Gia Ngôn Lục Phần 5

Phần 5 cuốn Gia Ngôn Lục sẽ mang đến nhiều điều thú vị cho bạn đọc , xin mời các bạn tiếp tục tìm hiểu:





Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 226
Ngạn, năm vóc mọp sát đất, nguyện thấy đức Di Lặc, nói kệ tán thán,
bèn thấy Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đi tới.
Thiện Tài đảnh lễ, Di Lặc đối trước đại chúng cùng đi với Ngài, tán
thán Thiện Tài là chân Phật tử, là chân pháp khí. Lại vì Thiện Tài nói đủ
mọi công đức của tâm Bồ Đề hòng bồi đắp nền tảng thành Phật, dạy
Thiện Tài vào trong Đại Lâu Các quan sát trọn khắp sẽ biết rõ cách học
Bồ Tát hạnh. Học xong sẽ thành tựu vô lượng công đức. Thiện Tài bạch
rằng: “Kính xin Đại Thánh mở cửa lâu các cho con được vào!” Ngài Di
Lặc khảy ngón tay ra tiếng, cửa liền mở ra, bảo Thiện Tài vào. Vào
xong, cửa đóng lại. Thiện Tài thấy lâu các ấy rộng rãi vô lượng giống
như hư không. Mặt đất và cung điện, hết thảy vật cúng đều dùng vô
lượng các thứ báu để hợp thành. Lại thấy trong ấy có vô lượng trăm
ngàn các thứ lâu các nhiệm mầu, mỗi mỗi rộng lớn, nghiêm trang, đẹp
đẽ, đều bằng với hư không, chẳng ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn.
Nơi mỗi một chỗ thấy hết thảy chỗ, trong hết thảy chỗ đều thấy như thế.
Khi đó, Thiện Tài rạp mình lễ kính, vừa mới mọp đầu đã tự thấy
thân mình trọn khắp trong hết thảy các lâu các, lễ khắp hết thảy Phật Pháp - Tăng, thấy đủ các thứ cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn, như là:
Hoặc thấy đức Di Lặc vừa mới phát tâm Bồ Đề hành đạo Bồ Tát, thân
cận vị thiện tri thức nào, chứng tam-muội nào cho đến đích thân chứng
được Pháp Thân, trong mười phương pháp giới, trải qua số kiếp nhiều
như số vi trần trong cõi Phật hiện những thân trong tam thừa lục đạo để
giáo hóa, mỗi mỗi đều thấy trọn vẹn và hết thảy chư Phật trong mười
phương thế giới từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật độ sanh và
nhập Niết Bàn, pháp tồn tại lâu - mau, cũng đều thấy trọn vẹn. Thiện Tài
ở trong lâu các thượng cầu hạ hóa, trải qua số kiếp nhiều như số vi trần
trong cõi Phật siêng năng, chuyên ròng tu trì đủ mọi diệu hạnh mà chẳng
mỏi mệt, nhất tâm tiến thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề.
Khi ấy, Di Lặc Bồ Tát liền thâu hồi thần lực, vào trong lâu các,
khảy ngón tay ra tiếng, bảo Thiện Tài: “Thiện nam tử! Hãy dậy đi, pháp
tánh như vậy đó. Đây chính là trí biết các pháp của Bồ Tát, [biết các
pháp] là tướng được hiện bởi nhân duyên tụ tập. Tự tánh như thế giống
như huyễn, như mộng!” Do vậy biết Đại Lâu Các ấy chính là pháp giới
tạng. Phàm tất cả những sự vi diệu trong pháp giới không gì chẳng thấy
trọn vẹn trong lâu các này. Đó gọi là “mười pháp giới xưa - nay, từ đầu
đến cuối chẳng lìa một niệm hiện tại, vô biên cõi nước, ta - người chẳng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 227
cách biệt chừng bằng mảy lông!” Nếu không có thần thông đạo lực của
Di Lặc và Thiện Tài cạn lòng thành tận lòng kính, làm sao đạt được như
vậy?
Trong đời gần đây, các nơi không nơi nào chẳng thờ tượng Di Lặc
nơi tiền điện, nhưng chẳng gọi là Di Lặc Điện mà lại gọi là Thiên Vương
Điện, đúng là coi ngài Di Lặc như khách ăn nhờ ở đậu các vị Thiên
Vương, quá mất ý nghĩa tôn kính! Linh Nham tu bổ tiền điện, nhân đấy
tôi bèn nói nguyên cớ với giám viện là đại sư Diệu Chân, lại trích lục
chương Thiện Tài tham học với ngài Di Lặc từ kinh Hoa Nghiêm để
chứng tỏ ngài Di Lặc đức vượt trỗi Thập Địa, đạo đã chứng Đẳng Giác,
từ bi cứu vớt chúng sanh, nếu không phải là Phật sẽ chẳng thể biết được!
Do vậy, bèn đặt tên [cho tiền điện] là Di Lặc Lâu Các để mong sau này
ai bước vào đó sẽ đều giống như Thiện Tài hoặc trong đời này hoặc
trong đời mai sau, ai nấy đích thân chứng được đạo trong lâu các, để an
ủi tấm lòng đại từ bi “luôn dạy cho người đương thời” của ngài Di Lặc.
Hơn nữa, các nơi thờ tượng Di Lặc chính là tượng Bố Đại hòa
thượng do ngài Di Lặc thị hiện vào cuối đời Đường. Nay đã biết là do Di
Lặc thị hiện thì cố nhiên hãy nên thờ bổn tượng vi diệu trang nghiêm.
Nhằm tỏ rõ ngài đang sống trên Đâu Suất Thiên nên tạc tượng ngài đội
mũ Ngũ Phật để làm tiêu thức172. Lược thuật duyên khởi để bảo cùng
người thông sáng mai sau, hiểu tôi hay trách tội tôi, tôi cũng chẳng
màng! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký thuật công đức
trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh Nham Sơn Tự)
* Tọa hạ phát Bồ Đề tâm, sắm sửa đủ mười tám món vật, muốn
hành hạnh Đầu Đà, quả thật là hành hạnh khó hành, nhưng Quang trộm
chẳng cho như vậy là đúng! Bởi lẽ, thời cuộc nguy hiểm, các nơi tai
ương, đói kém, liều mình du hành vào nơi hoạn nạn, kinh Phạm Võng
không chấp nhận đâu! Do vậy, hãy nên tìm một nơi chân thật tu đạo, giữ
tâm khiêm hạ, chết sạch những vọng động, tu trì Tịnh nghiệp, so ra có
ích hơn hằng ngày du hành, bôn ba nhọc nhằn!
 172 Tiêu thức là những vật dụng nhằm biểu thị hạnh nguyện, phương tiện của một vị
Phật hay một vị Bồ Tát, chẳng hạn tiêu thức của ngài Quán Âm là bình cam lộ với
nhành dương liễu, tiêu thức của Địa Tạng Bồ Tát là viên minh châu và tích trượng,
tiêu thức của Văn Thù Bồ Tát là thanh kiếm trí huệ v.v... Trong Mật Tông thường tạc
tượng Di Lặc Bồ Tát cầm tháp báu (tượng trưng cho Tỳ Lô Giá Na Lâu Các), đội mũ
Ngũ Phật và mặc y phục cõi trời, ngồi thõng hai chân (ngụ ý Ngài vẫn chưa thành
Phật).
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 228
Phong tục ở nước ta chẳng giống như thời đức Phật tại thế, hãy
thuận theo thời tiết mà lượng định oai nghi mới là người thông suốt. Nếu
ông vẫn nhất quyết chẳng chịu thay đổi chương trình đã định, Quang
cũng không ép! Nhưng sau này chớ nên gởi tới một chữ nào nữa, gởi đến
quyết không trả lời! Ông đi đường ông, tôi giữ chí tôi! Huống chi Quang
sẽ chết trong sớm - tối, nào còn dám xen vào chuyện người khác! (Hoằng
Hóa Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả
lời đại sư Ứng Thoát - 2)
* Vì sao biết tượng Đại Bi Chú173 là ngụy tạo? Bởi lẽ chú có vô
lượng nghĩa lý, sao có thể lấy một tượng làm chuẩn được? Chú ấy do
đức Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật174 nói ra trong vô lượng kiếp
trước, sao lại cũng nhắc tới đệ tử của Phật Thích Ca là A Nan? Sao lại
còn nhắc đến Mã Minh, Long Thọ là những vị chỉ xuất hiện sau khi đức
Phật Thích Ca đã nhập diệt? Đại Bi Sám Nghi của Tứ Minh Pháp Trí đại
sư175 người ta không thấu hiểu được, cứ thường coi trọng hình tượng, đủ
 173 Đây là một cách giải thích chú Đại Bi không biết phát xuất từ thời nào. Theo đó,
mỗi câu trong bài chú Đại Bi tương ứng với một hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát
hoặc một vị Bồ Tát, Thanh Văn nào đó, chẳng hạn câu “Ma-ha Ca-rô-ni-ca-da” là
Mã Minh Bồ Tát hiện thân, “Nam-mô tất-cát-lật-đỏa y mông” là Quán Thế Âm hiện
thân Long Thọ Bồ Tát, câu “địa rị ni” là Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân Sư Tử
Vương Bồ Tát, “bồ-đà-dạ bồ-đà-dạ” là Quán Thế Âm hiện thân tôn giả A Nan v.v…
174 Trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quán Thế Âm
Bồ Tát tự bạch nhân duyên như sau: “Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp
về trước, có Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy
vì thương nghĩ đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn
Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa đảnh đầu con mà bảo: „Thiện
nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở
đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích an vui lớn‟. Lúc đó, con mới ở ngôi Sơ Địa
vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên Đệ Bát Địa. Bấy giờ con rất vui
mừng, liền tự phát thệ rằng: „Nếu trong đời vị lai con có thể làm lợi ích an vui cho
tất cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn tay
ngàn mắt‟. Khi con phát thệ rồi, ngàn tay ngàn mắt đều hiện nơi thân…” (Theo bản
dịch của hòa thượng Thiền Tâm)
175 Tứ Minh tôn giả (960-1028), chính là ngài Tri Lễ, pháp hiệu Pháp Trí, một vị cao
tăng tông Thiên Thai. Ngài quê ở Tứ Minh (thuộc huyện Cận tỉnh Chiết Giang), lên
bảy tuổi mất mẹ bèn phát nguyện xuất gia, mới mười lăm tuổi đã được đặc cách thọ
Cụ Túc Giới, năm hai mươi tuổi sang chỗ ngài Bảo Vân Nghĩa Thông học Thiên
Thai Giáo Quán, chỉ một buổi đã tinh thông. Năm Chí Đạo thứ nhất (995), ngài được
thỉnh về làm Trụ Trì Bảo Ân Tự núi Tứ Minh, ba năm sau chùa được sắc tứ là Diên
Khánh Tự. Sư hoằng pháp giảng kinh tại đây hơn bốn chục năm, khắp cả vùng Đông
Nam Trung Hoa đều theo học. Sư cùng với đại sư Tuân Thức là những nhân vật chủ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 229
thấy Tăng sĩ đời sau phần nhiều không hiểu rõ giáo lý! (Hoằng Hóa Nguyệt
San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời đại sư
Ứng Thoát - 2)
* Đệ tử Phật cúng tổ tiên, lẽ đương nhiên nên lấy tụng kinh, trì chú,
niệm Phật làm chánh. Đốt giấy vàng bạc cũng chẳng nên bỏ, bởi chẳng
biết chắc [tổ tiên] đã được vãng sanh ngay [hay chưa?] Dẫu chắc chắn
được vãng sanh ngay, cũng chẳng ngại gì giúp cho kẻ chưa được vãng
sanh chi dùng.
Người thọ Ngũ Giới nên đắp mạn y176 là [loại y] có năm điều thẳng,
chứ không phải là [loại y] năm điều gồm một miếng dài, một miếng
ngắn. Nay thì y năm điều một dài một ngắn, y bảy điều hai dài một ngắn,
   chốt của Thiên Thai Xuất Gia Phái, đối lập với Sơn Ngoại Phái của Ngộ Ân, Hồng
Mẫn, Nguyên Thanh v.v… Sư bình sinh dốc sức biên soạn sám pháp và giảng các bộ
Pháp Hoa Huyền Nghĩa (bảy lần), Pháp Hoa Văn Cú (tám lần), Ma Ha Chỉ Quán
(tám lần), Đại Niết Bàn Kinh Sớ (một lần), Kim Quang Minh Huyền Nghĩa Sớ
(mười lần), Quán Âm Biệt Hành Huyền Sớ (bảy lần), Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh Sớ (bảy lần). Sư chuyên tu Pháp Hoa Sám mỗi kỳ tu tập là hai mươi mốt ngày
đêm hành trì liên tục. Sư còn chuyên tu Di Đà Sám Pháp năm mươi lần. Sư từng đốt
ba ngón tay cúng Phật, mỗi năm tổ chức pháp hội niệm Phật thí giới. Sư trước tác rất
nhiều, hiện còn giữ được các bộ Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao, Kim Quang Minh
Kinh Văn Cú Ký, Giải Báng Thư, Đại Bi Sám Nghi, Tu Sám Yếu Chỉ, Quang Minh
Sám Nghi, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Dung Tâm Giải, Quán Âm Biệt Hành
Huyền Nghĩa Ký, Quán Âm Biệt Hành Sớ Ký, Thích Thỉnh Quán Âm Sớ Trung Tiêu
Phục Tam Dụng, Vấn Mục Nhị Thập Thất Điều Đáp Thích, Nhị Thập Vấn, Biệt Lý
Tùy Duyên, Nghĩa Lệ Cảnh Quán v.v…
176
Mạn y (Patta), dịch âm là Bát Tra, là một trong các loại y của Tăng chúng. “Mạn”
(縵) nghĩa là y trơn, không có điều, tức là không gồm nhiều mảnh vải nhỏ may ghép
lại. Thông thường Mạn Y được mặc bởi những vị Sa Di, Sa Di Ni, do họ chưa thọ Cụ
Túc, chưa đủ tư cách làm bậc Ứng Cúng nên y để đắp không cắt thành hình thửa
ruộng (phước điền y) như y của chư Tăng. Ở Trung Hoa, cư sĩ cũng đắp y, nhưng y
không có điều. Lại nữa, loại mạn y này để nguyên cả khổ vải để may, chỉ viền mép
y, còn y của Sa Di thì gồm hai mảnh vải may đâu lại, may thành sọc ở chính giữa để
phân biệt với y của chư tỳ-kheo và cư sĩ. Khi xưa, do khổ vải hẹp, đôi khi mạn y
cũng gồm nhiều mảnh vải nhỏ (mỗi miếng ấy được gọi là Điều) ghép lại, như trong
lá thư trên, Tổ có nói đến loại Mạn Y gồm năm miếng dành cho cư sĩ, nhưng để phân
biệt, năm miếng đó có chiều dài bằng nhau, chứ không cắt thành miếng dài, miếng
ngắn may ghép lại như y của người xuất gia. Hiện thời, ngoại trừ trong một số đạo
tràng như Phật Quang Sơn chẳng hạn, cư sĩ thọ Ngũ Giới thường đắp y khi tụng
niệm, trong các đạo tràng khác, chỉ cư sĩ đã thọ Bồ Tát Giới mới đắp y trong khi làm
lễ tụng giới, chứ không đắp y thường xuyên trong các buổi tụng kinh hoặc các buổi
lễ khác.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 230
[hàng tại gia đệ tử] thường đắp loạn xạ, thật là “tiếm việt” (lạm danh,
vượt phận). So với chuyện tiếm việt này, chẳng thà không đắp y còn tốt
hơn! Nếu muốn đắp y thì chỉ nên trong lúc lễ bái mới đắp, chẳng nên
thường đắp đến nỗi rối loạn nghi thức, quy củ.
“Cụ” vốn có tên là “tọa cụ”177 để dùng trong lúc ngồi, nước ta lại
thường dùng trong lúc lễ bái! Hễ theo đại chúng thì không thể chẳng
dùng, còn tự hành thì dùng hay không tùy ý ta. Tăng còn như thế huống
gì là cư sĩ ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Thái Tích Đỉnh ở Hải Môn - 3)
* Gần đây chánh phủ thường ra lệnh rõ ràng cho Tổng Hội Phật
Giáo Trung Quốc, buộc Hội phải nhắc nhở răn đe Tăng Già ai nấy tận
lực giữ Thanh Quy. Phải biết rằng: Tăng Già là bậc thầy khuôn mẫu cho
trời người, chánh phủ ban lệnh đốc thúc tức là [Tăng Già] đã mất thể
thống. Nếu vẫn cứ như đang nằm mộng thì sợ rằng sau này khó tránh
được nạn Tăng sĩ bị xua đuổi, tài sản bị chiếm đoạt! (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Lời thông cáo nhún nhường của hội Phật giáo
Ngô huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng các tự viện)
* Người đời muốn tu Tịnh nghiệp nhưng khổ vì không có người
biết pháp, rốt cuộc đi theo các thứ ngoại đạo luyện đan vận khí để cầu
trường sanh và thành Đại La thần tiên, ăn trộm những câu nói trong kinh
Phật để chứng tỏ đạo của chính mình là Phật pháp chân truyền, như kẻ
 177 Tọa cụ (Nisīdana), thường được phiên là Ni Sư Đàn, hoặc Ni Sư Đát Na, Nĩnh Sử
Na Nẵng, dịch nghĩa là phu cụ, phố cụ, tọa cụ, tọa y, tùy tọa y v.v… đều có nghĩa là
đồ trải ra trên mặt đất để ngồi hay nằm với mục đích tránh các loại côn trùng bò lên
cắn chích thân thể, và giữ cho ba y khỏi bị lấm dơ. Giống như ba y, tọa cụ chỉ dùng
hoại sắc, tức những màu úa. Tọa cụ thường may như một tấm chăn to, dùng vải cũ
viền quanh mép, may thành hai ba lớp, hay được chế từ y cũ. Theo luật định, kích
thước của tọa dài chừng 4 thước tám tấc, rộng ba thước sáu tấc (thước Tàu). Tuy thế,
khi đạo Phật truyền xuống Nam Ấn, chư Tăng thường dùng ngọa cụ vắt vai, như khi
đi khất thực hoặc bố-tát (tụng giới), chư Tăng sĩ Tích Lan, Thái Lan hiện nay vẫn
khoác chéo ngọa cụ lên vai, rồi dùng đai lưng buộc lại. Đến khi truyền sang Trung
Hoa, tọa cụ biến thành một dụng cụ để lễ bái, trước khi lễ, vị tăng cầm tọa cụ giơ lên
trước Phật, xá một lần, rồi mở tọa cụ ra (gọi là “triển cụ”), đặt xuống bục quỳ, lễ
xong, lại xếp tọa cụ, giơ lên xá, rồi vắt lên tay. Bách Trượng Thanh Quy đã quy định
rất chặt chẽ về nghi thức “triển cụ” trong khi lễ bái, nhất là khi cử hành các pháp sự
lớn như Diệm Khẩu, Thủy Lục, Trai Tăng, Truyền Giới. Ở đây, Tổ có ý chê tọa cụ bị
dùng sai mục đích, cũng như khuyên ông Thái Tích Đỉnh đừng chấp trước cứ nhất
thiết phải đắp y, triển cụ trong khi lễ bái.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 231
ngu coi mắt cá là chân châu, thật đáng thương xót! Nhưng Phật pháp
mênh mông, chẳng tranh với người. Nếu có thể tận lực tu trì chánh pháp,
chắc chắn sẽ có ngày bọn họ nghe biết thanh danh rồi dấy lòng cải tà
theo chánh. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa trình bày
duyên khởi của Tịnh Niệm Liên Xã tại trấn Hợp Hưng, thành phố Phụ Ninh)
* Trang Tử nói: “Hạ trùng bất khả dĩ ngữ ư băng giả, đốc ư thời
dã. Tỉnh oa bất khả dĩ ngữ ư hải giả, câu ư khư dã. Khúc sĩ bất khả dĩ
ngữ ư đạo giả, thúc ư giáo dã” (Với loài trùng chỉ sống trong mùa Hạ
chẳng thể nói đến băng do bị thời gian hạn chế; với con ếch ngồi đáy
giếng chẳng thể nói đến biển cả vì nó bị hạn cuộc vào chỗ hẹp hòi. Với
kẻ hiểu biết cong quẹo, lệch lạc, chẳng thể nói đến đạo [chân chánh] vì
hắn bị trói buộc bởi những giáo điều). Nho giáo, Đạo giáo, Gia Tô giáo
và Hồi giáo đều là giáo pháp Nhân Thiên Thừa trong thế gian, chỉ có đạo
Phật bao gồm các giáo, lại còn là đại giáo liễu sanh thoát tử xuất thế
gian, hiểu tâm, rõ gốc, rốt ráo thành Phật! Nho giáo dễ giáo hóa nhất,
nên Phật pháp truyền vào Trung Quốc hơn hai ngàn năm qua, những bậc
thông đạt nương theo Phật pháp tu trì chẳng biết bao nhiêu! Nhưng Đạo
giáo thường trộm lấy những câu văn trong kinh Phật rồi thay đầu đổi
mặt, ngụy tạo thành kinh của Đạo giáo! Lại còn phần nhiều hủy báng
Phật pháp. Giáo đồ Gia Tô giáo và Hồi giáo có sức đoàn kết rất lớn,
chẳng dễ gì chuyển hóa được! Nhưng nay thì tại các nước Tây Phương
cũng có nghiên cứu Phật giáo, tạo dựng chùa miếu Phật giáo. (Hoằng Hóa
Nguyệt San số thứ 8 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư
sĩ Đường Thụy Nham - 3)
* Thời thế Mạt Pháp, tà ma ngoại đạo nhiều vô kể. Gã ma con ấy
chẳng cần biết hắn tu trì ra sao, chỉ nội bốn chữ “Ngũ Giáo Đại Đồng”
liền biết tận ruột gan hắn rồi! Ngoại đạo đều cậy vào huyễn thuật để lừa
đời dối người, những kẻ có mắt không tròng thấy chúng thần thông rộng
lớn bèn dốc thân mạng quy y. Nếu là người thật sự biết đạo lý sẽ tránh
xa còn không kịp, huống còn vui thích, hâm mộ, hoài nghi muốn quy y
hay sao? Đây chính là mười loại ma thuộc về Tưởng Ấm trong kinh
Lăng Nghiêm vậy.
Kẻ ngu chốn quê cho chuyện có thể thấy được thần, thấy được quỷ
là hiếm lạ, chẳng biết hắn làm những tà thuật đó để mê hoặc người ta.
Ông còn muốn hỏi chuyện đời trước nơi gã ma con ấy, tức là ông bị hắn
thu hút rồi. Những gì Hoàng Quan nói cũng là ma nói dối. Ông đã từng
theo Hoàng Quan, sao từ đầu chẳng ưa thích chuyện tu luyện của gã?
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 232
Ông nên biết yêu ma quỷ quái đều có “thần thông” (tức là yêu thông
(thần thông của ma quái), chứ không phải là thần thông chân chánh). Kẻ ngu thấy
hắn có thần thông, liền cho hắn là Bồ Tát, bèn sa vào lưới rập ma của
hắn. Đã là thật sự có thần thông, thì sao người theo học với hắn lại sanh
bệnh cuồng như vậy? Huống chi những gì hắn nói và những danh từ do
hắn lập ra đều chẳng có trong Phật pháp. Hắn nói [pháp của] hắn thật sự
là Phật pháp, chính là căn cứ chung cho hết thảy ngoại đạo dùng để lừa
dối người. Nói lời ấy đủ biết hắn chính là ma!
Đức Phật nói vô lượng pháp môn, pháp nào cũng đều thật. Thiện tri
thức tùy theo sở tri sở đắc của chính mình mà đề xướng, chỉ là phù hợp
căn cơ hay không. Nếu nói “pháp của ta là thật, các pháp khác đều chẳng
thật”, không hỏi cũng biết kẻ ấy là ma! Trong tâm ông quả thật chẳng có
chủ ý, may là bọn chúng đã hiện tướng xấu mà trong tâm vẫn còn ngờ
vực chẳng quyết đoán được! Nếu kẻ học [đạo] ấy chẳng hiện tướng xấu
xa, há ông chẳng bái kẻ ấy làm thầy, muốn đạt được thần thông diệu đạo
của hắn ư?
Thầy X… đã học viên dung, dạy người khác ăn thịt, đánh Phật, cho
đó là viên dung, tức là dạy người ta ăn thịt của chính mình, đánh chính
mình, cũng là do sức ma phát hiện. Huống chi loài bị giết kia cũng chẳng
chịu nói như vậy (ăn thịt ta, đánh ta) đó ư? Phải biết: Người truyền bá,
hoằng dương Phật pháp phải nương theo cấm giới của Phật, đã chẳng trì
giới làm sao dạy người khác tu trì? Hắn thấy Chí Công, Tế Điên đều có
chuyện ăn thịt, nhưng Chí Công, Tế Điên chưa từng mang chức trách
hoằng dương Phật pháp, chẳng qua gặp cảnh chạm duyên, đặc biệt chỉ
dạy, thị hiện sự lý cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn trong Phật pháp, nhưng
người giữ nhiệm vụ [hoằng dương] pháp đạo muôn vàn chớ nên học
theo!
Hơn nữa, họ ăn vào thứ chết, ói ra thứ sống, còn bọn X… kia ăn thứ
chết vào, ngay cả từng miếng từng khối còn nguyên dạng vẫn chẳng thể
ói ra được. Ham học xằng lại còn dạy người khác nữa ư? Người duy trì
Phật pháp, nếu chẳng y theo những điều Phật chế định thì chính là loài
ma! Huống chi, gã ma con kia là quyến thuộc của ma vương, hoàn toàn
chẳng phải là Phật pháp đó ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Trả lời thư của cư sĩ Dương Thọ Chi - 4)
* Hiện thời khắp cả thế gian đều có ngoại đạo. Do Phật pháp sâu xa,
nhiệm mầu con người không thể nào biết được, bọn chúng bèn trộm
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 233
danh Phật pháp, nhưng chẳng biết nghĩa lý, bèn coi pháp luyện đan, vận
khí để giữ gìn cái thân là pháp liễu sanh thoát tử. Hơn nữa, bọn chúng
chẳng biết sanh tử do đâu mà có, nên mù quáng bịa đặt đồn thổi, nói:
“Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, lại hợp
nhất một chỗ là đắc đạo”. Thật ra, hoàn toàn là dùng thức thần để tu tập,
tuyệt đối chưa thể mộng thấy được lý thể của Chân Như Thật Tế nơi tâm
tánh mà vẫn tự phụ: “Lục Tổ loạn truyền pháp, pháp quy tại gia nhân,
Tăng gia vô hữu pháp” (Lục Tổ truyền pháp loạn xạ, pháp trở về với kẻ
tại gia, Tăng chúng chẳng có pháp). Lời lẽ này chẳng chỉ nói ra miệng
mà còn viết thành sách, dùng giả để hủy chân, lấy tà làm chánh, kẻ vô tri
vô thức bèn bị chúng mê hoặc.
Ngoại đạo có thể truyền khắp trong cõi đời là nhờ có hai pháp đắc
lực:
1. Một là bí truyền, tức là bảo hễ được minh sư chân truyền, chẳng
tu vẫn thành. Vì thế, bèn nói một cách thần thánh hóa rằng: “Chuột nghe
thấy, chuột cũng đều thành đạo! Chim sẻ nghe thấy, chim sẻ đều thành
đạo!” Vì thế, lúc truyền đạo phải ở trong mật thất, khẽ tiếng nói thì thầm,
bên ngoài còn sai phái người tuần tra, sợ có kẻ nghe trộm!
2. Hai là bày ra lệnh cấm nghiêm ngặt, dẫu thân thiết như cha con,
vợ chồng đều chẳng được nói cho nhau biết. Nói ra sẽ bị trời hành! Vì
thế, trước khi được truyền đạo, trước hết buộc [kẻ ấy] thề thốt: “Nếu sau
này phản đạo sẽ bị quả báo thê thảm như thế nào đó!” Thề thốt rồi mới
được truyền đạo. Sau này, dẫu người nào biết là sai, nhưng vì sợ ông
thần canh lời thề nên thà chết chẳng dám rời bỏ đạo ấy để học Phật pháp.
Giả sử ngoại đạo bỏ bí truyền để công khai, làm cho khắp mọi
người cùng nghe, cũng chẳng buộc người khác thề thốt, thì người trong
khắp cõi đời có mấy ai chịu vào đạo của chúng? Cố nhiên bọn chúng
chẳng có đạo, trộm lấy cái danh liễu sanh tử của Phật pháp để thực hành
chuyện luyện đan, vận khí, giữ gìn thân thể. Dẫu có khiến cho tâm hạnh
thanh khiết thì cũng bất quá là thành tiên mà thôi! Địa vị của Tiên còn
kém xa trời, huống gì là [đem địa vị Tiên so với] các địa vị Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư gởi cư sĩ Trang Huệ Cự ở Tuyền Châu)
* Nam-mô A Di Đà Phật chính là danh hiệu đức giáo chủ Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Gã ma con tên X… bèn y theo cách giải thích
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 234
của gã ma con trước kia để phô trương ầm ĩ, muốn cho hết thảy những
kẻ mù lòa khen hắn là bậc đại ngộ, nên mới tạo ra thứ ma thuyết ấy.
Người mắt sáng trông thấy biết hắn bị ma dựa, mất trí điên cuồng, chẳng
y theo những gì kinh Phật đã dạy, xằng bậy thêm thắt lời ma.
Sao ông chẳng biết A Di Đà kinh đã dạy: “Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ
sao? Đức Phật ấy vì sao hiệu là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Đức Phật
ấy quang minh vô lượng chiếu mười phương cõi không bị chướng ngại
nên hiệu là A Di Đà. Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy và nhân dân của
Ngài thọ mạng vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp nên tên là A Di Đà”.
Đấy là những lời đức Phật Thích Ca đã nói, gã ma tử X… chẳng noi theo
[lời Phật] mà dựa theo lời gã ma con trước kia đã nói, há chẳng phải là
quyến thuộc của ma vương, thật sự là báng pháp ư? Nếu gởi những câu
nói ấy cho người khác thì đời sau chẳng đọa địa ngục cũng sẽ mù mắt!
Nếu ông chẳng hủy diệt sách ấy thì cũng sẽ mù mắt đấy!
Nay tôi giải thích đại lược cho ông, sáu chữ “Nam-mô A Di Đà
Phật” đều là tiếng Phạn. Nam Mô cũng có khi viết là Nẵng Mô, trong
kinh thường dùng chữ Nam Mô, ở đây dịch là “cung kính, quy mạng,
đảnh lễ” v.v… Hai chữ ấy nhằm biểu thị trực tiếp ý nghĩa cung kính quy
y. A Di Đà Phật được cõi này dịch là Vô Lượng Thọ, còn dịch là Vô
Lượng Quang, ý nói đức Phật này quang minh lẫn thọ lượng đều vô
lượng. Gã ma con tên X… nọ chẳng dựa theo lời của Phật, Bồ Tát, tổ sư
đã nói, ngược ngạo y theo lời gã ma con kia nói, gã ấy còn chưa đáng là
bậc chánh nhân quân tử, huống hồ đáng gọi là thiện tri thức ư?
Hiện tại tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng, chỉ nên tự biết,
đừng nên tranh biện với chúng nó. Vì sao vậy? Chúng nó muốn nhờ vào
đấy để được danh văn, lợi dưỡng, chẳng những không chịu thuận theo
mà trái lại còn tăng thêm sức ma của chúng nó. Nhẹ là hủy báng cho
sướng miệng, nặng là bị hãm hại ngấm ngầm, chẳng thể không biết [điều
này]! Giác Sách Biểu vẫn là tác phẩm khuyên người khác niệm Phật, bài
thơ ấy cũng không nêu rõ được ý nghĩa sâu mầu nào! Đọc thơ của ông
ta, sao bằng đọc thơ của Trung Phong quốc sư, Sở Thạch đại sư, Tỉnh
Am pháp sư? (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 7 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
quyển 1, Thư trả lời đại sư Ứng Thoát - 3)
* Pháp luyện đan, vận khí của bọn họ dùng đúng cách thì huyết
mạch châu lưu, thân thể khỏe mạnh. Dùng sai cách, Khí bị ngưng trệ,
không thông suốt, tai hại chẳng nhỏ! Có khá nhiều người dự vào Đồng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 235
Thiện Xã để ngồi luyện công đến nỗi trở thành si ngốc, tê bại, thân thể
mất cảm giác, đều là do pháp ấy chẳng lành, mong dưỡng thân đâm ra
trở thành hại thân, chẳng đáng buồn ư?
Xét kỹ căn bệnh của các hạ là do một mực ham chuộng cao xa nên
thường hay bị bệnh vì Khí, đây là một chuyện. Hơn nữa, do thiên tánh
thông minh, vì vậy vướng lấy tập khí của người thông minh, đối với
chuyện nữ sắc chẳng thể hạn chế, lại thêm lửa phẫn nộ thường nổi lên
không đúng lúc. Ví như hai lưỡi rìu cùng đốn một cái cây lẻ loi, nguy
hiểm tột cùng! Thêm nữa, do dùng cách tịnh tọa không tốt lành của
Đồng Thiện Xã tạo thêm trợ duyên cho bệnh khổ, đến nỗi đủ mọi hiện
tượng đều do đấy mà sanh. Nếu nay chịu hành theo pháp “thanh tâm quả
dục” (giữ lòng thanh tịnh, giảm bớt ham muốn), nhiếp tâm niệm Phật thì
lâu ngày chầy tháng túc nghiệp sẽ tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng, hết
thảy các chứng mất ngủ, nghẹt mũi, rung cơ v.v… sẽ đều dần dần tiêu
diệt.
Trước hết, hãy nên xem phương pháp tu trì trong Gia Ngôn Lục,
một câu “Nam-mô A Di Đà Phật” miên miên mật mật trì niệm lâu dài.
Hễ mỗi khi những ý niệm phẫn nộ, dâm dục, háo thắng, bộp chộp v.v…
ngẫu nhiên chớm sanh, bèn lập tức nghĩ rằng: “Ta là người niệm Phật, há
nên dấy lên những tâm niệm này?” Niệm vừa dấy lên bèn dứt, lâu ngày,
hết thảy những ý niệm hao tổn tinh thần, mệt nhọc thân xác đều không
cách chi dấy lên được! Suốt ngày dùng công đức chẳng thể nghĩ bàn của
đức Phật để gia trì thân tâm, dám bảo đảm chẳng cần đến mười ngày sẽ
liền thấy hiệu quả lớn lao. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư gởi cư sĩ Hồ Tác Sơ)
* Chúng sanh nghiệp nặng, chướng sâu, phàm là pháp do Phật, Bồ
Tát, thiện tri thức đã nói thì phần nhiều chẳng tín phụng, còn những pháp
do tà ma ngoại đạo nói thì lại như ruồi bâu theo hơi thối, [xúm xít] như
kiến bu, chim đậu ùa nhau hùa theo. Xét đến kết quả, nếu được phước
báo nhân thiên nhỏ nhoi đã là muôn vàn may mắn rồi! Phần nhiều coi tà
đạo là Phật pháp, chê Phật pháp là tà đạo, dẫu trong đời này chẳng
vướng phép nước thì chết đi sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục, vạn người
chẳng sót một ai, chẳng đáng buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Quách Giới Mai - 1)
* Trong đời có kẻ nói giọng cao xa “chán nghe chuyện nhân quả
báo ứng và “pháp siêng gắng tu trì”, chỉ lấy “hết thảy đều là không, hết
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 236
thảy chẳng chấp” làm bùa hộ thân, chẳng biết đã chấp “hết thảy đều là
không, hết thảy chẳng chấp” thì đã chẳng phải là ý nghĩa “hết thảy đều là
không, hết thảy chẳng chấp” rồi! Huống chi kẻ ấy mượn cớ đó để lấp
liếm dấu vết lười nhác, biếng trễ, chẳng chuyên chú thật tu, chỉ là “bàn
xuông, tranh cao”, đến khi nghiệp báo đã chín muồi, Diêm lão (vua
Diêm La) sẽ dâng đồ cúng dường tối thượng cho kẻ “hết thảy chẳng
chấp, hết thảy đều là không” ấy. Không biết trong lúc ấy, [kẻ đó] còn có
thể “đều là không, đều chẳng chấp” được hay chăng? Chúng ta hãy nên
kính nhi viễn chi đối với những kẻ ấy, để khỏi phải nhận sự cung kính
cúng dường tối thượng của Diêm lão vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Châu Bá Tù)
* Nếu chẳng tự lượng, đi tham phỏng khắp các bậc cao nhân trong
vùng Giang - Chiết, rất có thể là cuối cùng cái tín tâm ấy sẽ bị cao nhân
đả phá thì Thiền đã trở thành vô vọng,Tịnh lại chẳng tin, tiền đồ mờ mịt,
biết hướng về đâu? Những người muốn thân cận thiện tri thức hiện nay
trước hết phải biết nguyên do của Thiền và Tịnh. Nếu không, mười
người hết tám chín kẻ bị thiện tri thức phá hoại thiện căn Tịnh Độ mà
vẫn cứ nhơn nhơn đắc ý, cho là đã được chánh pháp, thật đáng đau lòng
than thở! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Trịnh Huệ Hồng)
* Cầu cơ chính là tác dụng của linh quỷ. Chúng xưng là vị Phật này,
vị Bồ Tát nọ, vị tiên kia đều là giả mạo danh các ngài. Nếu chân tiên
ngẫu nhiên giáng cơ thì sợ rằng trong trăm ngàn trường hợp chẳng được
lấy một, huống gì là Phật, Bồ Tát!
Dùng cầu cơ để đề xướng Phật pháp tuy có lợi ích nho nhỏ, nhưng
về căn bản đã sai lầm! Người học Phật chân chánh quyết chẳng nhờ vào
cách này để đề xướng Phật pháp, vì sao vậy? Vì đấy là tác dụng của quỷ
thần. Nếu có linh quỷ thông minh thì họa may còn chẳng đến nỗi làm
hỏng chuyện, chứ nếu là một con quỷ hồ đồ giáng cơ, ắt sẽ làm hỏng
chuyện lớn! Người ta do lời giáng cơ bị hỏng chuyện lớn liền nói Phật
pháp sai lầm, [như vậy thì] đề xướng kiểu ấy chính là đầu mối để phá
diệt Phật pháp! Ông cho là bị mất lợi ích, hỏi có tội hay không tội, thì
biết ông hoàn toàn chẳng biết chân nghĩa của Phật pháp, đáng than thở
quá đỗi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Giang Cảnh Xuân - 1)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 237
* Cuối đời Minh, ở Tô Châu có một người cầu cơ, có bảy tám môn
đồ. Một ngày nọ, cơ giáng nói Phật pháp, khuyên người niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, so với những gì cơ đã nói trước kia hoàn toàn khác
hẳn. Sau đấy, lại giáng cơ giống như vậy hơn hai mươi lần nữa, sau cùng
mới lại nói “cầu cơ chính là tác dụng của quỷ thần, ta là vị X… đó, sau
này sẽ không đến nữa, các ông chớ nên cầu cơ nữa!” Chuyện ấy được
chép trong Tây Phương Xác Chỉ178.
Năm đầu Dân Quốc (1911), ở Hương Cảng có người cầu cơ, nói là
đại tiên Hoàng Xích Tùng [giáng cơ] xem bệnh cực linh. Có kẻ trọn
chẳng còn lẽ sống, cầu vị tiên ấy dạy cho một phương thuốc. Thuốc ấy
cũng là tùy tiện nói ra một loại nào chẳng quan trọng lắm, nhưng hễ
uống vào liền lành bệnh. Hoàng Tiểu Vỹ hâm mộ đến học, học được
cách [cầu cơ] nhưng hễ vịn cơ, cơ liền không chạy. Người khác hỏi thì
cơ dạy niệm kinh Kim Cang bao nhiêu biến đó rồi lại vịn cơ, làm theo
thì cũng rất linh. Nhân đó, [cơ bút] thường khai thị pháp môn Niệm Phật.
Bọn ông Vỹ liền muốn lập đạo tràng Niệm Phật, cơ dạy: “Nên để ba năm
nữa rồi mới lập”.
Ba năm sau, bốn năm người bọn họ lên Thượng Hải thỉnh kinh
sách, năm sau đến quy y, lập ra Đa Đa Phật Học Xã, đem chương trình
niệm Phật gởi cho tôi: Niệm Phật xong, niệm Quán Âm, Thế Chí xong,
lại niệm thêm một vị tên là Đa Đa Ha Bồ Tát. Quang hỏi: “Làm sao có
được danh hiệu ấy?” Bọn họ bèn thuật lai lịch, nói là trước kia cơ xưng
là đại tiên Hoàng Xích Tùng179, sau dạy tu pháp môn Tịnh Độ, đến cuối
 178 Tây Phương Xác Chỉ là tập sách ghi chép những lời giáng cơ của Giác Minh Diệu
Hạnh Bồ Tát, do Thường Nhiếp kết tập. Theo đó, vào cuối đời Minh, bọn ông Tưởng
Vô Hủ gồm tám người thích tu Tiên thường tụ tập lại cùng nhau cầu cơ. Một ngày
nọ, có một vị tiên giáng xuống, dạy họ niệm Nam Mô Phật, họ bèn xưng Nam Mô
Phật, vị ấy bảo niệm Phật không phải chỉ niệm bằng miệng xuông như thế, rồi dần
dần chỉ dạy họ tu pháp môn Tịnh Độ, trừ bỏ tâm ham muốn trường sanh bất tử, cũng
như đả phá những thói hư tật xấu của họ. Tám người này về sau đều thành những
hành nhân Tịnh Độ tinh tấn. Những lời dạy của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát về
Tịnh Độ hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của chư Tổ Tịnh Độ, đả phá mạnh mẽ tệ
nạn cầu cơ nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng. Tây Phương Xác Chỉ cũng
được đưa vào Tục Tạng Kinh.
179
Đại tiên Hoàng Xích Tùng: Trong hệ thống thần thánh của Đạo Giáo không thấy
liệt kê tên vị này. Theo truyền thuyết, năm Quang Tự 23 (1897), tại Hoa Nam, dân
tình khốn khổ, bệnh dịch lan tràn, nên các đàn cầu cơ cầu tiên cho thuốc chữa bệnh
rất thịnh hành. Có một vị giáng cơ tự xưng tên là đại tiên Hoàng Xích Tùng, thường
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 238
cùng mới cho biết rõ gốc gác là Đa Đa Ha Bồ Tát, lại răn vĩnh viễn
không được cầu cơ nữa.
Hai chuyện này do một người đệ tử sưu tập những pháp ngữ Tịnh
Độ, [soạn thành sách] đặt tên là Tịnh Độ Tập Yếu180, Quang bảo đem hai
chuyện ấy ghi kèm vào đằng sau. Nay gởi cho ông ba bản, đọc rồi sẽ tự
biết (với Đa Đa Ha Bồ Tát, Quang bảo họ lập riêng một điện để thờ phụng, chớ nên
kèm thêm vào nghi thức Niệm Phật để khỏi làm cho người khác nghe rồi dị nghị).
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang Cảnh
Xuân - 1)
* Đối với những sách ngụy tạo của bọn ngoại đạo tên X… nọ,
chúng ta chỉ nên mặc kệ chúng, mỗi người đi theo đường lối riêng. Nếu
cùng với bọn mù quáng không mắt ấy biện định trắng - đen, chúng nó
làm sao tự biết là sai, đâm ra lại chuốc lấy sự phỉ báng của chúng! Ví
như con chó ăn phân, nó tự cho là thơm ngon. Nếu bảo với nó là tởm
thối, chắc chắn nó chẳng chịu tin, chê ngược người vừa nói đó chẳng
biết tốt - xấu!
Trong đời hiện thời, mọi người hoàn toàn ở trong tăm tối, học vấn
càng cao, càng hồ đồ. Xưa kia, ông Trình, ông Châu học vấn lẫn nhân
phẩm có thể nói rất rộng, rất cao, nhưng lại cực lực bài xích nhân quả
luân hồi, cho là đức Phật mượn những chuyện ấy để dối gạt bọn ngu phu
ngu phụ! Lời lẽ ấy chính là căn cứ lớn lao để đề xướng phá hoại hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Biết điều này sẽ càng thêm nhất tâm niệm
Phật, cầu sanh Tây Phương. Kẻ có học vấn hiện thời còn đáng để nói tới
nữa ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Hứa Huệ Phảng)
* Người cõi tục trong làng quê vô tri, chỉ muốn chết đi chẳng chịu
tội, có tiền xài, đến nỗi có kẻ tục Tăng không hiểu giáo lý, ngụy tạo kinh
   cho thuốc rất linh nghiệm. Từ đó, hình thành tín ngưỡng thờ phụng Hoàng Đại Tiên.
Do vị này tự xưng lúc sống là một thầy lang nên tranh thờ thường vẽ một vị trung
niên mặc y phục theo kiểu thầy lang thời Mãn Thanh. Miếu thờ đầu tiên được thành
lập ở thôn Nẫm Cương, thuộc huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Đông, đặt tên là Phổ Độ
Đàn, rồi dần dần phổ biến sang Hương Cảng và Đài Loan.
180
Tịnh Độ Tập Yếu là một tác phẩm do cư sĩ Khổ Hạnh biên soạn, cư sĩ Phan Huệ
Thuần và Thiệu Huệ Viên tu đính, Ấn Quang đại sư giám định, được chia thành ba
phần: Phần đầu giải thích, biện định pháp môn Tịnh Độ, phần thứ hai trích thuật
những pháp ngữ Tịnh Độ của chư Tổ Sư đại đức, phần cuối cùng là nghi thức niệm
Phật và trích lục một số kinh sách chủ yếu của Tịnh Độ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 239
Thọ Sanh khớp với điều họ ưa chuộng, thành ra những kẻ vốn sẵn lòng
hèn kém tham tiền và chỉ cầu tự lợi, bèn chẳng tiếc nhiều tiền bạc để trả
nợ tiền Thọ Sanh! Lại còn gởi kho để mong chết đi được thọ dụng,
chẳng biết thọ sanh tùy thuộc nghiệp thiện hay ác, há có thể nhờ tiền để
chuộc mạng nơi các quan ở âm tào ư? Lúc còn sống chịu tu thiện thì chết
đi sẽ tự được thọ dụng. Nếu chẳng tu thiện, dẫu con cháu vì người [đã
mất] ấy đốt y phục, tiền tài, cũng chẳng thọ dụng được, sẽ bị kẻ mạnh
bạo có sức mạnh cướp đoạt mất. Đây là nói về người bình thường chẳng
biết niệm Phật.
Nếu là người niệm Phật, lúc sống nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, lâm chung sẽ tự được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, liễu
sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, sao chẳng cầu sanh Tây Phương,
chỉ mong chết đi làm quỷ vậy? Đúng là chẳng biết tự trọng, toan tính
làm chuyện thấp kém, muốn vĩnh viễn ở trong biển khổ sanh tử, chẳng
muốn thoát lìa, sao mà ngu cùng cực đến như thế?
Lại nữa, hàng nữ nhân thường nghi sanh sản là có tội, hàng Tăng sĩ
kém cỏi, vô tri bèn ngụy tạo Huyết Bồn Kinh, Huyết Bồn Sám. Nữ nhân
nghe vậy, mừng rỡ quá đỗi, ai nấy đều muốn niệm Huyết Bồn Kinh, lạy
Huyết Bồn Sám, phá huyết hồ. Đúng là lấy trò đùa của trẻ con để làm
căn cứ diệt tội, thoát khổ, đáng than quá đỗi! Cái tội của nữ nhân là [ở
chỗ] phạm lỗi “chẳng hiếu với cha mẹ và bố mẹ chồng, chẳng kính trọng
chồng, chẳng đối xử nhân hậu với tôi tớ, chẳng dùng thiện đạo để dạy
con, và chẳng tắm rửa đúng lúc”. Nếu do chí thành, cung kính niệm Phật
để mong tiêu diệt nghiệp xưa, tẩy lòng, rửa ý, chẳng tạo tội khiên về sau
nữa, do Sa Bà dấy động lắm tội khiên bèn quyết chí vãng sanh Tây
Phương, đấy mới là chánh lý. Sao chẳng sám hối tội lỗi trong tự tâm mà
chuyên dựa vào ngụy kinh để sám diệt tội lỗi vậy?
Đã tin Phật là bậc cứu độ, sao chẳng niệm kinh Đại Thừa do đức
Phật đã nói như Kim Cang Kinh, Di Đà Kinh, Tâm Kinh, Đại Bi Chú,
Vãng Sanh Chú và Pháp Hoa Kinh, Lăng Nghiêm Kinh v.v… để mong
diệt tội tăng phước? Diệm Khẩu181 là pháp trọng yếu để cứu vớt cô hồn,
 181 Đây là một khoa nghi thí thực cho cô hồn ngạ quỷ dựa theo lời dạy trong kinh
Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh. Theo kinh đó, ngài A Nan nhập định
trong rừng, thấy một ngạ quỷ mặt bốc lửa bừng bừng, hình hài khô kháo, đầu tóc rối
bù, bụng to như trống, họng bé như kim, nên có tên là Diệm Khẩu. Quỷ cho biết do
kiếp trước keo kiệt, tham lam không biết chán đủ nên bị đọa vào loài ngạ quỷ. Quỷ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 240
lại ngược ngạo chẳng tin, xúm nhau phá huyết hồ, phá địa ngục, coi đó
là những “Phật sự” không thể không làm! Chính mình chẳng được lợi
ích chân thật, đâm ra làm cho kẻ hiểu lý thế gian nhưng không biết Phật
pháp tưởng đó chính là Phật pháp. Do đó, nẩy sanh đủ mọi lời lẽ báng
pháp bừa bãi, còn tự cho là đúng. Những kẻ mù quáng đâm ra tuân
phụng [những ý kiến sai lạc ấy], coi như khuôn thước. Như trong Cổ
Văn, qua bài văn “viết sau cuốn Hành Hiếu Truyện của Lưu Vũ Trù” của
Lưu Bá Ôn182, đủ thấy kẻ ngụy tạo Huyết Bồn Kinh tội lớn ngập trời!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Quách Giới
Mai –1)
* Chuyện ăn thịt quan hệ đến sự bình yên hay loạn lạc, thăng lên hay
đọa xuống! Muốn liễu sanh tử, thoát luân hồi, phải lăm lăm chú ý nơi
chuyện này thì mới có hy vọng. Pháp môn Mật Tông chẳng thể nghĩ bàn,
nhưng người truyền lẫn kẻ học hiện thời phần nhiều quên mất điều cốt
   cũng báo trước A Nan sau ba ngày nữa sẽ chết, đọa làm ngạ quỷ. A Nan kinh sợ vội
chạy đến cầu cứu đức Phật. Nhân đó, Phật dạy cách thí thực, vận tâm từ bi, quán
tưởng và chú lực để thí khắp hằng hà sa số ngạ quỷ và chư tiên, công đức vô lượng,
tăng trưởng thọ mạng, thoát báo ngạ quỷ. Nguyên tắc chủ yếu là dùng đồ chứa sạch
sẽ, đựng nước ăn, chút ít thức ăn dùng tay phải đè lên trên, tụng chú bảy biến, xưng
danh hiệu thất Phật (Đa Bảo, Diệu Sắc Thân v.v…) rồi rải khắp bốn phương, khảy
ngón tay bảy lần. Đem món ăn ấy đổ xuống chỗ đất sạch để ngạ quỷ hưởng dụng. Về
sau, khoa nghi nguyên thủy được biên soạn dựa theo Du Già Tập Yếu Cứu A Nan
Đà La Ni Diệm Khẩu Nghi Quỹ Kinh (do ngài Bất Không dịch) đã chịu ảnh hưởng
nhiều của Mật Tông Tây Tạng nên trở thành dần dần quá phức tạp, rườm rà. Vì thế,
để thuận tiện cho việc hành trì, cao tăng các đời đều lưu tâm chỉnh lý. Hiện thời,
khoa nghi Diệm Khẩu phổ biến nhất là bản Thiên Cơ Diệm Khẩu (tức Tu Tập Du
Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi do ngài Thiên Cơ đời Minh tu chỉnh các khoa nghi
Diệm Khẩu sẵn có từ trước). Bản Thiên Cơ lưu hành hiện thời đã được tổ Liên Trì tu
chỉnh tạo thành Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (nhưng vẫn quen gọi
là Thiên Cơ Diệm Khẩu). Kế đến là bản Hoa Sơn Diệm Khẩu do ngài Đức Cơ núi
Bảo Hoa tu chỉnh bản của ngài Liên Trì một lần nữa, đặt tên là Du Già Diệm Khẩu
Thí Thực Tập Yếu.
182 Lưu Bá Ôn (1311 -1375), tên thật là Lưu Cơ, tự là Bá Ôn, thụy hiệu Văn Thành,
người Nam Điền, huyện Văn Thành, Ôn Châu, là một nhà quân sự và chính trị gia lỗi
lạc đồng thời là một thi nhân nổi tiếng cuối đời Nguyên, đầu đời Minh. Ông rất giỏi
về binh pháp và sách lược, phù tá Châu Nguyên Chương sáng lập cơ nghiệp nhà
Minh. Ông được hậu thế xưng tụng “tài trí vượt hẳn Gia Cát Lượng!” Châu Nguyên
Chương từng khen ngợi: “Ông là Tử Phòng (Trương Lương) của ta”. Do ông quá tài
giỏi, trong dân gian đã lưu truyền nhiều truyền thuyết tô vẽ Lưu Cơ như một bậc đạo
sĩ tu chứng trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, thấu hiểu huyền cơ, có thể thấy
trước vận mạng đất nước vài trăm năm!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 241
lõi: Dùng công phu Tam Mật trì chú để tiêu trừ Phiền Hoặc mới chính là
ý nghĩa chánh đáng, nhưng người truyền thì dùng thần thông để thu hút,
lôi kéo người khác, kẻ học không một ai chẳng lăm le đắc thần thông.
Như vậy chính là chưa thể vịn tường bước đi đã muốn vọt lên không
trung bay đi nơi xa, làm sao đạt được?
Các lạt-ma ở Tây Tạng, Mông Cổ đều ăn thịt, vì [ở những nơi ấy]
không có gạo thóc thì còn chấp nhận được, chứ người học Mật Tông
hiện thời phần nhiều ngã mặn, ăn thịt, lại ngược ngạo hết sức tán dương
chuyện ấy, bảo là “ăn vào sẽ độ thoát cho những con vật đó!” Như vậy là
đã trở thành lời ma nói mất rồi! Khi làm những Phật sự lớn, lạt-ma còn
phải ăn chay, đủ biết lúc bình thường ăn thịt vốn chẳng phải là chánh
nghĩa!
Mật Tông đề xướng “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay nơi thân
này), tức là coi “liễu sanh tử chính là thành Phật!” Những kẻ vô tri liền
tưởng [hễ liễu sanh tử] là đã trở thành đức Phật phước huệ viên mãn.
Như vậy tức là trồng tùng để làm kèo rường bởi gỗ cây ấy có thể làm
kèo rường, chứ không phải ngay trong hiện tại cây tùng đã là kèo rường!
Năm Dân Quốc 17 (1928), tại Thượng Hải có gã X…. đề xướng Mật
Tông “một trăm ngày thành Phật”. Người có tín tâm ở Thượng Hải đều
nương theo gã ấy tu học. Mùa Hè năm Dân Quốc 18 (1 929), có kẻ hâm
mộ danh tiếng của hắn, muốn nhờ vào đó để cầu lợi bèn thỉnh hắn đến
Bắc Bình (Bắc Kinh). [Hắn tuyên bố ai theo hắn tu học] sẽ thành Phật
trong bốn mươi tám ngày, nhanh hơn một nửa so với lúc [truyền đạo] tại
Thượng Hải. Tới năm Dân Quốc 19 (1930), Bắc Bình, Thiên Tân,
Thượng Hải đều chẳng thể dung thân, hắn ta bèn trở về nhà hoàn tục,
đáng than đến tột cùng! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 2 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Thạch Kim Hoa)
* Kinh Phật trọng nơi thọ trì, chưa từng nghe dạy đem đốt đi! Dù
bảo là đốt đi sẽ có ích cho cô hồn và cho người đã khuất đang được cầu
siêu, vẫn là chuyện công chẳng bù được lỗi, huống hồ là vô ích! Vì sao
nói như vậy? Phàm những kẻ thiêu kinh phần nhiều đều thiêu trong dụng
cụ để đốt giấy vàng mã, tro ấy lại đem bán lẫn với tro giấy vàng mã.
Những kẻ mua tro đó đem về, gạt bỏ sạch hết tro giấy đi, chỉ giữ lại tro
vàng mã. Như vậy thì tro kinh chẳng thể không bị quăng vào rác rưởi
hay sao?
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 242
Có ai chịu phí công lấy riêng một đồ đựng, phía dưới lót giấy thiếc,
đặt kinh vào giữa, phía trên lại bịt những tờ giấy thiếc. Đốt giấy thiếc,
kinh sẽ cháy theo, do phía trên có bọc giấy thiếc nên tro kinh chẳng đến
nỗi bay lung tung ra ngoài. Đợi đến khi cháy hết, đã nguội rồi, hốt tro ấy
bỏ vào trong túi vải mới, bỏ thêm cát sạch hoặc đá sạch vào trong, may
miệng túi lại. Nếu có thân hữu hết sức đáng tin cậy đem ra biển, hoặc
đem ra sông lớn, tới chỗ sâu nhất gieo xuống thì chẳng mắc lỗi khinh
nhờn. Nếu chiếu theo cách đốt vàng mã bình thường, rồi lại còn bán tro
giấy, tôi sợ rằng mắc tội vô lượng, công chẳng được mấy!
Phàm làm các Phật sự đều phải làm bằng lòng thành kính thì mới có
sự cảm thông. Những kẻ thiêu kinh kia chỉ biết thiêu mà thôi, có bao giờ
nghĩ đến chuyện này? Các kinh Đại Thừa đều khen ngợi công đức biên
chép, thọ trì, đọc tụng, chẳng hề nghe khen ngợi thiêu kinh có công đức!
Nếu thật sự có công đức, vẫn chẳng nên duy trì phong tục này; vì rất có
thể là kẻ vô tri hiểu lầm sẽ chú trọng thiêu kinh, chẳng chú trọng thọ trì!
Kinh Kim Cang đã thiêu được, lẽ nào các kinh Đại Thừa khác chẳng thể
thiêu được? Kẻ giàu có nhưng vô tri ắt sẽ tạo nghiệp thiêu kinh vô cùng
vậy! Chuyện này Bất Huệ hoàn toàn chẳng tán thành, tuy nghe người ta
nói có đại cảm ứng, vẫn chẳng thốt ra một tiếng nào tán dương, bởi sợ
tạo thành mối tệ vô cùng!
Thế gian thường hay đem chú Vãng Sanh viết thành hình tròn, đem
khắc rồi in ra, đặt tên là Vãng Sanh Tiền, lắm kẻ đem thiêu [tiền ấy] thí
cho cô hồn. Năm Quang Tự mười sáu (1890), tại chùa Long Tuyền ở
Bắc Kinh, vào buổi sáng sớm, Quang ra ngoài cửa tam quan, thấy trong
đống tro giấy và tro vàng bạc của lễ Phóng Diệm Khẩu hồi đêm có một
xấp giấy Vãng Sanh Tiền dày hai tấc chỉ cháy một nửa. Nếu tôi không
thấy thì người hầu quét dọn, sợ rằng cũng bị quét vào đống rác luôn! Do
vậy, biết được rằng: Cái lỗi thiêu chú ấy không chỗ nào chẳng có!
Có vị Tăng phóng Mông Sơn, dùng ngân phiếu và tiền giấy kẹp tiền
Vãng Sanh vào trong, xếp thành hình một đầu to đầu nhỏ, đợi đến khi
Xuất Sanh183 sẽ đốt. [Khi lửa cháy] gần tới tay sẽ quăng xuống đất.
 183 Xuất Sanh là một thuật ngữ thường dùng trong Thiền Lâm: Khi chúng tăng đến
trai đường dùng bữa, vị Đường Chủ hoặc Trụ Trì sẽ lấy ra một ít cơm (gọi là “sanh
phạn”) từ chén của mình bỏ vào một đồ đựng riêng (gọi là Xuất Sanh Đài hay Sanh
Đài) để thí cho Đại Bằng Kim Xí Điểu, chúng quỷ thần Khoáng Dã, Ha Lợi Đế Quỷ
Tử Mẫu v.v… Chữ “sanh phạn” ngụ ý cơm này dùng để nuôi mạng sống của chúng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 243
Trong ấy thường có chữ chưa cháy hết. Dù cháy hết, tro ấy hoàn toàn bị
quăng xuống đất, há không có lỗi hay sao? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tống Đức Trung hỏi đốt kinh là công hay tội)
* Hiện thời vận đời đổi mới, những kẻ vô tri lầm lạc đề xướng thuyết
hủy diệt Phật pháp trong lúc này, thật nguy hiểm quá! Đạo pháp chẳng bị
diệt vong ngay lập tức là nhờ vào các hạ và các đại cư sĩ đổ công sức
duy trì bằng nhiều phương cách. Nếu không, huệ mạng của Như Lai vĩnh
viễn đoạn diệt từ đây, đông đảo chúng sanh trọn chẳng mong chi thoát
khổ, nguy hiểm đến cùng cực!
Ngày hôm qua, hòa thượng Diệu Liên ở Nam Kinh gởi đến một bức
thư vốn là thư của Tôn Đại Tổng Thống (Tôn Văn) trả lời các cư sĩ thuộc
hội Phật giáo vào năm Dân Quốc thứ nhất (1911). Lá thư ấy được đăng
tải trong cuốn Phật Học Tùng Báo số thứ nhất, chẳng biết các hạ và các
đại cư sĩ đã từng đọc qua hay chưa? Hòa thượng nói là bài viết ấy được
đăng tải trong tháng Ba, có lẽ không đích xác, tôi sẽ kiếm trong những
số Phật Học Tùng Báo còn giữ được để kiểm chứng. Có lẽ nên cho đăng
[lá thư ấy] trong những tờ báo lớn để những kẻ xướng xuất bừa bãi, tiến
hành bừa bãi biết Tôn Đại Tổng Thống đã làm chuyện hoằng dương, bảo
vệ Phật giáo như vậy. Nếu đăng báo nên ghi là “công hàm bảo vệ Phật
giáo của Tôn Đại Tổng Thống”, phía dưới ghi chú bằng hàng chữ nhỏ
rằng “trích từ Phật Học Tùng Báo số thứ nhất”, hoặc ghi “do phân hội
Phật Giáo Giang Tô sao chép gởi tới”, mong ông hãy cân nhắc. (Hoằng
Hóa Nguyệt San số thứ 2 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư gởi
cư sĩ Quan Quýnh Chi - 3)
* Hiện thời Phật giáo bị tai ách đến cùng cực, đúng là tới mức không
làm sao được nữa! Những vị đại hòa thượng mơ màng chỉ biết tham
danh lợi, ham quyến thuộc, chẳng nói đến chuyện chân tu thực hành, chỉ
mong thâu nhận đồ đệ tràn lan, truyền giới tràn lan, cho tăng chúng cư
ngụ tràn lan thật đông, mong nhờ vào đó để phô trương thanh thế đạo
khí của chính mình, đến nỗi có hiện tượng như ngày nay! Em trai ông có
   quỷ thần; do vậy, mới có từ ngữ Xuất Sanh. Vị thị giả sẽ mang cơm ấy ra phía ngoài
trai đường, đặt nơi đất sạch, trong bóng râm, đọc kệ Xuất Thực. Sở dĩ phải thí thực
cho chúng quỷ thần vì khi đức Phật hàng phục quỷ Khoáng Dã, Quỷ Tử Mẫu, đã
khuyên các loại quỷ thần ấy không nên ăn máu thịt chúng sanh nữa, và hứa khi nào
Phật pháp còn tồn tại, Tăng chúng sẽ hằng ngày cúng dường thực phẩm cho họ được
no đủ. Không hiểu vì lý do gì, Phật giáo Trung Hoa, nhất là tại Hoa Nam, lại thêm
vào chuyện đốt giấy tiền vàng bạc mỗi khi Xuất Sanh.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 244
gởi thư đến kể về hiện tượng Lạc Thanh. Ở vùng ông cũng nguy ngập
hết sức, nếu chẳng quan tâm đến thì dường như thiếu sót trách nhiệm hộ
pháp! Nếu quan tâm thì đúng là chẳng có biện pháp gì! Vì thế, hãy nên
xét kỹ tình thế, làm được thì làm, nếu không làm được mà vẫn cứ làm thì
cũng vô ích!
Kẻ đáng ngại nhất thì một là người hoằng pháp, hai là kẻ trà trộn để
kiếm cơm đã ươm sẵn thành mối họa này. Cho đến khi tai họa ụp xuống
vẫn chẳng biết hối cải, chỉ biết cầu người khác, chẳng biết cầu Phật và
cầu nơi chính mình, cũng đáng buồn thay! Do vậy, Quang giữ chặt chủ
nghĩa “chẳng lập đồ chúng” vì quá chán ngán những hành vi ấy, chẳng
muốn giúp họ tạo sóng gió để rồi cùng đi đến chỗ bại hoại!
Nghe nói ở Nam Kinh đã có [Tăng sĩ] cưới vợ, ở Bắc Kinh đã tiến
hành cướp đoạt tài sản. Những kẻ đoạt tài sản vẫn không cấm người
khác tu trì. Sở dĩ như vậy là vì họ muốn mượn danh nghĩa khuếch trương
giáo dục để mong lèn đầy túi riêng. Chẳng hiểu nhân quả, chẳng biết đạo
làm người, chỉ lăm lăm cậy mạnh nuốt yếu; đã thế, Tăng không có thật
đức, nên mới thành ra ác quả này, buồn thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Chỉ có cực lực tu trì, cầu Tam Bảo gia bị là thượng sách! Bốn
mươi, năm mươi năm trước đây, Đại Bi Viện ở Thiên Tân hoàn toàn lọt
vào giữa trại lính, hồ tiên184 quậy phá, sĩ quan trong trại lính chẳng thể ở
được, thỉnh lão Hòa Thượng của Đại Bi Viện đến liền lặng yên vô sự. Sĩ
quan rất tôn trọng, những chuyện quét dọn hằng ngày trong Đại Bi Viện
đều do các binh lính thuộc doanh trại làm. Buổi tối, [Tăng chúng] ra
ngoài phóng Diệm Khẩu, trở về, kêu cửa, họ liền mở cửa trại. Lại có vị
đáp thuyền, thuyền cập bến trong đêm cũng không bị ngăn cấm. Thị trấn
Mộc Độc (thuộc tỉnh Giang Tô) có đến một ngàn lính đều đóng trong
nhà dân. Nghe nói binh lính gần đây vẫn còn hiền lành, chẳng ngang
ngược tàn bạo.
Trong lúc này, một là dùng tu trì để cầu Tam Bảo gia bị, hai là dùng
tu trì khiến cho quan lẫn lính đều kính trọng. Hạ viện chùa Linh Nham ở
ngoài cửa Tây thành Tô Châu cũng có bốn mươi, năm mươi tên lính ở,
chúng còn hiền lành, chẳng nấu đồ mặn trong chùa, đây cũng là chuyện
rất khó có vậy! Mong ông hãy nói với vị Đầu Đà Tăng, từ rày chỉ nên
 184
Hồ tiên: Hồ ly tinh
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 245
cầu Tam Bảo, đừng cầu cạnh người khác. Cầu cạnh người khác chẳng
những vô ích, ngược lại còn bị mang tiếng nhục là bản thân thiếu đạo
đức! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Niệm
Phật)
* Con người hiện thời thường cầu các bậc danh nhân soạn các
truyện ký cho cha mẹ của chính mình và bản thân để mong lưu danh sau
khi chết đi, Quang coi đó là chuyện xấu hổ! Không những Quang chẳng
cầu cạnh người khác viết về mình, mà ngay đến cha mẹ Quang, Quang
cũng không tự viết, huống là cầu cạnh người khác ư? Dù danh trùm thiên
hạ thì có dùng chuyện ấy để liễu sanh tử được hay không? Vì thế, tấm
lòng cầu danh của Quang nguội lạnh cùng cực. Hễ thấy những kẻ cầu
cạnh người khác soạn văn, lòng liền bức rức, cho nên thường nói:
“Người thế gian phần nhiều đều là chuộng danh ghét thật”. Nào có phải
là do Quang ghét danh đâu? Mà là vì cái danh mà không có thực chất thì
thật là đại nhục, cho nên chẳng muốn có cái danh xuông ấy. (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư của cư sĩ Dương Thọ Chi)
* Cổ nhân có sự hàm dưỡng “tuy có mà như không, có thật mà như
dối”, sao [nhà báo] lại quên tuốt, ngược ngạo phô phang thanh thế trống
rỗng vậy? Từ rày đừng nên làm như thế nữa! Quang còn chưa lên đến
huyện (huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây) làm sao nhập học ở trường huyện
cho được? Vào trường học ở huyện hay không, nói chung chẳng khác gì
nhau! Nhưng một đằng thật, một đằng giả, chỉ khiến cho người ta hổ
thẹn không nơi lánh mình, có ích chi chăng? Quang làm người trong cõi
thế không lâu nữa đâu, một mai chết đi, muôn vàn chớ nên truyền bậy
điều ấy khiến cho người khác nghi ngờ, cười chê! Đối với cha mẹ, sư
trưởng, Quang chẳng ghi chép một chữ, vì sợ bị hãm trong vực xoáy
tiếng tăm hư vọng của con người hiện thời, chuốc lấy tiếng dị nghị của
người khác. Chỉ mong chẳng nhục lây cha mẹ, coi đó là chuyện rạng
danh cha mẹ. Huống chi người học Phật há có nên giống như trẻ nít
ngoài đường ngoài chợ cầu xin khắp những người có danh vị tán tụng
mới coi đó là vẻ vang, hiếu hạnh ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Viên Đức Thường - 3)
* Hàng tôi tớ phần nhiều không biết tốt - xấu, làm lụng trong nhà
giàu có hay nhà người khác, chẳng biết quý tiếc gạo thóc, vật dụng, đấy
chính là chuyện hao phước, tổn thọ, hằng ngày chẳng biết [làm như vậy]
bao nhiêu lần! Gần đây, nghe ông Tào Tung Kiều nói: “Có một tiên nhân
dựa vào thân người khác để chẩn bệnh, một bà vú thuộc một nhà giàu có
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 246
nọ, gần như bán thân bất toại cũng đến xin xem bệnh. Bà ta chưa đến
trước mặt, tiên nhân đã nói: „Ngươi khỏi phải đến! Ngươi phung phí
cơm gạo, thức ăn của chủ nhân quá nhiều, chẳng bao lâu nữa toàn thân
sẽ điên cuồng, tê liệt mà chết!”
Hãy nên đem lời này kể với hai cô con gái [Hữu] Trinh và Chiêu
Nga của ông để họ biết mến tiếc đồ vật của chủ nhân, vun bồi phước thọ
của chính mình, cũng như có thể đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh.
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch
Viên - 2)
* Tại chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà, một vị sư Phạn Đầu185 dù nấu cơm
cho một hai trăm người [ăn], vẫn nấu cơm không chắt nước. Trong mấy
năm, vị ấy đã tiết kiệm củi lửa, mỗi ngày chỉ cần một hai gánh củi, lại
nấu được nhiều cơm, cơm còn bồi bổ con người.
Vị Phạn Đầu kế tiếp thường hay chắt cả mấy thùng nước cơm, nước
gần đầy thùng bèn đổ xuống cống ngầm. Nhà kho, khách đường, chấp sự
đều chẳng hỏi đến. Đủ biết vị Phạn Đầu ấy mỗi năm đã phí phạm củi
lửa, nước cơm của Thường Trụ, tội ấy lớn lắm! Mong hãy đem nghĩa
này nói với hết thảy mọi người, đây cũng là chuyện quý tiếc củi lửa, ngũ
cốc lớn lao vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời cư sĩ Viên Đức Thường - 2)
* “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (Bất hiếu có ba điều, không có
con nối dõi là [điều bất hiếu] lớn). Đây chính là nói về kẻ chẳng trọn hết
phận sự con người vậy. Nếu đã lấy vợ, nhưng không sanh nở được, cố
nhiên chẳng phải là “không trọn hết phận sự con người”. Một vị cư sĩ ở
quê tôi không con, cầu khấn nhiều cách đều chẳng thỏa nguyện, bèn cưới
một người thiếp, nhưng thê thiếp bất hòa, nẩy sanh xích mích, vẫn không
có con. Một người bạn bày kế, tính sang làng xa cưới một người thiếp
nữa, chẳng rước về nhà, mỗi năm người ấy qua lại một đôi lượt để mong
sanh con. Đem chuyện ấy thưa với Quang, Quang nghe xong khôn ngăn
than thở cảm khái!
Gần đây lòng người bại hoại đến cùng cực, trai gái tự do luyến ái
gần như trở thành công khai. Một cô gái tuổi nhỏ, ở một mình ngoài mấy
 185 Phạn Đầu là một vị chức vị thuộc về Thập Vụ trong tùng lâm, dưới quyền quản trị
của vị Điển Tọa. Vị Phạn Đầu chuyên lo cơm cháo cho Tăng chúng, cũng như chịu
trách nhiệm đảm bảo cơm nước, củi lửa đầy đủ, nồi niêu sạch sẽ, bát đũa tinh sạch.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 247
trăm dặm, cô gái ấy chẳng sanh chuyện bên ngoài thì chính là bậc đại
hiền, sợ rằng trong trăm ngàn người, cũng khó được mấy kẻ! Huống chi
cô gái ấy tự sống thành một nhà, lại cần phải thuê đầy tớ, phí tổn cũng
khá. Nếu may mắn sanh được con thì kẻ ưa gièm pha ắt sẽ có kẻ nói xấu
miệt thị là làm chuyện ám muội. Nếu chẳng may vẫn không sanh được
con thì cô gái ấy suốt đời cô đơn quạnh quẽ, người chồng phải chu cấp
suốt đời, đúng là tự gieo mình vào lao ngục, làm nô lệ cho cô gái ấy,
chẳng đáng buồn ư? Kế hoạch ấy nói chung là vì cái danh mà bày ra, vì
cho rằng không con là thiếu đức, có con thì người ta chẳng nói mình
thiếu đức. Cái danh gây lụy cho con người đến nỗi như thế đấy!
Ta chỉ trọn hết phận ta, hết thảy [những chuyện khác] không tính
đến thì mới là “biết vui theo mạng trời”. Số mạng vốn không có con thì
phải tích đức mà cầu, cầu không được thì có gì tiếc nuối đâu? Nay
[những kẻ] đả đảo giềng mối “cha - con, vợ - chồng” để tự do luyến ái,
nam nữ lõa lồ ôm nhau khiêu vũ, chẳng phải là những đứa con do cha
mẹ sanh ra hay sao? Không có những đứa con như thế thì tốt hơn! Anh
em Quang ba người, Quang bé nhất, hai anh đều không con, dòng họ
tuyệt tự. Quang nghe xong, khôn ngăn mừng rỡ, an ủi, bởi sau này chẳng
còn có con cháu tạo ác nghiệp làm nhục tổ tiên nữa! Chuyện như vậy,
đâu phải chỉ riêng quê tôi mới có, có lẽ có người mang cảm giác đồng
tình với quê tôi, cũng có thể giải bớt nỗi lo buồn vậy!
Huống chi, người tu hành chẳng mong huyết mạch được tiếp tục.
Bàng cư sĩ con trai chẳng lấy vợ, con gái chẳng gả chồng. Ông Bành Nhị
Lâm suốt đời hoằng pháp tu Tịnh nghiệp, vợ sanh được hai con gái,
không có con trai cũng chẳng cưới thiếp, cũng chẳng nuôi cháu nối
dòng, do ông chí tại vãng sanh Tây Phương, chẳng muốn tiếp tục dâm
dục hòng sanh con đẻ cháu. Chúng ta dù chẳng dám vói cao [muốn được
như] Bàng cư sĩ, nhưng gương thơm của Bành Nhị Lâm chúng ta nên tự
giữ. Cần gì phải lập ra kế hoạch cực nguy hiểm ấy để mong đạt cho được
vậy?
Nếu nói: “Ông nói như vậy, quá bất cận nhân tình, nỡ để phần mộ
tổ tiên không người lễ bái, quét dọn, cúng tế ư?” thì thưa: “Do lấy thiếp
mà bị người gièm pha là làm chuyện ám muội, sao bằng đến viện mồ
côi, ẵm lấy một đứa bé mũm mĩm, trông có phước phận về làm con thì
tốt đẹp đôi bề, không ai nuôi nó, ta nuôi làm con, tức là cứu mạng nó, nó
cũng có thể thay thờ phụng tổ tiên, mà cũng làm cho tổ tiên của nó
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 248
chẳng đến nỗi đau lòng vì con cháu bị vùi lấp nơi khe rãnh vậy. Nghĩa
cử ấy người ta cho là nuôi tò vò, nhưng nuôi tò vò có gì đâu mà thẹn?
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Hồ Phụng
Trần)
* Con người sống trong thế gian thật giống như huyễn hóa, dẫu thọ
trăm tuổi cũng chỉ là một khoảng khảy ngón tay. Lúc sanh ra cũng tùy
theo túc nhân (nhân trong đời trước) mà đến, lúc chết cũng tùy theo hiện
nhân (cái nhân trong đời này) mà đi. Dẫu sẵn đủ Phật tánh thường trụ bất
biến, tịch - chiếu viên dung, nhưng do mê chưa ngộ nên ngược ngạo
nương vào sức công đức của Phật tánh ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp luân
hồi sáu nẻo, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Đức Như Lai thương xót
nên khi họ còn sống bèn dạy tu tịnh hạnh để mong bỏ mê về với ngộ, lìa
vọng theo về chân ngõ hầu khôi phục Phật tánh sẵn có, sau khi chết bèn
hỏa thiêu thân xác nhằm chỉ rõ sáu Trần không có Thể, năm Uẩn đều là
không, đích thân chứng được diệu tâm thường trụ. Ở Tây Vực có bốn
cách an táng:
1) Một là thả trôi trong nước, tức là bỏ trong các sông rạch cho cá,
rùa ăn.
2) Hai là hỏa thiêu, dùng lửa đốt xác ngõ hầu phá được Ngã Chấp.
3) Ba là chôn xuống đất, tức vùi kín trong huyệt để [thân xác] khỏi
bị phơi bày. Nước ta thường chú trọng chôn xuống đất; nhưng biển dâu
biến đổi, đường đất nhiều lượt thay đổi, đào mộ lộ xương, thảm thương
tột cùng!
4) Bốn là thi lâm (rừng thây), tức bỏ xác trong rừng cho chim thú
ăn. Nay tại Ngoại Mông Cổ186, bỏ xác trong đồng hoang để nuôi chim,
thú.
 186
Gọi là Ngoại Mông Cổ nhằm để phân biệt với Nội Mông Cổ. Khi người Mông Cổ
chiếm Trung Hoa lập ra nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt sát nhập đất đai Mông Cổ vào
lãnh thổ Trung Hoa. Tới khi Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) lật đổ nhà
Nguyên, người Mông Cổ bị đuổi ra ngoài cửa ải, nhưng các vương hầu, tộc trưởng
Mông Cổ gây chiến liên miên với nhau nên càng ngày càng suy yếu, phải dựa dẫm
vào thế lực của một sắc dân ngày càng quật cường là dân Mãn Châu. Do ngày càng
cường thịnh, dân Mãn Châu đã lần lượt biến các bộ tộc Mông Cổ thành chư hầu của
họ. Khi dân Mãn Châu chiếm được Trung Hoa lập ra đế quốc Đại Thanh, toàn bộ đất
đai Mông Cổ một lần nữa lại bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Ngoại Mông Cổ là
vùng nằm gọn trong địa bàn nước Cộng Hòa Mông Cổ ngày nay (đa số là dân Mông
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 249
Từ khi Phật pháp truyền sang phương Đông, Tăng chúng đều [an
táng theo cách] hỏa thiêu. Những bậc cao nhân thông đạt, sùng tín Phật
pháp đời Đường đời Tống cũng thường dùng cách này vì Phật pháp
trọng thần thức, chỉ sợ đắm chấp thân xác, chẳng thể giải thoát được!
Thiêu đi thì sẽ biết đấy chẳng phải là ta, không còn đắm chấp nữa. Lại vì
[người đã khuất] tụng kinh niệm Phật, mong họ chứng được Pháp Thân.
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký về việc Linh Nham Sơn Tự
xây dựng tháp Phổ Đồng cho tứ chúng)
* Lúc lệnh nghiêm còn sống đã tin vào Phật pháp, nay ma chay cho
cụ, theo đúng lý, hãy nên thuận theo chí của cụ lúc sinh tiền, nhất loạt
đừng dùng đồ mặn. Phàm tế thần, cúng linh, đãi khách đều dùng món
chay, điều này đem so với phóng sanh, công đức càng lớn hơn. Nếu
chẳng dùng đồ chay thì xong đám tang này, số lượng sanh mạng bị giết
quá nhiều. Nỡ nào vì bọn ta thể hiện lòng hiếu mà khiến cho cha mẹ ta
phải kết sát nghiệp với vô số sanh mạng ấy?
Năm Dân Quốc 13 (1924), tiên sinh Châu Ngọc Sơn mất (vị này từng
làm Tổng Đốc Lưỡng Giang), con ông là Tập Chi quen biết với Quang, gởi
cho Quang một tờ cáo phó. Quang khuyên đừng dùng đồ mặn. Do ông ta
là quan chức có tiếng tăm rất lớn, nếu dùng đồ mặn sẽ chẳng tránh khỏi
“làm cho cha nở mày nở mặt lại hóa thành gây lụy cho cha!” Thư Quang
gởi đến, ông Tập Chi chẳng quyết đoán, bảo những người lo việc bàn
bạc. Những kẻ lo việc toàn là bọn tham ăn tục uống, đều chẳng tán thành
dùng món chay. Thiết lễ điếu tang tại Thiên Tân, [khách viếng tang]
ngồi hơn bốn ngàn bàn. Năm sau, rước linh về đất Hoàn (An Huy): Đến
Nam Kinh làm lễ điếu tang, tới Vu Hồ (thuộc tỉnh An Huy) lại làm lễ
điếu tang, về đến nhà lại thiết lễ điếu tang. Con cháu dòng trưởng làm lễ
điếu tang tại Dương Châu. Chỉ năm lần thiết lễ điếu tang này, những
sanh mạng bị giết đã chẳng thể tính nổi số. Chôn cất xong, trở về Thiên
Tân, có kẻ cầu cơ, tiên sinh Ngọc Sơn giáng đàn, đau đớn oán hận người
nhà dùng đồ mặn, nói công đức thuở làm quan khi còn sống đã bị tiêu
diệt hết mà vẫn chưa đủ [để bù đắp cái tội ấy]! Tập Chi quá sức hối hận
nhưng không làm sao được, muốn lập một đại tùng lâm tại Thiên Tân để
   Cổ sắc tộc Khalkha), còn Nội Mông Cổ bao gồm phần đất sát với Vạn Lý Trường
Thành, có rất đông người Mông Cổ sinh sống, chủ yếu là các sắc tộc Hung Nô, Ô
Hoàn, Tiên Ty, Đột Quyết và Đông Hồ (hai tộc này là người Mông Cổ). Khi Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, Nội Mông Cổ trở thành một đặc khu tự trị với
thủ phủ là Hohot.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 250
chuộc lỗi. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ
Quách Phụ Đình)
 * Lời nói của nhà Phong Thủy187 sao đáng lấy làm căn cứ? Nếu
đúng như họ nói thì người phú quý sẽ vĩnh viễn phú quý, há có thường
thấy con nhà cao sang bị chết đói nữa ư? Người có thế lực nhất trong cõi
đời để chọn được cuộc đất tốt, nơi làm nhà tốt, có ai bằng hoàng đế? Cớ
sao hoàng đế phần nhiều thường đoản thọ? Từ đời Hán đến nay, chưa có
triều đại nào tồn tại hơn bốn trăm năm!
Người nghèo các nỗi khổ dẫy đầy, lại muốn được chỗ ở tốt, huyệt
mộ tốt nhưng chẳng được, đấy là muốn khỏi khổ lại tự lập ra cách để
càng bị khổ sâu xa hơn! Ông chỉ giữ tấm lòng tốt lành, nói lời tốt lành,
làm chuyện tốt lành, nhất tâm niệm Phật, lần lượt khuyên người, y theo
Một Lá Thư Gởi Khắp để khuyến hóa thì nghiệp chướng ngầm tiêu,
thiện căn tăng trưởng. Quang sám hối cho ông sao bằng chính ông cạn
kiệt lòng thành kính tự sám hối có hay hơn không? (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tiêu Trường Hựu ở Côn Minh)
* Sau khi cụ đã mất, đừng bày vẽ mù quáng, làm lễ phúng điếu,
nhóm họp thân hữu. Dẫu cho bạn bè thân thiết tìm đến cũng nên đãi cỗ
chay, vĩnh viễn chấm dứt rượu thịt. Ma chay, kính thần, đãi khách đều
dùng món chay. Vàn muôn phần chớ nên dùng rượu thịt! Trong đám
tang chẳng dùng rượu thịt, cổ lễ Nho gia đã là như vậy đó, chứ không
riêng gì Phật giáo mới vậy. Nếu Hoàng Thái Tử đang cư tang mà lén lút
uống rượu thì sử quan ắt phải ghi chép chuyện ấy để truyền cho hậu thế!
Hiện thời lễ giáo bỏ phế, đang cư tang vẫn tấu nhạc, sát sanh để giữ
thể diện. Các ông đừng học theo thói cực ác ấy! Lại có kẻ còn đem hành
trạng của người đã khuất in ra, thỉnh danh nhân đề lời tán tụng, tặng cho
khắp mọi thân hữu. Chuyện ấy cũng hết sức vô lễ! Đem hình ảnh của
cha mẹ in trên đấy, người ta nhận được xem qua một lần rồi quăng vô
đống giấy lộn, chẳng biết đã khinh nhờn đến đâu! Các ông muốn làm
cho cha mẹ được nở mày nở mặt, hãy nên trong mỗi niệm luôn tự phản
tỉnh, khởi tâm động niệm, xử sự, chẳng dám có một niệm không xứng
đáng với Phật, Bồ Tát, thiên địa, quỷ thần. Nếu có thể giữ được như thế
 187
Nguyên văn “Kham Dư”, Kham (堪) có nghĩa là khám xét, quan sát, Dư (輿) có
nghĩa là cỗ xe, hàm ý chuyên chở, đi khắp lãnh thổ. Hiểu theo ý nghĩa hẹp, chữ Dư
chỉ la bàn dùng trong Phong Thủy. Do vậy, Kham Dư có nghĩa là quan sát tướng đất,
dùng la bàn để trắc định hướng đất. Kham Dư Thuật là tên gọi khác của Phong Thủy.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 251
suốt đời thì mới là đại hiếu, tôn kính cha mẹ. Nếu không, do hành vi bất
thiện, ắt người ta sẽ nói cha các ông tổn đức nên mới có đứa con không
ra gì như vậy! Do đó, con người chẳng thể không tự trọng! (Hoằng Hóa
Nguyệt San số 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 3, Thư trả lời anh
em Ninh Sanh và Khai Sanh)
* Người đời chẳng cầu phước điền nơi tâm, cứ cầu phước điền nơi
ngoại cảnh, thường chôn vùi thiên lương để mưu đoạt nhà cửa, đất đai
tốt đẹp của người khác, đến nỗi nhà tan người chết, con cháu tuyệt diệt
đều là vì bị lũ thầy Phong Thủy mê hoặc mà ra! Nếu thầy Phong Thủy
biết họa - phước đều do tâm tạo, mà cũng do tâm chuyển, [Phong Thủy]
sẽ trở thành khuôn phép hữu ích cho cuộc đời. Hơn nữa, các nhà Phong
Thủy mỗi người một ý kiến khác nhau, phàm với cách nhìn của người
xưa, người đời nay chưa chắc đã hoàn toàn tán đồng, do muốn tỏ ra
chính mình hiểu biết cao siêu, chứ thật ra quá nửa là dụng tâm của tiểu
nhân, muốn nhờ vào đó để dối đời trộm danh vậy! Hãy thử nhìn vào
những nhà Phong Thủy xem, có ai đại phát đạt hay không? Họ có thể
mưu tính cho người khác, cớ sao chẳng mưu tính cho chính mình? (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tiêu Trường
Hựu ở Côn Minh)
* [Ngôi vị] Thành Hoàng chính là do người thông minh chánh trực
trong cõi đời đảm nhiệm. Luận theo Phật pháp thì họ vẫn thuộc trong số
những kẻ bị đọa lạc, nhưng nhìn theo thế tục, họ đã rất phi thường rồi.
Ông buồn vì [nghĩ Thành Hoàng] chẳng được kể tên vào tế điển188 là
điều bất hạnh ư? Hết thảy thánh hiền đạo đức đều bị gã cuồng kia phế
bỏ, lẽ nào thánh hiền đều trở thành kẻ khốn cùng không nơi nương tựa
hay sao? Cha ông bẩm tánh rất thật thà, e rằng vẫn chưa hiểu sâu xa
nguyên do của pháp Niệm Phật. Nếu biết sâu xa, ắt sẽ chẳng đến nỗi có
chuyện trở thành Thành Hoàng! Nếu cụ là Thành Hoàng thì há lẽ nào vì
bị kẻ cuồng trong đời phế bỏ mà do đó không có chức vị, trách nhiệm
của Thành Hoàng nữa hay sao?
Thành Hoàng có lớn, có nhỏ, giống như các quan địa phương ở tỉnh,
phủ, huyện. Do họ hưởng huyết thực189, nắm quyền thưởng phạt, nên
 188
Tế điển: Sách ghi tên các vị thần được triều đình công nhận và quy định cúng tế
hằng năm.
189
Huyết thực: Theo lệ xưa, người ta thường giết heo, dê, bò rồi để nguyên con
không nấu nướng, dâng lên tế thần. Hiểu theo nghĩa rộng, do thần thánh thường được
cúng tế bằng động vật nên gọi là “hưởng của huyết thực”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 252
người biết Phật pháp quyết chẳng chịu làm. Nếu huệ lực sâu thì còn có
thể tiến tu, nếu huệ lực cạn thì chẳng phải là điều tốt lành cho lắm vì
phàm phu trọn đủ Hoặc nghiệp, do tâm sân khuể nặng nề nên chẳng thể
gọi là chuyện tốt đẹp được!
Nếu ông có thể chí tâm niệm Phật hồi hướng cho cha khiến cho cụ
chưa nhận chức Thành Hoàng liền sanh về Tây Phương, còn nếu đã nhận
chức Thành Hoàng thì khi mãn chức sẽ vãng sanh, đấy mới là thờ cha
mẹ đến mức rốt ráo. Phải biết vãng sanh Tây Phương còn vượt trỗi chư
thiên cõi trời Phi Phi Tưởng190 bao nhiêu lần chẳng thể tính được, huống
gì là Thành Hoàng? Hễ vãng sanh bèn siêu phàm nhập thánh, còn Thành
Hoàng chỉ là một chức vụ nắm quyền thưởng phạt trong quỷ thần đạo
mà thôi, vẫn ở trong Dục Giới! Chức vụ đã mãn thì hoặc là được thăng
chức, hoặc sanh lên trời, hoặc sanh vào nhân gian, đều tùy theo nghiệp
lực mà thọ các thứ quả báo cao hay thấp vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Quách Vũ Tam)
* Phàm phu chưa từng đích thân chứng được Phật Tánh, tất cả công
đức của Tự Tánh hoàn toàn chẳng được phát hiện và thọ dụng, nên hết
thảy phải thuận theo nghiệp. Cái sắc thân trong đời hiện tại gọi là Báo
Thân, tức là quả báo của những điều thiện hay ác đã tạo trong đời trước.
Người niệm Phật tuy không còn tạo nghiệp sanh tử nữa, nhưng túc
nghiệp chưa hết, làm sao có thể được vãng sanh ngay lập tức? Nếu tâm
nhàm chán thế gian thiết tha, kiệt lòng thành, tận lòng kính, chuyên chí
niệm Phật, cầu Phật rủ lòng từ sớm đến tiếp dẫn thì cũng có người [sớm
được vãng sanh]!
Nếu tự hủy hoại mạng sống để mong vãng sanh liền thành uổng tử
quỷ (quỷ chết oan)! Do người ấy công phu chưa đạt mà tự hủy mạng thì
khi đang hủy mạng, tâm đã mất chánh niệm, huống chi nỗi khổ do tự
hủy mạng không thể thí dụ được! Tâm mất chánh niệm thì làm sao tương
ứng với Phật, được Phật tiếp dẫn? Thứ tà kiến này tự lầm, lầm người,
 190 Phi Phi Tưởng Thiên, gọi đầy đủ là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (Naivasamjñānāsamjñāyatan), đôi khi còn dịch là Vô Tư Tưởng Diệc Vô Tư Tưởng Thiên,
Hữu Tưởng Vô Tưởng Trí Thiên, hay Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Thiên, là
tầng trời cao nhất trong Vô Sắc Giới. Tên tầng trời này được gọi theo môn Thiền
Định của chư thiên trong tầng trời ấy. Định tâm của họ cực kỳ vi diệu, không còn có
thô tưởng nữa nên gọi là Phi Tưởng, nhưng vẫn còn những Tưởng vi tế, nên gọi là
Phi Phi Tưởng. Do tầng trời này cao nhất trong Tam Giới nên đôi khi còn gọi là
Đảnh Thiên.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 253
gây hại tột bực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời cư sĩ Ngô Thương Châu - 3)
* “Thiên định giả thắng nhân, nhân định giả thắng thiên”. Thật ra,
khổ - vui, hên - xui mà người đời gặp phải, quá nửa là do người ấy đã
tạo! Có mấy ai một bề giữ nguyên số mạng? Nói chung, người làm ác
[cuộc đời] chẳng thể [tốt đẹp] đúng như số mạng thì nhiều, người tu
thiện biến đổi số mạng [xấu hèn] thành tốt đẹp thì ít! Hai loại người này
đều là “nhân định thắng thiên”.
Người đời mỗi khi có ý niệm thiện liền có thể chuyển được họa
thành phước, chuyển dữ thành lành; huống gì suốt đời ăn chay, niệm
hồng danh vạn đức của Như Lai mà chẳng thể xoay chuyển tạo hóa ư?
Chỉ cần dạy họ thường giữ lòng kính sợ, phát tâm Bồ Đề thì những điều
ấy còn có thể làm [phương tiện] dẫn đường để siêu phàm nhập thánh,
huống hồ những chuyện phước nhỏ nhặt khác mà chẳng thể đạt được ư?
Phước và họa dựa dẫm lẫn nhau, muốn thuần được phước chẳng mắc
họa thì cũng chỉ do chính mình nỗ lực tu trì! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Tu trì là tại ta, mạng tự ta lập! Nếu có thể thường giữ lòng kính sợ,
nhất tâm niệm Phật và niệm Quán Âm thì không nghiệp nào chẳng tiêu,
không phước nào chẳng đưa tới, đây chính là ý nghĩa lớn lao “nhân định
thắng thiên” vậy! Nếu cô ta lười nhác, biếng trễ, trong tâm không đặt
nặng chuyện năm tháng không vừa ý, sẽ thành ra “thiên định thắng
nhân”. Xin hãy đem ý nghĩa “lập mạng tu thân” lớn lao này nói với cô
ta, ắt cô ta sẽ rửa lòng gột ý, dè dặt, chăm chú tu trì, siêu phàm nhập
thánh hãy còn dư, huống hồ khuyết điểm năm tháng nhỏ nhặt ư? (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Hiện thời là lúc tình thế đại hoạn nạn, bất luận phú quý hay nghèo
hèn, già, trẻ, trai, gái đều nên niệm thánh hiệu “nam-mô A Di Đà Phật”
và niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để làm căn cứ phòng ngừa tai
họa. Phàm đao binh, nước, lửa, ôn dịch, sâu rầy, hạn hán, lụt lội, thổ phỉ,
cường đạo, và các tai họa ngoài ý muốn, bệnh tật do oán nghiệp, oan gia
gặp gỡ v.v… nếu có thể chí thành niệm Phật và niệm Quán Thế Âm chắc
chắn sẽ gặp dữ hóa lành. Dẫu là do định nghiệp tạo thành, cũng có thể
giảm nhẹ, chẳng đến nỗi khốc liệt quá mức. Những tai họa ấy chẳng
phân biệt phú quý hay nghèo hèn. Nhưng người phú quý xem ra còn khó
chịu đựng hơn kẻ nghèo hèn; do vậy, chớ nên vì ta phú quý rồi coi
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 254
thường, [cũng như] vì ta nghèo hèn bèn mặc kệ, chẳng lập kế đề phòng
sẵn!
Hơn nữa, pháp Niệm Phật đối với chuyện sống lẫn chết của con
người đều có lợi ích. Thế gian chỉ biết đến lợi ích của việc trợ niệm khi
lâm chung, chẳng biết cái lợi ích khuyên niệm khi sanh nở, đến nỗi rất
nhiều mẹ con phải chịu vô lượng khổ, hoặc đến nỗi mất mạng, không
cách gì cứu được! Nữ nhân nếu có thể thường niệm thánh hiệu Phật và
Quán Âm từ nhỏ thì về sau chắc chắn chẳng bị nỗi khổ gặp tai biến trong
khi sanh nở. Hoặc vừa cấn thai liền niệm, hoặc ba bốn tháng trước khi
sanh bèn niệm, hoặc đang sanh nở mới bắt đầu niệm, đều được an nhiên
sanh nở. Nếu sanh khó đến cùng cực và sắp mất mạng, chịu niệm nammô Quán Thế Âm Bồ Tát, chắc chắn lập tức được an nhiên sanh nở.
Đừng nói lúc ấy lõa lồ bất tịnh, nếu niệm sợ mắc tội lỗi! Phải biết Quán
Âm Bồ Tát đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ. Ví như thấy con cái té vào
lửa, nước, hầm xí, gọi cha mẹ để cầu cứu, cha mẹ quyết chẳng vì chúng
nó y phục không chỉnh tề, thân thể chẳng sạch sẽ mà bỏ mặc không cứu.
Tâm cứu chúng sanh của Bồ Tát sâu xa thiết tha hơn lòng thương
yêu con cái của cha mẹ trong cõi đời, đúng là gấp cả trăm ngàn vạn ức
Hằng hà sa lần! Do vậy, phụ nữ khi sanh nở có thể niệm rõ ràng danh
hiệu của Bồ Tát chính là diệu pháp tối thượng cực kỳ linh nghiệm, hữu
hiệu vậy. Chẳng những không có tội lỗi mà còn khiến cho cả mẹ lẫn con
đều được gieo đại thiện căn. Nghĩa này do đức Phật Thích Ca đã dạy
trong kinh Dược Sư, chứ không phải do Bất Huệ bịa đặt. Phàm những ai
có niệm thì không một ai chẳng được an nhiên sanh nở. Gần đây người
bị sanh khó quá nhiều, một phần là do nghiệp chướng đời trước, một
phần là do đời này chẳng biết tiết dục mà ra. Bồ Tát cứu khổ cố nhiên
chẳng tính đến người ấy [bị nạn] do nhân như thế nào, đều bình đẳng
cứu giúp.
Lúc bình thường niệm Phật, tuy đi - đứng - nằm - ngồi đều có thể
niệm, nhưng lúc ngủ chỉ nên niệm thầm trong tâm, chớ nên niệm ra
tiếng. Nếu lúc tỉnh giấc, áo mũ hãy còn chưa chỉnh tề, tay lẫn mặt còn
chưa rửa ráy, súc miệng, và khi tắm gội, tiêu tiểu, và đến những nơi ô uế
chẳng sạch, chỉ nên niệm thầm trong tâm, đừng niệm ra tiếng. Trong
những lúc, những chỗ ấy, công đức niệm thầm giống với công đức niệm
lúc bình thường. Niệm ra tiếng chẳng hợp nghi thức. Còn lúc sanh nở
nhất định phải niệm ra tiếng rõ ràng, chớ nên niệm thầm trong tâm, bởi
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 255
niệm thầm sức cảm ứng nhỏ nhoi. Lại vì lúc ấy phải dùng sức đẩy đứa
con ra, nếu niệm thầm trong tâm, do vì bế khí sẽ có thể thành bệnh!
Không riêng gì sản phụ phải niệm rõ tiếng mà những người chăm
sóc ở bên cạnh cũng đều phải niệm rõ tiếng. Dẫu cho người nhà ở chỗ
khác cũng vẫn có thể niệm cho sản phụ ấy. Nếu pháp này được truyền
bá, thế gian sẽ vĩnh viễn không có nỗi khổ vì sanh sản, và nỗi khổ cả mẹ
lẫn con đều chết vì sanh nở. [Phải] biết Phật pháp lợi khắp hết thảy, Phật
là cha mẹ đại từ bi, là trời của các vị trời, là bậc thánh của chư thánh, do
tâm đại Bồ Đề lợi khắp hết thảy chúng sanh nên được viên mãn thành
tựu. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Châu
Bá Tù)
* Lệnh chánh191 đã biết cầu Tăng niệm Phật hầu tăng tuổi thọ, hãy
nên tự mình thường niệm Phật để cầu vãng sanh. Nếu chỉ dựa vào người
khác để cầu sống lâu, chẳng biết cầu A Di Đà Phật để khi tuổi thọ của
chính mình chấm dứt được tiếp dẫn vãng sanh thì chính là “thấy điều
nhỏ, đánh mất chuyện lớn”. Nếu chịu chí thành niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương thì lúc còn sống và mất đi đều có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Hôm qua, một nữ đệ tử đến đây, đem giùm những thứ thức ăn của
một nữ đệ tử họ Uông [gởi biếu cho Quang], kể: Họ Uông hai tháng
trước đây, một hôm mới vừa xẩm tối, đột nhiên hơn hai chục tên cường
đạo đều cầm súng đến cướp. Trong căn nhà lầu ấy, tầng trên, tầng dưới
có [tổng cộng] bảy gia đình cư ngụ. Họ [Uông] ở trên lầu, do vậy, bèn tắt
đèn điện đi, vợ chồng họ quỳ trước Phật cầu nguyện, nhưng đèn thắp
trước bàn Phật dường như có ai thổi tắt đi. Bọn cường đạo đập cửa
không mở được, bèn không đập nữa. Sáu nhà kia đều bị cướp, chỉ mình
họ chẳng mất vật gì. Đủ biết: Người niệm Phật lúc bình thường còn có
thể gặp dữ hóa lành, huống gì lúc lâm chung! Lợi ích vãng sanh Tây
Phương so với chuyện này còn lớn lao gấp bội lần, chẳng thể nói trọn
hình tướng được. Nên khuyên bà ta thường niệm thì may mắn lắm thay!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lưu Đức
Hộ)
* Phật gia hộ cho kẻ nào đáng nên gia hộ; nếu là kẻ chẳng nên gia
hộ mà cứ gia hộ ắt kẻ ấy sẽ bị tổn hại192. Nay chẳng luận trên sự việc là
 191
Lệnh chánh: Danh xưng tỏ ý tôn trọng vợ cả (chánh thất) của người khác.
192
Sự gia hộ được nói đến ở đây bắt nguồn từ nghi vấn được nhắc đến trong Giáo
Quán Toát Yếu Luận: “Hàng Sơ Tâm thuộc Viên Giáo và Biệt Giáo có được Phật
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 256
giả hay thật, chỉ luận về chuyện “do sự gia hộ sẽ bị tổn hại hay hữu ích”.
Phàm là người có sự hàm dưỡng sâu xa, hễ tâm quang vừa phát ra, nhất
định càng thêm khiêm tốn tự náu mình, nhất định sẽ từ ngay nơi sự hiểu
được lý. Người như thế được gia hộ sẽ hữu ích. Nếu [là kẻ] thiếu hàm
dưỡng, chẳng chú trọng sự tu, chuyên chú trọng nghiên cứu lý tánh, sẽ
trở thành kẻ cuồng huệ tự cao tự đại, tuy tợ hồ có ích nhưng thật ra đối
với hậu học và pháp đạo ắt tổn hại lớn lao. Vì thế, hễ được gia hộ bèn
thâu liễm thì sẽ lại được gia hộ. Nếu sau này vẫn cứ thường như thế, thì
hễ một phen được gia hộ bèn được gia hộ mãi mãi. Nếu khi ấy đúng là
như thế, sau đấy lại y như cũ thì để phòng ngừa hậu hoạn193, hãy bỏ [sự
tham cứu] đi sẽ càng thêm ích lợi.
Chỉ sợ ông chưa có sự hàm dưỡng thuần túy thâm trầm, có lẽ sau
này sẽ coi niệm Phật chẳng cao siêu, mầu nhiệm bằng tham cứu cái tâm.
Vì thế, hãy bỏ ngay [sự tham cứu] đi thì còn có thể giữ nguyên được
thiện căn vãng sanh của mình lẫn người. Bởi vậy, chẳng nên thêm [sự
tham cứu vào pháp Niệm Phật] (từ trên đến đây là lời đáp cho điều thứ hai).
Hiểu rõ lý tánh để liễu sanh tử, phải là địa vị Thất Tín trong Viên Giáo
mới làm được, đủ biết rằng chẳng chú trọng niệm Phật sẽ bị mất mát lớn
lao không gì có thể ví dụ được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Chương Duyên Tịnh)
* Nhiều lần gặp mộng lành chính là túc nhân được cảm vời bởi lòng
khẩn thiết trong hiện tại. [Mộng thấy] đại tự viện chính là pháp hội Hoa
Nghiêm, nhưng do chưa phá được Phiền Hoặc nên chỉ thấy tướng kém
   gia hộ để thấy được lý tánh hay không?” Theo luận ấy, hàng Sơ Cơ Bồ Tát trong hội
Hoa Nghiêm, nếu chỉ dựa trên tự lực sẽ chẳng thấy được lý tánh, do Phật lực gia hộ
nên mới thấy được tánh, mới hiểu được những giáo nghĩa được giảng trong pháp hội
Hoa Nghiêm. Tổ nhấn mạnh người tham cứu tự tánh sẽ được Phật lực gia hộ hay
không tùy theo sự hàm dưỡng của người ấy, nhắc lại ý kiến chính của Giáo Quán
Toát Yếu Luận là Phật chỉ gia hộ cho những ai do thấy được tánh rồi sẽ càng thêm
khiêm nhượng, tấn tu, do tấn tu sẽ ngày càng tăng tấn, do tâm càng thêm thanh tịnh
nên càng dễ cảm được Phật gia hộ. Tổ dùng những ý này để đả phá kiến chấp của
ông Chương Duyên Tịnh cho rằng Niệm Phật phải kèm thêm tham cứu cái tâm để
được tăng thêm phần gia hộ của Phật lực, chứ không lo thật hành “tịnh niệm tiếp
nối” hòng giữ cho cái tâm được thanh tịnh thì tự nhiên cảm được Phật gia hộ!
193 Ý nói: Trong lúc tham cứu, được Phật lực gia hộ nên thấy được tánh (tức ngộ,
nhưng chưa chứng), nhưng rồi không chịu khiêm nhượng, tấn tu, vẫn giữ nguyên tập
khí cũ, sẽ dễ bị ma chướng, nên chẳng thà không tham cứu, cứ chăm chú giữ cho
tịnh niệm tiếp nối mà niệm Phật sẽ được lợi lạc hơn.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 257
cỏi, chẳng thấy tướng thù thắng, nhưng cũng chẳng dễ gì thấy được cảnh
giới ấy. Đối với chuyện trưởng giả lấy nước ban cho uống, ấy chính là
Văn Thù Bồ Tát đem cam lộ194 ban cho ông. Hãy nên thường gắng sức
để chẳng phụ ân đức một phen gia bị. Bởi lẽ phàm phu sát đất phần
nhiều bị cảnh chuyển, nên Tăng Tử lúc sắp mất mới đọc thơ rằng:
“Chiến chiến cạnh cạnh, như lâm thâm uyên, như lý bạc băng, nhi kim,
nhi hậu, ngô tri miễn phù” (Dè dặt kinh sợ, như vào vực sâu, đi trên
băng mỏng, hiện tại, mai sau, ta biết thoát rồi). Chưa đến lúc lâm chung
còn sợ có thể bị sa xẩy, chẳng dám nói lời lớn lối ấy. Nay những người
thích ăn nói lớn lối, đều là những kẻ cuồng trọn chẳng dụng công nơi
căn bản vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
ông Lý Thính Đào ở Hải Môn - 7)
* Bóng đen ông đã nói đó chẳng phải là bóng của Phật hay Bồ Tát
mà cũng chẳng phải là bóng của oán gia đối đầu hiện ra. Vì Phật, Bồ Tát
nếu đã hiện ắt sẽ sáng tỏ, thấy được mặt, mắt v.v… còn oan gia sẽ hiện
tướng đáng sợ! Bóng ấy chính là cô hồn đã có duyên [với ông] trong đời
trước mong nhờ vào sức niệm Phật tụng kinh để được siêu sanh vào
đường lành. Sau khóa tụng, hãy nên vì họ hồi hướng, lại còn chuyên hồi
hướng cho họ, khiến cho họ tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn,
nương Phật từ lực vãng sanh Tây Phương thì có ích cho họ, ngõ hầu
chẳng phụ một phen họ khổ sở hiện bóng. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Phật Điển)
* Về giấc mộng của ông thì chính là do tâm ông biến hiện, không
dính dáng chi đến Quang! Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết
cơm cháo, làm sao hiện trong giấc mộng của người khác cho được? Nghi
vấn của Du Hữu Phương và những gì nói trong mộng phù hợp với những
 194 Cam Lộ (Amrta): Đôi khi còn được phiên âm là A Mật Lý Đa, A Mật Lật Đa,
dịch nghĩa là Bất Tử, Bất Tử Dịch, Thiên Tửu, nghĩa đen là thuốc tiên bất tử, rượu
thiêng của cõi trời. Theo kinh Vệ Đà, cõi trời có rượu thiêng Tô Ma (Soma) uống
vào sẽ sống mãi chẳng già chẳng chết, vị ngọt như mật nên gọi là Cam Lộ (sương
ngọt). Phật Giáo dùng chữ “cam lộ” để ví cho pháp vị của Phật pháp có tác dụng mát
lành nuôi dưỡng Pháp Thân huệ mạng vĩnh viễn cho chúng sanh. Chữ Cam Lộ ở đây
là chỉ pháp thủy, trí huệ thủy khiến cho người uống vào phiền não tiêu diệt, trí huệ
tăng trưởng chứ không phải là thuốc tiên của cõi trời. Ngoài ra, Cam Lộ chính là một
trong ba tên của đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng
Cam Lộ) nên đôi khi Phật Di Đà còn được gọi bằng danh hiệu là Cam Lộ Vương
Như Lai. Vì lẽ đó, chú Vãng Sanh đôi khi còn gọi là Thập Cam Lộ Chú vì có nhắc
đến chữ Amrta mười lần.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 258
gì đã được viết trong thư Quang thì đấy là Bồ Tát chỉ dạy ông ta hòng
sanh chánh kiến.
Kinh dạy: “Nên hiện thân nào để độ được, liền hiện thân ấy để
thuyết pháp”, núi, sông, cây, cỏ, cầu, bến, đường, nẻo, người, ngựa,
binh, tướng, không gì chẳng tùy cơ mà hiện! Nếu nói đấy chẳng phải là
Bồ Tát hiện mà chắc là do Quang hiện thì núi, sông, cây, cỏ, cầu, bến,
đường, nẻo, người, ngựa, binh, tướng cũng có thể hiện mộng cho người
ta, có lý ấy hay chăng? Ông đừng có si dại tưởng là Quang [hiện thân
trong giấc mộng của ông]. Nếu si dại cho là Quang sẽ thành ra “đem
phàm lạm thánh”, thì ông lẫn Quang đều mắc tội chẳng cạn đâu, nhớ kỹ
nhé! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang
Hữu Bằng)
* Nhận được thư khôn ngăn than thở cảm khái. Cớ sao bà mù quáng
đơm đặt, nói Nhiên Đăng Cổ Phật195 giáng sanh trong nhà bà, chưa đầy
năm đã chết non? Chư Phật sanh tử đã xong, quyết chẳng có lẽ nào thị
hiện giáng sanh rồi lại chết yểu! Nếu vì độ chúng sanh, đức Phật bèn
thừa nguyện thị hiện giáng sanh, quả thật có chuyện ấy, nhưng đã thị
hiện giáng sanh, chắc chắn cũng chẳng nói ta là vị Phật nào đó, đến khi
độ sanh xong xuôi, sắp thị hiện Niết Bàn, mới tỏ rõ gốc tích. Chắc chắn
không có chuyện thị hiện giáng sanh, rồi chẳng làm Phật sự lớn lao đã
chết yểu ngay!
Thanh Văn Sơ Quả đã đoạn Kiến Hoặc, vẫn còn Tư Hoặc chưa đoạn
nên phải bảy lần sanh lên trời, bảy lần sanh vào nhân gian mới đoạn
được Tư Hoặc, chứng Tứ Quả. Nhị Quả thì một lần sanh lên trời, một
lần sanh trở lại trong nhân gian rồi chứng Tứ Quả. (Bậc Sơ Quả, Nhị Quả
sanh trong nhân gian tuổi thọ đều dài, ngắn bất định, hoặc mấy tháng, mấy năm, mấy
chục năm, chính là theo nghiệp thọ sanh vậy). Tam Quả tuy đã đoạn sạch Tư
Hoặc trong Dục Giới, vẫn phải ở trong Ngũ Bất Hoàn Thiên của Sắc
 195 Nhiên Đăng Phật (Dīpamkara): Đôi khi còn được dịch âm là Đề Hòa Kiệt La,
hoặc Đề Hoàn Kiệt. Danh hiệu đức Phật này còn được dịch nghĩa thành Phổ Quang
Phật, Định Quang Phật. Ngài là vị Phật trong quá khứ từng thọ ký cho đức Phật
Thích Ca. Theo Tu Hành Bản Khởi Kinh, quyển thượng, thánh vương nước Đề Hòa
Vệ (Dīpavatī) tên là Đăng Thạnh, lúc lâm chung truyền ngôi cho thái tử Định Quang.
Thái Tử biết cõi đời vô thường bèn truyền ngôi cho em trai rồi xuất gia làm sa-môn,
sau thành Phật Quả. Lúc ấy, có đứa hầu trai của một vị Phạm Chí gặp được đức
Nhiên Đăng Phật đang đi du hóa, bèn mua hoa cúng Phật, Phật thọ ký cho đứa hầu
trai sẽ thành Phật trong tương lai, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 259
Giới trải qua nhiều kiếp mới có thể đoạn sạch Tư Hoặc, chứng Tứ Quả.
Tứ Quả đoạn sạch Kiến Hoặc và Tư Hoặc, trọn chẳng còn sanh duyên
trong tam giới. Nếu phát hoằng thệ nguyện thị hiện giáng sanh thì có thể
[giáng sanh trong tam giới], kẻ theo nghiệp thọ sanh chẳng thể sánh bằng
[những vị này]!
Bà là nghiệp lực phàm phu bịa chuyện đồn đại này, vu báng cổ Phật,
muốn được những kẻ mù mắt trong thế gian cho rằng bà là cha mẹ của
Phật. Nếu nói với kẻ thông hiểu Phật pháp, nhất định họ sẽ quở bà là
dùng lời lẽ tà quái lừa dối mọi người! Dẫu cho người trong cuộc không
rảnh rang hỏi đến, há cũng chẳng sợ thiên lôi giết bà hay sao?
Bà còn đến các nơi tìm người họa thơ của bà. Nếu chẳng phải là
ngoại đạo không phân biệt được tà hay chánh và là kẻ si chẳng biết thơm
hay thối, ai chịu chấp nhận lời nói ấy của bà là đúng? Bà hãy nên thống
thiết sửa đổi lỗi trước, phàm đã gởi thư cho những ai đều hãy nên gởi
thư cho họ bày tỏ thẳng thắn cái tội ấy, buồn đau cầu sám hối, ngõ hầu
chẳng đến nỗi đem phàm lạm thánh, vĩnh viễn đọa vào địa ngục A Tỳ,
chịu các nỗi khổ cùng cực, vĩnh viễn không có ngày ra! (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi hai vợ chồng ông X…. - 1)
* Hôm trước nhận được thư, biết bà đã nhận lỗi, xót xa xin sám hối,
vốn muốn trả lời ngay, nhưng không rảnh rỗi, nên chần chừ đến nay.
Con người sống trong thế gian, phải giữ bổn phận. Y phục, đồ vật, danh
xưng đều chẳng nên quá tôn quý, chớ vì [muốn] đẹp mặt mà xưng hô
bừa bãi. Ví như thứ dân xưng bừa là đế vương, tội ắt diệt tộc, chẳng
đáng sợ ư? Bà đem đứa con chưa đầy năm bị chết yểu, xưng bừa là
Nhiên Đăng Cổ Phật thị hiện, muốn được cái mỹ danh là cha mẹ của
Phật, chẳng biết cái tội khinh nhờn, miệt thị cổ Phật cho đến hết đời vị
lai cũng chẳng có ngày thoát khỏi A Tỳ địa ngục!
Nếu Quang không nói toạc ra, bà vẫn cứ muốn đem bài thơ đã soạn
gởi cho khắp mọi người trong nước, ngõ hầu kẻ vô tri cũng bắt chước
dẫm theo vết chân của bà thì những kẻ gian tà “ngư ông đắc lợi” đều coi
đứa con chết yểu là Cổ Phật Thị Hiện. Thoạt đầu chỉ mong được kẻ vô
tri khen ngợi, kế đến là dựng tháp, xây miếu, tom góp của cải để làm
giàu. Kế đến là những kẻ gian tà cùng nhau tụ tập, bèn lập giáo môn, lừa
dối, gạt gẫm kẻ ngu tục. Lâu ngày dấu vết xấu xa lộ ra khiến cho mọi
người cùng chịu phép nước [trừng phạt], nhưng trong số những kẻ gian
tà đương thời, có những kẻ ẩn nấp giấu mình chưa bị tru diệt, lâu ngày
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 260
lại dấy lên, giống như bọn Bạch Liên Giáo196 cứ lây nhây không ngừng,
là mối hại cho thế gian.
Kể từ sau đó, bọn giáo đồ chỉ đổi danh xưng, chẳng đổi bản chất. Lũ
ngoại đạo ấy đều chuộng bí mật, dẫu là cha con, chồng vợ vẫn đều chẳng
bảo cho biết. Do điều bí mật ấy cố kết trong tâm kẻ ngu nên bất cứ vị
thiện tri thức nào khai thị, chỉ dạy, họ đều chẳng chịu tin theo, như con
chó coi phẩn là thơm, không ăn không được! Thường nói với người
khác: Thầy ta là vị Phật nọ, vị Tổ Sư kia xuất thế, ta là vị Phật nọ, vị Tổ
Sư kia xuất thế, mù quáng bịa chuyện để mong được danh văn, lợi
 196 Bạch Liên Giáo là một tà phái mạo danh Phật giáo trong lịch sử Trung Hoa. Vào
năm Thiệu Hưng thứ ba (1133) đời Tống Cao Tông, Từ Chiếu Tử Nguyên (tức Mao
Tử Nguyên) hâm mộ di phong của Sơ Tổ Huệ Viễn Tịnh Độ Tông bèn xướng suất
dân chúng kết xã niệm Phật, tự xưng là Bạch Liên Tông. Nhưng rồi bị môn nhân là
Tiểu Mao Xà Lê bóp méo giáo nghĩa, pha trộn các giáo thuyết của Minh Giáo (Bái
Hỏa Giáo, tức Ma Ni Giáo, thường bị gọi miệt thị là Ma Giáo) và Di Lặc Giáo (thoạt
đầu đây là một đoàn thể sùng bái Di Lặc Bồ Tát, nguyện vãng sanh Đâu Suất, nhưng
rồi bị các phần tử có dã tâm lợi dụng, biến thành một thứ hội kín nhằm tạo phản). Họ
có tổ chức khá quy mô, dự trữ vũ khí, chiêu mộ vũ sĩ. Vào thời Nguyên, giáo phái
này tuyên bố Minh Vương Xuất Thế, Di Lặc Phật Hạ Sanh, rất có thế lực tại Hà
Nam, Giang Hoài, và các nơi khác thuộc lưu vực Trường Giang. Năm Chí Đại
nguyên niên (1308), do bị Nguyên Vũ Tông hạ chiếu truy nã, Bạch Liên Giáo rút vào
hoạt động bí mật. Đến năm Chí Chánh 11 (1351), dưới danh xưng Hồng Cân Quân
(quân khăn hồng), Bạch Liên Giáo dấy loạn nhiều nơi. Ngay cả Châu Nguyên
Chương cũng phải dựa dẫm vào thế lực của Bạch Liên Giáo, nhất là phe Hàn Sơn
Đồng, để khởi nghĩa chống Mông Cổ. Do vậy, sau khi đánh đuổi xong quân Mông,
Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương) bèn lập kế hoạch truy diệt Bạch Liên Giáo,
quy định “thủ lãnh bị xử giảo, tín đồ bị đánh một trăm trượng, đày đi ba ngàn dặm”.
Tuy thế, Bạch Liên Giáo vẫn tồn tại trong vòng bí mật, đội lốt dưới các tên khác như
Niết Bàn Giáo, Hồng Dương Giáo, Hồng Phong Giáo, Lão Tử Giáo, La Tổ Giáo,
Nam Mô Giáo, Tịnh Không Giáo, Ngộ Minh Giáo, Đại Oai Vô Vi Giáo, Thiên Lý
Giáo, Nhất Quán Đạo, Hồng Thương Hội… Đến đời Thanh, Bạch Liên Giáo vẫn còn
tồn tại và chia thành nhiều phái nhỏ như Lão Quan Trai, Bát Quái Giáo, Đại Thừa
Giáo, Cửu Tiên Hội, Đại Đao Hội, Tiểu Đao Hội, Thiên Môn Hội, Vô Cực Hội, Kim
Đan Đạo, Khoái Đạo, Phiến Tử Hội, Thiên Hoàng Hội, Báo Đức Môn, Vô Cực Lão
Mẫu Hội, Thập Tổ Môn, Kim Đan Hội, Tọa Công Hội, Hiền Thánh Giáo… Họ lại đề
xướng phản Thanh phục Minh, nhằm lôi cuốn những người chống đối Thanh triều.
Hai đợt bạo loạn lớn nhất của Bạch Liên Giáo là vào năm Càn Long 39 (1774) và
cuộc biến loạn tôn giáo vùng Xuyên Sở (sử gọi là Xuyên Sở giáo loạn) thời Gia
Khánh. Theo Lao Nãi Huyên, tác giả cuốn Nghĩa Hòa Quyền Giáo Môn Nguyên Lưu
Khảo, đến cuối đời Thanh, Nghĩa Hòa Đoàn (Quyền Phỉ) chính là hậu thân của Bạch
Liên Giáo, nhưng thuyết này bị nhiều học giả nghi ngờ, phản bác.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 261
dưỡng, chẳng tính đến chuyện Phật pháp bị hoại loạn, khiến cho chúng
sanh bị nghi ngờ, lầm lạc, sống chịu phép nước, chết đọa ác đạo từ kiếp
này sang kiếp khác, không có lúc thoát ra! Mối tệ ấy lưu truyền chẳng
thể kể xiết được!
Hành vi của bà nếu chẳng thống thiết sửa đổi ắt sẽ giống như bọn
chúng, chẳng đáng sợ ư? Hãy nên in một tờ thư sửa lỗi sám hối, phàm
trước kia đã gởi bài thơ đó cho những ai, nay đều gởi [tờ thư ấy] ngõ hầu
họ biết tường tận. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi
hai vợ chồng ông X…. - 2)
* Đứa con gái ấy sanh ra để đòi nợ, chết là xong nợ, không còn ngờ
gì! Chỗ có người đã bị chết đuối ấy thường có người chết đuối, chính là
chỗ được gọi là “quỷ kiếm người chết thay”. Hãy nên ở nơi ấy lập một
cái mốc gỗ, phía trên dùng một tấm sắt Tây trắng thật dày, khắc sáu chữ
Nam Mô A Di Đà Phật. Chữ phải to để thấy được từ xa, phải tồn tại
được lâu ngày thì sẽ dứt được cái họa ấy. Do lòng Từ của người khắc
những chữ ấy sẽ cảm được từ quang của Phật gia bị. Từ rày bảo đảm
chắc chắn không còn cái họa ấy nữa. Do đây có thể thấy được sức từ bi
của Phật chẳng thể nghĩ bàn. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 4)
* Cơm Đại Bi chớ nên chắt nước. Nếu không quen nấu cơm ráo
không chắt nước, hãy nên lấy nước cơm ấy để luộc rau, hoặc dùng làm
nước uống. Phàm những ai nấu cơm chắt nước thì phải dùng nhiều nước,
tốn nhiều củi. Chất cốt của gạo đều nằm trong nước cơm, lại ngược ngạo
vất đi, chỉ giữ lại xác gạo, bỏ đi chất bổ! Vừa tổn phước, vừa phí tiền,
mà sức bồi dưỡng con người cũng ít. Đối với bệnh của mẹ và người em
họ thứ hai của ông, đều nên dùng tâm đại Bồ Đề để cung cấp cho họ
cơm rau Đại Bi suốt một tháng. Nếu bệnh họ thật sự lành sẽ gieo được
đại thiện căn. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Viên Đức Thường - 2)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 262
IX. Dụ tại gia thiện tín (Khuyên nhủ hàng thiện tín tại gia)
1. Chỉ dạy đại giáo luân thường
* Phật giáo lấy Hiếu làm gốc, kinh Đại Thừa giảng rõ [điều này] rất
nhiều. Những kinh nói tường tận, rõ ràng nhất là kinh Phật Báo Ân197,
kinh Địa Tạng, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
kinh Phạm Võng. Một chữ Hiếu [hiểu] theo nghĩa hạn hẹp là thờ cha mẹ;
luận theo nghĩa rộng thì phàm những gì thuộc về Lý, về Tâm mà chẳng
trái nghịch thì đều gọi là Hiếu. Nếu không, đều là bất hiếu. Người học
phải tu [đạo hiếu] hạn hẹp lẫn rộng rãi thì mới có thể gọi là “tận hiếu”.
Chúng sanh nhập đạo đều phải xét túc nhân như thế nào. Không
riêng gì kẻ si độn khó thể giáo hóa, ngay cả người đại thông minh, đại
học vấn nhưng lắm khi không bằng kẻ si độn [vì kẻ si độn] còn gieo
được chút thiện căn, chẳng sanh hủy báng! Chúng ta chỉ tùy phận tùy lực
khuyên dạy họ. Nếu muốn tất cả mọi người đều tuân theo sự giáo hóa
của Phật thì tuyệt đối chẳng có nhân duyên tốt đẹp như vậy đâu! Chỉ có
thể tùy duyên tận tâm mà thôi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tống Huệ Trạm ở Dịch Huyện)
* Thế đạo nhân tâm hiện thời bại hoại đến cùng cực. Phàm đạo đức,
nhân nghĩa, hiếu, từ, liêm khiết, tiết nghĩa do thánh hiền truyền thuật đều
bị vứt bỏ. Phàm những chuyện xưa kia chẳng nỡ thấy nghe, chẳng chịu
nhắc đến, [bây giờ] đều cực lực đề xướng, mong sao nhất trí tiến hành.
Những nơi chốn hay nhà trường để cho nam nữ tự do luyến ái, lõa thể
ôm nhau khiêu vũ chẳng biết nổi con số! Trong trường đại học vẽ hình
lõa thể để mong mỹ thuật tiến bộ. Mỹ thuật cố nhiên tiến bộ, nhưng hoàn
toàn chẳng lo nhân đạo thụt lùi, súc sanh đạo tiến bộ ư?
Các con đều đang độ tuổi thiếu niên, phải biết tốt - xấu, chớ trúng
phải độc khí của những thứ tà thuyết diệt luân diệt lý ấy, thì sau này còn
có thể tự lập trong vòng trời đất, không hổ thẹn. Nếu không, dẫu tài cao
học rộng, đối với mình, đối với người nào có ích chi?
 197
Phật Báo Ân Kinh có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, được
dịch vào thời Hậu Hán, mất tên người dịch. Bản kinh này được đánh số 156 và xếp
vào phần Bổn Duyên, thuộc tập 3 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Kinh này
chủ yếu trần thuật những chuyện xả thân báo hiếu khi đức Phật còn tu hạnh Bồ Tát,
như chuyện thái tử Tu Đạt Noa cắt thịt dâng cho cha mẹ trong khi bôn đào, cũng như
giảng giải một số vấn đề về giới luật. Kinh này đã được Hòa Thượng Quảng Độ dịch
ra Việt Văn vào trước năm 1975.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 263
Các con phải biết nhân quả báo ứng trọn không sai xẩy. Tuy nhất
thời chưa thể thấy được, nhưng sau mấy chục năm, chắc chắc không gì
chẳng thấy! Huống chi chết đi, đời sau và những đời kế tiếp phàm phu
có biết được hay chăng? Ngày nay thế đạo bại hoại là vì Nho gia phần
nhiều chẳng tin nhân quả báo ứng và sanh tử luân hồi. Những nhà Lý
Học ấy trộm lấy ý nghĩa trọng yếu trong kinh Phật để hoằng dương Nho
tông, ngược ngạo coi đạo phổ độ chúng sanh của đức Phật là mê hoặc
ngu xuẩn bọn phàm tục ngu ngốc, chê bai, bài bác, đến nỗi hễ là nhà
Nho thì chẳng chịu dùng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi để khuyên
dạy, mọi người đều cho là [nhân quả, luân hồi] dường như có, dường
như không. Vì vậy, thế đạo ngày càng tệ bạc! Những kẻ trọn đủ khí khái
đội trời đạp đất chẳng bị xoay chuyển bởi thói phàm tục thì chẳng được
mấy người. Một cơn gió Âu vừa thổi tới, hùa nhau theo gió biến đổi tận
gốc càng dữ dội hơn. Bởi vậy, thế đạo ngày nay, tình người như nước, lễ
pháp như đê; bỏ cái đê lễ pháp đi há ngăn được lòng ham muốn của con
người hoành hành?
Lòng ham muốn của con người đã tung hoành thì sẽ ra sức trừ bỏ lễ
pháp. Do vậy, [lòng ham muốn dữ dội của con người] cảm vời nước lũ
dâng khắp nơi, đê đập trên sông ngòi nơi nơi bị vỡ, biết bao nhân dân bị
chết chìm. Những kẻ chưa chết thì không áo, cơm, chỗ ở, than lạnh, rên
đói, chẳng nỡ thấy nghe! Dẫu có bậc chuộng điều thiện ra sức quyên
góp, nhưng vì người đông, khoản đóng góp ít, khó thể giúp trọn khắp
được! Nhưng càng phải nên quyên góp nhiều hơn để tu bổ đê đập trên
sông ngòi. Nếu không tu bổ thì từ nhỏ sẽ thành lớn, nước tràn dâng khắp
cùng. Nếu tu bổ thì thật sự không có được tài lực ấy.
Huống chi giặc cướp bạo tàn, Nam - Bắc thù nghịch, nước ngoài
ngang ngược lấn hiếp. Người dân trong lúc này thật có thể nói là đáng
thương xót quá, nhưng không biết kêu gào vào đâu! Hai đứa tụi con tuổi
còn trẻ, hãy nên tận lực vâng giữ nếp đạo đức cũ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Ninh Đức Hằng và Ninh Đức Phục)
* Học đường hiện thời đúng là một cái bẫy hãm người, chẳng hãm
trong đảng phái sẽ lại hãm trong tự do luyến ái, mặc tình chơi bời bừa
bãi. Phải biết: Con người chỉ là một loài động vật cao năm sáu thước mà
sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài thì danh xưng Con Người cao quý
không chi bằng được! Danh đã tôn quý, ắt phải có thực chất đáng tôn
quý thì mới có thể gọi là Người! Nếu không, chính là loài cầm thú mặc
áo đội mũ, do chẳng có khí phận của con người vậy!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 264
Tài (才 ) chính là khả năng. Trời có thể sanh ra muôn vật, đất có thể
chở muôn vật, con người có thể kế thừa bậc thánh đời trước, giúp cho
thế hệ tương lai học theo, giúp cho [những chỗ] mà sự sanh thành,
dưỡng dục của trời đất chưa thấu tới, nên cùng với trời - đất xưng là Tam
Tài.
Nếu chỉ biết ăn uống, trai gái, chẳng biết hiếu, đễ, trung, tín, lễ,
nghĩa, liêm, sỉ thì còn kém hèn hơn loài cầm thú, uổng một đời mang
thân con người, trọn chẳng có khí phận của con người chút nào! Hễ một
hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ đọa vào địa ngục trải trăm ngàn
kiếp trọn chẳng có kỳ ra. Muốn được làm cầm thú còn chưa thể được,
huống gì lại được làm người ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tông Thành)
* Muốn quy y Phật pháp, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh,
cần phải nên gắng sức trọn hết đạo luân thường. Nếu chẳng thể giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm
các điều ác, vâng giữ các điều lành thì căn bản đã khiếm khuyết, chẳng
tương ứng với Phật, làm sao có thể được Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn hòng
đới nghiệp vãng sanh? Vì vậy, phải nên hiếu với cha mẹ, kính bậc tôn
trưởng, đối với anh em trai, chị em gái, vợ chồng, chủ tớ mỗi mỗi đều
phải trọn hết chức trách, bổn phận của chính mình. Đối với những điều
đã được đề cao đều trọn hết chức trách, bổn phận thì chính là hiền nhân,
thiện nhân trong thế gian. Người hiền thiện niệm Phật sẽ dễ cảm được
Phật. Muốn liễu sanh tử, chẳng thể không chú ý đến luân thường! (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Kim Ích Bình -
1)
* Ông đã lấy vợ, phải thường mang ý niệm làm vui lòng cha mẹ. Vợ
chồng kính trọng lẫn nhau, chớ nên vì hiềm khích nhỏ nhặt mà đến nỗi
vợ chồng chẳng hòa thuận khiến cho cha mẹ đau lòng. Sách Trung Dung
nói: “Thê tử hảo hợp, như cổ sắt cầm, huynh đệ ký hấp, hòa lạc thả đam.
Nghi nhĩ thất gia, lạc nhĩ thê noa” (Vợ con vui vẻ hòa hợp như khảy đàn
sắt, đàn cầm198. Anh em hòa thuận, vừa yên vừa vui. Cửa nhà yên ổn, vợ
 198 Sắt (瑟) là một loại đàn cổ thường đặt nằm ngang khi diễn tấu, hình dáng tương
tự như đàn Tranh, thân đàn làm bằng gỗ Tử, nhưng có hai mươi lăm dây, mỗi dây có
một trục đỡ (con sáo, hoặc con nhạn) có thể di chuyển được nhằm điều chỉnh độ
căng của dây đàn. Loại đàn này thịnh hành cho đến cuối đời Đường thì hầu như rất
hiếm thấy sử dụng! Cầm (琴) tức là cổ cầm (còn gọi là Dao Cầm, hoặc Thất Huyền
Cầm), là một loại đàn hơi giống như đàn Sắt, nhưng chỉ có bảy dây, thân bằng gỗ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 265
con vui vầy). Khổng Tử nói: “Phụ mẫu kỳ thuận hỹ hồ!” (父 母 其 順
矣 乎: Thuận lòng cha mẹ vậy thay) chính là nói vợ chồng, anh em hòa
thuận thì lòng cha mẹ vui sướng vậy!
Nay làm phận con, không lâu sau lại sẽ làm cha kẻ khác, nếu chẳng
thực hành đạo khiến cho cha mẹ vui sướng, ắt sẽ sanh con ngỗ nghịch,
bất hiếu! Ví như nước nhỏ giọt ở mái hiên, từng giọt, từng giọt, giống
hệt như nhau. Quang già rồi, chẳng thể thường răn dạy ông, ông chịu nỗ
lực trọn hết đạo làm con ắt sẽ có thể dự vào bậc thánh, bậc hiền, tương
lai vãng sanh Tây Phương, đấy chính là pháp lợi ông sẽ đạt được! Vợ
ông có pháp danh là Pháp Ích, chịu hành theo pháp sẽ đạt được lợi ích
chân thật. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ
Châu Pháp Lợi - 2)
* Con người bẩm thụ chánh khí của thiên địa mà sanh ra, thường
phỏng theo đức cao dầy, che chở của trời đất để giúp cho sự sanh thành,
trưởng dưỡng, kế tục đời trước, mở mang đời sau, ngõ hầu chẳng thẹn
đứng cùng trời đất thành ba ngôi, xưng tên là Tam Tài. “Trung, hiếu,
tiết, nghĩa” chính là giềng mối chánh yếu của đạo làm người. Nếu không
có những điều ấy, con người khác gì cầm thú? Dẫu vào thời dân chủ,
cũng chẳng thể nào không dạy trung nghĩa! Bởi “trung” chẳng phải chỉ
có nghĩa là trung với vua. Vì thế, Tăng Tử dùng “trung thứ” (trung
thành, rộng lượng) để tỏ rõ đạo của Phu Tử, thường phản tỉnh “hằng
ngày vì người khác mưu toan công việc, bản thân có hết lòng trung hay
không”. Vì thế, biết một chữ Trung có ý nghĩa xuyên suốt vạn hạnh!
Thờ vua chỉ là một khía cạnh mà thôi!
Trộm nghĩ: Trung có nghĩa là “tận hết tấm lòng của chính mình,
chân thành, không dối trá”. Nếu con người giữ tấm lòng trung, ắt sẽ có
hiếu với cha mẹ, kính anh, hòa thuận với họ hàng, bạn bè tin cậy, xót
thương kẻ côi cút, giúp đỡ người góa bụa, nhân từ với mọi người, yêu
thương loài vật, chẳng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành, vì sao
vậy? Do trung nên chẳng dối, do chẳng dối nên trọn hết bổn phận. Do
trọn hết bổn phận nên đối với những chuyện thuộc về bổn phận của
chính mình đều chăm chú thực hiện, quyết chẳng mắc lỗi đối phó vờ
vĩnh cho xong chuyện, chẳng tận hết lòng, hết sức mình.
   Ngô Đồng, âm thanh trầm ấm, lan xa, chứ không lảnh lót, réo rắt như đàn Sắt. Hai
loại đàn này thường được dùng để hòa tấu chung với nhau, nên thường dùng để ví
cho tình chồng vợ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 266
Trong đời gần đây, tuy đã lật đổ đế chế nhưng mọi sự đều phải nói
đến trung thì mới chẳng đến nỗi “ta dối gạt, ngươi mắc lừa”, luông
tuồng, không chuẩn mực vậy! Đắc thế bèn hùa nhau phò tá, sa cơ kéo
nhau bỏ đi, hoặc còn đâm ra công kích, chà đạp lẫn nhau, trọn chẳng
ngưng dứt. Đấy đều là vì chẳng màng đến trung nghĩa mà ra. Trung
nghĩa chẳng màng tới thì quan hệ cha - con, vợ - chồng đều coi như mảy
lông! Coi nhẹ lâu ngày, những quan hệ ấy sẽ trở thành gông cùm. Mang
những gông cùm ấy chẳng được tự do, chẳng thể nào không diễn ra
những vở tuồng tồi tệ giết cha, giết mẹ, nghịch trời, trái lý, hòng mặc
tình tùy ý, chẳng bị câu thúc gì! Than ôi! Chẳng nói đến trung nghĩa, họa
hại tới mức cùng cực như thế đó, há chẳng đau đớn tuôn lệ, thở dài sườn
sượt ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Dương
Tiêu Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục)
* Thiên hạ không hai đạo, thánh - phàm chẳng hai tâm. Khắp xưa
nay, trong nước, ngoài nước, không đâu chẳng dùng hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ và sự lý nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi để làm căn
bản lập thân hành đạo và trị quốc an dân. Ấy là vì những sự lý này đều là
những giềng mối thường hằng vốn sẵn có trong tâm tánh của chúng ta,
bất luận trí - ngu, hiền - tệ đều sẵn đủ, nhưng có những hành động, cử
chỉ phù hợp hay trái nghịch [với những điều ấy] sai khác là vì “dứt lòng
tà, giữ lòng thành, đánh đổ điều ham muốn xằng bậy của chính mình để
khôi phục lễ nghĩa” hay vì “mê tâm chạy theo vật, phóng túng tình ý”
mà ra!
Vì thế, kinh Thư có lời giáo huấn: “Duy thánh võng niệm tác
cuồng, duy cuồng khắc niệm tác thánh” (Do thánh mất niệm nên thành
cuồng, do cuồng khắc chế được ý niệm nên thành thánh). Phật dạy đạo
“mê thì Phật là chúng sanh, ngộ thì chúng sanh chính là Phật”. Do vậy,
biết: Thánh hay cuồng, chúng sanh hay Phật chỉ trong khoảng một niệm
mê hay ngộ. Do thoạt đầu lập tâm sai khác đôi chút, rốt cuộc đến nỗi
cách biệt một trời, một vực, con người há chẳng nên tự gắng sức để
mong thành thánh thành hiền ư?
Trăm nghề hay khéo trong thế gian mỗi nghề đều có quy củ, chuẩn
mực. Căn cứ theo quy cách do cổ nhân đã thành lập để tập luyện, đến khi
đã nhuần nhuyễn tột bậc rồi thì không chuyện gì chẳng “tùy lòng nghĩ
đến, tay liền hoàn thành”. Mong thành thánh thành hiền cũng giống như
vậy đó! Nêu lên đại cương thì chỉ có ba điều “làm sáng tỏ Minh Đức,
làm cho dân mỗi ngày một tiến bộ, an trụ nơi chí thiện” mà thôi. Nhưng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 267
muốn làm sáng tỏ Minh Đức thì trước hết phải thực hiện bằng trừ khử
vật dục phiền não, thúc đẩy lương tri vốn sẵn có. Có nghĩa là “dứt lòng
tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi
phục lễ nghĩa,” mãi cho đến khi trừ khử, thấu hiểu đến tột cùng rồi thì
nhân dục đã hết sạch, thiên lý sẽ tự lưu hành. Đại cương “làm sáng tỏ
Minh Đức” đã đạt được rồi thì những chuyện khác hễ làm bèn được,
không chuyện gì chẳng “thuận theo lòng nghĩ, tay liền thực hiện thành
tựu”; nhưng cần phải biết nhiều về ngôn hạnh của người xưa để phụ trợ
cho việc duy trì, trưởng dưỡng sự suy xét phản tỉnh. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa tái bản bộ Hoàn Cầu Danh Nhân Đức Dục
Bảo Giám)
* Hai khí Âm - Dương trong trời đất hóa sanh vạn vật. Thánh nhân
lấy nam nữ “chánh vị” (“chánh vị” là hành xử đúng theo địa vị, tức là giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận) để lập ra giềng mối. Trời đất rộng lớn, con
người chẳng thể nào diễn tả được! Nhưng con người sống giữa trời đất,
bảy thước bé tẹo, đứng cùng trời đất thành ba ngôi xưng là Tam Tài bởi
có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, kế thừa người trước, mở
mang cho người sau, tham dự giúp đỡ quyền sanh thành, trưởng dưỡng,
chẳng đến nỗi uổng công trời đất sanh ra muôn vật. Đấy là duyên do con
người là “vạn vật chi linh”, chỉ riêng con người được danh xưng cực tôn
quý nhất.
Nếu chẳng lấy đạo nghĩa làm gốc, chỉ mải miết ham muốn ăn uống,
trai gái, há có khác gì cầm thú đâu? Gần đây, thế đạo nhân tâm suy hãm
đã đến mức cùng cực, những người dân vô tri bị tà thuyết bên ngoài mê
hoặc, đua nhau đề xướng phế kinh điển, phế luân thường, cứ muốn cho
con người trong cả cõi đời đều trọn chẳng khác gì cầm thú mới thôi! Mối
họa ấy khốc liệt có thể nói là đến mức cùng cực!
Xét đến căn nguyên, đều do gia đình thiếu dạy dỗ và chẳng biết
nhân quả báo ứng mà ra. Nếu con người từ lúc được sanh ra, hằng ngày
được cha mẹ hiền khéo dạy và biết họa - phước, tốt - xấu khác gì bóng
theo hình, tiếng vọng theo âm thanh, chẳng khác gì trồng dưa được dưa,
gieo đậu được đậu, dẫu dùng oai thế bức hiếp bắt theo tà thuyết ấy, nếu
không, ắt phải chết, họ vẫn cứ nghĩ “do trọn hết luân thường mà chết
cũng là may mắn”, quyết chẳng đến nỗi sợ chết mà cẩu thả đi theo.
Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm! Cái gốc để thiên hạ yên ổn
hay loạn lạc chính là ở chỗ thất phu thất phụ có trọn được hết luân
thường, trọn hết bổn phận hay không! Vì thế, nói: “Cái gốc của thiên hạ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 268
là đất nước, cái gốc của đất nước là gia đình. Cái gốc của gia đình là
cái thân”. Cố nhiên, đây là thiên chức của hết thảy thất phu, thất phụ,
chứ không phải chỉ nói đến người có tước vị!
Trong sự dạy dỗ nơi gia đình thì sự dạy dỗ của mẹ là quan trọng
nhất, bởi tánh tình của con người phần nhiều tiếp nhận từ mẹ: Lúc còn
trong thai thì bẩm thụ khí phận của mẹ, lúc nhỏ quen theo oai nghi của
mẹ. Nếu mẹ hiền, chắc chắn chẳng đến nỗi sanh ra con cái không ra gì!
Ví như vàng lỏng đúc thành món đồ, nhìn vào khuôn liền biết món đồ ấy
sẽ tốt hay hư, nào đợi phải đổ khuôn rồi mới biết hay sao?
Nhân tài của nước nhà đều xuất phát từ gia đình. Nếu ai nấy chú
trọng vào giáo dục gia đình thì chẳng đầy mấy chục năm hiền nhân sẽ
xuất hiện đông đảo. Lòng người đã chuyển, lòng trời sẽ tự thuận, thời
tiết hòa thuận, mùa màng sung túc, dân giàu, vật mạnh, phong thái đại
đồng thuở Đường Ngu ắt sẽ được thấy trong ngày nay! Do vậy, những
bậc lo cho đời không ai chẳng đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục
gia đình để làm căn cứ vãn hồi thế đạo, nhân tâm. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa nêu duyên khởi in cuốn Khuê Phạm theo lối thạch
bản)
2. Luận chung sự tu trì
* Lý thế gian lẫn xuất thế gian chẳng ngoài hai chữ “tâm tánh”. Sự
thế gian và xuất thế gian chẳng ngoài hai chữ “nhân quả”. Lý tâm tánh
nhỏ nhiệm, dẫu là thánh nhân vẫn có điều không biết; sự nhân quả rành
rành, dù ngu phu cũng có thể hiểu đại khái. Thánh nhân muốn cho thiên
hạ vĩnh viễn thái bình, nhân dân thường yên vui, bèn đặc biệt soạn ra
sách Đại Học để dạy pháp ấy. Vừa mở đầu sách, liền nói: “Đại Học chi
đạo, tại minh Minh Đức” (Đạo Đại Học nhằm làm sáng tỏ Đức Sáng).
Minh Đức chính là điều ai nấy đều sẵn có, nhưng do thiếu công phu khắc
chế ý niệm, tự phản tỉnh, suy xét, nên Minh Đức bị tư dục huyễn vọng
che lấp chẳng thể hiển hiện để thụ dụng được!
Cách để làm sáng tỏ [Minh Đức] là “khắc chế ý niệm”. Thứ tự của
công phu khắc chế ý niệm là “tu thân, chánh tâm, thành ý, trí tri, cách
vật”. “Vật” [trong câu “cách vật”] là gì? Chính là tư dục huyễn vọng
được sanh bởi cảnh, chẳng hợp thiên lý, chẳng thuận nhân tình, chứ
không phải là vật ở bên ngoài! Do những tư dục này kết chặt trong tâm
nên tất cả tri kiến đều xuôi theo tư dục, trở thành lệch lạc, tà vạy. Như kẻ
tham danh tham lợi chỉ biết có lợi, chẳng biết đến hại, kiệt lực lo toan,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 269
rất có thể đến nỗi thân bại danh liệt! Kẻ yêu vợ thương con chỉ biết đến
những điều tốt của vợ con, chẳng biết đến những thói xấu của họ, nuôi
thành mầm họa, sẽ có thể đến nỗi bị tan nhà nát cửa. Đấy đều là do tư
dục Tham và Ái sai khiến. Nếu trừ khử hết sạch những thứ tư dục chẳng
hợp tình hợp lý ấy thì vợ con đúng hay sai sẽ tự biết, đối với đường lối
để đạt được danh lợi sẽ chẳng cần phải đút lót hay mong cầu sai trái nữa!
Trước hết, phải hiểu chữ Vật này là tư dục huyễn vọng chẳng hợp
tình hợp lý thì trừ khử nó sẽ là chuyện dễ dàng! Nếu không, suốt đời dốc
sức cũng chẳng làm gì được nó! Dẫu đọc trọn hết sách vở thế gian cũng
chỉ trở thành một loài dây leo sống bám vào cội cây [lớn], trở thành một
gã theo sóng đuổi sóng! Cái họa của món vật tư dục lớn lắm thay! Nếu
biết “vật” ấy là oán gia sanh tử của chúng ta, quyết chẳng để cho nó
được tạm tồn tại trong tâm ta thì chánh tri vốn sẵn có trong cái tâm này
sẽ tự hiển hiện. Chánh tri đã hiển hiện thì “ý thành, tâm chánh, thân tu”
sẽ được hướng dẫn xuôi dòng với khí thế như chẻ tre, chẳng mong cầu
mà tự nhiên được như thế.
Con người ai cũng đều có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể
thành Phật, vì hết thảy mọi người ai nấy đều sẵn có Minh Đức, hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh. Những kẻ chẳng thể là Nghiêu - Thuấn,
chẳng thể làm Phật đều do bị tư dục bít chặt, chẳng mạnh mẽ đổ công
sức khắc chế ý niệm đến nỗi bị tư dục xoay chuyển, luân hồi sáu nẻo từ
kiếp này sang kiếp khác, trọn chẳng có lúc thoát ra, chẳng đáng buồn
sao? Những kẻ chuyên dạy “cách vật trí tri” mà chẳng dùng nhân quả để
phụ giúp cho sự hướng dẫn, chắc sẽ khó thể phát khởi đại tâm mạnh mẽ,
dốc chí tu trì được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa
cho sách Vãn Hồi Thế Đạo Nhân Tâm Cùng Trị Cả Gốc Lẫn Ngọn)
* Đời người khổ nhất là từ thuở bé không gặp được thầy lành, bạn
tốt, đến nỗi mặc tình buông lung, gây các ác nghiệp, như câu nói: “Duy
thánh võng niệm tác cuồng dã”, có nghĩa là: Tâm tánh về bản thể có thể
làm bậc thánh, nhưng do không tu tỉnh, nên trở thành cuồng ngu! Nay
ông đã biết năm mươi sáu năm qua, ba nghiệp thân - miệng - ý đều
chẳng thanh tịnh, nhưng ý nghiệp nặng nề hơn cả. Ấy là vì ý nghiệp làm
chủ, do ý nghiệp dấy lên niệm thiện hay ác nên thân - miệng bèn nói
những lời thiện - ác và làm những chuyện thiện - ác.
Nay đã biết hổ biết thẹn, muốn quy y Phật pháp để làm căn cứ cho
tiền đồ tu trì thì cố nhiên phải nên tích cực giữ vẹn luân thường, trọn hết
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 270
bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm
các điều thiện, sanh lòng tin, phát nguyện niệm danh hiệu Phật, cầu sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ bèn có thể siêu phàm nhập thánh,
liễu sanh thoát tử.
Có câu: “Duy cuồng khắc niệm tác thánh dã” (Cuồng mà chế ngự
được ý niệm bèn thành thánh). Thành cuồng hay thành thánh chỉ do đánh
mất ý niệm hay chế ngự được ý niệm mà thôi. Từ nay trở đi, hãy nên đau
đáu tự gìn giữ, phàm ý niệm bất hảo vừa dấy lên liền sanh lòng hổ thẹn
lớn lao, hệt như lõa lồ trước bao người đông đúc, hổ thẹn muốn chết!
Lâu ngày như thế thì ý niệm xấu sẽ tự nhiên chẳng dấy. Ý nghiệp được
tịnh thì thân - miệng cũng tịnh theo. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Trần Phụng Ngô)
* Thư tuyên ngôn của Cư Sĩ Lâm ngôn từ lẫn lý lẽ châu đáo, rất
hay. Chương trình hoạt động đại lược cũng hết sức nghiêm chỉnh, châu
đáo, trọn vẹn. Đủ thấy được tình trạng giáo hóa Phật pháp hưng thạnh ở
Vân Nam vậy. Nhưng hãy nên tận lực vâng giữ bổn phận, đừng học theo
thói ham cao chuộng xa. Ví như mặc áo, ăn cơm, đều phải căn cứ theo
kích cỡ thân thể, sức ăn của mỗi người, mùa Hạ mặc áo mỏng, mùa
Đông mặc áo cừu, khát uống, đói ăn thì dưỡng được thân tâm. Làm sái
cách thì thân lẫn tâm đều bị thương tổn, chứ nào phải uống, ăn, áo vải
mỏng, áo cừu là tốt hay chẳng tốt, mà là do người có khéo dùng hay
không? Bất luận tư cách như thế nào, đều phải giữ vẹn luân thường, tận
hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ
các điều lành. Lại phải nên chuyên chú nơi pháp môn Tịnh Độ vì cậy
vào Phật từ lực so với ỷ vào tự lực, sự khó - dễ thật cách biệt vời vợi như
trời với đất!
Gần đây có những hạng người luôn phô phang sự giải thoát đằng
miệng, chê người niệm Phật là hủ bại đợi chết, xin chớ bị những tà
thuyết ấy mê hoặc. Trong thời thế hiện nay, dẫu là bậc cổ Phật đã thành
Chánh Giác thị hiện, chắc chắn cũng chẳng đề xướng gì khác ngoài
chuyện giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận và chú trọng nơi pháp
môn Tịnh Độ! Dẫu cho Đạt Ma đại sư thị hiện trong lúc này, cũng sẽ
dùng pháp môn cậy vào Phật lực để dạy dỗ. Thời tiết, nhân duyên thật sự
là căn bản. Trái nghịch thời tiết, nhân duyên cũng giống như mùa Đông
mặc áo vải mỏng, mùa Hạ mặc áo cừu, đói uống, khát ăn, không chỉ vô
ích mà lại còn thành hại! Chánh nghĩa của Phật giáo hoàn toàn khế hợp
luân thường đạo lý.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 271
Trong đời có kẻ ngoại đạo thường hay xén trộm những danh từ Phật
giáo để thực hành đạo vận khí, luyện đan, rồi gọi hoa mỹ là Tam Giáo
Đồng Nguyên (Nho, Thích, Đạo cùng nguồn). Nguồn cố nhiên là đồng,
nhưng cành nhánh thì khác! Nếu chấp nhận kiểu “đồng nguyên” ngoài
miệng của bọn dị kiến là nguồn cội của Tam Giáo sẽ đắc tội lớn với
thánh nhân Tam Giáo! Nay dốc sức nơi luân thường và pháp môn Tịnh
Độ thì tương lai ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ gặp được nguồn. Nếu bỏ điều
này, coi pháp bí mật truyền dạy cách luyện đan là nguồn cội, sẽ trở thành
vĩnh viễn mê mất nguồn cội chân thật, đi mãi trong nẻo tà! Hãy nên đem
điều này nói với những tín sĩ có túc căn nhưng chưa biết cội nguồn của
Phật pháp thì lợi ích lớn lao lắm. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Trả lời thư cư sĩ Vương Đức Châu ở Vân Nam - 2)
* Cư sĩ niên kỷ đã sáu mươi lăm, một con một cháu đều bị chết yểu.
Luận theo nhân tình thế gian, thật đáng đau lòng. Nếu luận theo pháp
môn Tịnh Độ liễu sanh tử thì thật là nhân duyên tối thắng để siêu phàm
nhập thánh! Người thế gian sanh ra chẳng biết từ đâu đến, chết đi không
biết sẽ về đâu, thật là một đại sự trọng yếu trong đời người; chỉ vì tâm
niệm coi trọng con cháu nên đâm ra coi thường, bỏ qua đại sự sanh tử
của chính mình. Nếu con cháu của cư sĩ trường thọ, làm quan, chắc sẽ bị
phú quý phước lộc làm mê, sợ rằng khó phát được cái tâm “quy y Tam
Bảo, xin thọ Ngũ Giới” này, bất quá chỉ mong “phước, thọ, chết tốt
lành” là cùng, đối với Pháp Thân huệ mạng vẫn không nghe không tin!
Nếu như chuyện gì cũng vừa ý, há có thể nào vượt ra ngoài chuyện sống
uổng chết phí được hay chăng?
Cảnh ngộ hiện thời chẳng tốt đẹp, biết đời người không gì chẳng
phải là khổ, lại được đọc tường tận các sách Tịnh Độ, biết chúng ta vốn
sẵn có chốn quê cũ An Lạc để yên thân lập mạng, suốt ngày chỉ nghĩ đến
Phật, chỉ cầu Tịnh Độ, mãi cho đến khi lâm chung, được Phật tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử đến tột
cùng đời vị lai hưởng diệu lạc thù thắng. Do vậy, mới nói “con ấy, cháu
ấy quả thật đã thành tựu đại sự liễu sanh tử cho ông nên mới mất
trước!”
Hãy nên sanh tâm cảm kích lớn lao, nguyện dùng công đức niệm
Phật của chính mình để tiêu trừ tội nghiệp, tăng trưởng thiện căn cho họ,
ngõ hầu họ cũng được nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương
khiến cho người con, người cháu ấy chẳng uổng công chết sớm! Người
khéo đạt lợi ích thì không chuyện gì chẳng phải là chuyện lợi ích; người
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 272
cam lòng chịu bị tổn hại thì không chuyện gì chẳng phải là chuyện tổn
hại, tùy theo kiến giải của mỗi người như thế nào! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Hứa Hy Đường)
* Nội công (công phu tu hành bên trong) là tự tu; ngoại công là
rộng hành các phương tiện, như: giúp đỡ kẻ ngặt nghèo, cứu người khốn
đốn, cứu giúp tai nạn v.v… Đấy gọi là Trợ Đạo. Những điều này nên
dựa theo sức lực, khả năng của chính mình [mà làm]. Nếu không có sức
thì hoặc dùng lời nói để chỉ điểm cho kẻ mê, hoặc dùng lời lẽ khuyên lơn
đại chúng, khiến cho mọi người đều thành tựu chuyện của họ. Nếu do
được người ta thỉnh mà niệm kinh, niệm Phật thì phần nào vẫn là kẻ lười
nhác, mang hành vi dựa dẫm vào Phật để kiếm sống. Sao ông lại chen
lẫn vào đó, chẳng sợ đánh mất phẩm cách của chính mình hay sao?
Chỉ có một sự đáng làm, nhưng ông đã có nghề nghiệp, nên cũng
chẳng thuận tiện lắm; [tức là] hễ [gặp lúc] có người thường ngày niệm
Phật, hoặc con cháu người ấy tin Phật, khi người ấy lâm chung, thỉnh các
vị cư sĩ đến trợ niệm, lợi ích ấy rất lớn. Hãy xem sách Sức Chung Tân
Lương sẽ tự biết. Người niệm Phật hãy thường đối trước cha mẹ của
chính mình và những quyến thuộc khác nói cho họ nghe [lợi ích của sự
trợ niệm], để đến khi có người mạng chung, quyến thuộc trong nhà đều
cùng niệm Phật thì người [sắp mất] ấy ắt nương theo Phật lực sanh về
Tây Phương. Dẫu chẳng sanh về Tây Phương, ắt cũng sanh vào đường
lành, có lợi ích rất lớn, chẳng tổn thương mảy may! Nếu chẳng biết điều
này, khi chưa chết đã lo tắm rửa, thay quần áo sẵn, nếu [người sắp mất
ấy] do bị dời động mà đau đớn, sân tâm liền nổi lên. Dẫu chẳng đến nỗi
nổi sân, nhưng qua một phen dời động, tâm cũng chẳng được thanh tịnh.
Nếu là người bình thời niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trải qua một
phen như thế, chắc chắn bị mất chánh niệm, chẳng được vãng sanh!
Nếu chưa chết đã khóc lóc trước khiến cho người [sắp mất] ấy sanh
tâm ái luyến thì cũng là lôi kéo khiến cho người ấy bị đọa lạc. Một cửa
ải lâm chung khẩn yếu tột bậc, do vậy phải nên trợ niệm. Người trợ niệm
cần đọc kỹ sách Sức Chung Tân Lương, bảo con cái quyến thuộc trong
nhà đều tuân theo chỉ dạy của người trợ niệm, mới hòng chẳng đến nỗi
do tâm hiếu lại đâm ra làm cho cha mẹ phải chịu nỗi khổ đọa lạc!
Ngoài việc trợ niệm ra, mọi chuyện đều chẳng nên làm. Nếu phong
cách này (tức cách ứng phó này) được lưu hành thì chuyện thiện nam tín nữ
niệm Phật chẳng trở thành một nếp xử sự phổ biến hay sao? Người hiểu
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 273
lý chọn lấy chuyện tốt lành để làm, người không hiểu lý chỉ thấy lợi bèn
theo, người có nghề nghiệp lỡ làng công việc, kẻ lười nhác bèn dựa vào
đó để chòng ghẹo, chẳng những gây trở ngại cho Tăng chúng mà còn
gây trở ngại cho chính tang gia. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Dương Huệ Xương - 2)
* Người niệm Phật nên đi, đứng, nằm, ngồi, tâm thường nghĩ nhớ
[đức Phật]. Lúc bình thời, ở nơi sạch sẽ, hoặc lúc áo mũ chỉnh tề thì
niệm ra tiếng hay niệm thầm đều được. Chỉ lúc ngủ, đại tiểu tiện, trần
truồng tắm gội thì nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng. Nếu gặp tai
nạn đao binh, nước, lửa, thì ở bất cứ chỗ nào, trong bất cứ trạng thái nào
đều nên niệm ra tiếng, vì niệm ra tiếng so với niệm thầm càng đắc lực
hơn. Nếu khi nữ nhân sanh con, nên niệm ngay từ lúc chưa sanh và đến
khi lâm bồn, tuy trần truồng chẳng sạch sẽ, vẫn nên niệm ra tiếng. Lúc
ấy [là lúc] có liên quan đến tánh mạng, như té trong lửa nước cầu được
cứu giúp, chẳng thể luận trên dáng vẻ chẳng đoan trang, ô uế, bất tịnh
v.v…
Nữ nhân khó sanh chẳng phải là có oán thù với đứa con sắp sanh
mà chính là oan gia đời trước, gây trở ngại hầu [sản phụ] không sanh
được, khiến cho bị đau khổ. [Sản phụ hãy] niệm Phật và những người
chăm sóc chung quanh đều cùng vì sản phụ ấy niệm Phật thì những kẻ
oan gia kia nghe tiếng niệm Phật sẽ liền tháo lui, chẳng dám cản trở! Do
vậy, càng phải nên dạy con gái niệm Phật từ nhỏ ngõ hầu diệt sẵn cái
nạn này.
Nếu là người lúc bình thường luôn niệm Phật chắc chắn sẽ chẳng
đến nỗi mắc sự nguy nan này. Dẫu là người lúc bình thường chẳng niệm
Phật mà [lúc ấy] có thể chí tâm niệm thì chắc chắn cũng được dễ sanh!
Kẻ ngu chấp lý hẹp hòi, cho là hễ đàn bà trong nhà sanh con thì cả nhà
đều chẳng được cúng Phật, cũng chẳng được niệm Phật; nếu không, sẽ
mắc tội! Đấy là chấp chết cứng vào toa thuốc để trị biến chứng, chỉ biết
lẽ thường, chẳng biết quyền biến, đáng thương vậy thay! (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Tự Giác)
3. Luận về sự giáo dục trong gia đình
* Sanh con không khó, dạy con rất khó. Rất nhiều kẻ chẳng hiểu
việc, không có con bèn cầu Bồ Tát, đến khi có con chỉ biết quý báu; do
đấy nuôi thành hạng hư hỏng nhiều lắm. Ví như trồng lúa, chỉ biết tìm
hạt giống tốt và ươm cho lên mạ rồi thôi, tất cả những chuyện trừ cỏ dại,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 274
bón, tưới v.v… đều nhất loạt chẳng ngó ngàng tới. Giống lúa ấy tuy tốt,
còn mong chi thâu hoạch được chăng? Như Quang hiểu biết, đến chín
mươi chín phần trăm những kẻ không con và đông con đều là loại kết
quả này.
Chỉ có mình cha của Diêm Đan Sơ (Kính Minh) là người thương
yêu con bậc nhất từ xưa đến nay. Cho nên, ông ta nhờ các vị hương thân
trưởng thượng [kềm cặp] khiến cho con ông ta được bổ vào Hàn Lâm,
rồi làm quan to. Ông ta dạy con nghiêm ngặt cũng là thiên hạ xưa nay
chưa hề có. Một mặt vun bồi đức hạnh, một mặt tận lực dạy dỗ. Nguyên
do là vì yêu thương con thật sự. Lòng thương yêu của những kẻ khác
thường là còn tệ hơn giết con, bởi giết con thì chỉ có một người chết.
Đứa con không dạy dỗ sẽ chẳng nghiệp gì không làm, vĩnh viễn đọa
trong tam đồ ác đạo. So với nỗi thảm khốc của một lần chết nào phải chỉ
khác biệt như trời với vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Trương Vân Lôi)
* Đối với lớp hậu sinh trong hiện thời, khi chúng nó vừa hiểu
chuyện đời, liền dạy chúng nó về đạo giữ tinh, hộ thân. Nếu chúng nó
biết tốt - xấu, sẽ chẳng đến nỗi tự xem thủ dâm là vui, để rồi mắc các nỗi
họa như bị mất tánh mạng, hoặc trở thành tàn phế, hoặc vĩnh viễn truyền
lại nòi giống yếu ớt v.v… Với đứa chưa hiểu chuyện đời, chớ nên nói.
Còn đứa đã hiểu chuyện đời nếu chẳng nói thì trong mười đứa hết chín
đứa phạm phải tật này, đáng sợ vô cùng!
Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Phụ mẫu duy kỳ tật
nhi ưu” (Cha mẹ chỉ lo về tật ấy). Những tật khác đều không quan hệ
lắm. Chơi bời bừa bãi, thủ dâm, tham ân ái, quả thật là chuyện khẩn yếu,
quan trọng nhất! Vì thế, Khổng Tử mới nói đến điều này, nhưng người
chú giải chẳng chịu nói rõ chỗ tai hại nhất, khiến cho lời của Khổng Tử
cũng chẳng có hiệu quả thật sự, đáng than thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật)
* Giáo dục trong gia đình thì mẹ dạy con là quan trọng nhất. Nếu
lúc con cái vừa mới hiểu biết, mẹ liền đem nhân quả báo ứng và sự lý
làm người ra giáo huấn, khi lớn lên chúng sẽ biết tốt - xấu, chẳng bị ác
đảng, tà thuyết mê hoặc, sẽ trở thành hiền nhân, thiện nhân. Nếu lúc nhỏ
mặc cho nó kiêu ngạo thành thói, lớn lên không tự chủ được, sẽ ngả theo
tà thuyết, muốn quay lại đường chánh thì trăm kẻ khó thể được một!
Trong thời hiện nay, nếu chẳng lấy nhân quả báo ứng làm thuốc chuyên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 275
trị để cứu nước cứu dân, dù có làm gì đi nữa, vẫn chẳng có hiệu quả lớn
lao cho được! Do bọn họ chẳng chú trọng thực hành, chỉ là dùng lời nói
xuông bày vẽ cho xong chuyện. Nhân quả chính là cách để trị cả gốc lẫn
ngọn. Phàm phu sơ phát tâm, Như Lai thành Chánh Giác đều chẳng ra
ngoài nhân quả. Kẻ cuồng coi nhân quả là Tiểu Thừa rồi khinh miệt, tự
tiện buông lung, làm ác chẳng kiêng dè, và thơn thớt nói xuông những
lời lẽ lớn lối! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Giang Dịch Viên - 4)
* Dạy trẻ nhỏ nên dạy cặn kẽ “làm người phải tự lập chí hướng”,
đừng nên quở trách nghiêm khắc! Bởi lẽ, những học thuyết hiện thời
thường đả phá quy củ cũ, nếu quở trách nghiêm ngặt, [con cái] sẽ có thể
bị kẻ vô tri dụ dỗ, mê hoặc, sẽ từ ân biến thành oán. Tuổi nó đã mười
lăm, nếu có thể đem lẽ lợi - hại nói với nó, ắt sẽ chẳng đến nỗi nó không
cảm động mảy may nào! [Làm] như thế mà chẳng cảm động tức là giống
như gỗ, đá vô tri; nếu nghiêm khắc, đâm ra càng biến thành phản đối.
Những kẻ giết cha tự khoe công để được khen thưởng đều là do từng bị
trói buộc, muốn phát tiết nỗi hận một phen, chẳng biết sẽ vĩnh viễn bị
hãm trong súc sanh, địa ngục chẳng thể thoát ra!
Hãy nên đọc toàn bộ Tứ Thư. Kinh Thư văn lẫn lý rất hay, cũng nên
đọc toàn bộ. Đại đạo nơi kinh Dịch có thể để thong thả! Muốn thành tựu
học vấn càng phải dốc sức vào nguyên lý “từ hiện tượng biết được pháp
tắc”. Phần Đại Tượng199 thuộc sáu mươi bốn quẻ của kinh Dịch có thể
gom thành một thiên, khắc thành bài minh đặt bên chỗ ngồi, [nội dung
bài minh ấy] cực rõ ràng, rộng lớn, cực thân thiết. Chẳng biết tri kiến
lãnh hội của những kẻ phế kinh như thế nào?
Kinh Thi có thể để từ từ, bởi nếu không phải là người có tư cách đại
thông minh sẽ chẳng thể khéo hiểu được ý nghĩa! Lễ Ký200 và Tả
 199 Trong kinh Dịch, phần giải thích ý nghĩa của sáu mươi bốn quẻ được gọi là
Tượng Truyện. Tượng Truyện được chia thành hai phần: Đại Tượng giải thích ý
nghĩa tổng quát của mỗi quẻ, Tiểu Tượng giải thích mỗi hào trong một quẻ.
200
Lễ Ký là một bộ kinh điển trọng yếu của Nho Giáo, Khổng Tử tự nhận mình chỉ
biên tập, chỉnh lý chứ không phải là tác giả. Vào thời Tần Thủy Hoàng, bộ sách này
chịu chung số phận bị hủy diệt với những kinh điển khác. Đến thời Hán, dựa theo
130 thiên do Lưu Hướng thâu thập được, Đới Đức liền rút gọn lại thành 85 thiên, và
tác phẩm này được gọi là Đại Đới Lễ Ký. Về sau, Đới Thánh lại rút gọn bộ Đại Đới
Lễ Ký thành 46 thiên, thêm vào các chương Nguyệt Lệnh, Minh Đường Vị và Nhạc
Ký, thành 49 thiên. Bộ này chính là Lễ Ký được lưu truyền đến hiện thời. Nội dung
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 276
Truyện201 nên chọn đọc những phần có ích cho thân tâm và quan hệ lớn
lao đến sự giáo hóa trong cõi đời.
Trẻ nhỏ thích ăn cắp đồ vật của người khác thì hãy nên hằng ngày
bảo nó: “Con người chẳng thể làm chuyện gì khiến lòng áy náy! Nếu
làm chuyện khiến lòng phải áy náy, dẫu cho người khác từ đầu đến cuối
chẳng hay biết, nhưng trong tâm chính mình luôn ôm nỗi thẹn thùng.
Huống chi thiên địa, quỷ thần, Phật, Bồ Tát, không một vị nào chẳng
biết ư? Sao ngươi chẳng biết tự gắng sức, lại làm chuyện hạ lưu ấy? Từ
rày, nếu vẫn còn ăn trộm đồ của người ta, chắc chắn ta sẽ dẫn ngươi đến
trước người ta rập đầu thú tội, trả lại đồ cho người ta. Ngay cả vật chẳng
đáng một đồng cũng phải làm như vậy! Lại còn yêu cầu người ta nếu có
chuyện [ngươi] lấy trộm đồ thì phải tận lực đánh đòn, đe nẹt, chớ nên vì
thể diện của ta mà chẳng chịu nói, đến nỗi ngươi ngày càng cảm thấy ăn
trộm đồ vật chẳng quan trọng, khẩn yếu chi, thường mong tưởng ăn
trộm!
Ngươi hãy thử nghĩ xem: Ví như con người làm việc gì, nếu có ai
khen người đó giỏi, hắn sẽ vui vẻ; chê hắn dở, hắn không vui. Sao ngươi
lại làm ra sự thể khiến cho người ta phải thóa mạ, khinh bỉ? Nếu ta giấu
diếm, che chở cho ngươi, tức là ta dạy ngươi làm giặc. Sau này, chắc
chắn ngươi hoàn toàn chẳng thể thành người được! Vì vậy, ta bảo với
ngươi, từ rày trở đi, nếu ngươi ăn trộm đồ của ta, ta nhất định phải đánh
ngươi! Nếu ăn trộm đồ của người khác, ta nhất định đem ngươi tới chỗ
người ấy rập đầu thú tội và đem đồ vật trả lại cho người ta. Chẳng những
ngươi mất mặt mà thật ra ta còn khó chịu hơn ngươi nữa! Do mong
ngươi thành người, bất đắc dĩ ta phải kiềm chế ngươi như vậy.
Ngươi biết lỗi phải gắng sửa đi, gắng sức học cho giỏi để ai nấy đều
kính trọng ngươi; do vậy sẽ kính trọng tổ tông, cha mẹ ngươi! Nếu ngươi
   Lễ Ký rất phong phú bao gồm các quy chế, điển chương, lễ nghi cũng như những
quan điểm đạo đức, phạm trù triết học. Hai chương nổi tiếng nhất là Đại Học và
Trung Dung được tách riêng ra, xếp vào Tứ Thư. Khái niệm “thế giới đại đồng” cũng
phát xuất từ Lễ Ký.
201 Tả Truyện, gọi đủ là Xuân Thu Tả Thị Truyện, hoặc Tả Thị Xuân Thu, là một bộ
biên niên sử nước Lỗ thời Xuân Thu Chiến Quốc, do sử quan nước Lỗ là Tả Khâu
Minh biên soạn. Nội dung ghi chép những sự kiện lịch sử của nước Lỗ trải qua 12
đời vua từ Lỗ Ẩn Công (722-712 trước Công Nguyên) cho đến Lỗ Ai Công (494-468
trước Công Nguyên). Nho Gia xếp bộ sách này vào mười ba bộ kinh (Thập Tam
Kinh) bắt buộc phải học của Nho Sĩ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 277
vẫn không chịu sửa đổi thì cũng giống như ngươi hằng ngày tự chửi bới
tổ tông, cha mẹ vậy! Sấm sẽ đánh ngươi! Đây là chỗ ta đại từ đại bi yêu
thương, che chở ngươi, nếu ngươi biết tốt - xấu như vậy thì may ra có
hiệu quả”. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Niệm Phật)
* Đời bây giờ đã loạn đến cùng cực, cội nguồn là do những kẻ làm
cha mẹ trong cõi đời chẳng biết cách dạy con, chẳng biết dùng đạo đức,
nhân nghĩa, nhân quả báo ứng để dạy con cái, chỉ nuông chiều, nuôi
dưỡng thói kiêu ngạo, đem mưu mẹo, mánh khóe dạy con. Vì thế, kẻ có
thiên tư quen thói cuồng vọng, đứa không có thiên tư quen nết ương
bướng, ngu độn, đến nỗi có chuyện vượt lễ, trái phận thường thấy xảy ra.
Nếu người làm cha mẹ ai nấy trọn hết đạo dạy con thì thế đạo đâu đến
nỗi như thế này!
Trước kia nếu không dạy dỗ con cái đàng hoàng thì vẫn chưa khẩn
yếu lắm, bất quá chúng nó không hiếu thuận, không ra giống gì mà thôi.
Hiện thời, nếu không dạy con cho đàng hoàng, mối họa quả thật chẳng
thể nào tưởng tượng được! Hãy nên đem lời này nói với hết thảy mọi
người. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Dương Huệ Xương - 1)
* Con em của kẻ phú quý phần nhiều chẳng làm chuyện gì, một mai
gặp họa loạn ắt sẽ đến nỗi không sao tự lập được! Nay hãy hoàn toàn
đừng sai bảo đầy tớ, hãy đích thân nhắc chân động tay, một là tập làm
lụng cực nhọc cho huyết mạch điều hòa, hai là do ít nhàn rỗi sẽ tiêu được
các vọng niệm, đây thật sự là biện pháp căn bản để yêu thương con cái,
còn gì tốt lành hơn?
Đạo Nho bị suy, nguyên do là vì bọn Lý Học bài xích, đả phá nhân
quả ba đời và lục đạo luân hồi, khiến cho thiện chẳng có gì để khuyến
khích, ác không có gì để trừng phạt, những hiện tượng diễn ra trước mắt
quả thật là do học thuyết của bọn Lý Học đã dẫn dắt ra. Muốn chấn hưng
Nho Tông thì phải tận lực chăm chú hành từ, hiếu, hòa thuận, cung kính
(Thiên hạ loạn lạc đều là do những kẻ làm cha mẹ chẳng biết dạy dỗ con cái mà ra.
Vì thế, một chữ Từ cả cõi đời chẳng biết được ý nghĩa thật sự. Nếu thật sự biết thì cả
cõi đời sẽ tự thái bình). (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Huệ Long)
* Nhận được thư biết các hạ và thê thiếp, hai đứa con gái, cả nhà
niệm Phật, ba chữ Tín - Nguyện - Hạnh khắc sâu trong gan ruột, sao lại
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 278
than: “Tuổi ngoài năm mươi, dưới gối vẫn trống. Cái tội bất hiếu bao
kiếp chẳng chuộc được?” Phàm con cái có hay không vốn thuộc số
mạng. Có vợ, có thiếp, chẳng phải giống như không lấy vợ đến nỗi
không có con nối dõi; sao lại dẫn câu ấy để rồi tiếc hận?
Phàm kẻ bất hiếu là kẻ chẳng thể sống theo lòng nhân, xử theo
nghĩa, làm nhục lây cha mẹ! Cũng như kẻ có con chẳng dạy dỗ, đến nỗi
nó trở thành tầm thường, ngu dốt, hoặc thành phường ương ngạnh, hèn
tệ; dẫu có nhiều con vẫn hết sức bất hiếu! Đã có hai con gái thì hãy nên
khéo léo dạy dỗ, ngõ hầu chúng nó biết phụ đức (đức hạnh của nữ giới),
phụ ngôn (lời ăn tiếng nói đúng mực của phụ nữ), phụ dung (Dung là
“dung chỉ” (容 止) tức cư xử, hành vi trang trọng. Trong cõi đời gần đây, kẻ tục
Nho chẳng hiểu ý nghĩa chữ này, bèn tưởng “dung” là dung mạo xinh đẹp; đáng than
thay), phụ công (những tài khéo, như khả năng gia chánh, may vá, quán
xuyến gia đình). [Dạy cho con] đầy đủ bốn đức này, rồi lại còn [dạy cho
chúng nó] biết nhân, rõ quả, tín nguyện niệm Phật, thì trong tương lai,
sau khi xuất giá, chúng sẽ nêu gương trong chốn khuê các, làm bậc thầy
gương mẫu cho nữ giới, giúp chồng dạy con đều thành hiền thiện. Con
gái như thế há chẳng rạng rỡ tổ tông ư?
Thế đạo hiện thời loạn đến cực điểm, đều do cả cõi đời chẳng biết
dạy dỗ con gái mà ra! Do tánh tình con người và những thói quen được
tiêm nhiễm đều chịu ảnh hưởng rất sâu từ mẹ. Nếu thuở bé có mẹ hiền,
khi lớn lên lại có vợ hiền, há người ấy chẳng trở thành người hiền ư? Do
vậy biết rằng: Dạy con gái chính là pháp luân căn bản để trị quốc, bình
thiên hạ; nhưng người đời mơ màng, chuyên nuôi dưỡng thói kiêu căng,
chăm chút trang điểm lộng lẫy. Vì thế quá nửa phụ nữ đều giúp chồng
thành kẻ ác, dạy con cái thành phường mưu mô, lươn lẹo, khiến cho
những đứa có thiên tư đều trở thành bọn cuồng vọng hết, những đứa
không có thiên tư đều thành lũ dân ương ngạnh, chẳng đáng buồn ư?
Ông là người đọc sách nhưng chẳng biết nghĩa này, chỉ mong sanh con.
Nghe nói gần đây có kẻ giết cha gian mẹ, kẻ làm cha đứa ấy có phải là
hiếu hay chăng? Hay là bất hiếu vậy? Ngay như chuyện thờ phụng, thừa
kế tổ tông202 thì cháu trai203 cũng có thể kế tiếp. Nếu không có cháu trai,
cháu gái cũng có thể kế thừa.
 202 Nguyên văn “tông diêu”, nói đủ là “tông diêu thừa kế”: Tông là nhà thờ Tổ, Diêu
(祧: đúng ra theo chánh âm phải đọc là Thiêu, nhưng thường bị đọc trại thành Diêu)
là miếu thờ những vị tổ đã lâu đời. Theo lễ pháp, kể từ đời Tây Chu, quyền thờ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 279
Huống chi người niệm Phật cố nhiên nên đoạn nghiệp chủng cõi Sa
Bà, để mong đời đời chẳng đến nỗi có hậu duệ làm ô nhục tổ tông thì
may mắn chi hơn? Đau lòng thốt lời thở than để làm chi? Ông đã [bận
lòng] như thế, há có phải là người niệm Phật chân thật hay chăng? Vợ,
thiếp, hai đứa con gái, pháp danh đều hay! Hãy nhìn vào tên, nghĩ đến ý
nghĩa, chân thật tu hành thì đấy chính là quyến thuộc Bồ Đề, hiện tại đã
dự vào bậc thánh bậc hiền, tương lai sẽ sanh về cõi Cực Lạc. Đấy là
Hiếu, là lòng Từ lớn lao. (Hoằng Hóa Nguyệt San số 11 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Vương Ngộ Trần - 2)
* Hiện nay muốn xương minh sự lý nhân quả và phương pháp thực
hành [điều đó] thì trước hết phải thực hiện bằng sự giáo dục trong gia
đình; nhưng giáo dục trong gia đình lại phải lấy phụ nữ làm chủ thể. Bởi
lẽ, đời có mẹ hiền thì mới có con hiền. Noi theo bậc hiền mẫu thời cổ,
thực hiện thai giáo: un đúc bẩm chất từ lúc ban đầu, nuôi nấng, dạy dỗ từ
khi chưa sanh ra ngõ hầu con sẽ tập quen thành tánh. Như ba bà Thái đời
Châu (Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự) ngầm giúp đỡ chồng, dạy con
từ lúc nó còn nằm trong thai, đều là bậc thánh nhân trong nữ giới, quả
thật họ đã lập nên nền tảng mở mang vương nghiệp nhà Châu.
Tôi thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ hàng nữ nhân nắm
quá nửa”. Lại nói: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia, trị quốc” tức là nói
đến chuyện “trọn hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con”. Nữ giới ngày
nay phần nhiều chẳng hiểu nghĩa này, lầm lạc muốn tham gia chánh trị
nắm quyền, tính làm đại sự, bỏ mặc đạo căn bản là vun bồi gia đình.
Điều này quả thật gom sắt của muôn nước chín châu cũng chẳng đúc
được cái lỗi lầm lớn lao ấy204, thật đáng cảm khái sâu xa!
   phụng tổ tiên, thừa hưởng gia nghiệp của tổ tiên giao cho con trưởng thuộc dòng
đích. Bộ Đường Luật Nghĩa Sớ quy định: “Đích tử đã chết, hoặc bị tội, hoặc tàn tật
thì do đích tôn thừa hưởng. Không có đích tôn mới lập anh em của đích tử làm người
thừa kế. Không còn ai thuộc dòng đích nữa thì mới lập dòng thứ!”
203 Cháu trai (điệt: 姪) ở đây là cháu gọi ông Vương bằng chú hay bác. Con trai của
chị hay em gái ta sẽ được gọi là Sanh (甥)
204 Câu nói này vốn dựa theo ý một câu nói của La Thiệu Uy vào cuối đời Đường.
Theo Tư Trị Thông Giám, nguyên văn câu nói của La Thiệu Uy là: “Hợp lục châu tứ
thập tam huyện thiết bất năng chú thử thác” (Gộp sắt của bốn mươi ba huyện trong
sáu châu cũng không đúc được lỗi lầm này). Nguyên lai, vào cuối đời Đường, các
phiên trấn (những tướng lãnh nắm giữ binh quyền tại các địa phương) thế lực rất lớn.
Khi Điền Thừa Tự giữ chức Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác (bao gồm sáu châu Ngụy,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 280
Thế nào là đạo căn bản để vun bồi gia đình? Chính là hễ dạy dỗ con
cái, ắt phải khi con đang còn trong độ tuổi măng sữa, trước hết phải làm
cho nó biết về thuyết nhân quả báo ứng thì đối với hết thảy những hành
vi nghịch ác nó sẽ tự kiêng sợ chẳng dám làm. Giảng giải sách nhân quả
không chi hay bằng Cảm Ứng Thiên205 và Âm Chất Văn206. Hai cuốn
   Bác, Tương, Vệ, Bối, Đàn, nay thuộc vùng duyên hải của Bột Hải thuộc phía Bắc
Hoàng Hà) đã tuyển lựa những quân sĩ thân tín, chu cấp hậu hĩnh, huấn luyện kỹ
càng, tổ chức thành một đội quân tự vệ, gọi là Nha Quân. Đến khi La Thiệu Uy làm
Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác, Nha Quân thế lực quá lớn, kiêu binh tung hoành không
thể kiềm chế được, thậm chí đôi khi còn làm loạn, giết cả Tiết Độ Sứ. Năm Thiên
Hựu thứ hai đời Đường Chiêu Tông, một viên chỉ huy của Nha Quân là Lý Công
Toàn gây binh biến, La Thiệu Uy bèn cầu cứu viên Tiết Độ Sứ có thế lực mạnh nhất
thời ấy là Vũ Châu Ôn (Ông này làm Tiết Độ Sứ vùng Tuyên Vũ, nay thuộc huyện
Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Châu Ôn liền phái bảy vạn nhân mã tiến vào Ngụy Bác,
giết được tám ngàn Nha Quân, dần dần dẹp tan sự đối kháng của Nha Quân. Để cung
cấp cho quân đội của Châu Ôn, La Thiệu Uy đã phải tốn hơn nửa ức tiền, giết đến
gần bảy chục vạn trâu dê cho quân Châu Ôn ăn trong nửa năm, tốn kém lương thảo
vô số. Lúc quân Châu Ôn rút đi, lại còn phải biếu tặng cả trăm vạn quan tiền. Từ đấy,
vùng Ngụy Bác suy sụp, kiệt quệ, hoàn toàn không còn sức đối kháng ngoại địch.
Như vậy, tuy La Thiệu Uy trừ được mối lo do Nha Quân gây ra, nhưng cũng đồng
thời tự diệt sạch lực lượng chính bảo vệ vùng Ngụy Bác, hoàn toàn chịu sự chi phối
của Châu Ôn. Do đó, La Thiệu Uy mới hối hận thốt lên thời than thở như vậy. Từ
câu nói ấy đã phát sanh thành ngữ „chú thành đại thác‟ vốn thường được dùng để chỉ
lỗi lầm chết người do ham mối lợi nhỏ trước mắt mà ra.
205 Theo thiên Nghệ Văn Chí trong Tống Sử và sách Quận Trai Độc Thư Phụ Chí, ẩn
sĩ Lý Xương Linh đời Tống đã biên soạn cuốn Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, thác
danh Thái Thượng Lão Quân giáng cơ. Tuy thế, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý
ai thật sự là tác giả của cuốn sách này. Do nội dung sách này khuyến thiện làm lành
rất tích cực, nó được người Trung Hoa rất ngưỡng mộ, cũng như được rất nhiều
người viết lời chú giải. Sách càng được nổi tiếng lưu hành mạnh mẽ hơn khi được
học giả Huệ Đống đời Thanh chú giải tường tận, cho đến hiện thời cuốn sách này
vẫn được lưu hành rất rộng và được Phật môn Trung Hoa rất coi trọng.
206 Âm Chất Văn tên gọi đầy đủ là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, chưa rõ ai là
tác giả. Châu Khuê đời Thanh khi giảo chánh cuốn Âm Chất Văn Chú đã nhận định:
“Âm Chất Văn nói những chuyện liên quan đến đời Tống, ắt phải do người đời Tống
biên soạn”. Học giả Tửu Tỉnh Trung Phu của Nhật lại cho rằng tác phẩm này phải
được hình thành vào cuối đời Minh, nhưng không đưa ra bằng chứng đủ tính thuyết
phục nào. Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Âm Chất Văn, các đạo sĩ đã biên soạn Văn
Đế Cứu Kiếp Kinh và Văn Đế Diên Tự Kinh để tiếp tục xiển dương tư tưởng khuyến
thiện trừng ác trong Âm Chất Văn. Âm Chất Văn thác danh Văn Xương Đế Quân
giáng cơ.
Văn Xương Đế Quân vốn còn gọi là Tử Đồng Đế Quân, theo truyền thuyết vốn là
Trương Á Tử, làm quan đời Tấn, chết trận, được dân chúng lập miếu thờ, rất hiển
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 281
sách ấy phải thường giảng nói, ắt sẽ tự có lợi ích không chi lớn bằng!
Bởi lẽ, trẻ thơ thiên tánh chưa xấu xa, lời lành dễ tiếp nhận, tập quen từ
bé, lâu ngày sẽ thành bản tánh, đến khi lớn lên sẽ chẳng thay đổi được!
Gốc chánh nguồn trong được bắt nguồn từ đấy! Vì thế, kinh Dịch chép:
“Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã” (Dạy cho trẻ thơ điều đúng đắn,
có công như thánh nhân vậy).
Ngày nay thiên hạ sở dĩ đại loạn đều là do cha mẹ chẳng hiểu
nguyên lý giáo dục đã ươm thành vậy! Bởi lẽ, đã chẳng thể dùng thai
giáo để dạy dỗ điều lành từ đầu, lại còn chẳng thể dùng nhân quả để răn
nhắc lúc sau. Căn bản đã hỏng thì sẽ bừa bãi, tràn lan, chẳng thể nào
thâu thập được. Do vậy mới xướng lên những thuyết bất hiếu, không cần
cha mẹ, mới bàn đến chuyện cách mạng gia đình không kiêng dè chi!
Dẫn đến [tình cảnh] bạn bè chơi với nhau vì lợi lộc hòng bán chác, vợ
chồng hợp lại hay chia tay nhau giống như cầm thú, chôn vùi đạo nghĩa
liêm sỉ, thiên lý tuyệt diệt [như] nước lũ cuồn cuộn tận trời chẳng biết
khi nào ngừng. Dẫu Khổng Tử, Thích Ca sống trong thời buổi này cũng
không có cách gì cứu giúp được, nguy ngập vậy thay!
Làm như thế nào đây? Đáp: Đường lối để cứu vãn chỉ có cách chú
trọng giáo dục gia đình sao cho ai nấy giảng rõ sự lý nhân quả cho con
cái hòng vun bồi căn bản mà thôi! Đã gieo thiện nhân ắt gặt thiện quả,
mới hòng có hy vọng trong tương lai lòng người biến đổi tốt đẹp, phong
tục dần dần thuần lương, thiên hạ nước nhà thái bình vậy. (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Pháp ngữ dạy mẹ con ông Ân Đức Tăng - 2)
* Thế đạo nhân tâm ngày nay đã suy hãm đến cùng cực lắm thay!
Những người mang tâm lo lắng cho đời bày đủ mọi cách để duy trì. Nếu
   linh. Do các đạo sĩ đời Tống - Nguyên viết truyện nói ông Trương được Thượng Đế
sắc phong làm Tử Đồng Đế Quân và đã nhiều lần giáng thế, được thiên đình giao
cho nhiệm vụ chưởng quản phủ Văn Xương chuyên coi về việc học hành, thi cử,
quan chức của thế gian nên Tử Đồng Đế Quân còn có tên là Văn Xương Đế Quân.
Do vậy, năm Diên Hựu thứ ba (1316) đời Nguyên, vua đã sắc phong cho Văn Xương
Đế Quân một tước hiệu thật dài “Tử Đồng Thần Vi Phụ Nguyên Khai Hóa Văn
Xương Tư Lộc Hoằng Nhân Đế Quân”.
Chữ Âm Chất phát xuất từ thiên Hồng Phạm sách Thượng Thư: “Duy thiên âm chất
hạ dân” thường được giải thích là “trời ngấm ngầm bảo vệ, che chở muôn dân”. Từ
đó, Âm Chất được hiểu là làm những việc công đức ngấm ngầm, không khoe
khoang, rêu rao cho người khác biết. Đặc điểm của Âm Chất Văn là dung thông
những quan điểm của Tam Giáo, đặc biệt đề cao nhân quả, luân hồi, báo ứng, nên rất
được Phật môn Trung Hoa coi trọng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 282
không, đạo làm người gần như diệt mất, thật đáng sợ thay! Tuy nhiên,
muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm hãy nên giải quyết từ căn bản thì dùng
sức ít mà được hiệu quả lớn lao. Người có tri kiến chân chánh đích xác
ắt sẽ ùa nhau vâng theo như gió lùa cỏ rạp.
Thầy thuốc trị bệnh có bệnh đằng gốc, có bệnh đằng ngọn, xét coi
bệnh tình gấp rút hay hòa hoãn để trị liệu, chẳng thể chấp vào một phía
để luận định. Nay chứng bệnh nơi thế đạo nhân tâm đã sâu lắm rồi; nếu
chỉ dựa trên mặt Sự để khuyên dụ, tuy cũng đạt được hiệu quả biến đổi
phong tục, nhưng cố nhiên chẳng thể đạt hiệu quả bằng cách dốc sức nơi
căn bản được! Nói đến chuyện dốc sức nơi căn bản chính là đề xướng
giáo dục trong gia đình, đề xướng nhân quả báo ứng, sao cho hết thảy
mọi người ai nấy biết đạo làm người, ai nấy trọn hết bổn phận của chính
mình, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ
nhân từ, tớ trung thành. Nếu ai nấy đều được như vậy thì cửa nhà hưng
thịnh, con cháu hiền thiện. Lại phải biết thường nghiêm giữ những lời về
“phước thiện, họa dâm, thiện ác, tai ương, may mắn” để tự tu, lại còn
[dùng những điều ấy] dạy người trong nhà thì người nhà sẽ dự vào địa vị
thánh hiền tốt đẹp mà chẳng tự biết.
Vì thế, Khổng Tử nói: “Thiên hạ chi bổn tại quốc, quốc chi bổn tại
gia, gia chi bổn tại thân” (Gốc của thiên hạ là đất nước, gốc của đất
nước là nhà, gốc của nhà là thân). Lời này đâu phải nói riêng với người
mang tước vị, mà thất phu thất phụ đều cùng mang trách nhiệm này! Cổ
nhân đã nói: “Thiên hạ bất trị, thất phu hữu trách” (Thiên hạ chẳng yên,
thất phu có trách nhiệm). Bởi lẽ, nhân tài trong thiên hạ đều từ gia đình
mà ra. Gia đình khéo dạy, con cái tự nhiên đều hiền thiện. Gia đình
không khéo dạy, đứa con nào có thiên tư sẽ quen thói cuồng vọng, đứa
không có thiên tư sẽ quen nết bướng bỉnh, hung ác. Hai loại ấy đều là
sâu mọt cho quốc gia, xã hội!
Do vậy, biết giáo dục gia đình chính là căn bản để trị quốc, bình
thiên hạ, còn nhân quả báo ứng là đạo trọng yếu để phụ trợ cho giáo dục
gia đình. Từ đứa bé con cho đến kẻ bạc đầu, từ chính bản thân cho đến
xã hội, từ làm người cho đến thành thánh hiền, từ tu thân cho đến bình
thiên hạ đều phải nương theo những điều ấy để được thành tựu, thật
đúng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình
trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, thành thủy thành chung vậy, là đại
pháp để cùng trị cả gốc lẫn ngọn, phàm lẫn thánh đều phải tuân theo.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 283
Những nhà Nho đời sau chẳng biết đến ý nghĩa này, xằng bậy bài bác,
đến nỗi thành ra thái độ xấu xa không kiêng dè ngày nay. Nguyện những
ai có chí giác thế yên dân vãn hồi kiếp vận hãy dốc sức nơi đây thì chẳng
mấy chốc [sẽ được thỏa nguyện] vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của sách Khuyến Thế Bạch Thoại Văn)
* Giữ vẹn luân thường chính là tận lực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ,
nghĩa, liêm, sỉ. Cần phải thực hiện thật sự giữa cha con, anh em, vợ
chồng, bè bạn; nhưng bổn phận làm con còn dễ trọn, dễ biết, chứ bổn
phận làm cha mẹ của người khác thì khó trọn, khó biết!
Rất nhiều kẻ mù quáng quấy rối ngày nay tuy là tội của bọn họ,
nhưng xét đến cội nguồn thì đều vì cha mẹ họ chưa hề đem đạo lý làm
người và sự thật nhân quả bảo ban. Những gì họ được dạy dỗ đều là chú
trọng suy nghĩ mưu mẹo, lường gạt, nên mới đến nỗi xấu hèn như thế!
Do vậy, nói rằng: “Nếu con người khéo dạy dỗ con cái thì gia đạo tự
được hưng vượng, thiên hạ thái bình!”
Khi con cái vừa mới hiểu biết, xin hãy đem ngay những chuyện con
người nên làm và những điều chứng nghiệm thật sự về thiện - ác, nhân quả thường nói với chúng thì con cháu nhiều đời về sau đều trở thành
hiền nhân, thiện nhân. Do vậy, đây là nguyên do tại sao bổn phận của
người làm cha mẹ so với bổn phận của kẻ làm con cái khó thể trọn hết
được vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Trầm Lai Vân)
* Trong đời có kẻ nữ chẳng hiểu chí lý (lý tột cùng), hoặc chẳng
hiếu đối với cha mẹ chồng, lừa dối, khinh miệt chồng, nuông chiều con
cái mù quáng, ngược đãi tôi tớ, hoặc là mẹ kế ngược đãi con cái đời vợ
trước, chẳng biết hiếu dưỡng cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy con
cái, rộng rãi với tôi tớ, nuôi dạy, chăm sóc con cái vợ trước, [chẳng biết
những điều ấy] quả thật là đạo thánh hiền trong thế gian, mà cũng là
pháp vun bồi cái gốc trong nhà Phật. Đầy đủ công đức này, do tu tập
Tịnh nghiệp chắc chắn danh dự ngày càng cao, phước tăng, tuổi thọ lâu
dài, lâm chung được Phật tiếp dẫn lên thẳng chín phẩm sen.
Phải biết: Có nhân chắc chắn có quả. Nếu mình đã gieo cái nhân
hiếu kính từ ái, sẽ tự hưởng cái quả hiếu kính từ ái. Vì người chính là vì
mình, hại người còn tệ hơn tự hại mình. Vì thế, phải tận hết chức phận
của chính mình để mong Phật - trời cùng soi xét (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 284
* Trẻ nhỏ từ lúc có sự hiểu biết, liền dạy cho chúng đạo hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, và những sự nhân quả ba đời, luân hồi lục
đạo, khiến cho chúng biết tâm của chính chúng nó trong từng hơi thở
đều thông với tâm của trời, đất, quỷ thần, Phật, Bồ Tát. Khởi lên một
niệm bất chánh, làm một chuyện bất chánh đã sớm bị trời, đất, quỷ thần,
Phật, Bồ Tát thấy biết tường tận, như đối trước gương sáng đều hiện ra
hình bóng xấu không thể trốn tránh được, ngõ hầu chúng nó biết kiêng
sợ, gắng làm người lương thiện. Bất luận là ai, dẫu là tôi tớ, trẻ nhỏ,
cũng chẳng được phép đánh chửi. Dạy chúng tôn kính bậc tôn trưởng,
giữ phận người dưới. Phải chú trọng dạy chúng nó kính tiếc giấy có viết
chữ, yêu tiếc ngũ cốc, y phục, đồ đạc, thương tiếc che chở trùng kiến,
cấm ngặt ăn vặt để khỏi bị bệnh. Dạy được như thế thì phần đông chắc
chắn trở thành người hiền thiện. Nếu lúc nhỏ để mặc theo thói quen, điều
gì cũng chẳng giáo huấn, lớn lên, không thành hạng tầm thường cũng
thành phường trộm cướp. Lúc ấy có hối cũng chẳng có ích gì!
Cổ nhân nói: “Giáo phụ sơ lai, giáo nhi anh hài” (Dạy con từ thuở
còn thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới về), bởi lẽ do huân tập sẽ trở thành
bản tánh nên phải cẩn thận ngay từ đầu. Thiên hạ yên hay loạn đều bắt
nguồn từ đây; chớ nghĩ lão tăng nói chuyện viễn vông, không quan hệ,
khẩn yếu chi! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một Lá Thư
Gởi Khắp)
* Con gái xuất giá, giảm nhẹ gánh nặng rất nhiều. Xin hãy khuyên
nó nên trọn hết đạo làm vợ, hiếu thảo với bố mẹ chồng, kính trọng
chồng, hòa thuận với chị em dâu, rộng rãi với tôi tớ, vẫn giữ đạo niệm
Phật, chớ lấy chồng rồi bỏ luôn [không niệm Phật]. Lại phải mềm mỏng
khuyên chồng niệm Phật và Quán Thế Âm để làm chỗ nương tựa cho
tương lai. Làm được như thế thì người tôn kính, thần che chở, chẳng gặp
tai chướng, điều phước chuyện lành đều cùng tụ họp. Chẳng những
chính ngươi được vẻ vang mà người ta cũng vì ngươi mà kính trọng lây
cả cha mẹ sanh ra ngươi; cho là nhà ấy có gia giáo, cho nên cô gái ấy từ
nhỏ đã quy y Phật pháp, ăn chay, niệm Phật, nay được tốt lành như thế.
Nào phải chỉ cha mẹ được nở mày nở mặt, mà vị thầy [ngươi] quy y
cũng được vẻ vang! Nếu chẳng hiền hiếu, ắt ngươi bị người ta ghét; đấy
vẫn còn là chuyện nhỏ! Ắt người ta sẽ nói cha mẹ ngươi không có đức
hạnh nên mới sanh ra đứa con gái chẳng hiền chẳng hiếu ấy, ắt cha mẹ
ngươi thường bị người khác nhục mạ, vị thầy ngươi quy y cũng bị người
ta chê trách là chẳng thể giáo hóa ngươi hành hiếu kính.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 285
Mong cho bọn họ hiện tại làm con gái hiền, xuất giá làm vợ hiền
của người ta, sau này trở thành hiền mẫu của người khác thì may mắn
nào hơn! Xin hãy sáng suốt suy xét, bảo tường tận cùng cô ta (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lý Trọng Hòa)
* Không ai chẳng mong sanh ra con cái tốt lành, nhưng mười người
hết tám chín người dạy con cái ngoan thành hư, về sau bại hoại tiếng tăm
gia đình, phá tan tổ nghiệp, trở thành hạng tầm thường, bướng bỉnh, hoặc
thành phường giặc cướp, tệ hại. Chỗ sai lầm căn bản, nói chung là do
chẳng biết cách yêu thương con. Từ nhỏ mặc kệ cho nó quen thói thì lớn
lên chuyện gì nó cũng tự tung tự tác, chẳng nghe răn dạy, đa phần cặp
kè, gần gũi bọn xấu xa, gây hại cho xã hội. Thiên tai nhân họa hiện thời
phần nhiều là do những người chẳng biết cách làm cha mẹ ươm thành!
Nếu như những kẻ không được dạy dỗ đó, từ thuở ban đầu được cha mẹ
hiền khéo dạy thì những kẻ làm hại [cho xã hội] đều là những người tạo
lợi ích [cho nước nhà], những kẻ chỉ vẽ điều ác đều thành những người
khuyến thiện hết, cõi đời chẳng mong thái bình mà tự thái bình. Đấy
chính là đạo căn bản trọng yếu để thất phu, thất phụ dự vào việc bồi đắp
cho cõi đời bình yên vậy.
Lúc ông đề xướng Phật pháp, hãy nên vì hết thảy những người hữu
duyên nói kèm thêm nghĩa này cho tường tận, khiến cho bọn họ ai nấy
đều tự trọn hết đạo làm cha mẹ thì lợi ích lớn lao lắm! Con gái càng
quan hệ lớn hơn nữa, trọn chẳng được nuôi mà không dạy khiến cho hiện
thời nó gây trở ngại cho gia đình nó (“không dạy” là ngược ngạo để cho anh
em, chị em đều chẳng tuân theo quy củ, mặc lòng phóng túng), tương lai quấy rối
nhà chồng. Về sau, dạy hư con cái, khiến cho con cháu nhiễm phải thói
xấu ấy. Nghĩa lý này nhiều người coi thường chẳng xét đến. Muốn gia
đạo tốt lành, con cháu tốt lành, đều phải tìm ở chỗ khéo dạy con cái! (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Huệ Tế)
* Diệu (妙) nghĩa là hợp lẽ, thích đáng. Nếu sử dụng trí thông minh
vào chuyện vô ích tổn hại thì trở thành trí huệ hèn tệ, chẳng gọi là Diệu
Huệ (妙慧). Nếu áp dụng trí ấy hợp lẽ thì mới gọi là Diệu Huệ. Những
người thông minh hiện thời thường đem trí thông minh của chính mình
sử dụng trong [việc viết ra] những chuyện tiểu thuyết khêu gợi trộm cắp,
dâm dật, vượt lý, khinh miệt luân thường để khoe khoang văn tài, chẳng
biết: Một hơi thở ra không hít vào được, thân sau trải qua bao nhiêu kiếp
chẳng biết có được nghe những danh từ “thiên địa phụ mẫu” nữa hay
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 286
không? Nếu những kẻ đó không có cái trí huệ hèn tệ ấy, sao lại đến nỗi
khổ sở cùng cực như thế? Vì vậy, hãy nên vun quén sao cho cô ta nhất
cử, nhất động đều hợp với chánh đạo, đối với địa vị mẫu nghi chốn khuê
các hay bậc thầy nêu gương cho nữ giới trong tương lai đều có thể dự
đoán được từ nơi đây. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Vương Thọ Bành -1)
* Cõi đời ít có người lành là do trong gia đình không khéo dạy dỗ,
nhưng trong một gia đình khéo dạy dỗ thì sự dạy dỗ của mẹ quan trọng
nhất. Bởi lẽ, con người lúc bé hằng ngày ở bên mẹ, được hun đúc tánh
tình nhiều nhất từ nơi mẹ! Do vậy, thiên chức của phụ nữ là giúp chồng
dạy con. Nếu không có hiền nữ, làm sao có hiền thê, hiền mẫu cho
được? Vì thế, nói rằng: Khéo dạy cho con cái biết nhân quả ba đời chính
là cái đạo “gốc chánh nguồn trong” để bình trị thiên hạ vậy! (Hoằng Hóa
Nguyệt San số 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời cư sĩ
Diệp Ngọc Phủ)
* Bệnh do thân sanh, thân do nghiệp sanh, hãy càng nên đau đáu
sám hối để tiêu túc nghiệp. Lại phải tận lực kiêng chuyện ăn nằm để
bệnh khỏi nặng thêm. Bất luận bệnh gì, nếu chẳng kiêng ăn nằm, chắc
chắn khó thể lành bệnh! Khổng Tử đã nói: “Phụ mẫu duy kỳ tật chi ưu
giả” (Cha mẹ chỉ lo lắng về cái tật ấy207) là vì chuyện ăn nằm là căn bản
của hết thảy bệnh vậy. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng,
Thư trả lời cư sĩ Hoàng Tụng Bình ở Tương Âm)
* Bán thân bất toại sợ rằng cũng là do tham sắc mà ra. Chớ nên
tham tà sắc, dẫu vợ chồng sống với nhau cũng chớ nên tham đắm. Hễ
tham thì sẽ bị mất mạng hay sanh bệnh! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thang Huệ Chấn)
* Đời người muốn được không bệnh khỏe mạnh ắt phải cực lực tiết
dục. Hễ lắm dục sự thì đủ mọi bệnh tật đều phát sanh. Người đời cho
làm chuyện dâm dục là vui, chẳng biết vui chỉ trong khoảng khảy ngón
tay, khổ cả đời thường chịu! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Bào Xung Sĩ)
 207 Thông thường chữ Tật ở đây thường được các nhà chú giải hiểu là những thói hư
tật xấu như không giữ luân thường, lễ nghĩa; riêng Tổ giải thích chữ Tật ở đây phải
hiểu là thói tham mê tình dục quá đáng. Tổ giảng rất rõ về ý nghĩa này trong lá thư
141 trong bộ Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 1, tức lá thư gởi cho cư sĩ Niệm
Phật.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 287
4. Khuyên nên tại gia hoằng pháp
* Con người và trời đất cùng xưng là Tam Tài, chẳng phải là
chuyện xuông, mà ắt phải có công tham dự, giúp đỡ sự sanh trưởng, thì
mới chẳng thẹn! Nếu không, thịt đi thây chạy, suốt đời ô uế trời đất, sao
có thể gọi là Tam Tài cho được? Nếu lãnh hội được ý này, đem [áp dụng
vào việc] dạy dỗ bọn trẻ, ắt sẽ có thể tận tâm kiệt lực, đem tài năng ra
dạy dỗ, trước hết lấy đạo đức làm gốc, rồi mới đến văn chương là ngọn.
Thường luôn giảng nói hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, khiến cho
chúng nó biết đạo làm người, khởi tâm, động niệm, cư xử, nói năng đều
thuần thiện, tạo thành cơ sở có thể dự vào bậc thánh. Kinh Dịch nói:
“Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã” (Dạy cho bọn trẻ nhỏ lẽ chánh
sẽ có công lao [bằng với công lao] của bậc thánh nhân) tức là nói về điều
này vậy!
Nếu có thể dùng cái tâm này để dạy người thì học vấn lẫn phẩm đức
của chính mình ngày càng tươi sáng, con người sẽ được cảm hóa, chẳng
đợi phải đốc thúc, quở trách mong cho họ sẽ thuận theo. Thiên hạ chẳng
yên, thất phu có trách nhiệm. Hiện thời nước loạn, dân khốn đốn, anh em
cùng một nhà đánh nhau, tranh đua muốn tàn hại lẫn nhau, dân không lẽ
sống đều do cha mẹ trong gia đình không khéo dạy, thầy giáo trong nhà
trường không khéo dạy, đến nỗi kẻ có thiên tư quen thói làm xằng, đứa
không có thiên tư cam lòng làm kẻ giặc bướng bỉnh. Ông giữ được tấm
lòng “gốc chánh, nguồn trong” để làm chuyện vun trồng nhân tài, tức là
chẳng có địa vị mà nắm quyền cai trị, chẳng lên tòa mà thuyết pháp vậy,
còn vui nào hơn? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả
lời cư sĩ Trác Trí Lập)
* Ông làm nghề Y chịu phát tâm lợi người quả thật là tiện lợi.
Người ta đang lúc thân mang bệnh khổ, hễ nghe có cách được yên vui thì
không ai chẳng sanh lòng tin. Với người mang chứng bệnh nguy hiểm
ngặt nghèo, hãy dạy họ niệm Phật và niệm Quán Âm, ắt sẽ có hiệu quả.
Dẫu mạng hết sắp chết, cũng có hiệu quả chuyển nguy thành an rồi mới
qua đời. Tôi thường nói: “Thế gian có hai hạng người dễ khuyên người
ta làm lành niệm Phật. Thứ nhất là người xem tướng, thấy có tướng tốt
bèn khuyên họ cực lực tu trì để giữ gìn tướng tốt; nếu không, chắc tướng
sẽ bị biến đổi. Thấy tướng xấu bèn khuyên họ cực lực tu trì thì tướng ấy
sẽ biến đổi thành tốt”. Thầy thuốc còn phải đợi người ta mời rồi mới nói
được, chứ thầy xem tướng bất luận là ai vừa thấy mặt đều nói được. Tiếc
cho thầy xem tướng không có bản lãnh thật sự, chỉ biết cầu lợi, đến nỗi
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 288
cả đời trọn chẳng thành tựu được gì, chẳng đáng tiếc sao! (Hoằng Hóa
Nguyệt San số thứ 8 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời cư
sĩ Diệp Ngọc Phủ)
* Đức Phật là Đại Y Vương, trị khắp các bệnh nơi thân và tâm của
chúng sanh. Y sĩ trong thế gian chỉ trị được cái thân, dẫu cho y thuật cao
siêu, xét đến kết quả thì trọn chẳng có ích gì cho thần thức của người
bệnh ấy. Ông đã quy y Tam Bảo, phát Bồ Đề tâm, trị bệnh cho người, thì
trong lúc trị thân bệnh, hãy nên kèm vào cách trị tâm bệnh. Vì sao nói
vậy? Phàm những bệnh ngặt nghèo nguy hiểm, phần lớn là do sát nghiệp
trong đời trước hay trong đời này tạo thành, nhưng người có bệnh ắt phải
đoạn tuyệt chuyện ăn nằm mới chóng lành bệnh!
Muốn giảm sát nghiệp trong đời trước hay trong đời hiện tại, phải
kiêng giết ăn chay. Lại còn phải chí thành niệm Phật và niệm Quán Âm,
ắt bệnh sẽ mau được lành, vừa vun bồi đức, vừa gieo thiện căn. Nếu là
bệnh do oán nghiệp thì ngoại trừ cách này ra, chắc chắn khó thể lành
bệnh. Người ấy và cha mẹ, vợ con trong nhà do tâm gấp rút mong được
lành bệnh, chưa chắc không chịu hành theo. Nếu chịu hành theo, sẽ gieo
được thiện căn xuất thế. Từ đây sanh tâm chánh tín, sau này biết đâu do
đây sẽ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh thì đối với người ấy, đối
với ông đều có ích lợi lớn lao.
Đối với chuyện đoạn dục, hãy nên coi đó là cách trọng yếu bậc nhất
để trị bệnh. Bất luận nội chứng hay ngoại chứng, bệnh chưa được lành
lặn vẹn mười, muôn vàn chớ nên dính đến chuyện ăn nằm. Hễ nhiễm
vào chuyện ăn nằm, bệnh nhẹ sẽ thành nặng, bệnh nặng có thể bị chết
ngay, hoặc chẳng chết liền nhưng đã trở thành cái nhân ắt phải chết.
Muốn chẳng bị chết, cũng thật khó khăn lắm! Dẫu cho không chết, chắc
là trở thành kẻ bấy bớt, tàn phế, chắc chắn khó thể giữ được sức khỏe.
Chẳng biết là do chính mình chẳng khéo dưỡng sức, lại đổ hô “y sĩ
chẳng có bản lãnh thật sự!” Bất luận nam hay nữ (đối với gái trinh và bà góa
thì chẳng nên nói, còn những người khác thì không ngại gì), đều nên thẳng thừng,
đanh gọn, nói rõ chuyện lợi - hại để bệnh họ dễ được lành, nhờ đấy cái
danh của ông cũng được rạng rỡ. Thường là y sĩ chỉ biết trị bệnh, chẳng
nói đến chuyện kiêng kỵ cho căn bệnh, huống là chịu dạy người ta sửa
lỗi hướng thiện để vun đức tích phước ư? Đấy chính là tâm hạnh của kẻ
bán hàng rong chỉ mong cầu lợi ngoài đường, ngoài chợ, chứ không phải
là tâm hạnh cứu vớt người, khiến cho cõi đời đều được sống lâu, huống
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 289
hồ là có thể khiến cho người ta do bệnh tật sẽ được vô thượng lợi ích
“sống thì dự vào bậc thánh hiền, mất đi trở về cõi Cực Lạc” ư!
Cổ nhân nói: “Bất vi lương tướng, tất vi lương y” (Chẳng làm vị tể
tướng giỏi thì làm thầy thuốc giỏi). Do vậy, gọi vị y sĩ là “đại quốc thủ”.
Trong thế gian, y sĩ danh phận đã cao tột bậc, nếu kiêm dùng Phật pháp,
nhờ vào đó để độ chúng sanh, hành Bồ Tát đạo, thật là nghiệp quan
trọng nhất trong hết thảy các nghiệp. Do con người trong khi bệnh hoạn,
được nghe một y sĩ chẳng chuyên cầu lợi, có chí mong lợi người, phát
Bồ Đề tâm bảo ban, ắt có thể khiến cho bệnh được lành thì tự mình
chẳng thể sanh lòng chánh tín hành theo ư? Muốn gây lòng tin nơi người
khác, chớ nên tính toán [bệnh nhân sẽ] tạ lễ nhiều hay ít rồi sanh phân
biệt. Nếu với kẻ giàu bèn tích cực chữa trị, với người nghèo chỉ đãi bôi
cho xong chuyện, lâu ngày người ta sẽ vì y sĩ hám lợi mà khinh thường,
dẫu có nói những câu lợi ích kẻ khác, người ta cũng chẳng tin theo.
Lại hãy nên gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính,
chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành và nhân quả báo ứng
thấu suốt ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), sanh tử luân hồi trong sáu nẻo.
Có thể nói được với ai thì chẳng ngại gì hữu ý giả vờ như vô ý nhàn
đàm, khiến cho người nghe dần dần mở mang tâm địa, biết sanh tử luân
hồi đáng sợ, may là có pháp để liễu sanh thoát tử! Người làm được như
vậy thì thật sự có thể gọi là “dùng pháp thế gian để hành Phật pháp, dùng
trị bệnh nơi thân để chữa bệnh nơi tâm!” (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư gởi y sĩ Mã Tinh Tiều)
* Đã làm con người ta, làm cha người khác, hãy nên suy nghĩ ngọn
nguồn rốt ráo tới đường lối khiến cho cha mẹ ta, con cái ta rốt ráo được
an ổn, há chẳng tận lực khuyên lơn cha mẹ và con cái ta cùng tu Tịnh
nghiệp hay sao? Đây là luận theo phía người thân, nhưng hết thảy chúng
sanh đều là Phật tử, ta đã biết rồi, nỡ nào chẳng làm cho anh em trai, chị
em gái, thân thích, xóm giềng, hết thảy những người tiếp xúc ai nấy đều
được biết ư? Ông muốn quy y để mong vãng sanh, há chẳng phát ra
hoằng thệ để hành sẵn cái đạo tùy phận tùy lực độ người hay sao? 
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời tiên sinh Phí
Phạm Cửu)
* Đầy tớ gái của ông bệnh nặng, ông chăm sóc thuốc men, chữa trị.
Ông cùng con cái chăm nom miếng ăn thức uống, lành bệnh, do cảm
động chúng bèn ăn chay trường, đấy gọi là “dùng đức khuất phục người”
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 290
vậy. Cổ nhân nói: “Dĩ ngôn giáo giả tụng, dĩ thân giáo giả tùng. Quân
tử cư hương, dĩ thân suất vật, linh đức phục nhân, tương quán nhi thiện”
(Dùng lời lẽ để dạy thì bị tranh cãi, dùng thân để dạy thì người khác
thuận theo. Quân tử sống trong làng, dùng thân để làm gương lôi kéo
mọi người, dùng đức khiến người khác khâm phục rồi nhìn theo bắt
chước làm lành) chính là nghĩa này vậy.
Tiếc rằng người tin Phật trong cõi đời thì ít, kẻ báng Phật lại nhiều,
cho nên rất nhiều kẻ đời trước có thiện căn nhưng chẳng thể phát khởi
tịnh nhân đời trước, gội ân Phật sâu xa, để được là kẻ phàm phu triền
phược đầy dẫy mà ngay trong đời này nương vào Phật từ lực vãng sanh
Tây Phương liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh để dần dần đạt đến
viên thành Phật đạo! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Trương Giác Minh)
* Tần Xuyên chính là cõi đất hoằng dương Tịnh Độ của các đại sư
Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Phi Tích, Huệ Nhật208 v.v… xưa kia, hết thảy tứ
chúng xưa kia cũng đã gieo thiện căn sâu đậm, nhưng do từ sau đời
Đường hiếm có người hoằng dương pháp này đến nỗi túc căn chẳng thể
phát sanh tăng trưởng, đáng than thay!
Gần đây thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực, thiên tai dân
không lẽ sống. Người có tâm lo cho thế đạo đều cùng đề xướng Phật
học, bởi trong đời hiện thời nếu chẳng cực lực đề xướng sự lý nhân quả
báo ứng, sanh tử luân hồi… thì thiện không có gì để khuyên, ác không
 208 Huệ Nhật (680-748) là một vị cao tăng Tịnh Độ đời Đường, quê ở Đông Lai (tỉnh
Sơn Đông), từ nhỏ đã theo học với pháp sư Nghĩa Tịnh sau khi Ngài cầu pháp từ
Thiên Trúc trở về, tự thề sẽ noi gương thầy sang Ấn Độ. Năm Tự Thánh 19 (702), Sư
ngồi thuyền qua các quần đảo Côn Luân (nay là nhóm đảo Mã Lai, Nam Dương),
Phật Thệ (nay là Sumatra), qua Sư Tử Châu (Sri Lanka), rồi đến Ấn Độ, triều lễ
thánh tích, tìm cầu kinh điển bằng Phạn văn, tham phỏng các vị thiện tri thức suốt
mười ba năm không nề hà gian khổ. Qua gian khổ, ý nguyện nhàm chán Sa Bà, sanh
về Phật quốc yên vui càng sâu đậm, các vị Tam Tạng pháp sư mà Sư được tiếp xúc
đều nồng nhiệt khen ngợi Tịnh Độ A Di Đà thù thắng. Khi Sư đến nước Ma Kiệt Đà,
ở phía Đông kinh đô có một quả núi trên đó có tượng Quán Âm, Sư đến lễ thánh
tượng, nhịn ăn cầu nguyện, đến ngày thứ bảy mới cảm được Đại Sĩ hiện thân sắc
vàng, xoa đầu khai thị. Sư tiếp tục đi tham học nơi bảy tiểu quốc nữa, đến năm Khai
Nguyên thứ bảy (719) mới trở về Trường An, dâng lên tượng Phật và kinh điển.
Huyền Tông sắc tứ danh hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sư siêng tu pháp môn Niệm Phật,
hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ, biên soạn các tác phẩm như Vãng Sanh Tịnh Độ
Tập (3 quyển), Ban Châu Tam Muội Tán v.v…
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 291
có gì để phạt, muốn cho con người chẳng ăn nuốt lẫn nhau há có được
chăng?
Nếu chẳng đề xướng kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, trì trai, ăn chay
thì sát kiếp ngập trời làm sao dứt được? Nếu chẳng đề xướng giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm
các điều ác, vâng làm các điều lành thì phế kinh điển, phế luân thường,
phế hiếu, chẳng thẹn, tranh thành, giành đất, tàn sát lẫn nhau, những tà
thuyết bạo hành sẽ khiến cho nhân dân trong khắp cõi đời cùng mắc nỗi
khổ tử vong. Nếu chẳng đề xướng tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương thì lục đạo luân hồi ai có thể thoát được? Đây chính là lý do
những bậc quân tử hiểu lý đề xướng Phật học trong thời gần đây!
Phật pháp chứa trọn cương thường, luân lý thế gian, lại còn nói rõ
quả báo thiện ác do trọn hết hay không trọn hết tình nghĩa, bổn phận.
Quả thật là đạo trọng yếu để trị quốc bình thiên hạ. Những kẻ đố kỵ là vì
chẳng suy xét nghĩa lý, bài xích xằng bậy, nói nhân quả báo ứng, sanh tử
luân hồi đều là những lời Phật dối trá để bịp người! Do vậy, mọi người
đều coi nhân quả luân hồi là chuyện mông lung, khi gió Âu vừa thổi qua,
đều tranh nhau hùa theo. Nếu tin sâu nhân quả luân hồi, những tà thuyết
ấy dù có dữ dội đến mấy, làm sao gây mê hoặc rối ren cho được? 
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa trình bày duyên khởi của
Đôn Luân Liên Xã)
* Ngày Rằm mỗi tháng mọi người đều tụ lại, niệm Phật một ngày,
hễ thuận tiện bèn giảng diễn tông chỉ của pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu
những người tu trì hiểu thấu triệt tự tâm, chẳng đến nỗi miệng nói cầu
sanh Tây Phương mà lòng vẫn nhớ tưởng cõi này đến nỗi công phu sắp
thành nhưng vì mắc lỗi hiểu lầm [đến nỗi] mong thoát sanh tử mà vẫn
đọa luân hồi! Lại còn chỉ dạy cặn kẽ nhân quả, thuật đủ tội phước.
Phàm những ai tham dự liên xã đều phải giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng
hành các điều thiện, giữ gìn tám đức “hiếu, đễ, lễ, nghĩa, trung, tín, liêm,
sỉ”, dốc chí nơi tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ắt sẽ khiến cho Nho tông nhờ Phật pháp mà
được phục hưng, sự giáo hóa của Phật do hàng Nho sĩ mà được truyền
rộng rãi, bù đắp thiên kiến “trong lòng sùng phụng, ngoài mặt chống
trái”, tự lầm, lầm người của tiền nhân, dạy đời sau quy củ rộng lớn “sống
trong cõi trần học đạo, tự lập, lập người”. Ba người cùng đi ắt có [người]
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 292
là thầy ta; một ấp mười nhà, ắt có [nhà] trung tín. Ai cũng đều có thể là
Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật. Người ta là trượng phu,
mình cũng là trượng phu, chớ nên tự khinh rồi cam phận lui sụt, ngõ hầu
chẳng cô phụ Phật tánh sẵn có nơi tâm mình và đại pháp liễu thoát ngay
trong đời này! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký về chuyện
Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam
Thánh Điện)
* Luận về tài năng của các hạ, hãy nên theo như những gì Quang đã
nói thì lợi ích sẽ lớn lắm. Nếu không, hãy chọn lấy một chỗ vắng lặng
kín đáo để tận lực tu Tịnh nghiệp, đem học vấn, văn chương đã đạt được
trước kia vứt ra ngoài Đông Dương đại hải, nghĩ mình vốn là một kẻ vô
tri vô thức, trong tâm chẳng sanh phân biệt, ngày đêm sáu thời chuyên trì
một câu hồng danh thánh hiệu. Nếu có thể chết sạch được cái tâm mong
ngóng, ắt sẽ đích thân thấy được bản lai diện mục! Từ đấy, dựng cao
pháp tràng, khiến cho hết thảy mọi người đều cùng trở về biển pháp Tịnh
Độ, sống làm bậc thánh bậc hiền, chết dự vào hội Liên Trì thì mới chẳng
phụ sở học ấy, mới là bậc đại trượng phu chân Phật tử vậy! (Hoằng Hóa
Nguyệt San số 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời cư sĩ
Diệp Ngọc Phủ)
5. Khuyên nhủ nên sống trong cõi trần học đạo
* Khổng Tử dạy kẻ chánh tâm thành ý thì phải trí tri (thấu hiểu cặn
kẽ), [muốn] trí tri thì phải cách vật (trừ khử vật dục). Không “cách vật”
thì giống như đeo kính màu xanh, đỏ v.v… phàm những màu được thấy
đều chẳng phải là màu thật sự của nó. Do tâm có tư dục làm chủ nên chết
chìm vào một bên, chẳng thấy chân lý của sự việc, thấy điều đúng của
người khác trở thành sai! Phàm đối với những chuyện trị thế tu đạo đều
nên lấy lời này làm khuôn phép, đừng coi là hủ bại rồi xem thường! 
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Tịnh Chi)
* Vừa thông minh vừa có tài, sử dụng chánh đáng thì có thể mong
thành thánh, thành hiền, tạo công lập nghiệp; nếu sử dụng không chánh
đáng sẽ tự lầm, lầm người, đọa trong ba ác đạo! Thiên tai, nhân họa hiện
thời đại đa số đều do những kẻ thông minh có tài tạo nên. Nếu do trí huệ,
phân biệt được tà - chánh, hiểu rõ nhân quả, xuôi theo điều lành, tránh
điều dữ sẽ thành tài đạt đức. Có trí huệ thì tài năng sẽ giúp cho đạo,
không có trí huệ thì tài năng sẽ trái đức. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời ông Lý Thính Đào ở Hải Môn - 1)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 293
* Bí quyết “dùng sự khiêm tốn để thực hiện sự Thành Ý” nếu luận
trên hạng thượng căn thì được, còn đối với hết thảy những người thượng,
trung, hạ căn mà luận, hãy nên dùng trí tri, cách vật mới là lời luận định
khế lý, khế cơ tột cùng. Trí tri và cách vật theo kiểu họ Trình, họ Châu
đã nói muôn vàn chẳng thể nương theo được! Cần phải biết: Trí tri và
cách vật chính là căn bản để mong thành thánh thành hiền, bởi tri kiến đã
thiên lệch sẽ chẳng thể thành ý được!
Tri kiến bị thiên lệch là do trong tâm có nhân dục (lòng ham muốn
của con người) riêng tư, lệch lạc! Trừ khử được lòng nhân dục riêng tư,
lệch lạc ấy thì tri kiến sẽ tự chánh. Tri kiến đã chánh thì ý sẽ thành, tâm
sẽ chánh, tu được thân. Học vấn thật sự chẳng cần phải tỏ lộ nơi huyền
diệu, chỉ cần làm cho hết thảy mọi người biết phải thực hiện nơi đâu, họ
sẽ vui vẻ thuận theo. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Huệ Đạo)
* Con người ai nấy đều có thiên lương, nhưng khởi tâm, động niệm,
cư xử hoàn toàn chẳng thuận theo đạo lý. Ông ta vẫn chê người khác
chẳng tuân theo đạo lý, còn ông ta thì có đạo lý. Chỉ nội một niệm này
đã là chỗ thiên lương phát hiện đấy! Đáng tiếc là không ai chỉ điểm, lại
chẳng phản tỉnh tự trách nên trở thành hạng cuồng ngu. Nếu chịu hồi tâm
tự vấn, ắt sẽ hổ thẹn muốn chết, cảm thấy trong trời đất không có chỗ
nào cho ta dung thân! Từ đấy hằng ngày biết là sai trái, hằng ngày sửa
lỗi, sẽ thành bậc thánh, bậc hiền! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Viên Đức Thường -2)
* Tội lớn tầy trời chẳng thể cự lại một chữ Hối. “Thánh mất niệm
thành cuồng, cuồng khắc chế được niệm bèn thành thánh”. Tâm Nghiêu,
Thuấn, Phật, Bồ Tát và tâm chúng ta có cùng một giác thể; nhưng do
chúng ta nghịch tánh mà tu nên chìm đắm trong loài chúng sanh nghiệp
khổ. Ông đã biết sai, hãy nên tận lực sửa lỗi!
Đối với mọi chuyện, đều có thể tận lực sửa đổi sẽ đạt đến chỗ
không còn lỗi lầm. Nếu chỉ sanh lòng hổ thẹn tạm thời, rồi cứ lần chần
chẳng tự tu trì thì vẫn lặn hụp trầm luân trong biển tội nghiệp y như cũ,
không thể thoát ra được! Xin hãy đọc cặn kẽ các sách thì sẽ lần lần đạt
đến chỗ khá hơn, ngõ hầu chẳng đến nỗi sống uổng chết phí, sống như
gỗ, đá, cầm thú trong vòng trời đất, sống đã vô ích cho người, mà lại còn
có hại cho người! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời
thư cư sĩ Thang Văn Huyên - 2)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 294
* Ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật.
Những kẻ chẳng thể là Nghiêu, Thuấn, chẳng thể thành Phật là vì chẳng
lập chí mà ra! Không có chí sẽ chẳng sanh hổ thẹn, yên phận phàm ngu,
luân hồi trong tam đồ lục đạo cả kiếp dài lâu, không thể thoát được! Ông
đã phát lòng hổ thẹn, phát tâm mong thành thánh, thành hiền, học Phật,
học Tổ, cố nhiên là do thiện căn đời trước tạo thành. Hãy nên “mỗi ngày
một mới” để hoàn toàn vứt bỏ mọi ý nghĩ, hành vi chẳng chánh đáng
trước kia. Một nhát dao chặt đứt làm đôi, chớ có “dẫu lìa ngó ý còn
vương tơ lòng”, vương vấn, do dự, ắt đến nỗi chẳng mấy chốc lại quay
về nẻo cũ, vùi lấp trong mười thứ ác nghiệp y như cũ, khiến cho Phật
tánh “sáng tỏ Minh Đức” sẵn có đều bị chướng lấp chẳng thể hiển hiện,
dùng tư cách thành thánh, thành Phật để nằm tù Diêm La, đối diện ngục
tốt209, chẳng đáng buồn ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Trả lời thư cư sĩ Thang Văn Huyên – 2)
* Chồng bà Triệu Lãnh Cô bỏ vợ mê gái làng chơi, luận theo tình
cảm thế gian thì số mạng Lãnh Cô mỏng manh, bất hạnh; còn luận theo
Phật pháp thì thật là may mắn lớn! Nếu chồng chẳng ruồng rẫy thì tình ái
vợ chồng, con cái ràng buộc, suốt ngày bận bịu, càng khó niệm Phật cầu
sanh Tây Phương. Nay do chồng bỏ mà được chuyên tâm niệm Phật, để
đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn liền liễu sanh thoát tử, siêu phàm
nhập thánh. Lợi ích ấy hoàn toàn do bị chồng bỏ, hãy răn nhắc bà ta
đừng sanh lòng oán hận, mà hãy nên sanh lòng cảm kích. Lại nên đem
công đức niệm Phật của chính mình hồi hướng cho chồng, khiến cho ông
ta mau thoát khỏi nẻo mê, mau tìm lối giác. Có lòng dạ như vậy thì hai
lòng yêu - ghét đều chẳng thể sanh, niệm Phật càng được hiệu quả lớn
lao. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Vương
Thận Trai)
* Uống sữa bò thì không trở ngại gì, nhưng sữa cũng là lấy chất bổ
béo của bò để bồi bổ thân thể ta; do vậy, cũng không nên dùng. Đậu
nành, dầu đậu nành có nhiều chất bổ nhất, hãy nên thường dùng. Trong
cháo ăn điểm tâm nên bỏ thêm đậu nành đã xay vỡ. Với loại dầu để
thường ăn thì chuyên dùng dầu đậu nành, so với mỡ heo, [dầu đậu nành]
có nhiều chất bổ hơn, sao lại khổ sở đem tiền chuốc họa để mong được
bồi bổ ư? (Bởi ăn thịt sẽ mắc nợ giết chóc, nên nói là “chuốc họa”). Người ăn
mặn nếu chịu ăn chay chắc chắn ít bệnh, khỏe mạnh, bởi ăn thịt gây trở
ngại cho phép dưỡng sinh, ăn chay có tác dụng dưỡng sinh.
 209
Ngục tốt: Cai ngục, lính canh ngục. Ở đây là các quỷ sứ canh giữ địa ngục.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 295
Mắm tôm độc nhất, muôn vàn chớ có ăn, vì lúc làm, người ta đào
một cái hố to bên bờ biển, trong vòng năm sáu tháng, đánh bắt các loài
tôm và những thứ cá nhỏ, đổ vào trong hố, phơi dưới nắng gắt, cả hố trở
mùi, thối suốt mấy dặm210. Những loài ruồi, kiến, rắn v.v… ưa mùi đó
đều tự gieo mình chết ngủm trong hố. Đến khi mắm đã ngấu, bèn cà
nhuyễn, đựng trong sọt đem bán. Người ăn mặn coi như món hàng quý
báu, đáng thương quá chừng! Đây là do một vị Tăng trông thấy cách làm
kể cho Quang nghe. Ông đã ăn chay, nếu chẳng thể làm cho cả nhà ăn
chay thì bảo họ hãy bớt ăn [mặn] đi, chớ mua con vật còn sống về giết
trong nhà, trong nhà hằng ngày giết chóc sẽ trở thành chỗ giết hại, xui
xẻo lắm đấy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Bào Xung Sĩ)
* Bất luận thọ giới hay không thọ giới, đã quy y Tam Bảo, ắt phải
giữ năm chuyện ấy, chẳng dám vi phạm thì mới là đệ tử chánh tín của
Phật. Nếu do chưa thọ giới mà đối với năm giới ấy chẳng cần chú ý đến
thì còn chưa đáng là bậc chánh nhân quân tử, huống là đệ tử Phật?
“Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, hết thảy thiện pháp
đều nên tu, hết thảy ác pháp đều nên đoạn” chính là giới kinh đại lược
do Phật dạy.
Thế đạo hiện thời suy bại đến cùng cực vì thuyết “bài xích nhân quả
ba đời, lục đạo luân hồi, cho Phật pháp là lừa dối kẻ ngu, người tục” của
nhà Nho. Vì thế, nhà Nho đều chẳng lấy nhân quả ba đời, lục đạo luân
hồi để giáo huấn, đến nỗi điều thiện không được khuyến khích, điều ác
không bị trừng phạt. Đến khi gió Âu thổi qua đều ùa nhau theo. Nếu mọi
người đều biết có sự lý nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo thì đâu đến nỗi
tàn sát lẫn nhau, đến nỗi sát kiếp vĩnh viễn không có lúc chấm dứt! 
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư của cư sĩ Dương
Thọ Chi - 2)
* Kẻ thông minh dễ phạm nhất chỉ có sắc dục, hãy nên thường giữ
tâm kiêng sợ, đừng để nẩy sanh chút tà vọng nào. Nếu như ngẫu nhiên
khởi lên ý niệm ấy, liền tưởng: Mỗi một cử động của chúng ta, thiên địa,
quỷ thần, chư Phật, Bồ Tát không vị nào chẳng biết hết, thấy hết! Trước
mặt người khác còn chẳng dám làm quấy, huống gì là đối trước chỗ
 210 Đây là cách người Hoa làm mắm. Người Việt làm mắm hơi khác, nhưng cũng
theo một nguyên tắc dùng muối để làm cho cá, tôm phân hủy, lên men, và dĩ nhiên
các lu khạp làm mắm cũng không được giữ gìn sạch sẽ cho lắm!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 296
Phật, trời nghiêm túc cẩn mật, lại dám ôm giữ ý niệm tà vạy tệ hại và
làm chuyện tà vạy tệ hại ư?
Mạnh Tử nói: “Sự thục vi đại? Sự thân vi đại. Thủ thục vi đại? Thủ
thân vi đại” (Thờ ai là chuyện lớn? Thờ cha mẹ là chuyện lớn. Giữ gì là
chuyện lớn? Giữ cái thân là chuyện lớn). Nếu không giữ được cái thân,
dù có phụng dưỡng cha mẹ cũng chỉ là hình thức bề ngoài mà thôi, chứ
thật ra là coi rẻ di thể nhận từ cha mẹ, đấy chính là bất hiếu lớn lắm! Do
vậy, Tăng Tử lúc sắp mất, mới nói: “Phóng tâm vô lự” (Tâm thảnh thơi
không lo lắng).
Kinh Thi chép: “Chiến chiến cạnh cạnh, như lâm thâm uyên, như lý
bạc băng, nhi kim, nhi hậu, ngô tri miễn phù” (Dè dặt, đề phòng, như
vào vực sâu, đi trên băng mỏng, hiện thời, mai sau, ta biết tránh khỏi).
Chưa đến lúc ấy vẫn phải giữ lòng dè dặt, Tăng Tử còn như vậy, huống
gì lũ phàm tục, tầm thường chúng ta ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Từ Thư Dung)
* Con người sống trong thế gian, quý ở chỗ giữ bổn phận. Phàm hết
thảy những kẻ phát điên phát cuồng, thậm chí thường hay sanh lòng bi
quan, thường muốn tự sát, đều là do chẳng tu thật hạnh, muốn được đại
hạnh phúc, mọi chuyện đều như ý, tài, sắc, danh vị đều hơn người. Nếu
đời trước tu trì có si phước, được thỏa lòng mong mỏi ấy, bèn kiêu ngạo,
xa xỉ, dâm dật, không gì chẳng làm. Cái họa như thế so với chuyện tự sát
còn nặng gấp vạn lần! May là chưa đạt được, nên còn chưa đến nỗi khốc
liệt như thế! Ông muốn tiêu phiền não ấy, hãy nên mọi chuyện đều giữ
phận, chẳng nên dấy lên mảy may vọng niệm nào muốn vượt ngoài bổn
phận!
Hãy tùy duyên làm việc, nếu làm tôi tớ của người khác, ắt phải tận
hết chức phận tôi tớ của ta, chẳng lấy đó làm thẹn, và ôm giữ tấm lòng
“ta vốn chẳng có tư cách làm tôi tớ, nay được làm tôi tớ, ta phải tận hết
chức phận làm tôi tớ của ta”, chẳng sanh tâm hợm mình khinh người.
Chủ nhân biết đến ta, ta cũng chẳng vui. Chủ nhân không biết, ta cũng
chẳng bực. Ta trọn hết phận ta, biết hay không mặc người! Tâm không
so đo, lòng không uất ức. Làm tôi tớ như thế, chủ sẽ tôn kính như thầy,
chẳng dám coi như tôi tớ. Nếu vì ta khéo tận hết chức phận tôi tớ của ta,
người khác chẳng dám coi ta là tôi tớ, kính trọng ta như thầy, ta vẫn
chẳng khởi cái tâm tự cao tự đại, biết tớ hay thầy đều là giả danh, tận hết
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 297
chức phận của ta mới là thật hạnh. Chỉ sợ hạnh chẳng xứng với danh,
mặc kệ người ta đãi ngộ [như thế nào].
Bậc đại nhân thời cổ tuy gặp lúc cùng quẫn chẳng thể sống được,
cũng chẳng có ý niệm lo buồn, uất hận, dẫu cho sang quý như thiên tử,
giàu trùm thiên hạ, vẫn giữ thái độ như kẻ nông phu nơi rẫy bái. Đấy gọi
là “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”
(phú quý chẳng phóng túng, nghèo hèn chẳng đổi dời [ý chí], oai vũ
chẳng khuất phục), nên người quân tử vì vậy luôn thản nhiên, thảnh thơi!
Nếu không, kẻ tiểu nhân cứ thường phải lo nghĩ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ X…)
* Hiện thời thế đạo suy vi, tu hành tại gia tốt hơn, xuất gia đâm ra bị
nhiều chướng ngại, [phận làm] con cái đừng nẩy sanh ý tưởng xuất gia.
Trong đời Kiếp Trược này, cha ông chẳng biết nhất tâm niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương, cứ si dại muốn tham Thiền để minh tâm kiến tánh.
Nên biết: Những gì ông ta tham đó chẳng phải là Thiền mà chính là văn
tự tri kiến, có tham đến già cũng chẳng ăn nhập gì tới Thiền! Dẫu có
được lợi ích minh tâm kiến tánh thật sự nơi tham thiền thì vẫn cách liễu
sanh thoát tử rất xa. Bởi lẽ, phiền não Hoặc nghiệp chưa đoạn, ngộ thì
ngộ đấy, sanh tử vẫn sanh tử. Nếu nói minh tâm kiến tánh liền đạt được
không sanh tử thì đấy là sự nhận lầm lạc của gã đứng ngoài cửa và kẻ
Cuồng Thiền! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Trịnh Huệ Hồng)
* Pháp ấn tâm chẳng phải chỉ hạn cuộc tại chỗ ấy. Nếu có thể tuân
theo [lời dạy của Bồ Tát] Đại Huệ trong phẩm Đoạn Nhục [trong kinh
Lăng Già], phàm thấy hết thảy những sinh vật đều coi như cha mẹ, anh
em trai, chị em gái, vợ con, quyến thuộc thì môn ấy sẽ rộng mở, không
pháp nào chẳng nhập được! Nếu thật sự nhập được môn này (tức “tưởng
hết thảy sinh vật như ruột thịt, không ăn thịt chúng nó”) dẫu chưa đạt
được pháp ấn tâm, so với những kẻ đã đắc pháp ấn tâm kia nhưng chưa
chịu nhập môn này thì công đức cách biệt một trời, một vực! Bởi lẽ, một
đằng là hiểu xuông nhưng chẳng có tâm đại Bồ Đề, một đằng là thật
hành đạo Bồ Đề.
Vả nữa, đừng cho lời tôi là sai! Dẫu chưa đạt được tâm ấn của Phật,
của Tổ, nhưng đem công đức này hồi hướng vãng sanh, hễ được vãng
sanh liền lên thẳng [địa vị] Bất Thoái, thân cận Di Đà và thánh chúng, sẽ
đích thân chứng được tâm của Phật, của Tổ. Chúng sanh đời Mạt muốn
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 298
liễu sanh tử, chẳng lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm
chí hướng, sự nghiệp, tuy sở ngộ giống như Ngũ Tổ Giới (Ngũ Tổ là tên
chùa. Sư Giới thiền sư từng làm Trụ Trì chùa Ngũ Tổ ở Hoàng Mai nên cõi đời gọi
ngài là Ngũ Tổ Giới), Thảo Đường Thanh cũng chỉ được kết quả [thân sau
trở thành] Tô Đông Pha, Tăng Lỗ Công211. Đường sanh tử xa xôi, đời
sau, đời sau nữa, chẳng biết kết quả lại như thế nào?
Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp đặc biệt khế lý khế cơ trong cả
một đời giáo hóa của đức Phật, dưới là từ Ngũ Nghịch, Thập Ác, trên
đến Đẳng Giác Bồ Tát đều nên tu tập, đều có thể siêu phàm nhập thánh
ngay trong đời này. Tất cả hết thảy những pháp cao sâu huyền diệu khác
phần nhiều khế lý, nhưng trọn chẳng thể khế hợp khắp cả ba căn cơ
thượng, trung, hạ. Chúng ta từ vô thỉ cho đến tận đời này vẫn còn lưu
chuyển trong luân hồi, đều là vì trong những đời trước do ngu muội nên
chẳng dám gánh vác, hoặc do cuồng dại nên hoàn toàn chẳng tin nhận
mà ra!
Quang nói điều này [vì] sợ ông vẫn để chí nơi kinh Lăng Già, lấy
chuyện đắc tâm ấn của Phật làm chí hướng, sự nghiệp thì kết quả sẽ
giống hệt như Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh mà thôi! Ông đừng học
theo bậc đại thông gia, hãy chết lòng, trọn ý, tuân theo [lời dạy trong]
phẩm Đoạn Nhục tu Tịnh nghiệp thì chắc chắc có thể sanh về Tây
Phương được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Địch Trí Thuần)
 211 Tăng Lượng (1019-1083), tự Tử Nhân, người xứ Kiến Xương, Nam Phong (nay
là huyện Nam Phong, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời Bắc Tống, được
xếp vào Đường Tống Bát Đại Gia (tám văn gia, thi sĩ nổi tiếng thời Đường Tống).
Từ năm 18 tuổi, do theo cha du ngoạn, ông viết bài Du Tín Châu Ngọc Sơn Tiểu
Nham Ký, rất được giới văn sĩ thời ấy tán thưởng. Năm 20 tuổi, ông ngao du khắp
Trung Hoa, giao du rộng rãi với những danh nhân đương thời như Vương An Thạch
và Âu Dương Tu. Ông đỗ Tiến Sĩ năm 1057, làm quan đến chức Trung Thư Xá
Nhân, chuyên trách biên soạn sử liệu cho triều đình. Theo truyện ký, mẹ ông vốn là
phu nhân của Tể Tướng Tăng Dịch Chiêm, là một tín đồ rất hâm mộ Phật pháp,
thường cúng dường hòa thượng Thảo Đường Thanh rất trọng hậu. Khi Tể Tướng
Tăng Dịch Chiêm cáo lão hồi hưu rất vinh hiển, Thảo Đường Thanh sanh tâm hâm
mộ, bèn nói: “Lão tăng nguyện làm con của phu nhân”. Nói xong, không lâu sau bèn
viên tịch năm 70 tuổi, liền đầu thai vào nhà họ Tăng. Khi đó, phu nhân nhớ lại lời
Thảo Đường Thanh, cho người sang chùa hỏi thì quả nhiên hòa thượng mất đúng vào
lúc Tăng Lượng được sanh ra.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 299
* Các hạ đang độ tráng niên, lại có chí lớn, có thể tự phản tỉnh suy
xét, tự trách lỗi. Nếu có thể tự gắng sức chẳng ngơi thì sống sẽ dự vào
bậc thánh, mất sẽ lên cõi Như Lai là điều chắc chắn! Đừng coi đạt được
điều nhỏ là đủ, đừng nghĩ lỗi nhỏ không ăn nhằm gì! Đừng coi “tự tánh
Di Đà” là rốt ráo, rồi chẳng niệm đức Phật Di Đà ở Tây Phương, đừng
chỉ cầu đức Phật thầm gia hộ rồi đối với đức Phật do chính mình cảm
được trong tâm chẳng sốt sắng tu hành, thì đối với chuyện đạt được ba
mối đạo như Quang đã nói đó (tức đạo của cha, đạo của Khổng Mạnh và
đạo của Phật, của Tổ), xin chúc mừng các hạ trước!
Hơn nữa, thời thế hiện nay đã bại hoại đến cùng cực, nguyên do là
vì chẳng biết nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình. Muốn vãn
hồi thì hãy nên chú trọng hai pháp này, nhưng giáo dục trong gia đình
cần phải chú trọng nhất vào nhân quả báo ứng, vì nhân quả báo ứng có
thể chế ngự được lòng người. Ngoại trừ cách này ra, thực hiện bằng bất
cứ cách nào đều là hết thuốc chữa, vì tâm chẳng thay đổi thành tốt lành
thì một pháp vừa lập, trăm điều tệ chen chúc nhau nẩy sanh! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Trác Nhân)
* Phải nên dựa theo những gì kinh điển Tịnh Độ đã dạy để sanh
lòng tin, phát nguyện, chuyên tâm niệm Phật, quyết định sanh về Tây
Phương ngay trong đời này, trọn chẳng khởi tâm cầu phước báo nhân
thiên trong đời sau. Phật xem hết thảy chúng sanh như con một, hãy nên
kiêng giết, ăn chay, yêu tiếc sanh mạng loài vật, dùng điều này để tự
hành, lại còn dạy người. Phàm trong gia đình, cha mẹ, anh em trai, chị
em gái, thê thiếp, con cái, ngoài là xóm giềng, làng nước, thân thích,
bằng hữu đều nên nói cho họ biết về lợi ích niệm Phật: Đời này tiêu trừ
tai chướng, tăng trưởng phước thọ, mạng chung sẽ được Phật tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương.
Gần đây thế đạo loạn đến tột cùng, phàm những ai tin Phật, niệm
Phật, thường gặp dữ hóa lành. Họa hoạn hiện thời có tránh cũng không
thể tránh được, có ngừa cũng không thể ngừa! Nếu có thể chí thành niệm
Phật, sẽ âm thầm chẳng gặp phải tai họa! Có lợi ích to lớn như vậy, nỡ
nào chẳng cho cha mẹ, anh em v.v… của ta và hàng xóm, láng giềng
v.v… biết đến ư? Nhưng muốn cảm hóa người khác thì chính mình phải
thật hành mới được! Nếu chính mình tuy niệm Phật, nhưng đối với
chuyện giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, suy nghĩ, xử sự phần
nhiều chẳng đến nơi đến chốn, sẽ khó thể cảm thông! (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Kim Ích Bình - 1)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 300
* Thiếu niên học Phật thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận (tức là thật hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v…), dứt lòng tà,
giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tin sâu
nhân quả và luân hồi, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng
những điều này để tự hành, lại dạy cho người khác. Hễ hành rồi mà vẫn
còn thừa sức, sẽ nghiên cứu hết thảy kinh luận Đại Thừa và những trước
thuật của các bậc cổ đức Nho - Thích xưa nay. Lại phải hiểu biết, nắm
được cương tông, dùng điều đó để hoằng dương sự giáo hóa của đức
Phật, tiếp nối đạo của Phật, Tổ, thánh hiền. Đấy gọi là “do thực hành
nên học rộng, do học rộng nên hiểu được điều cốt lõi”. Như thế thì chắc
chắn sẽ được dự vào bậc thánh hiền trong đời này, lâm chung liền sanh
vào cõi Cực Lạc.
Nếu chẳng chú trọng tận lực thực hành, chỉ mong biết nhiều, thấy
lắm, ắt sẽ đến nỗi kiêu căng, khinh thường mọi thứ, bài bác nhân quả.
Người như thế thiên tư quả thật đủ để kế thừa người trước, mở đường
cho người sau học theo, nhưng do bước đầu tiên chưa từng kiểm điểm
thân tâm của chính mình, từ đấy càng đi càng xa, sai chỉ hào ly, lạc đi
ngàn dặm, rốt cuộc thành kẻ phá hoại đạo của Phật, Tổ, thánh hiền! Đấy
chính là chuyện đáng thương xót nhất của những kẻ thông minh xưa
nay! Chuyện này trong trăm người hết tám chín mươi kẻ mắc phải, khiến
cho người khác phải đau lòng tuôn lệ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời Thiếu Niên Phật Học Xã thuộc Phật Học Hội Vô Tích)
* Ông hãy dựa theo Gia Ngôn Lục, Văn Sao mà tu, cũng như
khuyên thê thiếp, con cái hãy đều dựa theo đó để thực hiện sự giáo dục
trong gia đình thì ông cùng với thê thiếp, con cái đều có thể dự vào bậc
thánh hiền trong khi còn sống, lên cõi Cực Lạc sau khi khuất bóng. Nếu
chẳng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng
thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì nền tảng đã
chẳng lập, dẫu có thể tu tập theo pháp môn Tịnh Độ như đã nói, rốt cuộc
khó đạt được lợi ích thật sự, bởi lẽ tâm chẳng tương ứng với Phật nên
chẳng thể đạt được lợi ích chân thật.
Nay đặt pháp danh cho ông là Đức Hậu, chỉ có đức dày thì mới
chẳng thấy “người sai, ta đúng; người hèn kém, ta cao trội; ta có thể lấn
hiếp người, người chẳng lấn hiếp được ta”. Như thế thì tánh hung bạo sẽ
tự nhiên tiêu diệt không còn chi nữa! Lệnh thê pháp danh là Đức Ôn, Ôn
(温) là khoan dung, nhân hậu, nhu hòa. Có thể khoan dung, nhân hậu,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 301
nhu hòa thì sẽ giúp chồng, dạy con, cai quản kẻ dưới chẳng đến nỗi hà
khắc, dữ dằn, bạo ngược, cũng như nuông chiều con mù quáng v.v… đủ
mọi khuyết điểm! Lệnh thiếp pháp danh là Đức Cung, cẩn thận giúp đỡ,
vâng thuận ý chồng và vợ cả thì gia đình êm ấm, hòa thuận, con cái bắt
chước theo. Lại dùng lòng chí thành, khẩn thiết niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, trọn chẳng có một tâm niệm lười nhác, đấy gọi là Đức Cung.
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2,
Thư trả lời cư sĩ Hác Trí Hy)
* Phàm có ai đến thăm, đều khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh
Tây Phương. Lại còn gặp cha nói Từ (nghĩa là dạy con noi theo đạo “hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” để hành, đấy gọi là Từ. Nếu nuông chiều chẳng dạy dỗ,
dạy cho con học thói hư hỏng thì gọi là Hại, chứ chẳng gọi là Từ được! Chuyện này
người đời trong trăm kẻ có đến chín mươi chín kẻ không biết. Vì thế, biến thành thời
thế tàn sát lẫn nhau này. Nếu như ai nấy đều dạy con đúng đạo thì thế đạo thái bình,
chẳng có người xấu. Những kẻ xấu đều là do cha mẹ chúng nó dưỡng thành, tiếc
rằng không có ai đề xướng, người biết quá ít, chẳng đáng tiếc lắm thay!), gặp con
nói hiếu, gặp anh nói yêu thương, gặp em nói cung kính, chồng hòa, vợ
thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, ai nấy trọn hết chức phận, sẽ là thiện
nhân.
Lại phải nói với phụ nữ (mà cũng nên nói với nam giới): Phải dạy cho
con gái tánh tình mềm mỏng, hòa hoãn từ bé, dẫu gặp chuyện không vừa
ý cũng chẳng nổi nóng. Tập quen thành tánh, chẳng những vô cùng có
lợi cho chính mình mà gia đình cũng được hòa thuận tốt lành, con cái ắt
sẽ chẳng chết yểu, tánh tình hiền thiện, nước nhà vui mừng có được hiền
tài.
Nữ nhân tánh tình quá nóng nảy sanh con phần nhiều bị chết hoặc
lắm bệnh. Bởi lẽ, hễ nổi đóa lên, sữa liền biến thành chất độc. Nóng giận
quá mức, cho con bú nó chết ngay lập tức. Bớt nóng hơn một chút thì
nửa ngày sau, một ngày sau nó mới chết. Hơi nóng giận thì con không
chết, nhưng chắc chắn cũng sanh bệnh. Đấy chính là sự lý nhất định
không thay đổi được! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 10 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 1, Thư trả lời sư Minh Tâm)
* Ông muốn lệnh từ vãng sanh Tây Phương, siêu phàm nhập thánh,
hãy nên dốc tận sức cúng dường, chí thành đảnh lễ, [phẩm vật dâng cúng
Tam Bảo] há nên chỉ có một lò hương, còn đèn đuốc, hoa theo mùa nhất
loạt chẳng dùng đến ư? Hơn nữa, ông lễ bái trong hôm bắt đầu [khai thất
niệm Phật cầu siêu cho mẹ], sau đó há nên chẳng chú trọng lễ bái nữa ư?
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 302
Hãy nên mỗi sáng lễ Phật ba lạy, hoặc lạy nhiều hơn, niệm A Di Đà
Kinh một biến, Vãng Sanh Chú ba biến hoặc bảy biến, niệm Kệ Tán
Phật xong bèn niệm Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại
Bi A Di Đà Phật (liền vừa đi nhiễu vừa niệm), [niệm] Nam Mô A Di Đà
Phật hoặc một ngàn câu, hoặc năm trăm câu rồi mới ngồi xuống niệm
nửa tiếng đồng hồ. Muốn lạy thì khi ngồi niệm xong [hãy lạy]. Lạy Phật
hai mươi bốn lạy hoặc bốn mươi tám lạy. Quán Âm, Thế Chí, Thanh
Tịnh Đại Hải Chúng mỗi danh hiệu ba lạy. Niệm bài văn phát nguyện,
hoặc niệm bài văn phát nguyện của ngài Liên Trì rồi niệm kệ phát
nguyện, hoặc niệm kệ trước, niệm bài văn của ngài Liên Trì sau đều
được. Xong xuôi, niệm Tam Quy Y, lễ Phật ba lạy, lui ra. Sáng tối đều
như thế.
Mỗi ngày ước định bốn thời [tụng niệm], hoặc sáu thời, chỉ bắt đầu
bằng niệm Kệ Tán Phật rồi niệm Phật giống như trên. Nếu chỉ thực hiện
lễ tụng trong một thất thì chẳng cần chú trọng lễ bái, nhưng nếu làm lâu
ngày mà lười nhác, lan man không chương trình, sẽ khó thể tinh tấn
được! Khi lễ bái chẳng cần phải niệm ra tiếng, chỉ niệm thầm trong tâm.
Khi nhiễu niệm hãy nên niệm ra tiếng, nhưng âm thanh chớ nên quá to
để khỏi bị tổn khí. Khi ngồi niệm nếu chẳng hôn trầm thì niệm thầm.
Nếu bị hôn trầm thì niệm ra tiếng rõ ràng. Bất luận niệm kinh, niệm
Phật, niệm chú Vãng Sanh đều phải tâm và miệng niệm cho rõ ràng,
rành rẽ, tai nghe cho rõ ràng, rành rẽ, chẳng để cho có hết thảy ý niệm
[khởi lên], giống như sắp chết, bất cứ chuyện gì cũng đều gác ra ngoài.
Mỗi phen ăn cơm, trước hết phải cúng Phật, cúng xong rồi mới ăn. Chớ
nên ăn quá no, hễ no sẽ hôn trầm. Nói đến nhất tâm thì không phải là
chuyên niệm một câu Phật hiệu mới có thể nhất tâm. Nếu tâm đã chịu
quy nhất rồi, dù niệm kinh, niệm chú, lễ bái cũng đều là nhất tâm.
Hơn nữa, trong bảy ngày ấy, khi ông ăn cơm, uống nước, đứng,
ngồi, chẳng gây trở ngại cho nhất tâm thì niệm kinh, niệm chú, lễ bái sao
lại có thể gây trở ngại cho nhất tâm được? Bảy ngày trước khi bế quan,
đừng nên ngủ chung với nữ nhân, phải nên ăn thuần đồ chay, đêm nằm
chẳng cởi áo, hoặc chỉ cởi áo ngoài, áo quần lót sát mình chớ nên cởi ra.
Phàm sau khi đại tiểu tiện phải rửa tay trước, chú trọng giữ tinh khiết.
Phàm là trẻ nhỏ, phụ nữ, đều nhất loạt chẳng cho tới212. Thùng dùng cho
 212
Để tránh tâm ái luyến bị khêu dậy, sẽ nhớ nhung họ trong khi bế quan niệm Phật,
không thể nhất tâm được!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 303
đại tiểu tiện nên để nơi phòng khác, chớ nên đặt trong căn phòng mình
đang ở. Trong vòng bảy ngày, nhất loạt chẳng gặp gỡ ai; ngay cả với
người hộ quan cũng chỉ dặn dò công chuyện một hai câu, lòng chẳng
được tùy tiện trò chuyện. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 10 - Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng)
* Con người cùng một cái tâm này, tâm cùng một lý này, chúng
sanh và Phật chẳng hai, thánh - phàm như một. Thánh nhân đạo Nho đạo
Thích là những bậc đã thấu hiểu “tâm của chúng ta giống hệt như nhau”
trước hết, thương xót chúng sanh vì mê hoặc nên chưa ngộ được [lý ấy],
chưa thụ dụng được. Do vậy, mỗi vị đều lưu lại ngôn giáo để dẫn dắt,
khơi gợi, mong sao ai nấy đều đích thân chứng được lý đó. Lại còn dùng
tiên giác để giác kẻ hậu giác. Nhưng đạo Nho chú trọng cách xử thế nên
chú trọng giảng về luân thường, đối với lý tột bực về tâm tánh bất quá
chỉ trình bày đại lược đầu mối mà thôi! Nếu có thể nghiên cứu Phật học
đến tột cùng, hễ có sở ngộ, lãnh hội thì ngay trong luân thường xử sự
hằng ngày sẽ không một điều nào chẳng thấm đẫm Nhất Chân, đâu đâu
cũng gặp nguồn. Vì thế, xưa nay những vị lập đại công, dựng đại nghiệp,
lòng tinh trung chói lòa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất, phần nhiều là
do học Phật đắc lực mà ra. Đó gọi là “chẳng biết đến Phật pháp sẽ
không thể nào biết đạo Nho được!” Chẳng biết đến cái hay của pháp
xuất thế sẽ không có cách nào xử thế trọn vẹn được!
Đạo Thích đặt nặng xuất thế; vì vậy, toàn bộ luân thường thế gian
và lẽ tột bực về tâm tánh mỗi mỗi đều nêu tỏ đến triệt để, tùy theo căn cơ
mà lập giáo, đối bệnh phát thuốc, ngõ hầu hết thảy chúng sanh ai nấy tùy
theo cơ nghi đều được lợi ích thật sự. Do đấy, gặp cha nói Từ, gặp con
nói Hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ
trung thành, mỗi mỗi đều dạy về nhân đời trước, quả hiện tại, nhân hiện
tại, quả đời sau, khiến cho con người có muốn làm ác cũng chẳng dám,
không muốn làm điều thiện cũng không thể được! Nếu ai nấy đều biết
nghĩa này, há luân thường chẳng được chỉnh đốn, thiên hạ thái bình ư?
Phật pháp dạy về Nhân Thừa, Thiên Thừa mà hiệu quả còn được
như thế ấy, nếu lại xét đến lợi ích của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
Phật Thừa, há còn có thể suy lường được ư? Điều đáng tiếc là Tống Nho
hẹp lượng! Do học Phật pháp, họ hiểu được tâm pháp của thánh nhân,
nhưng muốn suy tôn Nho giáo bèn ngược ngạo bài bác Phật pháp. Thật
ra, về căn bản, họ bài bác là vì muốn cho con người thành ý chánh tâm,
trọn hết tình nghĩa, bổn phận; nhưng nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 304
chính là thật lý, thật sự trong thiên hạ xưa nay. Nếu con người biết điều
này, há có dám trái tâm nghịch lý để chuốc lấy tội lệ đến nỗi tương lai bị
đọa vào chỗ chẳng vừa ý, ắt sẽ tự nhiên chánh tâm, thành ý, trọn hết tình
nghĩa, bổn phận! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho
tác phẩm Chánh Học Khải Mông Tam Tự Tụng Tề Chú)
6. Dạy cách tránh khỏi tai nạn do sanh nở
* Nữ nhân khi sanh nở thường đau đớn chẳng kham nổi, [nếu] mấy
ngày chưa sanh rất có thể bị mất mạng. Lại có người sanh xong bị băng
huyết, đủ mọi nỗi nguy hiểm, và con cái mắc chứng kinh phong chậm
hay gấp, đủ mọi nỗi nguy hiểm. Nếu nhằm lúc sắp sanh, hãy chí thành
khẩn thiết niệm ra tiếng rõ ràng “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Chớ
nên niệm thầm trong tâm, bởi niệm thầm tâm lực nhỏ, nên cảm ứng cũng
nhỏ. Lại do lúc ấy dùng sức đẩy đứa con ra, nếu thầm niệm thì rất có thể
do bế khí mà thành bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết niệm chắc chắn chẳng
bị đau đớn, khó sanh và băng huyết sau khi sanh, đứa con mắc các chứng
kinh phong v.v…
Dẫu cho khó sanh đến tột bậc, người đã sắp chết, hãy nên dạy sản
phụ ấy và những người chăm sóc chung quanh đều cùng niệm Quán Thế
Âm ra tiếng, người nhà dẫu ở phòng khác cũng đều có thể niệm, chắc
chắn công phu chưa đến một khắc liền được an nhiên sanh nở. Ngoại
đạo chẳng hiểu lý, chấp chết vào một pháp cung kính, chẳng biết căn cứ
vào sự để luận lý, đến nỗi những bà cụ niệm Phật coi sanh nở là chuyện
đáng sợ, dẫu là con gái ruột, con dâu cũng chẳng dám nhìn đến, huống
chi là dám dạy họ niệm Quán Âm ư?
Phải biết Bồ Tát mang tâm cứu khổ, lúc sắp sanh tuy lõa lồ, bất tịnh,
nhưng là chuyện không thể nào tránh được, chứ không phải là do cố ý
luông tuồng, chẳng những [niệm Quán Âm khi ấy] không có tội lỗi gì,
mà lại còn gieo được đại thiện căn cho cả mẹ lẫn con. Nghĩa này đức
Phật dạy trong kinh Dược Sư, chứ không phải là ý kiến ức đoán của tôi,
chẳng qua tôi chỉ đề xướng mà thôi! (Kinh Dược Sư nói về thệ nguyện công
đức Phật Dược Sư, cho nên dạy niệm Phật Dược Sư. Nhưng danh hiệu Quán Âm ai
nấy đều biết cho nên bất tất phải niệm Phật Dược Sư, cứ niệm Quán Âm cũng được).
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một Lá Thư Gởi Khắp)
* Nữ nhân từ mười hai, mười ba tuổi cho đến bốn mươi tám, bốn
mươi chín tuổi đều có kinh nguyệt. Có kẻ nói “trong lúc có kinh không
được lễ bái, trì tụng!” Lời ấy chẳng thông tình lý. Người có kinh ngắn
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 305
ngày thì hai ba ngày là hết, có người kéo dài đến sáu bảy ngày mới hết.
Người tu trì ắt phải niệm niệm không gián đoạn, lẽ đâu vì một tật nhỏ
trời sanh ấy để rồi bỏ bê việc tu trì ư?
Nay tôi nói: Trong lúc có kinh, chỉ nên lễ bái ít hơn (nên ít lễ bái, chứ
không phải là tuyệt đối chẳng được làm lễ), niệm Phật, tụng kinh đều theo như
lệ thường. Nên thường thay vải dơ (băng vệ sinh). Nếu tay sờ vào vải dơ,
hãy nên rửa sạch, chớ dùng tay đã chạm đồ dơ để lật kinh và thắp hương.
Phật pháp thì pháp nào cũng viên thông, ngoại đạo chỉ chấp vào lý ngoài
rìa. Người đời đa phần chỉ tin lời ngoại đạo, chẳng biết đến chánh lý
trong Phật pháp. Vì thế, khiến cho hết thảy đồng nhân chẳng thể được
nhuần thấm lợi ích nơi pháp. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Một Lá Thư Gởi Khắp)
* Ông ta lại từng thương xót siêu độ những cô hồn chết vì băng
huyết khi sanh nở. Nhưng đối với hết thảy nữ nhân cũng nên lập cách
sao cho họ vĩnh viễn không bị băng huyết khi sanh nở, khiến cho họ
được lìa khổ hưởng vui ngay trong đời này. Cách đó ra sao? Phàm là con
gái thì từ bé hãy nên niệm Phật và niệm Quán Thế Âm để cầu tiêu trừ
nghiệp chướng, tăng trưởng phước thọ. Nếu bình thời thường niệm sẽ tự
có thể tiêu diệt được tai nạn trong khi sanh nở này. Như đang lúc sanh
nở, vẫn nên chí thành khẩn thiết niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”
chắc chắn sẽ dễ sanh, chẳng phải chịu khổ. Nếu lúc bình thường hoàn
toàn chẳng niệm Phật và niệm Quán Âm, nhưng lúc sanh nở chịu niệm
thì cũng nhất định được sanh nở bình an. Nếu có ai khó sanh, hãy dạy kẻ
ấy niệm và những người săn sóc chung quanh cùng nhau niệm cho người
ấy, cũng quyết định liền được sanh nở bình an.
Chớ nói “đang khi sanh nở lõa lồ, ô uế, niệm [danh hiệu Bồ Tát] sẽ
bị tội!” Phải biết: Đấy là lúc liên quan đến tánh mạng, chẳng thể dùng
đạo lý lúc bình thường để luận định được. Lúc bình thường, phàm là
người niệm Phật nếu áo mũ không chỉnh tề, hoặc ngủ nghỉ, tắm giặt, đại
tiểu tiện v.v… chỉ nên niệm thầm trong tâm, chẳng nên niệm ra tiếng rõ
ràng. Còn khi sanh sản, chớ nên niệm thầm trong tâm, mà phải niệm ra
tiếng rõ ràng, bởi niệm thầm sức yếu, nếu trong tâm gắng sức sẽ rất có
thể bị bệnh. Niệm rõ tiếng thì hơi thở thông suốt, hết sức hữu ích, chớ
nên nói “niệm sẽ mắc tội!” Phải biết: Bồ Tát xem hết thảy chúng sanh
đều giống như con ruột. Nếu con cái ngã vào nước - lửa, cầu cứu cha
mẹ, cha mẹ nghe thấy liền cứu ngay, quyết chẳng vì lý do áo mũ không
chỉnh tề, thân thể không sạch sẽ mà chẳng cứu! Nếu lúc bình thường
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 306
cũng niệm giống như khi [vì chẳng đặng đừng mà phải] lõa lồ ấy thì tội
chẳng nhỏ. Cần phải luận theo sự, đừng chấp chết cứng!
Có kẻ chẳng hiểu lý, hễ trong nhà có người sanh nở, họ bèn lánh đi
nơi khác hơn cả tháng mới dám quay về, cho rằng hễ bị huyết tanh xông
nhằm thì những kinh, chú, Phật hiệu đã niệm từ trước đều trở thành
không có công đức gì! Những kẻ ngu ấy đáng thương xót tột bậc! Hãy
nên đem lời Quang bảo với khắp mọi người, ắt sẽ chẳng còn ai bị chết vì
sanh sản nữa! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Dương Huệ Xương - 1)
* Đối với đạo để cầu con, người ta thường trái nghịch. Ông muốn
có đứa con thân thể mập mạp, tánh tình hiền thiện, ba thứ phước - huệ -
thọ đều trọn đủ thì phải nghe theo lời tôi thì mới được thỏa lòng. Người
đời không có con liền cưới nhiều vợ lẽ, thiếp mọn, thường uống thuốc
tráng dương, thường ân ái. Đấy chính là cách để chóng chết, chứ không
phải là phương pháp để cầu con! Nếu may mắn sanh được con thì cũng
như trồng giống lúa lép, hoặc chẳng mọc được, hoặc có mọc cũng khó
thể đơm bông kết hạt.
Điều quan trọng bậc nhất là phải ngưng ân ái, hoặc nửa năm, tối
thiểu là một trăm ngày, càng lâu càng hay. Hãy nên nói rõ với vợ, đôi
bên đều giữ ý niệm này, mỗi người ở khác phòng. Nếu nhà không có
nhiều phòng, quyết phải nằm giường riêng. Lúc thường ngày trọn chẳng
tưởng vợ là vợ, hãy nên tưởng như chị em gái, chẳng khởi một tà niệm
nào! Đợi khi thân được dưỡng sức đầy đủ rồi, đợi cho vợ sạch kinh
nguyệt, cần phải nhằm lúc tiết trời trong sáng, nhằm ngày lành tháng tốt,
ăn nằm với nhau một đêm, ắt sẽ có thai. Từ đấy vĩnh viễn chấm dứt
chuyện ân ái, cho đến khi sanh con tròn một trăm ngày rồi mới có thể
tiếp tục ân ái.
Sau khi vợ thọ thai, nếu ăn nằm một lần, bọc thai sẽ dầy thêm một
lần, gieo nguy cơ thai độc một lần. Hoặc còn có thể vì lẽ đó mà tử cung
thường bị mở ra, chắc dễ bị sẩy thai. Những điều kiêng kỵ này nhiều
người không biết. Dẫu có kẻ biết cũng chẳng chịu tuân theo. Vì thế đến
nỗi chẳng sanh được con, hoặc con chẳng thành hình được, hoặc [sanh ra
đứa con] bấy bớt, đoản mạng. Họ chẳng biết do chính mình chẳng khéo
dụng tâm, ngược ngạo đổ hô vận mạng xui xẻo, ngược ngạo biến ăn nằm
thành chuyện thường xuyên, hằng ngày cứ làm, chẳng bị chết kể ra là
may mắn lớn!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 307
Lại phải giữ tấm lòng từ thiện, lợi người, lợi vật. Lợi người lợi vật
thì chẳng nhất định cần đến tiền, mà chỉ cần giữ tấm lòng tốt, nói lời
lành, làm chuyện tốt. Phàm những tâm, những lời, những chuyện không
lợi ích đều chẳng giữ, chẳng nói, chẳng làm! Đầy ắp bụng dạ là một khối
nguyên khí thái hòa, bừng bừng ý niệm vì chúng sanh. Lại còn phải chí
thành niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” (Hãy nên niệm theo cách này),
niệm càng nhiều càng tốt. Sáng - tối lễ bái, niệm bao nhiêu đó; ngoài ra,
đi - đứng - nằm - ngồi đều niệm. Lúc đi ngủ tuy vẫn niệm, nhưng phải
giữ lòng cung kính: Hãy nên mặc áo quần, đừng nên trần truồng. Hãy
nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng. Niệm thầm thì nếu nhiều chữ sẽ
khó niệm, có thể bỏ đi hai chữ Nam Mô, chỉ niệm năm chữ Quán Thế
Âm Bồ Tát. Chú Bạch Y niệm cũng được, không niệm cũng chẳng sao.
Ông giữ tấm lòng như thế, làm việc vẫn niệm, và bảo vợ cũng giữ
tấm lòng như thế, niệm trong khi làm việc, cho đến khi sanh nở vẫn
niệm. Lúc đang sanh nở chớ nên niệm thầm, phải niệm ra tiếng. Những
người săn sóc chung quanh đều nên lớn tiếng niệm giúp cho người ấy.
Đảm bảo không có những chuyện đau khổ, khó sanh. Chớ nên niệm
thầm trong khi sanh nở, vì [lúc ấy phải] dùng sức đẩy đứa con ra, nếu
niệm thầm chắc bị bệnh tổn khí.
Nữ nhân hễ cấn thai chớ nên nổi nóng. Hễ nổi nóng đùng đùng sẽ bị
sẩy thai; cũng như tánh tình ngang ngược, hung dữ ấy sẽ truyền qua đứa
con khiến cho tánh tình nó trở thành hung ác. Thêm nữa, khi cho con bú,
ắt phải tâm bình khí hòa. Nếu nổi nóng đùng đùng, sữa liền biến thành
chất độc. [Trẻ bú sữa ấy] nặng là chết ngay, nhẹ là nửa ngày hay một
ngày sau mới chết, quyết chẳng có trường hợp nào không chết! Nếu hơi
nổi đóa thì chất độc ít, tuy con chẳng chết cũng sẽ sanh bệnh. Vì thế, con
cái của nữ nhân ưa nổi đóa bị chết nhiều lắm, bệnh tật nhiều lắm!
Chính mình cho con bú hoặc mướn vú em cho con bú đều giống
như nhau. Hễ nổi nóng đùng đùng, muôn vàn chớ nên cho trẻ bú, trong
lúc ấy phải nên buông xuống. Đợi cho tâm bình khí hòa, qua nửa ngày
rồi mới cho bú. Lúc cho bú trước hết phải vắt sữa ra chừng nửa chén trà
đổ đi, lau chùi đầu vú rồi mới cho trẻ bú [thì trẻ] sẽ không bị họa ương
gì. Nếu trong tâm vẫn nóng giận bừng bừng thì cả ngày hôm ấy cũng
không được cho trẻ bú. Cho bú thì trẻ không chết cũng bị bệnh nặng!
Chuyện này sách y học xưa nay đều chưa chỉ rõ. Gần đây, do từng trải
mới biết mối họa này.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 308
Nữ nhân từ nhỏ phải học tánh nhu hòa, khiêm tốn; sau này sanh con
ắt nó dễ tính, ắt hiền lành, ắt chẳng bị chết, ắt chẳng đổ bệnh. Phàm con
cái chết từ lúc bé hay bệnh tật quá nửa là do mẹ nổi nóng mà ra, chỉ có
một số ít là chính mạng nó phải chết sớm. Thiên hạ xưa nay do sữa độc
giết hại con trẻ, chẳng biết bao nhiêu Hằng hà sa số, chẳng đáng buồn ư?
Do ông làm vui lòng cha mẹ nên tôi nói tường tận với ông. Hãy nên
khuyên mẹ ông ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Ông và vợ
ông cũng đều nên như thế. Mong hãy sáng suốt suy xét. (Hoằng Hóa
Nguyệt San số thứ 13 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời
cư sĩ Trương Đức Điền - 1)
7. Dạy về những chướng ngại do Lý Học gây nên
* Thiện căn của người đọc sách bị những vị tiên sinh bên Lý Học
đoạn dứt, nhưng các tiên sinh bên Lý Học đều trộm lấy những nghĩa lý
của Phật pháp để tự xưng hùng, lại sợ người đời sau học [Phật] bèn ra
sức bài xích hòng ngăn lấp hàng hậu học để họ chẳng biết đến Phật
pháp; nhưng làm sao ngăn trở được người có chút túc căn! Chẳng qua là
dùng mánh khóe ấy để người căn tánh trung hạ không cách nào đích thân
được gội nhuần pháp trạch vậy!
Nay tôi đặt pháp danh cho mỗi người trong bọn họ, xin hãy chia thư
ra giao cho họ, hoặc đem những ý chánh yếu trong thư này [viết lại gởi
đi] để mỗi người tự sao lấy. Không có hình chụp của tôi [gởi kèm theo],
chỉ mong [những người xin quy y hãy] lễ Phật, niệm Phật, dùng hình tôi
nào có ích chi? Cõi đời hiện thời đã loạn đến cùng cực, thiên tai nhân
họa không lúc nào nhiều hơn lúc này. Trong thời thế này, mọi người đều
phải phát tâm cảm kích, ai nấy phải nỗ lực tu đạo làm người trong luân
thường và ứng xử hằng ngày, kiêm tu pháp môn Tịnh Độ. Đấy gọi là “tu
chân ngay trong cõi tục, sống trong cõi trần học đạo, Phật pháp lẫn thế
pháp đều cùng hành”. Nếu trong những kiếp xưa chẳng gieo căn lành,
danh hiệu Phật còn khó được nghe! Nếu chẳng tích cực tu trì sẽ trở thành
lên núi báu trở về tay không, cô phụ ân Phật và tánh linh của chính mình
quá lắm! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ
Vương Đức Châu ở Vân Nam - 2)
* Bỏ nhân quả mà bàn về sự bình trị thì chẳng qua là trị lành đôi
chút căn bệnh ngoài da! Nếu là tâm bệnh thì ngược lại, bệnh càng tăng
trưởng, chẳng lẽ nào chữa lành bệnh cho được! Những người nói giọng
cao xa, cứ bảo “nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi chính là lời bàn luận
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 309
hư vọng để dối người của đức Phật” chẳng những không biết nhân quả
mà còn hoàn toàn u mê nơi chánh lý thế gian. Thánh nhân cùng lý tận
tánh, đức Như Lai đoạn Hoặc chứng Chân, đều chẳng ra ngoài nhân quả!
Nếu con người tin sâu nhân quả sẽ tự nhiên ý thành, tâm chánh, thân tu!
Họ dùng thành ý, chánh tâm, tu thân để làm căn cứ khiến cho đời
yên dân hiền, mong thành thánh, thành hiền, nhưng cực lực bài xích
nhân quả, luân hồi, chẳng biết “chỉ có sự lý nhân quả luân hồi là phương
tiện làm cho con người thành ý, chánh tâm, tu thân!” Đã không có nhân
quả, luân hồi thì có mấy ai chịu theo đuổi thành ý, chánh tâm, tu thân?
Muốn cho ai nấy đều thành ý, chánh tâm, tu thân, mà trước đó đã bài
xích phương tiện khiến cho con người không thể không thành ý, chánh
tâm, tu thân, chẳng dám không thành ý, chánh tâm, tu thân! Cái tội đã vu
báng bậc thánh đời trước, gây lầm lẫn cho người học đời sau, dù hết sạch
trúc cũng khó ghi trọn được! Họ vẫn tự kiêu là “đề cao điều chánh, trừ
bỏ lẽ tà, khiến đời yên dân lành”, đến nỗi xuất hiện những cảnh phế kinh
điển, phế luân thường, phế hiếu thuận, bỏ hổ thẹn, tàn sát lẫn nhau, dân
không lẽ sống v.v… đều là do sự bài xích nhân quả luân hồi ấy ươm
thành!
Nếu họ mộng thấy được cái họa ấy, dù có bị hình phạt tan xương
nát thân bức bách họ đề xướng bài xích, họ cũng chẳng dám làm! Huống
là do chỉ cầu lấy hư danh chẳng liên quan khẩn yếu mà lại dám làm ư?
Thật vậy, chúng sanh ác nghiệp sâu nặng, cảm phải học thuyết này,
nghiệp tăng nặng thêm, há chẳng đáng thương quá ư? (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho Bôi Độ Trai Văn Tập)
8. Dạy lẽ trọng yếu trong việc bố thí
* Tôi muốn cho các vị đều cùng phát tâm, tùy phận tùy sức cứu tế.
Có sức ra sức, không có sức thì dùng lời nói khuyên người có sức, đấy
cũng là chuyện tốt lành.
Lại nữa, nữ nhân hiện thời, đồ trang sức trên đầu, xuyến đeo tay,
hoa tai, nhẫn đều chớ nên đeo, hễ đeo sẽ chuốc họa. Nếu để lại cho con
cái sẽ gieo họa cho con cái. Nếu chết đi chôn theo ắt sẽ gặp nông nỗi đào
mồ lộ thây, nhục lắm! Nếu chịu [đem những món trang sức ấy] cứu trợ
tai nạn thì chính là “đưa họa đi, đón phước tới” vậy. Xin hãy bày tỏ ý
nghĩa này với hết thảy mọi người. Nếu hàng phụ nữ chịu bố thí như vậy
thì khoản tiền ấy lớn lắm! Đừng cho lời tôi là viễn vông, mà đây là lời
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 310
chí lý chí tình! Những người giàu có ở Cao Bưu, Thiệu Bá213 trước kia
có lúc nào chẳng nghĩ đến con cháu, chẳng chịu [bố thí] cứu tế chút nào,
nước lũ dâng lên, nhà cửa, đồ đạc, người nhà đều tan đàn xẻ nghé, mười
phần chẳng còn được một! Mỗi thôn mấy chục nhà tìm một cái nồi, một
cái lò cũng không ra!
Ông Tào Tung Kiều ở Dương Châu mua nồi, bếp, gạo, củi, cứ mấy
chục nhà biếu một cái nồi, dùng thuyền to chở đến. Trong mỗi thôn dùng
thuyền nhỏ để đưa tới. Nói đến [chuyện này] khiến người ta rơi nước
mắt. Có nhà chưa sập thì rắn lẫn rết đều cuộn đầy bên trên, người ta có
muốn vào nhà cũng chẳng dám vào. Trên cây cũng vậy, đáng thương vô
cùng! Nếu những phụ nữ vẫn muốn giữ những vật chuốc họa, chẳng chịu
dùng để cứu tế, e rằng đời sau họ cũng gặp phải tai họa này, không có ai
chịu cứu vớt! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
các cư sĩ Lưu Hán Vân và Dương Huệ Xương)
* Gần đây, có những phụ nữ tuy có những chiếc nhẫn đeo tay hay
xuyến vàng đã chê là lỗi thời, nhưng bảo họ đem đóng góp cứu trợ, nhìn
vào tình hình thì [thấy họ] vẫn không chịu bỏ ra. Ngày hôm qua, Đương
Gia chùa Linh Nham là thầy Diệu Chân đến nơi, toàn thể đại chúng
trong chùa giảm bớt tiền chi dụng, góp lại được hai trăm hai mươi tám
đồng, hôm nay đã gởi đến Tào Phủ để cứu trợ miền Giang Bắc.
Lần trước, sau khi Hán Khẩu mắc nạn lụt, Linh Nham đã đóng góp
hơn một trăm hai mươi đồng, gởi lên Thượng Hải giao cho hội Cứu Trợ
Thiên Tai Hán Khẩu. Sự bố thí của các sư có thể nói là trọn hết tấm lòng
không thiếu sót vậy. Những người có tiền trong cõi đời vẫn chẳng chịu
nghĩ thương những người dân bị tai nạn, đáng gọi là những kẻ si, uổng
công tích cóp tiền tài cho con cháu tiêu xài phí phạm! Đấy gọi là “vứt bỏ
công đức để chuốc lấy tội lỗi”, khiến người mắt sáng xót thương. Sợ
rằng người ấy đời sau nếu gặp phải tai nạn sẽ trọn chẳng gặp được người
khác cứu giúp, chẳng đáng buồn ư? Chẳng đáng xót ư? (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư các cư sĩ Viên Hiếu Cốc và Tào Tung
Kiều)
9. Dạy hãy giữ lòng trung hậu, khoan dung
 213 Cao Bưu, Thiệu Bá đều là những thành phố nằm ở phía Nam Trường Giang (sông
Dương Tử), thuộc địa phận tỉnh Giang Tô.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 311
* Ông muốn cầu Quang trừ căn bệnh của ông, nhưng đối với những
chữ [ông dùng] trong lá thư này, đúng là phải dần dần châm chước mà
xem mới hiểu được đó là chữ gì, mới hiểu thư nói về ý gì. Do vậy,
Quang biết ông chí lớn, ăn nói lớn lối, chứ tuyệt đối chẳng chú trọng tận
lực làm. Nếu yên phận chẳng khoe khoang, nào chịu nêu ra yêu cầu lớn
nhất, dùng những chữ hết sức khó nhận biết này, khiến cho người khác
phải tốn khá nhiều tâm tư để đọc thư của mình, vì mình lập cách giải
quyết nỗi sầu muộn cho mình!
Nếu ông có địa vị lớn thì hết thảy những lời phê phán không biết sẽ
choáng lộn, cầu kỳ đến đâu! Như chữ viết của ông Phùng Mộng Hoa,
viết mười bức thư có đến chín bức người khác chẳng nhận biết được
toàn bộ mặt chữ, đến nỗi con chết, cháu chết, đứa cháu nuôi để nối dòng
cũng chết, quá nửa là do chữ viết vậy. Ông đừng coi đó là điều lạ lùng,
đặc biệt!
Phàm viết chữ phải sao cho người ta vừa nhìn liền hiểu ngay thì
mới là cái tâm của vị đại quân tử vừa lợi người vừa tự lợi. Ông Phùng
gởi thư cho Quang, Quang phí rất nhiều công phu chỉ nhận được [mặt
chữ] tám phần. Quang viết lại cho ông ta, nói: “Thư của ông, Quang chỉ
đọc được tám phần, nhưng cũng hiểu ý. Nếu là người không thông thạo
mặt chữ cho lắm thì sẽ bị hư chuyện không ít! Mong từ rày đừng dùng
kiểu đó nữa để mong lợi khắp mọi người”. Về sau, ông ta viết thư cho
Quang, dùng lối chữ Khải, Quang cho rằng ông ta đã đổi thói quen. Hỏi
tới người khác thì ra ông ta vẫn giữ nguyên thói cũ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ X…)
* Hữu Trinh giữ lòng trinh, nhưng vẫn còn chú ý đến thuốc men,
đáng gọi là kẻ si! Những hành động sợ hãi, băn khoăn cho sự đói lạnh ấy
đều là do vọng tâm “đang hưởng phước mà không biết là có phước” gây
nên. Nếu chịu nghĩ: Giả sử ta sanh vào nhà nghèo túng, suốt ngày quanh
năm bận bịu cơm áo mà vẫn khó được thỏa nguyện thì chẳng muốn làm
người nữa hay chăng? Cổ nhân nói:
Tha kỵ tuấn mã, ngã kỵ lư.
Tồn tế tư lượng ngã bất như.
Hồi đầu hựu kiến thôi xa hán.
Tỷ thượng bất túc, hạ hữu dư
Tạm dịch:
(Người cưỡi ngựa, ta cưỡi lừa,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 312
Xét soi cho kỹ, ta thua xa người
Ngoảnh đầu thấy gã đẩy xe,
Nhìn lên thua kém, dưới ai bằng mình?)
Đây lời đề thơ cho bức tranh Hành Lạc. Trong bức tranh ấy, phía
trước là một người cưỡi ngựa, ở giữa là một người cưỡi lừa, phía sau là
một người đẩy xe. Nếu Hữu Trinh hiểu được ý này, nhất tâm cầu sanh
Tây Phương, sẽ lành bệnh si, chánh trí mở mang thì mới đáng gọi là Huệ
Trinh. Nếu không, sẽ thành Si Trinh! Trinh đã kèm theo si thì sanh về
Tây Phương cũng chẳng dễ dàng đâu! Chịu uống phương thuốc này thì
may mắn lắm! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời
cư sĩ Giang Hữu Bằng)
* Cổ đức nói: “Chẳng làm tướng giỏi, sẽ làm thầy thuốc giỏi” bởi
sẽ có thể giúp đời cứu người vậy. Kẻ vô tri chuyên dốc chí cầu lợi,
chẳng để ý đến kẻ nghèo, còn với kẻ giàu thì chẳng chữa cho lành bệnh
để mong được [gia chủ] tạ lễ nhiều tiền. Do giữ tấm lòng ấy, ắt bị trời
giảm phước thọ, con cháu ắt khó thể phát đạt; đời sau nếu chẳng bị đọa
trong ác đạo cũng là may mắn lớn, nhưng chắc chắn sẽ vừa nghèo vừa
bệnh, không thuốc chữa được! Nếu có thể coi bệnh của người khác như
bệnh của chính mình, kiêm khuyên bệnh nhân ăn chay niệm Phật để tiêu
nghiệp chướng thì người ta sẽ cảm lòng Thành, ắt sẽ tin nhận. Như vậy
là do chữa thân bệnh mà chữa luôn tâm bệnh, cũng như đại bệnh sanh tử.
Đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh sẽ có thể vĩnh viễn thoát khỏi
Ngũ Trược, cao đăng chín phẩm. Ảnh chụp [của Quang] chớ nên treo
cạnh ảnh Phật, hãy nên treo cách xa chỗ thờ Phật để khỏi mắc tội, tổn
phước. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 7 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,
quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Thí Trí Phù)
10. Dạy phương thức vận dụng luân thường một cách quyền biến
* Chuyện của vị tên X… nọ cố nhiên nên dùng tình để luận, chớ
nên cố chấp vào lẽ thường để đoán định. Sự việc xảy ra đã năm năm rồi,
cũng không sợ người ta thấy nghe. Người ấy đã cùng với người tên Y…
sống yên, chỉ nên để mặc. Nếu thật sự có lòng hiếu thảo, ắt sẽ thay cho
người ấy lễ Phật sám hối, cầu cho người ấy giác ngộ. Lúc đến thăm hỏi
nên khuyên người ấy niệm Phật, đây là dùng tình cảm. Nếu người ấy gặp
khốn khó thì chẳng ngại gì châu cấp. Buôn bán trái lẽ để sống, không thể
khuyên can được thì chuyện này lấy tình mẹ con làm chuẩn, chẳng thể
luận theo lẽ thường!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 313
Còn đối với ông Y… ấy cũng chẳng được coi như kẻ oán cừu, phải
“kính nhi viễn chi” mới là hợp lẽ. Nam nữ tuy khác, tâm niệm vốn đồng.
Trong đời, có những gã đàn ông trong nhà đã có thê thiếp, vẫn còn lang
chạ với phụ nữ của người khác ở bên ngoài, con cái người ấy chẳng thể
vì chuyện đó mà không coi ông ta là cha. Đối với người được cha
thương yêu, tuy chẳng thể coi như là mẹ, nhưng cũng chớ nên xem như
kẻ oán cừu. Coi như kẻ oán cừu tức là oán cừu cha! Sau này có thể dẫn
đến những cử chỉ báo oán, hành hung, vì thế hãy nên kính nhi viễn chi!
Sách Lễ Ký nói: “Phụ mẫu chi sở ái diệc ái chi. Phụ mẫu chi sở
kính diệc kính chi” (Cha mẹ yêu mến gì thì ta cũng yêu mến nấy. Cha
mẹ kính trọng gì thì ta cũng kính trọng nấy). Đối với chó, ngựa mà đều
còn như thế huống gì là con người? Chỉ cần chẳng sanh phân biệt, tận
hết lòng hiếu thảo của chính mình thì đối với thiên lý, tình người, lẫn
Phật pháp đều có thể chẳng trái nghịch. Mong hãy đem ý này nói với
người ấy. Người ấy sẽ trọn được lòng hiếu đôi bề, có thể khiến cho cha
mẹ sanh lòng chánh tín, cầu sanh Tây Phương, lấy niệm Phật làm
chuyện chánh. Chỉ nên quên đi chuyện cũ thì tình cảm mỗi ngày một
thân thiết, lời nói sẽ nghe lọt tai. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 3)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 314
X. Tiêu ưng độc kinh điển (Nêu lên những kinh điển phải nên đọc)
* Khiến cho kẻ sơ cơ lắng lòng niệm Phật, hãy nên dùng Tịnh Độ
Ngũ Kinh để dẫn đường, chẳng nên chỉ chọn một mình phẩm Hạnh
Nguyện trong Ngũ Kinh, hãy nên làm sao cho họ được đọc trọn khắp
năm kinh, lại còn dùng một phẩm Tịnh Hạnh để răn nhắc trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ thì họ sẽ tự hớn hở nơi đạo vậy. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa trình bày duyên khởi của việc in kèm phẩm Tịnh
Hạnh của kinh Hoa Nghiêm vào sau Tịnh Độ Ngũ Kinh)
* Tại núi Linh Thứu214 thuộc nước Ma Kiệt Đề, đức Phật nói ra
nhân địa lúc ban đầu của A Di Đà Phật: Bỏ nước xuất gia, phát ra bốn
mươi tám nguyện. Lại trải kiếp dài lâu, tu hành theo đúng lời nguyện,
cho đến khi phước huệ viên mãn, được thành Phật đạo, cảm được thế
giới trang nghiêm mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được, mười phương chư
Phật đều cùng tán thán. Mười phương Bồ Tát và hàng Nhị Thừa hồi Tiểu
hướng Đại lẫn phàm phu trọn đủ Hoặc nghiệp đều được vãng sanh, đều
được bình đẳng nhiếp thọ. Đấy là kinh Vô Lượng Thọ.
Trong vương cung nước Ma Kiệt Đề, nói ra ba phước Tịnh nghiệp,
mười sáu phép quán mầu nhiệm để hết thảy chúng sanh đều biết nghĩa lý
“Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh Biến Tri215 của chư
Phật đều từ tâm tưởng sanh; tâm này là chúng sanh, tâm này làm chúng
sanh, biển nghiệp phiền não của chúng sanh từ tâm tưởng sanh” đã
được nêu rõ ràng. Nếu có thể hiểu sâu xa nghĩa này, ai chịu bị luân hồi
 214 Linh Thứu (Grdhrakūta) dịch âm là Kỳ Xà Quật, thường gọi tắt là Linh Sơn,
Thứu Nhạc, hoặc Thứu Phong, nằm về phía Đông Bắc kinh đô Vương Xá của nước
Magadha. Do núi có hình giống đầu chim Thứu (kên kên), trong núi lại có nhiều
giống chim ấy nên thành tên. Tại tinh xá nơi núi này, Phật đã giảng rất nhiều bộ kinh
Đại Thừa.
215 Có hai cách hiểu chữ Chánh Biến Tri:
1) Chánh Biến Tri (Samyak-sambuddha), còn được dịch âm là Tam Miệu Tam Phật
Đà, hoặc dịch nghĩa là Chánh Biến Giác, Chánh Chân Đạo, Chánh Đẳng Giác,
Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc Chánh Đẳng Giác Giả, là một trong mười hiệu của
đức Phật. Danh hiệu này hàm nghĩa vị giác ngộ hiểu biết chân chánh trọn khắp hết
thảy các pháp.
2) Danh từ Tam Miệu Tam Bồ Đề (Samyaksambodhi) cũng được phiên dịch là
Chánh Biến Tri hay Chánh Biến Tri Đạo, chỉ cho sự chứng ngộ do hiểu biết chân
chánh trọn khắp bản thể của hết thảy các pháp.
Dựa theo mạch văn ở đây, chữ Chánh Biến Tri phải hiểu theo nghĩa thứ hai.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 315
oan uổng? Cuối kinh nói rõ cái nhân của chín phẩm vãng sanh ngõ hầu
ai nấy đều tu Thượng Phẩm. Đấy là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh.
Tại nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô [Độc], nói diệu quả của y báo
và chánh báo cõi Tịnh Độ để [thính chúng] sanh lòng tin, khuyên những
người nghe hãy nên phát nguyện cầu được vãng sanh. Lại dạy các hành
giả lập hạnh chấp trì danh hiệu. Ba điều Tín - Nguyện - Hạnh là cương
tông của pháp môn Tịnh Độ. Đầy đủ ba pháp này thì hoặc là suốt đời
chấp trì đã đắc nhất tâm, hoặc khi lâm chung mới được nghe, chỉ xưng
danh mười niệm, đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đấy là
A Di Đà Kinh.
Ba kinh này là những kinh chuyên giảng về Tịnh Độ, nhưng A Di
Đà Kinh thâu nhiếp căn cơ phổ biến nhất. Vì thế, các tông Thiền, Giáo,
Luật đều cùng vâng dùng làm kinh nhật tụng. Các kinh Đại Thừa nói
kèm về Tịnh Độ nhiều không đếm xuể, nhưng chương Đại Thế Chí
Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm quả thật là khai thị mầu
nhiệm nhất về pháp Niệm Phật. Nếu chúng sanh có thể nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm, há có ai chẳng thể trong hiện tại hay
tương lai nhất định thấy Phật, gần là chứng Viên Thông, xa là thành Phật
đạo ư?
Vì thế đem chương này xếp vào sau ba kinh; nối theo sau Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm để thành một đại duyên khởi cho pháp môn Tịnh
Độ khiến cho những người đọc sẽ biết pháp này tỏ bày thông suốt rộng
lớn bản hoài của đức Phật, so với các pháp cậy vào tự lực để đoạn Hoặc
chứng Chân hòng liễu sanh tử thì sự khó - dễ khác xa một trời, một vực!
Do vậy, chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn
kinh đều xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa tái bản Tịnh Độ Ngũ Kinh)
* Lời văn trong Văn Sao tuy vụng về, chất phác, nhưng nghĩa vốn
lấy từ các kinh luận Tịnh Độ. Đọc Văn Sao thông suốt rồi đọc các kinh
luận Tịnh Độ sẽ đều được hướng dẫn thuận dòng, thế như chẻ tre vậy.
Chớ nên xen tạp ý kiến nhà Thiền vào đấy! Hễ bị xen tạp thì Thiền cũng
chẳng phải là Thiền, mà Tịnh cũng không ra Tịnh, hai môn đều bị phá,
vô ích cả đôi bề! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Ngô Quế Thu)
* Trước hết hãy nên đọc Gia Ngôn Lục, rồi xem Văn Sao, rồi xem
Tịnh Độ Thập Yếu, sẽ biết rõ đại nghĩa Tịnh Độ. Nhưng cần phải tự lợi,
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 316
lợi tha, nên khuyên cha mẹ, anh em trai, chị em gái, con cái, thân thích,
bằng hữu, xóm giềng, làng nước đều cùng ăn chay, niệm Phật, cầu sanh
Tây Phương. Ông tu trì được như thế thì bảo đảm thân thể ngày càng
khỏe mạnh, tâm thần ngày càng định, chuyện tiền đồ đều thuận lợi. 
(Ấn Quang Pháp Sư Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngô Hy Đạo)
* Đọc kỹ Gia Ngôn Lục thì phương pháp tu trì và giáo huấn con cái
cùng đạo lý “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận” sẽ tự hiểu rõ. Sách
Sức Chung Tân Lương nói về lợi ích của việc trợ niệm khi lâm chung.
Lời tựa cho Đạt Sanh Thiên216 nêu rõ chuyện niệm Quán Thế Âm khi
sanh nở. Do hai chuyện sanh và tử là chuyện lớn nhất trong đời người,
nhưng nỗi khổ sanh nở quả thật là nỗi khổ lớn nhất của nữ nhân. Trước
kia, Quang chẳng nói đến chuyện này, sau này do biết chuyện khó sanh
rất đáng thương, nên đề xướng rộng rãi (Lúc sanh nở phải niệm ra tiếng. Nếu
niệm thầm trong tâm, chẳng những sức yếu khó thể cảm thông mà còn sợ rằng có thể
vì gắng sức mà đến nỗi bị tổn thương). Phàm những ai tuân theo mà niệm thì
không một ai chẳng được lập tức an nhiên sanh nở. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư sĩ Tạ Dục Hoài)
* Như tới lúc lâm chung, chớ nên làm theo cách làm của thế tục.
Nên đọc kỹ Sức Chung Tân Lương hòng khỏi đến nỗi làm hỏng đại sự
vãng sanh của cụ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi
cư sĩ Tạ Dục Hoài)
* Xem Gia Ngôn Lục thì tất cả lợi ích của pháp môn, pháp tắc tu trì
sẽ đều biết rõ từng điều. Thêm nữa, Một Lá Thư Gởi Khắp chính là nghi
thức, quy cách giản tiện để tu trì hằng ngày. Bài văn ấy văn từ tuy thiển
cận, nhưng lý thật thâm sâu, hãy nên dùng làm của báu gia truyền vĩnh
viễn. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Giang
Cảnh Xuân - 2)
* Thường xem Tịnh Độ Ngũ Kinh sẽ biết pháp môn Tịnh Độ là pháp
môn Tổng Trì để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nếu vẫn chưa bị thuyết phục, hãy nên
thường xem Tịnh Độ Thập Yếu thì mọi thứ nghi ngờ sẽ tiêu tan, vầng
trăng nhất tâm rạng ngời. Văn Sao tuy ngôn từ vụng về, chất phác,
 216 Đạt Sanh Thiên là một thiên sách nói về cách đoạn dục để dưỡng thai do cư sĩ
Cức Trai biên soạn, xin xem chi tiết trong “Lời tựa tái bản hai thiên sách Đạt Sanh và
Phước Ấu” được đánh số 37 trong phần Tự của Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 317
nhưng đã nêu tỏ đại lược về duyên do của Thiền và Tịnh, cũng như
những điều có ích cho luân thường trong cuộc sống hằng ngày, cũng có
thể giúp cho việc tự lợi, lợi tha. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư gởi cư sĩ Minh Quang)
* Kinh Kim Cang được rất nhiều người chú giải, [muốn tìm một
bản] gọn ghẽ, thoáng đạt, dễ đọc thì hãy nên thỉnh bản chú giải của Tông
Lặc217 để xem. Ý nghĩa kinh văn của phẩm Tịnh Hạnh218 pháp nào cũng
viên thông, chớ nên chấp chết cứng vào từng chữ, từng câu. Những đoạn
như “được thức ăn ngon, trọn thỏa ý nguyện, tâm không còn mong
muốn” đều bao gồm ý nghĩa đoạn Hoặc chứng Chân trong ấy. Nếu chỉ
hiểu là chuyện ăn uống thì hoàn toàn trái nghịch ý nghĩa của kinh mất
rồi. Còn như [bài kệ] “Sở tác giai biện, cụ chư Phật pháp” (việc làm đã
xong, đầy đủ Phật pháp), há chẳng bao gồm ý nghĩa vãng sanh Cực Lạc
trong ấy hay sao? Vì thế, đương nhiên phải tụng đúng theo kinh. Nếu
như ông nói, người niệm Phật đối với mỗi bài kệ trong phẩm Tịnh Hạnh
 217 Tông Lặc (1318-1391) là một vị Tăng thuộc tông Lâm Tế, sống vào đầu đời
Minh, người Thai Châu (nay là huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang), có hiệu là Toàn
Thất. Năm tám tuổi, Sư đã đến xin học với ngài Tiếu Ẩn tại chùa Tịnh Từ ở Hàng
Châu, 14 tuổi được xuống tóc, 20 tuổi thọ Cụ Túc. Do sở học tinh thâm, Sư cùng với
sư Như Phi soạn Lăng Già Kinh Chú Giải, Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải và Kim
Cang Bát Nhã Kinh Chú Giải. Sư còn soạn ra Tán Phật Nhạc Chương. Năm Hồng
Vũ thứ 10 (1377), Sư qua Tây Vực cầu pháp, thỉnh được các kinh Trang Nghiêm
Bảo Vương và kinh Văn Thù v.v… Khi về nước, Sư từng giữ chức Hữu Thiện Thế
quản nhiệm Tăng Lục Ty, tức cơ quan quản lý Tăng sĩ cả nước thời ấy. Do triều thần
ghen ghét, Sư bèn lui về ẩn cư tại Viên Thông Am cho đến khi mất. Bản chú giải
được Tổ Ấn Quang nhắc đến ở đây chính là Kim Cang Bát Nhã Kinh Chú Giải.
218 Tịnh Hạnh Phẩm là phẩm thứ bảy trong bản Bát Thập Hoa Nghiêm do ngài Thật
Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường. Trong phẩm này, Trí Thủ Bồ Tát hỏi Văn Thù Bồ
Tát về phương pháp giữ cho thân - ngữ - ý đều thanh tịnh, thù thắng, không bị hủy
hoại, không bị thoái chuyển, cũng như đắc các môn giải thoát tam-muội nhiễm tịnh
trí lực, túc trụ niệm trí lực v.v… Nhân đó, Văn Thù Bồ Tát liền dạy phương pháp
quán niệm trong mỗi hành động, chẳng hạn như: “Bồ Tát ở tại gia, nên nguyện
chúng sanh, biết tánh của nhà là không, thoát khỏi bức bách, hiếu thuận cha mẹ, nên
nguyện chúng sanh, khéo thờ đức Phật, bảo vệ, nuôi nấng hết thảy. Vợ con tụ tập,
nên nguyện chúng sanh, oán thân bình đẳng, vĩnh viễn lìa khỏi tham đắm…” Thậm
chí trong những hành động nhỏ nhặt như xỉa răng, súc miệng, tắm rửa, đi vệ sinh,
đều luôn quán tưởng. Những bài kệ trong Tỳ Ni Nhật Dụng đều trích từ phẩm Tịnh
Hạnh. Ba câu Tự Quy Y trong kinh Nhật Tụng cũng trích từ phẩm Tịnh Hạnh này.
Câu “được thức ăn ngon, trọn thỏa ý nguyện, tâm không còn mong muốn” được tổ
Ấn Quang nhắc đến ở đây chính là một phép quán niệm trích từ phẩm Tịnh Hạnh.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 318
đều nên sửa đổi, [làm như vậy] sẽ trở thành làm chuyện sai quấy, trái
nghịch kinh mất rồi. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư
trả lời cư sĩ Niệm Phật)
* Nay gởi cho ông Tịnh Độ Thập Yếu, Phật Học Cứu Kiếp Biên và
bức thư dài (tức Một Lá Thư Gởi Khắp). Y theo đó tu trì sẽ tự được lợi
ích thật sự. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư
sĩ Lương Huệ Đống)
* Tịnh Độ Thập Yếu là sách quan trọng nhất trong pháp môn Tịnh
Độ. Bản ấn hành lần này lại thêm vào mấy cuốn sách quan trọng, mấy
bài văn thiết yếu. Có được cuốn sách này y theo đó tu trì, ví như mặt trời
rực rỡ giữa trời, đi trên đường lớn của vua, tiến thẳng về phía trước, trọn
không lầm lẫn.
* Văn Sao là sách nhập môn Tịnh Độ, Thập Yếu là sách hết sức sâu
xa, thiết thực, [Tịnh Độ] Thánh Hiền Lục là gương sáng của cổ nhân đã
nêu. Có được những sách ấy thì còn thiếu thốn gì mà phải dùng một lá
thư để hỏi pháp nữa đây? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển
Thượng, Thư gởi cư sĩ Triệu Phụng Chi)
* Trong thời Càn Long đời Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh sai cháu trai
là Hy Tốc tập hợp, sao lục những câu chuyện vãng sanh Tịnh Độ, đầu
tiên thuật chuyện Phật Di Đà nhằm chỉ rõ đấng giáo chủ lập ra pháp môn
này. Kế đến là Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… nhằm tỏ rõ
thánh chúng xiển dương pháp môn này. Tiếp đó là tỳ-kheo tăng ni, vua
chúa, quan lại, thường dân, nữ nhân, các loài vật vãng sanh, nhằm kể ra
tứ chúng vãng sanh Tịnh Độ, tổng cộng hơn năm trăm người, đặt tên là
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Đấy chính là bộ Sơ Biên. Trong số ấy, dù
thánh hay phàm, dù trí hay ngu, đều cùng vào trong biển đại thệ nguyện
của đức Như Lai, rồi dần dần chứng được sự vui sướng trong cõi
Thường Tịch Quang. Nhìn từ chỗ này, biết pháp môn Tịnh Độ dường
như biển cả dung nạp khắp mọi dòng chảy, cũng giống như thái hư bao
hàm khắp vạn tượng. Chúng sanh trọn khắp pháp giới không một ai
chẳng được nhiếp vào đây! Các pháp trong khắp cả pháp giới đều do
pháp môn này mà đắc Thật Tế, bởi nó là pháp môn đặc biệt trong cả một
đời giáo hóa của đức Như Lai, là đạo tổng trì trọng yếu của tam thế chư
Phật.
Đến cuối niên hiệu Đạo Quang, cư sĩ Liên Quy Hồ Đĩnh tập hợp
[hành trạng của] những vị vãng sanh sau thời Càn Long được hơn một
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 319
trăm mấy chục người, [soạn thành sách] đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục Tục Biên. Vào đời Hàm Phong - Đồng Trị, giặc giã tràn lan, người
đề xướng ít ỏi, gần như quạnh quẽ.
Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, phàm những ai có
con mắt thông suốt, mang lòng cứu đời, không ai chẳng đề xướng nhân
quả báo ứng và pháp tín nguyện niệm Phật. Người có chánh tri kiến,
không ai chẳng thuận theo chiều gió. Vì thế, trong mấy chục năm qua,
lại tập hợp được [chuyện vãng sanh của] hơn hai trăm người nữa, đặt tên
là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên. Bản thảo này do thầy Đức Sâm
biên tập, nay đã sắp chữ xong. Vì thế, tôi thuật duyên khởi.
Khi xưa không có thuyền máy, xe lửa, bưu cục, tòa báo, tuy từng địa
phương ở sát cạnh nhau nhưng thường chẳng hay biết, cho nên thời cổ
pháp đạo hưng thạnh lớn lao, nhưng số người vãng sanh được ghi chép
lại trong một ngàn mấy trăm năm chỉ được mấy trăm người mà thôi! Một
là vì thiếu ghi chép, hai là vì sách vở xưa thất lạc. Nếu mọi chuyện đều
tiện lợi như ngày nay, dẫu cả mấy chục vạn vẫn chưa phải là nhiều!
Người đọc chớ nên đem xưa để luận nay, nghĩ chưa chắc đã đều là
chuyện thật; mà cũng đừng dùng nay luận xưa, cho là pháp [khi xưa]
chẳng hưng thịnh lớn lao! Hãy thử nghĩ ngài Thiện Đạo ở Trường An,
ngài Thiếu Khang tại Tân Định, tiếng niệm Phật vang khắp nẻo đường,
những người vãng sanh đương nhiên chẳng phải chỉ có trăm ngàn vạn
ức! Nay thì xa cách ngàn dặm, sáng vừa gởi đi, tối đã đến, lại thêm bưu
điện, báo chí; vì thế, tuy ngoài ngàn dặm thảy đều biết được liền. Nhưng
vẫn còn nhiều người [vãng sanh] chưa được ghi chép, nếu mỗi chuyện
đều chép, quả thật còn nhiều hơn thế nữa! Nguyện người trong khắp cõi
đời, ai nấy đều lấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà,
giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành làm nền
tảng, lấy “thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật cầu
sanh Tây Phương” để tu trì, thì sống sẽ là bầu bạn của thánh hiền, thác sẽ
vào cõi nước của Như Lai, lợi ích ấy nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể
nào biết được! Nguyện khắp những ai thấy nghe đều gắng công! (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục)
* Cuốn sách Chánh Tín Lục chuyên vì những Nho sĩ câu nệ mà viết
ra, nay cũng gởi đến, mong hãy đọc kỹ. Chịu tin sâu, tận lực làm thì sẽ
chẳng thẹn với trời đất quỷ thần, làm người hoàn toàn trong thế gian.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 320
Công danh phú quý vốn chẳng mong mà trời thường vì người lành, chắc
cũng chẳng đến nỗi trắc trở, khốn khó. Các con hãy khéo suy nghĩ thì
chẳng uổng cuộc đời này, uổng dịp gặp gỡ này! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Trả lời thư cư sĩ Ninh Đức Hằng và Ninh Đức Phục)
* Nay gởi cho ông một bộ Lịch Sử Thống Kỷ, hai cuốn Thọ Khang
Bảo Giám, ba cuốn Gia Ngôn Lục. Thống Kỷ thì ông tự giữ để biết [cõi
đời] bình trị hay loạn lạc, biết gương nhân quả. Thường xem Thọ Khang
Bảo Giám thì chẳng đến nỗi phạm tà dâm và thủ dâm v.v... tự hại cuộc
đời, tự hao phước thọ, chẳng bị tàn phế và chết chóc. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Từ Thư Dung)
* Sách Lịch Sử Thống Kỷ bất luận là người tin Phật hay báng Phật
đều chịu xem, bởi đó là những chuyện được chép trong sách sử. Dẫu kẻ
coi nhân quả là hư vọng, phô phang trống rỗng, ưa tỏ vẻ là bậc đại thông
gia trước mặt người khác, nếu đọc sách này, chẳng khỏi bị cảm hóa! So
với hết thảy các thiện thư thì sách này là thiết yếu nhất để đạt được lợi
ích thật sự. Tiếc cho con người chẳng để ý. Nếu để ý, kẻ ngu liền thành
trí, kẻ cuồng bèn thành thánh vậy. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật)
* Con người tánh vốn lành, do đối cảnh chạm duyên nhưng chẳng
ra sức kiểm điểm, xem xét, cho nên khởi lên các chấp trước tốt - xấu, đủ
mọi thứ tình kiến khiến bản tánh bị mai một, đều luôn là như thế. Do
vậy, những vị thánh nhân thời cổ vị nào cũng để lại ngôn giáo, mong cho
con người hành theo để trở lại [thuần thiện như] thuở ban đầu. Những lời
dạy ấy tuy nhiều, nhưng chẳng ngoài “cách vật trí tri, làm sáng tỏ Minh
Đức, ở yên nơi sự tốt lành tột cùng” mà thôi.
Trong chữ “cách vật” vừa nói đó, “cách” (格) giống như “cách đấu”
(格鬬 : trừ khử, chiến đấu), giống như một người chống lại muôn người;
“vật” (物) là phiền não, vọng tưởng, mà cũng là cái được gọi là “nhân
dục” (lòng ham muốn của con người) trong cõi đời. Chiến đấu với lòng
nhân dục vọng tưởng phiền não, ắt một phen phải đầy đủ ý chí chẳng
khiếp nhược thì mới có hiệu quả thật sự. Nếu không, tâm bị chuyển theo
vật, làm sao trừ khử vật cho được?
“Trí” (致) có nghĩa có là thúc đẩy, mở rộng đến cùng cực. “Tri”
(知) chính là lương tri “yêu thương cha mẹ, kính trọng anh” sẵn có của
chúng ta, chứ không phải do dạy dỗ, do học hành rồi mới có. Nhưng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 321
thường nhân trong xử sự thường ngày, nếu chẳng phản tỉnh, soi xét,
kiểm điểm, thì từ đấy sẽ bị vật chuyển, chắc là lương tri “yêu thương cha
mẹ, kính trọng anh” ấy cũng bị mất đi, còn mong chi thúc đẩy lương tri
ấy đến cùng cực để đối phó khắp vạn sự, hàm dưỡng tự tâm nữa ư? Do
vậy, thánh nhân muốn con người làm sáng tỏ Minh Đức, ở yên nơi chỗ
tốt lành tột cùng, bèn dạy con người chỗ thực hiện đầu tiên chính là
trước hết phải khởi sự từ cách vật trí tri. Công phu vừa nói ấy mầu nhiệm
không chi hơn được!
Nhưng muốn cho thường nhân y theo đó tu trì, phải có khuôn phép
đã hoàn chỉnh thì mới dễ được lợi ích. Ngũ Kinh, Tứ Thư đều là những
khuôn phép đã hoàn chỉnh, nhưng do lời lẽ mênh mông, lại còn rải rác
trong các sách, chẳng được tập hợp lại chia theo từng loại, hơi khó để bắt
chước theo. Kẻ chưa đọc nhiều sách càng chẳng thể nhờ vào đâu để vâng
theo những khuôn mẫu ấy. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên thâu tóm
những lý lẽ tột cùng “thuận theo [chánh đạo] thì tốt lành, trái nghịch thì
xấu, phước thiện, họa dâm”, thốt ra lời nghị luận rung trời rúng đất, mắt
nhìn vào, tâm kinh hãi: “Thế nào là thiện? Thế nào là ác? Kẻ làm lành sẽ
đắc thiện báo nào? Kẻ làm ác sẽ mắc ác báo nào?” đều thấy rõ cội nguồn
sáng tỏ như xem ngọn lửa, nhưng kẻ ngu chẳng chịu làm lành, cứ mặc
tình làm ác! Ấy là vì cái tâm tự tư tự lợi xui khiến như thế. Nay biết: Kẻ
tự tư tự lợi đâm ra sẽ đánh mất lợi ích lớn lao, mắc họa ương lớn lao, há
dám chẳng gắng sức lương thiện để mong họa diệt, phước nhóm ư? Do
vậy, bèn nói rằng: Sách này tạo lợi ích cho con người cũng sâu xa lắm.
Vì thế, bậc Đại Nho thời cổ phần nhiều đều ngầm tu tập theo sách này.
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Cảm Ứng Thiên
Trực Giảng)
* Đại sư Liễu Nhiên túc căn sâu dầy, từ lúc mới xuất gia bèn dốc chí
nơi Tông thừa, nhọc nhằn tận lực tham cứu, lãnh hội được chỗ chỉ quy.
Do những bài kệ của Thất Phật219 và ba mươi ba vị Tổ220 của Tây Trúc,
 219
Thất Phật là Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn Phật,
Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật. Sáu vị trước đều
là những vị Phật tại thế giới Sa Bà trong quá khứ. Những bài kệ truyền pháp của các
vị Phật này được chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.
220 Ba mươi ba vị Tổ là những tổ sư nhà Thiền, theo truyền thống Thiền Tông Trung
Hoa gồm 28 vị Tổ Ấn Độ và sáu vị tổ Trung Hoa (tổ Đạt Ma được kể là tổ 28 của
Thiền Tông Ấn Độ, đồng thời là sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa) gồm: 1) Ma Ha Ca
Diếp 2) A Nan 3) Thương Na Hòa Tu 4) Ưu Ba Cúc Đa 5) Đề Đa Ca 6) Di Già Ca 7)
Bà Tu Mật 8) Phật Đà Nan Đề 9) Phục Đà Mật Đa 10) Hiếp tôn giả (vị này do chưa
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 322
Đông Chấn (Trung Hoa) văn sâu nghĩa thẳm, thật khó thể lãnh hội, Sư
bèn chú thích rõ ràng, thêm vào một vài câu chữ khiến ý nghĩa càng
được sáng tỏ, bèn đặt tên là Phật Tổ Tâm Đăng.
Tiếp đó, Sư vân du các phương, nghiên cứu cùng tột kinh luận, mới
biết pháp môn Tịnh Độ quả thật là biển pháp rất sâu để chư Phật, chư Tổ
tự lợi, lợi người rốt ráo, hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu
xuất từ pháp này, không pháp nào chẳng quy hoàn pháp này. Do vậy,
sanh lòng tin chân thật, tận lực tu trì để mong được vãng sanh ngay trong
đời này hòng thỏa ý nguyện ban đầu, lúc nhàn hạ bèn nêu tỏ những lý
cốt yếu của Thiền và Tịnh, lời lẽ đích xác, thiết thực, khiến người khác
tỉnh ngộ sâu xa, đặt tên Thiền Tịnh Song Úc (Thiền và Tịnh cùng ra
công gắng sức).
Tuy đề xướng Thiền Tông, nhưng thật ra chú trọng Tịnh Độ ngõ
hầu người đã ngộ chứng lẫn kẻ chưa ngộ chứng đều cùng được liễu thoát
ngay trong đời này. Bạn của Sư là đại sư Đức Sâm muốn ấn hành lưu
truyền, cậy tôi thẩm định và thuật những ý nghĩa cốt yếu; do vậy, bèn
thâu tóm những ý nghĩa quan trọng để giãi bày. Điều đáng tiếc là văn tự
lẫn ý nghĩa [của hai cuốn sách ấy] hơi sâu, kẻ sơ cơ thông thường chưa
thể vừa đọc đã hiểu rõ được ngay, nhưng sách tiếp dẫn kẻ sơ cơ rất
nhiều, nên điều này vẫn chưa phải là điều đáng ân hận vậy. Tuy thế, sách
này cũng có thể khiến cho kẻ tham thiền nhưng chưa ngộ chứng sẽ có
được đạo để hoàn tất ngay trong đời này, có ích cho kẻ tu Thiền lớn lắm.
Nguyện những ai thấy nghe đều cùng sanh lòng tin tưởng. (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa lưu thông cho bản in gộp chung hai sách
Phật Tổ Tâm Đăng và Thiền Tịnh Song Úc)
* Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh biên soạn cuốn Phật Học Cứu Kiếp Biên,
dùng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện để sửa lỗi hướng lành, bỏ mê trở
về với ngộ, giữ ba nghiệp thân - khẩu - ý thanh tịnh, tu Tam Học Giới -
Định - Huệ để mong trừ khử vọng nghiệp vốn chẳng hề có, khôi phục
chân tâm vốn sẵn có. Lại còn dạy [người đời] tín nguyện niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương để vĩnh viễn lìa khỏi đời ác Ngũ Trược, thường hưởng
   bao giờ đặt lưng nằm xuống giường nên có tên như vậy) 11) Phú Na Dạ Xa 12) Mã
Minh Bồ Tát 13) Ca Tỳ Ma La 14) Long Thọ Bồ Tát 15) Ca Na Đề Bà 16) La Hầu
La Đa 17) Tăng Già Nan Đề 18) Già Da Xá Đa 19) Cưu Ma La Đa 20) Xà Dạ Đa 21)
Bà Tu Bàn Đậu 22) Ma Noa La 23) Hạc Lặc Na 24) Sư Tử 25) Bà Xá Tư Đa 26) Bất
Như Mật Đa 27) Bát Nhã Đa La 28) Bồ Đề Đạt Ma 29) Huệ Khả 30) Tăng Xán 31)
Đạo Tín 32) Hoằng Nhẫn và 33) Huệ Năng.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 323
pháp lạc Tứ Đức. Lại còn lấy mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát để làm chỗ nương về, ngõ hầu nương vào từ lực của Phật Di Đà và
nguyện luân của chính mình, tùy loại hiện thân trong mười phương các
cõi, dùng đủ mọi phương tiện độ thoát chúng sanh, khiến cho khắp mọi
hàm thức đều thành Phật đạo. Hư không có cùng tận, nguyện của ta vô
cùng. Đấy là công lao cứu vãn kiếp nạn đến cùng cực vậy.
Tục ngữ có câu: “Cứu người phải cứu tới nơi tới chốn”. Cứu như
vậy có thể nói là triệt để đến cùng cực! Nhưng đối với người chưa biết
đến chân lý Phật pháp thì thoạt đầu chẳng thể không dùng những sự tích
nhân quả nông cạn, gần gũi để khơi gợi tín tâm của họ. Đừng vì những
chuyện ấy nông cạn gần gũi mà chẳng muốn đọc rồi bỏ qua, thì sẽ tự đạt
được diệu đạo thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy
chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Nguyện khắp
những người cùng hàng ai nấy đều cùng gắng sức. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Phật Học Cứu Kiếp Biên)
* Quyển Khuê Phạm do tiên sinh Lã Thúc Giản đời Minh biên tập
vào năm Canh Dần tức năm Vạn Lịch 18 (1590) đời Minh. Do vậy, được
lưu truyền rộng rãi khắp nước, mọi nơi đều khắc bản, ấn hành. Gần đây,
sách bị thất truyền, con người không biết đến. Ông Châu Nghiệp Cần
tìm được trong tiệm sách cũ, cầm đưa cho ông Ngụy Mai Tôn coi. Mai
Tôn thấy quyển một trích lục những lời hay ý đẹp dạy dỗ nữ giới trích từ
Tứ Thư, Ngũ Kinh và các truyện ký. Quyển hai, quyển ba, quyển bốn
chép cặn kẽ ngôn hạnh của các hiền nữ, vợ hiền và mẹ hiền. Trước mỗi
chuyện có hình vẽ, sau mỗi chuyện có lời bình để mắt người vừa chạm
vào liền dấy lòng cảm kích, đua nhau bắt chước làm theo; thật đáng để
giữ yên phương Khôn221 hòng giúp cho đạo bình trị, phụ trợ sự dạy dỗ
trong gia đình, bồi đắp thêm cho oai nghi người mẹ, nên khôn ngăn vui
thích, tán thưởng!
Lý Kỳ Khanh nghe vậy, do bà vợ ông ta lúc còn sống đã tính lưu
truyền những thiện thư hầu giữ yên chốn khuê các, nhưng chưa được
toại nguyện, bèn tự đảm nhiệm in năm trăm bộ để hoàn thành chí nguyện
ấy, xin tôi đề tựa. Tôi nghĩ cuốn sách này vừa được in ra, ắt sẽ có đông
đảo bậc thục nữ anh liệt hưng khởi tấm lòng mong sao trọn hết phận
mình, hoàn thành thiên chức. Trên là noi bước hai bà Phi, ba bà Thái,
 221 Trong Dịch học, phương Khôn tượng trưng cho Đất, là quẻ thuần Âm nên thường
dùng để ví cho nữ giới và đạo làm vợ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 324
trong xử sự, luân thường hằng ngày, lo liệu, giúp đỡ, un đúc, giáo hóa,
dạy dỗ, ngõ hầu chồng lẫn con đều thành hiền thiện hòng [cõi đời] đạt
đến yên ổn tột bậc. Công đức ấy há thể diễn tả được ư? Do xét đến cội
nguồn như thế liền viết thành lời tựa. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa nêu duyên khởi in cuốn Khuê Phạm theo lối thạch bản)
* Về thứ tự tu trì thì nên lấy việc mở mang tri kiến của chính mình
để dẫn đường, dùng Tín - Nguyện - niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy vạn
thiện trang nghiêm làm Trợ Tu. Vì thế, [sách này] xếp Kim Cang Kinh
lên đầu, [rồi đến] Tâm Kinh, Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm, Đại Thế
Chí Niệm Phật Viên Thông Chương, A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Chú,
Niệm Phật Khởi Chỉ Nghi (nghi thức niệm Phật), Phát Nguyện Văn, và
các chú Đại Bi, Chuẩn Đề, hoặc kiêm trì các thứ, hoặc chuyên trì một
thứ đều nhằm để giúp cho sự tu trì Tịnh nghiệp ngõ hầu triệt ngộ “Ngũ
Uẩn vốn là không, các pháp chẳng có tướng”, hành khắp muôn hạnh
nhưng chẳng thấy tướng năng hành, chuyên chí niệm Phật mà hiểu rõ
“tâm làm, tâm là”.
Tu được như thế sẽ nhanh chóng ra khỏi đường mê, lên thẳng bờ
giác! Ấy là vì chúng sanh đời Mạt chướng sâu, huệ cạn, nếu chẳng cậy
vào Phật lực, thật khó thể giải thoát, bởi một pháp Niệm Phật chính là
pháp môn vô thượng thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết
thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh; so với hết
thảy những pháp cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu
sanh tử thì khác biệt một trời, một vực! Lại muốn cho sơ cơ hành nhân
biết sâu xa nguyên do của các pháp môn, hai chúng tại gia trong cuộc
sống hằng ngày và trong luân thường có thể dung thông cả Chân lẫn
Tục, trọn hết cả Phật lẫn Nho, nên bèn in kèm theo Cảm Ứng Thiên, Âm
Chất Văn, Giác Thế Kinh và những khai thị về tu trì Tịnh Độ để làm quy
củ, chuẩn mực hòng cải ác hướng thiện, hướng lành tránh dữ, siêu phàm
nhập thánh, liễu sanh thoát tử, ngõ hầu ngay trong đời này liền vượt ra
ngoài tam giới lục đạo, vào thẳng chín phẩm sen thất bảo. Nguyện
những người tu đều cùng ra sức chú ý. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa cho cuốn Nhật Tụng Kinh Chú Tuyển Lục)
* Phổ Môn Phẩm Đồ Chứng đáng để làm phương tiện khơi gợi lòng
ngưỡng cầu đức Quán Âm. Văn Sao, Gia Ngôn Lục, văn tuy chất phác,
vụng về, nhưng [qua những sách ấy] những điều trọng yếu để giữ thân
xử thế, trị gia, trị quốc, tu chân ngay trong cõi tục, sống trong cõi trần
học đạo đều có thể biết rõ. Nếu có thể thực hành thì tốt lành chi hơn?
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 325
Nếu chẳng thực hành, chỉ muốn bàn nói điều huyền lẽ diệu cho trơn
mồm bóng miệng thì lợi ích đạt được cũng chỉ là ăn nói lưu loát mà thôi!
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 3 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2,
Thư trả lời cư sĩ Dương Điển Thần)
Những câu đối do đại sư viết để tự khích lệ
a) Tất tương cách trí thành chánh thố kỷ cung, thị chân hào kiệt,
Bất dĩ thân tâm tánh mạng trí độ ngoại, nãi đại trượng phu
(Tận lực thực hiện cách trí thành chánh222, thật đáng bậc hào kiệt,
Gác bỏ chẳng màng thân tâm tánh mạng, mới xứng đại trượng phu)
b) Nhữ tương tử khoái niệm Phật, tâm bất chuyên nhất, quyết đọa địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh thượng nan cầu, vật vọng tưởng nhân thiên
phước quả,
Nhữ tương tử khoái niệm Phật, chí nhược chân thành, tiện dự liên trì,
Thanh Văn, Duyên Giác do phất trụ, định khắc chứng đẳng diệu viên
thừa
(Ông sắp chết hãy mau niệm Phật, tâm chẳng chuyên nhất, quyết đọa địa
ngục, ngạ quỷ súc sanh còn khó mong cầu, chớ vọng tưởng quả phước
trời người,
Ông sắp chết hãy mau niệm Phật, chí nếu chân thành, liền dự liên trì,
Thanh Văn, Duyên Giác vẫn chẳng muốn trụ, chắc chắn chứng viên thừa
đẳng diệu223)
c) Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, tâm cảnh câu quyên, trực đồng hạo
nguyệt cô viên, quang thốn vạn tượng,
Chứng đáo nhất trần bất lập, trí bi song vận, bất dị hạo thiên hạo đãng,
thể phú quần luân
(Soi thấy năm uẩn đều không, tâm cảnh đều mất, hệt như vầng trăng
vằng vặc, ánh sáng rọi trùm muôn vật,
 222 Cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý.
223 Bình đẳng, vi diệu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 326
Chứng đến mảy trần chẳng lập, trí bi cùng vận, khác nào mặt trời rực rỡ,
thể tánh che khắp mọi loài)
d) Niệm Phật phương năng tiêu túc nghiệp,
Kiệt thành tự khả chuyển phàm tâm
(Niệm Phật mới hòng tiêu túc nghiệp,
Kiệt thành sẽ tự chuyển phàm tâm)
e) Bế hộ cự lai nhân, thống niệm tử kỳ tương chí,
Chuyên tâm tu tịnh nghiệp, thâm tàm đạo nghiệp vị thành
(Đóng cửa chẳng tiếp ai, xót nghĩ thân này sắp chết,
Chuyên tâm tu tịnh nghiệp, thẹn thay đạo nghiệp chưa thành)
f) Trác lập bất di, thường sư Khổng thánh,
Hữu phi tất cải, nghi hiệu Cừ hiền
(Kiên quyết chẳng dời, thường tôn thờ Khổng thánh, Có lỗi bèn sửa, hãy
học hạnh Cừ hiền224)
g) Chứng đạo phương năng siêu lục đạo,
Minh tâm tự khả liễu tam tâm
(Chứng đạo mới hòng siêu lục đạo,
Minh tâm sẽ tự rõ ba tâm)
h) Đạo nghiệp vị thành, cảm sử thử tâm tán loạn,
Tử kỳ tương chí, lực từ nhất thiết ứng thù
(Đạo nghiệp chưa thành, há dám để tâm này tán loạn,
Kỳ chết sắp đến, tận lực từ tạ mọi thù tạc)
 224
Tức Cừ Bá Ngọc, người sống cùng thời Khổng Tử, nổi tiếng với câu nói “đến
năm tròn năm mươi tuổi, biết bốn mươi chín năm trước đều sai”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 327
i) Duyệt biến trần hoàn nguyên thị huyễn,
Nghiên cùng diệu tánh cấp quy chân
(Xem khắp trần gian đều huyễn ảo,
Xét cùng diệu tánh gấp quy chân)
j) Quả quá vị năng vi ngã hám,
Cư tâm vô ngụy nhậm nhân phi
(Bớt lỗi chưa xong, thường áy náy,
Giữ lòng không dối, mặc người sai)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 328
PHỤ LỤC
* Thư trả lời cư sĩ Trí Viên
(Phần đầu lược đi) Vãng sanh Tịnh Độ cố nhiên quý ở chỗ tu lâu,
nhưng chỗ đáng trọng chính là chí nguyện quyết định chẳng đổi dời!
Nếu suốt đời niệm Phật nhưng tâm thường mong mỏi phước báo nhân
thiên, dù có tinh tấn, nhưng tâm nguyện vẫn tham luyến cõi Sa Bà này,
còn mong chi được vãng sanh Cực Lạc? Vì thế biết: Tín Nguyện quả
thật là căn cứ lớn lao để chúng ta sanh về Tây Phương.
Cảnh tượng lúc lâm chung của ông Trương Đức Du rất tốt, một là vì
chính mình quyết chí, hai là được mọi người trợ niệm, may mắn không
có kẻ phá hoại. Hạng người này công hạnh rất cạn, nếu không được trợ
niệm, lại còn có kẻ phá hoại sẽ chẳng có hy vọng gì được vãng sanh.
Lâm chung trợ niệm rất tốt, nhưng lúc bình thường vẫn nên đem sự lợi
ích do trợ niệm trong lúc lâm chung, nỗi họa hại do bị kẻ khác phá hoại
[chánh niệm] nói với hết thảy mọi người khiến cho con cháu, quyến
thuộc đều giúp đỡ, chẳng đến nỗi phá hoại. Mời người khác trợ niệm thì
có khi người ta không thể làm được; nếu quyến thuộc biết rõ, lợi ích sẽ
to lớn lắm! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Trọn Bộ
(Hoàn tất cảo bản ngày 16 tháng 08 năm 2009 - Giảo duyệt hoàn tất
ngày 12 tháng 11 năm 2009)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 329



Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét