh, vượt khỏi điều mong đợi lúc ban đầu. Người
như thế gọi là Giác Giả (bậc giác ngộ) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Giác Hậu Biên)
* “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc” là bốn câu khó lãnh hội nhất. Lời chú giải của mỗi tác giả
đều dựa trên cái thấy của chính mình. Theo ngu kiến của Quang, bản thể
của Sắc chẳng thể đạt được, há Không còn có thực tế để đạt được hay
sao? Hai câu sau nhằm giải thích thêm về ý nghĩa của hai câu trước đó.
Thật sự, ngay cả Không lẫn Sắc đều chẳng thể đạt được, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng giống như thế; đấy chính là “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai
không”. Ngũ Uẩn đều chẳng thể đạt được, ấy chính là Thật Tướng của
Chân Không. Vì thế, gọi là “chư pháp Không tướng” (tướng Không của
các pháp).
Do “chư pháp Không tướng” này bèn chẳng có sanh, diệt, cấu, tịnh,
tăng, giảm và Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ và Trí Huệ cùng với Niết Bàn! (Niết Bàn
là thật tế của chữ Đắc). Chỉ vì trong Thật Tướng, chẳng có các pháp: thánh,
phàm v.v… ấy nên có thể tu nhân chứng quả từ phàm đến thánh. Ví như
nhà trống, người mới ở trong ấy được. Nếu chẳng trống, con người làm
sao ở được? Do Không nên mới có thể chân tu thật chứng. Nếu chẳng
Không, sẽ chẳng có tác dụng này! Chớ nên hiểu lầm! Hiểu lầm sẽ phá
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 86
hoại chánh pháp của chư Phật, coi Lý là Sự, đấy gọi là “tà kiến”, chẳng
gọi là “biết pháp”, hãy nên suy nghĩ cặn kẽ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Tam Quán, Tam Đế chính là cương yếu của Phật pháp. Nói theo lý
tánh thì gọi là Đế (諦), Đế tức là Lý. Nói theo mặt tu trì thì gọi là Tam
Quán, Quán tức là Tu. Chân Đế: Một pháp chẳng lập, Tục Đế: Vạn pháp
trọn đủ! Quán cái lý nơi Chân Đế thì gọi là Không Quán. Quán cái lý nơi
Tục Đế thì gọi là Giả Quán. Không Quán chính là quán Chân Như Pháp
Tánh “một pháp chẳng lập”, điều này chính là cái Không “chẳng có cả
Không lẫn Hữu”. Đấy chính là tướng Không trong “chư pháp Không
tướng” của Tâm Kinh. Chẳng những Sắc Không, Không Không, mà Bồ
Đề, Niết Bàn cũng không, nếu có một pháp nào chẳng không sẽ chẳng
thể gọi là Chân Không. Cái không này của Không Quán trong Tam Quán
sao có thể hiểu là “muôn sự chẳng quan tâm, chẳng làm” cho được? Tục
của Tục Đế chẳng phải là tục theo kiểu thô tục hay nhã tục, mà do vì tạo
dựng, đặt bày nên gọi là Tục. Giả cũng chẳng phải là giả trong Chân Giả (thật - giả), mà cũng là cái giả của sự tạo dựng, đặt bày.
Phép Quán nhằm quán lý của Tục Đế được gọi là Giả Quán vì tánh
thể của Chân Đế là “chẳng lập một pháp” nhưng trọn đủ công đức của
sáu độ, vạn hạnh, và các pháp toàn vẹn. Đây chính là “chư pháp” trong
câu “chư pháp Không tướng” (tướng Không của các pháp) của Tâm
Kinh, sao lại coi đó là phàm phu cho được? Phàm phu thuộc về hai đế
Khổ và Tập, còn Không và Giả đây thuộc đạo lý viên diệu của Viên
giáo, Nhị Thừa còn chẳng có phần, huống gì phàm phu? (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên)
* Người thông minh trong thế gian phần nhiều chẳng tự lượng, coi
pháp môn Tịnh Độ là lười nhác, muốn nương theo các pháp môn thâm
diệu cậy vào tự lực hòng được lợi ích lớn lao, rốt cuộc chỉ biết giáo
nghĩa, chưa thể tâm đắc! Dẫu có tâm đắc, cũng chẳng thể thực hiện trọn
khắp. Bỏ dễ cầu khó, biến khéo thành vụng, người thông minh mười kẻ
hết chín phạm phải tâm bệnh này! Chẳng bị xoay chuyển bởi những thứ
tri kiến ấy, lại còn giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà,
giữ lòng thành, không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, thì chính
là đệ tử thật sự của đức Phật, chắc chắn có thể liễu sanh thoát tử trong
đời này. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Châu Nam Phố)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 87
* Cậy vào tự lực thì phải đoạn hết sạch Kiến Tư phiền não trong tam
giới, hàng lợi căn có thể đoạn được [phiền não] ngay trong đời này; còn
độn căn thì trước hết phải đoạn phiền não trong Dục Giới, sanh lên Sắc
Giới. Kế đó, đoạn phiền não trong Sắc Giới, sanh lên Vô Sắc Giới. Mãi
cho đến khi đoạn hết sạch phiền não trong Vô Sắc Giới, chứng Chân Đế
Niết Bàn, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh vậy! Chư thiên trong
tam giới ngoại trừ các vị đại Bồ Tát thuộc Đâu Suất Nội Viện (sanh về Nội
Viện50 đều là Pháp Thân đại sĩ) và tam quả thánh nhân thuộc năm tầng trời
Bất Hoàn (Ngũ Bất Hoàn Thiên) tức Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến,
Thiện Hiện, Sắc Cứu Cánh, thì đều là người trong lục đạo luân hồi,
chẳng thể coi sanh lên Vô Sắc Giới Thiên là đã thoát tam giới! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên - 4)
* Gần đây, người ta thường ưa ham cao chuộng xa, hơi thông minh
bèn học Thiền Tông, Tướng Tông51, Mật Tông, phần nhiều coi niệm
Phật là vô dụng. Họ chỉ biết sự huyền diệu của cơ ngữ52 nhà Thiền, sự
tinh vi của pháp tướng trong Tướng Tông, oai thần rộng lớn của Mật
Tông, nhưng chẳng biết: Thiền dẫu đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ,
nhưng nếu chưa hết sạch Phiền Hoặc thì vẫn sanh tử y như cũ, chẳng thể
liễu thoát được! Với Tướng Tông thì nếu không phá sạch Ngã Chấp và
Pháp Chấp, dù có hiểu rành rẽ đủ mọi danh tướng53, cũng giống như “kể
chuyện ăn, đếm của báu”, rốt cuộc có ích gì đâu! Với Mật Tông thì tuy
nói là có thể “thành Phật ngay nơi thân hiện tại”, nhưng quyết chẳng
phải là chuyện của hạng phàm phu sát đất có thể thành tựu được! Phàm
phu lầm lạc sanh ý tưởng ấy bèn bị ma dựa phát cuồng, mười người hết
tám chín người [bị như vậy]. Do đó, hãy nên chuyên chí vào một môn
50 Nội Viện chính là Thiện Pháp Đường của tầng trời Đâu Suất, do đại thần Lao Độ
Bạt Đề kiến tạo, là trụ xứ của Bồ Tát Di Lặc. Tất cả các vị Phật thị hiện trong Sa Bà
đều trụ tại Đâu Suất Nội Viện trước khi giáng sanh trong nhân gian. Các phàm thiên
không thể nào thấy được Đâu Suất Nội Viện.
51
Tướng Tông: Gọi đủ là Pháp Tướng Duy Thức Tông. Do tông này chú trọng
nghiên cứu tướng trạng của các pháp, phân chia các trạng thái tâm thức tỉ mỉ, nên gọi
là Tướng Tông.
52 Cơ ngữ: Gọi tắt của cơ phong chuyển ngữ, tức những câu đối đáp thuận theo căn
cơ, nhằm giúp cho người hỏi kiến tánh, chẳng hạn như “Phật là gì?” Thiền Sư bèn
đáp “con mèo trèo lên cây cột”.
53 Danh là tên gọi của sự vật, Tướng là hình trạng của sự vật. Dùng danh xưng để nêu
rõ tướng trạng của sự vật nên gọi là “danh tướng”. Một cách giải thích khác: Những
gì nghe được thì gọi là Danh, thấy được thì gọi là Tướng. Danh và Tướng đều không
có thật thể, chỉ là giả lập để tiện giáo hóa.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 88
Niệm Phật là pháp tắc vô thượng bậc nhất ngàn phần ổn thỏa, vạn phần
thích đáng vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời một cư sĩ ở Diêu Duy)
* Muốn đọc tụng Đại Thừa để giúp cho Tịnh nghiệp mà không thật
sự có chánh tri chánh kiến hiểu biết Tịnh Độ sâu xa sẽ không được. Nếu
không, sẽ coi những pháp môn cao sâu huyền diệu trong kinh giáo là bậc
thượng, hoàn toàn xem pháp môn Tịnh Độ là sự tu trì của ngu phu ngu
phụ. Gần đây, những người giảng Hoa Nghiêm, giảng Pháp Tướng, phần
nhiều đả phá Tịnh Độ. Ông X… ở Hồ Nam hiểu sâu Tịnh Độ và còn cực
lực đề xướng, do học Pháp Tướng Tông, những gì ông ta nói về sau này
đều là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Ông đã phát cái tâm lớn lao
này, khá là khó có, nhưng chưa chắc đã không bị lay chuyển bởi những
tri thức từ kinh giáo. Chẳng bị chuyển thì đáng gọi là chân Phật tử. Hễ bị
chuyển thì sẽ trở thành bỏ dễ chọn khó, hoặc giống như ông X… ở Hồ
Nam thì ô hô, ai tai rồi!
Khi xưa, một vị pháp sư dùng niệm Phật để bán đậu Ngũ Hương54,
dùng giảng kinh để mở ngân hàng, niệm Phật lại biến thành cơm trộn lẫn
cát, làm sao ăn được? Do vậy, biết rằng: Không có đại thiện căn sẽ
chẳng thể tin tưởng sâu xa pháp này! Nói với ông điều này nhằm làm
cho trước khi ông cất bước đã nhận biết chắc chắn [hướng chỉ] của kim
chỉ nam. Nếu không, có thể mạo xưng là bậc đại thông gia, sợ khó lòng
đạt được liễu sanh tử. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Ân Đức Tăng)
* Một pháp Mật Tông thật sự chẳng thể nghĩ bàn, nhưng tiểu trượng
phu dùng đến chưa chắc được lợi ích mà sẽ bị tổn hại trước. Xin đừng
vói quá cao, may ra sẽ tự được lợi ích thật sự. Nếu không, hơi bị nguy
hiểm đấy! Sư Hiển Ấm55 được chân truyền của Mật Tông, lại thông hiểu
54 Ngũ Hương Đậu là một món ăn vặt nổi tiếng của Hoa Nam, nổi tiếng nhất là Đậu
Ngũ Hương ở miếu Thành Hoàng, Thượng Hải. Món này dùng đậu ván tẩm hồi
hương, quế, muối, đường, và một số hương liệu nữa rồi chiên bằng bơ.
55 Hiển Ấm (1902-1925), pháp tự Đại Minh, người huyện Côn Minh, tỉnh Giang Tô,
là đệ tử xuất gia của ngài Đế Nhàn. Thiên tư thông mẫn, thông suốt kinh tạng, văn
chương lỗi lạc. Do có tài văn chương, Sư từng giữ các chức vụ biên tập các tờ nguyệt
san của Cư Sĩ Lâm, đăng rất nhiều bài viết trên tờ Hải Triều Âm. Năm Dân Quốc 12
(1923), Sư vượt biển sang Nhật đến Thiên Đức Học Viện trên Cao Dã Sơn
(Koyasan) để học Mật Tông và được truyền Quán Đảnh. Năm Dân Quốc 1 4, Sư trở
về Hàng Châu truyền thọ Mật Pháp, nổi danh lừng lẫy. Tháng Năm cùng năm đó, Sư
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 89
[giáo nghĩa] tông Thiên Thai, đã là bậc Quán Đảnh Đại A-xà-lê hiển mật
viên thông56. Phàm ai được thọ quán đảnh từ nơi sư đều có thể thành
Phật ngay trong thân này, nhưng Hiển Ấm khi mất rất hồ đồ (Sư chết tại
Cư Sĩ Lâm, một đệ tử đích thân chứng kiến), chú cũng chẳng niệm được, mà
Phật cũng chẳng thể niệm, cho nên biết: Pháp ấy chẳng bằng pháp Niệm
Phật ổn thỏa, thích đáng hơn nhiều! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Vương Hiểu Hy)
* Chú Đại Bi nếu khẩn thiết, chí thành niệm sẽ có cảm ứng chẳng thể
lường được! Nếu hướng đến người học Mật Tông để cầu cách đọc thì
cũng chẳng phải là không được, nhưng người học Mật Tông phần nhiều
chẳng chú trọng niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chỉ sợ bị họ đoạt mất
chí hướng vãng sanh trong đời này, để mong “được thành Phật ngay nơi
thân này”. Thành Phật ngay nơi thân này, nói dễ dàng sao! Nếu cho là
điều ấy [bản thân ông] chắc chắn thật sự làm được, sợ rằng còn chưa
thành Phật mà đã thành ma trước rồi! Những kẻ đem phàm lạm thánh,
bộp chộp, lầm lạc, khoe khoang rỗng tuếch, phần nhiều phạm phải căn
bệnh này, chẳng thể không biết! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Châu Nam Phố)
*Phật pháp viên thông vô ngại, cố nhiên Mật Tông có chuyện “chẳng
được A Xà Lê truyền dạy [mà cứ tu học Mật pháp] thì là trộm pháp”
chính là nhằm thể hiện ý tôn trọng pháp đến tột cùng, chứ không phải
nhằm vĩnh viễn đoạn trừ Mật Tông. Nếu theo như lời ông nói, chưa thọ
Tam Muội Da Giới57 chẳng thể niệm Mông Sơn Thí Thực, thì không
mất, chỉ hưởng thọ được 24 tuổi! Do quá thông minh, Sư thường có những bài viết
đề xướng Mật Tông là pháp vô thượng, chê bai tất cả các pháp môn khác, cũng như
nêu lên rất nhiều ý kiến cực đoan, võ đoán. Sư Đế Nhàn cũng không tán thành quan
niệm của Hiển Ấm, nhưng không làm gì được!
56 A Xà Lê (Acarya): Dịch nghĩa là Giáo Thọ, có nghĩa là vị thầy có đủ giới đức,
hành vi đoan nghiêm có thể dạy dỗ học trò đúng khuôn phép. Trong Mật Tông, vị sư
đầy đủ giới đức có sự hiểu biết uyên thâm về mật pháp, thông hiểu đàn pháp, ấn khế,
đã được quán đảnh và tu trì, đủ tư cách để truyền dạy Mật Pháp cho người khác mới
được gọi là A Xà Lê. Tiêu chuẩn để được xưng là A Xà Lê trong Mật Tông được
giảng rất rõ trong phẩm A Xà Lê của kinh Tô Tất Địa. Theo đó, những điều kiện để
xứng danh là một vị Mật Tông A Xà Lê rất khó và rất cao. “Hiển Mật viên thông” là
Hiển giáo lẫn Mật giáo đều thông hiểu sâu xa, viên dung.
57 Tam Muội Da Giới: Còn gọi là Tam Ma Da Giới, tức giới pháp bí mật trong Mật
Tông. Theo giáo nghĩa Mật Tông, giới này lấy Bồ Đề Tâm làm giới thể, lấy pháp
giới vô lượng đức viên mãn làm hành tướng cho Bí Mật Chân Ngôn Giới. Giới tướng
của giới này là chẳng bỏ chánh pháp, chẳng lìa bỏ tâm Bồ Đề, chẳng keo kiệt hết
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 90
riêng gì Mông Sơn Thí Thực, ngay cả hết thảy chú cũng đều chẳng được
niệm, vì chưa được A Xà Lê truyền dạy! Nhưng từ xưa đến nay, người
bình thường niệm các chú Đại Bi, Chuẩn Đề58 có cảm ứng rất nhiều!
Thậm chí nhà Nho do từ bia, thiếp mà biết có Tâm Kinh, mắc bệnh sốt
rét59 bèn gượng bệnh niệm kinh thì con quỷ gây bệnh sốt rét bèn tháo lui.
Nếu đúng như ông nói thì con quỷ gây bệnh sốt rét sẽ càng thêm đắc
thế60!
Nay kể cùng ông một thí dụ. Ví như bậc quân tử đức dầy lấy thân
làm gương để dìu dắt người khác, người trong một làng nghe theo sự chỉ
huy, thảy đều an phận giữ mình. Người ấy do lấy thân làm gương để dìu
dắt người khác, vượt hơn quan phủ phát ra hiệu lệnh buộc dân thi hành.
Chớ nói sự cảm hóa bằng đức của người ấy trỗi hơn quan phủ! Nếu bắt
thảy pháp, chẳng hề không lợi lạc chúng sanh. Đấy chính là bốn điểm trọng yếu của
giới này. Ngoài ra, còn có những điều phải tuân thủ riêng khi thọ trì một bộ chú pháp
nào đó, chẳng hạn như không được ăn một số thực phẩm nào đó, phải tẩy tịnh, gia trì
tam nghiệp trước khi vào đàn tràng theo một nghi thức chuyên biệt v.v… cũng như
phát thệ không tự tiện nói cho người khác biết những gì mình đã được học, nhằm
tránh tạo khẩu nghiệp báng pháp cho người thiếu căn duyên với Mật pháp khởi lòng
nghi rồi hủy báng. Trước khi vào đàn thọ pháp Mật Tông phải thọ giới này. Nói
chung, Tam Muội Da Giới vẫn lấy Ngũ Giới làm căn bản, những kẻ tự xưng là Mật
Tông bí truyền không vâng giữ Ngũ Giới đều là tà sư hoại loạn Phật pháp!
58 Chuẩn Đề (Cundī), còn được gọi là Chuẩn Chi, Chuẩn Nê, Chuẩn Đề Quán Âm,
Chuẩn Đề Phật Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn Đề, dịch nghĩa là thanh tịnh. Đây là một hóa
thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đặc biệt bảo hộ chúng sanh đoản mạng và chiết
phục oán quỷ. Thiền Tông đặc biệt tôn sùng vị Bồ Tát này, hầu như các tự viện tùng
lâm lớn của Trung Hoa đều thờ ngài. Thai Mật của Nhật Bản xếp ngài vào một trong
các vị Phật Mẫu thuộc Phật Bộ, còn Đông Mật Nhật Bản xếp ngài vào một trong số
sáu vị Quán Âm thuộc Liên Hoa Bộ (Thiên Thủ Quán Âm, Thánh Quán Âm, Mã
Đầu Quán Âm, Thập Nhất Diện Quán Âm, Chuẩn Đề Quán Âm, Như Ý Luân Quán
Âm). Đại Sĩ Quán Âm hiện thân này khi nói chú Chuẩn Đề. Ngài thường được tạc
tượng có mười tám tay, mỗi tay cầm một món pháp khí, nhằm thể hiện ý nghĩa phân
thân hóa độ khắp cả lục đạo ứng với mười tám giới.
59
Ngược bệnh: Chữ Ngược (瘧) ở đây không phải là bệnh sốt rét thông thường, mà
là bệnh do oán đối quỷ mị dựa vào khiến cho bệnh nhân lên cơn sốt rét mỗi ngày,
phải nhờ vào chú lực hoặc kinh lực để giải trừ oán kết thì mới hết bệnh được. Chúng
tôi vẫn dùng chữ “bệnh sốt rét” cho dễ hiểu.
60 Do cuối Tâm Kinh là một bài chú nên nếu hiểu như ông Thôi Đức Chấn “chưa
được A Xà Lê truyền dạy sẽ không được niệm; nếu tự tiện niệm sẽ mắc tội vượt
pháp” thì những Nho sĩ do không được truyền dạy mà khi bị bệnh Ngược cứ tự tiện
niệm Tâm Kinh sẽ mắc tội vượt pháp, phước đức càng bị sút giảm, con quỷ gây bệnh
Ngược do đó càng được tăng thêm thế lực.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 91
chước quan phủ phát ra hiệu lệnh buộc người ta thi hành thì mọi người
đều cho đó là phản nghịch. Chỉ [dùng tụng chú để] tự tu trì thì có ích,
còn nếu tự tiếm mạo sẽ có tội. Như thế thì sẽ chẳng đến nỗi đoạn diệt
Mật Tông, mà cũng chẳng đến nỗi phá hoại Mật Tông. Người thời nay
phần nhiều dùng tình kiến phàm phu để nói Phật pháp. Vì thế, khắp mọi
nơi đều trở thành gai góc, không chỗ nào để đặt chân bước đi được!
“Tiếm mạo”61 là dối xưng A Xà Lê. Tác pháp62 nào có trở ngại gì, vẽ
chữ Phạn để quán tưởng đều có thể chiếu theo nghi quỹ, nhưng chớ nên
tự xưng là đã được A Xà Lê quán đảnh. Ai biết được nghĩa này thì lời
khuyên của Quang càng thêm rõ ràng. Người thời nay học Phật đều bằng
cái tâm mù quáng khiến cho pháp nào cũng bị trở ngại, pháp nào cũng
chẳng thành, đáng than cùng cực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 5)
* Kẻ tại gia niệm Mông Sơn có gì là không được? Đây là [nghi thức]
để kết duyên với khắp các cô hồn. Nhỏ là Mông Sơn, trung là Diệm
Khẩu, lớn là Thủy Lục, cùng là một chuyện cả. Thường kết duyên với cô
hồn thì thường được sự tốt lành. Người ta chẳng dám niệm vì sợ sẽ vời
quỷ đến, chẳng biết quỷ và người sống lẫn lộn, không chỗ nào không có
quỷ! Dẫu không vời quỷ, nhà ai không có quỷ? Quỷ đông hơn người
trăm ngàn lần!
Nếu con người sợ quỷ, hãy nên tích đức làm lành thì quỷ liền kính
trọng, bảo vệ. Nếu con người làm chuyện ám muội, quỷ sẽ tranh nhau
quấy phá, cho nên khó thể tốt lành. Nếu con người biết điều này, dẫu ở
trong nhà tối cũng chẳng dám khởi lên ý niệm xấu xa, huống chi là
chuyện xấu? Loại quỷ này chính là thiện quỷ, người đến, chúng bèn
nhường, người đi, chúng lại chiếm khắp chỗ đất ấy. Nếu quỷ dữ xuất
hiện sẽ có chuyện chẳng tốt lành lớn.
Phóng Mông Sơn nếu chí thành, dẫu là loài quỷ dữ dằn cũng kính
cẩn vâng lời Phật sắc truyền, chẳng còn dữ dằn nữa. Do vậy, phàm là các
61
“Tiếm mạo” là vượt phận và mạo nhận. Ý nói có những người tu Mật Tông biết
được một vài nghi quỹ, được truyền thụ một vài Mật Pháp, nhưng chưa đủ tư cách,
giới hạnh của một bậc đạo sư, chưa thấu hiểu Mật pháp, nhất là chưa đủ sự hành trì,
đã tự tiện lập đàn truyền pháp, thâu nhận đệ tử, tự xưng là A Xà Lê, rồi lập tông, lập
phái.
62 Đây là một thuật ngữ Mật Tông, hành nhân vào đàn, quán tưởng, kết ấn, cúng
dường, tụng niệm, hỏa cúng dường (hộ-ma) đều gọi chung là “tác pháp”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 92
bệnh do oán nghiệp, thuốc chẳng thể chữa lành, hãy chí thành niệm Phật,
niệm Quán Âm sẽ liền được mau lành, do oán quỷ được nhờ ơn niệm
Phật, được sanh vào thiện đạo. Có thể biết là trước mặt mỗi người
thường có rất nhiều thiện quỷ hoặc ác quỷ. Người sợ quỷ thì nên giữ cái
tâm tốt lành, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành thì tất cả các quỷ đều
trở thành kẻ hộ vệ. Loại quỷ ấy chỉ sợ không nhiều, chứ càng nhiều càng
tốt, đâu có sợ chi? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
gởi cư sĩ Trần Huệ Cung)
* Phương cách cầu siêu cho người đã khuất chỉ có niệm Phật thật là
bậc nhất. Thí Thực trong đời nay đều là hình thức mà thôi; do vậy, chẳng
bằng thỉnh Tăng niệm Phật, buổi tối phóng Mông Sơn sẽ có lợi ích thật
sự. Kinh sám pháp sự của Đạo Gia thường là trộm lấy những danh nghĩa
trong Phật pháp rồi bịa đặt ra! Tăng thí thực còn khó được lợi ích thật
sự, thì đạo sĩ thí thực há độ được vong ư? Chẳng qua mượn chuyện này
để dối người mà thôi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 4 )
* Nhiễu Phật nên giống như mặt trời, mặt trăng từ phương Đông
sang Nam, qua Tây, lên Bắc, đừng từ Đông lên Bắc, qua Tây, xuống
Nam, vì thuận nhiễu (nhiễu theo đúng chiều) có công đức, nghịch nhiễu
mắc tội lỗi. Tây Vực coi trọng nhất cách “vi nhiễu” (đi nhiễu quanh), họ
coi vi nhiễu (đi nhiễu quanh) tương đương với lễ bái, [vì đi nhiễu quanh]
mang ý nghĩa tùy thuận đức Phật. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn)
* Một pháp Tịnh Độ ai ai cũng tu được, hễ tu đều có cảm ứng.
Người thời nay phần đông ham cao chuộng xa, đến nỗi có thể là vì bầy
vẽ bề ngoài mà đâm ra gây trở ngại cho lợi ích thật sự. Con người bây
giờ hễ ra công [tu hành] liền nói đến chuyện xây dựng trước, chẳng biết
duyên do của Tịnh Độ, lại muốn nghiên cứu rộng khắp kinh luận Đại
Thừa, hoặc hâm mộ sự huyền diệu của Thiền Tông, hoặc hâm mộ sự tinh
vi của Tướng Tông, hoặc hâm mộ thần thông của Mật Tông, xem pháp
“cậy vào Phật lực để liễu sanh tử” như chuyện vô ích!
Thiền Tông dù có ngộ, nhưng ai đạt đến địa vị nghiệp tận tình
không? Tướng Tông dẫu có thể nhớ rõ ràng danh tướng, nhưng ai có thể
thật sự phá được Ngã Chấp và Pháp Chấp? Thần thông của Mật Tông và
“hiện thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân này) thì quả thật
cũng có chuyện ấy, nhưng chẳng phải là chuyện để hạng căn tánh như
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 93
ông và tôi mong mỏi được. Nếu muốn được thần thông, muốn được
thành Phật ngay, thì do đấy bị ma dựa phát cuồng rất nhiều! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Mẫn Tông Kinh)
* Điều ông chấp thuộc về Đoạn Kiến63, chẳng biết một niệm tâm
tánh của con người chúng ta chẳng phải thường, chẳng phải đoạn! Vì sao
chẳng phải đoạn? Trước không có khởi đầu, sau không có kết thúc. Nếu
có khởi đầu và kết thúc là rớt vào Đoạn Kiến! Vì sao chẳng phải
thường? Bản tánh thường nhiên bất biến, nhưng lại có ý nghĩa tùy
duyên. Hễ gặp duyên ngộ - tịnh, sẽ thành Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật. Tuy viên thành Phật đạo nhưng [tâm tánh] trọn chẳng tăng, chỉ
bỏ hết vọng tưởng, chấp trước, khôi phục tâm tánh sẵn có mà thôi! Nếu
gặp duyên mê - nhiễm bèn thành trời, người, Tu La, quỷ, súc sanh, địa
ngục. Tuy luân hồi trong sáu nẻo, [tâm tánh] trọn chẳng bị giảm, chỉ do
vọng tưởng, chấp trước che lấp bản tánh như mây che mặt trời nhưng
mặt trời vẫn y như cũ, không bị hao hụt!
Thuở ban đầu ông học phép Châu Thiên Đại Đạo64, đây chẳng những
không phải là Phật pháp, mà cũng chẳng phải là phép của Lão Tử. Hãy
63 Đoạn Kiến (Uccheda-Drsti): Còn gọi là Đoạn Diệt Luận, phản nghĩa với Thường
Kiến. Đây là tà kiến cho rằng rốt cuộc thế gian và ta đều mất hết, không còn nữa, hay
nói đơn giản là chấp rằng “chết đi là hết”! Do vậy, kẻ chủ trương Đoạn Kiến không
tin vào nhân quả, báo ứng. Quan điểm tà kiến có thể thấy rõ nhất qua cách nói của
ngoại đạo Phú Lan Na Ca Diếp được ghi trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Không thiện,
không ác, cũng không có quả báo thiện - ác”.
64 Châu Thiên là một thuật ngữ của Nội Đan trong Đạo Giáo. Trong ý nghĩa nguyên
thủy, Châu Thiên là sự chuyển vận tuần hoàn của trời đất. Từ ý nghĩa này, các nhà
Dịch học đã gán cho mỗi quẻ trong kinh Dịch một con số, gọi là Châu Thiên Số,
chẳng hạn quẻ Khôn khởi từ số 6, 6 lần 6 là 36, đấy chính là số thành của Âm. Quẻ
Càn khởi từ số 9, 6 lần 9 bằng 54, chính là số thành của Dương. Từ đó, các nhà Nội
Đan đi xa hơn, cho rằng 9 và 6 cộng thành 15 là số của Nhất Khí (tức Âm Dương
hợp nhất). Do vậy, họ cho rằng thân thể con người là một Tiểu Thiên Địa. Một hơi
thở hít vào, thở ra chính là một vòng Tiểu Châu Thiên giống như sự tuần hoàn của
Âm - Dương trong vòng trời đất. Thở ra hít vào đủ 360 lần là một Đại Châu Thiên.
Tuy vậy, sau này, dưới ảnh hưởng của Khí Công, Đại Châu Thiên và Tiểu Châu
Thiên được hiểu khác hẳn đi. Đại Châu Thiên và Tiểu Chân Thiên là cách vận công
hít thở theo hai mạch Nhâm và Đốc, tùy theo đường vận chuyển của Khí mà gọi là
Đại hay Tiểu Châu Thiên. Châu Thiên Đại Đạo là một phái luyện Nội Đan thịnh
hành ở Trung Hoa thời đó, trá xưng là Phật giáo chánh truyền để thu hút tín đồ. Do
phép vận khí này do các đạo sĩ đời sau chế ra, gán cho Lão Tử, nên Tổ Ấn Quang nói
“phép này cũng chẳng phải là của Lão Tử”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 94
thử xem Đạo Đức Kinh của Lão Tử có câu: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô
hữu thân” (Ta có mối lo lớn là vì ta có thân). Ngoại đạo đều chú trọng
trường sanh bất lão và thành Đại La thần tiên. Nếu trở thành thần tiên
nơi cung Đại La65, xưng “thần” (bầy tôi) dưới tòa của Ngọc Đế, liền cho
là vinh dự không chi hơn được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thái Tích Đỉnh ở Hải Môn - 3)
* Sách Trung Dung nói: “Nhân giai viết dư trí, khu nhi nạp chư cổ,
hoạch hãm tịnh chi trung, nhi mạc chi tri tỵ dã” (Con người ai cũng tự
cho là mình thông minh, nhưng nếu thân bị hãm vào lưới rập, sụp hầm
bẫy, chẳng biết tránh né ra sao)66. Do chỉ biết hướng ra ngoài theo đuổi,
chẳng biết hồi quang phản chiếu nên mới tai hại như thế. Nếu có thể
phản chiếu tự tâm, ẩn giấu cái trí để mong tự chiếu thì sẽ có thể học
thánh, học hiền, học Phật, học Tổ, ắt còn sống thì dự vào bậc thánh hiền,
mất sẽ lên cõi Cực Lạc. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển Thượng,
Thư chỉ dạy cư sĩ Sài Dã Ngu)
* Những kẻ đứng ngoài cửa thường chẳng cho những điều đã nói
trong sách là đúng, liền cầu bí pháp “miệng truyền, tâm trao”. Đây chính
là quen thói nghe theo tà thuyết “phải là miệng truyền tâm trao thì mới
có thể đắc đạo” của ngoại đạo, rồi tưởng lầm Phật pháp cũng giống như
vậy, đáng buồn, đáng đau, chớ nhiễm tà kiến ấy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lương Huệ Đống)
* Con buôn keo bẩn, bừa bãi, người ta dễ biết, chứ nhà Nho xấu xa,
bừa bãi, vẫn được người khác ngưỡng mộ! Nếu ông không có tri kiến lỗi
lạc, ắt sẽ bị hãm vào chỗ nước xoáy ấy. Ông chỉ học được thói ăn nói lớn
lối, chẳng biết “đạo Nghiêu - Thuấn là hiếu đễ mà thôi!” Đạo của quân
tử nằm trong vòng con cái, bầy tôi, em, bè bạn.
Thấu hiểu cùng tận lý của sự vật trong thiên hạ thì tuy là bậc thánh
nhân vẫn chưa chắc đã làm được! Nhưng trừ khử được món vật tư dục
trong tâm của chính mình thì sự lý của mọi sự vật trong thiên hạ sẽ đều
thấu hiểu cùng tận (Tư dục trong tâm, nêu lên những thứ nặng nề nhất thì chính là
65
Đại La Cung là chỗ ở của Ngọc Đế theo truyền thuyết Đạo Giáo. Câu nói quen
thuộc của đạo sĩ là: “Tam Thanh thượng, viết Đại La” (Phía trên Tam Thanh là Đại
La). Theo các đạo sĩ, chỗ cư trú trên thiên giới có ba mươi sáu nơi, chỗ cao nhất gọi
là trời Đại La. Cung Đại La nằm trên tầng trời Đại La.
66 Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích.
Theo sách ấy, chữ Chư (諸) ở đây chính là cách viết giả tá của chữ Ư (於).
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 95
tham, sân, si, tài, sắc, của cải, thanh danh, quyền thế, địa vị. Hễ có điều gì ham muốn
đều là tư dục cả. Ngay như bọn Lý Học nói lý trái lẽ là vì tư dục quá lớn vậy. Lúc
này đất nước lắm tai nạn, nhân dân thống khổ đều là vì bọn Lý Học phá nhân quả rồi
thai nghén thành hình, chẳng thể không biết). Thánh nhân dạy người phương
pháp “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” chính là dạy con người [tu dưỡng] từ gần đến xa, từ thân đến
sơ, sao cho tư dục trong lòng người bị trừ khử thì lương tri sẵn có sẽ tự
phát hiện. Từ đấy, ý thành, tâm chánh, thân tu, gia tề, nước trị, thiên hạ
bình! Há có phải thấu hiểu cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ rồi
mới có thể thành ý chánh tâm ư? Nếu nói như vậy thì kẻ chẳng đọc trọn
khắp hết thảy các sách thế gian và xuất thế gian, chẳng đi khắp các nước
sẽ chẳng có hy vọng “thành ý, chánh tâm” hay sao?
Phải biết: Trừ khử tư dục để thấu tỏ lương tri hòng thành ý chánh
tâm thì người tuy chẳng biết một chữ vẫn có thể làm được! Nếu do thấu
hiểu cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ để cầu đạt đến tột cùng, dù
có là thánh nhân vẫn chẳng thể làm được! Ông chẳng biết họ Châu (tức
Châu Hy) hiểu sai chữ “vật” và chữ “cách” nên báng Phật, phá nhân quả,
luân hồi; lại còn ăn trộm cách tham cứu của Thiền Tông để tự khoe tài,
vì thế nói: “Một mai bừng tỏ liền thông suốt”. Nếu ông nghĩ giải thích
chữ “cách vật”67 theo kiểu của họ Châu là đúng thì dẫu ông có “cách”
suốt cả đời vẫn chẳng đạt đến chỗ cùng tận, nói gì đến chuyện “bừng tỏ,
thông suốt”!
Lời bàn luận dài dòng lần này quan hệ rất lớn; do vậy, tôi khuyên
ông cũng nên đưa cho cha ông đọc [thư này]. Còn chuyện ông theo đuổi
nghề buôn bán hay nghề Nho, ông hãy tự suy xét. Nếu đọc đến phần nói
về căn bệnh của ông trong đoạn thư trước chẳng sanh lòng cảm kích, trái
lại sanh ra phiền não thì ông làm thương nhân cũng sẽ là ngụy thương,
làm nhà Nho cũng là ngụy Nho! Theo đuổi việc dạy dỗ người khác mà
lìa khỏi luân thường, nhân quả thì cũng chỉ rớt vào tình cảnh thật sự là
“tự lầm, lầm người” mà thôi! Sợ ông còn mơ màng chẳng thấy được
điều này, nên tôi phải nói sẵn! Nếu không tin tưởng, chẳng ngại gì giữ
lại [thư này] để sau này làm gương [nhằm biện định] thành hay bại do
tuân theo hay chống trái.
67 Châu Hy hiểu “cách vật” là thông đạt đến tột cùng hết thảy sự vật trong thế gian.
Do sự vật trong thế gian là vô tận, không thể nào thấu hiểu trọn hết được nên Tổ mới
nói: “Dẫu ông có Cách suốt cả đời vẫn chẳng đạt đến chỗ cùng tận”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 96
Quốc Học Chuyên Tu Quán ở Vô Tích do quan Hàn Lâm đời Thanh
trước kia là Đường Văn Trị sáng lập. Ông này hai mắt không thấy
đường. Bộ Thập Tam Kinh Độc Bản do ông ta chú giải, ông Thi Tỉnh
Chi bỏ ra mấy vạn đồng khắc ván, in được hai trăm bộ, cậy Quang viết
lời tựa; nhân đó, Quang xin gởi cho một bộ. Một bộ gồm hơn tám mươi
cuốn, không gắn dây đánh dấu, không in phần thư căn68, hơn tám mươi
cuốn sách ấy làm sao có thể kiểm nghiệm cho được? Do vậy, biết họ chỉ
tuân theo lối cổ, chẳng biết làm lợi cho người khác.
Quang bận bịu nhiều việc, chẳng thể nào đọc hết được [trọn bộ
sách]. Giở xem đại lược, thấy ông ta chỉ ra những thiên Thuấn Điển,
Thái Giáp, Hàm Hữu Nhất Đức, Thuyết Mạng v.v… trong kinh Thư đều
là ngụy tạo; đối với thiên Hàm Hữu Nhất Đức đều lấy những “sách” đã
dẫn [trên đây] để làm chứng, chẳng nghĩ kẻ ngụy tạo có thể dẫn những
đoạn kinh văn thuộc phần sau thiên Hàm Hữu Nhất Đức! Há những
người viết ra những sách69 ấy chẳng được trích dẫn phần trước của thiên
68 Dây đánh dấu (thư thiêm - bookmark): Cái thẻ để cài vào sách nhằm đánh dấu
phần đã đọc, hoặc sợi dây dẹp để đánh dấu phần sách đã đọc đều gọi là “thư thiêm”.
Trong cổ văn, Thư Thiêm còn có nghĩa là phần mục lục đầu sách và tiểu mục lục
trước mỗi chương sách để người đọc có thể tìm được chương và tiểu đoạn cần tìm dễ
dàng.
Thư căn: Vì không tìm được từ tương ứng để diễn tả chữ này, chúng tôi đành để
nguyên không dịch. Trong cách in sách chữ Hán, mỗi trang thường chừa một khoản
trống bên trái trang sách (tức phần “giáp lai”) để ghi tên sách, số trang, số quyển cho
tiện tra cứu; nói cách khác, nó tương ứng với phần header hay footer trong Microsoft
Word.
69 Kinh Thư, gọi đầy đủ là Thượng Thư, là một trong năm kinh của Nho Gia. Theo
Hán Thư, thiên Văn Nghệ Chí, sách này do Khổng Tử chỉnh lý, biên tập, gồm một
trăm thiên. Đến thời Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, quan Bác Sĩ Phục Sanh
(có thuyết nói là Phục Thắng) lén đem giấu trong vách, khi Lưu Bang lật đổ nhà Tần,
lập ra nhà Hán, Phục Sanh tìm lại thấy sách đã bị hư mất mấy chục thiên, chỉ còn sót
lại 29 thiên. Sau đấy, triều đình nhà Hán sai Tiều Thố đến nghe Phục Sanh giảng
sách, ghi chép lại thành bộ Thượng Thư hiện thời (mệnh danh là Kim Văn Thượng
Thư để phân biệt với Cổ Thượng Thư do những người khác sưu tập được, chẳng hạn
như bản của Khổng An Quốc – cháu đời thứ 11 của Khổng Tử). Nội dung của sách
Thượng Thư được chia thành bốn phần chánh, mỗi phần gọi là Thư (sách), tức Ngu
Thư, Hạ Thư, Thương Thư và Châu Thư, chép các điển chế từ thời Nghiêu Thuấn
đến đời Tần Mục Công thời Xuân Thu. Thuấn Điển, Thái Giáp, Hàm Hữu Nhất Đức,
Thuyết Mạng đều là những thiên sách trong Thượng Thư. Đôi khi, người ta cũng gọi
mỗi thiên của Thượng Thư là sách (điển hay thư). Ông Đường Văn Trị cho những
thiên vừa được nói trên đây đều là ngụy tạo vì thiên Hàm Hữu Nhất Đức trích dẫn
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 97
Hàm Hữu Nhất Đức ư? Do vậy, Quang sợ quá; sau này gặp ông Thi
Tỉnh Chi cho biết: Ông Đường muốn làm bậc cao nhân đệ nhất từ ngàn
xưa tới nay, bèn làm ra vẻ lập dị hòng lưu danh cho đời sau, đến nỗi mắt
của chính mình không thấy được ánh sáng mặt trời nữa, chẳng đáng
buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Châu
Pháp Lợi - 1)
* Khăn vuông lót tay để lễ Phật của nữ nhân ở phương Nam có in
danh hiệu của Phật, Bồ Tát, trên đó có đóng dấu các chùa, trải lên đất để
lễ Phật, hoặc dùng để lót ngồi. Phong tục xấu xa này lưu truyền khắp xa
gần. Năm Quang Tự 21 (1895), ở chùa A Dục Vương, Quang thấy một
phụ nữ dùng miếng vải ấy để lót ngồi, do đấy, bèn nói với vị điện chủ
điện Xá Lợi, điện chủ nói: “Đấy là phong tục của vùng này”, có ý cho
rằng Quang lắm chuyện! Vì thế, trong Phổ Đà Chí có nói đến tội lỗi ấy,
không biết có ai chịu lưu tâm hay chăng?
Thế gian chẳng biết có bao chuyện chẳng thể suy xét đến tận cùng,
do đã thành thói quen, ai cũng cho là có lý. Như người ăn mặn cho kẻ ăn
chay là không tốt lành, bất lợi cho con cháu; nếu ăn chay trường sẽ làm
cho con cháu đoạn tuyệt! Rốt cuộc có kẻ tin theo, chẳng bằng lòng cho
cha mẹ ăn chay trường. Những lời ngoa truyền ấy trọn khắp các nơi. Lại
nữa, hễ có người sanh nở thì có kẻ niệm Phật trọn chẳng dám gần. Lại có
người chẳng nhìn người chết, chẳng nhìn cô dâu mới cưới, cũng như phá
địa ngục, phá huyết hồ, trả tiền Thọ Sanh. Những chuyện vô lý ấy,
những ông sư phàm tục vì cầu lợi bèn làm cho người ta, kẻ vô tri vì để
tiêu tội bèn bỏ tiền mời người làm, còn đối với pháp môn Niệm Phật thật
sự được lợi ích lại coi thường!
Vào năm Dân Quốc 18 (1929), Long Tử Tu, Bộc Thu Thừa tính
dùng một ngàn sáu hay một ngàn bảy trăm đồng để làm một hội Thủy
Lục70 tại Bảo Hoa Sơn, nói với Quang. Quang bảo đem tiền ấy để tổ
những câu trong những thiên trước. Tổ Ấn Quang chỉ ra chỗ mâu thuẫn, khiên cưỡng
trong lập luận này: Kẻ ngụy tạo có thể dẫn cả những phần nằm trước Hàm Hữu Nhất
Đức hay sau thiên đó, đâu có gì buộc họ chỉ được quyền trích dẫn những phần nằm
trước mà thôi! Hơn nữa, khi viết sách, có ai cấm tác giả không được trích dẫn những
sách khác hoặc những điều đã được nói trong những chương trước!
70 Thủy Lục là pháp hội thí thực cho ngạ quỷ cũng như hết thảy những sinh vật sống
trên đất, dưới nước nhằm cứu bạt các loài quỷ. Theo Thích Môn Chánh Thống,
quyển 4: “Gọi tên là Thủy Lục là do ý nghĩa „chư tiên đến ăn trong các dòng nước,
quỷ đến ăn nơi đất sạch”. Duyên khởi của pháp hội này là do Tiêu Diễn (Lương Vũ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 98
chức Niệm Phật Thất, bọn họ liền bỏ đi không làm, chỉ dùng mấy trăm
đồng để niệm Phật. Nếu Quang tán thành họ làm đàn Thủy Lục thì hai
người [mỗi người] đều phải tốn hơn tám trăm đồng, đủ thấy người thế
gian phần nhiều thích chuyện náo nhiệt phô trương, chứ không phải là
chân thật cầu siêu cho người đã khuất và phổ độ cô hồn!
Giấy vàng bạc cũng chớ nên bỏ, mà cũng không nhất định phải thiêu
bao nhiêu. Cần biết: Đây là thứ dùng để cứu giúp cô hồn, chứ Phật, Bồ
Tát và người vãng sanh trọn chẳng dùng đến. Cũng là nhờ Phật lực, pháp
lực, tâm lực mà biến ít thành nhiều. Nếu mỗi người đều được một tờ thì
dù số đến ngàn vạn vạn tờ cũng chẳng thể trọn khắp được vì cô hồn và
quỷ thần trọn khắp hư không vậy! Nếu biết nghĩa “biến ít thành nhiều”
thì cái tâm cứu tế cô hồn cũng trọn hết, mà cũng không mắc lỗi quá sức
phung phí. Ấy là do lòng ai nấy chí thành làm thì tâm lực trọn khắp, của
cải trong cõi âm cũng được trọn khắp theo! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư gởi cho cư sĩ Lý Huệ Trừng bàn về chuyện [xử trí] tro
thiêu hóa kinh và tiền vãng sanh)
* Đức Phật vì chúng sanh trong chín pháp giới nói ra, chúng ta há
nên chẳng tự lượng, cứ chuyên chú theo cái nhìn của bậc tối thắng ư?
Thân trượng sáu hay tám thước, đức Phật đã từng giảng qua cho chúng
ta. [Đức Phật đã] vì kẻ Hạ Phẩm trước khi đọa địa ngục mà rộng mở
pháp Trì Danh, tức là Quán Kinh vẫn coi Trì Danh là hạnh thiết yếu
nhất. Vô Lượng Thọ Kinh nói cặn kẽ thệ nguyện của Phật và những
tướng thanh tịnh, đấy chính là bí quyết quan trọng cho người tu tập dựa
theo kinh Tiểu Bổn (kinh A Di Đà). Do có hai kinh này nên biết văn tự
của kinh Tiểu Bổn chỉ là toát yếu. Do vậy, biết rằng: Tuy y theo Tiểu
Bổn, chớ nên nghĩ hai kinh kia không khẩn yếu rồi coi thường!
Đối với sự tu trì, nếu thật sự chí thành thì một lần chiêm ngưỡng,
một lạy, một lượt xưng danh đều tiêu diệt được vô lượng tội, tăng vô
lượng phước, chứ không phải là nhất định phải tu theo một cách nào mới
được! Tâm địa thanh tịnh, thánh cảnh hiện tiền, nhưng đấy vẫn là những
Đế) mộng thấy thần tăng dạy lập trai hội nhằm phổ tế quần linh trong lục đạo tứ
sanh. Vua bèn cầu cao tăng đọc khắp các kinh điển, y theo chuyện A Nan gặp quỷ
Diện Nhiên, thiết lập pháp hội thí thực bình đẳng, soạn ra khoa nghi. Theo Phật Tổ
Thống Ký, pháp hội Thủy Lục đầu tiên được cử hành tại chùa Kim Sơn vào năm
Thiên Giám thứ tư (505) đời Hậu Lương. Về sau khoa nghi này thất truyền. Đến niên
hiệu Hàm Thuần đời Đường, pháp sư Đạo Anh chùa Pháp Hải tại Trường An được dị
nhân chỉ điểm, tìm lại được khoa nghi bèn tổ chức và lưu truyền pháp hội này.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 99
gì ta sẵn có. Há nên như đứa con nghèo nhặt được vàng bèn mừng vui
quá mức như điên, như cuồng? Đã có tình trạng ấy, hoàn toàn là tính
cách của phàm tình. Nếu chẳng suy xét phản tỉnh, khó khỏi bị ma dựa!
Xưa kia, đại sư Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa, đến chỗ “thị danh chân
tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” (đấy gọi là chân tinh
tấn, đấy gọi là chân pháp cúng dường Như Lai) hoát nhiên đại ngộ, lặng
lẽ nhập định, đích thân thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan.
Nếu có tướng trạng mừng rỡ điên cuồng không kiềm chế được thì làm
sao nhập định cho được? Suy nghĩ điều này sẽ biết: Thánh cảnh hiện bèn
mừng rỡ như điên thì đều là phàm tình, rất trái nghịch thánh trí. Nếu
chẳng tự lượng, cũng nguy hiểm lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời đại sư Tế Thiện)
* Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Nếu đời
trước không có Tịnh nhân, sẽ rất khó sanh lòng tin. Thiền giả lấy “kiến
tánh thành Phật” để tự khoe tài, Giảng giả (người học Giáo) lấy hoằng
dương Giáo Quán để tự khoe khoang. Họ chẳng những không chịu đề
xướng [pháp môn Tịnh Độ], mà còn cực lực đả phá, bài xích, đa phần là
như vậy. Chúng sanh đời Mạt Pháp chẳng gặp được pháp môn Tịnh Độ
dẫu có thể minh tâm kiến tánh, thông hiểu Giáo Quán sâu xa, ai có thể
chẳng đoạn Phiền Hoặc mà liễu sanh thoát tử được? Quang túc nghiệp
sâu nặng, mới sanh được sáu tháng liền bị bệnh mắt, từ đấy suốt một
trăm tám mươi ngày chưa từng mở được mắt, trừ lúc ăn ngủ ra, khóc
suốt ngày đêm. Đến khi lành bệnh, còn được thấy bầu trời. Vào trường
đi học, trúng phải chất độc của Hàn - Âu - Châu - Trình rất sâu, may
không có tài như các ông ấy. Nếu không, đã mang quả báo hãm vào đọa
địa ngục ngay trong khi còn sống rồi! Về sau biết họ sai trái, do vậy liền
xuất gia. Cửa ngõ Tông - Giáo cao vời, không sức nào ngóng dò được,
chỉ mong cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương.
Hai mươi năm trước, nhập chúng tại chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà, sống
nhàn tản. Hai chữ Ấn Quang trọn chẳng dùng trong các giấy tờ viết lách,
vì thế được yên vui không phiền nhiễu. Năm Dân Quốc thứ sáu (1917),
đã có hai người (tức Từ Úy Như và Châu Mạnh Do) đem những lá thư
Quang gởi cho bè bạn in thành mấy ngàn bản tặng cho người khác. Năm
sau, Từ Úy Như in Văn Sao. Từ đấy, hằng ngày không được rảnh rỗi.
Quang chỉ đem pháp môn Tịnh Độ nói với bọn họ, mặc cho người ta bảo
tôi “vô tri vô thức!”. Ông đã đọc Văn Sao, An Sĩ Toàn Thư, Liễu Phàm
Tứ Huấn v.v… hãy dùng những điều ấy để tự hành, dạy người, chắc
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 100
chắn thừa thãi có dư. Nếu còn nghiên cứu Tông, Giáo, trộm sợ rằng thấy
lời lẽ nhà Thiền huyền diệu, lý bên Giáo sâu xa, lại coi Tịnh Độ như
chuyện vặt vãnh, đâm ra chẳng ổn thỏa, thích đáng bằng kẻ chất phác
chẳng biết gì, cứ nhất tâm niệm Phật! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh
thần đều không đủ (Hoằng Hóa Nguyệt San số 12 - Ấn Quang Văn Sao Tam Biên,
quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Hóa Phàm)
* Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật lẽ đâu chẳng có chuyện
cứu khổ ách? Quán Âm Bồ Tát tùy cơ chỉ dạy, há lẽ nào chẳng tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương? Người niệm Phật lâm chung thấy Phật và thánh
chúng đích thân đến tiếp dẫn, há nên chấp chết cứng như thế? Nếu đúng
là như vậy thì Phật cũng chẳng đáng gọi là Phật, Bồ Tát cũng chẳng
đáng gọi là Bồ Tát!
Sanh về Tây hãy nên lấy tín nguyện làm gốc, nếu gặp nguy hiểm bèn
niệm Quán Âm. Có tín nguyện thì khi mạng chung quyết định sanh về
Tây Phương, hoặc chỉ chuyên nhất niệm A Di Đà thì gặp khổ ách cũng
được giải thoát. Những điều [cảm ứng như vậy được] sách cổ ghi chép
càng khó tính kể. Nay trong trần lao thì chuyện gì cũng viên thông,
nhưng trong tu trì thì chuyện gì cũng chấp chết cứng, chẳng đáng viên
thông mà lại lầm lạc viên thông, chẳng đáng chấp trước mà cứ chấp
trước chết cứng! Do điều này mà biển khổ sóng dậy liên tục, luân hồi
không ngừng nghỉ vậy. Người có kiến giải như vậy khác nào trẻ nít, con
người như vậy nào đáng để cùng bàn luận nữa! (Vĩnh Tư Tập - Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời sư Như Sầm hỏi thay cho bạn)
* Nếu người học Phật chẳng chú trọng tận tụy thực hành thì có khác
gì kép hát trong cõi đời đâu! Trên sân khấu, khổ - sướng, buồn - vui diễn
cho thật giống như đúc, nhưng thật ra cũng chẳng có mảy may gì liên
quan đến ta. Như vậy thì sẽ trở thành gã si ham danh ghét thật, tâm
muốn lừa người dối Phật, thật sự chỉ tạo thành cái lỗi lừa người dối Phật.
Người còn chẳng nên lừa, huống gì là Phật? Phải chú trọng thật sự thực
hiện thì mới nên. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời cư sĩ Hứa Hy Đường)
* Đức Như Lai chẳng xuất hiện, cõi đại thiên giống như đêm dài.
Phật nhật đã chiếu khắp, các pháp đều rạng rỡ. Chẳng riêng gì tam thừa
thánh nhân mau lên được bờ giác, mà còn khiến cho hàm thức trong sáu
đường đều dần dần thoát vòng khổ. Phật dùng một âm diễn thuyết pháp,
chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu. Ví như một trận mưa nhuần thấm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 101
trọn khắp, cây cỏ mỗi loài tự sum xuê; một vầng trăng hiện bóng khắp
nơi, nơi sông biển tùy mỗi người thấy khác. Chỉ rõ Phật tánh sẵn có,
chúng sanh và Phật vốn đồng. Dạy rõ do tu trì thuận hay nghịch [Phật
tánh] mà phàm - thánh thật khác biệt. Chia ra nói thành năm thừa, để
mong [chúng sanh] theo đường về nhà. Chẳng lập một pháp ngõ hầu
hiểu gốc mà biết ngọn. Ngũ tánh71, tam thừa cùng về một đạo; Tứ Đế,
Lục Độ chẳng ngoài một tâm. Hết thảy pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm,
pháp pháp dung nhiếp. Hết thảy hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thật, hạnh hạnh
viên thông. Đây chính là quy củ lớn lao nuôi dạy hàng ngàn căn cơ của
đức Như Lai, là nghĩa lý lớn lao trong giáo pháp suốt cả một đời đức
Phật.
Xét từ lúc đạo Phật được hưng khởi vào đời Chiêu Vương nhà
Châu72, đạo truyền khắp cõi Tây Càn (Ấn Độ), đến đời Hán Minh Đế,
pháp được truyền sang Đông Chấn (Trung Hoa). Thoạt đầu chỉ được
hoằng truyền nơi đất Bắc, đến đời Ngô mới bắt đầu truyền xuống
phương Nam. Từ đời Tấn trở đi, đạo được truyền khắp trong nước, ngoài
nước: Cao Ly, Nhật Bản, Tiêm La (Thái Lan), Miến Điện đều cùng được
gội pháp hóa của Phật trong thời ấy. Ngài La Thập ở Quan Trung73, Viễn
71 Ngũ Tánh là một khái niệm phân chia căn tánh theo tông Hoa Nghiêm, dựa trên
căn tánh thành Phật của chúng sanh mà chia thành năm loại:
1. Bất Định Tánh Bán Thành Phật, tức căn tánh bất định, nếu gặp được pháp Nhị
Thừa sẽ tu tập pháp Nhị Thừa, nếu gặp pháp Bồ Tát sẽ tu tập pháp Bồ Tát, khả năng
thành Phật tùy theo căn duyên nên gọi là “bán”.
2. Vô Chủng Tánh Bất Thành Phật: Chỉ hạng người không có thiện căn, chánh tín,
bài bác nhân quả, chẳng chịu nhận lãnh sự hóa độ, cam phận chìm đắm trong sanh
tử, chẳng cầu giải thoát.
3. Thanh Văn Tánh Bất Thành Phật: Những người mang căn tánh Thanh Văn, chỉ tu
tập pháp Tứ Đế, chứng chân không Niết Bàn, tham đắm không tịch, kinh sợ sanh tử,
chẳng muốn độ sanh, tấn tu Phật đạo.
4. Duyên Giác Tánh Thành Phật: Những người mang căn tánh Duyên Giác, chỉ quán
Thập Nhị Nhân Duyên, chứng chân không Niết Bàn, cố chấp thiên không, chẳng cầu
Phật đạo.
5. Bồ Tát Tánh Toàn Thành Phật: Bồ Tát có thể tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn, bi trí song vận, rộng tạo các nhân, chứng quả Bồ Đề.
72 Theo quan điểm cổ truyền của Phật môn Trung Hoa, đức Phật giáng sanh nhằm
thời Châu Chiêu Vương (995-977 trước Công Nguyên).
73 Lãnh thổ nhà Diêu Tần nằm trong địa phận tỉnh Thiểm Tây, do vùng này nằm lọt
giữa các cửa ải Hàm Cốc, Tán Quan, Vũ Quan và Hào Quan nên thường gọi là Quan
Trung.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 102
Công tại Lô Sơn, công huân hoằng pháp không ai to lớn bằng. Do vậy,
pháp được truyền đến các nước, đều được bình đẳng hưởng ơn Phật.
Từ đấy trở đi, đến thời Đại Đường, kinh, luận, pháp môn thảy đều
trọn vẹn. Tính chung những tông lớn thì có năm tông là Luật, Giáo,
Thiền, Mật, Tịnh. Cố nhiên tri thức các tông đều thông suốt các pháp,
nhưng để hoằng dương thì hoặc kiêm, hoặc chuyên, chỉ mong sao khế
cơ, nên không nhất định! Đa số là bậc đã chứng thánh quả, thừa nguyện
thị hiện, hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh. Khi sống được vua
quan khâm phục, kính ngưỡng, dân chúng tôn sùng; mất đi, trời người
buồn khóc, cầm thú kêu ai oán. Làm bậc thầy mô phạm cho cõi đời khi
ấy, làm cầu bến cho đời sau. Đạo đức, lợi ích nói chẳng thể cùng!
Rặng Côn Luân tuy sanh ngọc, vẫn có đá tảng; rừng chiên-đàn phần
nhiều thơm ngát, vẫn sanh cỏ thối. [Đó là vì chư Tăng] hoặc thừa
nguyện thị hiện bệnh hạnh74, hoặc do mê tâm nên phạm Thanh Quy. Dấu
tích của những lợi ích bị mất mát và những khổ báo chiêu cảm đều đáng
để khơi gợi thiện tâm cho người đời sau, răn dạy đời Mạt phải gắng chí,
vĩnh viễn là gương soi về sự trái đạo nghịch pháp trong pháp môn. Vì
thế, chưa chắc [những gương phạm giới ấy] đã là trái nghịch sự giáo hóa
của Phật, mà là nhằm khiến cho con người y giáo phụng hành vậy. (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao, quyển Hạ, Lời tựa cho cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục)
74 “Bệnh hạnh” là một trong năm hạnh của Bồ Tát, được nói đến trong kinh Đại Bát
Niết Bàn. Theo đó, Bồ Tát vận dụng lòng vô duyên đại từ, vận tâm bình đẳng, nhằm
cứu bạt những chúng sanh đang khổ sở phiền não mà thị hiện các hạnh gây tạo tội
nghiệp lớn lao. Chữ Bệnh ở đây chỉ cho những tội nghiệp, vì tội nghiệp chính là
bệnh nơi thân - khẩu - ý. Chẳng hạn như ngài Ưu Đà Di thị hiện phạm nhiều hạnh
bất tịnh để Phật có cơ duyên chế giới, cũng như ngài Đề Bà Đạt Đa thị hiện phá hòa
hợp Tăng, thị hiện phạm đại tội Ngũ Nghịch, thị hiện đọa địa ngục A Tỳ để cảnh tỉnh
người đời sau về quả báo Ngũ Nghịch, hoặc như các vị Hàn Sơn, Thập Đắc, Tế Điên
thị hiện điên khùng, không giữ Thanh Quy đều nhằm hóa độ chúng sanh.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 103
IV. Luận sanh tử đại sự
1. Chỉ ra nỗi nguy hiểm trong nẻo luân hồi
* Đại trượng phu sống trong thế gian, không chuyện nào chẳng tính
toán sẵn, nhưng chỉ có mỗi một chuyện sanh tử đa số đều ngược ngạo bỏ
mặc không hỏi tới, mãi cho đến khi báo hết mạng tận phải theo nghiệp
chịu báo, chẳng biết một niệm tâm thức này sẽ lại đi thọ sanh trong
đường nào! Cõi trời người là quán trọ, tam đồ là quê nhà! Mỗi lần thọ
báo trong tam đồ là trăm ngàn kiếp, trọn chẳng có dịp nào lại được sanh
trong cõi trời người! Do vậy nói rằng: “Đương nhiên không thể nào
không miệt mài cầu tìm pháp liễu sanh tử!” (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bản in gộp chung hai sách Tịnh Độ Vấn Biện và Công
Quá Cách)
* Mạng sống của con người trong thế gian chớp mắt đã qua, một hơi
thở ra không hít vào được nữa, chẳng biết lại đi về đâu! Nếu chẳng hiểu
chắc chắn một pháp Tịnh Độ, thật đáng sợ hãi đến cùng cực! Ông Tào
Tung Kiều kể: Khi cha ông ta đi học, một bạn học là con nhà phú ông,
hết sức đần độn. Thầy giáo dạy hắn, hắn còn chưa hiểu, cha ông Tào vừa
nghe liền thuộc được ngay. Gã con phú ông ấy chết sớm, về sau thấy hắn
đến [nhà ông Tào], rồi chợt chẳng thấy nữa; Tào Tung Kiều bèn sanh
được một gái, nay đã ba mươi mốt tuổi, cực thông minh, học hành hoàn
toàn chẳng phải tốn công. Thoạt đầu là con trai phú ông, [đời] sau làm
cháu nội gái của người bạn học. Con người luân hồi, thật đáng sợ thay!
Đây chỉ là thay đổi hình tướng nam - nữ, chứ kẻ biến đổi toàn thể thì
trong mười người đã hết tám, chín. Buồn thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Con chim Anh Vũ (két, vẹt) do gặp ngài A Nan giảng cho pháp Tứ
Đế bèn sanh lòng hoan hỷ, cũng như công đức do lúc bình thường trông
thấy Tăng bèn hoan hỷ, báo trước cho người nhà biết, nên được bảy lần
sanh lên Lục Dục Thiên75, rồi mới sanh trong loài người, chứng A La
75 Lục Dục Thiên, hiểu theo nghĩa rộng là sáu tầng trời trong cõi Dục từ Tứ Vương
Thiên cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên (tức Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi, Dạ Ma,
Đâu Suất, Hóa Lạc và Tha Hóa Tự Tại). Hiểu theo nghĩa hẹp, Lục Dục Thiên chỉ là
tầng trời Tha Hóa Tự Tại (Paranirmita-vaśa-vartin). Cõi trời này còn được dịch là
Tha Hóa Tự Chuyển Thiên, Tha Hóa Lạc Thiên, Tha Ứng Thanh Thiên, Ba La Ni
Mật Thiên, do Tự Tại Thiên Vương (Vaśavartti-devarāja) làm chúa tể. Trong Dục
giới, cõi trời này tự tại khoái lạc nhất, do có thể thụ hưởng những sự khoái lạc do
người khác biến hóa ra.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 104
Hán. Do vậy, biết liễu sanh tử khó khăn, chẳng thể tính toán được năm
tháng của bảy lần sanh trong Lục Dục Thiên! (Nhân gian năm mươi năm
bằng một ngày đêm nơi trời Tứ Vương, cứ lên một tầng trời là tính gấp đôi lên,
[chẳng hạn như] cõi trời Đao Lợi [một ngày đêm] bằng một trăm năm trong nhân
gian, trời Dạ Ma bằng hai trăm năm, Đâu Suất bằng bốn trăm năm, Hóa Lạc tám
trăm năm, Tha Hóa một ngàn sáu trăm năm, tuổi thọ cũng tăng gấp bội. Tứ Vương
thọ năm trăm tuổi, Đao Lợi một ngàn tuổi, càng lên trên càng tăng gấp bội). Đấy là
pháp Tiểu Thừa, mặc sức nhờ vào tự lực để liễu sanh tử.
Nếu sanh lòng tin phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì
không có ai chẳng trong đời này liền được sanh về Tây Phương. Sanh về
Tây Phương thì sanh tử đã xong. Hãy nên phát tâm khẩn thiết! Pháp môn
Niệm Phật này quả thật là đạo trọng yếu vô thượng đại từ bi của đức
Phật nhằm phổ độ hết thảy chúng sanh khiến cho họ là những kẻ không
có sức liễu sanh tử sẽ có thể mau chóng liễu sanh tử ngay trong đời này.
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ năm - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, quyển 1, Thư trả
lời cư sĩ Diệp Sính Thần)
* Con người sống trong thế gian nguy hiểm muôn vẻ, một hơi thở ra
không hít vào được, chẳng biết sẽ lại có hình dạng như thế nào. Ông đã
đầu thai vào loài người, may là tâm địa sáng suốt, một niềm hiếu thuận,
nhân từ, khôi phục được bản thể. Nếu như mê muội, sẽ khó quay về!
Phải biết: Đây vẫn còn là tin tức tốt lành nhất, nếu đầu thai vào dị loại thì
càng nguy hiểm hơn! Do vậy, biết rằng: Chúng sanh trong lục đạo đều
không có giống nhau hay khác biệt, đều theo nghiệp thọ báo, không sanh
ở chỗ nào nhất định. Ông đã trải qua nạn ấy, tâm hãy nên quyết định cầu
sanh Tây Phương, ngõ hầu do cơn nguy hiểm này sẽ vĩnh viễn hưởng
yên vui. Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Triệt Ngộ Ngữ
Lục đã thỉnh được. Lại còn các sách đã in gần đây đóng thành sáu gói
gởi đi, mong hãy xem xét, thâu nhận. Chuyện ăn chay là do chẳng biết
con người và súc vật luân hồi, sanh ra lẫn nhau, giết hại lẫn nhau, lầm
lẫn cho rằng con người nên ăn chúng nó, chúng nó [sanh ra là] để cho
con người ăn. Đến khi đầu thai vào loài ấy mới biết những suy tính trước
kia là sai lầm. Ông đã trải qua một phen nguy hiểm ấy, cố nhiên hãy nên
gắng sức tu học, ăn chay. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Hòa - 2 )
* Một hơi thở ra không hít vào được sẽ lại bị luân hồi trong sáu nẻo
thì khổ chẳng thể nào tưởng tượng được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 105
* Nghe nói [các hạ] muốn đến Kê Túc76, trộm nghĩ không cần phải
đi xa, chỉ cần chọn chỗ có thể an thân, tùy duyên niệm Phật là được rồi!
Đi đến núi Kê Túc, nếu theo đường biển sẽ rất tốn tiền; nếu theo đường
bộ sẽ khổ sở chẳng thể nói nổi! Sao bằng lật ngã cột phan ngay trước
cửa77, tùy thời tùy xứ gặp gỡ tôn giả Ca Diếp chẳng hay hơn ư? Tiếc cho
tinh thần có hạn, lo liệu sự nghiệp cuối cùng [của một đời người] là
chuyện khẩn yếu bậc nhất của người cao tuổi vậy! (Hoằng Hóa Nguyệt San
số thứ hai - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư gởi cư sĩ Cao Hạc
Niên - 2).
* Đã không sanh về Tây Phương được thì đời sau chắc chắn có si
phước để hưởng, do hưởng phước sẽ tạo nghiệp, chắc chắn khi một hơi
thở ra không hít vào được nữa sẽ đọa lạc trong tam đồ vì ác nghiệp ngăn
lấp vậy! Tâm thức chẳng rõ, dẫu có một vị Phật sống đến cứu bà cũng
chẳng cứu được, há chẳng đáng thương đáng xót lắm ư? (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên)
2. Khuyến khích chuyên cậy vào Phật lực
* Trộm nghĩ: Chúng sanh đời Mạt Pháp căn cơ cạn mỏng, nếu
không cậy vào Phật lực, chắc chắn khó thể liễu thoát. Do vậy, phải giữ
chắc một môn “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” thì mới có thể
thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên cõi chín phẩm sen kia. Nếu lầm lẫn
cho mình là cao quý, muốn cậy vào sức của chính mình để tu các pháp
76 Núi Kê Túc (Kukkutapāda-giri) còn dịch là Kê Cước, Tôn Túc, Lang Túc, Lang
Tích, là một ngọn núi thuộc nước Ma Kiệt Đà, cách Già Da (Gayā) hơn 25 km về
phía Đông Bắc là nơi ngài Ma Ha Ca Diếp nhập diệt. Đại Đường Tây Vực Ký quyển
chín đã mô tả: “Núi cao chót vót, hang sâu thăm thẳm không đáy, cây to phủ kín
hang núi… Sau này, tôn giả Ca Diếp Ba nhập diệt nơi ấy nên [người ta] không dám
gọi thẳng tên núi mà gọi là Tôn Túc”. Do tại huyện Bảo Xuyên tỉnh Vân Nam cũng
có một hòn núi mang tên Kê Túc nên Phật giáo Trung Hoa đã đồng nhất núi này với
núi Kê Túc tại Ấn Độ, và nơi ấy cũng được coi là đạo tràng ứng hóa của ngài Ma Ha
Ca Diếp.
77 Đây là một công án Thiền (được đánh số 22) trong bộ Vô Môn Quan với nhan đề
Ca Diếp Sát Can (Cột phan của Ca Diếp). Theo đó, ngài A Nan hỏi tôn giả Ca Diếp:
“Ngoài y ca-sa vàng truyền lại cho ngài, đức Thế Tôn còn để lại vật gì nữa hay
không?” Ngài Ca Diếp liền gọi: “A Nan!” A Nan thưa: “Dạ!”, ngài Ca Diếp bảo:
“Lật đổ cái cột phan trước cửa đi” (Đảo khước môn tiền sát can). Theo ngu ý, ở đây
Tổ Ấn Quang khuyên ông Cao Hạc Niên hãy lắng lòng tu tập, lãnh hội lời dạy của tổ
Ca Diếp thì chẳng khác gì ngày ngày gặp gỡ Ca Diếp tôn giả, hơn là bôn ba đến núi
Kê Túc.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 106
môn Thiền, Giáo, Mật hòng liễu sanh tử thì phần nhiều sẽ là “có nhân,
không quả”. Vì sao vậy? Dù có thể triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh
tạng, nhưng chưa đoạn hết sạch Phiền Hoặc, chắc chắn chẳng có phần
liễu sanh tử, huống hồ kẻ chưa thể triệt ngộ tự tâm và chưa thể thâm
nhập ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Phùng Thiên Tây và Trịnh Viên Oánh)
* Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí -
ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự
lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt
tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước
Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời
thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng)
* Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, bất luận Đại, Tiểu, Quyền,
Thật, hết thảy pháp môn đều phải dùng Giới - Định - Huệ để đoạn tham sân - si cho hết sạch không còn sót thì mới có thể liễu sanh thoát tử. Điều
này khó như lên trời, chẳng phải là chuyện hàng phàm phu sát đất đầy
dẫy triền phược như chúng ta mà hòng mong mỏi được. Nếu dùng lòng
tin chân thành, nguyện thiết tha, cầu sanh Tây Phương thì bất luận công
phu cạn hay sâu, công đức lớn hay nhỏ, đều có thể cậy vào Phật từ lực
vãng sanh Tây Phương. Điều này giống như ngồi chiếc tàu thủy to vượt
biển, chỉ chịu lên tàu liền có thể đến được bờ kia, ấy là nhờ sức tàu chứ
chẳng phải bản lãnh của chính mình. Tín nguyện niệm Phật cầu sanh
Tây Phương cũng giống như thế, hoàn toàn là Phật lực, chứ không phải
đạo lực của chính mình.
Hễ đã sanh về Tây Phương thì sanh tử đã liễu, phiền não chẳng sanh,
đã giống như người vận dụng công phu tại nơi ấy đã lâu, đã đoạn sạch
phiền não liễu sanh tử. Vì thế, niệm Phật quyết định phải cầu sanh Tây
Phương, chớ nên cầu phước báo trời người trong đời sau, chớ nên nương
theo những kẻ chỉ dẫn người khác niệm Phật cầu khai ngộ nhưng lại rời
lìa tín nguyện. Niệm Phật cốt yếu là nhiếp trọn sáu căn. Trong lúc niệm
Phật, nhiếp tai lắng nghe kỹ, đấy chính là biện pháp để nhiếp sáu căn. Có
thể chí tâm lắng nghe kỹ thì công đức so với việc “chẳng lắng nghe,
niệm tán loạn” khác biệt rất lớn. Pháp này bất luận người thượng, trung,
hạ căn đều dùng được, đều được lợi ích, chỉ có lợi, không điều tệ. Hãy
nên bảo hết thảy mọi người tu đều tu theo pháp này (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Trương Tịnh Giang)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 107
* Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực để liễu sanh tử; pháp môn
Niệm Phật cậy vào Phật lực để liễu sanh tử. Cậy vào tự lực để liễu sanh
tử chẳng phải là chuyện có thể thực hiện xong trong một hai đời. Bậc
chứng Sơ Quả còn phải bảy lần sanh trong cõi trời và nhân gian, mới
chứng Tứ Quả. Tứ Quả là liễu sanh tử! Người chưa chứng Sơ Quả thăng
trầm bất định. Kẻ đời này tu hành rất khá, đời sau tạo nghiệp lớn lao,
trong trăm kẻ có đến hơn chín mươi người.
Bậc chứng Sơ Quả, dẫu dùng oai lực bức bách họ tạo nghiệp, họ thà
chịu xả mạng, chẳng chịu tạo những ác nghiệp giết, trộm, dâm v.v…
Nếu không xuất gia, cũng sẽ cưới vợ. Nếu buộc họ tà dâm, họ thà chết
chẳng làm! Vị ấy tuy chưa liễu sanh tử, quyết định chứng Sơ Quả, dẫu
dùng oai lực bức bách họ tạo nghiệp, họ thà chịu xả mạng, chẳng chịu
tạo những ác nghiệp giết, trộm, dâm v.v… quyết định chẳng bị đọa
xuống, còn kẻ chưa chứng Sơ Quả thì không chắc! Dẫu một đời, hai đời
chẳng tạo nghiệp, chắc chắn khó thể vĩnh viễn không tạo nghiệp. Vì thế
biết: Cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân khó khăn như lên trời
vậy!
Người niệm Phật ắt phải sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết
tha, quyết định cầu Phật gia bị trong đời hiện tại, đến lúc lâm chung
được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Lúc bình thường niệm Phật,
phải [thành khẩn] như làm đám tang cho cha mẹ, [phải tích cực] như cứu
đầu cháy; lại phải đem pháp môn này tùy phần tùy sức nói với hết thảy
mọi người; lại còn đối với mọi chuyện đều phải trọn hết bổn phận của
chính mình để được mãn nguyện. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời thầy Tu Tịnh)
* Thuốc không quý - hèn, thuốc nào trị được bệnh [thì thuốc ấy] là
thuốc hay. Pháp chẳng cạn - sâu, [pháp nào] hợp căn cơ sẽ là pháp mầu
nhiệm. Đang thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, nếu chẳng
nương vào hoằng thệ nguyện lực của đức Như Lai, ai có thể đoạn Phiền
Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng vô sanh?
Ví như bệnh đã lậm vào tạng phủ, tuy [bệnh tình] hòa hoãn, vẫn
không thể làm gì được, nhưng nếu chịu uống thuốc A Già Đà trị chung
vạn bệnh này, thì chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được
bản tánh, chứng Vô Sanh” vừa nói trên đây ai nấy đều có thể đích thân
chứng được, hoàn toàn chẳng khó khăn gì! Vì sao vậy? Do người ấy
dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 108
Tây Phương, lâm chung chắc chắn sẽ được Phật tiếp dẫn, liền được vãng
sanh. Đã được vãng sanh, thân cận Phật Di Đà dài lâu, theo gót hải
chúng, còn có thể viên mãn Bồ Đề, triệt chứng Niết Bàn rốt ráo, huống
là những chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh,
chứng Vô Sanh” vừa mới nói đó ư?
Do vậy, biết rằng: Trong thời tiết78 này, chỉ có một pháp này là thích
hợp căn cơ nhất. Nếu bỏ pháp môn cậy vào Phật lực này để tu những
pháp môn tự lực khác, đừng nói hạng trung - hạ căn không có cách chi
mong mỏi, dẫu là thượng căn chắc chắn cũng khó lòng thành tựu ngay
trong một đời được; phần nhiều chỉ gieo nhân cho đời sau, khó được lợi
ích thật sự! Vì thế, hàng tri thức xưa nay cực lực hoằng dương pháp này
để mong trên báo ơn Phật, dưới độ những người cùng hàng. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Tịnh Độ Tập Yếu79)
* Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn vừa cực khó lại vừa cực dễ.
Nói là khó thì [là do vì] bậc đại triệt đại ngộ thâm nhập kinh tạng còn
chẳng tin được. Nói là dễ [là do vì] ngu phu, ngu phụ chí thành khẩn
thiết niệm, liền có thể lúc lâm chung hiện tướng lành, vãng sanh Tây
Phương. Những vị đại triệt đại ngộ, thông hiểu sâu xa kinh luận kia còn
chẳng mong ngang vai bằng lứa với họ! Ấy là vì một đằng bỏ Phật lực,
chuyên cậy vào tự lực; một đằng chuyên cậy vào Phật từ lực, lấy Phật
lực dẫn phát tự lực. Do Phật lực, pháp lực, sức sẵn có trong tự tâm, ba
pháp khế hợp, nên được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Pháp
này quan trọng nhất là Tín - Nguyện. Có Tín - Nguyện sẽ chắc chắn chịu
tích cực tu trì. Chịu tu trì liền được lợi ích vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân)
* Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong suốt cả một
đời Ngài, tuy là Đại, Tiểu, Đốn, Tạm bất đồng, Quyền, Thật, Thiên,
Viên sai khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm khiến cho hết thảy
chúng sanh đều theo đường về nhà, khôi phục tâm tánh mà thôi! Nhưng
những pháp ấy đều cần phải tự lực tu trì để đoạn Hoặc chứng Chân, liễu
78 Xin đừng hiểu lầm chữ “thời tiết” ở đây là weather, mà có nghĩa là thời thế, đúng
dịp, đúng lúc nhân duyên chín muồi, các duyên hội đủ, như trong thành ngữ “nhân
duyên thời tiết” thường được dùng trong kinh sách.
79
Tịnh Độ Tập Yếu như tên gọi là một cuốn sách tập hợp những lời dạy chánh yếu
về Tịnh Độ của chư Bồ Tát, chư tổ sư, đại đức, do hai ông Phan Huệ Thuần và Thiệu
Huệ Viên biên soạn. Xin đừng lẫn lộn với tác phẩm Tịnh Độ Thập Yếu của đại sư
Ngẫu Ích.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 109
sanh thoát tử, hoàn toàn không được một sức nào khác nhiếp trì hòng
chắc chắn được siêu phàm nhập thánh, thành tựu sở nguyện ngay trong
đời này!
Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào sức thệ nguyện, nhiếp thọ của
Phật và lòng thành tín nguyện niệm Phật của chính mình, bất luận đã
chứng ngộ hay không; thậm chí kẻ chưa đoạn mảy may Phiền Hoặc nào
vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực liền được vãng sanh Tây Phương
ngay trong đời này. Đã được vãng sanh, nếu là người đã chứng ngộ liền
lên thẳng Thượng Phẩm, kẻ chưa đoạn Hoặc vẫn dự vào dòng thánh.
Do vậy biết pháp môn Tịnh Độ rộng lớn không có gì ra ngoài được,
như trời che khắp, dường đất chở đều, thống nhiếp các căn cơ trọn chẳng
sót vật nào! Thật có thể nói là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành
chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn và độn
căn. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được; dưới là
phàm phu nghịch ác vẫn có thể dự vào trong đó. Thỏa thích bản hoài
xuất thế của đức Như Lai, mở ra con đường chánh để chúng sanh trở về
nguồn. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương
cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.
Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, bỏ
pháp này tu pháp khác thì chẳng những hàng phàm phu bộn bề phiền não
chẳng có cách nào thoát ly sanh tử, mà ngay cả bậc thánh nhân Thập Địa
cũng khó thể viên mãn Bồ Đề! Vì vậy, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh đều phát tâm
Kim Cang hoằng truyền, tán dương, ngõ hầu lục đạo, tam thừa đều được
vượt ngang ra khỏi tam giới, khôi phục tâm tánh vốn có. (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu)
* Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không.
Hết thảy các pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này,
hết thảy các hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này.
Người thiên tư thông minh thường vì [tưởng lầm pháp này] sự giản dị, lý
tầm thường nên chẳng bỏ công xét kỹ, chẳng những chính mình không
tu tập, lại còn thốt lời bàn luận, ngăn trở, phá hoại, bài xích người khác
tu trì, nhằm tỏ vẻ chính mình cao minh. Điều này đúng là “biến quán lục
hợp nhi bất kiến lai mao” (thấy trọn vũ trụ nhưng chẳng thấy được sợi
lông nơi khóe mắt), biết trọn các pháp nhưng chẳng biết chính mình thế
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 110
trí biện thông, tự nghĩ mình Tông - Giáo đều thông, đức Phật gọi [kẻ ấy]
là kẻ đáng thương xót!
Họ chẳng nghĩ chỗ quy tông của kinh Hoa Nghiêm là cầu sanh Tịnh
Độ. Văn Thù, Phổ Hiền thảy đều phát nguyện vãng sanh. Những vị ấy là
người như thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào? Dẫu bọn ta có hiểu
được chút giáo nghĩa, nhưng Phiền Hoặc chưa đoạn, sanh tử chưa giải
quyết xong, hễ trải qua một phen biến đổi, sanh sang kiếp sau, há có thể
chẳng mê mất được ư? Chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Nguyên do
đức Như Lai đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ này là nhằm làm cho
thượng thánh hạ phàm đều cùng thoát được sanh tử ngay trong đời này.
Huống chi hai vị Đại Sĩ kia thành Phật đã lâu, thị hiện thuộc địa vị Đẳng
Giác, lấy thân làm gương cho kẻ khác phát nguyện cầu sanh; ta là hạng
người nào mà dám chống đối các vị ấy?
Nghĩ kỹ như thế, chắc chắn sẽ nhanh nhảu thay đổi, tuân theo giáo
huấn phổ độ thánh - phàm của đức Như Lai, noi theo Văn Thù, Phổ
Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thiện Đạo, Vĩnh Minh
v.v… các vị đại Bồ Tát, Tổ Sư mà nhất trí tiến hành, dùng mười đại
nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngõ
hầu viên mãn Phật quả, làm bậc đại trượng phu rốt ráo. Ai chịu cam lòng
nhường đại lợi ích này cho người khác, rồi tự mình ở yên trong nhà lửa
tam giới, thường bị thiêu đốt vậy thay? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
* Nghe Di Đà thệ nguyện, dạy chúng sanh phương hướng “tâm làm,
tâm là” thích hợp khắp chín giới. Pháp môn Tịnh Độ là đạo thành thủy
thành chung của Như Lai, thỏa thích lớn lao bản hoài của Phật. Phật, Tổ
xuất thế đều lập pháp thuận theo cơ nghi. Kẻ độn căn đời Mạt nên chọn
lấy pháp vừa khế lý lại vừa khế cơ để chuyên ròng dốc sức, ngõ hầu
nương theo Phật từ lực, vượt ngang ra khỏi tam giới, ngay trong một đời
này sẽ giải quyết xong xuôi đại sự sanh tử chẳng thể dễ dàng giải quyết
trong trăm ngàn vạn kiếp. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời
tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự)
* Tâm đăng của Phật - Tổ thường luôn sáng ngời. Lý tột cùng Thiền
-Tịnh tràn ngập pháp giới, ai nấy đều sẵn có, cần chi phải tán dương? Do
vì kẻ chưa hiểu rõ mà phải ghi chú tỉ mỉ bên dưới! Kinh Phạm Võng
dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”. Lại nói: “Ngươi là Phật
sẽ thành, ta là Phật đã thành”. Trong kinh Pháp Hoa, Thường Bất
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 111
Khinh Bồ Tát trông thấy tứ chúng đều lễ bái thưa: “Tôi chẳng dám khinh
quý ngài, quý ngài sẽ đều thành Phật”. Trong hội Hoa Nghiêm, khi đức
Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, than rằng: “Lạ thay! Hết thảy chúng
sanh đều có đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng,
chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết
Trí, Tự Nhiên Trí sẽ được hiện tiền”. Do vậy biết chúng sanh về bản thể
là Phật, nhưng vì mê muội nên chưa ngộ, hoặc ngộ nhưng chưa chứng,
nên chẳng thể tránh khỏi vẫn là chúng sanh!
Pháp khiến cho họ được ngộ, không chi hơn tham Thiền, tức [tham
cứu] điều thường được gọi là “thấy được bản lai diện mục trước khi cha
mẹ sanh ra” nhằm dạy con người hướng về lúc trước khi dấy lên ý niệm
để đích thân thấy được chủ nhân ông. Nếu có thể thấy triệt để thì gọi là
Ngộ; nhưng phiền não chưa đoạn thì vẫn chẳng thể thoát khỏi luân hồi y
như cũ! Nếu có thể đoạn hết sạch Phiền Hoặc thế gian thì mới vượt khỏi
được ba cõi. Do vậy, biết rằng Chứng là chuyện lớn lao, chẳng dễ dàng
gì! Vì thế, chẳng thể không nương vào “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh
Tây Phương” để mong cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh! Suy
nghĩ chín chắn nghĩa này, sẽ biết Như Lai đặc biệt mở ra một môn Tịnh
Độ chẳng phải chỉ để tiếp dẫn riêng hạng hành nhân tầm thường, mà thật
ra còn nhằm bảo vệ những người đã có ngộ chứng trong Tông, trong
Giáo, nhưng chưa đạt đến mức “phàm tình lẫn thánh kiến đều bất khả
đắc”.
Phiền Hoặc hết sạch, đương nhiên sẽ giải thoát. Người đã ngộ đã
chứng nhưng chưa đạt đến mức cùng cực, nếu không có pháp môn Tịnh
Độ che chở, nhiếp trì thì những hành nhân ấy lại phải thọ sanh, kẻ bị
chìm đắm thì nhiều mà kẻ tấn tu thật ít! Cảm ân đức của Phật khiến con
người khôn ngăn nghẹn ngào ứa lệ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách Phật Tổ Tâm Đăng và
Thiền Tịnh Song Úc)
* Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng đều phải tu đến khi
nghiệp tận tình không thì mới có thể liễu sanh thoát tử! Nếu không, dù
có sở đắc, vẫn cứ y như cũ, chẳng làm gì được sanh tử! Như trong hiện
thời, sợ rằng khắp cõi đời cũng khó được một hai người đạt đến địa vị
nghiệp tận tình không! Chỉ có một pháp Niệm Phật nếu đầy đủ tín chân,
nguyện thiết, chí thành niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, dù toàn thân là
nghiệp lực, vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 112
ấy gọi là “đới nghiệp vãng sanh”. Hễ sanh về Tây Phương thì liễu sanh
thoát tử, siêu phàm nhập thánh.
Vì thế, thiện tri thức đời Mạt phần nhiều đều đề xướng Tịnh Độ; bởi
lẽ Tịnh Độ thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt được hiệu quả
nhanh chóng. Thường có những kẻ thông minh, hơi hiểu giáo nghĩa,
hoặc biết đôi chút lẽ Thiền, bèn tự cho mình là bậc thông suốt, miệt thị
niệm Phật, cho niệm Phật là chuyện dành cho bọn ngu phu, ngu phụ
làm! Đấy đều là những kẻ chẳng biết tự xét, là hạng cuồng đồ, cứ tưởng
“hiểu nghĩa lý theo văn tự chính là thật chứng”, chắc chắn là hạng “nói
không, làm có”, dùng thân báng pháp, tương lai ắt đọa tam ác đạo, được
những ngu phu, ngu phụ niệm Phật vãng sanh Tây Phương thương xót
nhưng chẳng thể cứu vớt! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Thương Châu - 1 )
* Tam giới không đâu chẳng phải là quán trọ, [chúng sanh trong] lục
đạo đều là kẻ nghèo cùng. Tuy hứng chịu khổ - vui tạm thời sai khác,
nhưng hết vui sẽ tới khổ, rốt cuộc chẳng phải là chỗ an thân lập mạng rốt
ráo! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, thị
hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy theo căn
cơ chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho khắp các chúng sanh đều theo
đường về nhà, nhận lãnh của gia bảo, vĩnh viễn hưởng an lạc.
Nhưng các pháp ấy mỗi pháp lợi lạc cho một loại căn cơ, lại chẳng
dễ tu tập, dẫu tu cũng khó thể liễu thoát ngay trong đời này, bởi hoàn
toàn cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn Hoặc chứng
Chân thì mới thoát sanh tử. Chúng sanh đời Mạt Pháp khó lòng trông
mong được! Do lòng đại từ bi, đức Như Lai lại bày ra một pháp môn đặc
biệt, đó là “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”, để những
người đã đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực mau chứng Bồ Đề, kẻ
chưa đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực liền thoát sanh tử. Thích hợp
khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn; thượng thánh hạ
phàm cùng nương về, kẻ mới phát tâm lẫn người tu lâu đều cùng tiến.
Pháp môn này không riêng gì phàm phu đầy dẫy phiền não nên chuyên
tu, ngay cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật cũng cần phải dùng
mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc thì mới có thể viên thành
Phật quả. Pháp môn lớn lao như hư không chứa đựng rộng khắp, pháp
môn lợi ích như mùa Xuân khiến cho khắp mọi loài sanh trưởng; trọn cả
kiếp tán dương cũng khó lòng cùng tận. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Kỹ Lộ Chỉ Quy)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 113
* Thế giới Cực Lạc không có nữ nhân. Nữ nhân, súc sanh hễ sanh về
thế giới ấy đều mang tướng đồng nam (trẻ trai), liên hoa hóa sanh. Vừa
từ trong hoa sen ra đều giống hệt như người trong thế giới Cực Lạc, chứ
không phải là trước hết bé nhỏ rồi sau đấy mới dần dần khôn lớn. Người
trong thế giới ấy không có phiền não, không có vọng tưởng, không có
chuyện tạo nghiệp. Do cậy vào Phật từ lực nên hết sức dễ vãng sanh,
nhưng phải lấy niệm Phật làm nhân; đã vãng sanh rồi thấy Phật nghe
pháp, nhất định viên thành Phật đạo. Mười phương thế giới chỉ có cõi
này là thù thắng vượt trội nhất. Trong hết thảy pháp môn tu trì, chỉ có
pháp này dễ tu nhất mà công đức lại lớn nhất. Ông đừng nghe lời người
khác thì sẽ tự đạt được lợi ích tối thắng này! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ
5 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Diệp Phước Bị
- 1)
3. Chỉ dạy thiết yếu về lúc lâm chung
* Người niệm Phật nếu đã chứng đạo thì lúc lâm chung mặc cho
dao cắt, hương bôi, trọn chẳng hề có chuyện động niệm, nên không có
những cái được gọi là tổn hại hay lợi ích. Nếu chỉ có sức tu trì, chưa đạt
đến địa vị nghiệp tận tình không, khi lâm chung được người khác trợ
niệm sẽ quyết định được vãng sanh. Nếu gặp phải quyến thuộc vô tri,
ngay trước khi chưa chết đã tắm rửa, thay quần áo sẵn, khiến cho [người
sắp mất] bị dời động, chịu khổ. Dù chẳng bị khổ, nhưng vừa bị dời động
thì tâm chẳng thể quy nhất nơi Phật (do thân thể bị động, tâm liền chẳng thể
triệt để thanh tịnh thuần nhất).
Nếu lại còn đối trước [người sắp mất] khóc lóc thì chính người [sắp
mất] ấy cũng sanh ái luyến, nên chẳng tương ứng cùng Phật, muốn được
vãng sanh sẽ chẳng có cách nào! Do vậy, lúc thường ngày phải làm cho
họ (tức thân quyến của chính mình) biết lợi - hại, phải thường bảo với họ
để đến khi chính mình lâm chung, bọn họ chính là người trợ đạo, không
chỉ có ích cho ta mà đối với bọn họ đều có lợi ích lớn lao. Nếu chỉ biết tự
mình tu trì, trọn chẳng thuật lẽ lợi - hại cùng bọn họ, lúc ông lâm chung,
chắc chắn bọn họ sẽ là kẻ phá hoại chánh niệm, chắc chắn chẳng giúp
cho ông tịnh tâm để được vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Hứa Hy Đường)
* Lại nữa, người niệm Phật phải nên khuyên quyến thuộc trong nhà
cùng sanh tín tâm, cùng thường niệm Phật để chuẩn bị cho cha mẹ và
các quyến thuộc trong nhà người ấy hễ có ai mạng chung liền trợ niệm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 114
cho. Nếu không, chẳng những không thể giúp cho [người sắp chết giữ
được] chánh niệm, mà trái lại còn làm cho [người ấy] sanh khởi những
tâm sân hận, ái luyến v.v… (Tắm rửa sẵn, thay áo làm mất chánh niệm. Nếu dời
động khiến cho [người sắp mất] bị đau đớn bèn sanh sân hận. Sân hận thì có thể đọa
vào loài độc trùng. Nếu đối trước [người sắp mất] khóc lóc, người ấy liền sanh ái
luyến. [Những chuyện này] đều làm mất chánh niệm, vĩnh viễn không mong chi
được vãng sanh, buồn thay!) Người không niệm Phật còn chẳng đến nỗi bị
tổn hại lớn, chứ người niệm Phật hễ bị phá hoại, chánh niệm mất sạch,
muốn được vãng sanh sẽ trọn không thể được! Từ đấy luân hồi trong lục
đạo suốt kiếp dài lâu, đều là do bị bọn quyến thuộc ấy gây nên. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Huệ Di và La Huệ
Chú)
* Người niệm Phật hãy nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, nhưng muốn cho cha mẹ lúc lâm chung quyết định vãng sanh
Tây Phương mà không nói sẵn cho quyến thuộc biết về việc trợ niệm khi
lâm chung, lợi - hại của việc phô trương mù quáng và khóc lóc sẽ chẳng
thể được!
Vì vậy, muốn cho cha mẹ khi lâm chung được hưởng sự lợi ích do
quyến thuộc trợ niệm, chẳng bị cái hại phá hoại chánh niệm, nhưng lúc
thường ngày không nói cho họ biết sự lợi ích của việc niệm Phật, khiến
cho ai nấy đều thường niệm, sẽ không thể được! Như thế chẳng những
có ích cho cha mẹ mà thật sự còn có ích cho những quyến thuộc hiện đời
lẫn con cháu đời sau. Lâm chung trợ niệm bất luận già - trẻ đều nên như
vậy, xem kỹ cuốn Sức Chung Tân Lương80 sẽ tự biết (Thượng Hải Phật Học
80 Sức Chung Tân Lương (Những hướng dẫn trong việc lo liệu cho người lâm chung)
là một tác phẩm do ông Lý Viên Tịnh soạn với nội dung hướng dẫn cách thức chuẩn
bị cho thời khắc lâm chung và phương pháp trợ niệm nhằm đảm bảo người tu Tịnh
nghiệp lúc lâm chung không bị phá hoại chánh niệm. Sách này chia làm bốn phần:
1) Sức Chung Chương Trình: Người tu Tịnh Độ phải dặn dò gia đình, bạn bè cách xử
trí như thế nào khi người ấy lâm chung, cách thức trợ niệm, an táng sao cho người
chết giữ được chánh niệm.
2) Sức Chung Ngôn Luận: Tập hợp những lời dạy về chuẩn bị lâm chung của các cổ
đức.
3). Dự Tri Lợi Hại: Những phân tích về lẽ lợi hại khi lâm chung như không nên khóc
lóc, sát sanh, không bày vẽ phô trương như buộc người chết ngồi xếp bằng, thay áo,
tắm rửa trong khi người sắp chết còn đang thở hắt ra.
4) Sức Chung Thật Hiệu: Những bằng chứng vãng sanh do đã dự bị chu đáo cho phút
lâm chung.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 115
Thư Cục, chùa Báo Quốc ở Tô Châu đều có bán cuốn ấy). (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
* Hôm qua nhận được thư bà và thư của cư sĩ Phạm Cổ Nông, biết
bà đời trước vốn có thiện căn, nhưng do tập khí văn nhân chưa trừ được,
nên gần như chẳng được lợi ích thật sự! Nay tu tập mà vẫn chưa biết mối
tương quan rất lớn giữa tự lợi và lợi tha. Đừng nói chi người ngoài, ngay
cả chồng, con, dâu, cháu v.v… của chính mình đều phải nên dạy họ
thường niệm Phật hiệu.
Một là khiến cho bọn họ cùng gieo thiện căn; đang trong khi cõi đời
đại loạn này, nếu chẳng nương tựa vào Phật thì nguy hiểm đáng lo lắm.
Hai là nếu lúc bình thường chẳng dạy bọn họ uốn nắn tập khí thì
mai kia lúc bà sắp mất, bọn họ sẽ thuận theo tri kiến thế tục, tính làm
những chuyện phô trương, khóc lóc mù quáng, dẫu bà có công phu Tịnh
nghiệp có thể tương ứng với Phật, được Phật tiếp dẫn, nhưng gặp phải
những hành động đó phá hoại tịnh niệm, chắc chắn vẫn ở lại cõi Sa Bà,
từ trần sa kiếp này cho đến trần sa kiếp khác vẫn bị luân hồi trong sáu
nẻo. Do vậy, khuyên quyến thuộc niệm Phật chính là một đại sự khẩn
yếu nhất.
Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết đến cơm cháo, chẳng
thể làm cho bà được hưởng lợi ích nơi diệu lý của kinh giáo; chỉ có mỗi
một việc này do từng trải mấy mươi năm nên có thể làm cho bà đích
thân được lợi ích trong đời này. Nếu bà làm theo được, sẽ chẳng khác gì
cầu Phật tiếp dẫn bà và quyến thuộc cùng con cháu đời sau. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giác Minh)
* Mẹ ông đã bảy mươi mốt tuổi rồi, ngày tháng không còn nhiều
nữa. Hãy nên bảo quyến thuộc trong nhà: “Mọi người hằng ngày hãy
thay phiên nhau niệm Phật trước mẹ”. Vì sao vậy? Do bọn họ lúc thường
ngày nếu không niệm Phật thì tới lúc mẹ ông sắp mất, họ cũng sẽ chẳng
chịu niệm. Lúc bình thường đã quen niệm, đến lúc ấy sẽ niệm được. Phải
thỉnh một cuốn Sức Chung Tân Lương gởi về nhà cho bọn họ đọc, ngõ
hầu họ hiểu được người đến lúc lâm chung phải nên [làm] như thế nào
thì mới hữu ích, như thế nào sẽ bị tổn hại. Đã biết những điều thế tục
thường làm đều là chuyện “đã bị té xuống giếng còn bị quăng đá”, sẽ
chẳng đến nỗi cứ nghĩ [thực hiện] những chuyện ấy mới là hiếu, [thực
hiện lòng hiếu theo kiểu thế gian ấy sẽ] khiến cho mẹ chẳng được vãng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 116
sanh, mà ngược lại càng bị đọa lạc hơn. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Cao Khế Lý)
* Người niệm Phật bị bệnh liền nghĩ là sắp chết, nhất tâm niệm
Phật. Nếu tuổi thọ chưa hết, sẽ đâm ra chóng lành. Nếu chỉ mong lành
bệnh tức là sợ chết. Có cái tâm sợ chết, sẽ khó cảm được Phật! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tăng Di Chi)
* Tông Tịnh sau cơn thổ tả, thần thức rất thanh tịnh, vẫn muốn được
lành bệnh bèn niệm Quán Âm. Đây cũng là sự sai lầm do ít đọc những
sách Tịnh Độ và Văn Sao! Hễ có bệnh liền nghĩ sắp vãng sanh, niệm
Phật cầu vãng sanh, nếu tuổi thọ trong cõi đời chưa hết, chắc sẽ mau
được lành. Nếu tuổi thọ trong cõi đời đã hết, chẳng đến nỗi vì cầu lành
bệnh mà chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng Phật!
May là ông ta tự biết chẳng thể vãn hồi được nữa, bèn ngồi xếp
bằng niệm Phật, dặn dò người nhà. Câu đầu tiên bèn nói: “Ta chết rồi
đừng động đến di thể”; ấy là vì muốn ngồi qua đời để làm gương cho
những người cùng chí hướng. Tiếp đó, dặn đừng sát sanh, chẳng dùng đồ
mặn để cúng bái v.v…và bảo báo cho ông biết để chuyển tin cho Quang,
rồi nhất tâm niệm Phật và dặn người nhà trợ niệm.
Tông Khiết hoàn toàn chẳng biết sự quan trọng của việc trợ niệm:
“Hễ không động đến thân thể thì sẽ không có chuyện do bị động chạm
mà tâm không thể quy nhất. Hoặc do thân không có sức, lại bị dời động
sanh đau đớn, tâm sân hận sẽ khởi lên”. [Tông Khiết] lầm lạc đặt thân
thể [của Tông Tịnh] nằm xuống, ngay lập tức [Tông Tịnh] sân tâm bùng
lên, cho nên sắc mặt đỏ bừng. May là mọi người tưởng lầm đã đến lúc
vãng sanh bèn lớn tiếng niệm Phật, ông ta còn có thể mấp máy môi niệm
theo, vẫn chưa đến nỗi hỏng chuyện! Đến khi tắt hơi rồi, một chân còn
chưa duỗi ra là vì [Tông Tịnh] muốn nhỏm dậy nhưng lực bất tùng tâm.
Do vậy, Tông Khiết nói: “Cụ co được một chân, bèn nhỏm dậy muốn
ngồi, nhưng không còn sức nữa, bèn nằm thẳng đờ qua đời!” Nếu không
bị Tông Khiết mù quáng quấy rối, cảnh tượng lúc [Tông Tịnh] mất sẽ là
chuyện lạ được đồn đại cả một vùng. Nhưng tắt hơi rồi, vẫn còn có
những chuyện như co chân, nhỏm dậy v.v… cũng là rất không bình
thường, chắc là ông ta cũng được vãng sanh. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Huệ Phương)
* Bà Lưu Thị - thím của ông Trương Phước Tuyền - bẩm tánh tinh
thuần, đã có túc căn, đến khi mắc bệnh bèn tin theo lời của Phước
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 117
Tuyền, Tông Tịnh v.v… mà niệm Phật, lại còn được người nhà trợ niệm,
vì thế qua đời thật tốt lành. Những tướng tốt đẹp như: Vẻ mặt trở nên
đẹp đẽ hơn lúc sống, sau mười bốn tiếng đồng hồ toàn thân đã lạnh, đảnh
đầu vẫn còn ấm, chân tay, mình mẩy mềm mại, ruồi nhặng chẳng bu tới
v.v…. Căn cứ theo bài kệ kiểm nghiệm tình trạng lúc lâm chung trong
kinh Đại Tập thì:
Đảnh thánh, nhãn thiên sanh,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,
Súc sanh tất cái ly,
Địa ngục cước bản xuất.
(Đảnh: thánh, mắt: sanh thiên,
Tim: người,
Ngạ quỷ: bụng,
Súc sanh: đầu gối lìa,
Địa ngục: bàn chân thoát)
Bởi lẽ con người sắp chết, hơi nóng từ dưới dồn lên trên thì siêu
thăng; từ trên dồn xuống dưới sẽ đọa lạc. Nếu toàn thân đã lạnh, chỉ còn
đỉnh đầu ấm, ắt sanh về Tây Phương, vào trong thánh đạo. Mắt và trán
nóng là sanh trong đường trời. Ngực nóng là sanh trong nhân đạo. Bụng
còn ấm là sanh trong ngạ quỷ đạo, đầu gối ấm là sanh trong súc sanh
đạo, bàn chân ấm là trong địa ngục đạo.
Người niệm Phật nếu nhất tâm niệm Phật, chẳng nghĩ đến gia
nghiệp, con cái trong thế gian, quyết định sẽ được Phật từ lực tiếp dẫn
vãng sanh. Bất luận tu trì đã lâu hay mới tu, thậm chí kẻ tới lúc lâm
chung mới được bạn lành khai thị liền nhất tâm niệm Phật, dẫu chỉ niệm
được mười tiếng liền mạng chung thì cũng được vãng sanh. Ấy là vì
trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nguyện thứ mười tám là:
“Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu ta, chí tâm tin ưa, cầu sanh về nước
ta, thậm chí mười niệm, nếu chẳng được sanh, ta không giữ ngôi Chánh
Giác”.
Do nhân duyên ấy, kẻ thường ngày chẳng hề niệm Phật, lâm chung
được bạn lành khai thị, mọi người trợ niệm, cũng có thể vãng sanh.
Người thường niệm Phật nếu lúc lâm chung bị quyến thuộc vô tri tắm
rửa, thay quần áo sẵn, và hỏi han mọi chuyện, cũng như khóc lóc v.v…
Do những nhân duyên ấy phá hoại chánh niệm liền khó được vãng sanh.
Vì thế, người niệm Phật lúc thường ngày ắt phải bảo ban quyến thuộc
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 118
trong nhà đều niệm thì khi chính mình lâm chung bọn họ đều biết trợ
niệm.
Lại do thường nói lợi ích của trợ niệm khi lâm chung và những họa
hại do khóc lóc, bày vẽ mù quáng, họ sẽ chẳng đến nỗi vì lòng hiếu mà
khiến cho người thân vẫn phải hứng chịu nỗi khổ sanh tử lớn lao, sẽ
ngay trong đời này được hưởng lợi ích lớn lao vãng sanh Tây Phương.
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ ba - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4,
Những căn cứ để làm cho hết thảy mọi người niệm Phật được vãng sanh hay không
vãng sanh )
* Liễu sanh thoát tử là chuyện lớn nhất trong đời người. Pháp môn
Niệm Phật là một pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Pháp này trên đến
Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến tội nhân nghịch ác đều nên tu tập, đều có
thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương trong đời này. Công đức,
lực dụng của pháp này khác hẳn với hết thảy những pháp Đại Tiểu Thừa
đã được nói trong cả một đời đức Phật. Vì sao vậy? Do hết thảy các pháp
Đại Tiểu Thừa đều phải cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình
để liễu sanh thoát tử. Đừng nói là phàm phu đầy dẫy triền phược chẳng
thể liễu, ngay như bậc thánh nhân đã chứng Sơ, Nhị, Tam Quả vẫn
chẳng thể liễu được! Tứ Quả A La Hán mới liễu được! Đây là ước theo
phía Tiểu Thừa mà nói.
Nếu nói theo phía Viên Giáo, sở ngộ thuộc địa vị Ngũ Phẩm đã
bằng với Phật, nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc. Sau khi đã viên
mãn các tâm thuộc Ngũ Phẩm rồi, đoạn được Kiến Hoặc, liền chứng địa
vị Sơ Tín. Bồ Tát thuộc địa vị này, nếu xét trên phương diện đoạn Hoặc
thì giống như Sơ Quả trong Tiểu Thừa, nhưng công đức, trí huệ, thần
thông, đạo lực vượt trỗi Sơ Quả ngàn vạn ức ức lần. Cho đến khi viên
mãn tâm Lục Tín rồi, đoạn sạch Tư Hoặc, mới chứng Thất Tín; Bồ Tát
thuộc địa vị này mới liễu sanh tử. Liễu sanh thoát tử nào phải là chuyện
dễ! Do vậy, biết rằng cậy vào tự lực để liễu sanh tử khó lắm, khó như lên
trời! Bồ Tát thuộc địa vị Lục Tín còn chưa thể liễu, huống là phàm phu
đầy dẫy Hoặc nghiệp ư?
Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào đại từ bi nguyện lực của A Di Đà
Phật, bất luận già - trẻ, trai - gái, sang - hèn, trí - ngu, tại gia, xuất gia, hễ
có ai chịu sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, chí thành khẩn
thiết niệm thánh hiệu Phật thì trong đời này không một ai chẳng được
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 119
vãng sanh khi lâm chung. Trong cõi đời, người niệm Phật thì đông
nhưng ít kẻ vãng sanh là vì:
1) Chẳng tuân lời Phật dạy, miệng nói vãng sanh, tâm luyến trần
cảnh.
2) Chẳng dạy quyến thuộc niệm Phật và chẳng nói sẵn lợi ích của
việc trợ niệm và những họa hại do phô trương bày vẽ mù quáng: tắm
rửa, thay quần áo sẵn, hỏi chuyện, khóc lóc v.v… Đến khi lâm chung,
quyến thuộc chẳng những không trợ niệm mà trái lại còn phá hoại chánh
niệm. Thất bại lúc sắp thành công, chuyện [ma chay] vẫn tuân theo sự
thấy biết của thế tục, khiến cho người chết bị chìm đắm trong biển khổ
sanh tử, chẳng đáng buồn ư!
Ông Ngô Đình Kiệt vãng sanh được đắc lực là nhờ cả nhà trợ niệm.
Cả nhà có thể trợ niệm là do Huệ Trung đã quen nghe ông nói đến lợi ích
do trợ niệm và họa hại do bày vẽ mù quáng mà ra, khiến cho ông Đình
Kiệt được an tường qua đời trong tiếng niệm Phật. Mất rồi, mặt vẫn tươi
nhuận, tay chân duỗi thẳng, người cả một vùng thảy đều kinh dị. Đủ biết
Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh
tâm lực chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy chúng sanh đều sẵn có tâm lực
chẳng thể nghĩ bàn, do không có Phật lực, pháp lực gia trì, nên chỉ có thể
tạo nghiệp, chẳng thể thọ dụng được! Uổng sẵn có Phật tánh mà trọn
chẳng được lợi ích! Một mai nghe thiện tri thức chỉ dạy, quy mạng gieo
lòng thành, được cảm ứng đạo giao với lời thề từ bi của đức Phật, cậy
vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Nhìn lại sáu đường qua lại như
bánh xe “hết lên cao lại xoay xuống thấp”, khôn ngăn thương xót! (Hoằng
Hóa Nguyệt San số 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời
cư sĩ Dương Huệ Phương ở Độc Sơn)
* Tuy bà ta quy y với Quang, nhưng thật ra chỉ gặp mặt một lần,
Quang cũng chẳng nói với bà ta được mấy câu. Văn Sao, Gia Ngôn Lục,
chắc bà ta chẳng đến nỗi chưa xem, nhưng bà ta chỉ chú trọng lập đại
nguyện làm công đức nơi cõi này, chẳng chú trọng tới đại nguyện cầu
sanh Tây Phương. Vào lúc sắp mất, đã cùng với chị em mộng thấy Phật
quang, đài bạc, nhưng chẳng nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương
trong lúc ấy, lại ngược ngạo phát ra bốn đại nguyện để gieo trồng gốc
sanh tử.
Do vậy, có thể thấy là thường ngày bà ta trọn chẳng lấy những điều
Quang đã nói làm chí hướng, sự nghiệp. Bởi thế, đánh mất nhân duyên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 120
vãng sanh tốt đẹp, nhưng do được Bồ Tát gia bị mà khỏi bệnh, đến khi
do ác mộng hiện, bệnh theo đó mà phát, còn may mắn là khi lâm chung
có người trợ niệm. Nhưng do có lời nguyện trồng sâu cội rễ sanh tử ấy
nên đến nỗi hiện ra những điềm báo chẳng thể vãng sanh được, đáng
than thay! Ngực lạnh đi sau cùng chính là dấu hiệu chứng tỏ bà ta sanh
trong nhân đạo!
Ông nói [bà Lâm Đồng Vỹ] hiện thân thuyết pháp, há bà ta có thân
phận ấy hay sao? Nhưng do bà ta chẳng thể tận lực cầu sanh Tây Phương
mà bị lỡ làng, mọi người bèn lấy đó làm điều răn nhắc, quyết chí cầu
vãng sanh thì lợi ích ấy cũng chẳng kém gì hiện thân thuyết pháp! Còn
chuyện lập hội truy điệu là do tình cảm của anh em ông Địch Am, xét
theo lý thì chẳng nên làm, chỉ nên chú trọng dùng niệm Phật để cầu [cho
bà Lâm] được vãng sanh. Đối với chuyện niệm kinh, bái sám, làm đàn
Thủy Lục, Quang trọn chẳng chịu đề xướng một tiếng nào. Bởi lẽ, khó
được như pháp! Chỉ là bày vẽ phô trương mà thôi! (Hoằng Hóa Nguyệt San
số thứ 9 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Chí
Phạm -3)
* Hôm qua nhận được thư các ông, biết cha các ông bệnh hết sức
trầm trọng. Chớ nên làm theo cách si tâm vọng tưởng của thế gian, mà
hãy nương theo Phật pháp, dùng câu Nam-mô A Di Đà Phật để trợ niệm
và cầu cho cha: “Nếu tuổi thọ đã tận sẽ mau được đức Phật từ bi tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ chưa hết, sẽ mau được lành bệnh”.
Cha các ông tuổi đã ngoài bảy mươi, đang trong thời thế nguy hiểm
này, cả nhà hãy nên nhất tâm niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn cụ vãng sanh
Tây Phương. Nếu cụ tuổi thọ chưa hết, cũng sẽ do công đức trợ niệm mà
chóng được lành bệnh. Nhưng chớ nên chỉ cầu lành bệnh, chẳng cầu
vãng sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ của cụ đã hết, [cầu như thế] sẽ làm
hỏng đại sự.
Hãy vì cha các ông mà nhất tâm trợ niệm. Nếu cụ niệm được thì
niệm theo. Chẳng thể niệm, hãy [khuyên cụ] nhất tâm nghe các ông
niệm. Phàm những chuyện khẩn yếu thì phải hỏi han trước; chuyện
chẳng khẩn yếu đều nhất loạt chớ nên nhắc tới. Nếu có những cư sĩ chí
thành khẩn thiết, hãy nên thỉnh mấy vị cùng với các ông chia phiên trợ
niệm liên tục chẳng ngớt. Niệm mãi cho đến khi cụ tắt hơi vẫn cứ niệm
giống như thế. Niệm tiếp tục như vậy cho đến ba tiếng đồng hồ sau [khi
cụ tắt hơi] mới ngừng niệm.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 121
Hơn nữa, trước khi cụ chưa chết và lúc vừa mới tắt thở, đừng nên
lau rửa thân thể, thay áo, khóc lóc. Những hành vi ấy đều là lôi cụ xuống
biển! Người thế gian tưởng đấy là hiếu, nhưng [thật ra] đã phá hoại
chánh niệm khiến cho [người đã mất] chẳng thể vãng sanh, đâm ra bị
đọa lạc. Tội giống như giết cha mẹ, khẩn yếu đến cùng cực! (Hoằng Hóa
Nguyệt San số 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 3, Thư trả lời anh
em Ninh Sanh và Khai Sanh - 1)
* Nói ngày Ba Mươi tháng Chạp nghĩa là nói chuẩn bị sẵn, chứ
không phải là biết trước lúc mất sẽ nhằm ngày Ba Mươi tháng Chạp. Ba
Mươi tháng Chạp là ngày năm cùng tháng tận cho nên cổ nhân thường
mượn từ ngữ này để ví cho lúc chết. Nếu bình thường chẳng sớm chuẩn
bị sẵn, đến lúc ấy chắc chắn tay chân cuống quít. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Vương Đức Châu ở Vân Nam - 2)
3. Lâm Chung Tam Đại Yếu (Ba điều trọng yếu lúc lâm chung) (năm
Dân Quốc 19 - 1930)
Ðiều bi thảm nhất trong thế gian không chi bằng cái chết, nhưng
người trong khắp cả cõi đời, không một ai may mắn thoát được! Vì vậy,
người có tâm muốn lợi mình, lợi người, chẳng thể không sớm lo liệu!
Thật ra, một chữ CHẾT vốn chỉ là giả danh, do kỳ hạn của quả báo chiêu
cảm từ [các nhân] đời trước đã hết nên bỏ tấm thân này rồi lại thọ cái
thân khác vậy. Kẻ chẳng biết Phật pháp thì đúng là không tìm được cách
gì, chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển. Nay đã được nghe pháp môn
Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh của đức Như Lai thì phải nên tín nguyện
niệm Phật, sắp đặt sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được nỗi khổ
luân hồi sanh tử giả huyễn, chứng sự vui Niết Bàn thường trụ chân thật.
Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc phải bệnh nặng,
bệnh tình khó bề thuyên giảm, thì hãy nên phát tâm hiếu thuận, từ bi,
khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương và trợ niệm cho họ để mong
người bệnh nhờ vào đó sau khi chết liền được sanh về Tịnh Ðộ. Sự lợi
ích như thế làm sao diễn tả được? Nay tôi nêu lên ba điều trọng yếu để
làm căn cứ hòng thành tựu sự vãng sanh cho người lâm chung; lời lẽ tuy
thô vụng, quê kệch, nhưng ý vốn lấy từ kinh Phật. Gặp được nhân duyên
này, hãy đều nên làm theo. Ba điều trọng yếu vừa nói đó chính là:
- Một là khéo chỉ dạy, an ủi, khiến [người sắp mất] sanh chánh tín.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 122
- Hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho
người sắp mất].
- Ba là hết sức tránh dời động, khóc lóc, kẻo làm hỏng việc.
Nếu có thể tuân theo ba pháp này để hành thì chắc chắn sẽ tiêu trừ
được túc nghiệp, tăng trưởng Tịnh nhân (cái nhân để vãng sanh Tịnh
Độ), được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Hễ đã được vãng sanh
thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, dần dần tấn tu, ắt sẽ đạt
tới viên thành Phật quả mới thôi. Sự lợi ích như vậy hoàn toàn nhờ vào
sức trợ niệm của quyến thuộc. Có thể làm được như thế mới là chân hiếu
đối với cha mẹ, mới thật là chân đễ81 đối với anh em trai, chị em gái, mới
thật là chân từ đối với con cái, mới thật là chân nghĩa, chân huệ đối với
bằng hữu và đối với mọi người.
Dùng những điều ấy để vun bồi cái nhân Tịnh Ðộ của chính mình,
khơi gợi lòng tin tưởng của những đồng nhân, lâu ngày chầy tháng, đâu
có khó gì mà chẳng tập quen thành lề thói được? Nay tôi sẽ trình bày
từng điều một để chẳng đến nỗi có những điều không thích đáng lúc lâm
chung vậy.
a. Ðiều thứ nhất là khéo chỉ bày, an ủi, khiến cho [người sắp mất]
sanh chánh tín
Thiết tha khuyên người bịnh buông xuống hết thảy, [chỉ] nhất tâm
niệm Phật. Nếu như cần phải giao phó việc gì thì phải mau giao phó.
Giao phó xong bèn chẳng đếm xỉa đến nữa, chỉ nghĩ ta nay sắp theo Phật
vãng sanh cõi Phật; tất cả sự giàu sang, vui sướng, quyến thuộc thế gian,
các thứ trần cảnh đều là chướng ngại, thậm chí khiến ta mắc hại. Vì thế,
chẳng nên sanh một niệm quyến luyến, vướng mắc.
Phải biết: Một niệm chân tánh của chính mình vốn chẳng có chết. Sự
chết vừa mới nói đó chỉ là xả thân này để lại thọ cái thân khác mà thôi!
Nếu chẳng niệm Phật thì sẽ phải thuận theo nghiệp lực thiện, ác để lại
thọ sanh trong nẻo lành, đường dữ (Đường lành là trời - người. Đường ác là
súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. A Tu La vừa gọi là đường lành vừa gọi là đường ác vì
họ tu nhân cảm quả đều là thiện - ác xen tạp). Nếu như trong lúc lâm chung,
nhất tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật thì do tâm niệm Phật chí thành ấy,
81 Chân đễ: Tình thương yêu, hòa thuận thật sự đối với anh em.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 123
ắt quyết định cảm được Phật dấy lòng từ bi lớn lao, đích thân tiếp dẫn
khiến cho ta được vãng sanh.
Thêm nữa, đừng nghi rằng: Ta là nghiệp lực phàm phu, chỉ do niệm
Phật trong một thời gian ngắn, sao lại có thể thoát khỏi sanh tử, vãng
sanh Tây Phương? Nên biết rằng: Vì đức Phật đại từ bi nên dẫu là kẻ tội
nhân Thập Ác, Ngũ Nghịch rất nặng, lúc lâm chung tướng địa ngục đã
hiện ra, mà nếu có thiện tri thức dạy cho niệm Phật bèn niệm mười tiếng
hoặc chỉ một tiếng thì cũng được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương.
Hạng người ấy chỉ niệm mấy câu mà còn được vãng sanh, sao vẫn cho
rằng ta nghiệp lực nặng nề, niệm Phật ít ỏi để rồi sanh lòng nghi ư?
Phải biết: Chân tánh vốn sẵn có của chúng ta và chân tánh của Phật
chẳng hai; chỉ vì ta Hoặc nghiệp sâu nặng nên chẳng thọ dụng được!
Nay đã quy mạng nơi Phật như con nương về với cha, chính là trở về với
quê nhà ta vốn sẵn có, chứ nào có phải là điều gì vượt ra ngoài khả năng
của ta đâu!
Hơn nữa, xưa kia, đức Phật đã phát nguyện: “Nếu có chúng sanh
nghe danh hiệu của ta mà chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu
chẳng được vãng sanh thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Vì thế, hết thảy
chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí thành niệm Phật cầu sanh về Tây
Phương thì không một ai là chẳng được Ngài rủ lòng Từ tiếp dẫn. Ngàn
vạn phần chẳng được hoài nghi nữa! Hoài nghi tức là tự mình lầm lạc,
họa ấy chẳng nhỏ đâu!
Huống hồ, lìa khỏi thế giới khổ não này, sanh về thế giới vui vẻ kia
là chuyện hết sức sung sướng, hãy nên sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần
chẳng được sợ chết! Dẫu sợ chết vẫn chẳng thể không chết, lại còn đâm
ra mất phần vãng sanh Tây Phương nữa, vì tâm mình trái với tâm Phật
rồi! Dẫu Phật sẵn lòng đại từ bi cũng không làm thế nào được đối với
những chúng sanh chẳng nương theo lời dạy của Phật!
Vạn đức hồng danh của A Di Ðà Phật giống như lò luyện lớn lao; tội
nghiệp trong nhiều kiếp của chúng ta như một mảnh tuyết trong hư
không. Nghiệp lực phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt,
giống như mảnh tuyết ở gần bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết chẳng còn gì
nữa. Vả lại, huống chi nghiệp lực đã tiêu thì bao nhiêu thiện căn sẽ tự
nhiên tăng trưởng thù thắng; sao lại còn ngờ chẳng được vãng sanh và
Phật chẳng đến tiếp dẫn nữa ư?
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 124
Mềm mỏng, uyển chuyển chỉ dạy, an ủi như thế thì người bệnh sẽ có
thể tự sanh tâm chánh tín. Ðấy chính là những điều chỉ dạy cho người
bệnh. Còn như những chuyện do lòng tận hiếu chí thành mà chính ta
phải nên làm thì hãy chú trọng nơi những điểm ấy; chớ nên thuận theo
thói tục, van cầu thần thánh, tìm thầy chạy thuốc. Mạng lớn đã sắp hết
thì làm sao quỷ thần, thuốc men giữ cho người ấy khỏi chết được! Nếu
đã nhọc lòng vì những sự vô ích như thế thì lòng thành khẩn đối với một
sự niệm Phật sẽ bị xen tạp, không cách gì cảm thông [đức Phật] được!
Nhiều kẻ lúc cha mẹ lâm chung bèn chẳng tiếc tiền của, mời khá
nhiều thầy thuốc đến khám. Ðấy gọi là mua tiếng hiếu, muốn được
người đời khen ta tận hiếu đối với cha mẹ; nào hay trời đất, quỷ thần thật
sự xét soi [tường tận] nỗi lòng. Vì vậy, đối với những sự thuộc về
chuyện tống táng cha mẹ mà quá sức phô trương thì nếu chẳng mắc thiên
tai ắt cũng bị nhân họa. Kẻ làm con chỉ nên chú trọng những gì thần thức
của cha mẹ đạt được! Lời xưng tụng của người đời cố nhiên chẳng đáng
cho kẻ sáng mắt nhếch mép cười, lẽ đâu lại dốc lòng mong mỏi, thật chỉ
khiến cho ta mắc phải cái lỗi bất hiếu to lớn mà thôi!
b. Thứ hai là mọi người thay phiên nhau niệm Phật để giúp [cho
người chết giữ được] tịnh niệm
Trước đó, đã chỉ dạy người bệnh khiến cho kẻ ấy sanh chánh tín;
nhưng vì người bịnh tâm lực yếu ớt, đừng nói chi hạng người lúc còn
khỏe mạnh chưa bao giờ niệm Phật, chẳng dễ gì niệm liên tục lâu dài
được, ngay cả người một mực chuyên trọng niệm Phật đến lúc ấy cũng
hoàn toàn nhờ vào người khác trợ niệm thì mới có thể hữu hiệu. Vì vậy,
quyến thuộc trong nhà hãy nên cùng nhau phát tâm hiếu thuận, từ bi, vì
người ấy trợ niệm Phật hiệu.
Nếu bệnh tình còn chưa đến nỗi sắp chết vào bất cứ lúc nào thì nên
chia ban niệm Phật. Nên chia thành ba ban, mỗi ban hạn định mấy
người. Ban đầu tiên niệm Phật ra tiếng, ban thứ hai và thứ ba niệm thầm.
Niệm một tiếng đồng hồ thì ban thứ hai niệm tiếp; ban thứ nhất, ban thứ
ba niệm thầm. Nếu có chuyện nhỏ thì nên lo liệu trong lúc niệm thầm;
còn trong lúc trực ban trọn chẳng nên bỏ đi. Ban thứ hai niệm xong, ban
thứ ba niệm tiếp. Xong rồi liền trở lại từ đầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai
tiếng; [như vậy thì niệm] suốt cả ngày đêm thì cũng không mệt nhọc
lắm.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 125
Phải biết: Chịu giúp cho người khác đạt được Tịnh niệm vãng sanh
thì cũng sẽ được hưởng quả báo có người trợ niệm. Chớ có nói “chỉ vì
cha mẹ nên mới phải tận hiếu như vậy”, đối với người dưng cũng nên
vun bồi ruộng phước của chính mình, trưởng dưỡng thiện căn của chính
mình thì mới đúng là cái đạo tự lợi, chứ chẳng phải chỉ vì người khác mà
thôi! Thành tựu một người được vãng sanh Tịnh Ðộ chính là thành tựu
một chúng sanh làm Phật. Công đức như thế há thể nghĩ lường được ư?
Ba ban niệm liên tục, tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức bệnh
nhân niệm được thì nương theo đó niệm nho nhỏ theo. Chẳng thể niệm
nổi thì lắng tai nghe kỹ, tâm không có niệm gì khác sẽ tự có thể tương
ứng với Phật vậy. Tiếng niệm Phật chẳng nên quá to; niệm to sẽ hao hơi,
khó niệm lâu được; cũng chẳng thể quá nhỏ khiến cho bệnh nhân nghe
chẳng rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũng chẳng nên quá chậm. Quá
mau, bệnh nhân niệm theo chẳng nổi, dẫu có lắng nghe [tiếng niệm]
cũng khó nghe rõ. Quá chậm thì chẳng tiếp hơi nổi nên cũng khó có ích!
Hãy nên niệm chẳng lớn tiếng, chẳng nhỏ tiếng, chẳng rề rà, chẳng
gấp gáp; từng chữ phân minh, từng câu rành mạch, khiến cho từng chữ,
từng câu lọt tai thấu dạ bịnh nhân; như vậy thì dễ có sức [niệm theo].
Đối với pháp khí dùng để niệm Phật, chỉ nên dùng dẫn khánh, hết thảy
các thứ khác nhất loạt chẳng nên dùng. Tiếng dẫn khánh trong trẻo khiến
tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đục chẳng thích hợp cho
việc trợ niệm khi lâm chung.
Lại nữa, nên niệm Phật hiệu gồm bốn chữ. Lúc bắt đầu thì niệm vài
câu sáu chữ; rồi sau đó chuyên niệm bốn chữ A Di Ðà Phật, chẳng niệm
Nam Mô. Do ít chữ dễ niệm nên bệnh nhân sẽ niệm theo được hoặc
nhiếp tâm lắng nghe, đều đỡ tốn tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm
như vậy mà thỉnh thiện hữu bên ngoài đến thì cũng niệm như vậy. Dù
nhiều người hay ít người đều phải niệm như thế, chẳng nên niệm một
chốc lại ngưng nghỉ, rồi lại niệm khiến cho bịnh nhân niệm Phật gián
đoạn. Nếu gặp lúc ăn cơm thì nên ăn vào lúc thay phiên, đừng ngớt tiếng
niệm Phật. Nếu như lúc bịnh nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban nên cùng
niệm cho đến tận sau khi đã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt
ba tiếng đồng hồ nữa. Sau đấy, mới ngưng niệm để lo liệu, sắp đặt mọi
việc.
Trong lúc niệm Phật, chẳng để cho bè bạn đến trước bệnh nhân
thăm hỏi, vỗ về. Ðã có lòng đến thăm thì hãy theo đại chúng niệm Phật
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 126
mấy thời. Ấy mới là tấm lòng yêu mến chân thật, có ích cho bịnh nhân.
Còn nếu cứ theo thói tục thường tình thì chính là đã xô người ta xuống
biển. Tình ấy tuy đáng cảm, nhưng [để xảy ra] sự ấy thật đáng đau đớn.
Toàn là cậy vào người chủ chốt hiểu rõ đạo lý, bảo trước với người [đến
thăm] để khỏi tổn thương tình cảm, lại khỏi gây hại cho bệnh nhân bị
phân tâm chẳng được vãng sanh vậy.
c. Thứ ba là kiêng dè dời động, khóc lóc để khỏi làm hỏng đại sự
Lúc người bệnh sắp chết chính là lúc phân biệt giữa thánh, phàm,
người, quỷ, [tình trạng khác nào] ngàn cân [treo] đầu sợi tóc; quan trọng
cùng cực! Chỉ nên dùng Phật hiệu để hướng dẫn thần thức của người ấy,
trọn chẳng nên tắm rửa, thay áo, hoặc dời chỗ nằm. Mặc kệ [người ấy]
nằm - ngồi như thế nào, cứ để yên người đó trong tư thế ấy, chẳng nên
dời động chút nào. Cũng chẳng nên đối trước [người ấy] mà lộ vẻ buồn
bã, thương xót, hoặc đến nỗi khóc lóc. Vì khi đó, [người sắp chết] thân
chẳng tự chủ được; hễ lay động là toàn thân lẫn chân tay đều bị đau đớn
như bị bẻ, chặt, giằng xé. Hễ đau đớn thì sanh tâm sân hận nên [tâm]
niệm Phật bị ngưng dứt. Mang tâm sân hận ra đi, phần nhiều bị đọa vào
độc loại (những loài vật hung dữ, độc địa như rắn, bò cạp, rết…), đáng
sợ hãi quá sức! Nếu [người sắp chết] thấy [thân quyến] đau đớn, khóc
lóc thì tâm mến luyến phát sanh nên [tâm] niệm Phật cũng bị ngừng
nghỉ. Vì mang tâm ái luyến ra đi nên đến nỗi đời đời, kiếp kiếp chẳng
được giải thoát.
Lúc ấy, có lợi nhất thì không gì bằng nhất tâm niệm Phật; điều gây
hại nhất không chi bằng vọng động, khóc than. Nếu như vọng động,
khóc than đến nỗi [người chết] sanh lòng sân hận hay mến luyến thì dẫu
có muốn sanh Tây Phương, cả vạn trường hợp cũng chẳng được một!
Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút từ dưới rút lên trên là tướng
siêu thăng, còn [hơi nóng] từ trên rút xuống dưới là tướng đọa lạc. Vì
vậy, có thuyết:
Ðảnh thánh, nhãn thiên sanh
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc
Súc sanh tất cái ly,
Ðịa ngục cước bản xuất
Nhưng nếu mọi người chí thành trợ niệm thì [người chết] ắt tự có thể
sanh thẳng về Tây Phương; chẳng nên thăm dò nhiều lượt khiến cho khi
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 127
thần thức [người chết] chưa rời [khỏi xác], có thể sẽ do bị kích thích như
vậy mà tâm sanh phiền đau nên chẳng được vãng sanh. Lỗi lầm ấy thật
là vô lượng vô biên. Xin các thân hữu ai nấy đều khẩn thiết niệm Phật,
chẳng cần thăm dò xem hơi nóng cuối cùng bị lạnh đi ở chỗ nào. Kẻ làm
con hãy nên lưu tâm điều này mới là hiếu thật sự. Nếu cứ thuận theo các
tình cảm thông tục trong thế gian thì chính là xô người thân xuống biển
khổ chẳng thương xót, mong một lũ vô tri vô thức xúm lại khen ngợi ta
đã tận hiếu! Hiếu như vậy thì có khác chi là tình yêu của La Sát Nữ!
Kinh dạy: “La Sát Nữ ăn thịt người, bảo: „Vì ta yêu ngươi nên ăn thịt
ngươi!‟ Kẻ vô tri kia thể hiện lòng hiếu khiến cho người thân mất vui bị
khổ, há chẳng phải là giống hệt cái tình yêu người của La Sát Nữ hay
sao? Tôi nói ra lời này, chẳng phải là không đếm xỉa tình người, chỉ là
muốn cho ai nấy đều xét rõ sự thực, cốt sao người chết vãng sanh, kẻ còn
sống được phước, để thỏa tấm lòng thành sắt son của con hiền, cháu thảo
thương yêu người thân, chẳng ngờ lời lẽ dường như quá khích. Người
thương yêu cha mẹ thật sự ắt sẽ lượng thứ cho! (Ấn Quang Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lâm chung tam đại yếu)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 128
V. Miễn cư tâm thành kính (Khuyên giữ lòng thành kính)
* Một pháp Kính chính là căn bản để học đạo thế gian lẫn xuất thế
gian. Nếu chẳng trọng lòng kính, giữ lòng thành, dù có sở ngộ, vẫn
chẳng thể được lợi ích thật sự. Hễ rơi vào cuồng huệ, chắc chắn khó thể
sự lý viên dung. Thiên chấp lý tánh, chẳng trọng tu trì, tuy thấy Lý chẳng
lầm, cũng chẳng khác gì tà ma, ngoại đạo cho mấy! Huống chi đã chấp
Lý phế Sự thì cái Lý được ngộ cũng khó thể thích đáng.
Do vậy, nói: “Bất quý tử kiến địa, chỉ quý tử hành lý” (Chẳng quý
chỗ kiến địa của ông, chỉ quý chỗ ông thực hiện). Đấy chính là cái bẫy
sập lớn cho người thông minh trong cả cõi đời; chẳng mắc phải bệnh này
mới đáng gọi là thông minh. Nếu không, thông minh lại bị thông minh
làm cho lầm lạc, biến thành hạng người tự lầm, lầm người. (Ấn Quang Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Quách Trang Ngộ)
* Tôi thường nói: “Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, phải
cầu nơi cung kính. Có một phần cung kính liền tiêu được một phần tội
nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu được
mười phần tội nghiệp, tăng mười phần phước huệ”. Nếu chẳng cung
kính mảy may thì tụng kinh niệm Phật tuy chẳng phải là không được
mảy may lợi ích nào, nhưng trước hết phải chịu cái tội khinh nhờn, đọa
lạc trong tam đồ bao nhiêu kiếp! Tội trả hết rồi, sẽ nhờ vào nhân lành ấy
lại được nghe pháp, tu đạo, ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương,
liễu sanh thoát tử.
Nếu đời này cạn lòng thành, dốc hết lòng kính thì trong đời này sẽ có
thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh Tây Phương. Hễ được vãng
sanh bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn lìa các khổ,
chỉ hưởng những sự vui vậy! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
răn nhắc những người mới phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Chỉ có cung kính, chí thành mới hoàn toàn đạt được lợi ích thật sự
nơi Phật pháp. Ngoài ra, tùy theo lòng Thành lớn hay nhỏ mà được lợi
ích lớn hay nhỏ. Nếu chỉ phô trương, màu mè giả dối hầu sướng mắt
khoái tai người khác thì rất có thể lại phạm tội khinh nhờn. (Ấn Quang Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Trần Trọng Vi)
* Người thật sự tin tưởng Phật pháp thấy hết thảy các vị Tăng còn
kính lễ, huống gì đối với vị thầy quy y ban đầu ư? Nếu đích thân [đến]
quy y, phải dập đầu mấy chục lượt, quỳ hơn một tiếng đồng hồ. Dẫu nói
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 129
dễ dãi, không thăng tòa82 thì cũng phải dập đầu mười mấy lượt. Do xem
thư ông lời lẽ khá kiền thành, nên bỏ qua, nhưng vẫn phải nói rõ cho
ông, chứ không phải mong được ông cung kính, mà là muốn cho ông
biết Phật pháp tôn quý, ngõ hầu ông tự được lợi ích thật sự. Nếu cung
kính [tượng] đức Phật bằng đất nặn, gỗ khắc như đức Phật thật thì liền
có thể siêu phàm nhập thánh. Nếu coi là đất - gỗ y như cũ thì tội ấy
chẳng kham nói được! Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, nên
hướng đến sự cung kính mà cầu. Ông có thể hành theo đây thì lợi ích ấy
chỉ có đức Phật biết được. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời cư sĩ Hùng Huệ Dực)
* Chí thành niệm Phật, lợi ích ấy lớn lắm. Đời có kẻ ngu chẳng biết
vì sao Phật là Phật, thường chấp chết cứng lẽ cung kính, chẳng biết biến
- thông, [chẳng hạn] như ăn mặn thì chẳng dám niệm. Lại như nữ nhân
khi có kinh nguyệt hoặc sanh nở bèn chẳng dám niệm. Phải biết: Ăn
chay là tốt nhất, nhưng ăn mặn cũng vẫn niệm được. Có kinh nguyệt thì
hãy thường rửa ráy sạch sẽ, đừng dùng tay bẩn chưa rửa chạm vào kinh,
tượng và thắp hương v.v… Hễ rửa ráy sạch sẽ thì chẳng ngại gì.
Nữ nhân khi sanh nở phải niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” ra
tiếng, chắc chắn chẳng đến nỗi bị sanh khó. Dẫu bị sanh khó mà chịu chí
thành niệm Ngài, cũng chắc chắn sanh ngay. Điều này trước kia Quang
không nói, sau này nghe rất nhiều người hoặc mấy ngày mới sanh được,
hoặc phải mổ, hoặc do sanh nở mà chết, nên thường nói với hết thảy mọi
người: Nếu khi sanh nở mà niệm [Quán Thế Âm Bồ Tát] thì không ai bị
khó sanh!
Lúc bình thường ắt phải cung kính, khiết tịnh; còn lúc ấy (tức lúc
sanh nở) lõa lồ bất tịnh vốn là chuyện bất đắc dĩ, [là chuyện] có liên
quan đến tánh mạng. Chỉ cần trong tâm chí thành, chẳng cần phải luận
trên hình tướng bề ngoài. Nếu là lúc bình thường, ắt cần phải mũ áo tề
chỉnh, tay lẫn mặt đều sạch sẽ thì mới được niệm ra tiếng. Nếu không,
chỉ niệm thầm trong tâm thì công đức vẫn giống hệt như vậy. Vì thế, lúc
ngủ nghỉ, tắm rửa, tiêu tiểu, hoặc đến chỗ không sạch sẽ, đều niệm thầm
trong tâm.
82 “Thăng tòa” ở đây có nghĩa là vị pháp sư truyền giới lên pháp tòa, trước hết dạy
người muốn quy y sám hối, phát nguyện quy y Tam Bảo, đảnh lễ cầu giới, phát
nguyện thọ giới.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 130
Chỉ khi nữ nhân đang sanh nở thì cần phải niệm ra tiếng vì niệm
trong tâm thì tâm lực yếu, khó thể cảm thông. Nếu lại gắng sức, sợ bị
thương tổn. Vì thế, hãy nên niệm ra tiếng. Ông đã muốn quy y, nay đặt
pháp danh cho ông là Tông Từ. Tông (宗 ) là chủ, lấy tâm từ bi làm chủ
để làm chuyện tự lợi, lợi tha thì mới không uổng kiếp sống này, chẳng
phí dịp gặp gỡ này. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời một
cư sĩ ở Diêu Duy)
* Người học Phật ban đêm đừng ngủ trần truồng, phải mặc áo, quần
đùi, tâm thường như đối trước Phật. Ăn cơm chớ nên quá mức. Cơm
ngon đến đâu đi nữa, chỉ ăn đến tám chín phần [là tối đa]. Ăn mười phần
đã chẳng có ích cho người; ăn mười mấy phần ắt tạng phủ bị thương tổn.
Thường ăn như thế nhất định bị đoản thọ. Hễ ăn quá nhiều, tâm hôn
trầm, thân mỏi mệt, tiêu hóa chẳng kịp, ắt phải trung tiện. Chuyện trung
tiện là chuyện tệ nhất, là chuyện gây nên tội lỗi lớn nhất. Nơi Phật điện,
tăng đường, đều phải cung kính; như thắp hương chẳng qua để biểu lộ
tấm lòng, chứ xét rốt ráo ra, chẳng có loại nào đáng xem là hương cả!
Nếu ăn nhiều, vãi trung tiện hết sức hôi thối, khiến cho hơi thối ấy xông
sực Tam Bảo, tương lai ắt sanh làm loài giòi trong hầm phân. Chẳng ăn
quá mức sẽ chẳng phóng trung tiện!
Nếu như dùng chất lạnh, cảm thấy không ổn, hễ vô sự bèn đi ra chỗ
trống xả ra, đợi đến khi tan mùi lại quay vào trong nhà. Nếu có việc
chẳng ra ngoài được, hãy nên dùng sức kềm lại, chưa đầy một khắc nó sẽ
tan mất trong bụng. Có người nói chẳng phóng ra sẽ thành bệnh; lời lẽ
này còn nặng tội hơn chuyện phóng trung tiện, vạn phần chớ nghe theo!
Đức Phật chế giới luật chưa nhắc đến sự này; có lẽ cổ nhân thân thể khỏe
mạnh, lại không tham ăn, không có chuyện này, cho nên không nói đến.
Nếu có, ắt Phật phải nói. Chớ nói Phật không cấm cho nên cứ việc
phóng, đấy chính là tự cầu đọa lạc, Phật cũng khó cứu!
Khổng Tử dùng tư cách của bậc thánh nhân triều kiến bậc quốc quân
(vua một nước) phàm phu, khi sắp lên điện, ở dưới thềm, còn chẳng dám
thở mạnh, huống chi lúc đã vào điện gặp mặt vua! Vì thế, sách Luận
Ngữ chép: “Nhiếp tề thăng đường, cúc cung như dã. Bình khí, tự bất tức
dã” (Nâng vạt áo lên điện, khom mình như thế đó, nín hơi như không
thở) (Nhiếp 攝: Nâng. Tề 齊, đọc như Tư 咨83, nghĩa là vạt áo. Cúc 鞠: uốn cong.
Bình 屏: giấu kín. Tức 息: Hơi thở từ trong mũi. Khổng Tử triều kiến vua, lúc sắp
83 Âm Quan Thoại cùng đọc hai chữ này gần giống nhau.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 131
lên điện, trước hết đi khom mình. Do khom mình nên vạt áo trước dài hơn, cho nên
phải nâng hai mép vạt áo lên cách mặt đất khoảng chừng một thước mới chẳng đến
nỗi đạp lên áo, vấp té, thất lễ! Nghiêm túc đến cùng cực, cho nên hơi thở trong mũi
tựa hồ chẳng thoát ra. Hãy thử xem Ngài kiêng dè đến mức độ nào? Người đời nay
so với Khổng Tử kém xa lắm, vua khi ấy so với Phật lại kém thật xa nữa! Phóng
trung tiện so với thở ra lại càng khác xa lắm. Im lặng suy nghĩ, khác gì đại địa chẳng
có chốn dung thân, há chẳng cực lực lưu tâm ư?) Chúng ta là nghiệp lực phàm
phu ở trong Phật điện của bậc Thánh Trung Thánh, Thiên Trung Thiên
(thánh của các thánh, trời của các trời), nơi có đủ Tam Bảo, sao dám
chẳng kiềm chế, mặc tình trung tiện ư? Tội lỗi ấy lớn nhất không gì sánh
bằng!
Có lắm kẻ do chẳng xem nhiều trước thuật của cổ đức, nên tưởng là
cổ đức không nói đến. Chẳng biết cổ đức nói rất khéo, gọi đó là “tiết hạ
khí” (hơi rỉ ra từ bên dưới). Họ cũng chẳng hiểu câu đó có nghĩa là gì,
chẳng thèm để ý. Ba mươi, bốn mươi năm trước, Quang thường nói đến
chuyện này, về sau thử hỏi lại, người ta chẳng biết là chuyện gì! Do vậy,
tốt nhất cứ nói thẳng là “trung tiện”. Trong tuồng hát, hễ chửi người
khác nói buông tuồng bèn nói: “Lời ngươi nói như thả rắm”. Phàm có
chuyện gì kinh sợ, đều chẳng dám thở mạnh, làm sao còn đánh trung tiện
được? Do buông tuồng không kiêng dè, nên mới trung tiện! Chớ có nói
“nhắc đến chuyện trung tiện nghe không nhã”, thật ra, tôi vì muốn tạo
cách cứu người khỏi bị làm giòi trong hầm phân! (Ấn Quang Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư răn nhắc những người mới phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Sáng dậy và lúc đại tiểu tiện xong, phải rửa tay. Phàm sờ lên thân,
mò xuống chân đều phải rửa tay. Trong những tháng mùa Hạ, ống quần
chớ buông thùng thình, phải bó lại. Tùy tiện khạc đàm, hỉ mũi là chuyện
tổn phước lớn lắm! Đất Phật thanh tịnh, chẳng những trong điện đường
chẳng được khạc nhổ, hỉ mũi, mà ngay cả trên cuộc đất sạch phía ngoài
điện đường cũng chẳng nên khạc nhổ, hỉ mũi. Nhổ trên đất sạch sẽ tạo
thành vẻ dơ bẩn!
Có kẻ luông tuồng chẳng kiêng dè, khạc bừa ra đất hay khạc lên vách
trong phòng! Một gian phòng đẹp đẽ mà khắp đất, đầy tường toàn là
đàm. Kẻ ấy khạc đàm để ra vẻ hống hách, lâu ngày thành bệnh, hằng
ngày thường khạc; tinh hoa của đồ ăn thức uống đều biến thành đàm hết.
Nếu chịu nuốt đàm xuống, lâu dần sẽ không còn đàm nữa. Đấy là
cách hay nhất để dùng đàm diệt đàm. Nếu chẳng thể nuốt xuống, hãy
nên bỏ một cái khăn lau đàm trong tay áo, khạc lên đó xong lại bỏ vào
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 132
trong tay áo. Cách này cũng vừa mệt người, lại không sạch sẽ, chẳng
bằng nuốt xuống, vừa không mệt người, vừa chẳng ô uế, lại vĩnh viễn
không bị bệnh đàm. Đây là cách hay nhất để trị bệnh đàm. (Ấn Quang Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư răn nhắc những người mới phát tâm học Phật ở
quê tôi)
* Xem kinh luận và các loại sách vở chớ nên vội vã. Phải xem nhiều
lần, xem gấp rút sẽ chẳng thể ngưng lặng được, khó lòng thấu đạt ý chỉ.
Kẻ hậu sinh hơi thông minh, được một bộ kinh sách bèn quên ăn bỏ ngủ
để xem, coi một lần là xong liền. Lần thứ hai không còn hứng thú xem
nữa. Dù có xem, cũng giống như vẻ mất hồn ngơ ngẩn. Những loại
người này đều chẳng thể thành tựu, hãy nên tận lực ngăn ngừa! Tô Đông
Pha nói: “Cựu thư bất yếm bách hồi độc. Thục độc thâm tư tử tự tri”
(Sách cũ trăm lần xem chẳng chán; đọc kỹ, nghĩ sâu ắt tự biết).
Khổng Tử là bậc thánh nhân thông minh thiên phú còn đọc kinh Dịch
đến độ ba lần đứt lề sách. Với tư cách của Khổng Tử, vừa qua mắt liền
thuộc lòng, cần gì phải nhìn vào văn để đọc nữa? Do vậy, ta biết: Nhìn
vào văn có điểm rất tốt. Đọc thuộc thì phần lớn là miệng đọc qua trơn
tru, còn xem văn thì mỗi chữ, mỗi câu đều biết được chỉ thú. Chúng ta
nên học theo cách này, chớ nên tỏ vẻ chính mình thông minh, chuyên
đọc thuộc lòng. Thời Khổng Tử không có giấy. Phàm là sách thì được
viết trên tấm gỗ hoặc viết trên thẻ tre (trúc giản 竹簡 , tức là thẻ bằng
tre). Sáu mươi tư quẻ Dịch do Phục Hy84 vạch ra. Phần Thoán85 mở đầu
sáu mươi bốn quẻ do Văn Vương soạn. [Ý nghĩa của] sáu hào trong mỗi
quẻ do Châu Công định ra. Ngoài ra, phần Thoán Truyện, Tượng Truyện
của Thượng Kinh, phần Thoán Truyện, Tượng Truyện của Hạ Kinh và
phần Văn Ngôn của hai quẻ Càn Khôn, Hệ Từ Thượng Truyện, Hệ Từ
84
Phục Hy: Còn được gọi là Bào Hy, hoặc Thái Hạo, theo truyền thuyết sống vào
khoảng 8.000 hoặc 7.500 trước Công Nguyên, là một trong ba vị thánh vương (Tam
Hoàng, tức Phục Hy, Hoàng Đế, Thần Nông) của Cổ Trung Hoa. Ông và bà Nữ Oa
(có thuyết nói họ là anh em, nhưng thường được hiểu là vợ chồng) được coi là thủy
tổ của nhân loại trong văn hóa Hoa Hạ. Theo đó, cả ông và Nữ Oa đều có nửa thân
dưới là rắn. Ông ta đóng đô tại Uyển Khưu (nay là huyện Hoài Dương, tỉnh Hà
Nam). Theo thần thoại, Phục Hy lên đàn hình vuông, nghe tiếng gió thổi đến từ tám
phía, bèn nghĩ ra Bát Quái.
85 Trong Kinh Dịch, mỗi quẻ có một lời giảng tổng quát ý nghĩa của quẻ ấy gọi là
Thoán (彖). Lời giải thích ý nghĩa mỗi một Hào (爻, tức một vạch liền hoặc đứt)
trong một quẻ gọi là Hào Từ (tương truyền do Châu Công soạn).
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 133
Hạ Truyện, Thuyết Quái Truyện, Tự Quái Truyện, Tạp Quái Truyện86,
được gọi chung là Thập Dực, đều do Khổng Tử biên soạn. Nếu chỉ xét
theo số lượng chữ thì phần biên soạn của Khổng Tử gấp mười mấy lần
phần trước tác kinh Dịch của Văn Vương, Châu Công. Nhưng Khổng Tử
đọc kinh Dịch của Văn Vương, Châu Công, rốt cuộc đến nỗi dây buộc
sách bằng da thuộc bị mòn đứt ba lần, đủ biết số lần đọc chẳng thể tính
đếm xuể! Chúng ta hằng đọc kinh Phật, trì Phật danh giống như Khổng
Tử đọc kinh Dịch ắt sẽ có thể dùng lời Phật, phẩm đức của Phật mà un
đúc cái tâm nghiệp thức của chính mình trở thành trí huệ tạng của Như
Lai. Pháp tắc để chuyên tu Tịnh Độ gồm có Tịnh Độ ngũ kinh, Tịnh Độ
Thập Yếu và các trước thuật Tịnh Độ, ở đây không ghi đầy đủ nữa! (Ấn
Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư răn nhắc những người mới phát tâm
học Phật ở quê tôi)
* Phan Mậu Xuân đã muốn quy y, tự viết thư xin, sao chẳng có lấy
một lời khẩn cầu, mà cũng chẳng có chữ nào tỏ vẻ nhún nhường? Nếu
bảo là ông ta không biết thì ông cũng không biết hay sao? Trong thế
gian, đi đường muốn hỏi lối nơi người khác, còn phải chắp tay tỏ vẻ
cung kính, huống gì quy y Tam Bảo, muốn nhờ vào đó để liễu sanh thoát
tử, rốt cuộc lại xem như chuyện đối xử với người bình thường thì thật là
không thông hiểu sự việc quá sức! Quang nói lời này không phải là
mong được người khác cung kính, mà là về lý thì phải nên như thế. Nếu
86 Kinh Dịch được chia thành hai phần: Thượng Kinh gồm 30 quẻ đầu, Hạ Kinh gồm
34 quẻ sau. Thập Dực (十 翼) có nghĩa là mười cái cánh. Đa phần các nhà chú giải
cho rằng: Phần Thoán và phần Hào giống như con chim đã trọn vẹn hình rồi, thêm
Thập Dực như chắp cánh thêm lông cho con chim được thêm toàn vẹn. Thời cổ, chữ
Truyện có nghĩa là lời giải thích kinh điển. Thoán Truyện là lời giải thích cho rõ ý
nghĩa phần Thoán Từ. Tượng Truyện là phần giải thích ý nghĩa của Tượng được biểu
thị bởi mỗi quẻ (Đại Tượng), phần giải thích tượng của mỗi hào gọi là Tiểu Tượng.
Theo cụ Nguyễn Hiến Lê, Tượng (象) có nghĩa là hình thái, như câu “tại thiên thành
tượng, tại địa thành hình” (trên trời thành tượng, dưới đất thành hình); nó còn có ý
nghĩa là biểu tượng như câu “Thiên thùy tượng, kiến cát, hung; thánh nhân tượng
chi” (Trời hiện ra hình tượng, thấy điềm lành, điềm dữ, thánh nhân phỏng theo đó
lập nên biểu tượng). Hệ Từ truyện thường được hiểu là phần giải thích chung cho
mỗi quẻ và hào. Văn Ngôn Truyện là phần giảng về lời kinh văn, nhưng chỉ chú
trọng vào ý nghĩa hai quả Thuần Càn và Thuần Khôn. Thuyết Quái Truyện giảng về
ý nghĩa tám quẻ đơn (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Tự Quái
Truyện giải thích về thứ tự các quẻ (lý do tại sao lại sắp các quẻ theo thứ tự đó). Tạp
Quái Truyện giải thích linh tinh về một số quẻ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 134
không nói, suốt cả đời ông ta cũng chỉ là một người không hiểu chuyện
vậy.
Hoàng đế Thuận Trị nhà Thanh lễ Ngọc Lâm thiền sư làm thầy, được
đặt pháp danh là Hành Si. Vua viết thư cho đồ đệ của ngài Ngọc Lâm là
Hành Sâm, còn ký tên là “pháp đệ Hành Si hòa-nam”. Hòa-nam
(Vandanam) là rập đầu vậy. Hoàng đế đối với đồng môn còn như thế,
huống là đối với thầy ư? Quy củ thơm thảo ấy há nên chẳng biết ư? Cổ
nhân nói: “Hạ nhân bất thâm, bất đắc kỳ chân” (Chẳng hạ mình trước
người thật sâu, chẳng đạt được lẽ thật); chứ không nói: “Thâm hạ ư
nhân, nhân tắc tận tâm giáo đạo” (Hạ mình trước người thật sâu, người
ta sẽ tận tâm dạy dỗ). Bởi lẽ chính mình chẳng thể sanh tâm cung kính,
dù người ta có chịu dạy, nhưng trong tâm chính mình có những điều
ngạo mạn gây chướng, sẽ chẳng được lợi ích! Ví như trên đỉnh núi cao
chẳng đọng một giọt nước, nên [cây cối] chẳng thể sum xuê được!
Không riêng gì học Phật phải như thế, mà ngay cả học lấy một tài, một
nghề trong thế gian cũng phải như thế. [Nghề nghiệp] trong thế gian chỉ
là cách kiếm sống bằng thân hay bằng miệng, còn Phật pháp chính là
nguồn cội của Tánh đạo. Mối quan hệ nặng - nhẹ cố nhiên khác biệt vời
vợi một trời một vực. Xin hãy đem lời này đưa cho ông ta xem.
Nhưng tôi nay chỉ quan tâm đến cái tâm, chẳng quản đến vẻ ngoài,
đặt pháp danh cho ông ta là Huệ Mậu. Nghĩa là dùng trí huệ để mình tự
cố gắng, khuyến khích người khác, khiến cho ai nấy đều giữ vẹn luân
thường, tận hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành, sanh tín phát nguyện, niệm thánh hiệu của
Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Làm được như thế thì
chính là đệ tử thật sự của đức Phật. Nếu không, chỉ có cái tên, chẳng
được lợi ích thật sự. Những điều khác đã nói tường tận trong bộ Gia
Ngôn Lục, ở đây không viết cặn kẽ! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Vương Thọ Bành - 2)
* Đã biết hổ thẹn sám hối, cớ sao vẫn hành động y như cũ, ác chẳng
thấy giảm, thiện chẳng thấy tăng vậy? Không có chi khác cả! Vì tâm
chẳng chí thành vậy! Nếu tâm lấy chí thành làm chủ, lẽ nào biết rồi mà
vẫn cố phạm? Biết mà tâm vẫn cố phạm là vì tâm thật ra chẳng có lòng
thành khẩn, quyết định đổi lỗi hướng thiện mà ra! Chính ông đã muốn
làm hiền nhân, thiện nhân thì tự có thể xa lìa tập khí ác. Kẻ chẳng thể xa
lìa [tập khí ác] là vì tâm chẳng quyết định; nếu hời hợt, chơi vơi, chần
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 135
chừ, khinh mạn, sẽ khó tránh khỏi quay về đường cũ! (Ấn Quang Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Kim Ích Bình - 2)
* Nếu ông chịu sốt sắng tự suy xét tội lỗi của chính mình, cần chi
tôi phải nói nhiều? Nội hai chữ Tông Thành đã bao quát sạch cả rồi! Con
người nếu tâm không hư ngụy, chắc chắn chẳng đến nỗi không chịu sửa
lỗi hướng lành. Ví như ta thật sự biết kẻ nào muốn hại ta, dù hắn có lắm
lời ngon lẽ ngọt dụ dỗ, chắc chắn ta chẳng để hắn gạt rồi giao phó tánh
mạng. Chịu bị lừa chính là kẻ chẳng biết tốt - xấu! Đã có kẻ đối đầu lớn
lao liên quan đến tánh mạng, sao còn chịu để cho hắn lừa? Đấy gọi là
“cầu người khác nói ra phương cách mầu nhiệm để bảo vệ thân mạng
cho ông”, có ích lợi gì đâu? (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Kim Ích Bình - 2)
* Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu
Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy
có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng
thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại
như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng
thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.
Lại phải cạn lòng thành, tột lòng kính, sanh tín, phát nguyện, niệm
Phật cầu sanh Tây Phương để tu pháp xuất thế gian. Trong thế gian, học
một tài, một nghề, đều phải dốc hết toàn bộ tinh thần thì mới có thể
thành được. Nay là phàm phu sát đất, lại muốn ngay trong đời này siêu
phàm nhập thánh liễu sanh thoát tử, há chẳng phát khởi mạnh mẽ chí
hướng lớn lao nâng cao tinh thần mà thành được ư? (Ấn Quang Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 1)
* Chuyện trong thiên hạ đều lấy lòng Thành làm căn bản. Lòng
Thành đến mức cùng cực thì đá - vàng cũng phải nứt. Thành tích, hiệu
quả thật sự đều cậy vào lòng Thành. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ,
Lời răn dạy khích lệ các học trò ghi sau cuốn Quy Ước của Cô Nhi Viện Phật giáo
chùa Pháp Vân)
* Muốn mai sau được thành tựu thì phải lập chí hành sự từ ngay bây
giờ, cần phải trung hậu, siêng năng, cẩn thận, khiêm cung, hòa thuận,
tâm và miệng như một, những gì được biểu lộ ra ngoài chẳng khác
những gì ẩn kín trong lòng, thường giữ lòng hổ thẹn, đừng tự kiêu căng,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 136
sáng - tối chí thành niệm Phật để mong tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng
thiện căn, chuyện gì cũng lấy lòng Thành làm gốc, niệm niệm thường tự
soi xét tự tâm (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời răn dạy khích lệ các
học trò ghi sau cuốn Quy Ước của Cô Nhi Viện Phật giáo chùa Pháp Vân)
* Các pháp thế gian và xuất thế gian không gì chẳng lấy lòng Thành
làm gốc. Những người tu hành càng phải nên chí thành. Hễ có lòng
Thành thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng. Phàm lúc tụng
kinh, ắt phải dứt bặt lo nghĩ, vọng duyên, nhất tâm tịnh niệm như đối
trước thánh dung, đích thân nghe viên âm, chẳng dám manh nha chút
niệm lười nhác, coi thường! Lâu ngày chầy tháng sẽ tự ngầm thông Phật
trí, thầm hợp đạo mầu. Ví như ánh nắng Xuân vừa chiếu đến, băng cứng
tự tiêu tan. Lòng Thành đến mức cùng cực sẽ hoát nhiên thông suốt. Đấy
chính là cách hay nhất để xem kinh, niệm Phật. Bà có thể suốt đời hành
theo cách này thì lợi ích sẽ chẳng thể nào diễn tả được! (Ấn Quang Văn Sao
Tục Biên, quyển Hạ, Đôi lời đề tựa cho cuốn A Di Đà Kinh của nữ sĩ Vương Tông Ý)
* Nay gởi cho ông Một Bức Thư Trả Lời Khắp và hai gói kinh sách
gồm Tịnh Độ Ngũ Kinh, Thập Yếu, Văn Sao v.v… Nếu chịu lắng lòng
đọc kỹ, ắt sẽ có thể biết rõ tông chỉ Tịnh Độ, nhưng cần phải cung kính,
đừng nên đọc theo kiểu đọc sách Nho, trọn chẳng cung kính gì! Nhà Nho
chẳng kính trọng sách nên cõi đời loạn lạc không ngơi. Nếu nhà Nho
kính trọng sách thì hễ là người đọc sách đều là hạng mong thành thánh
thành hiền, đâu đến nỗi loạn lạc cùng cực như thế này? Đọc kinh sách
trong Phật pháp ắt phải tay sạch, bàn sạch, ngồi ngay ngắn như đối trước
đức Phật, đích thân nghe viên âm. Nếu làm được như thế, thì nghiệp
chướng ngày một tiêu, trí huệ ngày một tăng trưởng. (Hoằng Hóa Nguyệt
San số 12 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Phí Sư
Mẫn)
* Kệ hồi hướng lễ niệm Quán Âm Bồ Tát
Kính lạy Quán Thế Âm, từ bi đại đạo sư, chứng vô thượng đã lâu, an
trụ Thường Tịch Quang. Vì thương chúng sanh khổ, lại hiện thân mười
cõi, nên dùng thân nào độ, liền hiện ngay thân ấy. Gần là sanh đường
lành, xa là chứng Bồ Đề. Bồ Tát từ bi lực, chư Phật thuật chẳng trọn. Đệ
tử con tên là… từ vô thủy đến nay, do bởi sức ác nghiệp, luân hồi trong
sáu nẻo, trải qua trần sát kiếp, không cách nào thoát lìa, may nhờ túc
thiện căn, được nghe tên Bồ Tát, muốn nương sức từ bi, đời này sanh
Tịnh Độ. Xưng thánh hiệu dài lâu, kiêm lễ bái, cúng dường, sám hối các
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 137
ác nghiệp, tăng trưởng các thiện căn. Nguyện rủ lòng từ mẫn, tiêu diệt
các tội chướng, phóng quang chiếu thân con, duỗi tay xoa đầu con, cam
lộ rưới đỉnh con, gột phiền cấu tâm con, khiến cho thân tâm con, đều
được thanh tịnh cả. Con nguyện hết thân này, đến tận kiếp vị lai, nguyện
bảo khắp chúng sanh, ân đức của Bồ Tát, khiến họ đều quy y, đều phát
tâm Bồ Đề. Nguyện rủ lòng từ mẫn, chứng minh và nhiếp thọ. (Hoằng
Hóa Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 3, phần Kệ
Tụng)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 138
VI. Khuyến chú trọng nhân quả (Khuyên coi trọng nhân quả)
1. Luận định lý nhân quả
* “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian xuất thế
gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Nếu không có nhân quả,
thiện sẽ không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, há còn bàn đến
chuyện “làm sáng tỏ Minh Đức để đạt đến chí thiện, đoạn Phiền Hoặc,
chứng Bồ Đề” nữa ư? Do vậy, những ai biết có nhân quả ắt sẽ hướng
lành, lánh dữ, sửa lỗi hướng thiện, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ
lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, ngõ hầu
được dự vào bậc thánh, mong lên được cõi Cực Lạc. Bậc thượng bèn yên
vui mà làm, bậc trung bèn vì lợi mà làm, bậc hạ bèn miễn cưỡng làm,
đều cùng trừ khử được vật dục để tỏ lộ lương tri, thoát đường mê, lên bờ
giác.
Vì vậy, biết thánh hiền, Phật, Bồ Tát tham dự, giúp đỡ cho đạo sanh
thành, dưỡng dục, xét từ cội nguồn đến kết thúc chẳng ngoài hai chữ
“nhân quả”; đấy là căn cứ lớn lao khiến cho thiên hạ xưa nay thanh bình
hay loạn lạc, vững vàng hay nguy ngập và [để được] yên thân, giác ngộ
cõi đời, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu muốn vãn hồi thế
đạo, lòng người, mà bỏ đi việc đề xướng nhân quả báo ứng, dẫu cho
người ấy học thức, đạo đức, thần thông, trí huệ ngang bằng thánh hiền,
Phật, Bồ Tát vẫn chẳng làm gì được, huống là những kẻ kém cỏi hơn ư?
Người đời thường tưởng nhân quả diệt mất không dấu vết, thường
hay coi thường, chẳng chịu suy xét sâu xa. Đối với những thứ [nhân quả]
rõ ràng dễ thấy, có thể có những thứ nhân quả khác xen lẫn vào khiến
cho họ khó thấy được sự báo ứng; phàm phu mắt thịt chẳng biết nguyên
do, bèn bảo “thiện ác đều rỗng không, chẳng có nhân quả!” Do vậy, cậy
vào thiên kiến của chính mình, tưởng [cách nhìn ấy] là đích xác, không
lầm lẫn, coi lời của thánh hiền, Phật, Bồ Tát đều là hoang đường, vô căn
cứ, chẳng đáng noi theo! Từ đấy, phô phang tà kiến của chính mình, lầm
lạc khoe khoang là bậc thông gia, lập ra những nghị luận tự lầm, lầm
người. Do một đồn thành nhiều, biến đổi tận gốc càng thêm tệ hại, đến
nỗi ào ạt biến thành những thảm kịch “phế kinh điển, phế luân thường,
bỏ lòng hiếu, mặc kệ lòng hổ thẹn, tranh thành, đoạt đất, tàn sát lẫn
nhau” mỗi mỗi đều diễn ra, đến nỗi thiên tai nhân họa giáng xuống hằng
ngày, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Xét đến cội nguồn, nói
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 139
chung là do chẳng biết nhân quả báo ứng mà ra! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ)
* Tống Nho nói: “Phật dùng nhân quả báo ứng, luân hồi sanh tử để
dụ dỗ, mê hoặc kẻ ngu tục; chẳng biết con người do bẩm thụ khí trời đất
mà sanh, đến khi đã chết rồi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu
tán. Dẫu có hình phạt, lấy gì để thi thố đây?” Họ lầm lạc tưởng chết đi là
diệt mất vĩnh viễn, trở thành đại tà kiến. Từ một truyền ra nhiều, di hại
cho đời sau, rất trái nghịch đạo “nguyên thủy phản chung, cố tri sanh tử
chi thuyết87” (truy xét đến tận nguồn gốc ban đầu cho nên hiểu được lời
nói về sanh tử) và ý nghĩa “tinh khí vi vật, du hồn vi biến, cố tri quỷ thần
chi tình trạng88” (tinh khí là vật, du hồn biến đổi; từ đó biết được tình
trạng của quỷ thần) của thánh nhân. Do vậy, phường gian tà dám làm ác,
vì hễ chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất, Nghiêu hay Kiệt đều chết sạch cả, sao
còn khư khư giữ chừng mực, chịu đựng ràng buộc, đến nỗi uổng công
nhọc nhằn cả đời! Sao không buông lung tình ý, mặc lòng thích gì cứ
làm để hưởng hạnh phúc tự do tự tại ư? Bởi đấy, thiện không có gì để
khuyên, ác chẳng có gì để phạt, đây - kia bắt chước nhau đến nỗi trở
thành hiện tượng phế bỏ kinh điển, phế bỏ luân thường!
87 “Nguyên thủy phản chung”: Phản là suy ngược lại, tìm đến tận cội nguồn. Pháp sư
Nguyệt Khê giảng: “Nguyên thủy phản chung là truy ngược lại cái nguồn để biết
sanh ra từ đâu, quay ngược lại xem xét chỗ kết thúc để biết vì sao chết”. Giáo sư Cái
Kiến Dân lại giảng “nguyên thủy phản chung” là truy xét đến tận nguồn gốc sự vật
từ ban đầu cho đến kết thúc. Tổng hợp hai cách giải thích này thì “nguyên thủy phản
chung” là cách suy luận dựa trên tình trạng nguyên sơ của sự vật và tình trạng lúc
chung cục của chúng để quy nạp lại mà phán đoán, nhận định.
88 Theo chương Nội Nghiệp trong sách Quản Tử thì “tinh khí” phải hiểu là “hồn
thần”. Trịnh Huyền giảng câu “Tinh khí vi vật, du hồn vi biến” như sau: “Tinh khí là
thần, du hồn là quỷ”. Tức là: Quỷ thần là hình thái do tinh khí biến hóa ra. Sách Lễ
Ký cũng giảng: “Thể phách tụ xuống đất thành quỷ, bốc lên không thành thần.
Những thứ này có tri giác, hưởng thụ nhân gian cúng tế”. Hàn Khang Bạch đời Tấn
còn đi xa hơn, chú giải rằng: “Khí tụ lại hiển hiện thành vật chất là Thần, phân tán,
ẩn kín thì gọi là Hồn”. Trang Tử, Liệt Tử đều cho rằng Tinh Khí phải hiểu là hình
hài thể chất (do đó về sau Đạo Gia chủ trương con người gồm ba phần là Tinh - Khí -
Thần), còn du hồn (linh hồn lãng đãng vô định) chính là tinh thần. Nói cách khác,
đạo Nho, đạo Lão thừa nhận con người gồm hai phần là tinh thần và vật chất, vật
chất (tức thể xác) có biến đổi, hư hoại, nhưng tinh thần còn tồn tại. Thế mà Tống
Nho lại chủ trương con người chết đi, thể xác đã diệt mất, thần hồn cũng phiêu tán,
không còn đời sau nữa!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 140
Trong ý bọn họ (tức bọn Tống Nho), cứ sợ đề xướng nhân quả báo
ứng, sanh tử luân hồi, con người đa số sẽ theo về đạo Phật, nên mới đặc
biệt xướng ra chuyện bài xích để ngăn chặn hòng con người không cách
nào tiến nhập đạo Phật được, ngõ hầu Nho Giáo hưng thịnh, vĩnh viễn
không bị suy sụp. Nào biết là đâm ra khiến cho đạo thánh nhân do vậy bị
diệt mất, chẳng đáng buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Hạ, Lời tựa cho tác phẩm Chánh Học Khải Mông Tam Tự Tụng Tề Chú)
* Lòng người suy hãm, chánh đạo khó nghe lắm thay! Con người
tánh vốn lành, sẵn có Minh Đức, nhưng vì không có người chỉ dạy nên
tối tăm chẳng biết. Nhưng có kẻ được chỉ dạy càng thêm mê muội, đến
nỗi suốt cả đời chẳng được nghe chánh đạo. Vì thế, Khổng Tử nói:
“Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ!” (Sáng nghe đạo, tối chết cũng được); đủ
thấy cõi đời kẻ sống uổng chết phí nhiều lắm thay! Ấy là vì đạo ở gần lại
cầu nơi xa, sự tuy dễ mà lại cầu nơi khó. Kẻ giảng giải đạo học toan làm
sáng tỏ đạo của thánh nhân, lại ngược ngạo làm cho tâm thánh nhân bị
tối tăm che lấp là vì chẳng khởi sự từ cội rễ, cứ dốc sức nơi nhánh ngọn,
lại còn tưởng cội rễ là nhánh ngọn, tưởng nhánh ngọn là cội rễ. Tuy
muốn thành ý chánh tâm, nhưng chẳng chú trọng trừ sạch món vật tư dục
trong tâm thì cái tâm này đã bị món vật tư dục che lấp, nên tri kiến đều
lấy tư dục trong tâm làm chuẩn mực. Như kẻ yêu vợ thương con, dù vợ
con tồi tệ đến đâu đi nữa vẫn cứ cảm thấy là tốt, trọn chẳng biết là tồi tệ.
Do tâm chìm đắm trong tình yêu thì sẽ không có chánh tri chánh kiến.
Nếu trừ sạch được tư dục yêu thương thì vợ con tốt hay xấu sẽ như
gương hiện bóng, tốt - xấu thấy ngay lập tức.
Tư dục đã không có thì chân tri sẽ tự hiện, ý chẳng mong thành mà tự
thành, tâm chẳng mong chánh mà tự chánh, thân chẳng mong tu mà tự
tu! Tri chính là Minh Đức, còn “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu
thân” chính là công phu để làm sáng tỏ Minh Đức vậy. Đầy đủ năm điều
này thì Minh Đức sẽ sáng tỏ, sau đấy sẽ chú trọng tề gia, trị quốc cho
đến thân dân89 để ở yên nơi chí thiện vậy. Sự lý nhân quả ba đời, luân
hồi sáu nẻo trong kinh Thi, kinh Thư, kinh Dịch cũng như Sử Ký, Hán
Thư đều đã có ghi, chẳng qua chưa thể nói tường tận nguyên do đấy
thôi! Có những chuyện ấy thì kẻ [căn cơ] hạng trung hạng hạ sẽ biết
“làm lành sẽ được điều lành giáng xuống, làm điều chẳng lành, tai ương
89 Theo Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích, chữ Thân (親) trong “thân dân” đúng ra phải
đọc là Tân (新) vì thời cổ không phân biệt giữa chữ Thân và Tân. Theo sách ấy,
“thân dân” là làm cho dân chúng ngày một đổi mới, tiến bộ không ngừng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 141
sẽ giáng xuống”. Đã có những điều mong mỏi, hâm mộ, có những điều
sợ hãi [như vậy] thì chẳng muốn “thành ý chánh tâm, mong mỏi thiện
báo” cũng không thể được, vì sợ ác báo mà chẳng dám làm [chuyện ác].
Nay có kẻ cho rằng “sự lý nhân quả luân hồi ấy là do đức Phật bịa ra
để gạt gẫm ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật ra
chẳng có chuyện ấy”. Lại còn cho rằng: “Con người chết đi thần hồn diệt
mất, còn ai để chịu hình phạt và thác sanh? Hễ chết sẽ vĩnh viễn diệt
mất, Nghiêu lẫn Kiệt đều chết sạch”. Do vậy, thiện không có gì để
khuyên, ác không có gì để phạt, đến nỗi ùa nhau phế kinh điển, phế luân
thường, thực hành biến con người thành loài thú, chẳng đáng buồn ư?
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho tác phẩm Chánh Học
Khải Mông Tam Tự Tụng Du Chú)
* “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để
Phật độ thoát chúng sanh”. Luận theo Phật pháp, từ địa vị phàm phu
cho đến Phật Quả, tất cả các pháp đều chẳng ra ngoài nhân quả. Luận
theo thế gian, lẽ đâu riêng một pháp nào lại chẳng như thế? Vì thế
Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch90, thoạt đầu liền nói: “Tích thiện chi
gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích
thiện sự vui mừng có thừa, nhà chất chứa điều bất thiện tai ương có
thừa). “Tích thiện, tích bất thiện” là nhân, “dư khánh, dư ương” là quả.
Hơn nữa, đã có dư khánh, dư ương, lẽ đâu chẳng có bổn khánh, bổn
ương? Bổn khánh, bổn ương chính là quả báo sẽ đạt được trong đời kế
tiếp hoặc trong những đời sau nữa của người tích lũy điều thiện hay điều
bất thiện, [những quả báo ấy] sẽ lớn lao hơn dư khánh, dư ương mà con
cháu được hưởng cả trăm ngàn vạn lần! Phàm phu chẳng thấy được, há
nên cho là không có ư? Ví như trong đêm tối om chẳng thấy được hết
thảy mọi vật, nhưng chẳng được nói hết thảy mọi vật đều bị tiêu diệt!
Cơ Tử91 trình bày Hồng Phạm, trong phần cuối cùng mới nói:
“Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng lục cực” (Thuận theo sẽ được năm
90 Châu Dịch tức kinh Dịch. Người Trung Hoa tin kinh Dịch đã có từ đời Hạ, Châu
Văn Vương chỉ chỉnh lý, biên soạn, hoàn thiện; do đó kinh Dịch được lưu hành hiện
thời thường gọi là Châu Dịch để phân biệt với Liên Sơn Dịch của nhà Hạ và Quy
Tàng Dịch của nhà Thương.
91 Cơ Tử chính là chú của vua Trụ, giữ chức Thái Sư, được phong ở đất Cơ, nên gọi
là Cơ Tử. Do thấy Trụ Vương sử dụng đũa bằng ngà, mâm vàng, chén ngọc, xa xỉ
quá mức, nên hết lời can gián, bị Trụ Vương giam vào ngục. Khi Châu Vũ Vương
diệt nhà Thương, Cơ Tử được thả, những lời nghị luận của ông về đạo trị nước với
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 142
điều phước, trái nghịch sẽ bị sáu điều khốn khó). Ngũ Phước, Lục Cực là
nói đến cái nhân trong đời trước trở thành cái quả trong đời này.
“Hưởng” (嚮 ) là thuận theo, “dụng” (用 ) là “dĩ” (以) (thì, là), là đắc (得)
(được). [Trong Ngũ Phước], một là “thọ”, hai là “phú” (giàu có), ba là
“khang ninh” (mạnh khỏe, yên ổn), điều thứ năm là “khảo chung mạng”
(hết tuổi thọ mới chết), đó chính là quả cảm thành bởi tu đạo, tu đức
trong đời trước; điều thứ tư là “du hảo đức” (thường có đức tốt) chính là
thói quen tu đạo tu đức từ đời trước. “Cực” (極) có nghĩa là tai ách tột
cùng. Nên hiểu nghĩa chữ Oai (威) là Vi (違)92, [tức] trái nghịch; ý nói:
Những gì đã làm trong đời trước trái nghịch với đạo đức thì đến đời này
sẽ bị: Một là xui xẻo chết ngang và đoản thọ (xui xẻo và đoản thọ gộp thành
điều thứ nhất); hai là thân bệnh tật chẳng được mạnh khỏe; ba là tâm lo
lắng không yên; bốn là nghèo cùng, chi dùng chẳng đủ; năm là diện mạo
xấu xa; sáu là thân yếu ớt, không có năng lực!
Nhà Nho mờ mịt nơi tiền nhân hậu quả, nên chuyện gì cũng đều quy
về sự cai trị của vua, gần như diệt thiên lý, vu báng sự cai trị của nhà
vua! Trẻ nhỏ sanh vào nhà phú quý bèn hưởng phước, sanh vào nhà
nghèo cùng sẽ chịu khổ, há có phải là do nhà vua cai trị có phân biệt
khiến nó phải sanh như vậy hay chăng? Vì thế, kinh dạy: “Dục tri tiền
thế nhân, kim sanh thọ giả thị; dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”
(Muốn biết cái nhân đời trước thì những gì phải chịu trong đời này chính
là nó đấy; muốn biết quả trong đời sau thì những gì đã làm trong đời này
chính là nó đấy). Sách Hồng Phạm do vua Đại Vũ soạn ra, Cơ Tử trần
thuật [nội dung sách ấy] với Vũ Vương. Lời nói về Ngũ Phước, Lục Cực
ở cuối [thiên sách] ấy đã giảng rõ nghĩa “nhân quả ba đời” cực kỳ xác
đáng, thiết thực.
Châu Vũ Vương được ghi trong thiên Hồng Phạm của sách Thượng Thư (kinh Thư).
Hồng Phạm (洪範) có nghĩa là khuôn mẫu lớn lao, thiên Ngũ Hành Chí trong sách
Hán Thư giảng: “Vua Vũ trị hồng thủy (lụt lớn), được ban Lạc Thư, [trong ấy] trình
bày pháp này, tức là Hồng Phạm vậy”. Trong thiên sách Hồng Phạm, Cơ Tử bảo
Châu Vũ Vương do vua Vũ trị thủy có công, Thượng Đế bèn ban cho Hồng Phạm
Cửu Trù (chín mối đại pháp). Ngoài những quan điểm về Ngũ Hành, thiên sách này
còn trình bày những đại pháp trị dân hết sức độc đáo như Chánh Trực, Cang Khắc
(chế ngự dân chúng bằng biện pháp cứng rắn), Nhu Khắc (cai trị dân bằng biện pháp
mềm dẻo).
92 Do hai chữ này thời cổ đọc âm gần giống nhau nên thường dùng lẫn cho nhau theo
lối Giả Tá.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 143
Tống Nho cho rằng: “Phật nói nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi
chính là chỗ dựa để lừa bịp ngu phu, ngu phụ tuân phụng giáo pháp của
Ngài, chứ thật ra chẳng hề có chuyện ấy”. Họ phán quyết: “Con người
sau khi chết đi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán. Dù có
chém - chặt - xay - giã, lấy chi để thực hiện? Thần hồn đã phiêu tán rồi,
còn ai để thọ sanh?” Họ quyết đoán “chắc chắn không có nhân quả”, vậy
thì trong Xuân Thu Truyện, Sử Ký, Hán Thư thường chép những kẻ bị
giết oan quấy phá, kẻ chịu ân báo đức, đủ mọi sự tích, chắc là tiền hiền
đã tạo sẵn căn cứ cho Phật giáo lừa phỉnh người khác đó chăng?
Đã không có nhân quả, không có đời sau thì Nghiêu hay Kiệt đều
chết sạch cả rồi, ai chịu khăng khăng tu trì để cầu hư danh sau khi chết
nữa đây? Bởi lẽ cái Ta thật sự đã không có, hư danh có ích chi đâu? Do
vậy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt. Lại còn
riêng xướng cao giọng dạy người “làm lành thì phải là không làm gì cả,
hễ có làm gì để làm lành tức là ác”. Thứ tà thuyết này gây lầm lạc, nguy
hãm cho quốc gia, xã hội chẳng cạn đâu!
Kẻ vô tri khâm phục [Châu - Trình] cao minh, trọn chẳng có một
niệm muốn làm lành. Người có trí đau xé tâm can bởi [Tống Nho] hoàn
toàn phế bỏ đạo “khuyên dụ dần dần làm lành” của thánh nhân mà cứ
mong con người có tư cách thánh nhân! Nhưng thánh nhân cũng chẳng
phải là hạng “chẳng làm gì mới là làm lành”! Khổng Tử đến năm bảy
mươi tuổi vẫn muốn trời cho sống thêm dăm mười năm nữa để học Dịch
hòng tránh khỏi lỗi lớn. Một bộ kinh Dịch không điều gì chẳng nhằm
dạy con người về đạo “hướng lành, tránh dữ, lo lắng, dè dặt, khắc chế ý
niệm để tu trì”. Nếu đúng như họ (tức những nhà Tống Nho) nói thì
Phục Hy, Văn Vương, Châu Công, Khổng Tử đều trở thành những kẻ tội
lỗi đứng đầu, là cội gốc họa hại lầm lạc dạy người khác làm ác cả, có lẽ
ấy hay chăng? Tình người như nước, nhân quả như đê. Tống Nho cực
lực bài bác nhân quả, cho đấy là chỗ dựa dẫm để Như Lai gạt gẫm người
ta tuân phụng giáo pháp của Ngài, nhưng lẽ nào nhân quả được nói trong
kinh điển đạo Nho chẳng phải là thật có ư? Họ muốn bác Phật để bảo vệ
Nho, rốt cuộc trở thành phế kinh, phế trừ luân thường, thực hành biến
[con người] thành loài thú. Vở tuồng xấu xa ấy đều do những kẻ cao
giọng đề xướng ấy diễn xuất, khiến cho đạo làm người hầu như diệt mất!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Vãn Hồi Thế
Đạo Nhân Tâm Cùng Trị Cả Gốc Lẫn Ngọn)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 144
* Sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu
cảm. Nếu ai nấy đều niệm Phật thì sẽ xoay chuyển được nghiệp này. Nếu
chỉ có một ít người niệm Phật thì [nghiệp ấy] cũng có thể giảm nhẹ.
Pháp môn Niệm Phật tuy là vì cầu sanh Tịnh Ðộ, liễu thoát sanh tử mà
lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp chướng của nó quả thật cũng cực kỳ
lớn lao. Người chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải giữ vẹn luân
thường, tận hết bổn phận, ngăn dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm
các điều ác, vâng làm các điều thiện. Cần nhất là phải hiểu rõ nhân quả,
tự hành, dạy người khác [hành].
Hiện thời, các thứ tà thuyết không thánh, không hiếu, khinh miệt đạo,
phế luân thường, giết cha, chung vợ v.v… đều do bọn Tống Nho đả phá,
bài xích nhân quả - luân hồi đến nỗi sanh ra ác quả này. Nếu như ai nấy
đều hiểu rõ nhân quả thì quyết chẳng một ai dám xướng lên những
thuyết sai lầm ấy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4, Thượng Hải
Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
* Hiện tại, người đời sở dĩ chẳng tin nhân quả, phần lớn là vì chịu
ảnh hưởng của Tống Nho. Những nhà Lý học93 thời Tống như Trình
Minh Ðạo, [Trình] Y Xuyên, Châu Hối Am v.v… do xem kinh Ðại Thừa
nhà Phật, chỉ lãnh hội sơ lược ý nghĩa “toàn Sự tức Lý” và thân cận tri
thức trong Tông Môn (Thiền Tông), lại biết ý chỉ “bất cứ pháp nào,
chuyện nào cũng chẳng ngoài Nhất Tâm”, chứ thực sự chưa hề xem trọn
khắp các kinh luận và tham học với khắp mọi tri thức các tông, bèn trộm
lấy ý nghĩa của kinh Phật để tự xưng hùng, dùng đó để phát huy sự sâu
xa của Nho giáo.
Bọn họ lại sợ người đời sau xem kinh Phật sẽ biết được điều [mà
Tống Nho khoe khoang là do chính họ] đạt được [vốn là ăn trộm từ kinh
Phật] bèn rắp tâm mê muội báng Phật. [Do] chẳng dễ báng bổ những chỗ
tinh diệu, họ liền nhắm vào mặt Sự để bài bác. Họ bảo đức Phật dạy sự -
93 Lý Học là học thuyết giải thích Nho giáo theo quan điểm của Trình Di và Châu
Hy. Học thuyết này cho Lý là nguyên khởi của vũ trụ (do nhìn từ góc độ khác nhau
mà có danh xưng khác nhau như Trời, Thượng Đế, Đạo v.v…), Lý là bản tánh trời
sanh của từng cá nhân. Do lòng ham muốn riêng tư mà con người quên mất Lý này.
Vì thế, phải trừ khử dục vọng, trở về với Lý gọi đó là “thiên nhân hợp nhất” (trời người hợp nhất). Lý biểu hiện dưới dạng vật chất hữu hình thì gọi là Khí. Như vậy,
Lý của họ chỉ là vay mượn khái niệm Phật Tánh, Như Lai Tánh, Pháp Thân của Phật
giáo mà thôi! Hoặc nói cách khác, Lý - Khí của họ chỉ là cách gọi tên khác của chữ
Thể và Dụng trong Phật giáo.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 145
lý “tam thế nhân quả, lục đạo luân hồi” đều nhằm phỉnh phờ hạng ngu
phu, ngu phụ phụng hành giáo pháp của Ngài, chứ thật sự chẳng có
những chuyện ấy. Họ bảo: Sau khi con người chết đi, thân đã mục nát thì
thần thức cũng phiêu tán; dù có băm, chặt, giã, mài sẽ thi thố vào đâu?
Hơn nữa, thần thức đã tan thì còn ai để thọ sanh? Do vậy, họ đã mở tung
đầu mối phóng túng, không kiêng sợ gì cả, thiện không có gì để khuyên,
ác không có gì để trừng phạt! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4,
Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
* Nho giáo cũng hết sức chú trọng pháp nhân quả. Vì thế, Khổng Tử
khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia tất hữu
dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện niềm
vui có thừa, nhà tích điều bất thiện tai ương có thừa). Cuối cùng, Ngài
nói: “Một Âm, một Dương gọi là đạo”. Phàm tích thiện hay tích bất
thiện, đó là nhân; dư khánh, dư ương chính là quả. Đức Phật nói nhân
quả ba đời, luân hồi lục đạo chính là nêu bày nhân quả đến rốt ráo vậy.
Có người bảo nhân quả là Tiểu Thừa, chẳng chịu đề xướng, đấy đều
là hạng chuyên bàn xuông, chẳng tu thật đức! Đức Như Lai thành Chánh
Giác, chúng sanh đọa ác đạo, đều chẳng ra ngoài nhân quả, sao lại riêng
coi là Tiểu Thừa ư?
Như [Khổng Tử] nói “một Âm một Dương gọi là Đạo”, thì cái Đạo
vừa nói ấy thật sự là đạo gì? Chẳng phải là đạo Thành và Minh hợp nhất
đó ư? Thành chính là Minh Đức, tức diệu tánh bất sanh bất diệt vốn sẵn
có trong tâm chúng ta, đấy chính là Tánh Đức. Do không có công phu
khắc phục [phiền não] nên chẳng thể hiển hiện được; vì thế gọi nó là
Âm. Minh chính là như chữ Minh [thứ nhất] trong câu “minh Minh
Đức” (làm sáng tỏ đức sáng), tức là công phu “triêu càn tịch dịch94,
gắng sức tu trì”, tức Tu Đức. Do những sự thuộc về Tu Đức hiển hiện rõ
ràng nên gọi là Dương.
Dốc công Tu Đức đến cùng cực thì Tánh Đức sẽ tỏ lộ trọn vẹn,
Thành và Minh hợp nhất, tức là cái thường được gọi là “minh Minh Đức
chỉ ư chí thiện” (làm sáng tỏ Minh Đức, ở yên nơi tốt lành tột cùng).
94 “Triêu càn tịch dịch” vốn là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói trong sách
Châu Dịch: “Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược lệ, vô cữu” (Quân tử suốt
ngày từ sáng đến tối cẩn thận dè dặt, không có chút coi thường, chểnh mảng nào, nên
không lầm lỗi). Do vậy, “triêu càn tịch dịch” có thể hiểu là luôn cố gắng cẩn thận,
giữ gìn, không coi thường, buông lung ý niệm.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 146
Công phu phía trước điều này (tức những phương cách tu tập để đạt đến
“minh Minh Đức chỉ ư chí thiện”) là tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Nhưng [nếu] chỉ dùng [những công phu tu tập] Thành và Minh hợp
nhất “minh Minh Đức, chỉ ư chí thiện” này để đạt tới “tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ” thì chưa thể nào đạt như vậy được, cho nên mới [cần phải]
có những điều khiến cho chính ta không thể không làm như vậy được
(tức là những điều khiến cho chúng ta phải gắng sức cách vật, trí tri,
chánh tâm, thành ý – chú thích của người dịch). Thế nào là “những điều
khiến cho chính ta không thể không làm như vậy được?” Chính là nhân
quả ba đời, luân hồi lục đạo! Kẻ tuy chí ngu quyết cũng chẳng chuộng
hung ghét lành, vui mừng vì bị tai họa! Nghe nói “chất chứa điều thiện
ắt sự vui có thừa, chất chứa điều bất thiện ắt tai ương có thừa”, người
hiền ắt sẽ càng thêm siêng tu, kẻ không ra gì cũng phải gắng sức làm
lành. Cố gắng lâu ngày, nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ rạng, không có lầm lỗi, đức
được sáng tỏ, xưa kia là kẻ chẳng ra gì, nay là bậc đại hiền.
Do vậy biết: Đối với việc tự tu thì đạo Thành - Minh đã đủ rồi, nhưng
để dạy người khác, nếu chẳng dùng nhân quả để giúp vào thì cũng khó
khiến cho trọn hết mọi người đều tuân theo được! Kết hợp hai pháp nhân
quả và Thành - Minh thì mới là đạo kế thiên lập cực95, nêu gương mẫu
cho muôn đời của thánh nhân, đấy cũng chính là ánh sáng sẵn có trong
tự tâm và Phật quang phổ chiếu pháp giới vậy.
Bất Huệ thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh
nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”.
Muốn vãn hồi kiếp vận, cứu chữa nhân tâm nhưng chẳng chú ý điều này
thì giống như tìm cá trên cây! Bọn Tống Nho khí lượng hẹp hòi, trộm
cắp những nghĩa trọng yếu trong kinh Phật để phát huy tâm pháp của
thánh nhân Nho giáo đời trước, muốn cho kẻ học đời sau chẳng nghe tới
Phật pháp nên âm thầm sùng phụng, bề ngoài chống trái, càng ra sức bài
bác [Phật pháp], cho là thật sự chẳng hề có những chuyện nhân quả luân
hồi như đức Phật đã nói! Ngài chỉ nhờ vào đó để gạt gẫm hàng ngu phu
ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài mà thôi! Do báng Phật nên tuy
95
“Kế thiên lập cực” là một thành ngữ hiểu theo nghĩa đen là kế thừa ngôi vua, do
vua được xưng tụng là thiên tử (con trời), ngôi vị cao nhất trong vạn dân, nên gọi là
“kế thiên lập cực”. Hiểu theo nghĩa rộng, “kế thiên lập cực” là kế thừa đạo trời, dự
vào ngôi vị cao cả, tức ngôi vị thánh nhân, thuận theo mạng trời, được vạn dân
ngưỡng vọng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 147
là nhân quả do thánh nhân đã nói cũng như những sự tích luân hồi sanh
tử được chép trong các bộ Sử Ký, Hán Thư họ đều chẳng buồn nhắc tới,
chỉ lấy “trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý” để
làm căn bản trị mình, trị người, trị nước mà thôi!
Họ lại còn bảo con người chết rồi, hình hài đã mục nát, thần thức
cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã thì lấy gì để thực hiện?
Hơn nữa, thần thức đã phiêu tán, còn ai để thác sanh? Kẻ nói như vậy
chẳng những phản bác Phật pháp mà còn hết sức phản bác những sự tích
thác sanh, biến hóa được chép trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và Sử Ký, Hán
Thư, riêng muốn dùng những cách ngăn lấp hậu học ấy khiến cho hàng
hậu học đời đời chẳng được nghe Phật pháp để không ai biết những gì
chính họ (tức bọn Tống Nho) đã đạt được [là do đâu mà có] và nhờ vào
[cách bài xích đạo Phật] ấy, Nho Giáo cũng sẽ hưng thịnh.
Họ chẳng biết cội gốc đã bị tổn thương thì cành nhánh làm sao tươi
tốt cho được! Từ đấy trở đi, phương cách để duy trì thế đạo nhân tâm chỉ
là “trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý” mà thôi,
hoàn toàn phế bỏ sự lý nhân quả thiện ác là cái thúc đẩy người khác
chẳng thể không trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành
ý! Trong cõi đời bậc đại hiền thì ít, kẻ [căn cơ] trung hạ lại nhiều. Nếu
coi nhân quả là hư vô, con người chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất thì chính
là lấp mất con đường gắng sức làm lành của kẻ trung hạ, mở tung đầu
mối cho kẻ cuồng vọng phóng túng chẳng kiêng dè!
Đến khi gió Âu vừa thổi qua, bồng bột ngả theo, lại bị biến đổi dữ dội
đến tận gốc, rốt cuộc đến nỗi phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng
hiếu, vứt lòng thẹn, mà vẫn khoe khoang, chẳng biết hổ thẹn. Nếu như lý
nhân quả chẳng bị bài xích, đả phá, có ai chịu xướng lên những vở tuồng
xấu ác ấy để chuốc lấy quả báo vĩnh viễn đọa trong ác đạo ư? Các vị tiên
sinh [bên Nho giáo] chỉ biết dùng kiểu đó để bảo vệ đạo Nho, chẳng ngờ
do đấy mà đạo Nho bị diệt! Học thuyết gây lầm lạc cho người khác, còn
quá nước lũ, mãnh thú, chẳng đáng sợ hay sao? (Ấn Quang Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc thành lập Phật Quang phân xã tại nội
thành Vụ Nguyên)
2. Nêu rõ nhân quả về mặt Sự
* Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế
gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Hiện nay, thế đạo loạn lạc
quả thật là từ ngàn xưa chưa hề nghe thấy! Xét đến nguồn gốc, đều do
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 148
cái tâm tự tư tự lợi ươm thành. Vì hễ ôm lòng tự tư tự lợi sẽ mặc tình
giành nhau làm chuyện tổn người, lợi mình, thương thiên, hại lý, coi rẻ
đạo “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chẳng đoái hoài! Do vậy, thế
đạo nhân tâm ngày càng thêm tăm tối, không cách nào đạt đến chỗ chánh
đại quang minh.
Nếu như biết “họa phước không cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”,
thiện báo, ác báo như bóng theo hình, lợi người chính là lợi mình, hại
người còn quá hại mình, giết cha người ta thì người ta cũng giết cha
mình, giết anh người ta, người ta cũng sẽ giết anh mình. Khéo thờ cha
mẹ, ắt con ta có hiếu. Khéo thờ anh, ắt con ta hòa thuận. Như giọt nước
rỏ nơi mái hiên, giọt sau tiếp nối giọt trước! Từ đó thấy rằng: Hiếu thuận
cha mẹ, kính trọng anh, yêu người, lợi vật đều là nền phước về sau cho
chính mình! Tổn người, lợi mình, thương thiên, hại lý đều là gốc họa về
sau cho chính mình.
Người dẫu chí ngu chắc chắn chẳng sung sướng vì mắc tai, gặp họa,
theo dữ, tránh lành! Nhưng xét đến hành vi thì lại hoàn toàn trái nghịch,
vì sao thế? Do chưa gặp được người hiểu rõ lý giảng giải tường tận sự lý
nhân quả báo ứng cho kẻ đó. Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách
nhiệm! Thất phu sao có thể làm cho thiên hạ yên ổn được? Nếu người
trong thiên hạ đều cùng biết nhân, hiểu quả, thì cái tâm tham - sân - si
chẳng đến nỗi lẫy lừng, nghiệp giết - trộm - dâm chẳng dám làm càn.
Yêu người, lợi vật, biết vui theo mạng trời, tâm địa đã chánh đại quang
minh, thì tương lai đi đến đâu, không chỗ nào chẳng phải là chỗ quang
minh! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Con
Đường Đạt Đến Quang Minh)
* Đời loạn đến cùng cực, con người hết sức mong mỏi bình trị. Đạo
để đạt tới bình trị vốn thật gần, thật dễ, nhưng những kẻ thông minh
trong thế gian thường muốn lập dị để mong lấn lướt cổ nhân. Vì thế, họ
coi thường những điều gần gũi, dễ dàng, chẳng thèm sử dụng, cứ muốn
coi trọng những điều xa xôi, khó khăn, nhằm tỏ rõ bản lãnh của chính
mình. Rốt cuộc chỉ trở thành rối ren, đạt hiệu quả trái ngược, nước loạn,
dân khốn khổ hết thuốc chữa, chẳng đáng buồn ư? Chẳng đáng sợ ư?
Họ chẳng biết thánh nhân vốn lập pháp từ thiên lý, luân thường,
khiến cho ai nấy đều giữ vẹn bổn phận, tôn trọng luân thường, tận tụy
hành hiếu đễ, nên mới nói: “Nghiêu Thuấn chi đạo, hiếu đễ nhi dĩ hỹ”
(Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu - đễ mà thôi). “Lão ngô lão dĩ cập
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 149
nhân chi lão, ấu ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu, trị thiên hạ khả vận chi
chưởng thượng” (Dùng lòng phụng dưỡng, tôn kính người già cả của ta
để phụng dưỡng, tôn kính người già cả của kẻ khác, đem lòng thương
yêu con thơ của ta để thương yêu con thơ của người khác, thì giữ cho cõi
đời bình trị sẽ là chuyện nắm chắc trong tay). Nếu ai nấy đều giữ được
tấm lòng trung hậu, khoan dung, cùng thấu hiểu sâu xa “mọi người là
ruột thịt của ta, muôn vật cũng giống như ta” thì lễ nghĩa, nhân nhượng
sẽ thịnh hành, thắng hung tàn, bỏ giết chóc, phong tục thuần thiện, thiên
hạ thái bình.
Thánh nhân lại lo con người không nghĩ chín chắn tới nơi tới chốn,
bèn dùng sự lý nhân quả báo ứng để răn dạy. Vì thế, kinh Thư chép:
“Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy ảnh hưởng” (Thuận theo đạo thì
tốt lành, trái nghịch thì xấu xa, giống như bóng theo hình, như tiếng
vọng theo âm thanh vậy)96. Lại chép: “Tác thiện giáng chi bách tường,
tác bất thiện giáng chi bách ương” (Làm lành trăm điều lành giáng
xuống, làm điều chẳng lành, trăm tai ương giáng xuống). Khổng Tử
khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu
dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích chứa điều
thiện, sự vui có thừa. Nhà làm điều chẳng lành, tai ương có thừa). Cơ Tử
trần thuật Hồng Phạm, cuối [thiên sách] mới nói: “Hưởng dụng ngũ
phước, oai dụng lục cực” (Thuận theo sẽ được năm điều phước, trái
nghịch sẽ bị sáu nỗi cực nhọc). Những nhà Nho về sau chẳng biết nhân
quả ba đời, gom hết ngũ phước, lục cực về sự cai trị của nhà vua. Chẳng
những vu báng sự cai trị của vua là bạo ngược, mà còn vu báng từ ngữ
“phước, cực” nữa. Vì thế, khó thể nào giải thích không khập khiễng cho
được!
Nay lại dùng lẽ nhân quả rõ ràng để nói thì: “Ái nhân giả, nhân hằng
ái chi; kính nhân giả, nhân hằng kính chi” (Yêu người, người mãi
thương yêu; kính người, người sẽ luôn thường kính ta). Nói ra lời trái tai
thì sẽ nghe lời trái tai. Cho vay sự trái nghịch thì cũng sẽ nhận lại sự trái
nghịch. Giết cha người khác, người ta cũng sẽ giết cha ta. Giết anh người
ta, người ta cũng sẽ giết anh mình. Phàm những gì đã làm cho người
khác thì không chuyện gì [bản thân ta sẽ gặp phải] lại chẳng giống như
vậy.
96 Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giảng của Khổng An Quốc, trích dẫn bởi Hà
Yến và Hình Bỉnh trong cuốn Luận Ngữ Chú Sớ. Câu nói này lấy từ thiên Đại Vũ
Mô trong sách Thượng Thư.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 150
Còn đối với nhân quả tự tu thì nói: “Thánh do mất niệm thành cuồng,
cuồng do khắc chế được ý niệm bèn thành thánh”. Thánh hay cuồng chỉ
do mất niệm hay khắc chế được ý niệm mà thôi! Như câu nói: “Cẩu chí
ư nhân hỹ, vô ác dã. Năng chí ư nhân, tắc kiến tiên triết ư canh tường,
thận độc tri ư khâm ảnh. Bất chí ư nhân tắc nhân dục nhật tứ, thiên lý
nhật mẫn, tiện dữ cầm thú cơ hy hỹ!” (Nếu dốc chí vào lòng nhân thì
không ác, dốc chí nơi nhân sẽ thấy bậc tiên triết trong canh, nơi tường,
cẩn thận dè dặt như sợ cả bóng áo [của chính mình] sẽ biết được [tội lỗi
của chính mình]. Nếu lòng chẳng hướng về điều nhân thì lòng ham
muốn ngày một phóng túng, thiên lý ngày một mất đi, có khác gì cầm
thú cho mấy). Mạnh Tử nói: “Tây tử mông bất khiết, tắc nhân giai yểm
tỵ nhi quá chi” (Tây Thi bôi đồ dơ thì mọi người đều bịt mũi, quở trách)
(Tây Tử (tức nàng Tây Thi) cực đẹp, nhưng bôi phân khắp mặt thì mọi người đều sợ
hôi thối, chẳng những không chịu nhìn mà còn bịt mũi chê trách). “Tuy hữu ác
nhân (ác ở đây là xấu xa, “ác nhân” là người diện mạo xấu xí), trai giới mộc dục,
tắc khả dĩ sự Thượng Đế” (Tuy người xấu xí, nhưng trai giới tắm gội sẽ
có thể thờ Thượng Đế). Đấy đều là sự lý nhân quả báo ứng vậy!
Thánh nhân dạy người, trước hết nói thẳng vào những cách thức nên
làm, rồi lại dạy những lẽ lợi - hại, được - mất do tuân thủ hay chống trái
[những phương cách ấy]. Hai điều này tiến hành song song thì sẽ chẳng
thể nào lệch lạc hay phế bỏ được. Thánh nhân muốn cho con người ai
nấy đều tu đức, đều trọn hết phận mình, chỉ sợ có kẻ coi thường, nên
dùng sự lý nhân quả báo ứng để đôn đốc sao cho họ nghiêm túc tuân thủ,
chẳng trái nghịch vậy.
Nhưng nhân quả được thánh nhân nói đến chỉ là nói về bản thân và
con cháu mà thôi! Do chẳng nói đến chuyện trước khi sanh ra và sau khi
đã mất, nên đối với chuyện quá khứ, vị lai của người ấy dù nhân hay quả
đều chẳng nhắc tới. Cơ Tử nói đến ý nghĩa Ngũ Phước, Lục Cực, chính
là chỉ rõ cái nhân quá khứ tạo thành cái quả trong hiện đời. Vì thế, biết
rằng: Do kẻ tầm thường chẳng dễ gì hiểu được nên thánh nhân chẳng
nói, chứ không phải là chẳng biết có nhân quả ba đời!
Từ khi Phật giáo truyền sang phương Đông, nêu rạng rỡ lý “tâm,
Phật, chúng sanh, cả ba không sai biệt” và sự “nhân quả ba đời, lục đạo
luân hồi”, nhân dân được hưởng ngầm lợi ích chẳng thể kể xiết. Thử nêu
ra một hai điều ắt sẽ biết rõ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 151
Vào đầu đời Châu, ân trạch của Văn Vương thấm đến cả xương khô,
nhưng chưa đầy ba bốn trăm năm, tục lệ giết người tuẫn táng đã phổ biến
cả thiên hạ. Thiên tử, chư hầu, đại phu, kẻ sĩ, đều tùy sức giết người để
tuẫn táng. Những kẻ có thế lực mạnh mẽ đều cho rằng càng giết nhiều
càng sang! Mục Công là vua hiền của nước Tần còn giết một trăm bảy
mươi bảy người. Ba vị họ Tử Xa đều là hiền thần của nước Tần, vẫn
chẳng thể vì nước vì dân mà được miễn khỏi [cái chết]. Trong các nước
còn có mấy trăm mấy ngàn người bị tuẫn táng theo. Từ khi Phật giáo
xiển minh sự lý nhân quả ba đời thì tục lệ này mới vĩnh viễn chấm dứt.
Nếu không, cũng hiếm người được hưởng hết tuổi thọ rồi mới chết! Lợi
ích ấy, nếu chẳng suy nghĩ sâu xa, ai hòng biết được!
Tống Nho trộm lấy nghĩa lý sâu thẳm về tâm tánh trong kinh Phật để
hoằng dương, xiển phát đạo Nho, quá sợ người đời sau học Phật sẽ khiến
cho môn đình Nho Giáo bị lạnh lẽo, đìu hiu, nên đã học từ nơi người ta
lại ngược ngạo bảo người ta chẳng bằng mình, tà vạy bài bác, bảo Phật
dùng nhân quả luân hồi để làm căn cứ phỉnh phờ ngu phu ngu phụ tin
thờ giáo pháp của Ngài. Hơn nữa, con người sau khi chết đi, hình hài đã
mục nát, thần hồn cũng phiêu tán. Dẫu có những dụng cụ hành hình
trong địa ngục thì sẽ thi thố vào đâu? Nếu đúng như họ nói thì con người
sanh ra không từ đâu đến, chết rồi cũng chẳng đi về đâu, Nghiêu lẫn Kiệt
đều chết sạch cả rồi, dẫu thiện hay ác hễ chết đều là không cả! Do vậy,
thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, chỉ dạy dỗ tận
nghĩa, tận phận, thành ý, chánh tâm xuông, nhưng lại ra sức bài xích
phương tiện đôn đốc con người chẳng thể không tận nghĩa, tận phận,
thành ý, chánh tâm. Sai lầm của kế sách ấy chẳng thể kể xiết! Do vậy,
nhà Nho đều chẳng dám nói đến nhân quả, cũng chẳng dám dạy con
người nỗ lực làm lành, do họ thường cho rằng “hễ có làm gì để làm lành
thì đấy chính là ác”, tức là dạy [con người] tự tư tự lợi vậy! “Không làm
gì để làm lành quả thật là làm lành đến cùng cực”, đấy chính là chuyện
của bậc thánh nhân, sao lại đem chuyện này dạy người bình thường?
Nếu dạy [điều ấy cho] người bình thường thì sẽ ngăn trở người ta làm
lành, hướng dẫn người ta làm chuyện chẳng lành! Tuy “thánh nhân
không làm gì là làm lành” nhưng thánh nhân cũng thường có chuyện để
làm, chứ không phải là hoàn toàn chẳng làm gì hết! Ông Cừ Bá Ngọc97
97
Cừ Bá Ngọc: Tên thật là Cừ Viện, Bá Ngọc là tên tự, vốn giao du thân thiết với
Khổng Tử. Ông là người nước Vệ, nổi tiếng là người hiền, giữ lễ, làm đại phu dưới
thời Vệ Linh Công, ông thường được coi như học trò của Khổng Tử. Một buổi nọ,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 152
tuổi tròn hai mươi biết mười chín năm trước sai trái. Đến khi năm mươi
tuổi, biết bốn mươi chín năm trước sai quấy, muốn giảm bớt lỗi nhưng
chưa thể được. Đấy chính là những gì bình sinh ông ta đã thực hiện vậy.
Tăng Tử hằng ngày dùng ba chuyện để tự phản tỉnh, đến lúc lâm chung
mới nói: “Kinh Thi chép: „Chiến chiến cạnh cạnh, như lâm thâm uyên,
như lý bạc băng, nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù” (Dè dặt kinh sợ,
như vào vực sâu, đi trên băng mỏng, từ rày mai sau, ta biết thoát rồi).
Đấy là từ đầu đến cuối “có làm” vậy.
Nhan Uyên hỏi về lòng Nhân, Khổng Tử bảo “dùng đánh đổ điều
ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa”. Hỏi đến chi
tiết, Ngài dạy: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật
động” (Điều phi lễ đừng nhìn, chuyện phi lễ đừng nghe, lời phi lễ đừng
nói, chuyện phi lễ đừng làm). Cả hai câu đáp đều là “có làm”, chứ không
phải là không làm gì! Khổng Tử thấy vua Nghiêu trong canh, thấy vua
Thuấn nơi tường, thấy Châu Công trong mộng. Tuổi đã bảy mươi vẫn
mong trời cho sống thêm vài năm nữa để học kinh Dịch hòng tránh được
lỗi lớn, đều là “có làm” sâu xa!
Tống Nho cất giọng cao xa, muốn tự khoe khoang cao minh, chẳng
hề biết đã trái nghịch đạo “khéo léo khuyên dụ dần dần” của thánh nhân.
Họ tự lầm, gây lầm lạc cho người và cả thiên hạ đời sau cũng lớn lắm!
Kể từ sau khi Tống Nho bài xích nhân quả luân hồi, phàm là người đọc
sách đều chẳng dùng những gì đã được nói trong Ngũ Kinh để luận định
mà cứ coi những thuyết của Tống Nho như khuôn thước. Nếu có ai biết
thì sợ bị mang tiếng “trái nghịch tiên Nho”, hoặc nếu có thành tựu đáng
dự vào Văn Miếu nhưng vì đã dự phần học Phật thì sẽ trở thành tuyệt
vọng. Do vậy, chẳng dám hé răng! Nhưng kẻ hiểu Phật lý sâu xa, đem
những pháp ấy diễn tả rõ ràng ra, nhưng vẫn kèm theo lời lẽ bài bác, chỉ
vì muốn có chỗ đặt chân hòng được dự vào Văn Miếu trong mai sau! Vì
thế, mấy trăm năm qua, phương tiện lớn lao để khuyên lành phạt dữ đã
nhất loạt bị bỏ lửng, dù có khuyên hay phạt đều là chuyện thuộc về cành
nhánh, chẳng đạt được cội rễ, được lợi ích quá ít!
Vệ Linh Công và phu nhân tên Nam Tử đang ngồi trong cung bỗng nghe tiếng xe lăn
bánh đến gần cửa cung, đột nhiên tiếng xe im bặt. Bà Nam Tử nói: “Người ngồi xe
đến đây chắc chắn là Cừ Bá Ngọc!” Vệ Linh Công ngạc nhiên: “Sao bà biết?” Nam
Tử trả lời: “Phàm người hiền giữ lễ, đến trước cửa nhà vua ắt phải xuống xe đi bộ
vào, đang cưỡi ngựa thấy người hiền phải xuống ngựa chào hỏi”. Cừ Bá Ngọc là một
người trong số Thất Thập Nhị Hiền được thờ phối hưởng với Khổng Tử ở Văn Miếu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 153
Gần đây, do gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, những kẻ ham
mới chuộng lạ đối với những chuyện người Âu Tây làm, không gì chẳng
bắt chước, biến đổi dữ dội tận gốc càng nhiều gấp mấy lần hơn nữa, đến
nỗi đối với những chuyện “vì nước, vì lẽ công” họ bỏ mặc, coi như
không nghe thấy, nên mới đề xướng những đường lối phế kinh điển, phế
luân thường, phế bỏ lòng hiếu, không hổ thẹn v.v… chẳng nỡ thấy nghe!
Cả nước thành cuồng không sao kể xiết!
Nếu hết thảy mọi người đều biết có sự lý nhân quả ba đời, lục đạo
luân hồi, dẫu dùng cái chết để uy hiếp họ, ép họ phải làm những chuyện
như trên đây thì họ sẽ thà chết chứ chẳng dám làm những chuyện đại ác
ấy! Do vậy, biết cái gốc họa của chuyện diệt Nho giáo, diệt luân lý để
mong thực hiện biến con người thành cầm thú, đều từ học thuyết bài
xích nhân quả của Tống Nho ươm thành, thật vậy đó! Học thuyết gây
lầm lạc cho con người, dù nước lũ, mãnh thú, cũng chẳng gây họa khốc
liệt như vậy.
Trước kia, có người hỏi tôi: “Đời đã loạn tột bậc, nên bình trị như thế
nào?” Tôi nói: “Nếu ông biết được nguyên nhân của sự loạn lạc thì sẽ
biết được pháp tắc để bình trị”. Ông Châu An Sĩ nói: „Ai nấy đều biết
nhân quả, đó là đạo để bình trị lớn lao. Ai nấy đều chẳng biết nhân quả
thì đấy là con đường dẫn đến đại loạn vậy”. Do nhà Nho kỵ nói đến
nhân quả khiến cho thế đạo, nhân tâm ngày càng bạc bẽo dần dần, cho
đến tận ngày nay rốt cuộc có kẻ dám đề xướng phế kinh điển, phế luân
thường v.v… Nếu thật sự biết nhân quả thì chẳng những miệng không
dám thốt ra lời ấy, mà cũng chẳng dám để lọt vào tai! Bởi đấy là những
tiếng xấu xa, bạc ác, người có tấm lòng lo cho con người chẳng nên
nghe! Hễ nghe sẽ khiến cho con người đau lòng buốt óc, không làm sao
được!
Nay muốn biến loạn lạc thành bình yên mà nếu chẳng cực lực đề
xướng giáo dục trong gia đình thì sẽ không thể nào thực hiện được.
Nhưng giáo dục trong gia đình thì điều đầu tiên là lấy “giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành” làm gốc. Lại phải thường bàn về sự lý
nhân quả ba đời và luân hồi lục đạo thì những nhân tài xuất hiện trong
gia đình đều là bậc hiền thiện. Trong gia đình đã có nhân tài hiền thiện
xuất hiện thì thiểu số chẳng hiền thiện [trong xã hội] cũng sẽ được un
đúc, đều được cảm hóa. Vì thế nói: “Thiên hạ bất trị, thất phu hữu
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 154
trách” (Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm). Đây là lời bàn
luận xác định: “Do cái nhân suy sụp mà đời yên bèn thành loạn, do cái
nhân được hưng thịnh mà đời loạn bèn thành yên” vậy. Chẳng nương
theo đó mà muốn đất nước được bình trị thì làm sao thực hiện cho được?
Đấy là điều những người có tâm lo cho thế đạo, nhân tâm đều cùng lo
nghĩ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Phật Học
Cứu Kiếp Biên)
* Con người tu phước hay tạo nghiệp nói chung chẳng ngoài sáu căn,
ba nghiệp. Sáu căn chính là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Năm căn
trước thuộc thân nghiệp, Ý căn sau cùng thuộc về tâm, tức Ý nghiệp. Ba
nghiệp là:
1) Một là Thân Nghiệp gồm ba thứ, tức sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
Ba sự này tội nghiệp cực nặng.
a. Người học Phật nên ăn chay, yêu tiếc sanh mạng. Phàm là động
vật đều biết đau đớn, đều tham sống, sợ chết, chẳng nên sát hại. Nếu giết
để ăn sẽ kết thành một sát nghiệp. Đời kế tiếp, đời sau nữa, ắt phải bị
chúng giết lại.
b. Hai là trộm cắp, phàm những vật của người khác, chớ nên “không
cho mà lấy”. Trộm vật rẻ tiền là đánh mất nhân cách của chính mình.
Trộm vật đáng giá chính là hại thân mạng người ta. Trộm cắp vật của
người khác tợ hồ chiếm được tiện nghi, [nhưng thật ra] tổn phước thọ
của chính mình, đánh mất những thứ trong mạng mình lẽ ra phải có so
với những thứ ta ăn trộm còn nhiều gấp bội lần. Nếu dùng mưu kế chiếm
đoạt, hoặc dùng oai thế hiếp đáp cướp lấy, hoặc trông coi [tài sản] cho
người khác rồi giở thói xấu chiếm lấy đều gọi là “trộm cắp”. Kẻ trộm
cắp ắt sanh ra con cái phóng đãng, người liêm khiết ắt sanh con hiền
thiện. Đấy chính là thiên lý nhân quả nhất định!
c. Ba là tà dâm. Phàm với những kẻ chẳng phải là thê thiếp của chính
ta, bất luận kẻ ấy hiền lương hay hạ tiện, đều chẳng được cùng họ hành
dâm. Hành tà dâm là hoại loạn nhân luân, tức là dùng thân người làm
chuyện súc sanh. Đời hiện tại đã thành súc sanh thì đời kế tiếp phải làm
súc sanh. Người đời coi chuyện con gái lén lút tằng tịu cùng người khác
là nhục, chẳng biết con trai tà dâm thì cũng [đáng nhục] giống hệt như
con gái. Kẻ tà dâm ắt sanh ra con cái chẳng trinh khiết, ai muốn con cái
của chính mình chẳng trinh khiết? Tự mình đã làm chuyện ấy trước, con
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 155
cái bẩm thụ khí phận của chính mình, quyết khó thể đoan chánh chẳng
tà! Không những chẳng được tà dâm với bóng sắc bên ngoài, mà ngay cả
trong sự chánh dâm giữa vợ chồng cũng nên có giới hạn. Nếu không,
chẳng chết sớm thì cũng tàn phế. Kẻ tham ăn nằm khó có con cái, dù có
sanh ra cũng khó thành người. Dẫu có thành người thì cũng yếu đuối,
chẳng thành tựu gì! Người đời coi hành dâm là vui, chẳng biết chỉ sướng
một khắc, khổ suốt cả đời, khổ lây con cái, cháu chắt!
Ba điều này chẳng làm thì chính là thiện nghiệp nơi thân, nếu làm thì
chính là ác nghiệp nơi thân.
2) Khẩu Nghiệp gồm có bốn: Nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu, nói đôi
chiều.
a. Nói dối là nói lời không chân thật. Đã không nói chân thật thì tâm
cũng chẳng chân thật, đánh mất nhân cách rất lớn.
b. Nói thêu dệt là nói những lời phong lưu tà vạy, khiến cho kẻ khác
khởi ý niệm dâm đãng. Kẻ thiếu niên vô tri nghe lâu ngày ắt sẽ bị tà dâm
chôn vùi nhân cách, hoặc thủ dâm tổn hại thân mạng. Tuy kẻ ấy chẳng tà
dâm cũng sẽ đọa đại địa ngục. Từ địa ngục ra, hoặc làm lợn nái, chó cái.
Nếu sanh trong loài người, thường làm gái ăn sương, thoạt đầu trẻ tuổi
xinh đẹp, còn chưa khổ sở lắm. Lâu ngày bệnh phong tình phát ra, khổ
chẳng nói nổi. May có được cái miệng này, sao lại khổ sở tự chuốc lấy
họa ương cho cả ta lẫn người, chẳng tạo hạnh phúc cho cả mình lẫn
người vậy?
c. Ác khẩu là nói lời hung bạo như đao, như kiếm, khiến cho người
ta khó thể chịu đựng nổi.
d. Nói đôi chiều là đòn xóc hai đầu khêu gợi thị phi, nhỏ thì gây rối
người khác, lớn thì loạn nước.
Bốn điều này không làm thì là thiện nghiệp nơi miệng, nếu làm thì là
ác nghiệp nơi miệng.
3) Ý Nghiệp gồm ba thứ, tức tham dục, sân khuể, ngu si.
a. Tham dục là đối với tiền tài, ruộng đất, đồ đạc đều mong gom hết
về mình, càng nhiều càng hiềm rằng ít.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 156
b. Sân khuể là bất luận chính mình đúng hay sai, nếu người khác
chẳng thuận ý ta bèn nổi cơn thịnh nộ, chẳng chấp nhận lý lẽ của người
ta.
c. Ngu si không phải là trọn chẳng biết gì, mà dẫu là kẻ đọc hết sách
vở thế gian, vừa qua mắt liền nhớ, mở miệng thành chương, nhưng
chẳng tin nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi, cho là con người chết đi
thần hồn diệt mất, không còn có đời sau v.v… đều gọi là ngu si! Thứ tri
kiến ấy rối nước hại dân còn hơn nước lũ, mãnh thú!
Chẳng làm ba điều này thì là thiện nghiệp nơi ý, làm ba điều này thì
là ác nghiệp nơi ý. Người Thân - Khẩu - Ý ba nghiệp đều thiện thì công
đức do tụng kinh niệm Phật so với người ba nghiệp đều ác lớn hơn gấp
trăm ngàn lần (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư răn
nhắc những người mới phát tâm học Phật ở quê tôi)
* Kiếp vận hiện tại của thế giới, những tai nạn chúng ta phải chịu
đựng đều là do ác nghiệp trong quá khứ chiêu cảm đến nỗi cảm nhận
khổ quả hiện thời. Do đó, biết rằng: Những ác nghiệp này là do ác nhân
trong quá khứ tạo thành; muốn tránh khổ quả phải dứt khổ nhân. Quá
khứ đã gieo khổ nhân thì niệm Phật, sám hối mới có thể tiêu trừ được!
Hiện tại nếu chẳng gieo khổ nhân nữa thì tương lai sẽ khỏi phải chịu khổ
quả. Khổ nhân là gì? Là ba độc tham, sân, si. Thiện nhân là gì? Giúp vật,
lợi người. Nếu ai nấy hiểu rõ lẽ nhân quả sẽ chẳng làm các điều ác, vâng
làm các điều lành, tai họa sẽ chẳng từ đâu mà khởi lên được nữa! Chỉ vì
người đời nay chẳng hiểu lý nhân quả, tư dục đầy ắp dạ, không điều ác
nào chẳng làm, chỉ biết có chính mình, chẳng biết có ai khác. Nào biết
lợi người chính là lợi mình, hại người còn tệ hơn hại mình! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4, Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
* Hiện thời, người đời chẳng hiểu nguyên lý nhân quả, cho đó là
chuyện bàn xằng, tà thuyết, lúc nào cũng tính chiếm tiện nghi, chẳng
chịu thua thiệt; đâu biết tiện nghi chính là chịu thua thiệt, chịu thua thiệt
chính là tiện nghi. Như người làm cha mẹ hiện nay phần nhiều nuông
chiều con cái, chẳng kềm cặp nghiêm ngặt đến nỗi tạo thành thói quen
ham tiền tài, tham chuộng tiện nghi. Cứ cho là có như vậy mới giữ gìn
được gia sản, chẳng đến nỗi bị tổn thất; nào ngờ kết quả trái ngược: Gây
vạ suốt đời, lại còn gián tiếp tạo ảnh hưởng vô hạn tới quốc gia, xã hội.
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4, Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai
Pháp Ngữ)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 157
* Nhận được thư ông và thư thầy Minh Đạo, biết đứa con thứ ba
mới hai mươi tuổi chợt bị chết yểu, khôn ngăn than thở. Huống chi ông
nuôi dạy bấy nhiêu năm, phí ngần ấy tinh thần, tiền của, trong lòng sao
khỏi cảm thương! Tuy nhiên, chớ nghĩ chính mình một lòng sốt sắng
làm chuyện công ích, quy y Phật pháp, sao chẳng được Phật che chở, rồi
đâm ra oán hận! Phải biết: Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời
kiếp kiếp đã tạo ác nghiệp vô lượng vô biên, hoặc ta thiếu nợ người,
hoặc người thiếu nợ ta, hoặc ta thiếu mạng người, hoặc người thiếu
mạng ta. Do đôi bên thiếu nợ nhau nên sanh ra đủ loại con cái khác
nhau. Có đứa trả nợ, có đứa đòi nợ, có đứa báo đức, có đứa báo oán.
Trong đời này, tuy ông khởi tâm xử sự mọi chuyện rất tốt, há lẽ nào
nhiều đời nhiều kiếp đều hoàn toàn không gây tạo tội nghiệp gì ư? Vì
thế, gặp cảnh ngộ bất như ý, con người chỉ nên phát tâm sám hối tội
nghiệp, chẳng nên sanh ý tưởng oán trời trách người. Nếu có thể phát
tâm sám hối, chẳng sanh oán hờn, đó là “gặp nghịch cảnh vâng chịu,
phước về sau khó thể suy lường được”. Đứa con này của ông đại khái là
do đòi nợ mà đến. Đòi đủ nợ rồi bèn lìa đời. Chủ nợ đã đi rồi, sao ông
không sanh ý tưởng giải thoát nghiệp lụy, lại nẩy sanh lòng oán trời
trách Phật, trở thành điên đảo vậy?
Năm Dân Quốc thứ tám (1919), ông Vương Chi Tường ở Bắc
Thông Châu, tên tự là Thiết San, có một đứa con rất thông minh, rất hiếu
thuận. Đứa lớn mắc bệnh thần kinh, tâm ông Thiết San mong mỏi đứa
nhỏ này sẽ kế thừa tiếng tăm gia đình. Năm nó hai mươi mốt, hai mươi
hai tuổi, đã cưới vợ, sanh được một gái, một ngày nọ bệnh nặng sắp chết.
Thiết San đau khổ cùng cực, gào lên: “X… ơi! Ngươi đã đến làm con ta,
sao lại muốn bỏ đi trong khoảnh khắc này?” Đứa con trừng mắt, nói
giọng Quảng Tây: “Tao nào phải là con nhà mày, tao là người thứ mười
bốn!” Nói xong, chết liền.
Trước kia, lúc ông Thiết San giữ việc binh bị ở Quảng Tây, lập kế
giết mười ba tên đầu lĩnh giặc cướp ra hàng: Trước hết dùng cách đối đãi
thật chiều chuộng, nồng hậu để xoa dịu, mời chúng ăn cơm. Lại còn mời
những người có danh vọng lớn đến bồi tiếp, thưởng cho mỗi tên hai
mươi bốn đồng, bảo chúng: “Ban ngày bận lắm, nếu các ngươi tới, ta
không thể chuyện trò cặn kẽ cùng các ngươi được, đến tối hãy tới, sẽ xếp
đặt chức vụ cho mỗi người trong bọn ngươi!” Mười ba người đó chẳng
biết ông muốn giết họ, lại kéo một người bạn thân cùng đi, cho rằng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 158
[ông Thiết San] sẽ nể tình, cũng xin cho người ấy được một chức vụ tốt.
Tối hôm ấy họ đến, cứ qua một cửa liền khóa ngay cửa ấy lại, đặt phục
binh trong hoa sảnh. Bọn họ đến nơi, Thiết San rút đao đang đeo ra
chém, phục binh cùng ùa ra giết, chặt được mười bốn cái đầu lâu, cũng
chẳng biết tên họ là gì. Nào biết người ấy chính là đứa con này. Uổng
công hơn hai mươi năm nuôi dạy nhọc nhằn, đến lúc chết lại trừng mắt
quát tháo, chẳng nhận Thiết San là cha!
Nói chung, cái nhân trở thành con cái trong cõi đời chẳng ngoài bốn
nghĩa “đòi nợ, trả nợ, báo ân, báo oán”. Đứa con này do đời trước ông đã
thiếu nợ nó, sạch nợ liền đi. Nếu là trả nợ và báo ân thì sẽ được nó hiếu
dưỡng. Hơn nữa, ông đã quy y Phật pháp, phải hiểu thế gian mọi sự vô
thường. Nếu chẳng cực lực niệm Phật cầu sanh Tây Phương, sẽ theo
nghiệp mà luân hồi trong tam đồ lục đạo làm sao ngưng ngớt cho được!
Qua cái chết của đứa con này, ông càng phải biết hết thảy mọi sự
đều không nương cậy được, chỉ có Tây Phương A Di Đà Phật chính là
chỗ nương tựa lớn lao cho hết thảy chúng sanh bọn ta. Từ đấy phát tâm
cảm kích, phát tâm tinh tấn, đem những công đức ta đã làm và công đức
niệm Phật đều cùng hồi hướng vãng sanh Tây Phương. Ông làm được
như thế thì cái chết của đứa con này chính là lời nhắc nhở, thúc đẩy ông,
tránh cho ông khỏi bị mê muội bởi phước báo quyến thuộc thế gian [đến
nỗi] chẳng sanh lòng nhàm lìa Sa Bà, cũng như không sanh lòng ưa
muốn Cực Lạc. Vì thế, giáng cho ông một gậy vào đầu đau buốt, hóa ra
ông chẳng quán sát nhận hiểu nơi bản thân, lại sanh khởi đủ mọi ngu
kiến oán trời oán Phật, trở thành “mê gốc chạy theo ngọn”, chẳng biết tự
phản tỉnh!
Người đời thường hay khoe khoang, kiêu căng bởi những công đức
chính mình đã tạo, dễ dãi đối với những tội lỗi chính mình đã gây. Con
người ai không tội? Đừng nói chi quá khứ, nếu chỉ nói trong đời này thì
đã giết đủ loại chúng sanh cho sướng miệng bụng! Chúng nó nào phải
gỗ, đá, chẳng biết đau khổ, chẳng muốn sống, chỉ mong người ta giết ăn
ư? Ông đã giết ăn nó, tương lai nó nhất định cũng muốn giết ăn ông.
Suốt một đời, con người không biết đã ăn bao nhiêu sanh linh, có nên
lớn lối bảo “ta vô tội, bị trời phạt lầm” hay chăng?
Do vậy, nói chung, thường nhân chẳng thấy được bản thân có lỗi,
nói chung thánh nhân chẳng thấy chính mình có đức. Chẳng thấy có lỗi
thì tội chất như núi. Chẳng thấy có đức thì đức cao tầy trời. Ông chớ có
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 159
nói như kẻ ngu si, hãy cực lực làm lành, nỗ lực niệm Phật, tất cả hết thảy
công đức thiện sự lợi người đều nên hồi hướng vãng sanh Tây Phương
thì tâm hạnh trong đời hiện tại sẽ khế hợp với tâm hạnh của thánh hiền,
đến khi lâm chung, chắc chắn được A Di Đà Phật tiếp dẫn vãng sanh.
Đấy chính là lúc gặt hái công lao, kết quả vậy. Nếu chẳng sanh về Tây
Phương thì chuyện lành đã làm sớm hay muộn đều hưởng quả báo,
nhưng quả báo do giết ăn chúng sanh cũng khó khỏi phải trả, đáng sợ
lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Đức Sướng)
* Đọc thư gởi đến, biết ông thông minh nhưng chưa triệt để! Vì thế
mới coi nhân quả của Nho - Phật giống như cách thưởng phạt trong phép
vua trong thế gian, tợ hồ có lý, nhưng thật ra vô lý! Sự thưởng phạt trong
thế gian ước theo tình người mà định, còn nhân quả chính là do tâm thức
chiêu cảm. Nho và Thích không hai đạo! Ông cho rằng đạo Nho có
những điều chưa nêu tỏ tức là [đạo Nho] chỉ dừng lại ở đó, đấy cũng là
một chứng cớ cho thấy ông thông minh nhưng chưa triệt để.
Phàm nhân quả thiện hay ác đều do tự tâm chiêu cảm, người đời
không biết, đức Phật giảng cặn kẽ, ông cho là đức Phật bày đặt ra, há có
phải là thông minh thật sự hay chăng? Quả báo xảy đến có khi là tức
khắc, ngay trong đời này, có khi là trong đời kế tiếp, đời sau, và nhiều
đời, nhiều kiếp. Ông hiềm quả báo xa xôi, muốn quả báo xảy đến cho
nhanh, là đã trở thành tà kiến rồi!
Phải biết: Quả báo từ siêu phàm nhập thánh liễu sanh thoát tử cho
đến thành Phật đều phải là nhiều kiếp. Tuy nói: “Phóng hạ đồ đao, lập
địa thành Phật” (Buông dao đồ tể xuống, thành Phật ngay nơi đó),
nhưng thật sự chứng Phật Quả cũng phải mất nhiều kiếp! Đừng cho rằng
“hễ ngộ được Phật Tánh liền thật sự chứng được Phật Quả!” Nếu nói
như ông, trong cõi đời không một ai có thể liễu sanh thoát tử, huống chi
là thành Phật ư? Nếu ông biết điều này, sẽ chẳng đến nỗi trách Phật tàn
ác, sẽ cảm được lòng từ bi của đức Phật, đau lòng tuôn lệ bảo với những
kẻ cùng hàng. Ông hiềm rằng chẳng đạt được quả báo nhanh chóng,
nhưng chẳng biết đến cái lợi lớn lao của việc [đạt quả báo] không nhanh
chóng, chính là loài trùng mùa Hạ chẳng biết có băng, con phù du98
98 Phù du (đôi khi còn được gọi là “con vờ”) là tên gọi chung của hơn hai trăm loài
côn trùng nhỏ thuộc họ Ephemeroptera. Chuồn chuồn cũng thuộc họ này, nhưng tuổi
thọ không quá ngắn ngủi như những con phù du. Đa phần những con phù du khá
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 160
chẳng thấy được ngày hôm sau, chẳng đáng thương ư? Quả báo chậm
hay mau đều do nghiệp thức của chính mình cảm thành, há nên đùn đẩy
cho đức Phật?
Do ông thông minh, nên trong ý ông vẫn mắc lỗi “có biết nhưng
vẫn cố phạm”. Đủ thấy, chuyện “giảm bớt lỗi” dẫu là thánh nhân vẫn
phải nỗ lực! Do vậy, Khổng Tử tuổi đã bảy mươi, vẫn muốn trời cho
sống thêm năm hay mười năm nữa để học Dịch hòng tránh được lỗi lớn.
Nhà Nho thấy biết nông cạn, cho là thánh nhân quá khiêm tốn, chẳng
biết thánh đạo sâu xa, chẳng phải là “hễ ngộ liền có thể thấu hiểu tột
cùng được”!
Những chuyện khác hãy khoan nói tới, chỉ lấy Viên Giáo để luận,
thì: Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc, Bát Tín, Cửu Tín,
Thập Tín phá Trần Sa Hoặc, khuất phục vô minh. Thập Tín hậu tâm99 lại
phá một phần vô minh liền chứng Sơ Trụ, trở thành Pháp Thân đại sĩ. Từ
Sơ Trụ cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, trải qua bốn mươi mốt địa vị vẫn chưa đạt đến địa vị “hết
sạch vô minh”. Bậc Đẳng Giác lại phá một phần vô minh, tức là “Chân
cùng, Hoặc tận”, thành Phật quả, viên mãn Bồ Đề. Sự xa xôi giữa thiện
báo và ác báo cũng gần ngang nhau, huống hồ tu nhân chứng quả cho
đến lúc thành Phật ư? Nếu mọi chuyện đều xong ngay trong một chốc thì
sẽ trở thành hầm sâu đoạn diệt “không nhân không quả”.
Ông chẳng thấy đạo trời vận hành hay sao? Tiết Hạ Chí, Nhất Âm
sanh bèn nắng gắt, tiết Đông Chí, Nhất Dương sanh bèn lạnh buốt100.
giống chuồn chuồn, nhưng nhỏ hơn. Loài ấu trùng của chúng (naiad) sống trong
những vũng nước ngọt cả năm trời, đến khi lột xác bay lên thành phù du chỉ sống
được vài giờ. Có loài như chuồn chuồn thì sống được vài ngày.
99
Thập Tín hậu tâm: Sau khi đã chứng nhập viên mãn mười địa vị thuộc Thập Tín.
100 Hạ Chí là một trong hai mươi bốn tiết khí của Âm lịch. Nhằm hôm đó, ngày dài
nhất, đêm ngắn nhất tại Bắc Bán Cầu. Ngày này được coi như ngày mở đầu cho mùa
Hạ. Hạ Chí thường rơi vào ngày 21 hoặc 22 tháng Sáu Dương lịch. Theo cách giải
thích trong Dịch Học, Chí là cực điểm, Nhất Âm khởi đầu từ mùa Hạ (“Hạ chí, nhất
âm sanh; Đông chí, nhất dương sanh”), hàm nghĩa: “Đến lúc này, khí Dương đã đạt
đến cực điểm, bắt đầu suy vi, nên khí Âm lấn lên, Âm trưởng, Dương hao vậy!”
Tương tự, Đông Chí bắt đầu vào ngày 21, 22 tháng 12, tượng trưng cho khí Âm đã
đến cực điểm, bắt đầu suy vi, Âm hao, Dương trưởng!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 161
Lập Xuân có khi trước Tết, có khi sau Tết101, mỗi mỗi đều chẳng thể
cùng xong hết trong một lúc được, nên mới thành năm tháng. Nếu cùng
một lúc xong hết thì chẳng trở thành vận hành, mà thành đoạn diệt! Đối
với việc thưởng phạt tội - phước, trong cõi Âm quả thật có người chủ trì,
nhưng chẳng phức tạp như trong Dương gian, bởi án từ, sổ sách đều tự
hiện, tự tiêu, và cũng không có người ghi chép, khóa sổ. Vì thế, cõi Âm
không sai lầm!
Có chuyện người tên X… ở tỉnh kia bị [quỷ sứ] bắt vì lầm với
người cùng tên X… ở tỉnh này; ấy chính là mượn chuyện người không
đáng chết ấy để tỏ rõ thật sự có những chuyện địa ngục, hình phạt trong
cõi Âm v.v… ngõ hầu người đời sanh lòng tin. Do vậy, thường có
chuyện bậc sĩ phu chánh trực trong thế gian tạm thời xử đoán chuyện
của vua Diêm La, người bình thường trong thế gian làm sai nha cho cõi
Âm, do bắt lộn người nên bị đánh đòn, cách chức, đều là “nhân cùng thố
đại” (nghĩa là do [nhờ vào] hoàn cảnh ép ngặt để thực hiện sự giáo hóa
vậy - “thố đại” là “thực hiện đại sự tu tề trị bình”), bởi lẽ mắt chẳng thấy
sẽ không tin, lại còn mượn cớ báng Phật, cho nên đặc biệt hiện ra chuyện
ấy để tỏ bày đại sự hòng mở rộng tầm mắt.
Chuyện như vậy rất nhiều, tôi nêu lên một chuyện để hòng biết trọn.
Trong Kiến Văn Lục của Ngẫu Ích đại sư có chép chuyện một Sinh
Viên102 ở Hồ Bắc nắm quyền xử lý dưới tay Ngũ Điện Diêm La
Vương103. Một đêm đến cõi Âm, thấy một cuốn sổ chép vợ mình giết
101
Tiết Lập Xuân dao động từ mồng Ba đến mồng Năm tháng Hai Dương lịch, ngày
Tết thường rơi vào từ cuối tháng Giêng cho đến cuối tháng Hai Tây, tùy theo cách
tính năm nhuận.
102 Vào thời Minh - Thanh, Sinh Viên chính là người đỗ cuộc thi khảo hạch tại phủ
huyện, tức tương ứng với danh hiệu Tú Tài trong các đời trước.
103 Diêm La Vương (Yama-rāja) chính là vị chủ tể cõi Âm. Theo Du Già Sư Địa
Luận, Diêm La Vương do những vị Bồ Tát hóa hiện để giáo huấn tội nhân. Theo Đại
Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh, Đại Phương Quảng Thập Luân Kinh, Địa
Tạng Bồ Tát cũng hóa hiện thân Diêm Vương để độ chúng sanh. Người Trung Quốc
tin rằng: Diêm Vương giữ sổ sanh tử, người chết sẽ đến trước mặt Diêm Vương để bị
xét xử tội lỗi. Có mười vị Diêm Vương cai quản địa ngục, tức Tần Quảng Vương, Sở
Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Diêm La Vương, Biện Thành
Vương, Thái Sơn Vương, Đô Thị Vương, Bình Đẳng Vương và Chuyển Luân
Vương. Phật môn Trung Hoa cho rằng Đệ Ngũ Điện Diêm La Vương chính là hóa
thân của Địa Tạng Bồ Tát. Theo đó, người chết đến ngày thứ ba mươi lăm sẽ đến
Ngũ Điện thuộc Khiếu Hoán địa ngục. Khi vong hồn những kẻ tích cóp tài sản, tham
lam, bạc ác đến trước Ngũ Điện Diêm La Vương, sẽ được đưa lên Nghiệt Kính Đài
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 162
trộm gà hàng xóm, kể cả lông thì nặng một cân mười hai lượng, nhân đó
bèn xé một góc trang sổ để đánh dấu. Tỉnh dậy, ông ta hỏi vợ sao lại giết
trộm gà hàng xóm, bà vợ chẳng thừa nhận. Ông ta nói: “Bà vẫn cứ lừa
dối tôi. Sổ sách trong cõi Âm đã chép bà giết trộm gà hàng xóm, kể cả
lông thì nặng một cân mười hai lạng”. Bà vợ kể: “Phơi thóc gạo trong
sân, gà hàng xóm đến ăn, dùng đồ vật quăng nó, nó chết lăn quay, còn
chưa động đến!” Bảo đem gà cân lên, quả thật nặng một cân mười hai
lạng. Ông sai vợ đem gà và một số tiền bằng giá một con gà đem trả,
thưa rõ đầu đuôi với người ta, xin đừng quở trách.
Đêm ấy, ông ta lại vào cõi Âm xem sổ, góc trang sổ bị xé vẫn còn
đó, nhưng không thấy một chữ nào cả! Ông cho rằng hình phạt trong cõi
Âm là do đức Phật đặt chuyện, có thể nói là đã cô phụ ơn Phật quá lắm!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ X…)
* Nhân quả giống như bóng theo hình, tiếng vọng đi theo âm thanh.
Chưa hề có hình mà không có bóng, có âm thanh mà chẳng có tiếng
vọng vậy. Vì thế, kinh Thư nói: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy
ảnh hưởng” (Thuận theo đạo lý thì tốt, trái nghịch thì xấu, giống như
bóng theo hình, như tiếng vọng đi theo âm thanh vậy). Những kẻ bàn
chuyện cao xa, cho nhân quả là hư huyễn, khác gì chấp rằng “mẹ quyết
chẳng thể sanh được con, con quyết chẳng phải do mẹ sanh ra” ư? Trong
đời nếu có kẻ như vậy, ắt bị người ta coi là điên khùng!
Rất lạ là nhà Nho đọc sách thánh hiền, chẳng lấy ngôn luận của
thánh hiền làm chuẩn, chẳng lấy sự thật xưa nay làm chuẩn, cứ lấy sự
thiên chấp, cái nhìn lầm lạc của chính mình làm chuẩn! Một người
xướng, mọi người hùa theo, kẻ mù dẫn lũ đui kéo nhau vào lửa, đến nỗi
thế đạo nhân tâm ngày một đi xuống, đến nỗi phế kinh điển, phế luân
thường, phế hiếu, không hổ thẹn, giành đất, tranh thành, tàn sát lẫn nhau
mà vẫn nhơn nhơn tự đắc, cho là ta chú trọng quay về đại đạo, chẳng bắt
chước bọn hủ bại đời trước cứ luôn luôn câu nệ, trói buộc, khiến cho con
người suốt đời chẳng thể tùy ý làm được gì, [nay] ai nấy đều được tự tại!
Từ nay trở đi chúng ta cùng được hưởng hạnh phúc, tự do, nghĩ đến điều
gì đều làm được cả! Cõi đời may sao có bọn ta cải cách, con người may
sao được sống cùng thời bọn ta! Tà thuyết như vậy đều do những kẻ bài
xích nhân quả ươm thành!
(Vọng Hương Đài) cho thấy rõ tình hình của người thân còn sống đang phung phí,
phá tán tài sản của người đã mất.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 163
Nếu lý nhân quả được nhà nhà khuyên dạy, giảng giải, cha mẹ dùng
đó để dạy con cái, sư trưởng dùng đó để giáo huấn học trò thì có ai chịu
diệt lý, rối luân thường, hiện dáng vẻ xấu xí trước gương sáng nữa ư?
Chỉ vì bậc đại Nho trong cõi đời thường hay bài xích, kẻ tiểu Nho dẫu
biết là sai mười mươi đi nữa, cũng chỉ đành người ta nói sao ta cũng ừ
vậy, để khỏi bị mọi người chõ miệng chê bai, khích bác! Nơi trường học
đã như vậy thì trong gia đình càng không có lý do gì để bàn đến. Rốt
cuộc đến nỗi những kẻ theo tân học hoàn toàn vứt bỏ nhân luân, diệt
thiên lý, muốn cho [con người] hoàn toàn chẳng khác gì cầm thú! Mối
họa ấy chẳng quy vào những kẻ bài xích nhân quả thì còn quy vào ai nữa
đây? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho tác phẩm Kỷ
Văn Đạt Công Bút Ký Trích Yếu)
* Vào đời Tùy, Triệu Lương Tướng ở Đại Châu giàu nứt đố đổ
vách, có hai đứa con, trưởng tên là Mạnh, thứ tên là Doanh. Doanh mạnh
mẽ, Mạnh yếu đuối. Lúc sắp mất, Lương Tướng chia tài sản ra làm hai
phần, Mạnh được phần hơn. Đến khi Lương Tướng mất rồi, Doanh cướp
đoạt sạch, chỉ để lại cho Mạnh một rẻo vườn, nhà. Mạnh làm thuê kiếm
sống. Sau đó, Doanh chết đi làm con của Mạnh tên là Hoàn. Mạnh chết
đi, đầu thai làm cháu của Doanh tên là Tiên. Hoàn lớn lên làm đầy tớ
cho Tiên, lòng hận Doanh cướp đoạt sản nghiệp. Đúng dịp Tiên muốn đi
triều bái Ngũ Đài sai Hoàn theo hầu. Vào trong núi, đến chỗ đồng trống
không người, [Hoàn] rút dao nói: “Ông nội mày đoạt gia nghiệp của tao,
tao sẽ giết mày!” Tiên chạy lẹ, Hoàn đuổi theo. Tiên chạy vào một am
tranh, một vị lão tăng ngăn họ lại, trao cho mỗi người một chén trà
thuốc. Uống xong, như mộng vừa tỉnh, biết rõ chuyện trước kia, cảm
thấy hổ thẹn đau xót.
Lão tăng nói: “Doanh là tiền thân của Hoàn, cướp đoạt sản nghiệp
của người khác chính là tự vứt bỏ sản nghiệp của chính mình. Tiên là
Mạnh đầu thai trở lại để hưởng sản nghiệp trước kia. Lời cha vẫn còn
đó!” Hai người bèn xuất gia tu đạo tại Ngũ Đài. Hai người này đời trước
có thiện căn nên được Bồ Tát điểm hóa, được kết quả như thế đó. Nay
[người đời] coi giết người là vui, quả báo về sau sẽ khó lòng tưởng
tượng được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ
Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa Pháp Vân)
* Biết nhân quả sẽ xử sự thuận theo thiên lý, ăn nói thuận theo lòng
người, do đâu mà có chuyện chiến tranh cho được? Nếu khinh rẻ các thứ
hàng hóa của nước nhà, quý trọng các món hàng nhập cảng, tiền tài
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 164
trong cả nước đều bị chở hết ra ngoại quốc, đấy chính là “chẳng noi theo
thiên lý, chẳng thuận theo lòng người” rất lớn, khiến cho kẻ khác dùng
tiền tài của chính ta để chế tạo súng ống đánh ta! Do vậy, biết rằng:
Những kẻ ưa dùng hàng hóa ngoại quốc đều chẳng thể không gánh lấy
cái tội vời người khác đến đánh ta! Từ nay trở đi, hãy thống thiết sửa đổi
lỗi trước, học theo Cam Địa104 (Gandhi) chẳng dùng hàng ngoại quốc, thì
tiền của ít bị thất thoát, đất nước giàu mạnh. Lời lẽ này tựa hồ viễn vông,
nhưng thật ra quan trọng tột bậc!
Phải biết: Kẻ hiểu nhân quả khi khởi tâm, làm việc, chỉ sợ mắc phải
tội khiên, ắt sẽ sốt sắng hành tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa,
liêm, sỉ”, suy xét cùng tột tám việc “cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý,
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, dẫu là trùng, kiến cũng chẳng
dám giết. Kẻ không biết nhân quả tự giết cha mẹ, còn tự khoe công, cực
lực đề xướng chuyện biến con người thành loài thú, tính làm cho người
trong cả thiên hạ trọn chẳng khác gì cầm thú thì tâm họ mới yên vui,
sung sướng! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư
sĩ Chiến Đức Khắc - 2)
3. Giảng giải nguyên do tạo nên kiếp vận
* Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Vì thế,
đức Phật coi hết thảy chúng sanh đều là Phật, thương họ trái giác hiệp
trần, luân hồi sáu nẻo, trải kiếp số nhiều như mảy trần không cách gì
thoát lìa được. Do vậy, tùy theo căn cơ lập giáo, đối bệnh cho thuốc, đủ
mọi phương tiện chỉ dạy, mong sao họ sẽ trái trần hiệp giác, bỏ vọng về
104 Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948) là một chính trị gia và lãnh đạo tinh
thần của Ấn Độ, có công hướng dẫn dân Ấn đấu tranh bất bạo động giành độc lập
cho Ấn Độ từ tay Anh quốc. Ông thường được gọi là Mahatma Gandhi. Từng tốt
nghiệp Luật Sư, ông đã áp dụng sự đối kháng hòa bình vào cuộc đấu tranh tại Nam
Phi. Trong vai trò lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress), với
chủ thuyết bất bạo động, ông đã liên kết được mọi phần tử khác biệt chính kiến, tôn
giáo, giai cấp trong xã hội Ấn Độ để chung sức tranh đấu cho nền độc lập nước nhà.
Tuy thế, khi Ấn Độ giành được độc lập, do sự bất đồng chính kiến và tranh giành
quyền lực giữa những phe phái tín đồ Ấn giáo và Hồi giáo, Pakistan đòi tách khỏi Ấn
Độ. Một tín đồ Ấn Giáo cuồng nhiệt thuộc nhóm quá khích Ấn giáo Mahsabha là
Nathuram Godse đã ám sát Gandhi vì cho rằng chính ông ta đã nhu nhược nhượng
bộ trước sự đòi hỏi phân ly của Pakistan. Gandhi từng chống đối hàng nhập cảng của
Anh, nên đã hướng dẫn một đoàn người đi bộ ra tận biển khơi lấy nước biển làm
muối khi thực dân Anh đánh thuế muối, cũng như tự quay xa, kéo sợi dệt vải lấy để
khỏi phải dùng vải nhập cảng từ Anh.
( xem tiếp phần 3)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét