Có rất nhiều vị tổ lỗi lạc và tinh tấn trong Phật giáo mà chúng ta không thể kể hết được và trong số đó có 33 vị nổi tiếng được ghi chép đầy đủ về đạo đức cũng như cách tu hành đắc đạo...xin được đưa đến bạn đọc để học hỏi, nâng cao hiểu biết về các vị sư trong môn giáo của mình.
1- Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp. (Mahakasyapa) To-01
2-Tổ A-Nan. (Ananda) To-02
3-Tổ Thương-Na-Hòa-Tu. (Sanakavasa) To-03
4-Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa. (Upagupta) To-04
5-Tổ Đề-Đa-Ca. (Dhrtaka) To-05
6-Tổ Di-Dá-Ca. (Miccaka) To-06
7-Tổ Bà-Tu-Mật. (Vasumitra) To-07
8-Tổ Phật-Đà-Nan-Đề. (Buddhanandi) To-08
9-Tổ Phục-Đà-Mật-Đa. (Buddhamitra) To-09
10-Tổ Hiếp-Tôn-Giả. (Parsvika) To-10
11-Tổ Phú-Na-Dạ-Xa. (Punyayasas) To-11
12-Tổ Mã-Minh. (Asvaghosha) To-12
13-Tổ Ca-Tỳ-Ma-La. (Kapimala) To-13
14-Tổ Long-Thọ. (Nagarjuna) To-14
15-Tổ Ca-Na-Đề-Bà. (Kanadeve) To-15
16-Tổ La-Hầu-La-Đa. (Rahulata) To-16
17-Tổ Tăng-Già-Nan-Đề. (Sanghanandi) To-17
18-Tổ Già-Da-Xá-Đa. (Gayasata) To-18
19-Tổ Cưu-Ma-La-Đa. (Kumarata) To-19
20-Tổ Xà-Dạ-Đa. (Jayata) To-20
21-Tổ Bà-Tu-Bàn-Đầu. (Vasubandhu) To-21
22-Tổ Ma-Noa-La. (Manorhita) To-22
23-Tổ Hạc-Lặc-Na. (Haklena) To-23
24-Tổ Sư-Tử. (Aryasimha) To-24
25-Tổ Bà-Xá-Tư-Đa..(Basiasita) To-25
26-Tổ Bất-Như-Mật-Đa. (Punyamitra) To-26
27-Tổ Bát-Nhã-Đa-La. (Prajnatara) To-27
28-Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. (Bodhidharma) To-28
Trung Hoa:
29-Tổ Huệ-Khả. To-29
30-Tổ Tăng-Xán. To-30
31-Tổ Đạo-Tín. To-31
32-Tổ Hoằng-Nhẫn. To-32
33-Tổ Huệ-Năng. To-33
1.- Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)
Đồng thời đức Phật
Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên
Hương-Chí. Thưở bé, Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất
xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói:
─ Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia
Cha mẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng nhau thầm bàn (sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí
của nó). Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bề
từ chối, sau cùng bất đắc dĩ ngài phải nói:
─ Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mới ưng cưới.
Cha mẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước, tìm người nữ nào
giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài,
thế là ngài phải lập gia đình.
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ
Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt
bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật
hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng
Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy,
nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ
không vì tình dục.
Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn một màu vàng. Sau sanh cõi
Phạm-thiên, hết phước cõi Phạm-thiên chết, sanh về cõi nầy trong nhà Bà-là-môn giàu có
hiện tại. Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri-kỷ, không có ý dâm dục.
Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng,ngài liền xuất gia làm
Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà (Dhuta). Một hôm, nhơn nghe trong hư không có tiếng
bảo:
─ Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo.
Ngài liền tìm đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ Phật.
Phật bảo:
─ Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi.
Ngài liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y cà-sa. Từ đây, ngài theo Phật
hiểu sâu giáo Pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-LaHán. Có lần ngài từ xa đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây quanh Phật, trông
thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn bảo:
─ Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ngồi.
Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Ta có đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội và vô lượng công đức để tự trang
nghiêm. Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế. Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp ngồi.
Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, lại thầm cung kính ngài.
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều
ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu ). Phật bảo :
─ Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng
lập văn-tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh
pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan. Thế-Tôn đến trước
tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào
mình Ca-Diếp, rồi nói kệ phó pháp :
Pháp bổn pháp vô pháp
vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay khi trao không pháp
Mỗi pháp đâu từng pháp.
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên:
─ Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở một chổ nhận những thức cúng dường của thí chủ,
chớ đi khất thực nhọc nhằn.
Ngài bạch Phật :
─ Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì
sợ e sau này, các Tỳ kheo đời sau sẽ nói :
─ Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường, rồi họ sanh
phóng túng.
Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, thì ngài đang ở trong
động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ
tử vội vã hướng về thành Câu-Thi-Na. Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã.
Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra
ngoài kim-quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.
Sau khi thiêu thân Phật xong,ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo:
─ Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách
nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau.
Ngài bèn nói kệ :
Như-Lai đệ tử
Thả mạc Niết-bàn
Đắc thần thông giả
Đương phó kiết tập
Dịch:
Đệ tử Như-Lai
Chớ vội Niết-bàn
Người được thần thông
Nên đến kiết tập .
Thế là, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại
núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La kiết tập. Chỉ có tôn giả A-Nan không được dự
hội, vì chưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến
gần sáng liền chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-La-Hán .
Sau đó,tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa toàn chúng:
─ Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như-Lai, nghe pháp
Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời
kiết-tập tạng Kinh và tạng Luận . Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toàn chúng
đều hoan-hỷ chấp thuận.
Hội kiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc kiết tập đã viên mãn, nhơn duyên độ
sanh đã xong xuôi, Ngài thấy tuổi đã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo:
─ Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó
cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn
dứt.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao
lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và những
người thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định
2.- Tổ A-Nan (Ananda)
Sanh sau Phật 30 năm
Ngài con vua Hộc-Phạn, dòng Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-
đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông
minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia.
Một hôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất cả hội chúng lần lượt đứng ra xin
làm thị giả, mà Phật không bằng lòng. Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định
biết tôn ý Phật muốn A-Nan làm thị giả.
Đại chúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, v, v…. đến yêu cầu Ngài
làm thị giả. Ngài nhiều lần từ chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc lòng Ngài phải
xin Phật ba điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm thị giả.
1/ Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí chủ không mời ngài.
2/ Không mặc y thừa của Phật.
3/ Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng những chấp thuận lời xin của Ngài,
mà còn khen ngợi Ngài thông minh biết dự đoán trước những điều sẽ xẩy ra. Thế là, Ngài
theo làm thị giả Phật ngót 25 năm.
Hôm nọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá Phật, thấy Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề
đang đứng tựa cửa khóc. Di mẫu quần áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi thảm.
Ngài đến gần hỏi duyên cớ. Biết Bà từ xa tìm đến xin Phật xuất gia, đôi ba phen năn nỉ
mà Phật quyết định không cho. Ngài cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuất
gia. Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xin kỳ được mới thôi. Thế là mở đầu
cho phái nữ xuất gia, chính Ngài là người tích cực khai đường vậy.
Chính đức Phật đã từng khen Ngài:
─ Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không ai hơn A-Nan, thị giả các đức
Phật đời vị lai cũng không ai hơn A-Nan.
Và Phật khen A-Nan được tám điều chưa từng có v.v…
Sau khi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập các đại Tỳ-kheo kiết tập kinh điển,
Ngài là người được toàn hội đề cử kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại lời Phật, Ngài
nhìn qua đại chúng nói kệ:
Tỳ-kheo chư quyến thuộc
Ly Phật bất trang nghiêm !
Du như hư không trung
Chúng tinh chi vô nguyệt.
Dịch:
Tỳ-kheo các quyến thuộc
Vắng Phật chẳng trang nghiêm !
Ví như trong hư-không ,
Nhiều sao mà không trăng.
Nói kệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp tòa mở đầu:
─ Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại xứ….nói kinh…. cho đến trời người
v.v…đều kính lễ vâng làm .
Ngài kiết tập kinh xong Tổ Ca Diếp hỏi đại chúng:
─ Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai lầm chăng ?
Đại chúng đồng thinh đáp:
Chẳng khác những lời đức Thế-Tôn đã nói.
Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:
─ Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến cho sư-huynh, còn có truyền
pháp gì riêng nữa chăng ?
Tổ Ca-Diếp liền gọi:
─ A-Nan !
Ngài ứng thinh:
─ Dạ.!
Tổ Ca-Diếp bảo:
─ Cây cột phướng trước chùa ngã. Ngài nhơn đây tỏ ngộ.
Tổ Ca-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp nhãn-tạng truyền lại cho Ngài. Tổ
nói kệ:
Pháp pháp bổn lai pháp,
Vô pháp vô phi pháp.
Hà ư nhất pháp trung,
Hữu pháp hữu phi pháp
Dịch:
Các pháp, pháp xưa nay,
Không pháp, không phi pháp .
Tại sao trong một pháp,
Có pháp, có phi pháp ?
Ngài đảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai vị xuất sắc, Thương-Na-Hòa-Tu
và Mạc-Điền-Để Ca (Mạc-Điền-Địa). Ngài chọn Thương Na Hòa Tu làm người kế thừa
tổ vị và truyền trao y bát lại.
Cảm thấy thân bèo bọt đã đến thời kỳ hoại diệt, đã tìm được người kế.thừa, Ngài
dự định vào Niết-bàn, Ngài đến từ giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài liền đi
thẳng đến bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi kiết-già thả trôi lơ lửng giữa dòng
sông. Vua A-Xà-Thế hay tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng quan quân
tùy tùng tìm đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trên thuyền ở giữa dòng sông bèn đảnh lễ
nói kệ:
Khể thủ tam giới tôn,
Khí ngã như chí thử.
Tạm bằng bi nguyện lực,
Thả mạc Bát-niết-bàn.
Dịch:
Lạy đấng tôn tam giới,
Bỏ con đến nơi nầy.
Tạm nương sức bi nguyện,
Xin chớ vội Niết-bàn.
Vua nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ kia sông Hằng, đảnh lễ và nói kệ:
Tôn giả nhất hà tốc,
Nhi qui tịch diệt trường !
Nguyện trụ tu du gian,
Nhi thọ ư cúng dường.
Dịch:
Tôn giả sao quá nhanh,
Sớm vào nơi tịch diệt !
Xin tạm dừng chốc lát,
Để nhận con cúng dường.
Ngài thấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn nói kệ:
Nhị vương thiện nghiêm trụ,
Vật vi khổ bi luyến.
Niết-bàn đương ngã tịnh,
Nhi vô chư hửu cố.
Dịch:
Hai vua ở an vui,
Chớ vì thương buồn khổ.
Niết-bàn, tôi an tịnh,
Vì không còn các nghiệp.
Ngài giữ tâm bình đẳng ở giữa dòng sông vào Niết-bàn. Hai vua họp nhau làm lễ
thiêu thân Ngài và phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.
33 VỊ TỔ ẤN HOA
Mục lục
Án Độ:1- Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp. (Mahakasyapa) To-01
2-Tổ A-Nan. (Ananda) To-02
3-Tổ Thương-Na-Hòa-Tu. (Sanakavasa) To-03
4-Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa. (Upagupta) To-04
5-Tổ Đề-Đa-Ca. (Dhrtaka) To-05
6-Tổ Di-Dá-Ca. (Miccaka) To-06
7-Tổ Bà-Tu-Mật. (Vasumitra) To-07
8-Tổ Phật-Đà-Nan-Đề. (Buddhanandi) To-08
9-Tổ Phục-Đà-Mật-Đa. (Buddhamitra) To-09
10-Tổ Hiếp-Tôn-Giả. (Parsvika) To-10
11-Tổ Phú-Na-Dạ-Xa. (Punyayasas) To-11
12-Tổ Mã-Minh. (Asvaghosha) To-12
13-Tổ Ca-Tỳ-Ma-La. (Kapimala) To-13
14-Tổ Long-Thọ. (Nagarjuna) To-14
15-Tổ Ca-Na-Đề-Bà. (Kanadeve) To-15
16-Tổ La-Hầu-La-Đa. (Rahulata) To-16
17-Tổ Tăng-Già-Nan-Đề. (Sanghanandi) To-17
18-Tổ Già-Da-Xá-Đa. (Gayasata) To-18
19-Tổ Cưu-Ma-La-Đa. (Kumarata) To-19
20-Tổ Xà-Dạ-Đa. (Jayata) To-20
21-Tổ Bà-Tu-Bàn-Đầu. (Vasubandhu) To-21
22-Tổ Ma-Noa-La. (Manorhita) To-22
23-Tổ Hạc-Lặc-Na. (Haklena) To-23
24-Tổ Sư-Tử. (Aryasimha) To-24
25-Tổ Bà-Xá-Tư-Đa..(Basiasita) To-25
26-Tổ Bất-Như-Mật-Đa. (Punyamitra) To-26
27-Tổ Bát-Nhã-Đa-La. (Prajnatara) To-27
28-Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. (Bodhidharma) To-28
Trung Hoa:
29-Tổ Huệ-Khả. To-29
30-Tổ Tăng-Xán. To-30
31-Tổ Đạo-Tín. To-31
32-Tổ Hoằng-Nhẫn. To-32
33-Tổ Huệ-Năng. To-33
1.- Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)
Đồng thời đức Phật
Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên
Hương-Chí. Thưở bé, Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất
xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói:
─ Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia
Cha mẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng nhau thầm bàn (sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí
của nó). Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bề
từ chối, sau cùng bất đắc dĩ ngài phải nói:
─ Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mới ưng cưới.
Cha mẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước, tìm người nữ nào
giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài,
thế là ngài phải lập gia đình.
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ
Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt
bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật
hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng
Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy,
nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ
không vì tình dục.
Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn một màu vàng. Sau sanh cõi
Phạm-thiên, hết phước cõi Phạm-thiên chết, sanh về cõi nầy trong nhà Bà-là-môn giàu có
hiện tại. Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri-kỷ, không có ý dâm dục.
Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng,ngài liền xuất gia làm
Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà (Dhuta). Một hôm, nhơn nghe trong hư không có tiếng
bảo:
─ Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo.
Ngài liền tìm đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ Phật.
Phật bảo:
─ Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi.
Ngài liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y cà-sa. Từ đây, ngài theo Phật
hiểu sâu giáo Pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-LaHán. Có lần ngài từ xa đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây quanh Phật, trông
thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn bảo:
─ Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ngồi.
Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Ta có đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội và vô lượng công đức để tự trang
nghiêm. Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế. Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp ngồi.
Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, lại thầm cung kính ngài.
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều
ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu ). Phật bảo :
─ Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng
lập văn-tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh
pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan. Thế-Tôn đến trước
tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào
mình Ca-Diếp, rồi nói kệ phó pháp :
Pháp bổn pháp vô pháp
vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay khi trao không pháp
Mỗi pháp đâu từng pháp.
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên:
─ Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở một chổ nhận những thức cúng dường của thí chủ,
chớ đi khất thực nhọc nhằn.
Ngài bạch Phật :
─ Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì
sợ e sau này, các Tỳ kheo đời sau sẽ nói :
─ Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường, rồi họ sanh
phóng túng.
Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, thì ngài đang ở trong
động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ
tử vội vã hướng về thành Câu-Thi-Na. Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã.
Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra
ngoài kim-quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.
Sau khi thiêu thân Phật xong,ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo:
─ Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách
nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau.
Ngài bèn nói kệ :
Như-Lai đệ tử
Thả mạc Niết-bàn
Đắc thần thông giả
Đương phó kiết tập
Dịch:
Đệ tử Như-Lai
Chớ vội Niết-bàn
Người được thần thông
Nên đến kiết tập .
Thế là, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại
núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La kiết tập. Chỉ có tôn giả A-Nan không được dự
hội, vì chưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến
gần sáng liền chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-La-Hán .
Sau đó,tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa toàn chúng:
─ Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như-Lai, nghe pháp
Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời
kiết-tập tạng Kinh và tạng Luận . Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toàn chúng
đều hoan-hỷ chấp thuận.
Hội kiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc kiết tập đã viên mãn, nhơn duyên độ
sanh đã xong xuôi, Ngài thấy tuổi đã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo:
─ Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó
cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn
dứt.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao
lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và những
người thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định
2.- Tổ A-Nan (Ananda)
Sanh sau Phật 30 năm
Ngài con vua Hộc-Phạn, dòng Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-
đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông
minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia.
Một hôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất cả hội chúng lần lượt đứng ra xin
làm thị giả, mà Phật không bằng lòng. Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định
biết tôn ý Phật muốn A-Nan làm thị giả.
Đại chúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, v, v…. đến yêu cầu Ngài
làm thị giả. Ngài nhiều lần từ chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc lòng Ngài phải
xin Phật ba điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm thị giả.
1/ Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí chủ không mời ngài.
2/ Không mặc y thừa của Phật.
3/ Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng những chấp thuận lời xin của Ngài,
mà còn khen ngợi Ngài thông minh biết dự đoán trước những điều sẽ xẩy ra. Thế là, Ngài
theo làm thị giả Phật ngót 25 năm.
Hôm nọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá Phật, thấy Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề
đang đứng tựa cửa khóc. Di mẫu quần áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi thảm.
Ngài đến gần hỏi duyên cớ. Biết Bà từ xa tìm đến xin Phật xuất gia, đôi ba phen năn nỉ
mà Phật quyết định không cho. Ngài cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuất
gia. Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xin kỳ được mới thôi. Thế là mở đầu
cho phái nữ xuất gia, chính Ngài là người tích cực khai đường vậy.
Chính đức Phật đã từng khen Ngài:
─ Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không ai hơn A-Nan, thị giả các đức
Phật đời vị lai cũng không ai hơn A-Nan.
Và Phật khen A-Nan được tám điều chưa từng có v.v…
Sau khi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập các đại Tỳ-kheo kiết tập kinh điển,
Ngài là người được toàn hội đề cử kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại lời Phật, Ngài
nhìn qua đại chúng nói kệ:
Tỳ-kheo chư quyến thuộc
Ly Phật bất trang nghiêm !
Du như hư không trung
Chúng tinh chi vô nguyệt.
Dịch:
Tỳ-kheo các quyến thuộc
Vắng Phật chẳng trang nghiêm !
Ví như trong hư-không ,
Nhiều sao mà không trăng.
Nói kệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp tòa mở đầu:
─ Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại xứ….nói kinh…. cho đến trời người
v.v…đều kính lễ vâng làm .
Ngài kiết tập kinh xong Tổ Ca Diếp hỏi đại chúng:
─ Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai lầm chăng ?
Đại chúng đồng thinh đáp:
Chẳng khác những lời đức Thế-Tôn đã nói.
Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:
─ Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến cho sư-huynh, còn có truyền
pháp gì riêng nữa chăng ?
Tổ Ca-Diếp liền gọi:
─ A-Nan !
Ngài ứng thinh:
─ Dạ.!
Tổ Ca-Diếp bảo:
─ Cây cột phướng trước chùa ngã. Ngài nhơn đây tỏ ngộ.
Tổ Ca-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp nhãn-tạng truyền lại cho Ngài. Tổ
nói kệ:
Pháp pháp bổn lai pháp,
Vô pháp vô phi pháp.
Hà ư nhất pháp trung,
Hữu pháp hữu phi pháp
Dịch:
Các pháp, pháp xưa nay,
Không pháp, không phi pháp .
Tại sao trong một pháp,
Có pháp, có phi pháp ?
Ngài đảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai vị xuất sắc, Thương-Na-Hòa-Tu
và Mạc-Điền-Để Ca (Mạc-Điền-Địa). Ngài chọn Thương Na Hòa Tu làm người kế thừa
tổ vị và truyền trao y bát lại.
Cảm thấy thân bèo bọt đã đến thời kỳ hoại diệt, đã tìm được người kế.thừa, Ngài
dự định vào Niết-bàn, Ngài đến từ giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài liền đi
thẳng đến bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi kiết-già thả trôi lơ lửng giữa dòng
sông. Vua A-Xà-Thế hay tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng quan quân
tùy tùng tìm đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trên thuyền ở giữa dòng sông bèn đảnh lễ
nói kệ:
Khể thủ tam giới tôn,
Khí ngã như chí thử.
Tạm bằng bi nguyện lực,
Thả mạc Bát-niết-bàn.
Dịch:
Lạy đấng tôn tam giới,
Bỏ con đến nơi nầy.
Tạm nương sức bi nguyện,
Xin chớ vội Niết-bàn.
Vua nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ kia sông Hằng, đảnh lễ và nói kệ:
Tôn giả nhất hà tốc,
Nhi qui tịch diệt trường !
Nguyện trụ tu du gian,
Nhi thọ ư cúng dường.
Dịch:
Tôn giả sao quá nhanh,
Sớm vào nơi tịch diệt !
Xin tạm dừng chốc lát,
Để nhận con cúng dường.
Ngài thấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn nói kệ:
Nhị vương thiện nghiêm trụ,
Vật vi khổ bi luyến.
Niết-bàn đương ngã tịnh,
Nhi vô chư hửu cố.
Dịch:
Hai vua ở an vui,
Chớ vì thương buồn khổ.
Niết-bàn, tôi an tịnh,
Vì không còn các nghiệp.
Ngài giữ tâm bình đẳng ở giữa dòng sông vào Niết-bàn. Hai vua họp nhau làm lễ
thiêu thân Ngài và phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.
