Phần 4 của cuốn Gia Ngôn Lục xin được tiếp tục gửi đến bạn đọc:
* Ngài Huyền Trang sanh vào năm Giáp Tý, tức năm Nhân Thọ thứ
tư (604) đời Tùy Văn Đế. Anh Ngài là Tiệp pháp sư cho Ngài đi xuất
gia, sống tại chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương. Năm 15 tuổi, do nhà Tùy sụp
đổ, Sư bèn đến Trường An, khi ấy nhà Đường mới thành lập, vẫn còn
nhiều chuyện chưa thể giải quyết xong, chưa rảnh rỗi để hoằng pháp
128 Hàn Ngụy Công chính là Hàn Kỳ (1008-1075), tự Trĩ Khuê, quê ở An Dương,
Tương Châu (tỉnh Hà Nam), là một văn quan đời Tống, cùng với Phạm Trọng Yêm
là những văn quan thống lãnh quân phòng ngự biên giới phía Tây, chuyên kháng cự
quân Tây Hạ xâm lăng Đại Tống. Về sau, họ Hàn làm Tể Tướng vào năm Gia Hựu
thứ ba (1058), rồi được Tống Anh Tông phong cho tước Ngụy Quốc Công.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 193
được. Ngài cùng với anh qua Thành Đô cầu học, chẳng bao lâu, tiếng
tăm lan xa.
Năm Vũ Đức thứ năm (622), Sư thọ giới Cụ Túc ở Thành Đô. Sư
tính lên kinh đô để mong nghe được những điều chưa từng nghe. Bị anh
giữ lại, Sư bèn lén ra đi, theo đường Tam Hiệp đến Hán Dương, tới
Tương Châu, theo đuổi chuyện cầu học, hoằng pháp. Sau đó đến Trường
An, muốn theo gót các vị Pháp Hiển, Trí Nghiêm, bèn kết bạn, dâng sớ
xin qua Tây Vực để cầu những kinh chưa có [tại Trung Hoa]. Thuở ấy,
cõi đời mới thái bình, Trung Hoa và ngoại quốc còn chưa qua lại, nên
vua hạ chỉ không chuẩn tấu.
Mọi người đều ngã lòng, riêng Sư chẳng khuất phục, vào tháng Tám
năm Trinh Quán thứ ba (629) bèn lén ra đi, suốt cả mười bảy năm mới
trở về Trung Quốc. Đến Vu Điền129, Sư liền sai người dâng biểu lên
Đường Thái Tông. Thái Tông ưu ái xuống chiếu đáp lời, lại còn hạ lệnh
129 Vu Điền (Kustana, Khotan), còn có tên là Hòa Điền, là một vương quốc cổ thuộc
Tây Vực, thuộc vùng trũng (bồn địa) Tarim, nằm trong miền Tây xứ Tân Cương
ngày nay, có quan hệ rất lớn đối với Phật giáo Đại Thừa. Kustana có nghĩa là Địa
Nhũ (sữa đất). Trung Hoa đã biết đến xứ này từ thời Tây Hán. Đời Hán Minh Đế,
năm Vĩnh Bình 16 (73), Ban Siêu từng đem quân tấn công Vu Điền, vua Vu Điền
chấp nhận trở thành chư hầu nhà Hán. Theo Đại Đường Tây Vực Ký quyển 20, xứ
này quá nửa là lũng cát, nhưng khí hậu ôn hòa, có nhiều bảo ngọc, sản vật phong
phú, dân chúng hòa hoãn, sùng mộ Phật pháp. Từ Ấn Độ vào Trung Hoa, phần lớn
phải đi qua xứ này nên tại đây giữ được rất nhiều kinh Phật.
Vào năm Thái Khang thứ bảy (286) đời Tây Tấn, ngài Kỳ Đa Mật Tề là người Vu
Điền đã dịch Quang Tán Bát Nhã tại đây. Ngài Chi Pháp Lãnh cũng tìm được bộ Lục
Thập Hoa Nghiêm tại xứ này. Cũng tại Vu Điền, vào thời Bắc Lương, ngài Đàm Vô
Sấm cầu được kinh Đại Bát Niết Bàn, Thư Cừ Kinh Thanh tìm được Thiền Pháp Yếu
Giải, Thiền Tông Bí Yếu Trị Bệnh Kinh; vào thời Tiêu Tề, ngài Pháp Hiến tìm đưọc
Quán Thế Âm Sám Hối Trừ Tội Chú Kinh. Vào thời Lương (548), ngài Cầu Na Bạt
Đà người xứ Vu Điền mang kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã từ Vu Điền đến
Trung Hoa. Đến đời Đường, ngài Thật Xoa Nan Đà là người xứ Vu Điền đã mang
Bát Thập Hoa Nghiêm sang Đông Thổ.
Đến thế kỷ thứ 9, vương triều Karakhanids (sử Trung Hoa gọi là Mặc Hãn vương
triều) tấn công, chiếm đóng Vu Điền, buộc dân chúng cải theo đạo Hồi, đạo Phật dần
dần suy vong, ngôn ngữ bị cải biến theo giọng của các sắc dân Đột Quyết (Turkic).
Sau khi vương triều Mặc Hãn bị diệt vong, Vu Điền lần lượt rơi vào ách thống trị của
Tây Liêu, Mông Cổ, rồi bị Càn Long nhà Thanh diệt quốc, biến Vu Điền thành một
châu huyện của Trung Hoa (năm 1759). Đến đời Quang Tự, Vu Điền bị đổi tên thành
huyện Hòa Điền, trực thuộc Khang Châu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 194
cho các quan chức có trách nhiệm dọc theo đường Sư sẽ đi đều phải hộ
vệ, đưa đón.
Sư nghe vua muốn hỏi tội xứ Liêu Tân, sợ trùng trình sẽ chẳng gặp
được [nhà vua] bèn lên đường đi suốt ngày đêm. Từ Lưu Sa đến Sa
Châu, đều do đường Cam Túc mà đến, vua sắc các quan chức có trách
nhiệm phải chuẩn bị nghi trượng nghênh tiếp. Đột nhiên Sư đã đến Tây
Tào của kinh thành, vị quan chịu trách nhiệm nơi đó không biết xoay trở
ra sao! (Do căn cứ theo hành trình mà chuẩn bị nghi trượng, nhưng vì Sư đi suốt
ngày đêm nên mới đón hụt). Từ đấy, hằng ngày Sư lo phiên dịch. Sự nghiệp
chưa hoàn tất đã tịch, lẽ nào có chuyện Ngài còn trở sang Tây Vực, đến
động Cửu Lão núi Nga Mi, gặp đức Thánh nói kệ, truyền dạy kinh ư?
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa bản tu chỉnh Nga Mi Sơn
Chí)
* Xem rộng khắp những bậc anh hiền lỗi lạc xưa nay, tài năng tót
vời, tại gia thì lập đại công, dựng đại nghiệp, thờ vua giúp dân, nêu
gương cho hậu thế, xuất gia thì triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh tạng,
dạy dỗ lợi lạc trời - người, nối tiếp huệ mạng của Phật thì đều là do đức
hạnh cao đẹp của ông bà cha mẹ cảm thành. Nếu không, làm sao sanh
được con cháu hiền tài siêu quần bạt tụy, giúp đỡ hết thảy như vậy được
ư?
Người ta chỉ thấy quốc sư Ngọc Lâm đạo đức cao vời, ngộ chứng
sâu thẳm, trên cảm động cửu trùng130, dưới hóa độ tứ chúng, Phật tổ, tâm
ấn, đại pháp chiếu khắp nhân quần, sống tươi chết héo131, khuôn mẫu tốt
đẹp lưu lại đời sau, chẳng biết đấy đều là do ông nội và cha mẹ Ngài đã
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi người, giúp vật, dốc lòng tin
tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người mà ra!
Xét ra, Sư có họ ngoài đời là Dương, thuộc dòng vọng tộc ở Diên
Lăng (thuộc tỉnh Thiểm Tây), đời nào cũng có người hiển đạt, cha húy là
130
Cửu trùng (chín tầng, chín bệ) chỉ hoàng đế. Theo Dịch học, từ những con số của
Hà Đồ và Lạc Thư, những con số thuộc về Trời là 1, 3, 5, 7, 9. Như vậy thì 9 là con
số Dương lớn nhất. Vì thế, con số 9 được dùng để tượng trưng cho ngôi vị cao cả
nhất, sáng đẹp nhất. Do vậy, nhà vua được gọi là Cửu Trùng (chín bậc). Từ ý nghĩa
này, những hào dương trong quẻ Dịch cũng được gọi là Cửu.
131 Đây là một cách nói thông dụng trong Phật môn Trung Hoa, ngụ ý sống chết
thuận theo lẽ tự nhiên, thung dung tự tại, như cây cỏ đã chết thì phải khô héo, hễ còn
sống thì tươi tốt.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 195
Phương, tuổi ngoài ba mươi vẫn chưa có con. Người trong họ là Dương
Hưng bị thổ hào132 vu hãm, sắp đến nỗi phải chết. Ông nội Ngài bảo cha
Ngài vào triều kêu oan, quan liền thả Dương Hưng, đánh đòn thổ hào.
Thổ hào ôm hận, không lâu sau, trong ấp bắt được kẻ gian, giải lên quan
xét án. Gã thổ hào thừa dịp ghi tên ông nội Ngài vào sổ, quan xét án rất
nghiêm khắc, tàn khốc, truyền bắt giữ khẩn cấp. Chú Ngài và cha Ngài
tranh nhau chịu tội thay, cha Ngài không chịu nhường liền tự đi. Quan
xét án rất ghét kẻ chịu tội thay, thường dùng hình phạt quá đáng để giết
chết. Ngày hôm ấy đã giết chết liên tiếp mấy người rồi! Đến phiên cha
Ngài liền gào to: “Tôi chịu đòn thay cho cha tôi”, quan xét án nghe tiếng
cảm động vô cùng, xét hỏi cặn kẽ, biết là bị vu cáo bèn thả ra.
Tháng Tư năm ấy, tức năm Giáp Dần thuộc niên hiệu Vạn Lịch 42
(1614) đời Minh, liền sanh ra Sư. Lúc sanh, bà mẹ là Mậu Thị mộng
thấy Quán Âm ẵm một đứa bé trao cho, liền sanh ra Sư. Thêm nữa, cha
mẹ Sư thường giảm bớt sự chi tiêu của chính mình để mua những con
vật đem phóng sanh. Cha mẹ Sư hiếu hữu, nhân từ như vậy đó!
Năm sau, cha Sư quy y với đại sư Liên Trì, có pháp danh là Quảng
Phức, cũng xin quy y cho Sư, được pháp danh là Đại Tiềm. Đến năm
mười hai tuổi, lúc cha Sư sắp mất, bèn đối trước tượng ngài Liên Trì, cầu
cao tăng thay mặt [cho đại sư Liên Trì] xuống tóc, thuyết giới [cho cụ];
nửa tháng sau cụ mất. Năm mười chín tuổi, Sư lễ ngài Khánh Sơn xin
xuất gia. Chưa đầy hai năm đã đại triệt, ngài Khánh Sơn rất coi trọng,
dặn dò Sư hãy xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, đặt pháp danh là Thông
Quang.
Năm Sư hai mươi hai tuổi, ngài Khánh Sơn thị tịch tại chùa Báo
Ân. Sư giữ tâm tạng hầu bên khám thờ, cũng như trông coi việc chùa.
Năm sau, tăng tục thỉnh Sư kế vị, trăm điều đã bỏ phế đều được tiến
hành, tông phong chấn hưng lớn lao. Năm Sư hai mươi chín tuổi, tuân
theo di mạng của ngài Khánh Sơn, Sư thay ngài Khánh Sơn xuống tóc,
thuyết giới cho mẹ, lại đón về chùa Báo Ân, dựng nhà tranh để phụng
dưỡng suốt đời, gọi là Đại Từ Lão Nhân. Bà cụ chuyên tu Tịnh nghiệp,
kiêm tu tham cứu, liền được đại ngộ.
Mười một năm sau, tức năm Sư bốn mươi tuổi, nhằm năm Thuận
Trị thứ mười (1653) đời Thanh, Đại Từ Lão Nhân thị tịch, thọ bảy mươi
132
Thổ hào: Kẻ có thế lực tại một địa phương.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 196
mốt tuổi. Sư ở trước khám thờ ngồi xếp bằng trên mặt đất suốt bảy ngày
đêm, chẳng đụng đến một hạt gạo! Một thị giả đứng cạnh Sư suốt bảy
ngày đêm đến nỗi chân và đầu gối nước vàng chảy ròng ròng, vẫn chẳng
tạm rời đi. Đại chúng chùa Báo Ân thấy Sư đau buồn quá mức, muốn
khích cho Sư ăn uống liền niêm phong nồi, đóng chặt bếp. Sư nghe [nói
như vậy] liền húp cháo, bảo mở nồi ra.
Sư đã xuất gia mà còn đau buồn như thế, hiếu tử trong thế gian
cũng chẳng hơn được! Nhưng Sư làm cho mẹ ngộ đạo thì hiếu tử trong
cõi đời có ai làm được như vậy đâu? Sư nghĩ đến ân của phụ sư, mẫu
sư133 tính tìm một cuộc đất thích hợp để an táng hòng báo ân sâu dưỡng
dục, dạy dỗ. Tìm được một cuộc đất ở Ngữ Sơn bèn dời quan tài cha về
chôn tại đó.
Đến năm Thuận Trị 15 (1658), đạo phong thấu đến bề trên; tháng
Chạp sứ giả cầm chiếu đến triệu Sư về kinh lập tức. Sư lấy cớ sắp dựng
tháp chôn mẹ để từ tạ, [vua xuống] chiếu rằng: “Đợi khi gặp Sư hỏi đạo
xong liền đưa Sư về núi chôn mẹ, quyết chẳng giữ lâu”. Tháng Ba năm
sau, Sư lên kinh đô chầu vua, vua dùng lễ đãi Sư như thầy, phong hiệu là
Đại Giác Phổ Tế Năng Nhân Quốc Sư.
Đến tháng Tư, Sư từ tạ chốn cung khuyết trở về Nam, tìm được
miếng đất phía sau chùa Tạng Hải ở Ngu Sơn, bèn dựng tháp cho Đại Từ
Lão Nhân, nhân đó lập ra chùa Tạng Hải, sai đệ tử là Đức Nham Thiệu
làm Trụ Trì. Như vậy, nguồn pháp Tạng Hải do Đại Từ Lão Nhân khởi
đầu; kẻ làm pháp tự134 phải quan tâm. Đương thời, xây dựng phức tạp
hay giản dị đều thích nghi. Năm tháng lâu sau, lại thêm chiến tranh, nên
bị tan nát, còn sót lại một cái tháp, [chứ những thứ khác] đều thành gò
hoang hết.
Nay vị Trụ Trì đã về hưu là Giới Công, thấu hiểu sâu xa tấm lòng
hiếu thảo của Quốc Sư, đặc biệt trùng tu, dựng lại đình, bia, xây tường
vây quanh, cũng dựng lại bia mộ mới, lát đá con đường hơn mười
trượng, vun trồng cây cối để lấy bóng mát ngõ hầu những ai sau này đến
đây đều biết tới tháp viện của bậc cao ni đắc đạo là Đại Từ Lão Nhân mẹ
của quốc sư Ngọc Lâm. Do đó sẽ khởi lòng kính ngưỡng, ai nấy giữ vẹn
133 Do cha mẹ ngài Ngọc Lâm đức hạnh, nhân từ; nhân cách cao đẹp của ngài Ngọc
Lâm do cha mẹ uốn nắn hình thành nên họ vừa là cha mẹ vừa là thầy của ngài Ngọc
Lâm. Vì thế, tổ Ấn Quang mới dùng chữ “phụ sư, mẫu sư”.
134
Pháp tự: Người nối dòng pháp, tức môn nhân đệ tử.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 197
luân thường, trọn hết bổn phận, lợi lạc cứu giúp người lẫn vật, dốc lòng
tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người, để mong sanh được đứa con
phước đức trí huệ, hễ nghèo túng thì riêng bản thân kẻ ấy tốt lành, làm
gương cho cả một làng, một ấp, hễ hiển đạt thì sẽ làm cho người khác
cùng thiện, để lợi lạc, cứu giúp khắp bốn biển chín châu! Do vậy, soạn
bài ký.
Hơn nữa, khi Quang mới xuất gia, thấy các vị thiền tăng khắp Nam
Bắc lên núi triều bái, tụ tập bàn đến chuyện Ngọc Lâm Quốc Sư, tâm
liền khinh thường họ, cho là những hạng tăng nhân này không những
chẳng biết tâm tướng của Phật, Bồ Tát, mà cũng chẳng biết tâm tướng
của thánh hiền thế gian, chỉ dùng tri kiến của bọn vô lại đầu đường xó
chợ bịa đặt đồn đãi để vu báng, miệt thị cổ đức, tội cùng cực đến đâu!
Về sau, đọc Niên Phổ của Quốc Sư thì những gì bọn họ đã nói ngay
cả một câu cũng không có, mà những điều chép trong Niên Phổ bọn họ
cũng chưa hề nghe thấy một câu nào! Do vậy, biết những lời nói lưu
truyền trong cõi tục chẳng đáng tin tưởng! Kính mong bậc quân tử hiểu
lý đừng coi những lời lẽ đó là chuyện thật, rồi vì đó mà coi thường cổ
đức, khinh miệt Phật pháp thì sẽ tự gieo được thiện căn sâu dầy, được
gội pháp trạch lớn lao vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ,
Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân)
* Tâm chúng sanh và tâm Phật không hai. Kẻ chẳng thể làm Phật,
thường làm chúng sanh là vì chính họ chẳng có huệ lực, chẳng thể giác
ngộ, lại không có thiện tri thức chỉ dạy. Do vậy, diệu tâm sẵn có Phật
Tánh trở thành căn bản để khởi Hoặc tạo nghiệp đến nỗi luân hồi cả kiếp
dài lâu, trọn chẳng có thuở thoát ra, chẳng đáng buồn ư? Vì thế, lúc mới
thành Chánh Giác, đức Thế Tôn ta bèn lên cung trời Đao Lợi thuyết
pháp cho mẹ, vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều cùng mong báo ơn
cha mẹ, nên đặc biệt dạy rõ Địa Tạng Bồ Tát trong những kiếp xưa do
cứu mẹ đã rộng phát thệ nguyện Bồ Đề để làm thuyền bè cho chúng sanh
trong tương lai được thoát biển khổ.
Toàn bộ kinh văn [kinh Địa Tạng Bổn Nguyện] dạy cặn kẽ cả Sự lẫn
Lý, văn từ rõ ràng, thoáng đạt, nêu tỏ trọn vẹn những nghĩa lý “tâm này
làm Phật, tâm này là Phật; tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng
sanh” và “tâm có thể tạo nghiệp thì tâm có thể chuyển nghiệp, tâm
chẳng chuyển được nghiệp thì nghiệp sẽ trói buộc tâm” v.v… Hai câu
chuyện đức Địa Tạng trong kiếp xưa cứu mẹ càng nêu thật sát sao, rõ
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 198
ràng ý nghĩa này; thật có thể gọi là “người dẫn đường nơi lối hiểm, đuốc
huệ nơi đường tối, kho báu cho kẻ nghèo thiếu, gạo thóc cho năm đói
kém” khiến cho hết thảy chúng sanh mê muội mau được giác ngộ, hết
thảy những đứa con hiếu thuận có được sư thừa135. Lợi ích của kinh
không thể nào tuyên nói được! Tây Thiên, Đông Độ, những người đọc
kinh này bèn khởi chí chẳng thể nào đếm xuể! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa lưu thông kinh Địa Tạng in theo lối thạch bản)
* Con người quý ở chỗ tự biết, chớ nên nói năng lớn lối quá phận
bừa bãi. Đọc những lời bàn luận nghi ngờ của ông, thấy rõ [ông cho
rằng] dịch kinh trọn chẳng phải là việc khó khăn, chỉ cần biết tiếng ngoại
quốc là có thể trở thành một dịch giả giỏi rồi! Nếu [chỉ là một] dịch giả
[thông thường, thiếu căn bản Phật học vững chắc], bảo người ấy dịch
kinh thì anh ta vẫn giống như kẻ không hiểu tiếng ngoại quốc! Ông cần
phải dựa theo Phạn bản, Phạn bản chẳng phải là bất di bất dịch, cần phải
có con mắt trí huệ để phân biệt văn nghĩa trong Phạn bản là đích xác,
hoặc là do truyền thừa lâu đời bị sai ngoa thì mới có thể dịch kinh
được! 136
Do một người không thể làm được, nên trong một đạo tràng dịch
kinh có nhiều vị thông gia (người hiểu biết sâu rộng). Có vị dịch kinh
văn, có vị chứng nghĩa. Những vị tham dự dịch trường đều chẳng phải
toàn là những người không thông hiểu Phật pháp. Ông hoàn toàn tưởng
rằng [dịch kinh] giống như dịch lời nói của người ngoại quốc, [như vậy]
thì giống hệt như kẻ đọc sách chỉ nhận biết mặt chữ, chứ trọn chẳng hiểu
ý nghĩa những lời văn sâu xa, uyên áo của thánh nhân ra sao! Chớ nên
thốt lời xằng bậy ấy nữa! Cứ nói thì sẽ khiến cho kẻ chẳng hiểu biết gì
bèn lầm lẫn bội phục ông, chứ khó khỏi bị người có chánh kiến đau tiếc
sâu xa!
135 Sư thừa: Quan hệ truyền thừa giữa thầy và trò.
136 Cũng xin nói thêm: Để dịch kinh, tối thiểu người dịch phải thông hiểu những
thuật ngữ trong Phật pháp mới không hiểu sai. Theo một bài viết đăng trên nguyệt
báo Lắng Nghe của trường Gia Giáo chùa Viên Giác, ngay cả những vị mang tiếng là
học giả Hán - Nôm nhưng không chú tâm nghiên cứu Phật giáo vẫn mắc phải những
sai lầm ấu trĩ, khó thể chấp nhận khi dịch những văn bản Phật giáo từ tiếng Hán sang
tiếng Việt. Chẳng hạn, họ không biết Nê Hoàn là cách phiên âm khác của chữ Niết
Bàn, Điều Đạt là cách gọi rút gọn tên Đề Bà Đạt Đa, không biết Thiện Thệ là một
trong mười hiệu của đức Phật nên dịch thành “khéo đi” v.v…
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 199
Quang một mực chẳng vì muốn làm sướng tai khoái mắt kẻ khác mà
gây lầm lẫn cho người ta. Nếu chẳng coi lời Quang là sai thì hãy giữ
phận tu trì. Nếu không, đường ai nấy đi, chẳng sao cả! Mai kia đi đường
gặp nhau sẽ vòng tay chào rồi đi, chẳng cần phải hỏi ông là ai, tôi là ai
nữa! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 4 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,
quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Vương Tử Lập - 1)
* Một kinh Vô Lượng Thọ có năm bản dịch. Bản dịch đầu tiên là do
ngài Chi Lâu Ca Sấm137 người xứ Nhục Chi dịch vào đời Hậu Hán, gồm
ba quyển, văn từ rườm rà, với tựa đề là Phật Thuyết Vô Lượng Thọ
Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh.
Bản dịch kế tiếp do ngài Chi Khiêm138 người xứ Nhục Chi dịch vào
đời Ngô gồm hai quyển, với tựa đề Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Do trong
kinh nhật tụng cũng có bản kinh tên Phật Thuyết A Di Đà Kinh, nên phía
ngoài thêm vào một chữ Đại để phân biệt.
Vào đời Triệu Tống139 lại có cư sĩ Vương Long Thư sao lục những
chỗ trọng yếu trong bốn bộ, tức hai bản dịch đầu tiên (tức bản của ngài
137 Chi Lâu Ca Sấm (Lokasema) sanh năm 147, không rõ năm mất, đôi khi còn được
gọi tắt là Chi Sấm, người xứ Đại Nhục Chi (Kusana), tới kinh đô Lạc Dương vào
thời Hán Hoàn Đế. Ngài dịch được các bộ kinh Đạo Hành Bát Nhã, Ban Châu Tam
Muội, A Xà Thế Vương Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Vô Lượng
Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh và hơn hai mươi hội thuộc kinh Bảo Tích. Ngài là
vị dịch kinh Bát Nhã sớm nhất tại Trung Hoa, gây nên hứng thú nghiên cứu kinh Bát
Nhã suốt thời Ngụy - Tấn. Sơ Tổ Huệ Viễn của tông Tịnh Độ đã căn cứ vào kinh
Ban Châu Tam Muội mà lập ra pháp Ban Châu Niệm Phật, lập Liên Xã, và khởi
xướng truyền thống niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
138 Chi Khiêm, cũng là người xứ Đại Nhục Chi, sống vào cuối thế kỷ thứ ba. Ngài
vốn là một vị cư sĩ tên Cung Minh theo mọi người trong bộ tộc di cư sang Đông,
sống tại Hà Nam. Ngài thông hiểu ngôn ngữ của sáu nước Thiên Trúc, theo học với
một đệ tử ngài Chi Lâu Ca Sấm là Chi Lượng, do thông hiểu các kinh điển nên được
người đời tặng mỹ hiệu Trí Nang (cái túi trí huệ). Về sau, do tỵ loạn, Ngài dời sang
sống tại Đông Ngô, được Ngô Vương Tôn Quyền rất tôn trọng, phong chức quan
Bác Sĩ để dạy Thái Tử Tôn Lượng học. Suốt thời gian 31 năm từ 222 đến 253 năm,
Ngài dốc sức dịch các bộ Duy Ma Cật Kinh, Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh, Đại
Minh Độ Kinh v.v… tổng cộng hơn 129 bộ kinh. Ngoài ra, Ngài còn soạn Tán Bồ
Tát Liên Cú, Phạm Bái Tam Khế, chú giải Liễu Bản Sanh Tử Kinh. Khi Thái Tử lên
ngôi, Ngài ẩn cư tại núi Khung Ải, thọ giới với ngài Trúc Pháp Lan, trở thành Tăng
sĩ, lắng lòng tu niệm, viên tịch năm sáu mươi tuổi.
139
Triệu Tống là nhà Tống (927-1279) được sáng lập bởi Triệu Khuông Dẫn, gọi
như vậy để phân biệt với nhà Lưu Tống (420-479) do Lưu Dụ sáng lập.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 200
Chi Lâu Ca Sấm và Chi Khiêm dịch) và bản dịch thứ ba (tức bản dịch
của ngài Khang Tăng Khải) cũng như bản dịch thứ năm vào đời Triệu
Tống (tức bản dịch của ngài Pháp Hiền) [thành một bản hội tập] đặt tên
là Đại A Di Đà Kinh.
Thuở ấy, bản này được lưu truyền mạnh mẽ, sau vì Liên Trì đại sư
chỉ ra khuyết điểm “[khi hội tập, ông Vương] chẳng y theo kinh văn [của
các bản dịch]”140 nên từ đấy không có ai thọ trì nữa. Trong Đại Tạng có
bản kinh này. Các chỗ lưu thông đều chẳng lưu thông. Có người bảo
[kinh Vô Lượng Thọ, ngoài năm bản dịch] còn có một loại nữa, tức là
bản kinh [hội tập] này vậy.
Bản dịch thứ ba chính là Phật Thuyết Vô Lượng Thọ kinh, gồm hai
quyển, hiện thời ai nấy đều thọ trì bản kinh này, tức là bản do ngài
Khang (tên nước) Tăng Khải141 dịch vào đời Tào Ngụy142. Bản thứ tư
140 Xin xem thêm chi tiết về lời phê của tổ Liên Trì trong cuốn Chú Giải Kinh Vô
Lượng Thọ của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ.
141 Khang Tăng Khải (Samghavarman), còn được phiên là Tăng Già Bạt Ma, sống
vào thời Tam Quốc, người xứ Khang Cư (Sogdian), đến Lạc Dương vào năm Gia
Bình thứ tư (252) nhà Tào Ngụy (nhằm đời vua Tào Phương, tức Ngụy Phế Đế), trụ
tại chùa Bạch Mã, dịch các bộ Úc Già Trưởng Giả Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Tứ
Phần Tạp Yết Ma v.v… Ngoài ra, trong Vạn Tục Tạng còn có một bản kinh khác
cũng đề tên Ngài dịch là Vô Lượng Thọ Phật Danh Hiệu Lợi Ích Đại Sự Nhân
Duyên Kinh.
142 Ngoại trừ nước Ngụy thời Xuân Thu Chiến Quốc ra, trong lịch sử Trung Hoa có
rất nhiều vương triều lấy quốc hiệu là Ngụy như:
1) Tào Ngụy (222-260) là nước Ngụy đời Tam Quốc do Tào Phi, con trai Tào Tháo,
sáng lập. Tuy Tào Phi xưng đế, nhưng chỉ là người thừa hưởng thành quả từ những
thủ đoạn mưu bá đồ vương của Tào Tháo nên Tào Tháo mới là người sáng lập triều
đại Tào Ngụy thật sự. Khi lên ngôi, Tào Phi đã truy phong thụy hiệu cho Tào Tháo là
Ngụy Thái Tổ Vũ Hoàng Đế.
2) Nhiễm Ngụy (350-352) do Nhiễm Mẫn (con nuôi của Thạch Hổ nhà Hậu Triệu)
thừa dịp các con của Thạch Hổ tranh giành ngôi báu đã soán đoạt chánh quyền nhà
Hậu Triệu, xưng đế, đổi tên nước thành Ngụy, nhưng chỉ hai năm sau lại bị nhà Tiền
Yên diệt quốc.
3) Địch Ngụy (330-392) do Địch Liêu thuộc tộc người Đinh Linh chiếm cứ phía nam
tỉnh Hà Nam sáng lập. Do lãnh thổ bị vây hãm giữa các nước Đông Tấn, Hậu Yên,
Tây Yên nên suốt đời Địch Liêu phải luôn giao tranh. Cuối cùng phải bỏ kinh đô
Hoạt Đài vượt sông trốn về Bắc, nhưng rốt cuộc vẫn bị Mộ Dung Thùy nhà Hậu Yên
diệt quốc vào năm 392.
4) Bắc Ngụy (386-534), còn gọi là Hậu Ngụy hoặc Thác Bạt Ngụy, hoặc Nguyên
Ngụy, do Thác Bạt Khuê thuộc sắc tộc Tiên Ty sáng lập. Năm 493, Thác Bạt Hoằng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 201
chính là hội thứ mười bảy của kinh Đại Bảo Tích, tức Vô Lượng Thọ
Như Lai Hội. Bản kinh này ông Vương Long Thư chưa từng thấy, do
ngài Bồ Đề Lưu Chí143 dịch. Trước đó, vào thời Nguyên Ngụy có ngài
dời đô từ Bình Thành sang Lạc Dương, đổi họ thành Nguyên, nên sử thường gọi
triều đại này là Nguyên Ngụy.
5) Tây Ngụy (535-557): Sau khi Hiếu Vũ Đế nhà Bắc Ngụy bị Cao Hoan đánh bại
phải chạy vào Quan Trung nương nhờ Vũ Văn Thái. Vũ Văn Thái bèn lập mưu giết
chết Hiếu Vũ Đế, đưa cháu nội của Ngụy Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoằng) là Nguyên
Bảo Cự lên ngôi, đóng đô tại Trường An. Nhưng đến năm 557, Vũ Văn Giác (con
trai Vũ Văn Thái) bức vua Cung Đế nhà Tây Ngụy thoái vị, tự mình xưng đế, lập ra
nhà Bắc Châu.
6) Đông Ngụy (534-550): Khi Cao Hoan đánh bại Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế, vua phải
chạy vào Quan Trung nhờ cậy thế lực của Vũ Văn Thái, Cao Hoan bèn lập đứa chắt
mới mười một tuổi của Ngụy Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoằng) là Nguyên Thiện Kiến
lên ngôi, lấy hiệu là Ngụy Hiếu Tịnh Đế, rồi tự mình làm Phụ Chánh Đại Thần, đóng
đô tại Nghiệp Thành, nhằm đối kháng với nhà Tây Ngụy. Do Cao Hoan chỉ rắp tâm
soán đoạt nên nước Đông Ngụy yếu thế hơn Tây Ngụy, nhiều lần bị Tây Ngụy đánh
bại. Rốt cuộc, Cao Tường (con trai thứ của Cao Hoan) soán ngôi, lập ra nhà Bắc Tề
(Sử thường gọi là nhà Cao Tề).
143 Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci 562-727), dịch nghĩa là Giác Ái, vốn có tên là Đàm
Ma Lưu Chi (Dharmaruci) người Nam Thiên Trúc, xuất thân từ dòng Bà La Môn,
thiên tư thông duệ, xuất gia năm 12 tuổi, theo học với ngoại đạo Bà La Xà La, thông
hiểu Thanh Minh, Số Luận, lịch số, địa lý, thiên văn, chú thuật, y phương v.v… Mãi
tới năm sáu mươi tuổi mới ngộ được chỗ cao sâu của Phật pháp bèn ẩn cư trong rừng
núi tu hạnh Đầu Đà. Sau đó, theo học Tam Tạng với ngài Da Xá Cù Sa, chưa đầy
năm năm đã thông đạt tất cả, danh tiếng còn trỗi hơn thầy. Vua Đường Cao Tông
nghe tiếng, sai sứ sang thỉnh. Năm Trường Thọ thứ hai (693), Sư chống tích trượng
đến Trường An, được Vũ Tắc Thiên cực kỳ tôn trọng, thỉnh Sư trụ tích tại chùa Phật
Thọ Ký, đồng thời dâng mỹ hiệu Bồ Đề Lưu Chí. Chỉ trong năm ấy, Sư đã dịch được
mười một bộ kinh như Phật Cảnh Giới, Vũ Bảo v.v… Tới năm Thần Long thứ hai
(706) Sư dịch thêm được các bộ Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn
Kinh, Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Kinh. Công trình lớn nhất của Sư là dịch bộ
Bảo Tích kinh ròng rã tám năm, dịch hai mươi sáu hội mới, tu chỉnh hai mươi ba hội
của các vị dịch kinh đời trước, tạo thành bộ kinh Đại Tích gồm 49 hội, tổng cộng
120 quyển. Dịch xong, Sư chuyên tu Thiền Quán. Tới năm Khai Nguyên thứ 15
(727), Sư tuyệt thực nhưng thần sắc vẫn tươi đẹp như cũ. Tới ngày mồng Năm tháng
Mười Một năm ấy bèn thị tịch, thọ 166 tuổi. Vua thương tiếc, truy tặng quan chức
Hồng Lô Đại Khanh, thụy hiệu Khai Nguyên Nhất Thiết Biến Tri Tam Tạng. Điểm
lại, Sư đã dịch tổng cộng 53 bộ kinh, là vị dịch giả nổi tiếng ngang ngửa với ngài
Huyền Trang.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 202
Bồ Đề Lưu Chi144, không phải người đời Đường; người đời thường viết
sai tên [ngài Lưu Chí (流志)] thành Lưu Chi (留支).
Bản dịch thứ năm tên là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang
Nghiêm Kinh, do ngài Pháp Hiền145 dịch vào đời Triệu Tống. Nguyên
bản gồm hai quyển, do người đời Tống lấy số lượng kinh dịch được
nhiều làm điều vinh dự nên chia thành hai quyển. Ở chỗ trọn chẳng nên
chia ra lại chia, [do vậy] bản khắc hiện thời chỉ gồm một quyển. Trong
những bản dịch ấy, Vô Lượng Thọ Như Lai Hội văn lẫn lý đều hay,
nhưng phần kinh văn khuyên đời ở cuối kinh lại chẳng sao lục. Vì thế,
người đời đều lấy bản Vô Lượng Thọ Kinh của ngài Khang Tăng Khải
làm chuẩn vậy. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 4 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Vương Tử Lập - 2)
* Trong kinh Vô Lượng Thọ, có ba bậc (tam bối), Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh có chín phẩm. Ba phẩm Hạ đều là kẻ tạo ác nghiệp, lâm
chung gặp thiện tri thức khai thị niệm Phật liền được vãng sanh. Vương
Long Thư chấp chết cứng “ba bậc chính là chín phẩm”. Đấy chính là lầm
144 Bồ Đề Lưu Chi, dịch nghĩa là Đạo Hy, người xứ Bắc Ấn Độ, cao tăng học giả
thuộc học phái Du Già (Duy Thức), là đệ tử thuộc đời thứ tư của ngài Thiên Thân Bồ
Tát. Ngài cũng rất tinh thông Mật Giáo, đến Lạc Dương vào năm Vĩnh Bình nguyên
niên (508) nhà Nguyên Ngụy, được Ngụy Tuyên Vũ Đế rất trọng vọng. Cùng với các
vị cao tăng học giả thời ấy như Lặc Na Ma Đề (Bảo Ý), Phật Đà Phiến Đa (Giác
Định) v.v… cùng dịch kinh điển. Các bộ luận nổi tiếng được các Ngài dịch gồm Cứu
Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, Bảo Tích Kinh Luận, Pháp Hoa Kinh Luận, Thập
Địa Kinh Luận. Khi nhà Nguyên Ngụy bị tách thành Đông Ngụy và Tây Ngụy, dời
đô về Nghiệp Thành, Ngài ở lại Lạc Dương, đơn độc dịch kinh đến năm Thiên Bình
thứ hai (535) mới thôi, không rõ mất năm nào. Căn cứ theo Khai Nguyên Thích Giáo
Lục, Ngài dịch được ba mươi bộ kinh, quan trọng nhất là Kim Cang Bát Nhã Ba La
Mật Kinh, Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh, Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn Kinh,
Thâm Mật Giải Thoát Kinh, Nhập Lăng Già Kinh, Đại Tát Độ Ni Càn Tử Sở Thuyết
Kinh, Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh Luận, Văn Thù Vấn Bồ Đề Kinh Luận, Vô Lượng
Thọ Kinh Luận, Bách Tự Luận, Duy Thức Luận...
145 Pháp Hiền (không rõ năm sanh, mất năm 1001), là danh tăng xuất thân từ học
viện Na Lan Đà ở Thiên Trúc. Thoạt đầu Sư có tên là Pháp Thiên, đến Trung Quốc
vào năm Khai Bảo thứ sáu (973). Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980), nhận
lời thỉnh của sư Pháp Tấn chùa Khai Nguyên cùng dịch kinh. Năm sau được ban tặng
mỹ hiệu Truyền Giáo Đại Sư. Khi mất Sư được ban thụy hiệu là Huyền Giác đại sư.
Sư dịch được 120 bộ kinh, những bộ nổi tiếng nhất là Thánh Vô Lượng Thọ Kinh
Thất Phật Tán, Vô Lượng Quyết Định Quang Minh Vương Kinh, Cát Tường Trì Thế
Kinh v.v…
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 203
lẫn căn bản cho nên coi bậc Hạ [trong kinh Vô Lượng Thọ] chính là ba
phẩm Hạ [trong Quán Kinh], sai lầm quá đỗi!
Do vậy [trong bản hội tập Đại A Di Đà Kinh của ông Vương Long
Thư] chẳng nói bậc Thượng có phát Bồ Đề tâm, bậc Trung có phát Bồ
Đề tâm, bậc Hạ thì nói “chẳng phát Bồ Đề tâm”. [Thật ra, theo bản Ngụy
dịch], ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ đều có phát Bồ Đề tâm. Ý
Vương cư sĩ cho rằng bậc Hạ tội nghiệp sâu nặng, làm sao có thể phát
Bồ Đề tâm cho được? Ông ta chẳng nghĩ [trong phần kinh văn giảng về]
bậc Hạ [của kinh Vô Lượng Thọ] trọn chẳng có một chữ nào nói tới
chuyện tạo nghiệp, họ vẫn là thiện nhân, nên [bậc Hạ trong kinh Vô
Lượng Thọ] chỉ có thể thuộc vào ba phẩm Trung trong chín phẩm [của
Quán kinh]. [Ông Vương] ương ngạnh gán ghép bậc Hạ [của kinh Vô
Lượng Thọ] vào ba phẩm Hạ [của Quán Kinh], nghịch kinh, trái lý, rốt
cuộc trở thành tùy tiện sửa kinh, mắc lỗi lớn lắm!
Ý ông ta cho rằng “Phật nhất định thâu nhiếp trọn hết thảy chúng
sanh”, nhưng không biết Phật chỉ [có thể] thâu nhiếp người lành, chứ
không thể thâu nhiếp kẻ ác146. Ông ta đã coi người lành là kẻ ác, cho nên
mới nói “chẳng phát Bồ Đề tâm”; chấp chết cứng bậc Hạ là ba phẩm Hạ,
nên tưởng người lành là kẻ ác! Chẳng biết ba phẩm Hạ trong chín phẩm
lúc lâm chung khổ sở cùng cực, vừa nghe được danh hiệu Phật liền quy
mạng gieo lòng Thành, tâm cầu Phật rủ lòng Từ cứu vớt, dũng mãnh
cảm kích, so với cái tâm lúc sắp bị hành hình mong được tha còn sâu
đậm hơn gấp ngàn vạn lần! Tuy [Quán Kinh] chưa nói là họ phát Bồ Đề
tâm, nhưng tâm niệm ấy thiết tha, thành kính, quả thật đã đầy đủ Bồ Đề
tâm!
Tiếc cho họ Vương chẳng dựa theo văn nghĩa của bản kinh gốc mà
cứ dựa theo [cách hiểu] Quán Kinh [qua lăng kính thiên kiến, ức đoán
của ông ta] để rồi ương ngạnh vu báng, miệt thị người hiền là kẻ ác, rốt
cuộc phán đoán họ như kẻ ác! Họ Vương còn mắc phải khuyết điểm ấy,
huống là người đời sau dối xưng là bậc thông gia ư?
Đã có Vô Lượng Thọ Kinh rồi thì cần gì phải vô sự lại sanh sự! Họ
Vương phạm lầm lẫn, Liên Trì đại sư đã chỉ ra, nhưng Ngài vẫn chưa nói
146 Không phải là đức Phật thiếu lòng Từ mà là Ngài không thể độ kẻ vô duyên. Kẻ
ác nếu có thể cải hối, thống thiết phát nguyện cầu sanh vẫn được vãng sanh vì do tâm
niệm ấy đã có duyên với Phật nên Phật độ được.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 204
vì sao lại như vậy. Nay tôi nói rõ nguyên do, ấy là vì [ông Vương] chấp
chết cứng ba bậc chính là chín phẩm. Viết ra điều này để thấy hội tập
khó khăn, nhằm ngăn ngừa người đời sau làm càn. Ngụy Mặc Thâm147
lại càng chẳng đáng nói tới! Gan to, tâm thô, chẳng đáng để noi theo!
(Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 4 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2,
Thư trả lời cư sĩ Vương Tử Lập - 3)
* Bốn câu “Sắc Tức Thị Không...” trong Tâm Kinh chính là Đại Sĩ
đem “tướng của Ngũ Uẩn Đều Không” do chính Ngài đã thấy thấu suốt
(chiếu kiến) để dạy người. Sắc đứng đầu Ngũ Uẩn, vì thế giảng tường
tận trước.
Nói “Sắc bất dị Không” (Sắc chẳng khác Không) là vì Sắc tuy có
hình tướng có thể thấy được, nhưng đó là tướng huyễn vọng. Dùng trí
Bát Nhã sâu xa để quán chiếu thì bản thể của Sắc là “bất khả đắc” (trọn
chẳng thể được), tuy có mà giống như hư không. Chẳng riêng gì bản thể
của Sắc là “trọn chẳng thể được”, mà Không cũng “trọn chẳng thể
được!” Do vậy, lại nói “Không bất dị Sắc” (Không chẳng khác Sắc).
Ở đây, lại sợ người ta hiểu lầm Thế Gian Không chính là tướng của
Sắc Không, nên nói: “Không cũng chẳng có thực tế để được, cũng như
Sắc trọn chẳng thể được!” Ấy là vì Không cũng là pháp thế gian, tuy
không có hình tướng, rỗng rang, trống lỗng, nhưng vẫn có tướng Không.
Trong Ngũ Uẩn, cái Không của Sắc Uẩn chẳng phải là cái Không của hư
147 Ngụy Nguyên (1794-1857), còn có tên là Nguyên Đạt, tự là Mặc Thâm, hiệu
Lương Đồ, đến già đổi tên là Thừa Quán, người làng Kim Đàm, huyện Thiệu Dương,
đỗ thứ hai trong kỳ thi Hương vào năm Đạo Quang thứ hai (1822). Năm Đạo Quang
thứ năm (1825), vâng lệnh Bố Chánh Sứ tỉnh Giang Tô biên tập bộ sách Hoàng Triều
Kinh Thế Văn Biên gồm 120 quyển, rất được tán thưởng. Năm Đạo Quang thứ sáu
(1826) lên kinh thi Hội, nhưng không đậu. Khi Lưu Phùng Lộc đọc quyển thi bị loại
ra, đã than thở quốc gia bỏ mất tài năng. Năm sau lại đi thi Hội nữa, vẫn không đậu,
Ngụy Nguyên bèn bỏ tiền mua chức quan Trung Thư Xá Nhân. Ông từng theo Lâm
Tắc Từ làm công tác phiên dịch khi cuộc chiến Nha Phiến nổ ra. Về sau, do thấy các
đại thần trong triều khiếp nhược, chủ bại, hôn ám, ông bèn từ quan về nhà, chuyên
soạn sách, dạy học, chủ trương “dùng người ngoại quốc để chế ngự ngoại quốc, lợi
dụng kỹ thuật Tây Dương, đem quyền lợi nhử các nước Tây Phương đánh lẫn nhau”.
Ông để lại rất nhiều trước tác; tuy vậy, những trước tác về Phật giáo của ông không
được đánh giá cao vì ông nghiên cứu kinh điển theo kiểu một học giả nghiên cứu văn
bản thay vì là một hành giả Phật giáo nên có rất nhiều ý kiến vũ đoán, cực đoan,
chấp trước văn tự, tùy ý diễn dịch, phê phán theo thiên kiến và sự ức đoán của chính
mình.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 205
không. Do vậy, liền nói tiếp: “Không bất dị Sắc” (Không chẳng khác
Sắc). Vì lìa trọn vẹn cái Không của tướng Không nên nói: “Không bất dị
Sắc” (Không chẳng khác Sắc).
Nói đến cái Không của Không này cũng giống như Sắc “trọn chẳng
thể được”, chẳng thể hiểu là cái Không trống lỗng, rỗng rang. Vẫn sợ
[người nghe] chưa hiểu nên lại nói: “Sắc tức thị Không, Không tức thị
Sắc” (Sắc tức là Không, Không tức là Sắc), nghĩa là: “Sắc tức thị
Không” chẳng thể được, “Không tức thị Sắc” chẳng thể được! Sắc Không này tịch chiếu cùng hiển lộ, cùng diệt mất. Sắc - Không “cùng
chính là” và “cùng lìa” Sắc Không. Nếu thấy được điều này sẽ đích thân
chứng được Chân Như Phật Tánh.
Sắc Uẩn đã như thế thì bốn uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức cứ theo đó
mà biết; cho nên không cần nói nữa, chỉ nói “diệc phục như thị” (cũng
giống như thế). Ngũ Uẩn đã như thế thì hết thảy pháp cũng như thế. Cho
nên lại nói: Năm Uẩn này đều là tướng Không, là tướng Không của hết
thảy các pháp, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng
tăng, chẳng giảm, bản thể của chúng là như thế, chẳng cần phải ước theo
thánh - phàm, chúng sanh - Phật để nói nữa! Do nó vốn chẳng sanh, do
đâu mà có diệt, cũng như có nhơ, sạch, tăng, giảm nữa ư?
Vì thế, trong tướng Không của các pháp, không có năm uẩn Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, không có sáu căn “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”,
không có sáu trần “Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp”, không có sáu
thức là Nhãn giới (dưới chữ Nhãn lược bỏ chữ Thức), cho đến không có Ý
Thức giới. Đấy là không có lục phàm pháp giới.
“Vô vô minh, nãi chí vô lão tử” (Không vô minh cho đến không lão
tử) là mười hai nhân duyên thuộc Lưu Chuyển Môn. “Diệc vô vô minh
tận, nãi chí diệc vô lão tử tận” (Cũng không có hết vô minh cho đến
không có hết già chết): Đấy chính là mười hai nhân duyên thuộc Hoàn
Diệt Môn. Đây là không có Duyên Giác pháp giới. “Vô Khổ, Tập, Diệt,
Đạo”, là không có Thanh Văn pháp giới. “Vô Trí”: Trí là độ cuối cùng
trong Lục Độ, cho nên [Vô Trí] là không có Bồ Tát pháp giới. “Diệc vô
đắc” (Cũng không có đắc): “Đắc” chính là Bồ Đề, Niết Bàn, [tức là]
không có [tức là] không có Phật pháp giới.
Có kẻ hiểu chữ Không trong câu “Sắc bất dị Không” là Thật Tướng
của Chân Không. Thoạt nhìn có vẻ hợp lý, nhưng xét kỹ hình như không
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 206
trọn vẹn. Vì sao vậy? Đã là không có Ngũ Uẩn, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ,
Thập Bát Giới, tức lục phàm pháp giới của thế gian; lại không có Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên, Trí, Đắc, đó chính là bốn thánh pháp giới xuất
thế gian. Hết thảy các pháp thánh - phàm đều không, lẽ đâu cái Không
của thế gian lại chẳng không? Do phàm tình lẫn thánh kiến đều không,
cho nên có thể viên mãn Bồ Đề, trở về cái “không có gì để được” (vô sở
đắc). Do “không có gì để được” nên “tâm vô quái ngại, khủng bố, viễn
ly điên đảo, mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn” (tâm không vướng mắc, sợ
hãi, xa lìa điên đảo, mộng tưởng, rốt ráo Niết Bàn).
Pháp này chính là pháp rốt ráo thành Phật của tam thế chư Phật, do
trong tướng Không của các pháp chẳng có những pháp thánh - phàm,
chúng sanh - Phật v.v… cho nên có thể từ phàm đến thánh tu nhân
chứng quả, chứng trọn vẹn pháp này. Ví như dựng nhà phải có chỗ trống
thì người mới ở được. Nếu nhà chẳng có chỗ trống, người ta làm sao ở
được? Do Không, nên mới có thể chân tu thực chứng. Nếu chẳng Không,
sẽ chẳng có tác dụng này. Do trong trí Bát Nhã sâu chẳng thấy tướng của
những thứ tình kiến này nên là Vô, chớ hiểu lầm chẳng tu là Vô. Nếu
hiểu chẳng tu là Vô sẽ phá hoại chánh pháp của chư Phật, chắc chắn bị
đọa mãi trong A Tỳ địa ngục, hãy nên suy nghĩ cặn kẽ! (Ấn Quang Văn Sao
Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Châu Mạnh Do hỏi về bốn câu “Sắc bất
dị Không” trong Tâm Kinh)
* Kinh Phạm Võng là đại pháp để đức Như Lai nung luyện hết thảy
dù thánh hay phàm, ngõ hầu họ sẽ rốt ráo đoạn trừ ba Hoặc, đích thân
chứng được ba đức, khôi phục Phật Tánh sẵn có, thành Phật Quả vô
thượng. Ấy là vì đối với Chân Như diệu tánh thì chúng sanh và Phật
cùng một thể, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh chẳng tăng, nhưng từ vô
thủy đến nay cứ mê chẳng ngộ, như vàng còn trong quặng chẳng thụ
dụng được! Đức Như Lai thương xót hết thảy chúng sanh mê mất minh
châu trong chéo áo, uổng công rong ruổi hướng ra ngoài tìm tòi. Do vậy,
khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, đến nỗi luân hồi lục đạo trọn
chẳng có thuở ra! Dù có người đoạn được những Hoặc trong tam giới,
thoát lìa sanh tử, nhưng vẫn còn cách địa vị Phật quá xa! Bởi thế, khi
mới thành Chánh Giác, đức Phật liền lập tức vì hết thảy thánh - phàm
giảng đại pháp này, trước hết làm cho họ liễu ngộ tự tâm vốn là Phật
tâm, nên mới nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, các ông là
Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành”. Tin được như thế, chắc chắn sẽ
chẳng đến nỗi đề cao thánh cảnh nhưng tự cam phận phàm ngu, trên là
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 207
cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới là phụ bạc tánh linh của chính mình!
Cho nên mới nói: “Thường tin tưởng như thế thì giới phẩm đã đầy đủ!”
Rồi đối với những lời ăn tiếng nói, hành vi thường ngày, khởi tâm từ bi,
tâm hiếu thuận, dẹp lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ cái ham muốn xằng
bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng
làm những điều thiện, sao cho luôn đúng chừng mực, không phải hổ thẹn
chút nào, nơi ba nghiệp vĩnh viễn trọn chẳng có tỳ vết thì hai thứ đại thể,
đại dụng “tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha” đều đầy đủ.
Giữ tấm lòng thanh khiết xông tận trời thẳm, khác nào hư không
mênh mông chứa khắp muôn hình tượng trọn chẳng chướng ngại gì! Xử
sự chánh đại quang minh như mặt trời chói lọi chiếu khắp muôn phương,
nhưng trọn chẳng hề chọn lựa. Do vậy, Tứ Nhiếp cùng được thực hiện,
Tứ Hoằng148 phổ độ, đáng gọi là “tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập
Phật trí” (trước hết dùng dục149 để lôi kéo, sau làm cho nhập Phật trí);
hư không dẫu có tận, nguyện tôi vẫn vô cùng. Làm được như thế, nào
còn có cái tâm ta - người, đúng - sai, tự tư tự lợi chi nữa, huống là có
chuyện phá trai, phạm giới và tổn người, lợi mình, lật đổ, tàn hại lẫn
nhau nữa ư?
Do vậy biết: Kinh này dẫu thuộc về đại pháp xuất thế, nhưng quả
thật là mưu lược tốt lành để giữ yên cõi đời. Vì thế, hết thảy quốc vương,
đại thần và tứ chúng xuất gia, bốn chúng tại gia cùng các quỷ thần đều
nên thọ trì! Nếu có thể thọ trì sẽ như nước rửa sạch đồ đựng, liền khôi
phục sự sạch sẽ sẵn có; như hương xông áo, sẽ mau chóng thêm thơm
ngát hơn. Trong lúc Kiếp Trược này, muốn vãn hồi mà bỏ pháp này, làm
sao yên được? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Tập Chứng)
* Giới là căn bản của hết thảy thiện pháp, hãy nên xem sách Tại Gia
Luật Yếu150, nhưng kinh văn của giới luật khá nhiều, e khó thể đọc
148
Tứ Hoằng chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành.
149
Dục ở đây là lòng ham muốn, ý nói chư Phật, Bồ Tát dùng lợi để dẫn dụ con
người do lòng ham lợi sẽ thực hành Phật pháp, rồi dần dần dẫn họ nhập đạo, thể ngộ
Phật trí. Chẳng hạn, các kinh Đại Thừa thường nói rất nhiều đến những phước báo
hiện tiền do trì tụng, thọ trì kinh, chú, lễ bái, cúng dường, tùy hỷ v.v…
150
Tại Gia Luật Yếu có tên đầy đủ là Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập, do ngài Ngẫu
Ích soạn, Nghi Nhuận và Trần Hy Nguyện tăng đính. Đây là một tổng tập các kinh
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 208
tường tận, nhớ cặn kẽ được! Chỉ cần trong tâm thường giữ tấm lòng
“đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Phàm khởi tâm động
niệm chẳng để cho một niệm bất thiện nẩy mầm, như thế thì các giới đều
giữ trọn vẹn được. Nếu chỉ tìm tòi, suy xét trên mặt sự tướng, dù chẳng
phạm một giới nào nhưng vẫn chưa thể gọi là người trì tịnh giới được,
bởi trong tâm vẫn có tướng phạm giới, khó khăn như thế đó!
Ông Cừ Bá Ngọc đến năm 20 tuổi biết 19 năm trước là sai, đến năm
50 tuổi, biết 49 năm trước sai trái, muốn giảm bớt lỗi nhưng vẫn chưa
thể được! Khổng Tử tuổi đã bảy mươi còn mong trời cho sống thêm vài
năm để học kinh Dịch hòng tránh khỏi lỗi lớn. Những vị này đều là vì
tâm chưa thể hoàn toàn phù hợp khít khao với lẽ trời nên coi là lỗi, chứ
không phải việc làm, hành vi của họ còn phạm lỗi. “Đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện” là nghĩa trọng yếu trong giới kinh của Phật
pháp. Người độn căn đời sau phải nên dốc sức nơi đây thì mới có thể khế
lý khế cơ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Thư trả lời cư sĩ Tống
Huệ Trạm ở Dịch Huyện)
* Phật pháp không gì lớn lao chẳng bao trùm, không điều nhỏ nhặt
nào chẳng được nêu lên, chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo.
Bậc Đăng Địa Bồ Tát151 vẫn chưa thể thấu hiểu triệt để đến tột nguồn tận
đáy được, huống là phàm phu sát đất đầy dẫy Hoặc nghiệp ư? Nhưng rút
lấy những ý nghĩa trọng yếu [trong giáo pháp nhà Phật] thì chỉ là mong
sao [chúng sanh] hiểu rõ tự tâm, chứng Phật tánh triệt để. Muốn hiểu rõ
tự tâm để chứng Phật tánh, ắt phải dùng Giới để trói buộc cái thân, dùng
Định để dứt vọng, dùng Huệ để đoạn Hoặc, ngõ hầu có thể tự thoát khỏi
luận liên quan đến giới luật của hàng Phật tử tại gia. Sách này bao gồm một phần
trích lục bộ Tứ Phần Luật, Ưu Bà Tắc Thọ Tam Quy Ngũ Giới Pháp Hội Thích (tổng
hợp các lời giải thích về cách thọ Tam Quy Ngũ Giới), Tam Quy Ngũ Giới Từ Tâm
Yểm Ly Công Đức kinh, Quán Đảnh Tam Quy Ngũ Giới Đới Bội Hộ Thân Chú
Kinh, Sa Mạt Nẵng Pháp Thiên Tử Thọ Tam Quy Hoạch Miễn Ác Đạo Kinh, Thập
Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Phật Thuyết Giới Tiêu Tai Kinh, Phật Thuyết Ưu Bà Tắc
Ngũ Giới Tướng Kinh Thiển Yếu, Phật Thuyết Trai Kinh Chú (chú giải kinh Phật
nói về trai giới), phẩm Quán Tâm và phẩm Phát Bồ Đề Tâm của Đại Thừa Bổn Sanh
Tâm Địa Quán Kinh, Ngoại Đạo Vấn Thánh Đại Thừa Pháp Vô Ngã Nghĩa Kinh, Ưu
Bà Tắc Giới Kinh Thọ Giới Phẩm Thiển Yếu (giải thích sơ lược về những điều quan
trọng trong phẩm Thọ Giới của kinh Ưu Bà Tắc Giới), Bồ Tát Ưu Bà Tắc Ngũ Giới
Oai Nghi Kinh, trích yếu phần sớ giải Phật Thuyết Phạm Võng Kinh Tâm Địa Phẩm
Bồ Tát Giới, Phạm Võng Kinh Sám Hối Hành Pháp v.v…
151 Đăng Địa Bồ Tát: Hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 209
sanh tử huyễn vọng, chứng Niết Bàn chân thường. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho cuốn Nhật Tụng Kinh Chú Tuyển Lục)
* Xét ra, Bách Trượng thiền sư sanh vào năm thứ chín (720) đời
Đường Huyền Tông, thọ chín mươi lăm tuổi, đến tháng Giêng năm
Nguyên Hòa thứ chín (814) đời Đường Hiến Tông bèn quy tịch. Chương
đầu tiên trong bộ Thanh Quy do Ngài biên soạn chính là phần Chúc Ly,
chương kế tiếp là Báo Ân, chương tiếp theo đó là Báo Bổn152. Đây
những thứ Phật sự hết sức quan trọng, trang nghiêm, nếu không có Phật
điện thì nên cử hành ở nơi đâu?
Từ sau khi ngài Bách Trượng viên tịch, hơn hai trăm năm, đến năm
Cảnh Đức nguyên niên (1004) đời Tống Chân Tông, Dương Ức153 viết
lời tựa cho bộ Thanh Quy, đối với quy định: “Bất lập Phật điện, duy thụ
pháp đường” (Chẳng lập Phật điện, chỉ dựng pháp đường) liền cho rằng
câu này rất hợp với lời Phật và Tổ đích thân dặn dò, đương thời đều tôn
trọng ý kiến ấy. Trộm ngờ [câu ấy phải là]: “Tiền lập Phật điện, hậu thụ
pháp đường” (Lập Phật điện trước rồi mới dụng pháp đường) thì mới
152 Chúc Ly là những nghi lễ nhằm chúc phước cho vương triều, bao gồm cầu đảo,
chú nguyện cho vương triều được bền vững, vua khỏe mạnh, phước thọ, hoàng tộc
được bình yên, tăng phước tăng thọ v.v...
Báo Ân là báo đáp ân đức của vương triều đã bảo hộ Phật pháp lẫn nhân dân. Tăng
chúng thường cử hành lễ Báo Ân trong những dịp Quốc Kỵ (ngày giỗ của tiên
vương), cầu mưa, cầu tạnh, hay trong những dịp có tai ương xuất hiện như sâu rầy,
hạn hán v.v…
Báo Bổn là báo đáp ân đức trong Phật môn, như những ngày lễ Phật Đản, Thành
Đạo, khánh chúc vía các vị Phật, Bồ Tát, Tổ Sư v.v…
Ngoài ra, vào mỗi dịp Sóc Vọng, ba hình thức báo đáp này được gộp chung thành
một nghi lễ nhỏ gọi là Thù Ân Chúc Tán, tức là tăng chúng lạy tạ chư Phật, tôn pháp,
thánh tăng, chư Tổ Sư, đại thiện tri thức, các vị thầy tổ truyền giới, truyền pháp, ân
quốc vương, sư trưởng, đà na tín thí ủng hộ cúng dường cho Tăng chúng yên thân tu
đạo.
153 Dương Ức (974-1020), người xứ Bồ Thành (nay thuộc huyện Kiến Ngõa, tỉnh
Phước Kiến), tự là Đại Niên. Nổi danh văn chương từ thuở thiếu thời. Tống Thái
Tông đặc cách cho đi thi Đình, đọc bài viết của họ Dương phải khen ông ta là thần
đồng. Ông làm quan tới chức Thị Lang và Tu Soạn. Bẩm tánh thanh liêm, chẳng e sợ
quyền thế. Thoạt đầu không tin Phật, sau do được học sĩ Lý Duy khuyên dạy liền
nghiên cứu Thiền học, sanh lòng tin sâu xa. Ông tham học với thiền sư Quảng Huệ ở
Nhữ Châu, đắc pháp, liền dốc sức hộ trì pháp môn, được coi như lãnh tụ của những
sĩ phu học Phật thời ấy. Ông từng vâng chiếu biên soạn bộ Đại Tạng Mục Lục, giảo
chánh, ấn hành bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cũng như tham dự đạo tràng dịch
kinh.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 210
phù hợp với ý Phật, Tổ đích thân dặn dò; nhưng gần một ngàn năm qua,
không ai sửa cho đúng! Nay thiền sư Hoằng Trữ cũng dựa theo đó để
luận đoán, khôn ngăn đau lòng, buốt óc!
Chùa Thiền không có Phật điện thì sẽ hoàn toàn chẳng có tượng
Phật ư? Hay là thờ Phật trong căn nhà nhỏ ở bên cạnh [pháp đường]?
Vâng thánh chỉ chúc ly ở gian nhà phụ nhỏ nhoi thì chẳng những khinh
Phật mà còn khinh vua cũng lớn lắm thay! Do chuyện này biết chữ Bất,
chữ Duy ở đây chính là chữ Tiền và chữ Hậu bị chép sai. Bản Thanh
Quy Chứng Nghĩa được khắc ở Dương Châu đã được sửa đổi cho đúng.
Nay tôi tỵ nạn sang Linh Nham, thấy họ sao lục bản của Trữ Công
để soạn bài ký xây dựng điện Bảo Vương, rất sợ sẽ đem sai ngoa truyền
sai ngoa khiến cho ngài Bách Trượng là vị thầy gương mẫu của trời lẫn
người rốt cuộc bị vu báng có hành vi của tà ma, ngoại đạo. Do vậy, biện
luận đại lược để mong những bậc thông sáng trong mai sau ai nấy tôn
Phật kính Tổ, duy trì pháp đạo không suy sụp vậy. Hiểu cho tôi hay trách
tội tôi, tôi đều chẳng màng! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 4 - Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4, Biện định sai ngoa trong lời tựa tác phẩm Bách
Trượng Thanh Quy)
* Xá-lợi chưa tới chỗ cũ154, càng đúng là thần biến khôn ngằn. Ấy
chính là Phật, Bồ Tát muốn làm cho ông và hết thảy những ai thấy nghe
đều gieo thiện căn sâu xa, nên đặc biệt thị hiện [như vậy]. Tiếng Phạn
Xá-lợi (Śarīra), cũng có khi phiên là Thiết-lợi-la (danh từ này hiện thời tuyệt
chẳng dùng đến), ở đây (Trung Hoa) dịch là Thân Cốt (xương nơi thân), có
khi dịch là Linh Cốt. Đây chính là ước theo sau khi đức Phật nhập Niết
154 Trong lá thư gởi cho cư sĩ Phương Diệu Đình (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam
Biên, quyển 2, thư số 270), tổ Ấn Quang cho biết: “Hôm trước, Quán Âm Am ở Hoài
An gởi tới một viên xá-lợi to bằng hạt kê, màu như ngọc Phỉ Thúy, nói là [viên xá-lợi
ấy] kết từ hoa đèn thắp trước bàn Phật của một liên hữu; gởi tới muốn cậy Quang
chứng minh, bình luận để khơi gợi lòng tin cho người khác. Quang liền đựng trong
một cái hộp sứ cho mọi người xem; xem xong để thờ trước tượng Phật. Ngày hôm
qua, sau buổi tụng kinh khóa sáng, mở hộp ra xem thì không còn nữa, chắc là đã trở
về am đó rồi! Hôm qua tôi đã gởi thư hỏi chuyện ấy”. Như vậy là khi Tổ viết thư cho
Dương Bội Văn, viên xá-lợi ấy vẫn chưa trở về Quán Âm Am. Xin xem thêm chi tiết
về chuyện này trong “Bài ký về chuyện cư sĩ Dương Bội Văn được xá-lợi” thuộc bộ
Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 3.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 211
Bàn, thiêu thân hóa hiện tám hộc bốn đấu155 xá-lợi mà nói. Đấy chính là
ước theo đa số để nói.
Cũng có loại xá-lợi không phải từ xương trên thân [đức Phật mà
có], như người đời Tống khắc ván in cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn tìm
được ba hạt xá-lợi trong tấm ván, ba hạt xá-lợi tìm được ở ba chỗ. Lại
nữa, thiện nữ nhân thêu kinh, đâm kim xuống bị vướng, nhìn vào tìm
được xá-lợi. Lại có người niệm Phật, từ trong miệng có được xá-lợi. Có
vị cao tăng tắm gội, bảo học trò kỳ lưng, nghe có vật lanh canh rơi
xuống, nhìn xem thì thấy được xá-lợi. Tuyết Nham Khâm thiền sư156 cạo
đầu, tóc [rớt xuống] biến thành một chuỗi xá-lợi. Trường Khánh Nhàn thiền
sư đời Tống viên tịch, ngày hỏa thiêu Ngài, trời nổi cơn gió lốc lớn, khói
bay xa ngoài bốn mươi dặm. Khói lan đến đâu, trên nóc nhà, ngọn cây,
ngọn cỏ, đều có xá-lợi, nhặt được hơn bốn thạch157.
Ngoại đạo chẳng biết xá-lợi chính là do sức của Giới - Định - Huệ
tạo thành, bèn bảo [xá-lợi] là do Tinh - Khí - Thần158 luyện thành. Đây là
155 Hộc và Đấu là những đơn vị đo lường thời cổ, có dung lượng biến đổi theo triều
đại. Thời Tần, một Hộc bằng mười Đấu, mỗi Đấu là 2 lít. Từ đời Tống trở đi, một
Hộc bằng năm Đấu và dung lượng của Đấu lớn dần lên, đến đời Thanh, một Đấu
bằng 10 lít. Do kinh Phật đa số được dịch từ thời Hán đến giữa đời Tống, nên ta có
thể ước lượng một Hộc bằng mười Đấu và mỗi Đấu từ 2 đến 3 lít.
156 Tuyết Nham Khâm chính là hòa thượng Tuyết Nham Tổ Khâm (?-1287), thuộc
phái Dương Kỳ tông Lâm Tế, người xứ Vụ Châu, pháp hiệu Tuyết Nham. Làm sa-di
lúc năm tuổi, được thọ Cụ Túc năm mười sáu tuổi, trước sau từng tham học với các
vị Diệu Phong Chi Thiện, Diệt Ông Văn Lễ (chùa Tịnh Từ) v.v… Sau đến Kính Sơn
tham học với ngài Vô Chuẩn Sư Phạm, về sau làm người nối pháp của vị này. Từng
được vua tặng ca sa tía, thanh danh lừng lẫy một thời. Sư thị tịch vào năm Chí
Nguyên 24 đời Nguyên (1287), còn để lại Tuyết Nham Hòa Thượng Ngữ Lục (bốn
quyển). Người nối pháp của Sư là ngài Cao Phong Nguyên Diệu (vị này chính là
thầy thế độ cho ngài Trung Phong Minh Bổn).
157
Thạch: Có hai đơn vị đo lường cùng gọi là Thạch.
1) Để đo dung tích thì một Thạch là 67 lít
2) Để đo trọng lượng thì một Thạch bằng 76 kg.
158 Tinh - Khí - Thần vốn là những khái niệm y học, được nhắc đến trong bộ sách y
khoa cổ nhất của Trung Quốc là Hoàng Đế Nội Kinh, bọn đạo sĩ đã thần bí hóa khái
niệm ấy và gán ghép rất nhiều cách giải thích phức tạp. Ông Thái Nhật Sơ trong bài
“Tinh - Khí - Thần Và Hoạt Động Sống Còn” đã giải thích khá rõ ràng như sau:
“Theo Trung Y Học, cái gọi là Tinh tức là những vật chất tinh vi trong cơ thể con
người, tức là những vật chất cơ sở cấu tạo thành thân thể con người, là cái gốc của
sanh mạng. Khí chính là những công năng, động lực duy trì cuộc sống con người.
Tánh mạng và sự hoạt động của con người được duy trì bởi Khí, Thần là biểu hiện
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 212
ăn trộm danh từ của Phật giáo, chứ tuyệt chẳng biết nghĩa lý trong Phật
giáo, liền đơm đặt bịa chuyện. [Xá-lợi] phần nhiều do dời chuyển mà có
được, như khắc ván, thêu kinh và do miệng niệm Phật mà có, cũng như
[xá-lợi] của ông do từ hoa đèn mà được đều là vì lòng Thành chuyên
ròng đến cùng cực nên đức Phật rủ lòng Từ gia bị, thị hiện.
Hơn nữa, xá-lợi của Phật càng thần biến khôn ngằn. Như khi Tùy
Văn Đế (Dương Kiên) chưa làm hoàng đế, một vị Phạn tăng (tăng nhân
Ấn Độ) tặng cho mấy viên xá-lợi, đến khi lên ngôi xem lại thì thấy có rất
nhiều viên (mấy trăm viên). Do vậy bèn dựng hơn năm mươi tòa bảo
tháp. Tháp đựng xá-lợi ở chùa A Dục Vương có thể nâng lên xem, mỗi
người thấy một khác, hoặc cùng một người nhưng trong mỗi lúc thấy
[xá-lợi] chuyển biến lớn, nhỏ, cao, thấp và màu sắc thay đổi, hoặc chẳng
thay đổi khác nhau. Như vậy là chẳng thể dùng phàm tình để suy lường
được. Người đời dùng phàm tình để suy lường Phật pháp nên chỉ bị tổn
hại, chẳng được lợi ích. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 13 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 3, Thư trả lời cư sĩ Dương Bội Văn)
* Những câu “nãi chí thập niệm, hàm giai nhiếp thọ, duy trừ Ngũ
Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (cho đến mười niệm đều được nhiếp thọ,
chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp) trong kinh Vô Lượng Thọ
là luận theo lúc bình thường, chứ không luận trên lúc lâm chung. Do kẻ
ấy đã có tội Ngũ Nghịch cực nặng, lại kèm thêm tà kiến sâu nặng, phỉ
báng chánh pháp, cho rằng pháp “siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát
tử, và niệm Phật vãng sanh” do đức Phật đã nói đều là căn cứ để dụ dỗ,
gạt gẫm ngu phu ngu phụ vâng thờ giáo pháp của Ngài, chứ thật ra
chẳng hề có chuyện ấy; do có tội chướng cực nặng ấy, dẫu có thiện căn
một niệm hay mười niệm, nhưng vì không có tâm hổ thẹn cùng cực, tin
tưởng cùng cực nên chẳng thể vãng sanh được!
Chương Hạ Hạ Phẩm trong Quán Kinh nói về những kẻ lúc sắp lâm
chung, tướng địa ngục A Tỳ hiện, tuy [Quán kinh] chẳng nói [kẻ ấy] phỉ
báng chánh pháp, nhưng đã là kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác, đầy đủ mọi điều
bất thiện, ắt không thể nào chẳng phỉ báng chánh pháp! Nếu hoàn toàn
của Khí. Nói cách khác, Thần là những gì được biểu hiện ra ngoài của sanh mạng và
công năng của động lực sống của con người như âm thanh, dáng vẻ, hình vóc, thái
độ, tình cảm v.v… Như vậy, Tinh là vật chất nuôi sống, Khí là vật chất có tác dụng
dinh dưỡng được chuyển hóa thành những năng lượng cần thiết cho cuộc sống, Thần
bao gồm những hoạt động sinh lý (bioglogical) và tâm lý của con người”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 213
không phỉ báng chánh pháp, sao lại có thể giết A La Hán, phá hòa hợp
Tăng, làm thân Phật chảy máu được? Thường có kẻ giải thích rằng trong
trường hợp này (tức những kẻ được nói trong Quán Kinh) thì không
báng chánh pháp, trong trường hợp kia (tức những kẻ được nói trong
kinh Vô Lượng Thọ) là báng chánh pháp, [thoạt nghe qua] cũng rất có
lý, nhưng đã không báng pháp, sao lại có thể làm ba sự đại nghịch ấy
cho được?
Do vậy, biết rằng: Bốn mươi tám nguyện là luận theo lúc bình
thường, còn chương Hạ Hạ Phẩm của Quán Kinh luận theo lúc đã thấy
tướng khổ cùng cực của địa ngục, kẻ ấy hoảng sợ không thể nào diễn tả
được, vừa nghe danh hiệu Phật bèn xót xa cầu xin được cứu giúp, trọn
chẳng có ý niệm nào khác, chỉ có ý niệm cầu Phật cứu độ, hộ niệm! Tuy
là vừa nghe liền niệm, nhưng đã “toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm,
ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm”, cho nên tuy chỉ mười
niệm hoặc chỉ một niệm, vẫn được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh! Bốn
mươi tám nguyện là luận theo lúc bình thường, chương Hạ Hạ Phẩm của
Quán Kinh nói về lúc lâm chung. Do thời gian, sự việc khác biệt, cho
nên có sự nhiếp thọ hay không [nhiếp thọ] sai khác. Cho đó là mâu
thuẫn, tức là trở thành gã si ngốc159 vậy! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời đại sư Thiện Giác)
* Con người ông Hà có hào khí sâu đậm, nhưng chưa từng nghe
pháp của thánh nhân Nho - Thích tu thân trị tâm, nên gặp phải cảnh ngộ
ấy. Tình cảnh đó khá giống với tình cảnh của ông Du Tịnh Ý160, nhưng
159 Nguyên văn “tạc tử mão tử hán”, là một thành ngữ của Thiểm Tây để chỉ kẻ si
ngốc, khăng khăng cố chấp, không hiểu biết gì. Có thuyết giải thích từ ngữ này xuất
phát từ câu chuyện có một gã khờ thấy một con thỏ chạy đâm vào gốc cây bị chết,
bèn khoét lỗ nơi thân ấy, cứ đứng đợi mãi để chờ xem có con thỏ nào dại dột đâm
đầu vào ấy chết hay không. Xin ghi lại lời giải thích này như một điều tồn nghi!
160 Du Tịnh Ý tên thật là Du Đô, tự Lương Thần, sống vào thời Gia Tĩnh nhà Minh,
học rộng tài cao, đỗ Tú Tài năm 18 tuổi. Đến tuổi trưởng thành, ông ta cùng mấy
người bạn học lập ra Văn Xương Xã, tận lực thực hiện những thiện sự được dạy
trong bài Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân. Thế nhưng thi cử lận đận, thi mãi
nhưng không đậu được Cử Nhân, Tiến Sĩ; sanh được năm đứa con trai, bốn đứa chết
yểu, đứa con thứ ba năm tám tuổi chạy chơi trong làng, bị lạc mất. Ông còn sanh
năm đứa con gái, nhưng chỉ còn sống được một. Vợ khóc con đến nỗi mù cả hai mắt.
Mỗi đêm cuối năm, cảnh nhà nghèo túng, quạnh quẽ thê lương, ông than thở mình
không có tội lỗi chi lớn, than là bị trời phạt bèn viết sớ tâu lên Táo Thần, cầu chuyển
lên Thiên Đình. Làm như vậy mấy năm, không thấy cảm ứng gì. Đến năm bốn mươi
bảy tuổi, tối Giao Thừa, vợ chồng và con gái đang ngồi trong nhà, thấy một ông lão
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 214
họ Du vẫn chưa biết sâu xa về pháp môn Tịnh Độ. Nếu ông Hà chịu nghĩ
“đã chết đi sống lại”, đem hào khí trước đây sửa đổi thành khiêm
nhường, tự kiềm chế, thì sự thành tựu sau này còn cao siêu hơn ông Du!
Ông ta do thoạt đầu thấy Tăng phần nhiều hủ bại, nên chẳng chịu quy y.
Nay Quang cũng là ông Tăng hủ bại, mà vẫn muốn quy y, quả thật chẳng
biết Tăng là người như thế nào?
So với hạng Tăng ăn thịt uống rượu, Quang còn có chút điểm tốt.
Các vị đại Bồ Tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v.. và
những Quyền Vị Bồ Tát chưa chứng Pháp Thân, đã đoạn Hoặc nghiệp
trong tam giới và Nhị Thừa thánh nhân đã chứng quả Duyên Giác, chứng
quả A La Hán đều thuộc về Tăng. Như Quang đây, kém xa các vị tăng A
La Hán khác nào sự cách biệt vời vợi giữa trời với đất, huống hồ đem
sánh với bậc Duyên Giác và các bậc Quyền Vị Bồ Tát chưa chứng Pháp
Thân! Huống hồ lại [đem sánh với] các vị Tăng như Quán Âm, Thế Chí,
Văn Thù, Phổ Hiền ư? Ông ta chỉ biết các ông Tăng uống rượu ăn thịt
trong nhân gian thì ngay cả những vị Tăng giữ Thanh Quy cẩn thận (do
chẳng chú ý nên cũng sanh ý tưởng kém hèn không thể kham nổi này) trong nhân
gian cũng chưa được thấy nghe, huống gì là các vị Tăng đại thánh nhân
khác! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Trương Giác Minh - 2)
* Người học Phật hãy nên có con mắt chọn lựa pháp. Trong Phật
pháp, pháp nào cũng hay, nhưng cần phải biết có tự lực và Phật lực khác
nhau. Các tông Thiền, Giáo, Mật v.v… đều cần phải đoạn Hoặc chứng
Chân thì mới liễu sanh tử được. Đoạn Hoặc chứng Chân há nói dễ dàng
ư? Mật Tông tuy có nghĩa “hiện thân thành Phật” (thành Phật ngay trong
thân hiện tại), nhưng không phải ai cũng có thể làm như thế được!
Huống chi Mật Tông thường dùng thần thông để thu hút, lay động người
khác. Thầy đã dùng chuyện ấy để hấp dẫn người khác, đệ tử sẽ chẳng thể
không dốc chí hâm mộ thần thông. Nếu cái tâm hâm mộ, hy vọng thần
đến xưng là họ Trương, đến hỏi chuyện, an ủi. Họ Du nhân đó kể lể nỗi niềm, ông
Trương bèn cặn kẽ chỉ ra những khuyết điểm của họ Du: “Tuy làm lành, phóng sanh,
nhưng chuộng hư danh, không thực chất, chỉ làm qua loa cho xong chuyện, cốt làm
cho nhiều mà thôi, ăn nói bóng bẩy nhưng khắc bạc, gây thương tổn tình cảm người
khác” v.v… rồi chỉ dạy cách ăn ở sao cho trọn vẹn tình nghĩa. Giảng giải xong, ông
lão đi ra sau bếp, họ Du chạy theo thì ông lão đã biến mất, do vậy mới biết là Táo
Quân hiện thân chỉ điểm. Câu chuyện này được ghi lại thành Du Tịnh Ý Công Ngộ
Táo Thần Ký.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 215
thông thật thiết tha, thật tột bực, sẽ rất nguy hiểm chẳng thể nào kể xiết!
Xin đừng chú trọng thần thông thì may mắn lắm thay!
Lời lẽ trong Tông môn ý nằm ngoài lời. Vì thế, phải vứt sạch hết
thảy để chuyên ròng tham cứu. Nếu chỉ đọc được mấy cuốn sách Thiền,
liền học đòi tung hứng những lời cơ phong, tội sẽ cực nặng! Ví như khẩu
lệnh trong quân đội, người ngoài doanh trại chẳng thể biết được. Nếu chỉ
thuận theo mặt chữ để giảng giải cơ phong, sẽ như kẻ ở ngoài doanh trại
lầm lạc mưu toan đoán mò ý nghĩa của khẩu lệnh trong quân doanh rồi
tự trà trộn vào, há chẳng nộp mạng ngay nơi ấy hay sao? (Hoằng Hóa
Nguyệt San số thứ 6 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư
sĩ Hác Trí Hy)
* Thật Tế lý địa chẳng lập mảy trần, phàm - thánh, chúng sanh - Phật
đều khó thể xưng nói. Về phương diện tu trì, cần phải đầy đủ các đức.
Nếu thiếu một pháp, chẳng thể chứng Pháp Thân được! Đức Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn ta trong trần điểm kiếp161 trước đã sớm thành Chánh
Giác, vì độ chúng sanh bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian, ẩn giấu
thánh đức, thị hiện chưa ngộ giống như chúng sanh để làm gương cho
muôn loài. Xuất gia, tu đạo, đến lúc sao Mai vừa lố dạng, hoát nhiên đại
ngộ, than rằng:
- Lạ thay, hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ của Như Lai,
nhưng do vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng
tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí162 đều
được hiện tiền.
161
Số kiếp như số bụi vi trần.
162 Nhất Thiết Trí (Sarvajña) còn được phiên âm là Tát Bà Nhã Trí, tức trí đúng như
thật hiểu rõ hết thảy các pháp tướng bên trong lẫn bên ngoài. Kinh Nhân Vương Hộ
Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa, quyển Hạ giải thích: “Trọn đủ vô lậu giới, thường tịnh
giải thoát thân, tịch diệt chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất Thiết Trí”. Du Già Sư Địa
Luận, quyển 38 giảng: “Trong hết thảy cõi, hết thảy sự, hết thảy phẩm, hết thảy thời
trí vô ngại nên gọi là Nhất Thiết Trí”. Đại Trí Độ Luận giảng: “Về tổng tướng thì là
Nhất Thiết Trí, biệt tướng là Nhất Thiết Chủng Trí, nhân là Nhất Thiết Trí, quả là
Nhất Thiết Chủng Trí, nói lược là Nhất Thiết Trí, nói rộng là Nhất Thiết Chủng Trí.
Nhất Thiết Trí là phá hết thảy sự vô minh tối tăm trong hết thảy các pháp, Nhất Thiết
Chủng Trí là quán các pháp môn, phá các vô minh… Nhất Thiết Trí là chuyện của
Thanh Văn, Duyên Giác, Đạo Trí là chuyện của Bồ Tát, Nhất Thiết Chủng Trí là
chuyện của Phật”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 216
Do vậy, trong hội rộng lớn như biển, [những vị] tụ họp như mây
nhóm về thế giới Hoa Tạng đều là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, tức các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi
mốt địa vị. Trong Bồ Đề Tràng và sáu nơi khác163, nói Nhất Chân pháp
giới tịch chiếu164 viên dung, chúng sanh và Phật chẳng hai, lý tánh chẳng
thể gọi là có hay không, và sự tu nhân chứng quả của các giai đoạn từ
Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác
cho đến Diệu Giác Phật Quả.
Vì thế, biết: Lý do Sự hiển, Sự do Lý thành, Lý - Sự viên dung mới
hợp Phật đạo. Đời có kẻ cuồng chuyên trọng lý tánh, chẳng chuyên chú
sự tu, trên là trái nghịch lời Phật dạy, dưới là phụ bạc tự tâm, tự lầm, lầm
người, thật đáng thương xót! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ,
Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ
Khải)
* Tứ Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Bốn pháp này đều chân thật chẳng
dối, vì thế gọi là Đế. Đế (諦) có nghĩa là chân thật. Lại có khi coi Lý là
Đế, nên gọi là “lý chân thật chẳng dối”.
Vô Sư Trí (Anupadista-jñāna), tức trí thành tựu không nhờ vào sức của người khác,
không đợi người khác dạy mà tự nhiên thành tựu. Trí huệ do tự mình chứng ngộ, như
trí huệ do đức Phật tự chứng chẳng hạn, hoặc như bậc Duyên Giác, quán các pháp
nhân duyên sanh diệt bèn chứng trí giác.
Tự Nhiên Trí (Svayambhū-jñāna), chư Phật không cần dụng công, tự nhiên sanh ra
Nhất Thiết Chủng Trí. Trong Pháp Hoa Kinh Huyền Tán, quyển năm, pháp sư Khuy
Cơ đời Đường đã viết: “Phật do giác ngộ mà sanh ra hai trí Quán Không Trí và
Quán Hữu Sự Trí, [hai trí ấy] được gọi là Tự Nhiên Trí”. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển
sáu chép: “Tự Nhiên Trí là trí do đức Như Lai tự giác tự chứng, chứ không do tu học
mà có, cũng không có cách nào truyền dạy cho người khác được”. Tổng hợp hai
cách giải nghĩa này thì Tự Nhiên Trí chính là tác dụng của sự giác ngộ hoàn toàn, tức
nói đến mặt lực dụng của Nhất Thiết Chủng Trí sau khi đã viên mãn Phật quả.
163 Kinh Hoa Nghiêm được giảng tại bảy chỗ là Tịch Diệt Đạo Tràng (tức Bồ Đề
Tràng), điện Phổ Quang Minh, Đao Lợi Thiên Cung, Dạ Ma Thiên Cung, Đâu Suất
Thiên Cung, Tha Hóa Tự Tại Thiên Cung và rừng Thệ Đa.
164
Tịch: Vắng lặng, không xao động. Đây là thuật ngữ mô tả Phật tánh thường hằng
bất biến, không bị ngoại cảnh làm ô nhiễm, biến đổi, thường được diễn tả bằng câu
nói “bất sanh, bất diệt, bất nhất, bất nhị, bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh”. Giải
thích một cách nông cạn thì Chiếu là khả năng nhận biết thông suốt mọi sự. Tuy
thông suốt nhưng không chấp trước, không bị ô nhiễm bởi ngoại cảnh nên nói là “tuy
chiếu mà thường tịch”, dẫu vắng lặng nhưng không hề mất khả năng thấu hiểu trọn
vẹn nên gọi là “tuy tịch nhưng thường chiếu”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 217
Khổ chỉ cho cái sắc thân mà chúng ta có và quốc độ để nương trụ,
không gì chẳng phải là khổ! Tập là mọi thứ nhóm họp, nghĩa là do chẳng
hiểu Chân Không, đối với các cảnh giới sanh khởi tham - sân - si. Diệt là
diệt trừ phiền não, chứng đắc Lý Tánh bất sanh bất diệt. Đạo có nghĩa là
thông suốt, ý nói tu đạo Giới - Định - Huệ liền có thể đoạn được tham sân - si Tập (tham - sân - si nhóm họp), chứng được Lý Tánh bất sanh
bất diệt để thoát khỏi thế giới khổ não này và thoát lìa cái thân khổ báo
này.
Bốn điều này đều là nêu “quả trước, nhân sau”: Tập là nhân của
Khổ, Khổ là quả của Tập; Đạo là nhân của Diệt, Diệt là quả của Đạo.
Nói như vậy để biết Khổ mà đoạn Tập, hâm mộ Diệt mà tu Đạo. (Hoằng
Hóa Nguyệt San số thứ 5 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả
lời cư sĩ Diệp Sính Thần)
* Quán Âm chính là quá khứ Cổ Phật, làm bậc phù tá đức Di Đà.
Niệm Quán Âm cầu sanh Tây Phương vẫn có thể được như nguyện, có
gì là không được! So sánh những công đức niệm Quán Âm, Địa Tạng,
Di Đà v.v… chính là nhằm khiến cho người ta phát tâm quyết định niệm
Phật, chẳng có ý niệm đổi dời mà thôi! Nếu chấp chết cứng vào lời ấy,
chẳng hiểu được ý, sẽ trở thành oan uổng cho đức Phật.
Hiện thời, mọi người đều đang trong cảnh hoạn nạn, hãy nên nói
với hết thảy mọi người “để giải trừ hoạn nạn chỉ có một cách là sửa lỗi,
hướng thiện, đôn đốc luân thường, chí thành, khẩn thiết, xưng niệm danh
hiệu Quán Âm”, ấy là diệu pháp độc nhất vô nhị! Bất luận các sự nguy
hiểm như nước, lửa, đao, binh v.v… và bệnh tật do oán nghiệp, thuốc
men chẳng thể trị được, nếu chịu tuân theo những điều vừa nói trên đây,
chắc chắn sẽ gặp dữ hóa lành, gặp nguy thành an, và oán nghiệp tiêu
diệt, không uống thuốc mà lành bệnh.
Nhìn vào thời cuộc hiện tại, nguy hiểm muôn phần, nếu chiến sự
xảy ra, cả nước không một chỗ nào yên vui cả! Dẫu là chỗ chưa bị chiến
tranh lan đến thì cái họa thổ phỉ so với chiến tranh còn khốc liệt hơn
nữa! Hãy nên bảo hết thảy già trẻ, trai gái đồng niệm “Nam-mô A Di Đà
Phật” và “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Ngoại trừ cách này ra, không
có cách tốt lành nào khác! Đối với tai nạn nhỏ thì sẽ gặp dữ hóa lành.
Dẫu cho mọi người đều cùng chết sạch, người niệm Phật sẽ nương theo
Phật lực, hoặc sanh về Tây Phương, hoặc sanh vào đường lành. Chớ nên
nói “đã không thể nào tránh khỏi cái chết thì niệm Phật vô ích!” Chẳng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 218
biết: Con người được thọ sanh làm người đều do nhân duyên tội phước
đã gây trong đời trước tạo thành cái gốc [để quyết định] sanh vào nhà
phú quý hay bần tiện. Người niệm Phật có tín nguyện sẽ được vãng
sanh; dẫu không có tín nguyện cũng chẳng đến nỗi đọa vào ác đạo, há có
nên chẳng niệm để tự mình lầm, lầm người ư?
Mọi chuyện phải khéo suy nghĩ, chớ nên mặc tình làm bừa. Ngay
như hành vi bố thí thường là chuyện lành, nhưng đối với kẻ chẳng biết
hổ thẹn lại biến thành chướng ngại, cố nhiên hãy từ chối, không chấp
nhận! Nếu kẻ [như vậy] đến xin, chỉ cho một chút, hắn sẽ tự chẳng đến
nữa, cũng chẳng đến nỗi nổi nóng phát cáu, chỉ có cách mặc kệ hắn là
hay nhất. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ
Niệm Phật)
* Trước tượng Tây Phương Tam Thánh không cần phải đắp tượng
Phật Thích Ca. Phàm những thứ đeo giắt trên thân như chú Lăng
Nghiêm v.v… khi nằm nghỉ, lúc đại tiểu tiện nên cởi ra. Chỉ khi gặp
cảnh nguy hiểm cùng cực là có thể không cần tháo ra. Nếu lúc bình
thường không nguy hiểm vẫn không bỏ ra, sẽ trở thành cái tội khinh
nhờn không thể kể xiết được! [Nếu] trong phòng có kinh tượng thì hãy
nên hết sức kính trọng! Hàn Sơn và Thập Đắc165 là do Văn Thù và Phổ
Hiền hiện ra, vì thế phải thường giữ lòng kiêng sợ, chẳng dám phóng
túng mới nên!
Đồ chay nơi những quán cơm không sạch sẽ, người ăn chay nên
vĩnh viễn đoạn trừ những thứ ăn uống giao tế ấy. Nếu người ta mời, bèn
viện cớ chẳng thanh khiết để từ chối, vừa khỏi bị người ta mời vừa
chẳng bị phí tiền oan uổng mời lại người ta! Người ta dùng cái lễ vô lý
để mời, không đi đâu có sao! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ,
Trả lời thư cư sĩ Niệm Phật)
* Trong thời kỳ này, chỉ nên sốt sắng tu trì, chớ nên nghiên cứu tràn
lan bởi “sống - chết, còn - mất” đã ở ngay trước mắt! Nếu chỉ nghiên cứu
tràn lan, về mặt gieo thiện căn thì có, nhưng nơi liễu sanh tử thì không.
Ngoài niệm Phật ra, hãy niệm kèm thêm thánh hiệu Quán Âm để cầu
đình chiến, khỏi nạn. Ắt cần phải có lòng Thành như cứu đầu cháy thì
mới có cảm ứng được. Dẫu vận nước chẳng thể xoay chuyển được ngay,
165
Thời ấy, người Trung Hoa thường hay tạo hình tượng Hàn Sơn và Thập Đắc gọi
là Hòa Hợp Nhị Thánh trưng bày trong nhà hay trong tiệm như một loại bùa cầu
may, nên ở đây Tổ dạy không được khinh nhờn tượng hai vị này.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 219
nhưng chính mình chắc chắc được Tam Bảo gia bị, gặp nguy hiểm vẫn
bình yên. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Trịnh Phỉ Kham)
* Trong Phật pháp có trụ trì thế gian pháp và có duy luận lý tánh
pháp. Trụ Trì thế gian pháp là nếu người khác chẳng hết sức chí thành,
sẽ chẳng vì kẻ đó thuyết pháp. Nay thế đạo suy vi, chẳng thể hoàn toàn
hành đúng như vậy. Vì thế, đối với những thư hỏi pháp, mặc lòng người
ta [viết] như thế nào, Quang cũng đều trả lời. Nếu quá ngạo mạn, vẫn chỉ
bày, trách móc lỗi ấy để khỏi phụ lòng kẻ đó gởi thư đến. Chỉ có kẻ xin
quy y, nếu chẳng dùng những chữ [tỏ ý] tự nhún mình, chắc chắc chẳng
dám chấp thuận. Vì chấp thuận như vậy tức là tự khinh Phật pháp, mà
cũng khiến cho kẻ ấy khinh thường Phật pháp. Có thể là vì kẻ ấy chẳng
biết lễ nghi, hoặc là do ngã mạn tự đại. Người tự đại thì làm sao dám nói
với họ? Kẻ chẳng biết lễ nghi thì ắt sẽ làm cho họ biết, chứ không phải
mong được người khác cung kính, đấy chính là chẳng khinh pháp và
khinh người vậy! Nếu chẳng duy trì như thế, Phật pháp sẽ chẳng thể lưu
truyền.
“Duy luận lý tánh pháp” (Pháp chỉ xét trên mặt tánh, trên lý, không
luận trên hình tướng, trên mặt sự) thì phàm Tăng chẳng thể làm được,
chỉ có đại Bồ Tát lại không phải là người có trách nhiệm duy trì pháp
đạo làm như vậy thì sẽ có lợi ích sâu xa. Phàm phu làm theo sẽ phá hoại
chánh pháp của Như Lai, tai hại chẳng cạn! Như trong kinh Pháp Hoa,
Thường Bất Khinh Bồ Tát hễ trông thấy tứ chúng đều lễ bái, thưa: “Tôi
chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ thành Phật!” Tứ chúng có
kẻ dùng roi gậy, ngói, đá đánh ném, bèn chạy ra xa đứng, rồi làm lễ, tán
thán rằng: “Tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ thành
Phật!” Tôi sợ ông chẳng biết nghĩa này rồi lầm lạc sanh ra nghi ngờ, bàn
bạc, nên mới nói đại lược. Nếu là phàm phu Tăng, trọn chẳng thể nương
theo cách hành động ấy! Bậc đại Bồ Tát trụ trì pháp đạo cũng phải y
theo cách hành động của phàm tăng.
Như sư Tế Điên chính là bậc cao nhân vượt ngoài khuôn khổ, nhưng
vẫn hành động trong chừng mực166, ngài Tế Điên chẳng giữ Thanh Quy,
166 Nguyên văn “thằng xu xích bộ”. Đây là một thành ngữ hàm nghĩa cử chỉ, hành
động tuân theo mực thước, khuôn khổ. Thằng (繩) tức là dây mực, Xích (尺) là
thước đo, tức hai dụng cụ chánh yếu của thợ mộc. “Thằng xu xích bộ” hiểu theo
nghĩa đen là noi theo dấu dây mực, bước theo thước đã vạch.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 220
nhằm hiển lộ đại thần thông. Nếu giữ Thanh Quy cẩn thận mà hiển lộ
thần thông thì chẳng thể sống trong thế gian được! Chỉ có mượn cách
điên điên khùng khùng làm cho người ta tin tưởng, nghi ngờ lẫn lộn,
hòng ngầm giáo hóa khiến cho người ta biết Phật pháp chẳng thể nghĩ
bàn hầu sanh tâm chánh tín. Những kẻ vô tri không biết xấu hổ trong cõi
đời học đòi theo đó, sao chẳng học “ăn thứ chết vào, ói ra thứ sống”?
Sao chẳng học “uống rượu say ngủ vùi mấy ngày, nhưng trăm ngàn cội
gỗ to từ dưới giếng trồi lên”, và “uống rượu say bét nhè, ói ra vàng để
thếp vàng tượng Phật trong cả điện”? Thứ chuyện chẳng thể nghĩ bàn ấy
chỉ có hạng người ấy thực hiện thì không trở ngại chi, chứ nếu người giữ
Thanh Quy cẩn thận mà làm, chắc chắn sẽ phải qua đời ngay! Nếu
không, ai nấy đều đến tìm vị ấy, chẳng thể làm hết thảy mọi chuyện
được! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Dương Huệ Xương -3)
* Cư Sĩ Lâm tại thị trấn Đường Áp thuộc thành phố Nam Thông
(tỉnh Giang Tô) rất tích cực, năm ngoái một thành viên của Cư Sĩ Lâm
rất thông minh, giảng kinh Địa Tạng một lần, từ đấy những kẻ chẳng biết
“pháp môn Niệm Phật là pháp môn để phàm phu cậy vào Phật lực hòng
liễu sanh tử trong đời này” quá nửa đều chẳng niệm Phật, chuyên chú
trọng nghe kinh. Lâm trưởng thỉnh Quang nói với người giảng kinh. Do
vậy, bèn dạy vị ấy:
“Phật pháp như biển cả, một giọt có đủ vị của muôn sông. Phật
pháp như cái lưới kết bằng những hạt châu của Thiên Đế, mỗi hạt châu
có đủ ánh sáng của ngàn hạt châu. Luận về phía bậc đại thông gia thì
lời thô lẽ tế đều là Nhất Chân. Luận về phía kẻ chưa về đến nhà, hãy nên
chỉ đường về nhà cho đỡ tốn sức. Huống chi bậc đã chứng Đẳng Giác
muốn viên mãn Phật Quả vẫn phải niệm Phật cầu sanh Tây Phương; kẻ
sắp đọa A Tỳ, mười niệm thành công, có thể cao dự hải hội. Như thuốc A
Già Đà trị chung vạn bệnh; như ánh nắng Xuân vừa chiếu đến, trăm loài
cây cỏ sum xuê. Lợi ích mầu nhiệm ấy ngoại trừ đức Phật, chẳng ai có
thể biết được! Sao chẳng từ những chỗ ấy phát khởi lòng tín nguyện cho
bọn họ, ngõ hầu ai nấy đều được vãng sanh. So với những kẻ giải thích
từng chữ, từng câu để tạo thành thiện căn đắc độ trong tương lai, khác
biệt như thể một trời, một vực! Hãy noi theo quy củ thường lệ, đừng tạo
ra hai đường lối hành trì trong cùng một lâm!”
Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, nếu
nhóm họp mọi người niệm Phật nhưng chẳng đem nguyên do và phương
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 221
pháp, lợi ích do tu trì pháp môn này diễn thuyết cho đại chúng thì vì
chẳng biết tông chỉ, họ sẽ chỉ được phước báo trời người, cô phụ ơn Phật
rất sâu. Tăng hay tục đều [diễn giảng] được, chứ không riêng gì cư sĩ.
Đây là luận trên phương tiện diễn thuyết, chớ nên lấy lề lối giảng kinh
làm chuẩn mực.
Nếu thỉnh người chuyên giảng một thất, lần đầu nên đảnh lễ Hòa
Thượng hoặc Lâm Trưởng, Xã Trưởng và thành viên trong cư sĩ lâm, lạy
khắp mọi người một lạy. Sau đấy, đối trước pháp tòa, lễ Phật ba lạy, rồi
lên tòa giảng. Hoặc giảng trích lược kinh văn, hoặc giảng chung chung
về pháp tắc niệm Phật và tâm hạnh suy nghĩ, xử sự phải hợp với Phật.
Giảng xong, nói đại lược lời tạ lỗi, xin chư vị rộng lượng dung thứ, liền
xuống tòa, lễ Phật ba lạy là xong.
Phía trên pháp tòa nên thờ tượng Phật. Hiện thời mọi thứ quá đắt đỏ,
chỉ nên đốt một cây hương, chẳng cần phải thắp nến, đốt Đàn hương167.
Lên tòa rồi, chẳng cho người khác lễ bái để khỏi lâm vào tình cảnh khó
xử cho cả đôi bên. Nếu ngẫu nhiên được thỉnh giảng một lần, liền lễ Phật
ba lạy, lên tòa diễn thuyết, giảng xong, xuống tòa lễ Phật ba lạy là được
rồi.
Mở đầu [buổi giảng] chẳng cần phải niệm kinh, xướng kệ, đấy là
phong cách của kẻ diễn thuyết. Nếu cứ theo đúng như lề lối giảng pháp,
sẽ trở thành tiếm phận! (Hiện thời đang là Mạt Pháp, tại gia cư sĩ nghiên cứu
diễn thuyết cùng đồng đạo, cố nhiên không có gì là chẳng được. Nếu cứ chiếu theo
nghi thức giảng kinh, đấy chính là chuyện của pháp sư xuất gia, cư sĩ làm theo đó
chính là “tiếm việt”). Đứng diễn thuyết cũng không thích hợp, rất mất ý
nghĩa kính trọng pháp! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Thư
trả lời cư sĩ Chương Duyên Tịnh)
* Cư sĩ diễn giảng, chỉ nên chuyên chú nơi một pháp Tịnh Độ, chớ
nên giảng tràn lan. Giảng tràn lan là chuyện của pháp sư giảng kinh, cư
sĩ há nên khơi ra đầu mối ấy! Do pháp môn Niệm Phật thích hợp khắp ba
căn, bởi mọi người chẳng biết pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc
biệt trong Phật pháp, hãy vì họ nói Tín - Nguyện - Hạnh khiến cho kẻ có
167 Đàn Hương (Sandalwood), tức Chiên Đàn, là một loại thuộc gỗ thơm, còn có tên
là Bạch Đàn, vốn phát xuất từ Ấn Độ. Gỗ có sắc vàng, có mùi thơm ngát, dịu dàng
nên thường được dùng để chế hương. Các loại Đàn Hương của Trung Quốc đôi khi
chế bằng Giáng Đàn Hương, tức là một loài cây khác thuộc họ Đậu, sớ gỗ hơi hồng,
có mùi thơm nhẹ hơn.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 222
trí huệ nhưng không hiểu biết ai nấy đều chú trọng pháp này. Há nên chỉ
mong khuếch trương môn đình, chẳng xét xem có khế cơ hành nhân hay
không.
Thiền sư Đạo Xước đời Đường cả đời giảng ba kinh Tịnh Độ gần
hai trăm lượt, vị này còn là người thân cận hòa thượng Thiện Đạo. Sư
thọ ngoài tám mươi, tính trên những khóa giảng thì mỗi năm Sư giảng ba
bốn lượt. Hiện thời trong Phật Thất đang đề xướng giảng các kinh thuộc
những tông khác. Nếu đại chúng trong pháp hội đối với Tịnh tông đều
hiểu biết sâu xa thì còn được, chỉ sợ rằng kẻ thông suốt chưa được dăm
ba người trong trăm kẻ, người không thông suốt mười phần hết tám chín.
Những vị pháp sư giảng kinh tràn lan kia còn có rất nhiều vị chẳng coi
Niệm Phật là đúng!
Nay chẳng chú trọng pháp môn cậy vào Phật lực để liễu sanh thoát
tử ngay trong đời này, nếu giảng Bát Nhã cho kẻ chẳng hiểu Tịnh Tông
tức là dạy họ chuyên tâm dốc chí nơi phương diện khai ngộ, đâm ra làm
cho đại pháp “muốn cho phàm phu sát đất được liễu sanh thoát tử” phát
xuất từ lòng đại từ bi của đức Di Đà bị coi rẻ. Người xin nghe giảng đã
không hay biết, sao người nhận lời giảng không nói rõ nguyên do cho
họ? Nếu họ không nghe, hãy nói: “Tôi không phải là người giảng kinh,
xin hãy mời vị chuyên chú trọng giảng kinh đến giảng”. (Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Thư trả lời cư sĩ Chương Duyên Tịnh)
* Nhất Sanh Bổ Xứ là danh xưng chung để gọi những vị phá vô
minh, chứng pháp tánh, há có nên giải thích là số lần sanh vào trong
nhân gian? Các vị Bồ Tát ấy chứng Vô Sanh sâu xa, trong khoảng một
niệm cũng có thể thị hiện sanh trong khắp các cõi. Tuy bao lượt thị hiện
giáng sanh, nhưng thật sự chẳng có tướng sanh nào để đạt được cả; do
vậy gọi là Vô Sanh. Nếu chỉ hiểu “chẳng sanh” là Vô Sanh thì có khác gì
hành tướng “khôi thân mẫn trí”168 của Tiểu Thừa đâu?
168 “Khôi thân mẫn trí” (nói phổ biến hơn là “khôi thân diệt trí”) là một từ ngữ diễn
tả cảnh giới tịch diệt vắng lặng của thánh nhân Nhị Thừa, thân không còn bị ngũ dục
lay chuyển, vắng lặng, không còn phiền não, dục vọng, giống như tro nguội, trí
không còn vọng tưởng lăng xăng, chìm lặng trong cảnh tịch định. Gọi là “mẫn trí”
hay “diệt trí” vì trí của các vị thánh nhân Tiểu Thừa vắng lặng, nhưng không có công
năng “quán chiếu, thấu hiểu mọi cảnh nhưng không chấp trước vào cảnh” như các vị
đại Bồ Tát, tức là “tịch nhưng không chiếu”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 223
[Các vị Nhất Sanh Bổ Xứ] biến dịch sanh tử169, chứ không thật sự
sanh tử. Vì tuy đã liễu sanh tử nhưng vẫn còn Vô Minh Hoặc chưa thể
nhanh chóng đoạn sạch được, nên phải nhiều lần đoạn Hoặc, nhiều lượt
chứng Chân. Ước theo ý nghĩa Sở Đoạn nên gọi là Tử, ước theo ý nghĩa
Sở Chứng nên gọi là Sanh. “Địa vị Bổ Xứ Phật” và “đạt đến địa vị Bổ
Xứ” ý nghĩa chẳng hai.
Ông cho rằng “thành Phật chính là đạt đến địa vị Bổ Xứ”, nhưng
mỗi vị Phật thành Phật có cơ duyên riêng, há nên chấp chết cứng? Chỉ
cần phá vô minh, chứng pháp tánh thì hoặc là thành Phật ngay, hoặc phải
trải qua nhiều kiếp dài lâu mới thành Phật, đều tùy thuộc cơ duyên của
mỗi vị như thế nào mà thôi!
“Chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng sanh vãng
sanh [cõi Cực Lạc] đều là A Bệ Bạt Trí). A Bệ Bạt Trí và Nhất Sanh Bổ
Xứ cũng đều thuộc trong số ấy; nhưng để chỉ rõ những vị thuộc vào địa
vị sâu xa [số lượng] rất nhiều nên [kinh Di Đà] lại nói: “Kỳ trung đa hữu
Nhất Sanh Bổ Xứ” (Trong số ấy có nhiều vị Nhất Sanh Bổ Xứ). Đừng
luận định các vị thượng thiện nhân cõi Cực Lạc bằng cách chấp chết
cứng vào giáo lý! Há nên dùng câu nói trên đây để kết thúc phần nói về
Tam Bất Thoái? Địa vị [Bất Thoái] thứ ba là Niệm Bất Thoái, chính là
những vị từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác trong Viên Giáo, chớ nên giới
hạn, đặt Tam Bất Thoái nằm ngoài số những vị Nhất Sanh Bổ Xứ. Hãy
nên nghiền ngẫm kỹ chữ “giai” (đều) và chữ “kỳ trung” (trong số ấy) sẽ
chẳng tự lầm lẫn tách rời [Tam Bất Thoái khỏi Nhất Sanh Bổ Xứ].
Kinh A Di Đà nói giản lược, nhưng công phu, công đức của mỗi
người vãng sanh đều sai khác vô lượng, vô biên; phẩm vị vãng sanh
cũng khác nhau vô lượng, vô biên! Nói “chín phẩm” bất quá là nêu sơ
lược đại cương mà thôi. Nếu đạt đến nhất tâm bất loạn thì giống với
169
Biến dịch sanh tử, còn gọi là “vô vi sanh tử”, là sự sanh tử của hàng A La Hán,
Bích Chi Phật cho đến Đại Lực Bồ Tát. Do dùng nghiệp phân biệt vô lậu làm nhân,
dùng vô minh trụ địa làm nhân để chiêu cảm báo thân thù thắng, vi tế, mầu nhiệm.
Do dùng đại nguyện đại bi vô lậu để chuyển biến cái thân sanh tử có hạn lượng
(phần đoạn sanh tử) thành cái thân vi diệu thù thắng, thân ấy do nguyện lực cảm
thành nên gọi là Biến Dịch (thay đổi). Do thân này vì nguyện lực cảm thành nên diệu
dụng chẳng thể nghĩ bàn, vì thế còn gọi là “bất tư nghị thân”. Do nguyện lực cảm
thành nên khi thệ nguyện đã mãn, hoặc cơ duyên hóa độ đã hết bèn xả thân, chứ
không phải vì nghiệp lực quyết định thọ mạng; vì thế, gọi là “biến dịch”, tức thay đổi
theo hoàn cảnh và căn cơ của người được hóa độ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 224
[những người vãng sanh thuộc địa vị] Thượng Phẩm Thượng Sanh như
trong Quán Kinh đã nói. Người chưa đạt nhất tâm và kẻ ác nghiệp nặng
nề sắp bị đọa [địa ngục] cố nhiên giống hệt như [những vị vãng sanh
thuộc] các phẩm Trung và Hạ trong Quán Kinh, chứ không phải là kinh
này chuyên tiếp dẫn người nhất tâm bất loạn, những kẻ khác đều chẳng
phải là căn cơ được nhiếp thọ bởi kinh này!
[Hiểu] như vậy thì cố nhiên ba kinh là một kinh! Nếu không, chính
là chấp văn trái ý, lỗi chẳng phải nhỏ! Tịnh Độ hoành siêu có người viên
chứng, có kẻ chưa thể viên chứng ngay. Dù chưa thể viên chứng nhưng
đã liễu sanh tử, không còn có chuyện luân hồi sanh tử nữa, vẫn ngay
trong một đời này được dự vào hàng Bổ Xứ, được thành Bồ Đề. So với
những kẻ cậy vào tự lực nhưng chưa viên chứng thì khác nào một trời,
một vực! Do vậy, cũng có thể gọi là “viên chứng”. Ông cho rằng: “Nếu
sanh vào cõi ấy, chứng Phương Tiện, Thật Báo, Tịch Quang có nhanh
hay chậm sai khác; vì thế, không một ai hễ vãng sanh bèn chứng ngay”.
Đọc phần kinh văn trong Quán Kinh dạy về chín phẩm vãng sanh ắt biết
liền!
Đối với những điều khác được nêu bày trong phần kinh văn tiếp
theo đó, ông hiểu quá sai ý nghĩa! “Đoạn sạch Kiến - Tư, ra khỏi Đồng
Cư, vào cõi Phương Tiện, đoạn sạch Trần Sa và phá một phần vô minh
bèn ra khỏi Phương Tiện, vào Thật Báo. Đoạn sạch vô minh, ra khỏi
Thật Báo, chứng cõi Tịch Quang”: Đây chính là ước theo sở chứng sâu
hay cạn, ước theo điều đã đạt được là thô hay diệu mà nói; đọc kỹ phần
luận về Bốn Cõi [Tịnh Độ] trong Di Đà Yếu Giải sẽ tự biết.
Hơn nữa, trong Văn Sao từng nói Thật Báo và Tịch Quang vốn là
một cõi. Ước theo lý tánh bèn gọi là Tịch Quang, ước theo quả báo gọi là
Thật Báo. Cõi Tịch Quang không có tướng, cõi Thật Báo có đủ các
tướng thù thắng trang nghiêm [với số lượng] nhiều như số vi trần trong
một cõi Phật. Phá một phần vô minh bèn phần chứng Thật Báo, mà cũng
chứng một phần Tịch Quang. Vô minh phá sạch bèn rốt ráo Thật Báo,
rốt ráo Tịch Quang. Để dễ hiểu, những người giảng giải quy kết Phần
Chứng vào Thật Báo, quy kết “rốt ráo” vào Tịch Quang. Cần biết rằng:
Thật Báo và Tịch Quang đều có Phần Chứng, đều có Cứu Cánh (rốt ráo).
Ông muốn tỏ rõ lý viên mãn của Tịnh Độ, nhưng đối với ý nghĩa
“viên chứng bốn cõi Tịnh Độ” lại nêu lên ý nghĩa “viên xuất cõi này”
(thoát khỏi trọn vẹn cõi này - tức cõi Phàm Thánh Đồng Cư) thì đâm ra
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 225
ăn nói sai quấy mất rồi! Đoạn hết Kiến Tư xong là ra khỏi Đồng Cư.
Đoạn Trần Sa, phá vô minh xong, chẳng còn phải đèo bồng Đồng Cư
nữa170, huống hồ là đã đoạn sạch vô minh, cần chi phải thoát khỏi hai cõi
Đồng Cư, Phương Tiện nữa ư? Chẳng biết: Do phàm phu được dự vào
Bổ Xứ nên tại Đồng Cư đã thấy trọn vẹn cả ba cõi trên! Đây là đã chứng
nhập địa vị sâu, há còn nói là “thoát khỏi Đồng Cư, Phương Tiện v.v…”
nữa ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ
Niệm Phật)
* Di Lặc là đấng giáo chủ của thế giới Sa Bà sẽ giáng sanh trong
tương lai, Lâu Các là phòng ốc nơi đức Di Lặc ở khi Thiện Tài đi về
phương Nam tham học. Nhà nhiều tầng là Lâu (樓), lầu cao là Các (閣 ).
Lâu các này thù thắng nhiệm mầu khôn sánh! Phàm phu, Nhị Thừa,
Quyền Vị Bồ Tát đều chẳng thể thấy được! Đấy chính là báo cảnh do
công đức thắng diệu thượng cầu hạ hóa của đức Di Lặc từ vô lượng kiếp
đến nay cảm thành.
Thiện Tài đã tham học với hai vị thiện tri thức là Đức Sanh và Hữu
Đức171 xong, họ lại dạy Thiện Tài đi qua Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm
Tạng Đại Lâu Các trong vườn Đại Trang Nghiêm ở nước Hải Ngạn tại
phương Nam thỉnh giáo Di Lặc Bồ Tát: “Vị Bồ Tát ấy ắt sẽ có thể vì
ngươi nói diệu pháp khế lý khế cơ rốt ráo, khiến cho ngươi được đại lợi
ích”. Do vậy, Thiện Tài cực lực đối trị tập khí phiền não, cực lực tu trì
đạo Giới - Định - Huệ, đến trước Tỳ Lô Giá Na Đại Lâu Các ở nước Hải
170 Do người đã đoạn Trần Sa xong bèn chứng cõi Phương Tiện, đã đạt đến cảnh giới
ấy, sẽ không còn thấy có cảnh giới Đồng Cư (sách Di Đà Yếu Giải gọi là “thoát khỏi
Đồng Cư”), tức là không còn phân biệt nhân - ngã, thánh - phàm, nên gọi là “thoát
khỏi Đồng Cư”; vì thế, Tổ mới nói “chẳng cần phải đèo bồng Đồng Cư nữa” (vì
không chấp vào cảnh Đồng Cư nữa). Cư sĩ Niệm Phật lại tưởng lầm bốn cõi tách biệt
nhau, có cảnh giới để lần lượt vượt thoát, nên mới lập luận rằng những vị đã đoạn
Trần Sa sẽ thoát khỏi cõi Đồng Cư trọn vẹn. Thật ra, người đã vãng sanh, liền dự vào
địa vị Bất Thoái nên thấy được cả ba cõi trên, tức là lãnh ngộ, phần chứng được cảnh
giới thù thắng của ba cõi trên, nhưng chưa hoàn toàn thụ dụng được, mới chỉ Ngộ,
nhưng chưa chứng, nên gọi là “thấy”, chứ chưa gọi là “nhập”.
171
Đức Sanh đồng tử (Śrī-Sambhava) là vị thứ năm mươi mốt trong số năm mươi ba
vị thiện tri thức được Thiện Tài đến tham học. Vị này cùng với Hữu Đức đồng nữ
cùng ở tại thành Diệu Ý Hoa Môn, đều đã chứng môn giải thoát của Bồ Tát, do tịnh
trí quán sát thấy các thế gian đều là huyễn trụ, đều do nhân duyên sanh cho đến các
việc biến hóa điều phục của hết thảy các vị Bồ Tát đều là huyễn trụ, đều do nguyện
và trí hợp lại mà thành vậy.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét