Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục phần 3

Sau đây là phấn tiếp theo của Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục




Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 165
với chân, tiêu trừ Hoặc nghiệp vốn chẳng có, chứng trọn vẹn Phật tánh
sẵn có mới thôi. Chúng sanh thấy Phật đều là chúng sanh cho nên nghe
lời Phật, nhìn vào hành vi của Phật, chẳng thể tin nhận ngay, có kẻ cho
là huyễn vọng chẳng thật, [chỉ nhằm] gạt gẫm kẻ ngu tục. Có kẻ cho
rằng [đạo Phật] phế bỏ luân lý, làm hại chánh đạo. Có kẻ cho rằng càng
gần lý, càng gây loạn lớn lao cho lẽ chân. Nhưng đức Phật chẳng vì
những điều ấy mà vứt bỏ họ, chỉ đợi khi thời tiết nhân duyên chín muồi
sẽ ra tay độ thoát.
Có lắm kẻ vì thoạt đầu chẳng hay biết nên lầm lẫn bài xích, tiếp đó,
do hiểu biết sâu xa bèn tận lực tu, sau đấy do chân tu nên ngộ chứng. Do
vậy liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, rộng để lại ngôn giáo nhằm
khơi gợi người sau. Do họ đã biết rõ đức Phật lập pháp bao gồm trọn vẹn
hết thảy các thiện pháp thế gian và xuất thế gian, không những chẳng trái
nghịch pháp thế gian mà còn hữu ích lớn lao cho pháp thế gian. Luận về
mặt tu trì thì chẳng bỏ sót điều thiện mảy may nào, nhưng nhất tâm vô
trụ. Bàn đến đế lý, chẳng lập mảy trần nhưng vạn đức đều tỏ lộ trọn vẹn.
Vì thế, những người có tri kiến lỗi lạc, có chí hướng đặc biệt, không một
ai chẳng hướng lòng sùng phụng, để mong tự lập, lập người, tự lợi, lợi
tha. Cũng có kẻ ăn trộm những nghĩa trọng yếu trong kinh Phật để hoằng
dương đạo Nho, lại ngược ngạo ra sức bài bác Phật pháp hết sức dữ dội
hòng ngăn chặn người trong thiên hạ đời sau đừng bước vào Phật pháp.
Bổn ý của họ chẳng qua là do tri kiến môn tường nặng nề, sợ chẳng ra
sức ngăn lấp thì mọi người đua nhau theo Phật, cửa Nho do đó sẽ bị lạnh
lẽo, điêu tàn!
Họ chẳng biết bậc thượng căn thật sự quyết chẳng bị ngăn chặn,
nhưng kẻ trung - hạ do họ bài xích nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi,
sẽ cho đó là những điều đức Phật dùng làm căn cứ để gạt gẫm kẻ ngu
tục. Đối với những pháp đức Phật dạy như sửa lỗi hướng thiện và liễu
sanh thoát tử v.v… họ chê bai là tự tư, tự lợi, [do tưởng rằng] hễ có điều
gì để làm lành thì đấy chính là ác, ắt sẽ mong sao không làm gì mới là
làm lành, [như vậy là đã] trái nghịch ý chỉ “đánh đổ ham muốn xằng bậy
của chính mình, giảm bớt lỗi, bậc hạ thì học, bậc thượng thì thấu đạt”
của thánh hiền quá lớn, cũng như trái nghịch đạo “hướng theo [thiên lý]
thì lành, trái nghịch thì xấu, xuôi theo thì tốt lành, trái nghịch thì hung
hiểm” của kinh Dịch, kinh Thư, chỉ vận dụng xuông thuật “trọn hết tình
nghĩa, trọn hết bổn phận, thành ý, chánh tâm” nhằm yên đời và tạo ra
phong tục tốt đẹp!
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 166
Đối với căn bản khiến cho con người không thể nào không trọn hết
tình nghĩa, trọn hết bổn phận, thành ý, chánh tâm, họ lại hoàn toàn vứt
bỏ, đem chuyện thuộc về khả năng của thánh nhân giao cho phàm phu
thực hành, đến nỗi thiện không có gì để khuyên, ác chẳng có gì để phạt.
Đến khi gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, đủ mọi vở tuồng xấu ác
như phế bỏ kinh điển, phế bỏ luân thường đều được diễn ra. Cái gốc họa
quả thật là do cái tâm trộm cướp bài xích nhân quả, báo ứng, sanh tử
luân hồi và [quan niệm] “có làm gì để làm lành thì đó chính là ác” và “tự
lợi, lợi tha, liễu sanh thoát tử” là tự tư tự lợi mà ra! (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Chánh Tín Lục của cư sĩ La Lưỡng Phong)
* Ngạn ngữ có câu: “Thiên hạ bổn thái bình, duy nhân tự nhiễu chi”
(Thiên hạ vốn thái bình, chỉ có con người tự khuấy rối). Người trí dùng
trí để khuấy, kẻ ngu dùng dục để quậy. Mối họa do lòng dục khuấy nhiễu
tuy khốc liệt, nhưng người ta còn biết được. Sự khuấy nhiễu của kẻ trí
nếu chẳng phải là bậc tri kiến vượt trội sẽ chẳng thể biết được! Đã chẳng
biết là khuấy nhiễu, lại ngược ngạo coi đó là đức. Đấy chính là cội
nguồn gây nên đại loạn cho nước ta từ thuở mới có trời đất đến nay! Học
thuyết gây lầm lạc cho con người thật đáng sợ sâu xa. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lý Đức Minh - 1)
* Hôm qua nhận được thư, biết nỗi thảm do thổ phỉ gây ra tại Xuyên
Trung, khôn ngăn người ta phải than dài sườn sượt. Tôi thường nói:
“Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để Phật độ
chúng sanh”. Từ đời Tống, họ Trình, họ Châu do đọc kinh Đại Thừa nhà
Phật, thân cận bậc thiện tri thức Thiền Tông, biết đại khái nghĩa lý “toàn
Sự chính là Lý, hết thảy duy tâm”, liền chấp bừa vào ý kiến của chính
mình, chấp Lý bỏ Sự để làm ra vẻ chính mình kiến thức cao siêu, quá sợ
người đời sau biết được [do đâu] họ có được [kiến giải ấy] nên đem lòng
đen tối báng Phật, nói nhân quả báo ứng, lục đạo luân hồi do đức Phật đã
dạy chính là căn cứ để lừa dối bọn ngu phu ngu phụ tin thờ giáo pháp
của Ngài, chứ thật ra không có chuyện ấy! Con người chết rồi, hình hài
đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán; dẫu có chém, chặt, xay, giã thì lấy
gì để làm? Lại nữa, thần hồn đã phiêu tán, lấy ai để thác sanh? Từ đấy
trở đi, phàm là nhà Nho, hễ kẻ nào hiểu biết cao xa thì ai nấy đều lén lút
xem kinh Phật, nhưng đều cực lực báng Phật; kẻ hiểu biết thấp kém bèn
hùa theo người khác dấy lên kiến giải điên đảo, từ sống đến chết chẳng
được hưởng lợi ích nơi Phật pháp, từ sống đến chết thường tạo nghiệp
báng Phật.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 167
Học thuyết của họ Trình, họ Châu vừa được lưu hành thì Nho gia
vâng giữ như khuôn vàng thước ngọc, còn chuyện họ Trình, họ Châu trái
nghịch tiên thánh (thánh nhân Nho giáo) thì cả cõi đời không ai chịu nói
đến! Sau này, nhà Nho nào nói ngược với Trình, Châu sẽ không thể
đứng vững được trong khoảng trời đất. Do vậy, nhà Nho chẳng dám nói
nhân quả luân hồi, nói ra sẽ bị người ta công kích. Lại muốn sau này lỡ
ra có thành tựu, muốn được dự vào Hương Hiền Từ (miếu thờ bậc hiền
tài trong làng) hay trong Văn Miếu, nếu nói đến nhân quả luân hồi thì
hai đằng đều tuyệt vọng! Từ đấy, hoàn toàn thủ tiêu căn bản trị quốc
bình thiên hạ, cậy xuông vào “chánh tâm thành ý” để trị [thiên hạ]. Phải
biết: Nếu có nhân quả luân hồi thì kẻ chưa thể chánh tâm thành ý vẫn
gắng sức làm. Không có nhân quả luân hồi thì chỉ có bậc đại hiền mới có
thể chánh tâm thành ý; còn những kẻ khác do không có gì để sợ hãi,
không có gì để mong mỏi, lẽ đâu lại khăng khăng chánh tâm thành ý hay
sao?
Trình - Châu đề xướng chánh tâm thành ý là do học được diệu nghĩa
của Phật pháp, nhưng để phô phang cái trí của chính mình, bèn ngược
ngạo cực lực chê trách Phật. Như vậy là họ đã chánh tâm thành ý nơi chỗ
không quan trọng, khẩn yếu, hoàn toàn chẳng mảy may nào chánh tâm
thành ý nơi chỗ quan trọng, khẩn yếu lớn lao! Dùng cách ấy để tạo thành
cái danh cho chính mình, nhưng di hại cho thiên hạ đời sau. Gần đây tai
họa liên tục xảy ra, dân không lẽ sống, đều là do chất độc của học thuyết
Tống Nho bộc phát, ông có biết hay chăng? (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Đường Năng Thành)
* Chất độc của họ Âu, họ Hàn còn nhỏ, chất độc của họ Châu, họ
Trình mới lớn, vì những nhà Lý Học sau thời Trình - Châu, không một ai
chẳng xem trộm kinh Phật, nhưng không một ai chẳng cực lực báng bổ
Phật pháp đến nỗi biến thành mối đại loạn này, đều là vì cái nhìn hạn
cuộc nơi môn hộ của các vị tiên sinh ấy mà ra! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ông Trí Kỳ - 1)
* Thánh nhân thế gian lẫn thánh nhân xuất thế gian dùng sự lý nhân
quả để bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Người đời nay đa số chẳng
cho như vậy là đúng, cứ làm riêng theo cách mới, đến nỗi chuyên chú
trọng cạnh tranh, xâm đoạt để mong tăng lớn thế lực, mở rộng lãnh thổ
của ta, tàn sát lẫn nhau, trọn không ngưng dứt. Nhân họa đã khốc liệt,
thiên tai lại giáng xuống. Vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống, đều
vì chẳng coi nhân quả báo ứng là đúng mà ra! Cái gốc họa này vấn vít
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 168
kết lại đã lâu, nay đã dần dần bộc phát. Nào phải do một hai người tuyên
truyền mà có thể vãn hồi được ư? (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lưu Nhân Hàng bàn về chuyện hoằng dương nhân
quả)
* Đời loạn tột bậc chẳng kham nói nổi! Xét đến nguồn cội, nguyên
nhân gần là trong vòng một trăm mười năm gần đây, hết thảy những kẻ
đọc sách làm quan chỉ biết tập luyện cử nghiệp105, cầu công danh, chẳng
biết đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục gia đình. Nếu luận đến cái
nhân xa thì quả thật là do họ Trình, họ Châu đả phá, bài xích nhân quả
báo ứng và sanh tử luân hồi mà ra! Do trọn chẳng được gia đình khéo
dạy, lại chẳng biết con người vì sao làm người, lại quen nghe nói “chết
là diệt mất, trọn chẳng có đời trước, đời sau!” nên vừa gặp gió Âu thổi
tới, cảm thấy thuyết “phế bỏ lòng hiếu, phế trừ luân thường, không hổ
thẹn” ấy tự tại vô ngại lắm, bèn nhất trí tiến hành. [Tạo ra] căn bản gây
lầm lạc cho con người không thể không quy tội về các vị bên Lý Học.
Quang nói lời này đích xác tột bậc, biện định tột cùng, chứ chẳng phải
nói bừa đâu!
Phương kế lúc này là phải sốt sắng đề xướng nhân quả báo ứng, sanh
tử, luân hồi và giáo dục trong gia đình, nhưng giáo dục trong gia đình lại
càng cần phải chú trọng đến nhân quả báo ứng! Hai pháp này duy trì lẫn
nhau, mới có thể làm cho con cháu sau này chẳng đến nỗi mấy chốc
sống như loài thú! Nếu không, dù có giáo dục cũng khó thể giữ cho
chúng nó chẳng bị xoay chuyển bởi thói tà! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Thượng, Thư trả lời ba vị cư sĩ Tống Lục Trạm, Trữ Liên Tịnh, và
Trương Tử Tịnh)
* Như bọn Hàn, Âu báng Phật, chỉ căn cứ theo những hành vi luân
thường gần gũi của đạo Nho và lấy lễ nhạc, hình phạt, sự cai trị để luận,
trọn chẳng dẫn kinh văn nhà Phật để luận. Do vậy, biết những lời chê bai
của bọn họ đều là chưa thấy màu sắc đã bàn luận mù quáng. Họ Hàn
(Hàn Dũ) do gặp được thiền sư Đại Điên106, họ Âu (Âu Dương Tu) do
 105
Cử nghiệp là lối học chỉ nhằm mục đích thi đậu ra làm quan, chú trọng luyện tập
văn chương sao cho phù hợp với yêu cầu làm bài thi như văn sách, chiếu, biểu, thơ,
phú v.v…, chứ không chú trọng hiểu biết ý nghĩa giáo dục của thánh hiền để tu
dưỡng bản thân.
106 Đại Điên Bảo Thông (732-824), người xứ Dĩnh Châu, họ Trần, pháp hiệu Bảo
Thông, tự đặt hiệu là Đại Điên Hòa Thượng. Trong niên hiệu Đại Lịch, Sư theo học
với ngài Dược Sơn Duy Nghiễm, rồi qua Nam Nhạc tham yết ngài Thạch Đầu Hy
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 169
gặp được đại sư Minh Giáo107 mới hơi biết về Phật, nên chẳng thể hoằng
dương như họ Trương, họ Chung được!
Nhưng những ông Châu [Mậu Thúc], Trình, Trương, Châu [Hy] đời
Tống là người tiếp nhận được đạo tâm truyền của Khổng Mạnh xét về
nguồn gốc đều do học Phật mà được. Ông Châu Mậu Thúc người cực
thuần hậu, trọn chẳng báng Phật một chữ. Hai ông Trình, họ Trương và
   Thiên, đại ngộ tông chỉ, được nối pháp Tào Khê. Sư dựng Linh Sơn thiền viện tại
dưới rặng Tây U ở Triều Châu, ra vào thường có cọp đi theo, môn nhân hơn ngàn
người. Lúc ấy, Đường Hiến Tông thờ phụng xá-lợi trong cung, cảm được xá-lợi
phóng quang, quần thần dâng biểu chúc mừng, riêng Hàn Dũ lại dâng sớ can vua
đừng mê tín đạo Phật, đòi đốt kinh Phật, dẹp chùa, đuổi Tăng về làm dân. Vua tức
giận, đày Hàn Dũ đi Triều Châu. Tới Triều Châu, nghe danh Đại Điên, Hàn Dũ bèn
mời tới, giữ lại hơn mười ngày, định dùng lời lẽ đánh bại Sư. Rốt cuộc, Hàn Dũ hết
sức khâm phục Sư, thường lui tới hỏi đạo, tà kiến báng Phật cũng giảm dần. Sư từng
tự chép kinh Kim Cang một ngàn năm trăm biến, chép Pháp Hoa, Duy Ma mỗi kinh
ba mươi bộ. Trước thuật gồm hai bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Thích Nghĩa
và Kim Cang Kinh Thích Nghĩa. Tháp Sư được dựng bên chùa. Cuối đời Đường,
quân giặc phá tháp, thấy xương sọ đã tiêu hết, chỉ còn lưỡi vẫn tươi nhuận như khi
còn sống, bèn chôn đàng hoàng, gọi là Ế Thiệt Trủng (mồ chôn lưỡi). Đến niên hiệu
Chí Đạo đời Tống, người trong vùng lại đào lên, chỉ thấy lưỡi vẫn còn, bèn chồng đá
dựng tháp, đặt tên là Thiệt Kính Tháp (Tháp gương lưỡi).
107 Minh Giáo Đại Sư chính là ngài Khế Tung (1007-1072), một vị cao tăng thuộc
tông Vân Môn sống vào đời Tống, quê ở Đàm Tân, Đằng Châu (nay là huyện Đằng
tỉnh Quảng Tây), tự Trọng Linh, hiệu Tiềm Tử. Sư xuất gia năm bảy tuổi, mười ba
tuổi được thế phát, thọ giới, mười chín tuổi đi tham học khắp nơi, đầu thường đội
tượng Quán Âm, mỗi ngày trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mười vạn câu. Về
sau, Sư đắc pháp nơi thiền sư Hiểu Tông thuộc tông Tào Động. Sư đọc trọn khắp các
kinh điển, sách vở, rất giỏi văn chương, thường nhấn mạnh thuyết “Nho - Phật nhất
trí”. Khi Âu Dương Tu cực lực bài xích đạo Phật, dùng những lời lẽ báng Phật để mê
hoặc Tống Nhân Tông, Sư soạn Phụ Giáo Biên dâng lên vua, vua đọc xong hết sức
khâm phục, sai Hàn Kỳ đưa cho Âu Dương Tu coi. Họ Âu kinh ngạc, nói: “Không
ngờ trong Tăng chúng có được người như thế?” bèn xin Hàn Kỳ cho gặp mặt. Khi
gặp Sư, Âu Dương Tu cật vấn suốt cả ngày, bị Sư hoàn toàn khuất phục, từ đó không
báng Phật nữa. Ngoài bộ luận Phụ Giáo Biên nổi tiếng ra, Sư còn trước tác những
cuốn Truyền Pháp Chánh Tông Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chánh Tông Ký v.v…
Những trước tác của Sư được Tống Nhân Tông hết sức ngưỡng mộ, hạ lệnh đưa vào
Đại Tạng, ban tặng cho Sư ca-sa tía và ban hiệu là Minh Giáo đại sư. Sau khi Sư thị
tịch tại chùa Linh Ẩn vào năm Hy Ninh thứ năm (1072), môn nhân thâu thập những
ngữ lục của Sư soạn thành bộ Đàm Tân Văn Tập, 20 quyển
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 170
họ Châu108 thì ngấm ngầm khâm phục, ngoài mặt chống đối, họ lấy
những ý nghĩa sâu thẳm trong kinh Phật để giải thích kinh điển đạo Nho,
sợ người đời sau bảo những gì họ nói đều phát xuất từ kinh Phật, bèn
cực lực báng bổ thật sự, thật lý “nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo” do
đức Phật đã nói, cho là Phật bịa chuyện để làm căn cứ gạt gẫm ngu phu,
ngu phụ tin thờ giáo pháp của Phật, chứ thật sự không hề có chuyện ấy!
Từ đấy trở đi, phàm là nhà Nho đều chẳng dám nói đến nhân quả, sợ
bị người khác công kích là dị đoan. Phàm bọn Lý Học đều lén lút xem
kinh Phật để tự hùng, nhưng đều cực lực báng Phật để tự củng cố [địa vị,
danh tiếng], đến nỗi càng lúc càng đi xuống, cho nên mới diễn ra thảm
kịch tai họa liên miên, dân không lẽ sống! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển Hạ, Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí)
* Thánh nhân rủ áo khoanh tay trị thiên hạ, điều cốt yếu chỉ là “vô
dục”. Vô dục thì không phải chiến đấu, có dục thì phải chiến đấu dài dài
cho đến khi ta lẫn người đều chết hết, tấm lòng mới chịu nguội lạnh. Nếu
không, ắt sẽ mong người khác chết để riêng ta còn sống, quyết chẳng
nghĩ đến sự thảm khốc của chiến tranh để tạm ngừng. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Lý Đức Minh - 1)
* Hiện nay thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực, nói chung là vì
chẳng nói đến đạo “trọn hết tình nghĩa, tận hết bổn phận” và lý “phước
thiện, họa dâm”. Đối với chuyện luân hồi lục đạo và pháp Niệm Phật
vãng sanh thì càng không có cách gì nghe tới được! Do tâm chẳng chú
trọng đạo đức, nhân nghĩa, nhân quả, báo ứng, dẫu có nghe cũng chẳng
thể sanh lòng tin. Bởi những lẽ đó, ươm thành đại kiếp, thiên tai nhân
họa liên tiếp giáng xuống, cơ duyên giết chóc ngập tràn, dân không lẽ
sống. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi của Tịnh
Nghiệp Xã chùa Tiên Khánh tại Tam Giang Khẩu, Hàm Giang)
* Văn Sao, nhất là đối với người mới phát tâm, là một quyển sách
chẳng thể không đọc, bởi lẽ ngôn từ nông cạn, gần gũi, tường tận, lại còn
có nhiều chỗ phát huy sự - lý “sống trong cõi trần học đạo, tu chân trong
cõi tục”. Do học Phật cho nên căn bản của chí thành, chánh tâm, thành ý,
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều nắm được! Phật pháp thật tích
cực, bác ái, kẻ không biết lại ngược ngạo cho là tiêu cực, tự tư, tự lợi, coi
 108 Hai ông Trình là anh em Trình Di, Trình Hạo, Trương là Trương Tải, Châu là
Châu Hy, đều là những nhà sáng lập ra Lý Học. Mậu Thúc là tên tự của Châu Đôn
Di, cũng là một nhà Lý Học.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 171
pháp rốt ráo độ người thoát khổ của Phật là pháp ngu xuẩn, mê hoặc kẻ
ngu tục. Do đó, dần dần tích tập đến nay, trở thành những thảm kịch như
phế bỏ kinh điển, phế bỏ luân thường v.v… chẳng nỡ thấy nghe! Nếu
như ai nấy đều biết nhân quả báo ứng, biết chết đi thần thức bất diệt, tùy
theo tội phước mà thăng - trầm, lẽ nào đến nỗi có tình trạng như vậy? (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Trần Dật Hiên)
* Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất
thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Khổng Tử khen ngợi
Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh.
Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện ắt sự vui có
thừa. Nhà tích điều chẳng lành, ắt tai ương có thừa). Cơ Tử trần thuật
Hồng Phạm, cuối cùng mới nói: “Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng lục
cực” (Thuận theo [lẽ phải] sẽ được năm điều phước, trái nghịch sẽ bị sáu
điều cực) đấy chính là nghĩa “nhân đời trước, quả đời này” vậy. Nho gia
trong cõi đời chẳng biết nhân quả, quy hết [mọi chuyện] về sự cai trị của
vua. Thế nhưng, tánh tình hung bạo, thọ mạng ngắn ngủi, tấm thân bệnh
tật, nỗi lòng lo sầu, cảnh ngộ nghèo cùng, diện mạo xấu xí, thân thể yếu
đuối đều do sự cai trị của vua gây ra hay sao? Vu báng sự cai trị của vua,
trái nghịch tâm pháp của thánh nhân quá sức!
Đạo “sửa mình trị người” của thánh nhân lấy “sáng tỏ Minh Đức”
(minh Minh Đức) làm gốc. Công phu bước đầu của việc làm sáng tỏ
Minh Đức chính là cách vật. “Vật” chính là nhân dục tham - sân - si mạn, trừ sạch hết đi thì lương tri sẵn có tự nhiên hiển hiện. Lương tri đã
hiển hiện thì chẳng thể nào ý không thành, tâm không chánh, thân không
tu! Kẻ học phải học từ đầu nguồn như vậy mới là thật học.
Người căn tánh trung hạ chẳng thể trừ khử nhân dục (lòng ham
muốn của con người) để thành ý, chánh tâm, tu thân thì hãy dùng thật sự,
thật lý nhân quả ba đời và luân hồi lục đạo để giảng nói cho họ, ắt họ sẽ
gắng sức làm lành, càng cố ý bỏ ác, dùng “bốn điều đừng” của Nhan Tử
và “ba điều phản tỉnh” của Tăng Tử để làm gương báu cho suy nghĩ,
khởi niệm, hành xử, sẽ dần dần tự đạt đến chỗ hết sạch nhân dục, đạt
được địa vị làm sáng tỏ Minh Đức.
Những nhà Nho đời sau kỵ nói nhân quả luân hồi là đã đánh mất
phương tiện thúc bách con người chẳng thể không thành ý, chánh tâm, tu
thân! Lại còn đặc biệt cao giọng đề xướng để tự khoe bản lãnh cao minh,
cho “có gì để làm lành thì đấy chính là ác”. Con người chết đi, hình hài
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 172
đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán, dẫu bị chém - chặt - xay - giã, sẽ
thực hiện vào đâu? Nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo chính là lời dối trá
để phỉnh phờ ngu phu ngu phụ tin phụng giáo pháp nhà Phật. Do những
lời lẽ ấy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, dẫu có
pháp bình trị cõi đời đi nữa cũng đều thuộc ngoài da, trọn chẳng có căn
bản!
Vì thế, đến khi gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, tất cả những
pháp do thánh nhân Trung Quốc lập ra đều bị bỏ đi, học theo văn hóa
mới của Thái Tây, biến đổi tận gốc càng thêm dữ dội, những tấn tuồng
xấu xa như phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, không hổ thẹn,
tranh thành, giành đất, tàn sát lẫn nhau đều thấy diễn ra, đạo làm người
gần như bị diệt mất! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa
cho bộ Đạo Đức Tùng Thư)
* Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn; vì thế,
phân thân trong các cõi nhiều như số vi trần, tùy loại hiện hình, tầm
thanh cứu khổ độ thoát chúng sanh, nhưng đối với thế giới Sa Bà, Ngài
lại càng nghĩ thương xót trọn khắp, tha thiết, cứu vớt chẳng sót. Huống
chi trong những năm gần đây, nhân dân hằng ngày gặp cảnh hoạn nạn,
dù muốn trốn tránh quả thật cũng không có chỗ nào để lánh mình được,
mà cũng chẳng có cách nào trốn lánh được; bởi lẽ, thế đạo nhân tâm gần
đây đã bại hoại đến cùng cực! Ngay như đại ân sanh thành, nuôi dạy của
cha mẹ, vẫn cứ công khai đề xướng bỏ đi lòng hiếu và coi giết hại cha
mẹ là chuyện đại nghĩa diệt thân! Người dân sống trong cõi đời này
chẳng đáng thương ư?
Do vậy, phàm những ai có chánh tri kiến không ai chẳng nghiên cứu
Phật học, tu trì Tịnh nghiệp để cầu thoát lìa đời ác Ngũ Trược này, mau
được dự vào Liên Trì Hải Hội, ngõ hầu vĩnh viễn lìa mọi sự khổ, chỉ
hưởng các sự vui. Trong thời thế này, Quán Thế Âm Bồ Tát đặc biệt dấy
lên lòng đại từ Vô Duyên, vận lòng đại bi Đồng Thể, trong đủ mọi khổ
nạn, rủ lòng nghĩ nhớ, bảo vệ, che chở. Xưng hồng danh của Ngài gặp
dữ sẽ hóa lành, gặp nạn lại trở thành điều may mắn, làm sao kể xiết? (Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tân Biên Quán Âm
Linh Cảm Lục)
* Địa Tạng Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tuy đã chứng cùng tột pháp
tánh từ lâu, nhưng vẫn chẳng trụ Tịch Quang, chẳng chứng Phật quả; do
lòng đại từ bi tùy loại hiện thân độ thoát hữu tình trọn khắp các cõi nước
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 173
nhiều như số vi trần. Ngài lại còn thường ở trong chốn u minh nhằm cứu
bạt chúng sanh tội khổ cực nặng trong địa ngục. Do Bồ Tát xưa kia từng
phát đại nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề, địa ngục vị
không thệ bất thành Phật” (Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề; địa
ngục chưa trống không, thề chẳng thành Phật). Ấy là vì tâm tánh của
chúng sanh và tâm tánh của Phật chẳng hai; do mê muội nên đối với
chân thường lầm sanh mê hoặc, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm dâm đến nỗi luân hồi trong lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Lúc
sanh vào trời người thì ít, khi đọa tam đồ lại nhiều!
Bồ Tát riêng rủ lòng từ mẫn, nhiều cách cứu vớt, mong sao chúng
sanh sẽ bỏ vọng về với chân, trừ mê, được ngộ, để khôi phục lại Chân
Như Phật Tánh sẵn có mới thôi. Ví như bảo châu Ma Ni109 vô giá, rớt
trong nhà xí, kẻ ngu coi như đồ dơ, chẳng thèm mến tiếc! Người trí biết
là bảo châu vô giá, vào nhà xí nhặt lấy, gột trừ phân dơ, dùng nước thơm
gột rửa, treo trên tràng cao, tỏa sáng chiếu trời soi đất, mưa ra khắp đủ
mọi thứ báu.
Tâm tánh của chúng sanh cũng giống như vậy, tuy còn mê muội tạo
nghiệp, đọa lạc trong ác đạo, nhưng Chân Như Phật Tánh sẵn có vẫn
trạm tịch thường hằng, bất sanh, bất diệt, trọn chẳng có tướng biến đổi,
tổn thất. Vì thế, bất luận kẻ nghiệp nặng tội sâu đến đâu, tâm Bồ Tát trọn
chẳng có một niệm vứt bỏ, đối với chúng sanh khổ sở nhất càng riêng rủ
lòng thương xót hơn, gấp gáp muốn độ thoát hơn. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục)
* Dứt lo, quên duyên, nhất tâm lễ tụng, cầu Tam Bảo ngầm rủ lòng
gia bị khiến cho những kẻ có quyền lực trong các nước diệt dứt ác niệm,
phát khởi từ tâm. Nếu được cảm ứng, lợi ích ấy lớn lắm. Nếu chẳng thể
cảm ứng nơi các nước thì cũng sẽ ngầm kết pháp duyên với người các
nước, lợi ích ấy cũng chẳng nông cạn đâu! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
 109 Ma Ni (Mani) gọi đủ là Chân Đà Ma Ni (Cintāmani), còn được phiên âm là Chấn
Đà Mạt Ni, dịch nghĩa là Như Ý Bảo Châu, Như Ý Châu, hoặc Như Ý Ma Ni, Vô
Giá Bảo, đều có nghĩa là một viên ngọc quý có thể thỏa mãn mọi ước vọng. Kinh
luận chép có nhiều loại Ma Ni, chẳng hạn như Đại Tỳ Bà Sa Luận nói có 102 loại
Ma Ni như Quang Minh Ma Ni, Thanh Thủy Ma Ni, Phương Đẳng Ma Ni, Nguyệt
Tràng Ma Ni, Diệu Tạng Ma Ni, Đại Đăng Ma Ni v.v… Đại Phương Đẳng Đại Tập
Kinh nêu tên của bốn mươi bảy loại Ma Ni như Tỳ Lăng Già Ma Ni, Phạm Thiên
Quang Tràng Ma Ni v.v… Pháp tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn của đức Quán Âm
cũng cầm hai viên Ma Ni: Nhật Tinh Ma Ni và Nguyệt Tinh Ma Ni.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 174
Biên, quyển Hạ, Thư trả lời cư sĩ Lưu Nhân Hàng bàn về chuyện hoằng dương nhân
quả)
4. Dạy những điều trọng yếu trong việc kiêng giết
* Càn là đại phụ, Khôn là đại mẫu, dân là người ruột thịt của ta, loài
vật giống như ta110. Đấy chính là chí hướng thường hằng coi con người
và loài vật bình đẳng như nhau của nhà Nho vậy. Nghiêm cấm đọa thai
phá trứng để chim, thú, cá, ba ba đều được sống yên vui (“Điểu thú ngư
miết hàm nhược”: “Nhược” (若) nghĩa là thuận. “Hàm nhược” (咸 若)
là đều được sống thuận lợi vậy). Đấy chính là sự cai trị bằng đức để
thắng tàn bạo, trừ giết chóc của bậc thánh vương. Ấy là vì đức lớn của
trời đất là Sanh, nỗi khổ lớn lao của con người lẫn loài vật chính là Sát.
Thắng bạo tàn, trừ giết chóc phải từ nhỏ đến lớn. Nhân từ với con
người, yêu thương loài vật ắt phải từ dễ đến khó. Nếu chẳng hàm dưỡng
lòng nhân từ, khoan dung từ cội gốc, ắt sẽ trở thành bỏ nhỏ lấy lớn, bỏ
dễ lấy khó vậy! Hằng ngày làm chuyện tàn sát, mà lầm lạc mong mỏi
nhân từ với con người, yêu thương loài vật sẽ trở thành nói xuông, chắc
chắn khó thể thật hành được chuyện ấy! Vì sao nói vậy? Trẻ nhỏ, kẻ
bình thường đều có thể thật hành chuyện yêu thương loài vật, hành lâu
ngày, bụng dạ đầy ắp nhân từ, mai kia có địa vị, nắm quyền cai trị, sẽ có
thể che chở dân đen lớn lao. Dẫu ẩn cư trong một làng vẫn có thể lấy
thân mình đốc thúc mọi người thay đổi phong tục! Như vậy, đạo nhân từ
với người khác phải được bồi đắp từ lòng yêu thương loài vật thì mới có
thể viên mãn trọn khắp, không có điều tệ vậy! Nếu chẳng do lòng yêu
thương loài vật thì tuy trong đời này chưa có gì đáng tiếc, nhưng trong
tương lai ắt sẽ phải lo lắng lớn lao, vì đã gieo cái nhân tàn hại loài vật sẽ
khó tránh được cái quả luân phiên báo đền [lẫn nhau]! Nguyện người có
lòng nhân với kẻ khác thường suy nghĩ cẩn thận vậy.
Chuyện phóng sanh vốn nhằm khơi dậy thiện tâm của con người
trong hiện tại, vị lai, cốt sao họ kiêng giết, ăn chay, khiến cho khắp mọi
hàm thức đều được sống yên ổn, đều hưởng hết tuổi thọ. Gần là dứt
 110
“Vật ngô dữ dã”. Trong nguyên bản, sau chữ Dữ có chú thích “與, 友也” (Dữ,
hữu dã: Dữ là bạn bè). Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích trong sách Tứ
Thư Giảng Yếu. Trộm nghĩ, “vật ngô dữ dã” là “loài vật là bạn bè của ta” và “loài
vật giống như ta” theo cách giải thích của Tứ Thư Giảng Yếu ý nghĩa không khác
nhau cho lắm. Chúng tôi vẫn giữ theo cách giải thích của Tứ Thư Giảng Yếu cho
nhất quán.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 175
được cái nhân giết chóc, xa là diệt được quả báo do giết chóc, nhỏ là
khiến cho tâm chúng ta toàn thuần là lòng nhân, lớn là chấm dứt sát kiếp
cho toàn thế giới. Chớ nghĩ đây là chuyện chẳng cấp bách, rồi coi
thường bỏ qua! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký thuật
công đức của phân hội Tô Châu Hội Cứu Giúp Loài Vật Trung Quốc quyên tặng
vĩnh viễn khu vườn ao phóng sinh cho Linh Nham Sơn Tự để làm hạ viện)
* Chuyện ăn thịt là chuyện kỳ quái nhất, nhưng do quen làm đã lâu,
chẳng biết là sai, ngược ngạo coi đó là lễ. Vì thế, tế trời đất, cúng giỗ tổ
tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa đều dùng thịt làm vật
biểu thị tấm lòng cung kính. Thánh nhân thế gian chẳng nói đến sự lý
nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo, cũng tùy thuận tâm tình của thế tục
mà làm theo, nhưng vẫn ra rả về đạo “thương dân, yêu vật”. Suy từ lòng
nhân yêu thương loài vật của thánh nhân, đủ biết sự vô nghĩa của việc
dùng thịt nhằm biểu lộ lòng thành, lòng hiếu thảo, hay lòng cung kính!
Để biểu thị tấm lòng thành, hiếu thảo, cung kính của ta, hãy nên
dùng những món hết sức nhân từ, tươi tắn, thanh tịnh thì mới nên, sao lại
dùng những con vật hết sức ô uế như heo, dê, gà, vịt, cá, tôm v.v…
Chúng đang sống sởn sơ lại đem giết chết. Lúc những con vật ấy chết,
nỗi đau đớn, thảm khốc, lòng oán hận khó thể tuyên nói được. Người có
lòng nhân sao nỡ giết những con vật ấy để biểu thị tấm lòng của chính
mình ư? Hãy thử suy nghĩ xem: Lòng thành kính ấy có phải là lòng
thành kính thuận lý hay không? Hay là lòng thành kính trái đức vậy?
Người nhân cúng giỗ tổ tiên còn tìm thóc từ nơi người có lòng nhân.
Nay cầu món thịt bị giết, bị chặt mà là thành kính hay sao?
Do vậy, nói: Sát sanh để tế trời đất chính là trái nghịch đức hiếu
sanh của trời đất, thiên thần địa kỳ111 há coi những con vật ô uế ấy là
thơm sạch mà hâm hưởng112 hay sao? Phàm những kẻ cúng tế chỉ là
muốn mượn cớ đó để ăn những thứ đồ cúng đấy thôi! Đối với chuyện
cúng tế tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, hãy nên nghĩ
cách có ích cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa thì mới hợp lý. Nay dùng
sát nghiệp cực thảm khốc để biểu thị tấm lòng hết sức thành kính của ta,
khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa đều phải mang lấy cái họa do sự
 111 Thiên thần địa kỳ: Thần trên cõi trời gọi là “thiên thần”, thần cai quản cõi đất
được gọi chung là “địa kỳ”.
112 Hâm hưởng: Quỷ thần hưởng thụ vật cúng bằng cách ngửi mùi thì gọi là “hâm
hưởng”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 176
giết chóc thì tấm lòng thành kính ấy chính là họa hại, chứ chẳng phải là
thành kính!
Huống chi hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật
vị lai, chẳng càng ra sức cứu vớt, lại ngược ngạo biểu thị lòng thành kính
của ta bằng cách ra tay sát hại ư? Kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử
thì do lòng Từ hãy nên thực hiện chuyện phóng sanh. Hết thảy người
nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta. Ta đời đời không lúc nào
chẳng được họ sanh ra. Vì thế, chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ
ta, giết để ăn thịt tức là giết cha mẹ ta vậy”. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Do con người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê, chết
chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng sanh đến hết đời vị
lai. Ngươi thiếu mạng ta, ta trả nợ ngươi. Do nhân duyên ấy, trải trăm
ngàn kiếp thường ở trong sanh tử!” Phẩm Đoạn Thực Nhục (bỏ ăn thịt)
của kinh Nhập Lăng Già dạy: “Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay
luân hồi chẳng ngơi trong sanh tử, không ai chẳng từng là cha mẹ, anh
em, con cái, quyến thuộc cho đến bạn bè, người thân ái, tôi tớ, đổi sang
kiếp khác lại mang những thân cầm thú v.v… Sao lại giết chúng để ăn
thịt?”
Người đời chỉ biết đời hiện tại, chẳng biết đến quá khứ, vị lai. Vì
thế, giết thân chúng nó để no ứ bụng ta, coi đó là lẽ đương nhiên. Nếu
biết đời đời kiếp kiếp phải đền trả lẫn nhau, cũng như ta và những con
vật ấy là cha mẹ, anh em, quyến thuộc của nhau, sanh ra nhau, là oán gia
đối đầu của nhau, giết lẫn nhau, đừng nói chẳng dám tự ăn, dù tế lễ trời
đất, tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa cũng chẳng dám
dùng thịt! Bởi lẽ, thịt là vật do tinh huyết tạo thành, nói trời đất thần
thánh hưởng những thứ ấy, khác gì vu báng các ngài ăn thịt người! Cúng
giỗ tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, nào khác giết tổ
tông, cha mẹ, khách khứa trong quá khứ để cung phụng tổ tông, cha mẹ,
khách khứa trong hiện tại, lại còn khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa
[trong hiện tại] bao kiếp phải thường chịu quả báo giết hại ư?
Chớ nói con người luân hồi thành súc vật là chuyện mờ mịt khó thể
tra cứu, sử sách đã ghi chép nhiều không thể kể xiết! Ngay cả những
chuyện thấy nghe gần đây cũng chẳng ít gì! Vì thế, đương nhiên phải tin
tưởng sâu xa, đừng tạo sát nghiệp, do đã tạo sát nghiệp ắt sẽ phải chịu
sát báo! Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Sợ nhân thì
chẳng gây nhân giết chóc, sẽ tự chẳng có sát báo. Sợ quả chỉ là uổng
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 177
công kinh sợ, trọn chẳng có ích gì! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Hạ, Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay)
* Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Phật xem
hết thảy chúng sanh đều là Phật, nên kinh Phạm Võng nói: “Ta là Phật
đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được như vậy, giới phẩm
đã đầy đủ”, bởi lẽ, tin chính mình là Phật chưa thành thì chắc chắn
muốn cải ác tu thiện, phát tâm Đại Bồ Đề tự lợi, lợi tha, ngõ hầu đoạn
sạch Phiền Hoặc, đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi
cái tâm này. Tin hết thảy chúng sanh trong sáu đường đều là Phật chưa
thành, chắc chắn sẽ tận lực khuyên lơn, chỉ bảo, duy trì đồng loại, chắc
chắn chẳng làm chuyện tranh giành, tàn sát lẫn nhau, chắc chắn sẽ muốn
kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tạo sự thuận lợi lớn lao cho dị loại, chắc
chắn sẽ không có cái tâm thảm độc ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cho ta.
Do con người chẳng biết chính mình và hết thảy chúng sanh đều là
Phật chưa thành nên mới tranh chấp, giết người ngập thành, ngập đồng
chẳng tiếc nuối, cũng như giết thân chúng nó hòng thỏa thích bụng
miệng ta. Người đời sát sanh quen thói nên coi thường, sự thể lớn - nhỏ
gì cũng đều phải giết chóc. Tế thần, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha
mẹ, đãi khách, không có thịt sẽ chẳng thể thành lễ được! Đem chuyện
cực khổ, cực thảm giáng xuống thân loài vật, nhằm biểu thị tấm lòng
thành khẩn, hiếu kính của ta.
Nếu luận trên phương diện mê muội thì còn chấp nhận được, chứ
luận trên thực tế thì đáng thương quá đỗi! Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh từ
vô thủy đến nay luân hồi trong sáu nẻo, lần lượt làm cha mẹ, anh em, vợ
con, quyến thuộc, sanh ra lẫn nhau, trở thành oan gia đối đầu của nhau,
tuần hoàn báo thù, đền đáp, giết hại lẫn nhau. Trong các kinh Đại Thừa,
đức Phật đã nhiều lượt khuyên răn nhưng ít kẻ thấy nghe. Dẫu được thấy
nghe, nhưng kẻ tin nhận, vâng làm, lại càng ít hơn nữa!
Do vậy, Phật dùng lòng Đại Bi, hiện trong dị loại để con người giết
ăn. Đã giết xong, bèn hiện các tướng lạ ngõ hầu hết thảy mọi người biết
là do Phật hiện, mong dứt sát kiếp để chúng sanh được yên. Như vỏ sò
nghêu, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm ba ba đều có [hình ảnh] đức
Phật ngự [trong ấy] khiến cho tai mắt con người [thấy nghe] phải kinh
sợ, dứt cơ duyên giết chóc trong cõi đời, những chuyện như vậy được
ghi chép trong sử sách kể sao cho trọn? Trước khi giết đều nói là loài
thú, đã giết rồi, mới biết là Phật. Do vậy biết sát sanh chẳng khác gì giết
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 178
Phật! Dẫu không phải do đức Phật hiện ra, cũng vẫn là Phật đời vị lai.
Giết ăn thì tội quá biển cả, núi non, hãy gấp đau đáu răn chừng, ngõ hầu
được giải thoát.
Phải biết: Con người và loài vật tuy khác, mang hình dạng có linh
tánh hay ngu xuẩn, kẻ ngốc tâm thức tối tăm, loài vật có linh tánh thì trí
lại sáng rỡ: Ngũ Luân, Bát Đức113 cố nhiên chẳng nhường con người,
lòng thành tha thiết so ra còn sâu đậm hơn con người. Dám cậy ta mạnh,
giết chúng nó ăn thịt, đến nỗi trong tương lai thường bị kẻ khác ăn!
Lần xem sử sách, từ xưa đến nay, phàm những ai lợi người lợi vật,
con cháu nhất định hiền thiện, phát đạt; những kẻ nào hại người hại vật,
con cháu nhất định tầm thường, kém cỏi, diệt tuyệt. Vì thế, Khổng Tử
khen ngợi Châu Dịch rằng: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất
thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện sự vui có thừa, nhà tích
điều bất thiện, tai ương có thừa). “Dư khánh, dư ương” chính là những
thứ thừa sót lại của “chánh khánh, chánh ương”. Chánh khánh, chánh
ương là những gì bản thân người ấy phải thọ trong đời kế tiếp hay trong
những đời sau nữa do tích thiện hay tích bất thiện, so với dư khánh, dư
ương sẽ còn hơn gấp trăm ngàn vạn ức lần! Nếu con người biết được
điều này, chắc chắn chẳng chịu vì sung sướng nhỏ nhặt một lúc để rồi
vĩnh viễn chịu đựng mối họa hại lớn lao đến vô cùng! (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử)
* Xem khắp cổ kim, thời bình trị thì ít, thời loạn lạc lại nhiều. Dẫu
cho thịnh trị thì bất quá chỉ được một trăm mấy chục năm mà thôi.
Nguyên do vì đâu? Ấy là do cái nghiệp đời trước sát sanh ăn thịt kết
thành và do cái tâm tự tư tự lợi trong đời này mà ra! Kết quả của sát
nghiệp chỉ có ăn thịt là dữ dội nhất. Cả một đời người chẳng biết ăn thịt
mấy trăm ngàn vạn sanh mạng, chỉ mong thỏa thích bụng miệng ta, bất
kể nỗi thống khổ của chúng! Tuy là cậy mạnh nuốt yếu mặc sức ta làm,
nhưng chất độc oán hận kết lại trong tám thức điền, đời đời kiếp kiếp
giết chóc lẫn nhau. Chẳng nhổ bỏ cái gốc ấy, khó chuyển được sát kiếp!
Huống chi kẻ có trí thức nhưng chẳng biết thật sự thật lý “nhân quả
ba đời, luân hồi sáu nẻo”, bèn coi chuyện “tự lập, lập người, tự đạt, làm
cho người khác đạt” là viễn vông, sai lầm, chỉ muốn đoạt hết của cải
 113 Ngũ Luân: Năm mối quan hệ trọng yếu giữa người với người: Vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bạn bè.
Bát đức: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 179
người khác về tay ta. Do vậy, tranh thành, giành đất, dẫu giết người ngập
thành, ngập đồng vẫn chẳng đoái hoài. Ý họ muốn mở rộng cương thổ
của ta, tăng lớn thế lực của ta, để con cháu ta hưởng phước vĩnh viễn!
Họ chẳng biết trời đất lấy hiếu sanh làm đức, đã sống trong khoảng trời
đất hiếu sanh ghét giết, sao lại khiến cho con cháu hưởng cái phước
nghịch trời trái lý đạt được bởi sự giết người vô lượng ấy? Chính họ khi
một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ vĩnh viễn đọa trong tam đồ ác
đạo, sao lại đáng thương như vậy? Con cháu nếu chẳng phải là những
người bị ta chiếm đoạt [tài sản trong đời trước nay] đến [sanh vào nhà ta]
thì sẽ tuyệt diệt đến hết sạch, trọn chẳng sót một ai! (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa
Pháp Vân)
* Phàm những loài có huyết khí đều có tri giác. Đã có tri giác, ắt
tham sống sợ chết, hướng lành, lánh dữ. Chim, thú, côn trùng, rận, rệp,
không loài nào chẳng như vậy. Nếu coi thường, bắt giết, thì tuy sức
chúng nó chẳng thể chống lại, đành không biết làm sao được, nhưng tâm
chúng nó thù hận quả thật chẳng ngôn ngữ văn tự nào có thể hình dung
được! Nếu chúng sắp bị giết mà có người mua đem thả, khiến cho chúng
nó được sống, tâm chúng nó cảm kích cũng lại chẳng thể hình dung
được! Dẫu cho chúng nó hiện thời chẳng có sức báo ân, báo oán, nhưng
cái duyên thiện - ác đã kết thì hoặc là trong đời này, hoặc trong tương
lai, ắt sẽ có sự báo ứng chẳng ngờ được! Dẫu chúng nó chẳng thể báo
đền ngay lập tức, nhưng thường hành phóng sanh hay thường hành sát
sanh thì thiên địa quỷ thần đều thường soi xét để giáng phước hay giáng
họa, chớ coi thường, nghĩ chúng nó yếu ớt rồi khinh khi!
Người đời chẳng biết nhân quả, coi sát sanh ăn thịt là lẽ chánh đáng,
là điều nên làm; chẳng biết những tai ương thê thảm như đao binh, giặc
cướp, lũ lụt, hạn hán, tật dịch v.v… phần nhiều đều do sát sanh ăn thịt
mà ra! Nếu ý niệm từ bi thật sự tinh thuần, dù ở trong cùng một thời kiếp
này nhưng mỗi người mỗi thọ quả báo khác biệt. (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao, quyển Hạ, Lời tựa cho bản in gộp chung Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục và
các bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh)
* Chuyện phóng sanh vốn là để cảm phát cái tâm kiêng giết, bảo vệ
sanh mạng của đồng nhân, thực hành ý niệm “bất nhẫn, trắc ẩn” của
chính mình mà thôi. Người đời đông đúc, tâm hạnh mỗi người mỗi khác.
Tuy chẳng thể cảm động toàn bộ mọi người, dầu chỉ cảm động được một
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 180
người thì suốt một đời kẻ ấy đã bớt giết bao nhiêu sanh mạng, huống chi
chẳng phải chỉ có một người [bị cảm động mà thôi]!
Nếu nói “cá nhỏ bị cá lớn ăn, dẫu có thả trong sông to cũng khó
khỏi sa lưới rập” thì kiểu suy tính này tợ hồ có lý, nhưng thật ra đã ngăn
trở thiện niệm của người khác, giúp người ta tạo sát nghiệp. Kẻ ấy may
mắn được làm người, bản thân có lẽ chẳng đến nỗi bị giết chóc nên mới
nêu ra lý lẽ vô lý đó để tỏ ra mình có trí hòng khuất phục kẻ phóng sanh.
Nếu kẻ ấy là cá và là các sanh mạng lúc sắp bị giết, chắc chắn sẽ chẳng
chịu khởi lên thứ ý tưởng ấy, chỉ mong có người cứu mạng cho mình,
chẳng hề có ý tưởng “dù có được loài khác cứu, vẫn sợ sau này lại bị
loài vật khác ăn thịt hay bị người khác bắt được”, chỉ nguyện cam tâm bị
giết để sau này khỏi gặp tai ương nữa!
Nếu trong lúc ấy mà khởi lên được ý niệm ấy thì vẫn chưa đủ để
tranh cãi! Huống chi muôn vàn phần là trong lúc ấy chẳng thể nào khởi
lên được ý niệm ấy! Trong lúc không bị dính dáng đau đớn, lại thốt ra
lời ấy ngăn trở thiện niệm của người ta, dấy động cơ duyên giết chóc của
người ta! Nếu kẻ ấy trong đời sau chẳng tự thọ lấy quả báo ấy thì mặt
trời, mặt trăng sẽ [từ phương Tây] xoay sang phương Đông, trời đất sẽ
đổi ngôi vậy! Há nên thốt lời xằng bậy ư?
Cá lớn nuốt cá nhỏ cố nhiên có chuyện ấy, đã thả ra rồi bị bắt lại
cũng chẳng thể không có chuyện ấy. Nếu nói cá nhỏ bị cá lớn ăn sạch
không còn sót gì thì chẳng hề có sự lý ấy! Những con vật được thả đều
bị người ta bắt lại hết, cũng chẳng hề có sự lý ấy! Sao lại lo lắng quá
đáng như thế?
Ví như cứu giúp dân chúng bị nạn thì cho [người ta] một manh áo
hoặc một bữa ăn, họ cũng chẳng đến nỗi phải bị chết ngay. Trong lúc ấy
bèn nói: “Một manh áo, một bữa cơm này sao có thể no ấm suốt đời
được? Cho họ có ích lợi chi đâu, chẳng thà để họ chết rét, chết đói thì sẽ
chẳng bị chết đói, chết rét lâu dài ư?” Lại như cường đạo cướp bóc
người ta, [nếu được] kẻ có sức mạnh chống cự, kẻ ấy (tức nạn nhân) sẽ
nói: “Nếu ông có thể chống cự suốt cả đời thì tốt lắm, chứ chỉ chống cự
được một chốc, có ích gì đâu? Đâm ra chẳng bằng cứ mặc kệ cho nó
cướp sạch hết đi, sau này sẽ chẳng lại bị cướp đoạt nữa thì hay hơn!” hay
sao? Cha mẹ thường nuôi nấng vỗ về con cái, nhưng mẹ hiền chẳng thể
nuôi nấng, vỗ về thân đời sau của đứa con, nó sẽ nói: “Chẳng thể nuôi
nấng, vỗ về, chẳng thà giết đi thì hơn!” hay sao?
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 181
Quân tử tu đức, chẳng vì điều thiện nhỏ mà không làm, chẳng vì
điều ác nhỏ mà làm. Những kẻ cứ mong muôn điều chẳng sai sót một
điều nào rồi mới chịu thực hành phóng sanh sẽ làm cho người trong cả
cõi đời dẫu sống hết tuổi thọ đều chẳng thực hiện chuyện kiêng giết,
phóng sanh, trong tương lai ắt họ sẽ lâm vào cảnh “muôn người không
một ai có thể cứu cho mình khỏi chết được!” Buồn thay, đau đớn thay!
(Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Ngu Tăng)
* Người niệm Phật hãy nên ăn chay trường. Nếu như chưa thể thì
nên giữ Lục Trai, hoặc Thập Trai (mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 là Lục Trai.
Thêm vào ngày mồng Một, 18, 24, 28 thì thành Thập Trai. Gặp tháng thiếu thì ăn lên
trước đó một ngày. Lại còn tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín là ba tháng chay,
nên ăn chay trường, làm các công đức). Từ giảm dần đến vĩnh viễn dứt ăn
mặn thì mới hợp lý. Tuy chưa dứt được ăn mặn, hãy nên mua thịt làm
sẵn, đừng sát sanh trong nhà. Do trong nhà thường nguyện cát tường (tốt
lành, may mắn), nếu hằng ngày sát sanh thì nhà ấy liền trở thành nơi giết
chóc. Nơi giết chóc chính là chỗ oán quỷ tụ hội, chẳng tốt lành, [điều
này] quan trọng lắm! Do vậy, phải kiêng sát sanh trong nhà! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một lá thư gởi khắp)
* Giữa khoảng trời đất hoàn toàn là một khối nguyên khí thái hòa.
Vì thế mưa gió đúng thời, lúa thóc chín rộ, các loài động thực vật đều
được sanh trưởng. Nếu con người thấu hiểu, hành theo điều này cố nhiên
chẳng thẹn đứng chung với trời đất thành ba ngôi, xưng là Tam Tài. Từ
đấy, sẽ tự bảo vệ, bảo vệ kẻ khác, cốt sao hết thảy hàm thức đều được
sống yên ổn, cùng vui lẽ thiên chân. Đấy chẳng phải là “kế thừa đời
trước, mở mang đời sau, dùng tiên giác để giác hậu giác, bù đắp cho chỗ
thiếu sót của trời đất, giúp cho quyền sanh thành, dưỡng dục của trời
đất” đó ư? Nhưng người đời do tham vui sướng bụng miệng, bắt lấy các
loài vật bơi dưới nước, chạy trên đất, bay trên không để giết ăn, cốt sao
thỏa thích bụng miệng mình, bảo vệ cái sanh mạng của ta, [như vậy thì]
muốn cầu giữ gìn mạng sống lại đâm ra gặt phải kết quả trái ngược. Do
sát sanh nên gây ảnh hưởng lớn lao đến thiên hòa, cảm lấy lệ khí (khí
hung dữ, độc hại), đến nỗi những thiên tai như lụt lội, hạn hán, ôn dịch,
sâu rầy v.v… Do kết quả của sát nghiệp, phát sanh những nhân họa (tai
họa do con người gây ra) như đôi bên chiến tranh.
Xét đến nguyên do của những tai họa ấy, nói chung là do trong đời
trước hay đời này đã sát sanh ăn thịt mà ra! Tai họa do ăn thịt cực kỳ
khốc liệt! Không chỉ gây hại cho đời này mà còn gây lụy đến nhiều kiếp.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 182
Phàm những ai muốn tự bảo vệ cuộc sống của chính mình, không thể
nào không bảo vệ cuộc sống của khắp hết thảy các loài dưới nước, trên
hư không, trên mặt đất, vậy thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, quyển Hạ, Lời
tựa cho bộ Vệ Sinh Tập)
* Chữa bệnh thì đối với những căn bệnh do oán nghiệp khó lành,
hãy nên dạy bệnh nhân xưng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm và khuyên
họ kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh mạng loài vật. Chẳng
những bệnh nhân được hưởng sự tốt lành “tiêu nghiệp, khỏi bệnh”, mà y
đạo của Tử Cần114 cũng sẽ nhờ đấy ngày càng phát đạt. Gần đây Tây Y
hễ thấy bệnh nhân ăn chay bị bệnh liền thường khuyên họ nên ngã mặn,
bảo ăn thịt giàu chất bổ, chẳng biết gây trở ngại cho phép dinh dưỡng, lại
còn kết oán nghiệp nữa! (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ 9 - Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Phương Thánh Chiếu - 8)
 114
Tử Cần là con trai của cư sĩ Phương Thánh Chiếu.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 183
VII. Phân Thiền Tịnh giới hạn (Phân định giới hạn giữa Thiền và
Tịnh)
* Suốt một đời đức Như Lai đã nói vô lượng vô biên pháp môn,
tìm lấy pháp trực tiếp, nhanh chóng nhất thì không gì hơn được tham
Thiền. Nếu là bậc thượng căn, nghe một, ngộ được cả ngàn, sẽ đắc Đại
Tổng Trì115, nhưng đấy vẫn còn là ngộ chứ chưa phải là chứng! Người
có thể thật sự đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì trong đời Mạt quả
thật chẳng thấy được mấy ai! Những kẻ khác phần nhiều đều là nhận lầm
tin tức. Cái được gọi là Ngộ đó, phần nhiều đều là “thác ngộ” (lầm lẫn),
ít có kẻ giải ngộ thật sự! Dẫu thật sự ngộ thì vẫn còn cách xa chuyện liễu
sanh tử nhiều lắm! Vì tuy được khai ngộ, vẫn cần phải dùng đủ mọi
phương tiện để đối trị phiền não tập khí từ bao kiếp đến nay khiến cho
hết sạch không còn sót thì mới có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập
thánh. Nếu phiền não đã đoạn được chừng bao nhiêu đó, nhưng vẫn còn
mảy may chưa đoạn hết thì vẫn cứ sanh tử y như cũ, không thoát ra
được!
Nếu chỉ nghĩ “hiểu được tự tâm chính là đạo”, ngoài ra không tu
trì gì cả thì sự hiểu lầm ấy chẳng nhỏ đâu! Nếu hiểu biết, [nhưng không
thấy] có phiền não nào để được cả, thì có thể gọi là “đắc đạo”, người như
vậy đã có thể chém đứt căn bản sanh tử cho nên có thể liễu sanh thoát tử.
Nếu tuy hiểu biết, nhưng phiền não chưa đoạn thì làm sao có thể liễu
sanh thoát tử cho được? So với kẻ chẳng nhận biết, tuy người ấy cao trỗi
hơn nhiều lắm, nhưng sanh tử chẳng liễu thì lại phải thọ sanh, hoặc đâm
ra mê muội, đáng sợ vô cùng! Đó là nói về người thật sự khai ngộ đấy
nhé, chứ những kẻ tưởng lầm là ngộ, càng khỏi cần phải nói đến nữa! Ấy
 115 Tổng Trì (Dhāranī), còn dịch là Đà Ra Ni, Năng Trì, Năng Giá (có khả năng ngăn
che), đều có nghĩa là huệ lực có khả năng gìn giữ, ghi nhớ hết thảy vô lượng Phật
pháp chẳng quên mất. Hiểu theo nghĩa rộng, Tổng Trì có nghĩa là khả năng ghi nhớ
không quên mất. Từ một nghĩa, một pháp có thể liên tưởng, nhớ được hết thảy pháp,
hết thảy nghĩa, không quên mất, không sai sót. Theo Đại Trí Độ Luận, Tổng Trì gồm
có bốn loại là Văn Trì Đà Ra Ni (năng lực nghe không quên mất), Phân Biệt Tri Đà
Ra Ni (năng lực phân biệt biết hết thảy tà - chánh, tốt - xấu), Nhập Âm Thanh Đà Ra
Ni (khả năng nghe hiểu hết thảy mọi ngôn ngữ âm thanh, nhưng không đắm trước,
sân hận), Tự Nhập Môn Đà Ra Ni (nghe những chú ngữ bí mật liền có thể thông đạt
Thật Tướng hết thảy các pháp). Du Già Sư Địa Luận lại nêu lên bốn loại khác là Ngữ
Đà Ra Ni, Chú Đà Ra Ni, Nhẫn Đà Ra Ni và Nghĩa Đà Ra Ni. Do có nhiều loại Tổng
Trì nên kinh luận thường nói là “vô lượng tổng trì môn”. Đại Tổng Trì là thông đạt
bốn môn Tổng Trì nói trên.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 184
là vì pháp Tham Thiền chính là pháp môn cậy vào Tự Lực, cho nên đem
so với pháp môn Niệm Phật về mặt lợi ích thì thật chẳng khác nào một
trời, một vực! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư gởi cư
sĩ Nguyễn Hòa Khanh)
* Ý nghĩa “Tịch - Chiếu bất nhị, Chân - Tục viên dung” thì phần
kinh văn tiếp theo đó đã hết sức giảng rành, chỉ rõ, sao ông chẳng suy
xét nhận hiểu để cầu liễu giải vậy? Nay trước hết tôi giảng rõ ý nghĩa
của bốn chữ ấy, [ông hiểu rõ rồi] thì sẽ tự như thế chẻ tre, một điều đã
hiểu rõ thì mọi điều đều rõ.
Phần trên là nói về cái đạo mà tâm ta sẵn có và pháp sẵn có trong
tâm ta, vốn là Tịch - Chiếu không hai, Chân - Tục viên dung. Thế nào là
Tịch? Chính là tâm thể bất sanh bất diệt của ta; hễ có sanh diệt thì chẳng
gọi là Tịch. Thế nào là Chiếu? Chính là tâm tướng thường nhận biết rõ
ràng của ta; chẳng thường nhận biết rõ ràng thì chẳng gọi là Chiếu. Thế
nào Chân? Chính là tâm thể thường tịch, thường chiếu; vốn là chân
không, vô tướng, một pháp chẳng lập. Thế nào là Tục? Tục có nghĩa là
giả, tuy nói “một pháp chẳng lập”, nhưng “vạn pháp lại đều có đủ”, vạn
đức phô bày trọn vẹn (Vạn pháp, vạn đức chính là sự tướng. Do là Sự nên gọi là
Tục).
Tịch chính là Thể, Chiếu là tướng trạng và lực dụng của Thể. Ba
thứ Thể - Tướng - Dụng này vốn là một pháp; có đủ ba nghĩa này nên
gọi là “Tịch - Chiếu bất nhị”. Chân chính là Lý Tánh. Tục chính là Sự
Tu. Lý Tánh ấy sẵn đủ đạo Sự Tu. Do Sự Tu ấy mới hiển lộ được đức
của Lý Tánh (đấy gọi là “toàn tánh khởi tu, toàn tu nơi tánh”). Vì thế nói là
“Chân - Tục viên dung” vậy.
Tiếp đó, [kinh văn nói] “ly niệm, ly tình; bất sanh, bất diệt” nghĩa
là “thể tướng, sự lý Tịch - Chiếu, Chân - Tục ấy đều rời khỏi niệm, lìa
khỏi tình, chẳng sanh, chẳng diệt”. Xin hãy đọc kỹ thí dụ tiếp theo đó và
mấy câu quyết đoán sẽ có thể hiểu rõ được tâm. Nếu vẫn không hiểu thì
chính là đời trước thiếu tu tập, chỉ nên chí thành, khẩn thiết trì danh hiệu
Phật, đợi khi nghiệp chướng tiêu rồi, sẽ thấy rõ ràng như nhìn vào ngọn
lửa sáng, ắt sẽ có buổi nhìn vào mà bật cười. (Hoằng Hóa Nguyệt San số thứ
5 - Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Diệp Sính
Thần)
* Nếu dùng cách tham cứu của nhà Thiền “người niệm Phật là ai?”
thì chính là tham Thiền cầu khai ngộ, hoàn toàn đánh mất tông chỉ Tịnh
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 185
Tông. Điều này quan hệ lớn nhất, quan trọng nhất! Con người thường
hay mạo danh Thiền Tịnh Song Tu, nhưng tận lực chú trọng tham cứu sẽ
đạt được lợi ích hữu hạn (niệm đến chỗ cùng cực cũng sẽ khai ngộ), đánh mất
lợi ích vô cùng, vì chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh sẽ chẳng thể cảm
ứng đạo giao cùng Phật. Dẫu có đích thân thấy được “người niệm Phật
là ai” cũng khó được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, vì không có
cái tâm tín nguyện cầu sanh! Lại chưa đoạn Phiền Hoặc nên chẳng thể
cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử. Kẻ ưa ăn nói lớn lối đều do chẳng
biết nghĩa này!
Pháp môn Tịnh Độ vượt trỗi hết thảy các pháp môn ở chỗ cậy vào
Phật lực; những pháp môn khác đều cậy vào tự lực. Tự lực há có thể
sánh cùng Phật lực mà luận ư? Đấy chính là một mấu chốt quan trọng
nhất trong pháp môn Tịnh Độ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển
Thượng, Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Tân)
* “Chỉ có đường tắt tu hành”. Đây chính là giáo nghĩa, có thể
chiếu theo văn tự để hiểu. “Y theo như cũ đi nhiễu”, đây chính là ý nghĩa
trong nhà Thiền, phải có chỗ ngộ thì mới biết triệt để được. Tào Lỗ
Xuyên116 tự cho là bậc đại thông gia thông Tông thông Giáo còn hiểu
lầm ý này. Các hạ muốn tôi giảng ý nghĩa này, đúng là lời hỏi giỡn chơi!
Các hạ hãy buông xuống hết thảy tri kiến thừa thãi, nhất tâm niệm Phật,
niệm cho đến khi tâm lẫn Phật đều mất cả rồi, sẽ tự phát ra một tràng
cười to, hoàn toàn hiểu rõ. Khi chưa đạt đến, dẫu người khác có giảng
cho vẫn chẳng biết được! Ví như đã đến điện Hàm Nguyên117, mọi thứ
trong điện ấy đều biết hết. Nếu vì người chưa đến đấy [mà nói] thì dù có
nói rõ ràng, vẫn mờ mịt không biết y như cũ. Những câu nói trong nhà
 116 Tào Lỗ Xuyên là một vị cư sĩ sống cùng thời tổ Liên Trì. Khi tác phẩm A Di Đà
Kinh Sớ Sao của đại sư Liên Trì được phổ biến trong cõi đời, Tào Lỗ Xuyên đôi ba
phen cật vấn, cho là Tổ phế bỏ Tam Tạng kinh điển, coi căn khí của mọi người đều
hèn kém như nhau, buộc tất cả mọi người đều phải tu pháp thiển cận, lên án Tổ coi
thường kinh Hoa Nghiêm, đề cao kinh Di Đà quá đáng, toan dùng pháp môn Tịnh
Độ chèn ép các tông khác, coi thường chư Phật, chỉ đề cao riêng mình Phật Di Đà
v.v…
117
Điện Hàm Nguyên là tiền điện của cung Đại Minh thuộc kinh đô Trường An (nay
là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây) đời nhà Đường. Căn cứ trên phế tích và những
di vật được khai quật, người ta biết điện này hùng vĩ và tráng lệ hơn điện Thái Hòa
thuộc Tử Cấm Thành Bắc Kinh đời Minh rất nhiều. Do được dùng chủ yếu để thiết
đại triều, nên trong điện Hàm Nguyên tập trung mọi thứ quý báu, hoa mỹ nhất của đế
quốc Đại Đường.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 186
Thiền đều nhằm dạy người khác tham cứu. Nếu hiểu theo ý nghĩa văn tự
thì chẳng những không được lợi ích, mà còn có thể coi “hiểu lầm” là
ngộ, tội ấy cực lớn. Dẫu ngộ thật sự nhưng liễu sanh thoát tử vẫn còn
cách xa lắm! Do kẻ ấy chỉ cậy vào tự lực, phải là sau khi đại ngộ rồi,
phiền não, Hoặc nghiệp đoạn sạch không còn sót gì thì mới liễu được.
Nếu không, chẳng do đâu mà liễu được!
Pháp môn Niệm Phật nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết
tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì cậy vào Phật từ lực đới nghiệp
vãng sanh. Căn tánh của các hạ cũng chỉ có thể học theo cách tu trì của
hàng ngu phu ngu phụ. Nếu lầm lẫn bắt chước thân phận của Tào Lỗ
Xuyên thì chẳng những liễu sanh tử trọn chẳng có phần mà còn thật sợ
rằng đọa lạc ba ác đạo ắt đã sẵn phần! Vì sao vậy? Do “chưa được bảo là
được, do chưa chứng nói là chứng”; do vậy, hoại loạn Phật pháp, khiến
cho chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn - 2)
* Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ lấy “tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương” làm tông chỉ. Người đời thường nghĩ điều này là
chuyện tầm thường, không có chi kỳ lạ, bèn coi pháp tham cứu trong nhà
Thiền mới là thù thắng, chú trọng nơi khai ngộ, chẳng chú trọng tín
nguyện cầu sanh. Đặt tên hoa mỹ là Thiền Tịnh Song Tu, nhưng xét tới
thực chất thì hoàn toàn là không Thiền, không Tịnh Độ! Vì sao nói vậy?
Do chẳng đạt đến đại triệt đại ngộ thì chẳng gọi là “có Thiền”. Người
tham Thiền bây giờ ai thật sự đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ? Do chú
trọng vào tham cứu nên đem sự trang nghiêm của y báo, chánh báo Tây
Phương quy hết vào tự tâm, chẳng có mảy may ý niệm tín nguyện cầu
sanh. Tuy gọi là niệm Phật nhưng thực chất là trái nghịch đạo niệm Phật!
Hoặc nói ra vẻ cao xa là “niệm Thật Tướng Phật”. Tuy Thật
Tướng là cái gốc của các pháp, nhưng phàm phu nghiệp chướng sâu
nặng làm sao đạt đến được? Ra vẻ “quy Tông” (quy kết mọi thứ về
Thiền) nhưng Thiền cũng không nương tựa được, mà Tịnh cũng không
nương tựa được luôn! Cậy vào tự lực, dẫu đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ,
nhưng vì chưa đoạn Hoặc nghiệp sẽ chẳng thể liễu sanh tử được! Chưa
ngộ đến mức đại triệt [đại ngộ] thì khỏi cần phải bàn chi nữa! Cậy vào
Phật lực, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, niệm Phật
cầu sanh Tây Phương thì mới [có thể liễu sanh tử] được. Do một mực
đem Tây Phương Tịnh Độ, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, mỗi thứ
đều quy hết vào tự tâm, nhưng tự tâm chỉ là chấp xuông cái danh, chưa
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 187
chứng được cái thật, [cho nên] đức Phật ở phương Tây do không cảm sẽ
chẳng thể có ứng, đức Phật nơi tự tâm do còn đang ở trong nhân nên
không có oai đức!
Những kẻ ham cao chuộng xa trong cõi đời thường đều hay trở
thành biến khéo thành vụng, cầu thăng hóa đọa, nhưng kẻ tri thức muốn
được người khác ca ngợi mình là viên dung, vẫn trọn chẳng chịu nói như
vậy, đến nỗi đức Như Lai do tâm đại từ bi muốn làm cho hết thảy chúng
sanh liễu sanh tử ngay trong đời này, nhưng họ vẫn cứ y như cũ chẳng
thể liễu được!
Đời này đã chẳng thể liễu, tương lai may ra có thể liễu, nhưng vẫn
phải luân hồi trong lục đạo còn nhiều hơn số lượng từ trần sa kiếp này
sang trần sa kiếp khác. Nếu thật sự hiểu được sự lợi - hại này, lại lắng
lòng xem các kinh sách Tịnh Độ, mới biết một pháp Niệm Phật cầu sanh
Tây Phương này không gì lớn lao ra ngoài được, mười phương ba đời
hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh không vị
nào chẳng nhờ vào pháp này để thành tựu lúc khởi đầu, thành tựu khi kết
thúc! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ
Trương Thuần Nhất)
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 188
VIII. Hiển chánh, biện ngộ (Nêu rõ những điều chánh đáng, biện định
những điểm sai lầm)
* Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là
thuyền bè trong biển khổ sanh tử, không riêng gì người có chí mong
đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử phải nên nương tựa, mà ngay
cả những ai chuyên tâm nơi “minh đức, thân dân, trị quốc, an bang”
cũng phải lấy việc “sáng tỏ diệu lý tâm tánh, nêu rõ sự thực nhân quả”
làm một trợ duyên lớn lao cho việc xoay chuyển lòng người, phụ trợ nền
bình trị của nước nhà vậy.
Vì thế, xưa kia, những bậc lập đại công, dựng đại nghiệp, lòng trung
lòa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất, phần nhiều do học Phật đắc lực mà
ra, không ai chẳng dốc sức nơi trang nghiêm tượng Phật, lưu thông kinh
Phật, hộ trì Tăng chúng tu hành, mong cho hết thảy nhân dân đều cùng
do Trụ Trì Tam Bảo118 mà ngộ nhập Nhất Thể Tam Bảo119, đích thân
chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi tâm này. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại
Phật Lăng Vân thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên)
* Đại Tạng Kinh chính là huệ mạng của Như Lai, là mắt cho trời
người, là đuốc trí trong đêm dài vô minh, là thuyền Từ trong biển khổ
sanh tử, là nguồn pháp để bậc tiên giác giác ngộ kẻ hậu giác, là gốc của
 118
Trụ Trì Tam Bảo là một trong ba loại Tam Bảo, hiện diện trong thế gian để duy
trì Phật pháp, gồm tượng Phật, hình Phật là Phật Bảo, kinh sách là Pháp Bảo, Tăng
chúng xuất gia là Tăng Bảo.
119
Nhất Thể Tam Bảo, còn gọi là Đồng Thể Tam Bảo, Đồng Tướng Tam Bảo. Tuy
phân thành ba ngôi, nhưng vốn cùng một thể nên gọi là Nhất Thể. Nếu giải thích chi
tiết hơn thì:
1) Luận trên mặt Sự, Phật thể mang ý nghĩa giác chiếu là Phật Bảo. Phật đức mang
tác dụng làm khuôn mẫu (quỹ pháp) nên là Pháp Bảo, đã dứt hết những sự tranh cãi,
trái nghịch nên là Tăng Bảo. Ba nghĩa này tuy khác, nhưng xét về mặt bản thể của
mỗi đức lại chẳng khác nên gọi là Nhất Thể. Đây là giáo nghĩa được tuyên dương
bởi các bộ luận Thành Thật, A Tỳ Đàm cũng như các kinh luận Đại Thừa.
2) Luận trên phương diện phá tướng và “bản thể vốn là không” thì Sự tuy có sai
khác, nhưng Thể đều không, nên gọi là Nhất Thể. Giáo nghĩa này chỉ hạn cuộc trong
giáo pháp Đại Thừa.
3) Luận trên thực tế, tuy Tam Bảo khác biệt nhưng đều lấy thực tánh làm Thể nên
gọi là Nhất Thể. Đây cũng là một giáo nghĩa chuyên biệt của Đại Thừa. Hoa Nghiêm
Kinh Khổng Mục Chương, quyển hai, giảng: “Đồng Tướng Tam Bảo nghĩa là đồng
một pháp tánh Chân Như, có ba nghĩa khác biệt là giác nghĩa, quỹ pháp nghĩa
(khuôn phép), hòa hợp nghĩa, nên gọi là Tam Bảo”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 189
đạo thế gian lẫn xuất thế gian. Nếu không phải đời trước đã trồng thiện
căn, dù trải cả kiếp còn chưa được nghe tới danh tự, huống là được đích
thân thừa sự, cúng dường, thọ trì, đọc tụng, nương theo đó mà tu tập cho
đến khi được viên chứng ư?
Pháp được nói trong Đại Tạng chính là pháp sẵn có trong cái tâm
của mười pháp giới, chúng sanh, Phật, phàm, thánh, nơi Phật chẳng tăng,
nơi chúng sanh chẳng giảm, Phật do rốt ráo chứng nên thường hưởng
pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Chúng sanh vì chưa ngộ nên ngược
ngạo nương theo sức của diệu tâm này để trái giác hiệp trần, mê chân
đuổi theo vọng, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, vĩnh viễn
ngụp lặn trong tam đồ lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Tam thừa
thánh nhân tuy có ngộ chứng, nhưng chưa đạt đến mức rốt ráo; vì thế,
vẫn chưa thể thụ dụng hoàn toàn!
Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian,
thành Đẳng Chánh Giác, tùy cơ lập giáo, đối bệnh cho thuốc, để họ theo
đường về nhà, trọn chẳng lập ra khuôn khổ nào khác. Với hàng đại căn
(căn cơ Đại Thừa) bèn nói thẳng đại pháp Nhất Thừa, khiến họ nhanh
chóng chứng được Vô Sanh, với tiểu căn (căn cơ Tiểu Thừa) bèn trước
hết dạy nương theo [những pháp môn] Quyền - Tiệm để tu trì hòng vun
bồi nền tảng bước vào Đại Thừa, cuối cùng cho họ được nhận lãnh gia
nghiệp, tiếp nối hưng thịnh dòng giống nhà Phật. Lời Phật dạy trong cả
một đời được chia thành năm thời:
1. Thời Hoa Nghiêm: Chỉ nói đại pháp viên đốn nằm ngoài các
giới120. Trời, người, Nhị Thừa đều chẳng phải là pháp khí của thời này.
2. Thời A Hàm: Nói pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Quyền,
Tiệm, khiến cho họ vào trong hóa thành121.
 120
Giới ở đây là pháp giới. Giáo pháp của kinh Hoa Nghiêm đã vượt ra ngoài mười
pháp giới nên gọi là “nằm ngoài các giới”.
121 Hóa thành: Cái thành được biến hóa ra. Đây là một thí dụ được nói trong phẩm
Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa: Một người dẫn đường (đạo sư) dẫn mọi người
đến chỗ có kho báu (bảo sở), đường xa gian nan, nguy hiểm, mọi người ngã lòng,
muốn quay về, người dẫn đường bèn dùng thần thông hóa ra một cái thành lớn lao,
tốt đẹp để mọi người vào đó, nghỉ ngơi, hồi phục sức khỏe rồi mới bảo cho mọi
người biết đấy chỉ là hóa thành, chỗ có kho báu rất gần, hãy mạnh mẽ lên đường.
Cũng vậy, các quả vị thuộc Tiểu Thừa giống như hóa thành do Phật phương tiện bày
ra để người tu chứng đắc hòng làm cơ sở tấn tu đạo Nhất Thừa.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 190
3. Thời Phương Đẳng: Bàn trọn tứ giáo122 thích hợp khắp ba căn.
4. Thời Bát Nhã: Dùng diệu trí Bát Nhã để trừ sạch tình kiến123 của
phàm lẫn thánh.
5. Thời Pháp Hoa - Niết Bàn: Khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển
Bổn124, thọ ký trọn khắp ba căn để họ cùng được nhận lãnh của báu trong
nhà sẵn có. Niết Bàn “phù luật đàm thường”125, là giáo huấn tối hậu để
ba nghiệp thân - khẩu - ý đều cùng thanh tịnh như Phật, Tam Học Giới -
Định - Huệ cùng được viên mãn như Phật.
Tổng hợp những pháp được nói thì có năm tông, tức là Luật, Giáo,
Thiền, Mật và Tịnh. Năm tông này tuy tên gọi sai khác, nhưng lý thể là
một. Hãy nên chuyên chú vào một môn, nhưng chớ nên sai lệch bỏ phế
các môn khác. Như do bốn cửa vào được một thành, như do bốn mùa
hợp thành một năm, [những tông ấy] mang công năng duy trì lẫn nhau,
phụ trợ lẫn nhau, nếu chẳng phải là kẻ thấu hiểu sâu xa nguồn pháp sẽ
chẳng thể nào biết được!
 122
Tứ Giáo: Bốn loại lớn trong cách phân chia giáo pháp theo tông Thiên Thai, tức
Tạng, Thông, Biệt, Viên.
123 Tình là những cảm xúc, ý niệm chấp trước, phân biệt, yêu - ghét, lợi - hại v.v…
của chúng sanh, đôi khi còn gọi là “tình thức”. Tình kiến là những sự hiểu biết, nhận
định dựa theo những cảm xúc, ý nghĩ, ý niệm phân biệt chấp trước ấy.
124 Khai Quyền hiển Thật: Chỉ ra những pháp đã lập trước kia là quyền biến, chưa
thật sự là Nhất Thừa, dạy rõ pháp Nhất Thừa “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh,
đều có khả năng thành Phật, không có ba thừa, ba thừa chỉ là giả lập tùy theo căn
cơ để cuối cùng dẫn dắt chúng sanh về một Phật thừa”. Khai Tích hiển Bổn: Chỉ rõ
đâu là những sự thị hiện, chỉ rõ sự thật nơi quả địa. Chẳng hạn, Phật Thích Ca thị
hiện thành tám tướng thành đạo trong cõi Sa Bà, thọ mạng tám mươi năm, nhằm
khích lệ chúng sanh căn cơ hạ liệt tấn tu, hướng về Phật quả, đó là Tích. Theo như
phẩm Thọ Lượng đã dạy: Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thành Phật từ rất lâu, thị
hiện thành Phật trong các thế giới khác, trong mỗi cõi thị hiện dưới danh hiệu khác,
thọ mạng khác biệt, dùng những Phật sự khác biệt để thành tựu chúng sanh. Đó là
Bổn.
125 “Phù luật đàm thường”, còn gọi là “phù luật thuyết thường” là một dụng ngữ
của tông Thiên Thai nhằm mô tả giáo thuyết của kinh Niết Bàn. Theo đó, đức Phật
thương xót kẻ độn căn đời Mạt dễ khởi lên tri kiến đoạn diệt, hủy phá giới pháp,
quên mất giáo thừa, cho Như Lai là vô thường, ham thích đọc tụng sách vở, kinh
điển của ngoại đạo, nên đánh mất cả giáo pháp lẫn giới luật. Vì thế, trong kinh Niết
Bàn, đức Phật giảng giải cặn kẽ giới luật để phù trợ giới môn (phù luật), cũng như
nói đến lý Phật tánh thường trụ (đàm thường) nhằm phụ trợ giáo thừa.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 191
Trong ấy, Luật là nền tảng ban đầu để nhập đạo; dù đạt đến viên
mãn Bồ Đề vẫn phải nương tựa vào đó. Tịnh là pháp môn phổ độ, dẫu
cho đã chứng Đẳng Giác vẫn phải nên hướng lòng về. Chúng sanh đời
Mạt nếu không do pháp này sẽ chẳng độ được ! Bậc trí của các tông hãy
gấp nên gìn giữ. Nếu không, tất cả tu trì chỉ trở thành cái nhân lành để
thành quả Phật trong đời vị lai, muốn ngay trong đời này hễ siêu thoát
liền vào thẳng địa vị Như Lai, e rằng chẳng phải dễ dàng đâu! (Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho Đại Tạng Kinh bản Tích Sa126 đời
Tống được in theo lối ảnh ấn127)
* Người đời chưa đọc kinh Phật, chẳng biết Phật suy tính sâu xa để
hóa độ chúng sanh, thấy bọn Hàn - Âu - Trình - Châu báng Phật, liền tự
mình gánh lấy trách nhiệm “đề cao điều chánh, quở trách thói tà”, người
ta nói sao mình cũng bảo vậy, thốt lời khinh miệt, phỉ báng cho sướng
miệng, chẳng biết bọn Hàn - Âu hoàn toàn chưa từng đọc kinh Phật. [Lý
luận về] đạo Phật của họ Hàn vốn chỉ có hai chữ Tịch Diệt là từ ngữ
trong Phật pháp, còn những từ ngữ khác đều là lời lẽ của Lão Tử, Trang
Tử. Về sau, do thiền sư Đại Điên khơi gợi, hướng dẫn, [Hàn Dũ] mới
không báng Phật nữa.
Họ Âu chỉ đề cao họ Hàn, căn cứ để ông ta báng Phật là “do sự cai
trị của nhà vua đã suy vi, đạo nhân nghĩa không ai đề xướng, nên Phật
 126 Tích Sa Bản hay còn gọi là Tích Sa Tạng, gọi đầy đủ là Tích Sa Diên Thánh Viện
Bản, là một trong năm loại bản in Đại Tạng Kinh thuộc đời Tống (Đại Tạng Kinh
được tập thành và tu chỉnh trong nhiều đời. Hiện thời, tuy bản Càn Long Đại Tạng
Kinh được coi là bản hoàn chỉnh nhất của Đại Tạng Kinh Trung Hoa, nhưng đa phần
các bản in Đại Tạng Kinh đều căn cứ vào bản đời Tống. Ngay cả Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh - bản được coi là tiêu chuẩn của Đại Tạng Kinh Hán truyền hiện thời
- cũng chủ yếu dựa vào bản đời Tống). Vào Đoan Bình nguyên niên (1234) đời Tống
Lý Tông nhà Nam Tống, có thuyết nói là vào năm Bảo Khánh thứ nhất (1225), Triệu
An Quốc, Pháp Âm, Hoằng Đạo v.v… đứng ra quyên mộ, khắc in Đại Tạng Kinh tại
chùa Diên Thánh Viện ở phủ Bình Giang (thuộc Ngô huyện, tỉnh Giang Tô). Diên
Thánh Viện về sau đổi tên thành Tích Sa Thiền Viện, nên bản in này được gọi là
Tích Sa Tạng hay Tích Sa Bản. Cho mãi đến năm Chí Trị thứ hai (1322) đời Nguyên
Anh Tông mới in xong, gồm 1.532 bản kinh, được chia thành 6.362 quyển.
127 Ảnh Ấn: Không rõ đây là kỹ thuật in như thế nào. Thông thường, chữ Ảnh Ấn
dùng để dịch nghĩa chữ photocopy, nhưng mãi đến năm 1948, máy photocopy mới
được sáng chế bởi Haloid Corporation dựa trên phát minh của Chester Carlson. Do
vậy, Ảnh Ấn không thể là kỹ thuật photocopy như hiện thời. Từ điển Từ Hải chỉ giải
thích sơ lược: “Ảnh ấn: Phương pháp in bằng cách chụp hình nguyên bản để chế
bản in”.
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Trang 192
thừa cơ xâm nhập”. Nếu như ông ta hiểu biết đạo giúp đời độ sanh do
đức Phật tùy thuận cơ nghi [mà lập] như đã nói trong phần trước, ắt
chẳng đến nỗi coi Phật là họa hoạn của Trung Quốc để rồi muốn xua
quét đi. Họ Âu đề xướng như thế, kẻ học [đạo Nho] coi họ Âu như tông
sư, đều bắt chước bài bác Phật giống như vậy.
Đại sư Minh Giáo muốn cứu vãn thói tệ ấy, soạn Phụ Giáo Biên
dâng lên hoàng đế [Tống] Nhân Tông. Nhân Tông đưa cho Hàn Ngụy
Công128 xem, ông Hàn đưa cho họ Âu xem, họ Âu kinh ngạc nói:
“Chẳng ngờ trong Tăng chúng lại có người như vậy? Sáng mai sẽ gặp
mặt một phen!” Ngày hôm sau, ông Hàn đưa Minh Giáo đến gặp, bàn
luận thông suốt trọn một ngày, từ đấy [họ Âu] chẳng còn báng Phật nữa.
Hàng môn hạ [của Âu Dương Tu] tiếp nhận giáo huấn của ngài Minh
Giáo, đa số đều cực lực học Phật.
Họ Trình, họ Châu đọc kinh Đại Thừa nhà Phật, thân cận thiện tri
thức Thiền Tông, biết được những nghĩa “toàn Sự chính là Lý” trong
kinh và “pháp gì, chuyện gì cũng quy về tự tâm” của Tông môn, liền
tưởng mình đã lãnh hội lớn lao, chứ thật ra chưa hề đọc trọn các kinh
Đại Thừa, Tiểu Thừa và thân cận tri thức các tông, bèn chấp Lý phế Sự,
bác không nhân quả, bảo đức Phật nói ra nhân quả ba đời, luân hồi sáu
đường để làm căn cứ gạt gẫm ngu phu ngu phụ sùng phụng giáo pháp
của Ngài, chứ thật ra chẳng có chuyện ấy. Lại còn nói: “Con người chết
đi, hình hài đã mục nát thì thần hồn cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt xay - giã sẽ thi thố vào đâu? Thần hồn đã phiêu tán, lấy ai để thác sanh?”
Do vậy, kẻ ác mặc lòng tạo nghiệp, người lành cũng khó gắng sức [làm
lành]. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi của Phước
Châu Phật Học Đồ Thư Quán)
Đón xem tiếp phần 4


Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét